Wednesday, March 2, 2011

Kính vạn hoa thành phố

Kính vạn hoa thành phố (Một cách nhìn Hà Nội đầu thế kỷ XXI)
26/04/2009 07:48
(HNM) - Ngày Tết, người ta được hưởng cái thú đi bộ. Thành phố vắng vẻ, tinh tươm, chả pháo nổ hay kẹt xe tắc đường. "Ô sin", thợ thuyền về quê. Nhà trọ sinh viên vắng tanh. Thế rồi bật ra câu hỏi: "Thật sự thì chen chúc trong Thủ đô mình ngày thường có tới chục triệu người không?".



Nhiều nông dân ra thành thị tìm kiếm việc làm. Ảnh: Thái Hiền
Điều tích cực thì chúng ta đã nói đến nhiều: cung cấp thóc gạo, thực phẩm, đất đai, nhân lực, nguyên vật liệu... Người tài, người đẹp từ Quảng Bình, Thanh Hóa ra, Lạng Sơn xuống, cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, xó xỉnh chợ búa đâu đâu cũng gặp... Đến đây với khát vọng đổi đời, chả mấy kẻ uể oải, đa phần đều năng nổ, bổ sung phần cần cù mạnh bạo vào cái nhịp yếm thế của người phố. "Hội tụ - Kết tinh - Lan tỏa", bổ sung sinh lực, tóm lại là có rất nhiều điều hay để nói về họ. Một nhận xét khác: "mỏ" nhân tài cho Thăng Long xưa nay lớn nhất là Nghệ Tĩnh và xứ Quảng, có lẽ còn màu mỡ hơn cả Kinh Bắc, Đông, Đoài, bởi người Nghệ, người Quảng cạnh tài năng còn là ý chí vô song.

Nhưng lại cũng có cái dở, mà chả hề ít. Sự phát triển làm khoảng cách địa lý giữa thành thị với nông thôn gần lại, nhưng cái hố sâu về mức sống, văn hóa, tập quán... lại hở to ra. Những chú phụ nề hơn chục tuổi từ Bắc Giang xuống hay nghêu ngao câu hát về một tình yêu dang dở. Chưa hề thất tình, hẳn thế. Nhưng có lẽ trong vô thức, hằng ngày thấy cả lũ "em Chã" bằng tuổi, chú chả thể bằng lòng về phận mình. Và chú cũng có những ước mơ chứ, có điều chả hướng về ngôi nhà trên đồi có mẹ già cằn cỗi. Nông thôn đang không giữ được người. Cái êm ả sau lũy tre làng chỉ có nghĩa là ăn đã đủ, mặc không bị rét nữa thôi. Nhưng thế chưa đủ. Đất đai ít, bởi người đẻ mãi ra, trồng cấy sinh lợi ít. Một sào ruộng chịu nhiều khoản: thủy lợi, khuyến nông, phân hóa học, thuốc trừ sâu rầy... mà trời không thương có khi mất cả. Một "suất đinh" chịu đóng góp đủ các thứ quỹ xóa đói giảm nghèo, tiếp khách, bảo tồn di tích, khuyến học, người cao tuổi, cựu chiến binh, văn nghệ... của xã, thôn, của họ tộc. Thế là phát canh lấy thóc cho bố mẹ ăn, còn mình "ra đi vào chốn đô hội", chả biết làm nghề gì khác ngoài hiến dâng sức vóc. Cũng không ít đàn bà, với "vốn tự có". Cái sự ra đi ấy có thể quy cho là bần cùng hóa?

Làng xóm nhiều nơi, vùng xa là chính, đàn ông, thanh niên vãn cả, còn lại là ông già, bà lão và những anh dốt nát chả có tài cán, gan góc càng không. Nhà văn Dạ Ngân "miêu tả" bằng chữ "trống toang". Ra đồng tinh đàn bà, tuy đã có đôi ủng cao su buộc cạp lên quá gối lội bùn tiện hơn, nhưng cái việc sấp mặt xuống cấy thì không thể trốn. Tệ hơn là cái nạn cường hào mới. Người giỏi giang ra tỉnh học nghề rồi ở lại, bằng không cứ lao động đơn giản cũng kiếm bằng mấy chân quê. Tết đến, ít hào đem về lại đóng tiền xây nhà thờ họ, mộ tổ, cùng bao thứ quỹ chỉ ở xó xỉnh mới có. Mấy chú đánh giày, bán báo qua bao lần "bắt cóc bỏ đĩa", nghĩa là những đợt "làm sạch phố phường", lại nhẩy phắt ra phố. Chúng ưa thích cái "vị" tự do (dù đầy cạm bẫy) hơn tôn ti trong lũy tre chăng? Và thanh niên ăm ắp khát vọng với tài năng, còn chỗ nào có thể đem lại học vấn, cơ hội đổi đời hơn thành phố? Chả lẽ học xong rồi về quê, nơi lắm khi sự êm đềm lại như một tấm lưới trói chặt cá tính, nghĩ gì, nói gì cũng không thể trái lời ông trưởng họ...

Vùng nông thôn gần thì sao? Không thể không nhận thấy là công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã thay đổi nhiều làng quê cũ kỹ. Giao thông phát triển, những khu công nghiệp mọc lên đem lại bộ mặt mới mẻ, hiện đại. Các dự án đem lại công ăn việc làm. Nhiều làng nghề đang suy sụp hồi sinh. Thanh niên rành vi tính, kỹ thuật mới, hay có thể tậu con xe tải chạy khắp làng.

Nhưng cạnh phần được đó, lại là bao cái đáng tiếc. Tiếc mà không níu được, có lẽ là những di sản gắn với đời sống nông nghiệp. Nhiều nơi đập cổng làng, xén đất đình cho ô tô đi. Cái hình ảnh một làng quê xấu đi là rõ nhất: đố thấy còn nhà tranh, nhưng "kiến trúc" mới chả có quy hoạch quy chuẩn nào, cứ xây chằn chặn xìn xịt mà cái nọ cãi cái kia. Vườn tược, cây cối, ao chuôm biến mất khiến nước thải chẳng còn chỗ chảy, vừa đem theo cái vẻ êm đềm thanh mát, vừa khiến hàng xóm to tiếng.

Người nông thôn mang vô vàn sức lao động đến, kèm theo cách sống của họ. Tư duy tùy tiện, áp dụng lệ làng, xây cất cơi nới, đi đứng hồn nhiên, phạm luật mà không biết. Đa phần lao động đơn giản, họ thành công cụ cho người chủ, có thể bị bóc lột, làm nạn nhân, cũng có khi phá đám lại chút ít. Thành phố cần họ và hiển nhiên, "xếp" họ vào đẳng cấp dươi dưới. Với cái "dươi dưới" ấy và với tâm lý đi ở tạm "hàng xóm", liệu họ có yêu quý, lo cho cái cộng đồng chung bằng cho làng nước mình? Từ đấy đến chỗ vứt con chuột ra đường, đái một bãi "mặc bố thằng nào ngửi" rất mỏng. Nhưng có những con người có chí tiến thủ, học hành đầy đủ, chiếm được những vị trí cao, đủ quyền lực định đoạt việc lớn. Sự tác động của họ vào đời sống đô thị có hay dở của nó, chỉ xin nêu ra ở đây cái phía không tích cực.

Từ nơi khác đến lập nghiệp, cái tâm lý không tự tin và cũng chả tin người rất dễ có. "Cơ chế" cục bộ, co cụm để bảo vệ nhau xuất hiện. Những "tập" người hình thành xung quanh vị "gia trưởng" mới để "chào cờ xã ta". Người huyện người họ kéo ra, dùng người tài theo kiểu hẹp hòi... Ác nghiệt nhất là những ông tiểu nông ấy mà càng quyền cao chức trọng, học hàm học vị xum xuê với cả cán bộ đảng viên nữa thì càng "Thôi rồi Hà Nội ơi!". Nhiều yếu tố khiến cơ cấu dân cư thành phố vỡ một cách "tinh tế", công tác tổ chức, cán bộ bị ảnh hưởng.

Cái tâm lý "chín bỏ làm mười" thâm căn cố đế chiếm dụng, lấn át tư duy duy lý - nhất là trong khoa học, khiến nhiều khảo sát, điều tra, giải quyết vấn đề không được đẩy đến cùng. Và còn những biến thái nhỏ li ti nữa không thể không nghĩ tới. Như là liệu không gắn bó, yêu quý Hà Nội, người ta có chỉ tính tới những giải pháp ngắn hạn, "có tính chất nhiệm kỳ" cho nó? Như là một thành phố không có những dòng họ trí thức lớn như Nguyễn Khoa, Thân Trọng, Hồ Đắc ở Huế, hay "Hà Tĩnh họ Phan, Nghệ An họ Hồ", thì liệu có mất mát không? Nói thế thật ra không chính xác lắm, vì Hà Nội chi chít làng xóm, dòng tộc khoa bảng. Nhưng sao đã ngót nghìn năm theo nho giáo, trí thức đô thị nhiều người hủy tiết tháo đi, hành xử cứ hay khép lại, không nói ra cái điều họ nghĩ? Có một nỗi ám ảnh thường trực nào chăng?

Thành phố của chúng ta đa sắc thật. Những mảng màu. Những tập người. Những thời khắc... Hệt như cái kính vạn hoa, chỉ nghiêng đi một tí đã thấy khác.






Trong tác phẩm Chinh Phụ Ngâm cũa tác giả Đặng Trần Côn mở đầu bằng 2 câu thơ bất hữu:

"Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên."

Nói về hình ảnh của người phụ nữ Việt Nam trong thời ly loạn. Hai câu thơ này hàm chứa rất nhiều điều mà người phụ nữ ‘khách má hồng VN’ phải gánh chịu khi đất nước loạn ly trong thời xa xưa. Ngày nay, đất nước VN đã chấm dứt chiến tranh từ năm 1975, không còn trong thời loạn ly; nhưng mĩa mai thay thân phận người phụ nữ ‘khách má hồng VN’ phải gánh chịu nhiều nghiệt ngã, oan trái, khổ đau và truân chuyên nhất trong mọi thời đại theo dòng lịch sử. Nỗi đau khỗ nhục nhã cũa người phụ nữ VN sau năm 1975 là do ai, do chế độ nào? Hởi những ai còn lương tâm lương tri cũa một con người, xin đừng hùa theo đảng cộng phỉ tiếp tục dày xéo ‘khách má hồng VN’.

Kính

No comments:

Post a Comment