Sunday, February 27, 2011

Di Tích Lịch Sử

Di Tích Lịch Sử
Những di tích lịch sử của Trung Hoa thì nhiều và nổi danh không chỉ riêng đối với Việt Nam hay Á châu, mà còn đối với cả thế giới nữa. Cho nên phần quan trọng trong chuyến Hoa du, theo tôi, là viếng những công trình lịch sử tồn tại từ bao nhiêu nghìn năm của nước này. Trong mười bốn ngày chúng tôi đã viếng bảy điểm du lịch: Bắc Kinh, Tây An, Quế Lâm, Nam Kinh, Tô Châu, Thượng Hải, và Hàng Châu. Nhưng di tích lịch sử tập trung nhiều nhất ở hai nơi: Bắc Kinh và Tây An.
Ở Bắc Kinh tôi đã đứng trên quảng trường Thiên An Môn, nơi năm 1989 đã xảy ra cuộc đàn áp những người Trung Hoa đòi dân chủ. Sau quảng trường Thiên An Môn, đoàn du lịch vào xem Tử Cấm Thành (Forbidden City), nơi ở chính thức của vua và hoàng tộc từ các triều đại Liêu, Kim, Nguyên, Minh và Thanh. Khu vực Cấm Thành rộng lớn như một thành phố nhỏ, với nhiều cung điện, nhiều dinh thự xưa. Nhìn những căn phòng với lối kiến trúc xưa, tối tăm, ẩm thấp, tôi bỗng nghĩ đến những lãnh cung trong Cung Oán Ngâm Khúc; những người con gái bạc mệnh ngày xưa và nhưng quân vương hờ hững bỏ quên họ suốt một đời dài, giờ ở đâu, tan theo cát bụi, hay có gặp nhau ở một thế giới nào? Rồi đi thăm những hoa viên xưa, rồi nơi nghỉ mát của Từ Hy Thái Hậu. Trong số những di tích ở Bắc Kinh tôi thích khu Hutong, một khu dân cư xưa cả nghìn năm, với nhà cửa, đường phố rất giống Hội An, và tôi thấy rõ phố cổ Hội An là cái mẫu mà người Tàu mang sang. Tôi cũng tìm thấy lại Hội An hôm viếng Tô Châu mười ngày sau đó.
Trong bốn ngày ở Bắc Kinh tôi cũng được viếng hai nơi đáng xem: khu lăng tẩm nhà Minh ở ngoại thành Bắc Kinh – những di tích lịch sử xưa cả bảy, tám trăm năm – và Vạn Lý Trường Thành.
Nhìn những đồ đá chạm trổ khéo léo tôi nhớ lại có đọc ở đâu rằng nhà Minh là triều đại đã để lại nhiều công trình nghệ thuật giá trị nhất, so với các triều đại khác trong lịch sử Trung Hoa. Tôi tin điều đó khi thấy tận mắt những công trình điêu khắc bằng đá đồ sộ và tinh vi, chẳng hạn như những tượng thú vật và người đặt hai bên lối đi dài cả cây số dẫn vào khu mười ba ngôi mộ của các vua Minh, hay cách kiến trúc các hầm mộ ở sâu dưới đất, hoặc xem các sản phẩm đồ gốm làm theo phương pháp thời nhà Minh. Rồi những ngày kế tiếp viếng thăm các nơi khác, chúng tôi lại cũng được nhân viên du lịch giới thiệu vài di tích khác của nhà Minh, thêm một điều chứng tỏ nhà Minh là triều đại đã để lại một di sản văn hóa không nhỏ trong lịch sử Trung Hoa.
Vạn Lý Trường Thành có từ thời lục địa Trung Hoa còn bị chia năm xẻ bảy dưới thời Chiến Quốc, khoảng hai nghìn năm trăm năm nay; mỗi đoạn thành rời rạc chỉ để bảo vệ một nước. Khi Tần Thủy Hoàng diệt hết sáu nước, thống nhất Trung Hoa, ông đã cho nối các thành lại thành một dãy thành dài, và ngày nay tên tuổi vị vua nổi tiếng tàn bạo nhất Trung Hoa kia đã gắn liền với Vạn Lý Trường Thành. Thành dài trên sáu nghìn cây số, cao mười thước, rộng tám thước. Tôi nghĩ với mấy nghìn năm sương tuyết gió mưa, nhiều đoạn thành chắc đã sụp lở, và đoạn thành gần Bắc Kinh đã được trùng tu cho mục đích du lịch, vì tôi thấy thành ở đây còn trong tình trạng tốt. Dù sao, điều mãn nguyệt nhất đối với tôi trong chuyến Hoa du này là được leo những bực cấp bằng đá của Vạn Lý Trường Thành, công trình duy nhất của con người dưới trái đất mà người bay ngoài không gian có thể nhìn thấy! Thành chạy xuyên qua núi đồi trùng điệp. Nó rào kín biên giới phía bắc của Trung Hoa thời xưa; bên kia Trường Thành là Mông Cổ mà ngày nay một phần thuộc Trung Hoa (Nội Mông). Mỗi đỉnh núi có một tháp canh. Tôi đã leo ba trăm năm mươi sáu bực cấp để lên xem một tháp canh. Một dịp tập thể dục, và một dịp nhớ lại những lần leo núi gian nan một thời chinh chiến của mình. Đứng trên tháp canh cao nhìn đường thành uốn khúc qua núi đồi chập chùng, nhìn những tháp canh khác xa tít tắp rồi mất hút trong sương khói, mình, một người của mấy nghìn năm sau, thấy dâng lên trong lòng một tình cảm lẫn lộn: thán phục và cảm thương. Thán phục cái việc “đội đá vá trời” của người xưa, nhưng lại nghĩ mình đang đứng “thưởng thức” cái tường thành mà trung bình một thước tốn một mạng người; bức thành như nỗi thống khổ hóa thạch của bao triệu sinh linh!
Thời xưa các tháp canh trên Vạn Lý Trường Thành đều có trống, và tồn trữ phân chó sói làm nhiên liệu đốt để gây khói. Khi phát giác địch tiến đến, người ta đánh trống và đốt lửa gây khói để các trạm kế tiếp nghe thấy và tiếp tục truyền đi tín hiệu báo động về tới kinh đô. Lối báo động chiến tranh kia – vừa dùng vận tốc ánh sáng, vừa dùng tốc độ âm thanh – đã trở thành một điển tích tượng trưng cho một thảm họa lớn của nhân loại, nạn binh đao:
Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây
(Đoàn Thị Đểm, Chinh Phụ Ngâm)
Tây An, thủ phủ tỉnh Thiểm Tây, chín trăm cây số tây nam của Bắc Kinh, là nơi có nhiều di tích lịch sử xưa hơn Bắc Kinh. Đây là cố đô Tràng An. Người hướng dẫn du lịch, một giáo sư sử học tại đại học Tây An, nói rằng trong số hơn một trăm vị vua của Trung Hoa thì sáu mươi sáu vị đã đóng đô tại đây. Ngoài cổ thành Tràng An ra, hai nơi đáng nói nhất là khu mộ Tần Thủy Hoàng và nơi Đường Minh Hoàng vui chơi với Dương Quí Phi. Tất cả tọa lạc gần chân Ly Sơn, cách Tràng An khoảng ba mươi cây số về phía đông.

Nhìn cổ thành Tràng An, người đời sau mới thấy cái bề thế, vững vàng của một nước Trung Hoa cách nay mấy nghìn năm. Mặt thành Tràng An dày khoảng hai mươi thước. Thành cao mười hai thước, vây bọc một chu vi mười bốn cây số. Đứng trên mặt thành tưởng như đứng trên một xa lộ! Nhìn xuống có thể thấy thành phố Tây An đang nhộn nhịp dưới kia.


Một chiếc cầu qua sông Dương Tử, khúc gần Nam Kinh

Năm 1974 người ta mới khám phá và khai quật tại vùng mộ Tần Thủy Hoàng những hầm chứa trên sáu nghìn người ngựa bằng đất nung được chôn theo nhà vua. Đó là những binh mã đi theo để bảo vệ vị bạo chúa trong cõi chết! Một điều khác thường là diện mạo những quân tướng bằng đất nung đó không giống nhau như những pho tượng đúc hàng loạt. Người ta nói đến giả thuyết là mỗi tượng được nặn theo đúng kích thước, diện mạo của binh tướng thật sự của Tần Thủy Hoàng. Công cuộc tìm kiếm, khai quật vẫn tiếp tục vì người ta vừa khám phá nhiều người ngựa nữa. Tôi đã trông thấy mông một con ngựa – đầu và bụng vẫn còn nằm trong lòng đất – và chợt hiểu cái khó khăn, cái kiên nhẫn của công việc đào bới những di tích lịch sử kia; không khéo léo, cẩn thận thì hư sự hết!
Nơi nghỉ mát của Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi gồm những nhà xưa bên bờ một hồ lớn, nằm dưới chân một quả núi. Toàn cảnh rất nên thơ. Những cây liễu rũ quanh hồ càng tăng thêm vẻ thần tiên của cảnh trí. Một bức tượng trắng gần khỏa thân bên bờ hồ mà hướng dẫn viên du lịch bảo là tượng Dương Quí Phi làm mọi người chú ý. Tượng phô bày hình ảnh một người đàn bà đẹp từ thân hình đến khuôn mặt. Mái tóc dài vấn cao để lộ chiếc cổ dài trắng ngần. Có người bảo pho tượng làm hư cảnh xưa, vì hình ảnh đi ngược với luân lý, phong tục của người xưa; lại nữa, làm gì còn hình ảnh người đẹp Dương Quí Phi sống cách nay cả nghìn năm để đời sau biết mà tạc tượng. Tôi thì vẫn thích có một hình tượng để hình dung con người đẹp đến mức làm lung lay cơ nghiệp nhà Đường cách nay hằng mươi thế kỷ, dù giống người thực hay không. Và với tôi bức hình chẳng làm hư khung cảnh xưa, hay ngược luân lý một thời nào, vì trong thâm tâm người xưa cũng thấy rằng luân lý nào cũng chỉ là những lớp xiêm y, không hơn, không kém.

Phong Cảnh
Di tích lịch sử còn nhiều, nhưng tôi chỉ lược thuật vài nơi chính, kẻo chị lại than mệt phải đọc một sớ táo quân dài ba thước về những điều lỉnh kỉnh tận bên Tàu. Tôi muốn phần còn lại của bức thư này đem đến chị vài phong cảnh của thực tại để thay đổi cái không khí nhàm chán của “chuyện xưa tích cũ” chị đọc từ đầu tới giờ. Tôi sẽ kể cho chị về các nơi đã để lại những ấn tượng khó quên trong tôi. Đó là Nam Kinh, Tô Châu, Hàng Châu, và Quế Lâm.
Nam Kinh
Tuy Nam Kinh có những công viên đẹp, đường phố lớn nhộn nhịp và con sông đào nên thơ trong thành phố, nhưng ấn tượng rõ nét nhất của tôi nơi đây là dòng sông Dương Tử chảy gần đó. Bờ bên kia xa tít tắp, chìm trong sương khói, mặt sông mênh mông với màu nước đục ngầu. Đây quả đúng là con sông lớn nhất Á châu, và lớn thứ tư trên thế giới. Nó phát nguyên từ cao nguyên Tây Tạng, dài năm nghìn rưỡi cây số, chảy về hướng đông-đông-bắc ra biển Trung Hoa. Bờ bắc của con sông được gọi Giang Bắc, và bờ nam là Giang Nam. Vùng Giang Nam gồm các thành phố Nam Kinh, Thượng Hải, Hàng Châu, Tô Châu. Một điều đáng nói nữa là chiếc cầu dài bắt qua sông Dương Tử mà theo bà hướng dẫn du lịch là một tự hào của ngành cầu cống Trung Hoa. Cầu có hai tầng; xe lửa chạy bên dưới, xe các loại khác chạy ở trên. Bà ta cho biết mỗi ngày có năm trăm chuyến xe lửa chạy qua cầu. Nhìn lưu lượng xe hơi qua cầu, tôi có thể thấy cây cầu này là một trục giao thông huyết mạch, nhưng tôi không nghĩ có đến năm trăm chuyến xe lửa mỗi ngày. Chúng tôi dừng bên đầu cầu để ngoạn cảnh, chụp ảnh, quay phim ít nhất khoảng bốn mươi lăm phút mà chỉ thấy có hai chuyến xe lửa qua cầu từ bên bờ bắc, tức trung bình cứ hai mươi phút có một chuyến. Nếu cho rằng một ngày là hai mươi bốn giờ, ít nhất trung bình bốn phút phải có một chiếc xe lửa chạy qua, mới có đủ số năm trăm chiếc. Còn tính mười hai giờ là đơn vị ngày thì con số năm trăm chiếc càng không thể có.
Tô Châu của Tây Thi Gái Nước Việt
Đến Tô Châu tôi thất vọng, vì thành Cô Tô và chùa Hàn San không có trong chương trình thăm viếng. Tôi biết hai tên đó từ ngày nhỏ qua mấy câu thơ chữ Hán trong bài Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế
Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
mà Tản Đà đã dịch:
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San
Được biết thành Cô Tô và các di tích khác ở Tô Châu bị tàn phá nặng nề qua nhiều biến cố, từ cuộc chiến tranh Trung – Nhật hồi thập niên 1930 đến cuộc Cách Mạng Văn Hóa do Mao Trạch Đông chủ trương nên chẳng còn gì. Và có lẽ nơi đây cũng không còn là một điểm quan trọng trong kế hoạch phát triển du lịch nên chính phủ Trung Hoa không trùng tu lại các di tích đó. Tuy nhiên Tô Châu là một thành phố khá xinh. Nó được mệnh danh là Venise của phương Đông, vì có một hệ thông kênh đào và rạch gần như khắp thành phố, ngoài con sông đào lớn (Đại Vận Hà) dài gần một nghìn tám trăm cây số nối với sông Dương Tử, một công trình do Ngũ Tử Tư thực hiện từ thời xa xưa. Nhà cửa, đường phố nhỏ hẹp gợi nhớ Hội An của Việt Nam. Những chiếc cầu ở đây khiến tôi liên tưởng đến mấy vần thơ của Hồ Dzếnh:
Tô Châu lớp lớp phù kiều
Trăng đêm Dương Tử, mây chiều Giang Nam
(Hồ Dzếnh, Đợi Thơ)
Nhân trích hai câu thơ trên đây tôi bỗng thấy thinh thích trong lòng, vì ba địa danh được nói đến, Tô Châu, Dương Tử, Giang Nam, mình đều đã đặt chân đến. Tôi đã đến Nam Kinh một chiều nọ, chẳng phải Giang Nam là gì? Duy có điều bầu trời hôm ấy âm u, toàn một màu xám chứ không lơ lửng những áng mây nhiều màu để mình được ngắm mây chiều Giang Nam, và cũng không có dịp đứng bên cầu chờ đêm xuống để thấy trăng đêm Dương Tử tỏa sáng trên mặt sông.
Tô Châu còn hai điều nổi tiếng nữa là gái đẹp và tơ lụa. Về điểm thứ nhất, tôi không biết có đúng không, vì những người con gái tôi thấy ở đây cũng “thường thường bậc trung.” Có lẽ danh truyền từ đời xưa qua người đẹp Tây Thi giặt lụa bên bờ sông ở thôn Trữ La – lại một địa danh lịch sử và văn học nữa mà Anh Vũ đã nhắc trong một bài thơ của mình, Người Con Gái Huế:
Sông Hương mấy độ vàng hanh nắng
Gió chẳng se lòng lụa Trữ La
Và có lẽ dư âm nghìn xưa cũng đã khiến Hồ Dzếnh, nhà thơ của nghìn sau, tương tư những bóng hình diễm kiều của quê nội mình::
Liễu Động Đình thơm chuyện hảo cầu
Tóc thề che mướt gái Tô Châu
(Hồ Dzếnh, Tư Hương)
hay đã khiến nhạc sĩ tài hoa Phạm Duy lúc đứng bên cầu biên giới Việt-Hoa phải thốt lên:
Ôi giấc mơ xưa
Mộng đời phiêu lãng giang hồ
Sống trong lòng người đẹp Tô Châu
Hay là chết bên giòng sông Danube
Những đêm sáng sao...
(Phạm Duy, Bên Cầu Biên Giới)
Nhưng cô hướng dẫn du lịch khá xinh; sinh trưởng và lớn lên ở đây, như cô cho biết. Đừng đi tìm những trang quốc sắc thiên hương, những nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành thì du khách hôm đó đã được nhìn người đẹp Tô Châu đang nói chuyện với mình đấy. Trong lúc xe đang chạy, có lẽ để lấp khoảng “thời gian chết,” người hướng dẫn tổng quát đề nghị người hướng dẫn địa phương ca một bài giúp vui. Cô ta nói không nhớ ca khúc nào trọn vẹn, ngay cả bài quốc ca Trung Hoa, nhưng cô sẽ ca những đoạn mình còn nhớ của bài ca đó. Giọng ca không tệ chút nào. Tôi đã từng nghe âm điệu của bài ca này hồi trước, trong những lần tình cờ thoáng nghe những buổi phát thanh của đài Bắc Kinh, và tôi vẫn cho đó là một trong những bài quốc ca hay trên thế giới, trong đó có La Marseillaise của Pháp, The Stars Spangled Banner của Mỹ, v.v. Tôi nhìn cô, ngẫm nghĩ mà cười thầm trong lòng, “dẫu sao cô cũng là gái nước Việt, như Tây Thi vậy, vì đất này hồi xửa hồi xưa vốn là quê hương của các nhóm dân Bách Việt.”


Tô Châu, một Venise của phương đông

Danh tiếng tơ lụa thì dễ thấy. Đoàn đã được đưa đi xem nơi làm ra sản phẩm này. Cô hướng dẫn đã thuyết trình về kỹ thuật nuôi tằm ươm tơ – từng giai đoạn, từ trứng bướm nở ra tằm đến giai đoạn cái kén cho tơ... Các mẫu bướm, trứng bướm, tằm nhỏ, tằm lớn (tằm chín), và kén được đựng trong những lọ thủy tinh có dung dịch khử trùng để du khách thấy hình thù thật sự chứ không phải “mua trâu vẽ bóng.” Tôi lớn lên ở quê nội Kỳ Lam, Quảng Nam, đã chứng kiến công việc trồng dâu chăn tằm từ ngày nhỏ, nên chẳng thấy khó khăn hình dung những gì người đẹp Tô Châu trình bày hôm đó. Nhưng tôi học được một điều: loài bướm ở đây lớn hơn bướm tằm của Việt Nam, và do đó con tằm cũng lớn hơn, nhả những sợi tơ đặc biệt, màu trắng thay vì vàng; và cây dâu tằm ở đây cũng khác, thân cây to và lá lớn hơn.
Hàng Châu
Về Hàng Châu, nổi tiếng là Tây Hồ. Mặt hồ rộng mênh mông, bờ xa tắp lung linh trong sương khói. Hôm chúng tôi đến, trời âm u, mặt hồ bị một làn sương mỏng phủ lên nên cảnh giống những nét vẽ trong các tác phẩm hội họa xưa của Trung Hoa. Theo những người đã đặt chân đến đây trước, dường như Tây Hồ luôn luôn chìm trong sương khói như thế. Có thể đó là một đặc điểm của thiên nhiên ở đây. Nói đến đặc điểm thiên nhiên, tôi nhớ Hàng Châu nổi tiếng về hiện tượng sóng thần. Đầu tháng Chín vừa rồi, trước ngày lên đường Hoa du vài tuần, vợ chồng tôi đã xem trên đài truyền hình CNN cảnh sóng thần ở Hàng Châu chồm lên nhận chìm hằng trăm du khách đang đứng xa bờ; may mắn là chỉ gây thương tích, không gây tử vong! Khúc sông Tiền Đường đổ ra biển là nơi thường có những đợt sóng lớn vào khoảng tháng Tám dương lịch hằng năm, chắc là do một hiện tượng địa chấn nào đó mà chỉ riêng lòng sông này mới có, hoặc do sự kiện nơi đây là giao điểm của ba con sông đổ ra biển. Có thể Nguyễn Du đã nói đến hiện tượng này ở đoạn nàng Kiều nhảy xuông sông tự vẫn:
Triều đâu nổi sóng đùng đùng
Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền Đường
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Tôi cho đó là một kỳ quan đáng xem, trong khi bà xã tôi và các bà trong nhóm thì phản đối kịch liệt cái ý nghĩ đi xem “thiên tai” kia. Nhưng hướng dẫn viên du lịch đã trấn an các bà rằng không dễ xem đâu, phải đúng mùa, đúng thời điểm v.v. Và như vậy tôi đã được thấy sông Tiền Đường, con sông đã đi vào tác phẩm văn chương lớn của Việt Nam, dù chỉ thấy xa xa, và nhìn từ xa thì con sông nào cũng giống nhau!

Một ngôi nhà xưa ở Tô Châu

Người hướng dẫn du lịch cho xe chạy dọc theo sông Tiền Đường hôm ấy là cốt cho đoàn lên thăm ngôi chùa đồ sộ mang tên Lục Hòa trên đỉnh núi cao chế ngự giòng sông, nhưng ai nấy đã thấm mệt nên chúng tôi chỉ ngồ xe dòm lên thôi. Sau này tôi cứ tiếc hùi hụi đã không có dịp nhìn bao quát sông nước Tiền Đường từ trên cao. Căn cứ vào các nguyên tắc, định luật về phong thủy, địa lý, người xưa đã xây ngôi đền này để ếm sông Tiền Đường, không cho nó nổi cơn thịnh nộ gây các đợt sóng thần, những trận lũ lụt thiệt hại cho cư dân trong vùng.
Trong bửa ăn trưa ở một nhà hàng tại Hàng Châu, nhà biên khảo Lê Văn Lân đã gọi món Tô Đông Pha Trư Nhục (thịt heo Tô Đông Pha), tức thịt heo kho với một loại rượu, để mọi người thưởng thức một món ăn đã đi vào lịch sử địa phương, hay lịch sử Trung Hoa cũng vậy. Nếm miếng đầu tiên tôi nhận ra ngay cái vị thịt heo kho tàu của người Việt. Có lẽ món này đã được truyền qua Việt Nam từ thời Tô Đông Pha trở về sau, và người ta chỉ biết đó là lối nấu của người Tàu nên gọi vắn tắt là thịt kho tàu, chỉ khác là người Việt không kho với rượu. Bác sĩ Lê Văn Lân lại phải trình bày lai lịch món ăn này cho cả nhóm hiểu: nhà thơ Tô Đông Pha đời Tống từng là quan đầu tỉnh Chiết Giang, đóng ở Hàng Châu, và trong một tiệc đãi tất cả những người dân đã có công hoàn thành công trình làm Tây Hồ ông đã chỉ cách kho thịt heo bằng rượu (loại rượu gì, chắc phải hỏi lại nhà biên khảo Lê Văn Lân), và từ đó món ăn mang tên ông, và được mọi nhà ở đây ưa chuộng.
Quế Lâm
Tôi dành Quế Lâm để kể với chị sau cùng không có nghĩa nó là chặng chót của chuyến du lịch – thực ra, nó là địa điểm thứ ba theo thứ tự hành trình qua bảy địa điểm của đoàn. Chỉ vì tôi muốn kết thúc bức thư bằng đoạn nói về một nơi nổi danh đẹp nhất Trung Hoa.
Quế Lâm, tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Tây, một tỉnh tiếp giáp với Việt Nam, có nhiều phong cảnh rất đẹp. Chúng tôi ngoạn cảnh trên một du thuyền có khả năng chở bốn mươi khách. Thuyền rời bến, chạy ngược giòng Lý Giang một quảng xa, rồi từ từ xuôi giòng. Hai bên bờ là những khung cảnh đẹp như những bức tranh sơn thủy Tàu. Khúc gần thượng nguồn giòng sông chảy xiết hơn, và hai bên bờ núi lấn ra sát mé nước, không có lấy một tấc đất bằng phẳng, nên không có dân cư. Càng xuôi giòng thế đất càng thay đổi, đẩy núi lùi vào xa, và làng mạc bắt đầu ẩn hiện sau những khóm tre. Nhưng, tất cả hai bên bờ, dù có dân cư sinh sống hay hoang vắng, đều đẹp đến nín thở mà nhìn! Cả một vùng trải dài mấy chục cây số hai bên bờ, với vô số ngọn núi hình thù kỳ lạ, ngoạn mục, đến nỗi suốt bốn tiếng đồng hồ du khách nhìn không chán. Ở Quảng Nam, ngược sông Thu Bồn đến khúc gần nơi phát nguyên của nó người ta thấy vài vách núi tương tự như ở Quế Lâm. Đó là vùng Hòn Kẽm Đá Dừng. Hai câu ca dao của địa phương Quảng Nam – tôi thích nghĩ là diễn tả tâm trạng nhớ nhà của cô dâu mới từ miền xuôi lấy chồng ở nơi thâm sơn cùng cốc của xứ Quảng - truyền tụng từ xưa, có đề cập đến địa danh này:
Ngó lên Hòn Kẽm Đá Dừng
Thương cha nhớ mẹ quá chừng bậu ơi!
Thỉnh thoảng hướng dẫn viên chỉ cho khách xem đỉnh núi này tên “con gà trống,” đỉnh núi kia tên “hai cha con,” v.v. ôi thôi, không bút nào tả xiết. Tôi còn muốn quay lại Quế Lâm một lần nữa. Người hướng dẫn du lịch còn cho biết Quế Lâm có loài vượn trắng ít nơi nào có. Anh ta nói nếu chúng tôi muốn xem những con thú đó thì anh sẵn sàng đưa đi xem, nhưng phải chịu khó dậy sớm – vào khoảng sáu giờ sáng – vì chúng thường đến những công viên có những người tập Tài-Chi vào giờ giấc đó để được họ cho ăn. Và không ai trong chúng tôi “chịu khó” cả, nên đã không xem được vượn trắng! Chi tiết loài vượn trắng đã làm tôi liên tưởng đến truyện ngắn The White Monkey của nhà văn Trung Hoa Lâm Ngữ Đường (Lin Yu Tan). Chuyện kể về bà vợ xinh đẹp của một viên quan bị con vượn trắng chúa một bầy vượn bắt cóc khi kiệu của viên quan và đoàn tùy tùng đi ngang một vùng núi non hiểm trở. Con vượn “tôn thờ” người đẹp chứ không hề động chạm đến thân thể ngọc ngà của bà, và nuôi bà chu đáo ... Tôi nhớ lại truyện này chỉ để hy vọng bối cảnh của nó là vùng Quế Lâm.

Bấy nhiêu, hy vọng chị hình dung một phần nào chuyến Hoa du của tôi. Có lẽ đối với một người Việt sinh ra, lớn lên trên đất nước mình, như thế hệ chúng ta chẳng hạn, chuyến du lịch Trung Hoa có một ý nghĩa đặc biệt hơn các nơi khác. Đó là một chuyến đi không chỉ thuần viếng thăm một đất nước xa lạ. Xứ sở nào cũng có phong cảnh, nền học thuật, những trang sử, những giai đoạn thăng trầm đầy tự hào để khoe với khách; ở Trung Hoa tất cả những điều đó có một ý nghĩa riêng với một du khách người Việt như tôi, như chị. Lịch sử, văn minh, văn học của đất nước mình gắn liền với Trung Hoa như bóng với hình. Nghe nhắc đến một địa danh, nghe kể về một di tích lịch sử, dù chúng ta chưa biết vẫn cảm thấy gần gũi, không có cái cảm tưởng xa lạ của sự việc mới nghe lần đầu, đúng như Hà Thượng Nhân đã viết:
Ở Trung Quốc ta chưa hề đến đó
Mà thân quen như mảnh đất quê hương
(Hà Thượng Nhân, Để Tiễn Người Đi Trung Hoa)
Tôi thấy chuyến đi như một hành trình khám phá, kiểm chứng, xác định...
Ngày 10 tháng 11 năm 2000
Hà Kỳ Lam

No comments:

Post a Comment