Sunday, March 6, 2011

“Sỏi đá buồn tênh” -Nguyễn Ngọc Tư

“Sỏi đá buồn tênh”

Nguyễn Ngọc Tư




Những ngày đi dưới mưa thu ở Jeju, tôi thường nhớ người bạn vong niên ở Cần Thơ. Tôi với ông đều đam mê đá. Lý do có lẽ khác nhau. Tôi mê đá bởi nhìn thấy một chút mình trong đá, tồn tại tự nhiên, cứng cỏi, thô mộc phơi mình trước nắng mưa miên viễn, nhưng người yêu đá sẽ nhìn thấy ở nó sự dịu dàng. Và đó là tri âm. Ý nghĩ này đeo đẳng khi tôi nhìn thấy núi lần đầu. Giờ thì yêu đá hơn hoa. Mà, Jeju thì toàn đá và đá, muôn trùng đá. Ở giữa bữa tiệc đá, trong cơn say ngây ngất, tôi ước gì bạn cũng ở đây.
Hình thành sau đợt núi lửa phun trào hàng triệu năm trước, nên Jeju được cấu tạo từ dung nham và tro bụi, đá trên đảo thẳm một màu đen. Màu đá gợi lên sự huyền bí, dịu dàng, và một chút gì đó buồn bã, hắt hiu. Ngồi trong quán ăn bên đường, ngó mưa miên man nhỏ xuống một bờ rào đá, tôi có cảm giác, chỉ chút nữa thôi đá sẽ mềm nhão ra như đất ở quê mình.
Nhưng mưa đã triệu năm rồi, đá vẫn vĩnh cửu trên hòn đảo xinh đẹp này. Đâu cũng đá, mở mắt ra chưa thấy người đã thấy đá. Đá xếp làm rào quanh những vườn quýt trĩu quả, đá hờ hững gá lên nhau ngăn những thửa đất cây cỏ xanh mầm, đá quây lấy những đồng cỏ chăn thả ngựa. Đá xếp làm tường nhà, làm biển hiệu quán ăn, làm cọc tiêu những con đường dọc bờ biển và cả một công viên đá rộng hơn 2 hecta… Jeju “đãi” người yêu đá đến no căng, ngây ngất. Trong những khu phố sầm uất vẫn thấy đá nằm ở chân tường và những bức tượng Hareubang, mà anh bạn Ha Jae Hong chuyển qua Việt ngữ rất nôm na là “ông bác đá” làm cả đoàn cười nôn ruột. Ở đâu cũng thấy “ông bác đá” này, ven đường, bãi biển, trong những cửa hàng bán đồ lưu niệm… miệng cười bí hiểm, mắt to, mũi to, hai tay đặt trước bụng, an nhiên.
Trông bức tượng vị thần đá rất hiền hậu. Sự hiền hậu toát ra từ đường nét đục đẽo giản dị, từ cái màu trầm mặc của đá. Góp phần cho một Jeju yên ả, thơ mộng và sâu lắng, đá làm dịu lại sắc vàng quýt chín, sắc đỏ rực của rừng cây đang trút lá, sắc xanh rờn của những thảm cỏ mùa thu…
Màu đá, trong một liên tưởng bất chợt, tôi nghĩ tới màu máu đã khô rồi. Hòn đảo này sinh ra từ tro than, bắt đầu sự sống từ hủy diệt nên suốt chiều dài lịch sử của mình, đôi lúc lại từ hủy diệt, Jeju hồi sinh. Ngày 3 tháng 4 năm 1948, chính quyền Nam Triều Tiên đã đưa quân đội đến Jeju tiến hành cuộc thảm sát được coi là một trong bốn cuộc thảm sát lớn nhất thế giới. 130 làng bị đốt cháy, 12.000 người được chính thức ghi tên trong nhà tưởng niệm. Nhưng người Jeju nói con số thường dân thiệt mạng lên đến 30.000, nghĩa là sự thật chỉ là một phần ba sự thật. chỉ vài phút đứng trước phần bia của một ngôi làng, tôi đếm được 109 người họ Lee. Trong những tác phẩm của giới họa sỹ đảo Jeju về cuộc thảm sát, họ vẽ những gương mặt vùi trong đá, những hình người vắt chông chênh trên đá.
Và trên nấm mộ của những em bé vô tội, đá vẫn một gam màu xám đen u uất, như những giọt nước mắt của trời đã đông đặc lại, khóc cho sự nhẫn tâm không hiểu nổi của con người. Nhưng niềm hy vọng nơi con người lại lấp lánh ngay trong nỗi thất vọng. Tôi nghĩ tới người bạn vong niên không vì đá gợi nhớ, mà vì lời ông nói trong một bữa trà nào, người viết luôn nhìn thẳng vào sự thật, phản ánh sự thật. Bài học về sự thật tôi được nghe lại ở đây, khi thông tin cuộc thảm sát đảo Jeju bị bưng bít, những nhà văn, nhà thơ của đảo đã viết, tranh đấu cho đến khi bi kịch được phơi bày. Vài người đã qua đời sau những tháng ngày bị tù đày, bạc đãi. Người kể lại câu chuyện này, tiếp tục cuộc đấu tranh này cũng là một nhà văn kiêm huấn luyện viên bóng đá. Khoát cánh tay ngắn và chắc nụi về phía biển, anh gửi lời xin lỗi về miền Trung, nơi mà người lính Nam Hàn đã gây nên những cuộc thảm sát. Anh nói về cuộc hàn gắn bằng văn học nghệ thuật, và cả bóng đá nữa, nếu có thể, giữa hai vùng đất mang nhiều nỗi đau này.
Người vẫn còn mang vết thương đã toan đi chữa vết thương cho người khác. Tôi nghĩ nghề viết và người viết cũng đơn giản vậy, chữ lành, an ủi những vết thương của người đời để làm dịu vết thương của chính mình.
Tôi rời Jeju trong cảm giác yêu lần nữa cái công việc chữ nghĩa mà tôi đang theo đuổi. Tôi mang theo một Hareubang nhỏ. Mỗi khi nhìn bức tượng, tôi lại nhớ “bữa tiệc đá” Jeju, nhớ vẻ đẹp mạnh mẽ của sự phục sinh, vẻ đẹp mãnh liệt của sự sống, và vẻ đẹp tinh tế của nỗi buồn…



• Đảo Jeju là đảo lớn nhất Hàn Quốc, nằm ở phía Tây Nam, rộng 73km, dài 41 km, với dân số hơn 600.000 người. Đây cũng là tỉnh đảo tự trị duy nhất của Hàn Quốc, cách đất liền 120 km, cách Seoul khoảng 50 phút bay.
• Đảo núi lửa Jeju cùng với hệ thống các đường chảy nham chính thức được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới (tháng 6 /2007)



Email thứ bảy

Nguyễn Ngọc Tư


Phương thích nghe vọng cổ không? trong nhà có cất giữ bài ca vọng cổ nào không? Tôi hỏi vậy, vì tôi đang nghe một bài vọng cổ, rất buồn, về thân phận của cô gái đi ở mướn. Buổi trưa khi ngủ dậy, sợ cái nắng vàng ngoài sân bóp nghẹt mình, tôi thường giả vờ bận rộn, ít nhất là làm cho ý nghĩ mình bận rộn. Tôi nghĩ về bài vọng cổ, về chữ “nàng” mà một tác giả tôi chưa biết tên đã dùng, để gọi cô osin, cô ở mướn.

“Nàng” là một chữ mà với tôi dội lại rất nhiều hình ảnh. Nó gợi lên trong tôi vẻ đẹp, sự sang trọng, thanh thoát, nhã nhặn, hơi cầu kỳ và xa vời. “Nàng” thuộc về tầng khác, lớp khác. Tôi thường mắc cỡ chết giấc khi có ai đó đùa gọi, nàng ơi! Chữ “nàng” không thuộc về tôi, như không thuộc về người quét rác, người buôn gánh bán bưng, người gặt lúa trên đồng… Tôi từng nghĩ vậy, nhưng người nghệ sỹ viết bài “người ở mướn” làm tôi ngơ ngác, khi viết rằng, “vì nỗi khó khăn nàng lìa xứ xa nhà…”. Nghe đầy vẻ trân trọng, nhiều thương cảm, không có gì nghịch lý, mỉa mai. Tôi bỗng dưng nghĩ, người viết lời ca này hẳn là người nhân hậu, dịu dàng.

Tôi nhớ nhà thơ già mà tôi gặp ở Quy Nhơn, trong một sáng lấm tấm mưa. Ông đi xe đạp lại chỗ tôi, uống cafê bên biển. Gặp ông chỉ một lần, năm năm trước, trong buổi buffet chiêu đãi của một tờ báo mà ra về tôi và ông đều đói, tội, quê mùa quá nên lóng ngóng. Năm năm, hai ngón tay kẹp điếu thuốc đã khô queo quắt, mỗi làn khói bay ra từ miệng ông, có cảm giác như xương thịt ông cũng đang bốc hơi đi. Giữa những lời thăm hỏi, ông ngó tôi, chậm rãi, “văn chương và người làm văn chương đều rất đẹp, cháu à, chỉ là một số người khiến nó không đẹp nữa…”.

Tôi nghe điều đó đã nhiều lần, người ta còn viết những bài dài xưng tụng cái đẹp cao quý của thi nhân. Vẻ đẹp được chảy tràn trên giấy, còn họ giấu bia chiêu đãi trong túi áo, họ đánh nhau, họ nhục mạ nhau, sao chép tác phẩm nhau… Tôi tin rất ít, giờ tôi đã tin nhiều, vì ông. Người viết ra những bài thơ tôi ghi chi chít trong sổ tay, “Trong hoa/tôi nhìn thấy những bàn tay người trồng hoa lấm bùn đất/nhìn thấy những người bình thường đã tạo ra những vẻ đẹp khác thường…”(*). Câu từ giản dị và trong lành, ông mang vẻ đẹp của người phụ nữ bán bánh mì, chị công nhân quét đường, người trồng hoa, bà mẹ tảo tần quang gánh… đến cho tôi. Như cái sáng mưa ấy, ông khăng khăng bảo tôi cứ ở khách sạn và chờ ông đạp xe tới. Xe không chống chân, ông dựa nó sát hàng rào. Ông đẹp hơn cái đẹp mà tôi lưu giữ trong lần gặp đầu. Ông đứng về phía những bài thơ của mình, ông đẹp như chính những câu thơ về thân phận những người bình thường, thương khó.

Hôm đó, ông kể về người bạn quá cố của ông, Trần Quang Long, người viết bài thơ Tố Chân, “Maria Tố Chân/ Anh yêu em vô cùng…”, rồi đọc mấy câu từ “Bài thơ của một người yêu nước mình” của người bạn cũ Trần Vàng Sao “Đôi khi chợt nhớ một tiếng cười lạ/Một câu ca dao buồn có hoa bưởi hoa ngâu/Một vết bùn khô trên mặt đá/Không có ai chia tay/Cũng nhớ một tiếng còi tầu…” . Ông nói về sự quyến rũ đến từ những điều giản dị, thơ bạn bè ông thô mộc nhưng đọc tới đâu thấy run rẩy tới đó. Người ta ngây ngất trước sự hào nhoáng, mê mẩn trước sự bóng bẩy, nhưng chỉ rơi nước mắt trước sự giản dị tự đáy lòng. Buổi sáng biển mù, ông kể chuyện quê nhà, Huế và mẹ già, về cô em họ mỗi lần ra thành phố rực rỡ áo pull quần bò, một bữa ông về làng, cô chở rơm trên xe bò, áo rách và nón rách che lấy mặt. Ông dừng lại bảo, nghèo nên mặc xấu, việc gì phải ngượng. Ông kể cái làng Niêm Phò nghèo đến nỗi, cho người dì đau yếu hai mươi ngàn, dì thảng thốt, cho chi mà nhiều rứa, con.

Ông ngước ra biển, như tránh nhìn vào ly cafê đắt tiền mà ông đang uống. Và cho tới khi ông cọc cạch đạp xe ra về, ông không nói bằng lời, mà sao tôi nghe rõ từng tiếng một, người nghệ sỹ, người viết đẹp luôn nhớ và ở lại người nghèo, dù cho đám đông đã thực sự rời xa và quên lãng họ.

Lời dặn dò này ông đã gửi đến tôi, trong từng bài thơ ông thủ thỉ với cuộc đời. Và đôi lúc, tôi nhớ tới điều đó khi mở ra những trang báo, nhìn bức ảnh những đứa trẻ đi nhặt rác, ngắm bức tranh tường rêu phố cổ với người bán hàng rong ngồi xa vắng, hay trong bài vọng cổ trưa nay.

Bài ca hay quá, Phương ơi.

(*) Thơ Lê Văn Ngăn

Giá của một gương mặt

Nguyễn Ngọc Tư


Loạt phóng sự được chiếu tham khảo trong lớp học kéo dài ba mươi phút. Suốt thời gian đó, tôi thấy mình bị trói tay chân, và dìm trong nước, hoang mang, nghẹt thở. Cảm giác nặng nề như được sao chép lại từ cái hôm truyền hình phát chương trình này, lần đầu. Nguyên vẹn sự sững sốt khi nhìn thấy những em học trò vì vay tiền nặng lãi của bọn xấu mà lâm cảnh nợ nần, trốn chui nhủi, bị hành hung đánh đập, bỏ học. Nguyên vẹn sự giận dữ khi những đứa trẻ vênh váo hỗn xược đòi nợ người đáng tuổi cha mẹ mình. Nguyên vẹn cái rấm rức xót lòng khi người cha nghèo khó khóc hức lên trước chuyện học hành lỡ làng của đứa con dại…

Và nguyên vẹn sự hoang mang, buồn bã khi suốt loạt phóng sự điều tra, tôi chỉ nhìn thấy gương mặt của một bà mẹ, cái gáy của một nam sinh, còn lại là hàng chục gương mặt nạn nhân được bộ phận kỹ thuật đài truyền hình làm mờ nhòe nhoe nhoét. Thầy đứng lớp xem xong, cười buồn, “sao tôi thấy chúng ta chiến đấu với cái xấu mà mờ ám thế nào ấy…”. Bạn, người thực hiện những phóng sự này cũng cười buồn, bạn không làm khác được, bạn phải bảo vệ nhân chứng, ai mà biết trước băng đảng cho vay nặng lãi, dùng bạo lực hành hung người theo kiểu xã hội đen kia có tàn độc trả thù hay không, chúng sẽ dùng thủ đoạn nào.

Bạn làm báo, tất nhiên bạn muốn ghi hình những đứa trẻ đang sợ sệt kia, vẽ gầy rộc, lo lắng, buồn bã trên khuôn mặt non nớt, trong trẻo và ngơ ngác. Ánh nhìn xuống chân thui thủi. Cái cắn môi đỏ nhừ. Giọt nước mắt hối lỗi cho sự nông nổi. Hay những nếp nhăn sâu hoắm, chảy tràn chua xót bất lực trên mặt của một người cha. Bạn muốn người xem cũng phải ám ảnh nỗi đau, sự bàng hoàng, hoang mang trên gương mặt của từng nạn nhân… như chính bạn. Hơn ai hết, bạn muốn tác phẩm của mình ấn tượng hơn, đánh động dư luận hơn, vòng sóng lan rộng hơn đến mọi tầng lớp xã hội, và cuộc chiến chống cái xấu được thêm nhiều sức mạnh.

Buổi học chiều đó bạn có vẻ buồn, trong cách nói của thầy, dường như thầy nghĩ bạn sợ. Bạn ít nói, nên cũng không đứng lên mà thưa rằng, bạn không sợ. Chỉ là bạn không tin, và những người giấu mặt trong phóng sự kia càng không tin mình được bảo vệ bằng lẽ phải. Tin làm sao hệ thống luật pháp yếu ớt và nhợt nhạt, hay chạy lẹt đẹt đằng sau bọn tội phạm, và lúc xảy ra chuyện trả thù, trù dập người ngay, những người có nhiệm vụ bảo vệ dân lại ngơ ngác “rất bất ngờ với hành động dã man, coi thường luật pháp…”. Mèn ơi, các anh có súng mà bất ngờ thì chúng tôi tay không biết làm sao?

Thay vì ngăn chặn một vết thương, người ta chỉ biết làm công việc cầm máu. Băng bó, ràng rịt bằng thứ thuốc nào thì ở đó vẫn có một vết sẹo. Lòng tin cũng vì vậy mà mất mát, vợi đi. Tôi không biết, để được thấy những gương mặt đáng thương trong phóng sự kia, phải đổi bằng gì? Bao nhiêu lòng tin thì đủ? Mất bao nhiêu thời gian?

Lúc bạn tôi ngồi dựng những đoạn phim này, và xóa những gương mặt đó, thì vết sẹo ở trong chính bạn cũng xé miệng và rướm máu. Bạn đang thực hiện một tác phẩm tuyên chiến với cái xấu, nhưng chỉ có chúng được lởn vởn trong những khung hình. Tôi, trong vai một khán giả mà còn hí húi đau.

Chiều nay thầy cũng buồn, tôi nghĩ vậy, bài giảng của mình, thầy nói về sự tối cần thiết nắm bắt cái thần của nhân vật được phỏng vấn, của những nhân chứng sống, lúc họ thật nhất, bộc lộ mình rõ nhất sự dối trá, nỗi đau, niềm vui, hay khi bối rối, ngập ngừng… Những bộ phim thầy mang tới lớp, người được phỏng vấn đều nguyên vẹn mặt, họ nhìn thẳng, cười, đôi khi đau đáu, đôi khi ôm ngực nấc lên, đối diện lịch sử, họ nói bằng cả tấm lòng. Nhưng tôi nhìn những dòng chữ bên dưới màn hình “Đồng chí XZ, nguyên chủ tịch…”. Bỗng nghĩ, họ cất tiếng nói khi đã rất già, đã không còn gì để mất, nhưng cái hồi họ tại vị, họ có dám nói điều đó không, họ có gương mặt đó không? Hay là họ sẽ nói bằng suy nghĩ, tiếng nói của người khác và giấu đi mặt thật của mình?

Họ, cũng không còn mặt, theo một cách khác. Thầy, trò cùng lặng lẽ trước sự thật, không phải lúc nào người ta cũng đối diện cuộc đời, để chiến đấu bảo vệ cái đẹp. Để đến một ngày, bỗng một gương mặt cũng là sự mất mát, cũng khao khát thèm thuồng được nhìn thấy lại, như được nhìn chút bình an bắt đầu tái sinh ở nơi lòng…


lẻ

Nguyễn Ngọc Tư


Bây giờ mỗi khi nghĩ về Hà Nội, tôi vẫn hay nhớ về căn phòng nhiều khói và bóng tối đó. Tôi nhớ em, kiểu em nhìn tôi, cái nhìn không bứt không bẻ được, ngay cả khi bạn tôi hôn em, hay hứng khởi dìu em theo một điệu nhạc dùng dằng trên cái sàn nhà chật, ngay khi tôi ngượng, cúi đầu quay đi vì trông thấy những trò âu yếm được trả tiền, tôi vẫn biết em đang nhìn mình chằm chằm. Cái nhìn như quen như lạ, như dò hỏi, như thân thuộc lại vừa xua đuổi, như sợ hãi, ngượng ngùng. Tôi tưởng cho đến khi ra về vẫn không giải mã được cái nhìn đó thì bạn buộc em hát. Em chọn bài “Một cõi đi về”, rằng “trong khi ta về lại nhớ ta đi…”
Giọng em ngọt, tôi nhận ra trong cách phát âm “chong”, “dzề” là miền Tây của tôi. Giống như em nhận ra tôi từ Nam ra chỉ bằng tiếng “dạ”. Tiếng nói cất lên, gây một ảo tưởng người này quen lắm, dường như cùng xóm, cùng trường cấp một với mình. Tôi nối cái nhìn của mình vào cái nhìn em.
Đó là ngày thứ chín tôi nghe lại giọng đồng hương, kể từ khi bắt đầu cuộc lang thang nhỏ trên những ngọn núi xa xôi phương Bắc. Đó là lúc tôi thèm đường chân trời xa được kẽ bằng một viền lúa chín màu vàng nhạt, thèm một tiếng nói miền Tây vẳng vào tai. Nhưng gặp em ở đây, trong tôi không vang lên một lời reo nào. Con gái xứ mình sao mà cứ theo nhau lưu lạc? Mai tôi về nhưng em còn ở lại đến bao lâu, trong những căn phòng đầy khói và bóng tối?
Lại nhớ người bạn làm du lịch, có lần nói một câu mà tôi cho là phũ phàng, “con gái xứ mình chịu đi giang hồ quá, cùng khắp Việt Nam, qua tới Campuchia, Thái Lan cũng gặp, nói rặt cái giọng miền Tây. Buồn, không muốn hỏi…”. Như em, đã không nói lời nào từ khi nhận ra tôi. Chỉ nhìn vậy thôi. Tôi đã hết cơn thèm. Dù ở cái nơi cách quê nhà hai ngàn cây số, một câu nói mang âm sắc thổ ngữ quê xứ không đơn thuần chỉ để nghe và hiểu, với tôi, chỉ hai chữ “… quá chừng” thôi, như lạnh quá chừng, đẹp quá chừng, là miền Tây kéo tới ngọn núi tôi đang đứng, miền Tây của những cánh đồng, dòng kinh, lục bình trôi, cây ô môi bông đỏ, tiếng bìm bịp hui hút trong những bụi dừa nước ven sông, dơi bay chập choạng trong vườn làm mấy trái ổi chín rơi xuống đất …
Và khi cất lên tiếng hát, em cũng mang ít nhiều miền Tây tới đây, trong căn phòng nhỏ có vài gã trai dáo dác ngó chừng công an bên ngoài. Một miền Tây buồn hiu với bóng tối đổ xuống vạt nước cầu ao mà em đang ngồi giặt chiếc áo phèn sau một ngày gặt lúa, với khói mẻ ung mù mù bay la đà trên những vũng nước mưa thấu qua nóc nhà… Nhưng bạn tôi, người đang ôm em trong lòng thì không nhìn thấy những hình ảnh đó, bạn chưa từng vào Nam. Giọng nói của em và những gì thuộc về ký ức em là một thế giới hoàn toàn xa lạ với bạn. Tôi có cảm giác em sẽ cô đơn lắm. Cô đơn ngay khi cất tiếng, khi những người đàn ông trong căn phòng lấy làm buồn cười vì em phát âm ngọng ngịu đôi ba chỗ, vì em “dạ” thay cho “vâng”, em “vậy hả ?” thay cho “thế ạ”…
Tôi không mô tả được chính xác về giọng nói của vùng đất, chỉ là cảm giác một kiểu thổ ngữ thô mộc, tiết tấu giản dị ít bổng trầm. Nhắm mắt để chạm tay vào giọng nói đó, tay tôi như chạm vào một hòn đất đã bắt đầu chớm khô, mềm mại mà chắc chắn, dịu dàng mà rắn rỏi … Và bức tranh tôi vẽ lại giọng nói của chính mình chỉ là lát đất cày thô, khô khốc, bọc lấy những cái rễ cây cỏ mục bên trong.
Kiểu nói ít nhiều hoang dã, xa lạ. Có lần ngủ ở Hà Nội, một chỗ gần bến xe Mỹ Đình. Một khách sạn nhỏ nhiều ánh sáng nhất trên con phố Hoàng Quốc Việt. Giữa tối, tôi thấy đói, hỏi anh bảo vệ một chỗ để ăn, anh này ngó thom lom, hỏi một câu ngơ ngẩn, chị ơi, chị có phải là người Việt không. Tôi cười cười, “trời đất, dân miền Tây mà”. Bạn nghe xong, vẫn tần ngần. Câu trả lời của tôi cũng lãng òm, kiểu người bạn Lào ở Viêng Xay, một tối say rượu ngật ngà, cười khà khà, bảo, “tớ nói tiếng Việt giỏi nhưng mà tiếng…miền Nam tớ nghe không được?!”. Trong những cuộc đi xa về phương Bắc, tôi cất tiếng gọi thức ăn, người trong quán ngoái lại; tôi gọi điện thoại trên xe, hành khách chung quanh bỗng thôi gà gật, rướn lên nhìn.
Cũng phải, giọng nói của tôi, ở nơi đất quê người, rất lẻ. Nhưng tôi vẫn thích nói vì trước hết tôi cần nghe giọng của chính mình. Nó gợi lên một vùng đất mà tôi vừa chớm xa. Nó gợi lên một sự bí ẩn, tò mò đối với những người Việt chưa từng tới, gợi nỗi nhớ của những người từng đi qua. Xảy ra vài câu chuyện vài cuộc gặp gỡ. Có hôm tôi trả lời điện thoại xong, một người đàn ông bước lại gần, bảo “tôi đã từng ở cù lao Tân Châu, nghe cô nói tôi nhớ đất nhớ người ở đó…”. Ông là người Ninh Bình, lưu lại trên đất của lụa Lãnh Mỹ A chỉ bảy tháng, rồi trở về Bắc. Mười sáu năm rồi, ông kể, mở ti vi nghe mấy ông nông dân Nam Bộ nói chuyện mùa màng, cái kiểu “guộng (ruộng) năm nay chúng (trúng) bộn chú ơi, nhưng dzá (giá) èo ọt quá…” trong lòng lũ lượt hình ảnh của mảnh đất nằm quạnh quẽ giữa dòng sông Hậu. Chen trong câu chuyện của mình, ông dừng lại hỏi, tôi trả lời ngập ngừng, ông lại hỏi, cuối cùng, ông ái ngại, “tôi nói hơi nhiều vì muốn nghe giọng Nam Bộ của cô…”.
Không, đây không chỉ là giọng nói của riêng tôi, mà của cái cù lao Tân Châu trong ký ức ông. Của một miền Tây xa xôi và cách trở, hoang dã và lạ lẫm, sâu thẳm. Miền Tây mà tôi lớn lên cùng vẫn có nhiều chuyện không hiểu. Thí dụ như cái giọng mà ngày ngày tôi nghe người nói người hát người hò, tôi có thể dùng từ ngữ nào, hình ảnh nào, màu sắc nào để miêu tả một cách chính xác ? Thí dụ như em, tôi không biết sao em lại chọn cho mình một cuộc long đong, để giữa nơi xa xôi này cất lên những giai điệu lẻ?!
Để em, con gái miền Tây lại thuộc về ký ức Hà Nội của tôi, nằm trong ngăn kéo mang tên “ngậm ngùi”.
Chị gái Sài Gòn, giờ tóc đã qua vai?

Nguyễn Ngọc Tư

Gặp chị lần đầu, ấn tượng với cái đầu trọc bóng được giấu lấp ló dưới vành nón vải rộng. Khách trên xe trung chuyển tuôn xuống được chị chia ra, phân phát hết cho mấy anh đồng nghiệp xe ôm. Ngoắc tôi bằng một ngón tay, chị nói, “em gái để chị chở…”.

Chắc là cái nhìn tò mò của tôi làm gáy chị nhột, lúc xe lao đi, chị hỏi, “bộ thấy lạ lắm hả, chị cạo đầu đó, giận thằng chồng mê vợ bé, chị xuống tóc thề đoạn tuyệt”. Bất giác tôi nhìn lên bắp tay chị, sau lớp áo, không biết có xâm mấy chữ xanh lè, “hận kẻ bạc tình” ?! Xe bắt đầu rẽ vào con hẻm nhỏ, chị nói, đi tắt cho gần.

Nhưng đi xa thì có thể lấy nhiều tiền hơn, tôi suy luận và hơi ngạc nhiên. Khi đó, Sài Gòn đã không còn điều sững sốt cho tôi nữa, những băng nhóm, những cuộc chơi, những sang trọng, hào nhoáng, hay cả khi nhìn thấy đụn rơm, mái tranh, bụi đưng, lác, lau lách, hay cái gàu sòng đặt gần khe nước. Những gì trên đời này có thì Sài Gòn có, tôi tin vậy. Nhưng chị, bắt đầu từ cái đầu trọc vì buồn thói đời thay đổi, lại gây một ngạc nhiên mới khi bảo, chị là người Sài Gòn. Bạn bè bám trụ mưu sinh trên mảnh đất này khiến tôi đôi lúc quên Sài Gòn đương nhiên phải có người… Sài Gòn.

Và có những con hẻm sâu hun hút, ngoằn ngoèo chi chít. Người xa lạ thấy mình bị kẹt trong đám bùng nhùng, và không biết mình đang ở trong mạch máu nào của những con đường có tên trong bản đồ thành phố. Chị thì thuộc lòng, vừa đi vừa kể chuyện chồng lén lấy tiền nhà đi nuôi nhân tình, mà xe cứ thản nhiên ngoặt trái, ngoặt phải, qua những khúc quanh ẹo cả ruột gan. Ánh sáng ở một con đường lớn nào đó òa vào mắt, nhưng chỉ được một lúc, chị lại đưa tôi vào một lối hẹp te, tối và chật đến nỗi đủ cho luồn vào đó chỉ một chiếc xe. Chút xíu sau, con hẻm lại phình to ra, ôm vào lòng nó một buổi chiều nắng xế. Những quán ăn kê ghế sát bên đường, khói từ các chảo chiên xào bốc lên ngùn ngụt. Vài đứa con gái mặc quần lưng trễ, mông dán mấy con bướm đen, ngồi sì sụp với tô bún nóng. Mấy gã bụng phệ chồm hổm vuốt ve những con gà nòi. Có người ngoẹo đầu ngủ say trên cái võng kê trước hiên. Vài đứa trẻ cố len con diều vượt qua cái khe hẹp của mái nhà và những chùm dây điện chằng chịt để cho diều chạm vào bầu trời. Bìm bìm trổ bông trên một tường rào. Chị ngoái đầu nhìn lại cái bờ tường tím ngắt, chép miệng, đẹp quá hen, chừng nào mua được nhà, chị cũng kiếm mấy cây có bông tím về trồng.

Chị lại chuỗi thêm vào cái xâu tôi đang cầm một hạt ngạc nhiên. Người Sài Gòn lại không có nhà. Giọng chị đanh và chói, như thể chị rít lên chứ không phải đang nói. Chứ làm sao dịu dàng được khi ông chồng lén bán nhà để cuốn tiền theo cô gái nào đó, trong lúc chị đang gặm ổ bánh mì, hay gói xôi bên chiếc xe cà tàng, dáo dác chờ khách ở một ngã tư đường. Dưới cơn nắng như buổi chiều nay hay một cơn mưa dầm tầm tã. Câu chuyện về sự thất vọng con người của chị chấm dứt khi hòa vào dòng xe cộ trên đường Minh Khai, sắp đến chỗ của tôi rồi. Lúc trả tiền (lại ngạc nhiên), cũng không nghĩ là có thể gặp chị lần nữa.

Cũng không nghĩ gần một năm sau khi gặp lại, ở cái ngã tư cũ, chị vẫn còn để mode đầu trọc. Chị nuôi hận bằng gì bằng gì mà dai dẳng vậy? Lần này thì không trọc bóng, tóc đã lún phún chút xíu dưới cái nón bảo hiểm. Chị giải thích, “ông chồng bị đụng xe, chị vái cho ổng sống, mới xuống tóc trả lễ”. Chị không nhớ tôi, làm sao nhớ hết hàng ngàn người khách mà chị chở ngày này qua ngày nọ. Câu chuyện của chị được kể lại, như một slideshow, phần hình ảnh cuốn qua những con hẻm chìm trong ánh chạng vạng nhập nhoạng. Nhưng chúng không chút nào hiu hắt, người ta vẫn đông đúc vẫn tràn trong các hẻm nhỏ. Buổi của những quán cơm bình dân mịt mù khói, của những sinh viên, công nhân bụng đói, của những bàn chân mỏi sau một ngày mưu sinh… Tôi biết tới một Sài Gòn khác, qua những con hẻm sống động này, qua người phụ nữ xuôi ngược vì chồng. Chị nói, nhờ cái hồi đi rình bắt ghen mà chị rành rẽ mấy cái ngõ ngách này. Tôi từng nghe chuyện này rồi, chỉ đang chờ đoạn cuối. Dù tôi đoán được, nó giống như mấy tuồng cải lương chiếu trên ti vi, như bài hát “Ru lại câu hò” mà ca sỹ Cẩm Ly ca văng vẳng trong mấy quán café, hết tiền, tàn tạ, anh chồng bội bạc ăn năn quay đầu về bến cũ.

“Chắc tại chị rủa sả thằng chả quá chừng mới nông nỗi vậy, nằm bẹp một chỗ…”, chị chép miệng, giọng không chút nào hả hê, chua chát. Nghe man mác, ngậm ngùi, hối lỗi. Chị lại rẽ ngoặt vào con hẻm loang lỗ bóng đêm, tôi hỏi, chị có đi hết tất cả các con hẻm trong thành phố này chưa? Chị cười, có cảm giác ở đằng trước chị trợn mắt, “trời, nói giỡn hoài, có đi hết đời cũng chưa chắc giáp…”. Rồi chị kết luận, “Chạy trên đường lớn nhiều khi buồn, thấy mình tội nghiệp lắm, cái gì cũng lớn, cũng giàu mà mình nhỏ xíu và nghèo. Sài Gòn mà không có hẻm hóc thì chán chết, người nghèo không biết chui vào đâu sống, chui vào đâu ăn cơm”.

Sài Gòn không có những thân phận, những con người như chị thì cũng chán chết. Tôi nói thiệt. Ấn tượng, đôi khi không phải là tòa nhà cao nhất, rực rỡ nhất, sang trọng nhất Sài Gòn. Đen đúa, thấp nhỏ, ăn mặc tuềnh toàng, và đầu trọc bóng, ăn nói bạt mạng, có khi cũng văng tục chửi thề, chạy xe một tay len lỏi giữa những cái hẻm nghèo, bờ rào bìm bìm giăng, con diều căng qua khung trời hẹp… cũng đâu phải là nỗi nhớ nhỏ nhoi.

Chị, không biết giờ tóc đã qua vai?!

Tin sáng và những Vân Tiên đã mất…

Nguyễn Ngọc Tư


Anh đang hồi phục, bác sỹ nói vậy. Những vết chém đã được băng bó, máu không chảy nữa, chỉ vài tuần là liền sẹo, vài tuần là anh sẽ ra viện về nhà. Giữa trang báo là chân dung anh, mắt mở bất động, gương mặt thất thần. Như thể trong anh vẫn còn vết thương sâu, như thể nó không ngừng tuôn máu.

Anh sẽ sống, dù chỗ đau đó làm anh không còn Vân Tiên nữa. Ông già nói vậy, sau khi uống cạn ly trà đá mà ông tự thưởng cho mình. Xấp báo trên rổ xe ông đã vơi đi nhanh, sáng nay ai ai cũng quan tâm theo dõi tình hình sức khỏe của mấy anh Vân Tiên vì can thiệp chuyện bất bình trên phố mà thọ nạn. Ông già có kiểu nghĩ không giống mấy tờ báo mà ông bán, báo nói đó là những Lục Vân Tiên dũng cảm, những tấm gương nghĩa hiệp, cần học hỏi và nhân rộng. Ông chỉ ngậm ngùi, họ là Vân Tiên mấy ngày trước đây thôi, giờ họ chỉ là những người bình thường, Vân Tiên mất rồi. Con không tin à, vậy chú hỏi, Vân Tiên của con sáng nay đâu?

Tôi ngậm viên đá nhỏ trong miệng, nghe từng cái lạnh nhỏ từng giọt buốt cả gót chân. Tôi lục lọi mà không thấy Vân Tiên của mình nữa. Vài ngày trước, khi đọc cái tin sáng bàng hoàng, tôi đã bảo lòng, sau này khi gặp kẻ ác trên đường, mình sẽ dửng dưng đi qua, mình chỉ níu chân chúng lại khi biết chắc rằng, cái khăn đi nắng đã che mất mặt mình, và sau lưng mình có hàng trăm người giúp sức. Trời ơi, chính cái ý nghĩ rúm ró đã khiến trong tôi không còn Vân Tiên. Chàng cương trực và dũng mãnh, nhưng chàng cũng nhạy cảm, khi phát hiện ra, tôi chọn sống hèn.

Nhưng cái người đàn ông băng trắng toát giữa trang hai của tờ nhật báo kia, làm thế nào mà ông già bán báo biết anh không còn Vân Tiên nữa. Ông già cười buồn, “Bói chơi thôi. Phải trải đời, có đau thì mới hiểu. Con sống ít quá…”. Tôi bực mình, hỏi vặn lại, con làm sao chú mới chịu là sống nhiều, con phải là cái anh trên báo này, chịu bị dí chém mới được à. Ông già bao dung nheo mắt, trả lời gọn lỏn, “ừ!”.

Nói rồi ông cọc cạch đạp xe đi, xấp báo run rẩy đằng trước, lưng cong khẳm trên con đường ròng ròng nắng. Người bạn ngồi cạnh tôi ngậm ngùi, “mười sáu năm trước, ông già này là thầy tôi…”. Không riêng mình anh, một nửa thị xã nhỏ nhắn này gọi ông già bằng thầy, một ông thầy rất dịu dàng, dạy giỏi, nhớ dai. Và do nhớ dai nên thầy biết cái vách quán cơm sườn của vợ anh hiệu trưởng chính là những mảnh mặt bàn trong mấy cái lớp học nghèo, đã bị cạy mất. Người ta bào gọt kỹ càng những chỗ tèm lem mực, nguệch ngoạc nét chữ học trò nhưng những tấm ván vẫn còn nguyên khổ ngang, dọc, và vết đinh nham nhở. Thầy nói chuyện này trong bữa họp, và nhận được mấy cái vỗ bàn giận dữ của anh hiệu trưởng. Đồng nghiệp xung quanh im lặng. Bạn bè can, “trời ơi, của trường là của nhà nước mà, hơi sức đâu ông lo…”. Thầy viết cái đơn tố cáo lên phòng, hai tháng sau nhận lại một quyết định nghỉ việc. Thầy kiến nghị lần hai, lần ba, lần nữa, rồi một bữa thầy nhận ra những lá đơn viết bằng những tâm huyết, phẩn uất của mình đang được quán ăn sáng của ông hiệu trưởng dùng để gói… bánh mì. Hoặc họ không gói bánh mì nhưng họ để cho thầy thấy họ gói bánh mì. Thầy bỏ cuộc. Mười mấy năm, mưu sinh trên đường, nắng gió đã làm phai đi cái danh xưng thầy giáo. Với tôi, ông là Ông Cà Rem, là ông Tàu Hủ, ông Đậu Nành, giờ thì ông Bán Báo.

Vân Tiên trong ông cũng không còn. Tôi nhớ ra điều đó khi ông già tàn tạ và chiếc xe tàn tạ đã rẽ vào một ngã đường khác. Trong mỗi người đều có một Vân Tiên, nhưng bằng cách nào đó, người ta đánh mất chàng, hay chàng đã bỏ đi, biệt tăm mù mịt. Tôi cúi nhìn vào cái ảnh anh nằm bên cái bằng khen, bên những bàn tay chìa ra tin cậy, bên những lời nhắn nhủ động viên. Tôi cảm giác tất cả những cái đó như liều thuốc giảm đau, hơi muộn màng. Khi nhát dao đầu tiên xé ngọt trên vai, thì anh đã không còn Vân Tiên.

Từ bây giờ, để đối đầu với cái ác, anh phải vượt lên nỗi ám ảnh đau đớn của da thịt bị đao kiếm xé rách. Còn một ám ảnh dai đẳng nữa, là sự thất vọng, tuyệt vọng khi nhận ra cái tốt sao mà nhỏ nhoi, lẻ loi, yếu đuối, cô đơn vậy. Công lý sao mà chậm chạp, nhợt nhạt vậy. Làm người tốt sao mà khốn khổ vậy, “ở hiền gặp lành”, phải chăng chỉ là sự lừa mị của mấy ông bà già xưa?!

Vân Tiên đã mất, liệu còn quay lại trong anh, trong tôi, trong ông già bán báo từng là thầy giáo?! Tôi tin vào một câu trong kịch “Bí mật vườn Lệ Chi” của tác gia Hoàng Hữu Đản “con thú có thể cắn chết con người nhưng vẫn là con thú. Con người mang lẽ phải có thể bị ám hại vì lẽ phải đó, nhưng bảo vệ lẽ phải mãi mãi là Thiên chức của con người”. Có thầy thuốc nào, giùm ơn băng bó lại vết thương trong suốt không thấy được bằng mắt thường kia, để cứu Vân Tiên. Chàng có thể bỏ đi, nhưng chàng không thể chết.

Duy đi chợ

Nguyễn Ngọc Tư


Câu chuyện của tôi xin được bắt đầu từ một sáng chợ đông, bắt đầu từ cái bóng người bé nhỏ đang lon ton luồn lách giữa các lối đi chật hẹp và tăm tối. Cậu bé mua ít thịt nạc, khoai tây, và một ít tép bạc, loại nhỏ. Cái máy ảnh tôi dõi theo đằng sau nó làm cả chợ rộn ràng, mấy chị bán cá quen cười, ghẹo “thằng nhỏ Duy này ngon quá ta, bữa nay được chụp hình lên báo …”. Rồi có chị ngoảnh lên, hỏi tôi, “nó đi chợ hồi ba bốn tuổi, bộ lạ lắm sao?!”.

Không, như bất cứ người nào từng lui tới cái chợ phường 1 này, tôi quen cái cảnh Duy ăn sáng một mình nơi góc chợ. Cái bàn ăn cao lé đé gần đến cổ Duy, lúc đó nó chưa đầy bốn tuổi. Dưới ghế, cạnh chân Duy là mấy cái túi nilong đựng cá, rau… Duy đi chợ sớm, trên đường đi làm, tôi ghé ngang qua, thường nhìn thấy Duy men theo vỉa hè, hai tay xách lặc lè, lách mình bên những tủ thuốc lá, những chiếc dù che nắng. Nó cao, gầy gò, mớ tóc vàng hoe chấp chới theo mỗi bước chân. Bóng nhỏ tăm tăm.

Đứa trẻ mang họ mẹ…

Bây giờ, Duy lên sáu, mỗi khi nhìn nó lắc xắc giữa những sạp rau cải, hình ảnh đơn giản đó bỗng truyền vào lòng tôi hàng trăm hình ảnh khác, dội lại âm ỉ những số phận. Tôi nhớ gương mặt mủm mỉm của đứa em họ, mười bảy tuổi hay vắng nhà, la cà bè bạn, tụm năm tụm ba ăn vặt ngoài đầu hẻm. Có một dạo thấy mình mập, tròn vo, nó đi mua vòng về lắc. Con nhỏ càng lắc vòng eo càng vượt trội. Chạy bộ cũng không ăn thua. Hôm tới phòng khám, nghe bảo mình mang thai, con nhỏ còn nự nự, hết chuyện nói giỡn rồi sao. Nhưng máy siêu âm thì không biết giỡn, nó báo thai nhi sáu tháng tuổi.



Nhân vật chính của bi kịch bắt đầu “phát biểu” bằng những cú quẫy đạp trong bụng một đứa trẻ khác, đang lo lắng cho cái tương lai mù mịt của mình. Thằng bạn trai rũ bỏ trách nhiệm, sau khi đem tới món tiền “để mai mốt đi sanh…”. Hai triệu đồng như một cái vẫy tay. Cha của cậu ấm này là một nhà thầu làm các công trình giao thông đình đám ở Cà Mau. Người ta nói rằng cứ chiều chiều tới các quán nhậu – ca cổ nổi tiếng trên đường Nguyễn Du thì gặp ông, và bất cứ cô tiếp viên nào cũng biết số điện thoại của vị khách hào phóng.

Thuận miệng thì kể chơi thôi, chuyện của Duy thì không liên quan đến người đàn ông ấy. Mặc dù đôi lúc tôi nghĩ, giá mà người ta được nhìn Duy hôm nó mới ra đời. Một đứa bé đẹp như thiên thần, như trong lịch Tết, đẹp đến ngạt thở. Đẹp đến nỗi tôi phải vịn cái bụng đã đội áo của mình, một cách tuyệt vọng, kêu thầm, “trời ơi, giá mà con mình đẹp được như vầy…”. Hôm tôi thăm, vài chị lạ mặt lượn lờ lại nhìn, đứng mê mẩn hồi lâu, sau ra sân thầm thì, rồi lại quay lại nhìn. Họ muốn xin đứa bé. Mẹ - mười - bảy hẹn ngày mai, “cho nó ngủ với con đêm nay nữa thôi…”. Sáng hôm sau thì số phận Duy được gắn chặt với con hẻm, cái chợ và người bà mù lòa, mẹ Duy giữ nó lại, dù mới mười bảy tuổi, dù vẫn còn dài những cuộc chơi.

Hai tháng sau con tôi ra đời, mẹ Duy đã lại lông bông với đám bạn ngoài đầu hẻm, ăn quà vặt, ném trả bọn con trai chọc ghẹo mình bằng mấy câu mắng mỏ vu vơ, ánh mắt nguýt dài. Gặp tôi mẹ Duy khoe, “thằng Duy biết lật rồi, bữa đó em đi chơi về, thấy nó lật mình ên, tức bụng khóc quá chừng…”. Những khi bận rộn, không tới nhà Duy, tôi nhìn con mình lớn lên và biết Duy cũng lớn lên. Tôi hay hình dung cảnh mẹ Duy đi chơi về và hết hồn hết vía thấy nó bò lủm củm dưới sàn, hay một bữa nào, bà mẹ trẻ nhảy cẩng lên mừng khi thấy con lững đững đi ra cửa đón. Đôi lúc thấy Duy mặc bộ đồ thun rẻ tiền ngắn ngủn, tôi tự hỏi có phải bộ này mẹ Duy mua vào một hôm ngẫu hứng nào, khi mang về mới hay đứa con trai đã cao?!

Cái ý nghĩ sau này lớn lên, Duy sẽ rất buồn khi nhìn thấy hình ảnh mình, lát cắt cuộc đời mình ghi lại trong tờ báo cũ, khiến tôi vài lần bỏ dỡ bài viết này. Nhưng rồi tôi lại tiếp tục, vì mảng ký ức tuổi thơ của Duy mà tôi trân trọng lưu giữ hôm nay, đáng tự hào biết chừng nào.



Nhìn đời cho cả hai người…

Sáu tuổi, có hai người mẹ Duy lần lượt dắt về vào bảo nó gọi cha. Tôi hỏi Duy, thích cha không, Duy lắc đầu, “con kêu nó mà nó không trả lời”. Xen giữa những cuộc đi mãi miết, làm đủ thứ nghề lặt vặt như làm móng, làm nhân viên matxa, có dạo mẹ Duy mướn nhà ở chung với anh thợ hớt tóc nào đó, rồi hai đứa bỏ nhau, lại yêu anh chàng khác, giờ thì lên Cần Thơ kiếm sống. Duy sống với bà ngoại, tôi gọi bằng dì. Dì mù, do biến chứng của căn bệnh thủy đậu lúc nhỏ. Cô độc, không chồng, nhận mẹ Duy về nuôi để hủ hỉ lúc về già, dì đã không ngờ đến những cuộc đi. Nhưng Duy còn ở lại, nó an ủi dì theo cách của nó, một tiếng khóc đòi ăn, một cái quần sũng nước đái, một cái nhảy mũi... Dì lật bật xoa dầu, thay quần, giặt tả, rồi day qua khuấy bột. Dì bận rộn lắm, bận như cái hồi nuôi mẹ nó. Dì biết nó gầy bằng những ngón tay, nhận ra tiếng khóc nó giữa đám trẻ chơi đằng xóm bằng đôi tai tinh nhạy, gói nó vào lòng khi đêm xuống.

Cho đến khi Duy trở thành một gã đàn ông đĩnh đạc cầm tiền tự ăn sáng và đi chợ. Lúc đầu, Duy còn đi theo mấy dì hàng xóm, sau thì tự đi. Duy muốn ăn gì, thì mua cả bà cháu cùng ăn. Một tháng có sáu ngày bà ngoại ăn chay, Duy cũng ăn chay, rau dưa qua bữa. Sáu tuổi, Duy biết nấu cơm, làm cá, rửa chén, hâm nóng thức ăn bà ngoại nấu, lúc đói, trèo lên bếp nấu mì gói. Có khi đang chơi vui, bỗng dưng bỏ đi tắm. Chẳng ai bảo, tự mình xoay trở, mãnh liệt và hồn nhiên như cỏ mọc trong vườn.

Cuối năm vừa rồi, bà cháu Duy dọn đi khỏi con hẻm nhỏ đến một nhà khác cũng gần đó. Bà ngoại làm quen với nơi ở mới bằng đôi mắt của Duy, nó dắt ngoại đi khắp cái nơi xa lạ mà cánh cửa, cái bậc thềm, bộ bàn ghế… đều là bẫy đối với người khiếm thị. Phơi đồ chỉ Duy mới trèo lên gác được. Những lúc rảnh rỗi Duy hay ra trước cửa nhìn bên đường, mặt mông lung như con hổ nhớ rừng, như một gã giang hồ nhớ những chuyến đi. Mà, Duy là giang hồ thứ thiệt rồi còn gì, những con hẻm lẩn khuất, chằng chịt sâu hút quanh đây Duy đã đi chơi khắp. Gã có nhiều bạn bè, gã giang nắng chửi thề. Kỳ lạ, nắng chỉ làm vàng thêm tóc, nhưng da vẫn trắng như con gái. Và bất chấp những thiệt thòi, cái miệng nhỏ với đôi môi đỏ vẫn hay cười, mỗi lúc gọi Duy ơi, gã ngước nhìn, mắt đen tròn, trong vắt và sâu thẳm.



Xóm hẻm, và cả cái chợ thực phẩm nhỏ giờ cách Duy một con đường lúc nào cũng gầm gừ xe cộ. Duy phải nhờ người lớn dắt qua. Nhiều lần, đưa Duy qua đường, nhưng chưa bước lên vỉa hè, Duy đã xé tay tôi ra lủi thủi chạy vào trong chợ. Vài lần, tôi chở con trai tôi và Duy đi chơi loanh quanh ngoài đường, nó ngồi phía sau, phải nhắc rất lâu nó mới chịu vòng tay ôm đầy ngượng ngập. Tôi cũng ngượng ngập, bởi cái bàn tay nhỏ nhắn này, tôi đã từng nắm lấy rồi lại buông ra, khi Duy lên hai lên ba. Nhưng từ bây giờ, tôi sẽ tập nắm tay Duy, hy vọng đến giữa mùa thu năm nay, Duy sẽ cho tôi một cơ hội được dắt nó vào tận cửa lớp trao cho cô giáo, như hàng trăm đứa trẻ khác có người thân đưa đi trong ngày tựu trường…


“Cũng đành bứt sợi dây câu…”

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư


Đường từ Rạch Giá vào nhà Mai xanh cây cỏ. Những cơn mưa cuối mùa còn đọng thành những cái vũng trên con đường xóm. Những quán tạp hóa nhỏ. Một tiệm thu mua phế liệu, ve chai lông vịt tanh nồng. Người phụ nữ đang đốn trúc bên hông nhà ngẩng lên chỉ đường khi chúng tôi hỏi nhà Huỳnh Mai, “đằng đó, chút xíu nữa là tới rồi”. Mũi dao phay lia về phía có căn nhà lụp xụp, thấp và tối.

Sân cũng thấp, có vẻ ngập nước suốt mùa mưa, thấp thoáng rêu mọc theo giề củi mục ướt sũng. Mặt đất tái nhợt, bủng beo. Người trong nhà xúm xít khi khách đến. Ngoại Mai gầy, khóc quắt queo ngoài hàng ba, với tôi. Kể rằng, “con nhỏ có hiếu lắm, nó nói lấy chồng để kiếm ít tiền mua vài công đất, “chớ cha già rồi đâu có đi đâm ếch kiếm sống được nữa…” (Tôi gạch chân mấy chữ lấy chồng để kiếm ít tiền) Kéo chéo khăn lau nước mắt, bà ngoại lại kể, rối bời. Tôi tự chắp vá không gian và thời gian, “con nhỏ đi mần công nhân được hai năm. Mùa khô đi cắt lúa mướn. Bữa lên máy bay theo chồng ngón tay út còn bó vải do cắt lúa bị đứt…”.

Câu chuyện đứt quãng, trong nhà vọng ra tiếng mẹ Mai, ấm ức, “ai mà ngờ thằng đó ác nhơn vậy, lúc tới đây nó tỏ ra cưng con Mai lắm, hun hít, kéo con nhỏ ngồi trong lòng, ai mà ngờ…”. Giọng mẹ Mai cao quá, át đi tiếng của bà ngoại. Bạn tôi ngồi xem lại album ảnh cưới, vài tấm hình người chồng đã bị cắt lìa, một mình Mai, cánh tay choàng lấy trống rỗng. Một tấm hình Mai chụp chung với các em mình. Nhiều hình ảnh hiện ra trên cái nền âm thanh là giọng nói lúc chì chiết, lúc u uẩn, lúc thê thiết của mẹ Mai. Cùng với tiếng phụ họa của dì, và vài chị nách con từ đằng xóm lại.

Tôi ra đằng sau, em gái Mai đang chụm lửa nồi canh suông khoai rạng. Gian bếp nguệch ngọac vài bó củi, cái tủ chén xiêu xiêu, hai cái cà ràng… Sàn lãn có một rổ ruột ốc bươu vàng. Hỏi, ốc để làm gì, em đáp, dạ cho cá trê lai ăn. Hồi chế em chết, người ta cho tiền, ba em mua cá về nuôi. Mượn đất bà ngoại. Hỏi người ta cho tiền vậy, sao không mua đất? Trả lời, bên kia người ta hứa cất nhà, cho đất, đang chờ… Em trai Mai dúi vào tay tôi ly trà đá đường, tôi hỏi, em còn học không, Tâm cười, em bỏ học lâu rồi. Cắm câu. Cỡ chạng vạng đi cắm, mười giờ đêm chống xuồng đi thăm một lần, sáng nhổ, một đêm bán được cũng hai ba chục ngàn. Cũng có khi đi đâm ếch, bắt chuột. Gì có tiền là làm.

Mẹ Mai đã thôi nói, đang cắm cúi cùng ba Mai viết biên nhận nhận số tiền từ một tổ chức ở Hàn Quốc nhờ chúng tôi mang tới trao tặng. Tôi đang rảo quanh nhà, mắt tôi đậu ở cành mai giả trên bàn, bà ngoại nói, con nhỏ làm trước khi đi, nó nói nó tên Mai, nên làm nhánh mai này để ở nhà nhìn mai mà nhớ nó. Cái rèm kia cũng vậy… Bà ngoại nói chính tay Mai thêu cái rèm đó, có đôi chim én bay lên trên nền những bông mai rơi lả tả.

- Con nhỏ nói vì nó tên Mai nên may mắn có chồng ngoại quốc…

Cô gái, và những người thân của mình không phân biệt được giữa mai và may. Không phân biệt được lấy chồng kiếm tiền và lấy chồng vì yêu. Như không phân biệt được một người để nương tựa và kẻ sát nhân. Cũng lầm lẫn nhiều giữa bản thân và một món hàng.

Ngộ nhận, lẫn lộn nhập nhòa cho đến khi Mai chết. Bàn thờ đơn sơ. Mai mắt xếch như đang cười. Cạnh đó là ti vi và đầu đọc DVD mới. Mẹ Mai nói, “con Mai hồi còn sống ước sắm cho cha mẹ coi cải lương, tụi tui mua để vong con nhỏ vui…”

Cái gì chứng minh một linh hồn biết vui khi thấy nhà mình có những thứ mua được bằng chính cái chết của mình? Chữ của tôi bắt đầu đổ tháo.

Nắng đỏ au báo hiệu sẽ có mưa chiều. Chúng tôi ra về. Bỏ lại sau lưng căn nhà có quá nhiều thứ bất an, hoặc nó không bất an nhưng tự tôi thấy vậy. Của nước mắt thấm trên chéo khăn bà ngoại và sự hí hửng của chị hàng xóm “trời, bao nhiêu tiền đô đó mà đổi được bốn chục triệu lận hả? Chuyến này vô mánh nghen, sắm đồ đã luôn…”. Của ngôi nhà ngó thấu trời sao bọc lấy giàn ti vi, đầu đĩa mới. Của khói hương bay lên từ bàn thờ cô dâu chết trẻ và câu nói của người dì “tại số con Mai, chứ cả xóm này con gái lấy chồng Hàn cũng nhiều, mà ai cũng sung sướng…”.

Vết thương từ một cái chết có vẻ mau liền da bởi đã được chữa trị bằng tiền, nhiều tiền, được rịt bằng bã thuốc cầm máu mang tên trừng phạt, kẻ sát nhân chịu án 12 năm tù, được che đậy bằng thứ thuốc chống đau “cái số phần nó vậy…”. Và năm ba cái chết cũng chẳng ngăn cản được những cuộc đi, cuộc bán mua, cuộc trôi giạt của hàng trăm hàng ngàn cô gái trên xứ sở này. “Cũng đành bứt sợi dây câu. Ra đi để lại một châu thổ buồn”, ông Cao Thoại Châu, hai câu đó ông làm cho mình hay cho những phận đời lưu lạc?!

Biết công lý được thực thi bên kia biên giới, tôi ngồi chép lại những dòng trong sổ tay, tôi đã định chỉ kể và kể, không để tình cảm của chính mình chen vào. Rốt cuộc, tôi đã không làm được.


Người dưng…

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư


Đi Sài Gòn lần nào tôi cũng chui vào cái nhà khách ở cuối đường Sương. Ở đó, tôi thuộc lòng phòng nào thì cái điều khiển máy lạnh hư, phòng nào nút nguồn ti vi rơi mất, phòng nào quạt hút kêu như… máy chà gạo, và cầm chìa khóa mang dãy số 3xx, tôi biết sẽ phải lếch thếch ra phòng tắm dùng chung đằng cuối dãy. Những tối ngồi với bạn bè, nửa chừng phải nhấp nhổm ra về vì nhà khách đóng cửa sớm. Bạn kinh ngạc với chuyện “giới nghiêm” lúc mười một giờ trên đất Sài Gòn, và đặt câu hỏi, “sao em cứ phải ở đó?”.

Khá nhiều chuyện chính tôi cũng cần lời giải thích từ… tôi. Phải có một lý do hay ho lắm, người ta mới chấp nhận việc rúc vào phòng khi cơn buồn ngủ chưa đến, ti vi nín thít trong khi máy lạnh, quạt gió, kim đồng hồ thì kêu như… kèn. Vì con đường Sương quá đẹp, với cây cao, biệt thự, cao ốc, khách sạn và những quán cóc nhỏ vỉa hè, với những nhân viên công ty FPT váy áo ra vào và những đứa trẻ đánh giày hôi nắng; với cái ồn ã sôi lên ban ngày và xao xác, yên bình của sớm mai? Một Sài Gòn duy nhất mà tôi biết. Hay vì mỗi lần tôi xốc ba lô bước vào, cô nhân viên nhà khách lại cười, và hỏi, “Mới lên hả? Chị chuyến xe nào mà sớm vậy?”. Cảm giác, sau tám giờ đồng hồ đằng đẵng trên đường, tôi lại về nhà mình, gặp em gái mình.

Rốt cuộc, tôi chỉ có câu nói, nụ cười của một người dưng để giải thích cho việc gắn bó lâu với nhà khách “made in quốc doanh” này. Ít ra thì cũng thuyết phục được mình, một đứa chẳng mấy khi duy mỹ, duy lý mà khăng khăng với một chữ tình. Bạn bè chắc cũng có người ôm bụng cười, không phải ai cũng chịu chờ đợi chị trực quầy tiếp tân đang ướt sũng ngoài… vườn rau, chấp nhận những mảng trần nhà loang ố nước mưa, hay phải đi cầu thang bộ lên tầng 5, 6...

Tôi chấp nhận, chỉ để có những người dưng. Dung mạo không quá đẹp, ăn mặc giản dị, hơi quê mùa, đôi khi gặp vài người đã chớm già. Như anh bảo vệ ở nhà khách Ủy ban thị xã Hội An mà đôi lần tôi ghé trọ. Một kiểu kiến trúc công sở bình thường và xanh xao như cơ quan hội phụ nữ hay văn nghệ. Đêm xuống, càng khó nhận biết đây là một chỗ có thể an ủi đôi chân khi khu nhà lùi sâu trong một khoảng sân tối và lặng lẽ. Tôi có bữa ghé vào, anh đang bưng tô cơm ăn ngỏn ngoẻn, hỏi ngỏn ngoẻn, “cô đi xa vậy chắc là vất vả lắm…?’ bằng cái giọng Quảng đặc sệt. Buổi tối đi chơi phố về thấy anh giăng mùng dưới đất, đằng trước quầy tiếp tân, thò đầu ra anh cười nhẹ nhỏm, “khuya quá, tôi lo cô lạc đường”. Lúc thanh toán tiền phòng, anh rầy, “con gái mà giữ tiền bạc chểnh mảng quá…”. Tôi ngượng ngịu cười, cúi nhặt mấy tờ giấy bạc rơi, thấy thiếu một cái cốc đầu nữa, thì người đàn ông xa lạ này giống y chang anh trai tôi.

Chẳng biết gì nhau ngoài trơ trụi cái tên, sáng sau thì anh ra ca trực, về nhà, anh ở đâu đó trong Hội An này. Tôi thì khoác ba lô lên đường. Mà, đôi lúc tôi nghĩ, có thể cả đời này, chúng tôi sẽ chẳng bao giờ gặp nhau lần nữa, vì cách trở và bất trắc. Nhưng điều đó cũng chẳng ngăn người nói vài câu tử tế với người.

Đôi khi nghĩ mình đã gặp may, vì ghé qua những chỗ trọ đơn giản đó, tôi chưa lần nào gặp một chị cứ say sưa ngồi giũa móng tay, hay rưng rức dán mắt vào cái phim nào đó trên ti vi, hay mãi mê tán chuyện với bạn trong quầy reception… mà không ngó ngàng gì tới khách. Những người tôi đã gặp luôn biết ngẩng lên và mỉm cười, đôi khi nói vài câu bỗ bã, làm trùng trình lòng đứa giang hồ vặt.

Mà chủ nhân của nụ cười, câu nói đôi khi chẳng biết mình đã làm điều kỳ diệu. Ký ức, nhiều lúc tinh tế chỉ một hơi thở nhẹ sau gáy, chỉ đầu ngón tay chạm khẽ của một chàng trai cùng đứng trú mưa… Đông, bạn tôi, cũng là đứa lang thang chuyên nghiệp, hay du lịch ta bà khắp thế giới. Có lần về tới cửa khẩu Việt Nam, làm thủ tục nhập cảnh, anh cán bộ hải quan bảo, “Vào đi, Đông!”. Cảm động không chịu được, Đông kể lại. Gặp tôi, biết đâu tôi còn ứa nước mắt, không chừng.

Tôi và Đông, không vì thiếu thốn tình thương, không vì cái cảm giác lạc lõng khi xa nhà mà ngơ ngẩn trước những người dưng. Tôi nhìn thấy ở đám đông xa lạ chất người. Tôi đã đổi những phòng ngủ tiện nghi, những gian sảnh sáng loáng, những cái cúi chào lịch thiệp… để đôi khi còn được nhìn thấy lại.

Với tôi, đổi gì cũng đáng hết, khi mà cuộc sống ngày càng khắc nghiệt và lạnh lẽo, vô chừng…

Viengxay - ngày vắng mặt trời

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư

Dốc hết giọt can đảm cuối cùng, tranh đấu tới cùng mới tung được tấm chăn ra, hé cửa bước vào Viengxay ủ ê, đục mờ trong sương giá. Cái màu trời tưởng mới hừng đông, nên ngủ hoài, chui rúc hoài trong chăn, mở mắt vẫn sương hiu hắt, mụ mị trên núi, trên cây, trên những mái nhà gỗ im lìm sau hàng rào tre thưa xiêu xiêu.



Người Viengxay nói ba tuần rồi không thấy mặt trời. Dòng sông mùa đông đưa cái rét chảy len lỏi vào từng ngã đường heo hút, quanh co trong thung lũng. Rét còng cả lưng. Đi hết con dốc bỗng bớt lạnh, không biết vì mệt, vì cơ thể đã tự điều chỉnh được, hay vì đi ngang qua những cô bé áo đỏ rực, má đỏ rực, chân ríu trong váy, thẹn thùng chào khách, “Sabaidee !” ?!

Cảm giác nắng đâu đây với tất cả vẻ lung linh nồng ấm và rực rỡ của nó. Ngay cả không có mặt trời thì vẫn cứ nắng. Trên môi của những thiếu nữ, những cụ già, em bé, từng đóa nắng xòe ra. Đi sau nó là câu chào và cái nhìn lấp lánh của một khuôn mặt lấp lánh rựng lên dưới cái rét câm lặng. Cái nhìn thẳng tắp, nụ cười cởi mở đậm dấu trong mắt người. Không phải cái kiểu hững hờ, mặt ngó đâu đó mông lung chào cho có mà tôi vẫn thường gặp xưa rày.



Cười là một cách nói. Trong chợ, cười nghĩa là “Mua giúp tôi ít măng không ?”, cười nghĩa là “xôi còn nóng hổi đây nè”, cười nghĩa là, “cá này tôi bán rẻ thôi mà…”. Không cần chèo kéo chào mời, chợ thong thả đi vào chiều. Trên đường, cười nghĩa là “bữa nay lạnh quá”, cười nghĩa là “mình xấu lắm, đừng chụp hình”, hay “ở đây có lửa, mời ngồi vào cho ấm”…

Tôi không còn mong ngóng mặt trời, càng đi càng thấy ấm, càng thấy nhiều đốm nắng bên đường. Nắng thay đổi theo từng bước chân. Mới thấy cái nắng ban mai của những vạt hoa cải bất chấp thời tiết khắc nghiệt rạng rỡ trong những vuông sân thì cái nắng đỏ ánh ỏi sau mưa của đào phai lại hiện ra. Có rất nhiều đào trong những khu vườn, bên triền núi ra vẻ bâng quơ, hoang dại, như chẳng ai trồng tưới bao giờ, như chẳng hay là mình đẹp. Và hoa trạng nguyên mọc xen trong vạt cỏ úa cũng đỏ chấp chới bất chấp mấy lớp sương giá đắp.



Nhỏ như một phường của Sài Gòn, nhưng đi ba ngày không hết Viengxay. Lối nào cũng ngoằn ngoèo, cũng dẫn tới những ngôi nhà sàn nhỏ, những vuông sân thắp hoa mận, hoa lựu, hoa đào… Lối nào cũng ngang qua những bầy trẻ con chạy giỡn (con nít Viengxay chắc hiền lành từ trong bụng mẹ, sực nhớ lang thang mấy ngày trời không bắt gặp tiếng khóc nào), mặt mũi lem luốc mà cười trong veo… Rẽ vào đâu cũng nhiều hoa cỏ dại, nhiều bếp lửa đốt bên đường, vì Viengxay biết khách bộ hành run rẩy nên sớt ấm cho ?! Ngồi lại, hơ tay trên ngọn khói, ăn mấy củ khoai nướng nóng ran cả lòng, ngó lũ gà con nằm sưởi cạnh, kêu chiu chít. Bình yên đến nỗi thấy kỳ cục nếu tim mình rộn lên khi có nụ cười quá đẹp ngang qua. Cậu nhóc đi cùng cứ lẩm bẩm câu thơ học hồi phổ thông, “cười như mùa thu tỏa nắng…”.

Cũng chẳng nghĩ được câu thơ, câu văn nào “đắt” hơn để diễn tả nụ cười Viengxay giữa cái rét nhức nhối này. Cũng chẳng nhớ thêm một câu thơ nào khác để diễn tả vẻ cởi mở mà không vồ vập, hiếu khách mà từ tốn, chừng mực. Qua một hẻm núi, có đám trẻ chơi bắn nạng thun, chụp hình chúng xong, một đứa xòe tay ra. Tôi giật mình, một chút chua xót, một chút ngậm ngùi. Nhưng… thằng nhỏ chỉ muốn mời khách xa một trái cây mọc rày bên núi, nhỏ xíu, vừa chát vừa chua.

Cái bàn tay lấm lem nhỏ xíu đó không biết xin tiền. Mà tôi đã gặp đâu đó trên đất nước mình. Chân của trẻ Viengxay cũng trần, áo cũng rách, đôi ba chỗ thịt da tím tái, nhưng năm ngón tay không ra giá “5 USD”.

Nhận ra không phải vì những nụ cười, và câu chào có âm cuối rất ngân nga “Sa – bai – đi…i…i...” (mà phiên âm ra tiếng Việt cũng… buồn : xa bay đi” mà tôi lại cảm động trước Viengxay. Ở cái thung lũng lặng lẽ này, tôi gặp lại tôi, gặp lại những vùng miền trên đất nước tôi của thời đã mất. Hèn gì mà cảm giác thân thiết, dịu dàng, ấm áp. Hèn gì sưởi cái cười mà cóng róng đi qua được rét.

Tôi rời Viengxay đúng hôm mặt trời quay lại. Những hàng rào bên đường trở nên sặc sỡ với váy áo, chăn màn hong nắng. Vài người phụ nữ Lào tắm gội xong ra sân phơi tóc. Chào nhau bỗng thấy nắng vẫn nhợt hơn những nụ cười. Không biết khi mùa hè trở lại, thì nắng trời có rực và ấm hơn nắng trên môi người không ?! Và không biết khi tôi trở lại, bàn tay xòe của những em bé xinh đẹp Viengxay vẫn những ngón tay trong veo, lung linh hoa trái ?!



________________________________________

* Huyện Viengxay thuộc tỉnh Houaphan, được xem là cái nôi, căn cứ địa của Pathet Lào với địa hình hẻo lánh cùng với khoảng 500 hang động tự nhiên ẩn trong các dãy núi. Những năm chiến tranh ác liệt, Viengxay bị cày nát dưới mưa bom, quân dân Lào sống trong các hang động, nhiều tài liệu ghi, có lúc lên đến 23.000 người. Cách Xieng Khouang 370km đường đèo dốc ngoằn ngoèo. Cách cửa khẩu Na Mèo (Thanh Hóa) 56km. Hàng ngày, tầm 10h sáng, có xe đò Viengxay tới cửa khẩu đón khách. Nên mang theo… khẩu trang, nếu không muốn mũi thành hai… ống khói, vì đây là xe thùng trống trải, lại phải è ạch đi đường núi.

*Bạn chỉ cần học câu chào và lời cảm ơn của người Lào thì có thể sống khỏe một tuần. Sau đó thì… chắc phải học thêm bởi diễn hoài cũng… mỏi. Có trường học dạy tiếng Anh nhưng thường thấy người dân… cười mà không nói tiếng Anh (tất nhiên, mấy anh hướng dẫn viên thì ngon lành rồi). Túng quá, bạn cứ nói tiếng… Việt, vì khá nhiều người Viengxay đã từng học tập tại Việt Nam. Nếu bạn đi ngang một sân bóng chuyền và gặp người hát “hết rau rồi em có lấy măng không” trước khi giao bóng thì cho tôi gởi lời thăm. Nhắn rằng tôi nhớ một đêm mùa đông ngồi uống rượu ca hát với bạn, cười nôn khi nghe bạn nói “nhà quê bỏ mẹ” rất ngôn ngữ vỉa hè, ngậm ngùi nghe bạn kể về người con gái Việt, “người ta đã có chồng rồi, mình phải giữ cho người ta yên ấm…’”. Nhớ rượu Viengxay cay ứa nước mắt ra…

Nón và người

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư


Tôi nhớ, khi ngồi ở cái quán cafe trong một tối Sài Gòn nóng nực, chúng ta nói tới những cái nón. Không phải nón vải có viền đỏ dơ èm của tôi, hay nón lưỡi trai mà bạn hay dùng để che mớ tóc hoang dã, bù xù của mình. Chúng ta nói về những cái nón ai đó cố đội cho chúng ta.

Đó là những cái nón đẹp, và mỗi loại nón, có cả một hiệp hội Ai - Ai - Đó đội rồi, như một thứ đồng phục của nhóm. Như để tìm nhau, như sợ lạc nhau. Khi tự giới thiệu về mình, hay trong cách bày tỏ quan điểm về một sự kiện, Ai Đó khéo léo cho thấy, tôi thuộc nhóm đội nón tai bèo (hay nón lá, nón cao bồi rộng vành kiểu cao bồi…). Và với loại nón mà Ai Đó đang có, ngay lập tức điều chỉnh ánh nhìn của đám đông, một số thân thiện làm quen, một số bĩu môi, nguýt dài quay đi, số khác nữa vô cảm lướt qua. Cái nón, như một phương cách nhanh nhất để thấu thị tấm lòng nhau giữa xã hội bộn bề.

Mỗi người được bảo đảm quyền đội nón, nhưng bi kịch cho chúng ta, hai đứa đen đúa trong quán café nhạc jazz tối ấy, là chúng ta không muốn nón. Chúng ta thú vị, thấy mới mẻ, thấy xốn xang trước những cái nón nhiều màu sắc lung linh giữa con đường mà chừng hai mươi năm trước nón chỉ có bàng bạc một màu. Nhưng đó là khi ở trên đầu Ai Đó, chúng ta không thích nó ở trên đầu mình. Bởi chúng ta không cần nón. Tóc chúng ta cần tự do, da đầu chúng ta cần thở. Nhưng hiệp hội nón lá, hay làn sóng nón cối không thích vậy, họ buộc chúng ta phải chọn một trong những cái nón đó. Họ sợ cô đơn, sợ cái nhỏ nhoi của thân phận người trước cuộc đời rối rắm. Họ biết sức mạnh của đám đông, sức mạnh khủng khiếp đã làm nên bao nhiêu cuộc cách mạng lớn. Một bữa, họ nhận chúng ta thuộc về họ, hiệp hội Nón Lá, bởi vì chúng ta viết gì đó, nói gì đó thấm đẫm tư tưởng Nón Lá, xót xa những bi kịch Nón Lá. Trong lúc chúng ta vắt óc coi mình thực sự có ý đội nón lá hay không thì làn sóng nón cối kêu lên, thằng nhỏ ấy và con bé đấy là người của chúng tôi, lý do họ đưa ra làm chúng ta ngỡ ngàng, vì chúng ta bị kẻ thù của họ tát một cái. Lý luận theo kiểu vầy, A từng đánh B, nên C bị A đánh nghĩa là B với C là một.

Và chúng ta lại mất nhiều thời gian để nhận ra, nón cối cũng chẳng để làm gì giữa thời buổi này. Mắc công giữ. Mắc công thấp thỏm sợ mất. Mắc công những Ai Ai Đó thuộc hiệp hội các loại nón khác ghét bỏ, lườm nguýt, tấn công mình. Mà đời này quá chừng buồn, tìm thêm người thương chứ ai lại mong bị ghét. Cộng thêm một hệ lụy khác, là mất tự do trong cái nón của mình, cả Hội Nón Cối, được xem là những người tiên phong cho việc tìm kiếm tự do đang chẳng tự do tí nào. Khi anh quay cuồng nghĩ về tự do thì đầu óc anh đâu có tự do bởi đang bị buộc chân ăn quẩn trong hai chữ “tự do” mất rồi.

Nhưng cái điều quan trọng nhất, là khi chúng ta thốt ra một câu được xem là “có vấn đề”, hoàn toàn vì hồn nhiên, vì nghĩ sao nói vậy, vô ưu vô lo. Rủi thay, nó trùng với tư tưởng của hiệp hội nón nào đó, chúng ta được tung hô, được Ai Ai Đó rùng rùng chạy lại, đội nón cho ta. Họ cần thêm người, thêm sức mạnh, thêm tự tin. Họ thấy khó chịu vì hội nón đối lập kia đông người hơn bên mình, quyền lực hơn bên mình, tiếng nói của họ có trọng lượng hơn bên mình. Từ chối một xã hội đồng phục để tìm kiếm một xã hội đồng phục khác ?!

Chúng ta buộc phải chọn cô đơn, vì không thể ghi trong lý lịch đời mình một câu buồn thảm thiết, “trước khi là một cái giá treo nón tôi từng làm con người”. Vì không nỡ nhìn cái cảnh Ai Ai Đó đem nón của nhóm mình đến ta bằng một niềm hy vọng, yêu thương chia sẻ, để một ngày thất vọng não nề, trời đất ơi, sao không nói như vầy mà lại nói như vậy.

Nói như vầy mà không nói như vậy là chúng ta nghĩ như vầy chứ không nghĩ như vậy, vì chúng ta đang ở trong cái tâm thế không có nón nào trên đầu.

Nhưng có phải chính cái ý nghĩ đó của chúng ta đang tạo ra một thứ nón mới, trong suốt, ta đang đội nó mà có vẻ như không đội. Chỉ khi nào ta không còn nhìn thấy những cái nón, không có ý nghĩ nào, hay không có khái niệm về nón nữa, lúc đó, ta thực sự tự do.

Liệu lúc đó, ta còn bạn bè không, khi vài người đã rời đi, chỉ vì bạn cảm thấy ta đang đội loại nón mà bạn không thích, hay bắt gặp ta uống nước mía ở vỉa hè với nhóm người sùng bái nón nào đó. Ngày xửa ngày xưa, chúng ta thương ai đó, nhớ ai đó vì chúng ta thấy anh chàng này (hay cô nàng này) hay hay, dễ thương, chơi được. Ngày xửa ngày xưa, chúng ta nhìn nhau bằng phần NGƯỜI, trước hết.

Sách cũ. Và người...

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư



Mùa thu 1998, Thương tặng cháu Nguyễn…
Hà Nội, Bản tặng Nguyễn…
Láng Trung, gửi Nguyễn chút vu vơ thơ đầu tay…

Tôi gặp lại những lời đề tặng này khi chuyển tủ sách từ cơ quan về nhà. Chúng khiến cho công việc tưởng như đơn giản chỉ là bỏ sách vào mấy cái bao và chất những cái bao ấy lên một chiếc xe lôi trở nên không đơn giản. Việc tưởng một ngày dài ra cả tháng. Tưởng vẫn đang đứng với đống sách bụi bặm lấm lem hóa ra mình quay lại những nơi rất xa.

Hội trường với những khoảng hành lang dài. Nhà khách với phòng ăn, và gian sảnh rộng. Hay trên những chuyến xe bus đưa đám đại biểu văn nhân qua lại hai nơi đó. Có người lụi hụi đặt cuốn sách trên đùi, nguệch ngoạc ký tặng và trao cho tôi. Mười năm, tôi vẫn nhớ bó nắng chiều chiếu xiên qua gương mặt lung linh vẻ tự hào pha chút bẻn lẻn, hồ hởi pha chút ngập ngừng, rạng rỡ lẫn chút bùi ngùi...

Mười năm, ký ức gương mặt người bị phủ sương mù, nếu có ảnh tác giả ở bìa thì cảm giác quen cũng mờ nhạt, nhưng những cảm xúc của bạn khi tặng sách thì tôi vẫn nhớ. Như một nỗi ám ảnh. Sao mà họ giống nhau đến kỳ lạ ở cái hồn nhiên lại hơi run rẩy, thanh thản mà cũng lúng túng... Tôi nhớ cả cái cách mình ấp úng nhận chúng (mà không có gì cho đi), lật vài trang vờ như lơ đãng, cố cho những ngón tay trôi qua nhanh những trang đầu, với vài dòng lẻ loi, “Tri ân người vợ thương khó đã giúp tôi hoàn thành tập thơ này”, hay “Cảm ơn Hội cựu chiến binh, Chi bộ xã X đã nhiệt tình ủng hộ cuốn sách…”. Cảm giác ngậm ngùi lan ra từng chân tóc, và cái âm thanh vỡ ra của ảo tưởng về nghề bắt đầu rập rờn trên sống lưng, không đợi đến trang cuối cùng, ở những dòng cuối cùng, “in 500 (hay 300) cuốn…”.

Ngồi giũ bụi mớ sách cũ, thấy nỗi ngậm ngùi cũ rơi ra, những bạn bè chung chuyến xe, chung phòng nghỉ, hay cùng một bàn ăn khi đó giờ thỉnh thoảng lại gặp trên những tờ tạp chí. Biết họ đang lần đi tới cùng mình, lòng cũng bớt hoang mang. Nhưng có quá nhiều cái tên lâu rồi không thấy lại, tự hỏi họ đi đâu về đâu ?! Họ đã bình an từ bỏ văn chương thơ phú mịt mù, chuyên chú làm thầy giáo, kỹ sư, giám đốc, thợ ảnh, thợ cấy… hay vẫn còn lụi hụi, cặm cụi đi trên con đường bất tận đó, xiêu vẹo xơ rơ vì bị niềm đam mê vắt kiệt từng ý nghĩ, từng hơi thở?! Những tiểu thuyết, bài thơ đã là giấc mơ quá vãng hay vẫn còn sức mạnh ma mị níu chân ai?! Người vợ của thi nhân còn gánh rau ra chợ bán để dành dụm tiền in sách cho chồng?

Không có tiếng vọng nào. Chỉ tôi đứng trước tủ sách – gia tài của mình, đặt những câu hỏi vu vơ và ngơ ngẩn. Tần ngần giở ra, tần ngần đọc lại, tần ngần nghĩ ngợi. Một mình với sách, mà không có cảm giác trống. Có quá nhiều câu chuyện nằm ngoài câu chuyện mà cuốn sách chuyển tải. Của một tối cô bạn cùng phòng lí nhí hỏi, “Ba lô Nguyễn còn chỗ không, mình muốn… tặng bạn cuốn sách mới in…”. Của buổi trưa chộn rộn trong nhà ăn, người tặng sách đã làm rơi sách vào nồi canh, một góc giấy giờ vẫn còn ố loang. Của sáng trời mưa xiên vào sảnh, bạn viết lời đề tặng đến đâu nước làm nhòe lâm thâm đến đó. Của chuyến xe bus lượn qua góc đường, đến nỗi chữ ký đổ tháo chảy dài ra. Của những bưu kiện dán chi chít tem, kín bưng trong mấy lớp giấy gói phẳng phiu.

Sách không phải của bạn bè viết, không đề tặng cũng cất tiếng rầm rì. Mấy cuốn này là của Ng, chắc thấy tôi viết quê òm nên gởi hàng loạt sách Tây, có cuốn hiện đại đến mức đọc tới lần ba vẫn chưa hiểu (bạn ngạo lắm nên sách bạn chọn cũng ngạo). Mấy cuốn này là của Nh, theo như bạn nói thì sách có mùi… nhang khói, bạn toàn đi… xin để tặng lại tôi, chủ đề loạn xà ngầu, “nghe nói đói sách mà, thôi, có gì dùng nấy đi…”. Mấy cuốn này thì lục lọi tủ sách nhà K, bỏ vào túi xách rồi mới kêu bạn tặng, cho… chắc ăn (ai nỡ lòng đòi lại). Hay những cuốn sách văn học cổ điển của anh Th mà đôi lần anh phải đưa sách (cùng người) ra tận bến xe vì chúng quá chừng… nặng.

Lúc đó, tôi không nghĩ cái cười xòa hồn nhiên của anh, chiếc xe xùng xèng của anh (hay lời đề tặng, gương mặt, khung cảnh, giọng nói, thời tiết… diễn ra khi những cuốn sách được trao từ tay này qua tay khác) làm cho những cuốn sách đó nặng thêm, dày thêm. Chúng đã sống, đã gợi nhiều cảm xúc trước khi tôi lần giở những trang đầu tiên, những dòng chữ đầu tiên. Nhiều lúc, cầm chúng trên tay, nghe trĩu, nghe mình ngưng lại, nghe thời gian nhợt nhạt, chậm chạp đi qua. Nghe mấy đồng nghiệp thò đầu vào cái phòng không thể lộn xộn hơn, nắc nỏm, trời ơi, sách nhiều lắm sao mà thấy lui cui lâu vậy ?

Dạ. Sách nhiều. Nhưng nhớ tào lao còn nhiều hơn. Ngay khi không còn cuốn sách nào còn lại ở phòng này, tôi sẽ về nhà và… nhớ tiếp. Ngay khi nằm đọc một cuốn sách khá đẹp có lịch sử ráo hoảnh, đơn điệu là tôi tự đi mua, trời không nắng không mưa, không có chữ ký hay vết xước nào trên giấy thì vẫn có vài niềm nhớ bâng quơ.

Thí dụ như nhớ những cuốn sách đầu tiên tôi đã đọc, nặng và dày, giấy thì đen, mực lem nhem. Mỗi khi sang trang thấy chữ như phai đi, giấy sắp rã ra rồi, mắc xót. Lâu lâu kiếm được mấy cuốn sách của Nhà xuất bản Cầu Vồng, “gặm” thiệt sướng, tới bây giờ vẫn nhớ “Những ngọn cờ trên tháp”, “Ti – mua và đồng đội”…

Thí dụ như nhớ chỗ đọc sách đầu tiên. Tối và vắt vẻo trên cao. Người cậu bà con xa kê những cây đòn tay cũ thành một cái gác nhỏ chứa sách. Tôi đã từng ở trên đó từ sáng tới chiều, mặc kệ ai đi qua đi lại bên dưới. Có bữa qua nhà cậu, tôi trèo ven vách lên, đọc miết, đến lúc tụt xuống ra về chẳng ai hay biết. Chủ nhân của mớ sách và “căn gác” không cầu thang đó bây giờ đi rất xa trên quan trường.

Mỗi khi nhớ người, tôi vẫn nghĩ đó sẽ là một ông quan tốt, vì những cuốn sách mà ông đã đọc và chia sẻ cho tôi từ thuở thiếu thời.

Biển của mỗi người

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư


Ông già nói Tết này chắc ông đi Phú Quốc, còn nếu mua vé máy bay không được, ông sẽ xuống Hà Tiên nằm chơi ít bữa. Đứa trẻ gặp ông lần thứ năm, hay thứ bảy, nó cũng không còn nhớ, chỉ nhớ gặp lần nào nó cũng có vài chuyện để ngớ ra, vì bất ngờ, vì những điều nó chưa biết. Và ngồi ở cái quán café Sài Gòn, chung quanh rựng nắng lên, lần đầu tiên đứa trẻ hay, Tết nào thì ông bạn già nó cũng đi về phía biển.

Đứa trẻ biết ông yêu biển, có chuyến đi chung, ông làm nó ấm ức không thôi, vì nó thích đá, thích rừng ông lại sướng rơn khăng khăng đòi đi biển. Tập thơ mà ông tặng nó chỉ ba mươi bài, thì đã có mười bài ông viết về biển, những bài có chữ “biển” nó không tính. Có một bài thơ rất cảm động, ông đứng ở ngôi “tao” viết cho con chó đã chết của mình, “Tết Canh Tý tao đi tìm buồn ở biển. Mày đau nằm liệt ở góc nhà…”. Đứa trẻ thích bài thơ này, và cứ nghĩ ông bạn già đi biển chỉ vì không muốn nhìn thấy con vật gắn bó với mình đau đớn lìa đời.

Nhưng hóa ra, năm nào ông cũng đi, lúc thì Nha Trang, Vũng Tàu, khi thì Mũi Né, Phú Quốc… Sáng mồng Một, ông đóng cửa, khép rào và làm một chuyến đi tới mênh mông. Đứa trẻ hỏi, “rồi chú làm sao?”. Ông già cười, “châm một bình trà ngồi uống ngó biển chơi”.

Ở đó, ông cũng một mình như lâu nay sống một mình trong căn nhà rộng và sân vườn rộng. Cái sự một mình này ông không giải thích với ai. Ông yêu vẫn yêu nhưng một mình thì vẫn một mình. Và trong sáu ngày đầu tiên của một năm, quãng thời gian người ta sum họp, đoàn viên, ông lại ngồi chơi vơi trước biển, “hồi trẻ ở rừng hoài, mắc chán rồi”, cái lý do đơn giản này che giấu một điều đơn giản khác, ông sợ hãi cái không khí Tết, khi mà sự gặp gỡ, sự trở về của mỗi người đều soi chiếu, nhắc nhớ nỗi cô đơn, xa vắng con người.

Đứa trẻ dĩ nhiên đoán được, nó tợp ngụm café, ngồi ngẫm ngợi, bỗng nhớ tới ông già khác, cũng là bạn thiết của ông bạn này. Cũng một đặc trưng cho mẫu người sợ hãi Tết, năm nào cũng đưa ổ khóa cho hàng xóm khóa cửa ngoài giùm, rồi trốn ru rú trong nhà, vật vờ như một hồn ma. Ông chỉ đặt bốn cái ghế ở phòng khách của mình, như một quy định ngầm, đoàn nào kéo tới năm bảy người, ông tái tê vì khó chịu. Càng khó chịu hơn khi mình lui cui bày biện một lúc thì khách đứng lên ra về, để lại mấy đĩa bánh mứt chưa ai chạm vào, những tách trà chưa ai ghé môi. Thôi, đóng cửa cho khỏe.

Và trong căn nhà gỗ thanh vắng, ông già cũng làm cuộc hành trình đi tới biển cô đơn, theo kiểu của ông. Đứa trẻ không ngạc nhiên với cách ứng xử hơi lập dị đó, khi một ngày nó nhận ra càng ồn ào lễ hội người ta càng cô đơn, càng đông đúc chung quanh ta càng đơn độc, bởi có những tâm hồn không ai chạm thấu được.

Đứa trẻ chỉ buồn cười, chơi với hai ông già, một ở Sài Gòn, một miền tây, gặp ông này nghe nhắc ông kia, và ngược lại. Như sáng nay, trong lúc nắng lên cao, ông già lại hỏi thăm bạn mình có khỏe, đứa trẻ vọt miệng nói luôn, như bắt lại một ý nghĩ bất chợt, sợ nó tan đi mất, “sao chú không xuống ông Chín chơi, ở với ông Chín, Tết này…”.

Ý tưởng của đứa trẻ không phải sáng tạo gì cho lắm, nhưng làm ông già ngỡ ngàng, ờ, tại sao không? Bọn ông sẽ vẫn đóng cửa, trốn trong nhà, pha bình trà quạu, ngồi nói vài câu chuyện phiếm, ngồi cười người đời đang chạy rần rần ngoài kia, không hiểu sao chỉ có được mấy ngày nghỉ, họ không chịu khép cửa lại, để âu yếm yêu thương mà cứ phải tất tả ngoài đường. Hoặc vả, bọn ông chỉ uống trà, không cần nói gì hết, chỉ ngồi đó nghe tiếng sóng của biển cô đơn vỗ rất xa rồi.

Ông già lẳng lặng đặt một vé máy bay. Ông không nhắn gì cho bạn, vì muốn tạo bất ngờ. Mồng Một ông đặt chân lên cái thềm nhà treo lủng lẳng mấy giò lan. Ông gọi cửa. Không có ai. Ông dựa vali ngồi chờ đến trưa, người hàng xóm ngang qua kêu lên, “Ông Chín về quê rồi, hết Tết mới ra”. Ông gần ngồi chèm bẹp, và bỗng dưng thấy biển xanh ngằn ngặt trước mặt mình. Chưa bao giờ ông thấy biển mênh mông, sâu thẳm như vậy, ông lần túi lấy thuốc hút, điện thoại chạm khẽ vào tay. Hy vọng lóe lên rồi lại tắt ngay, bạn chủ trương sống giản tiện hết mức, ghét cái đồ công nghệ mới này, bạn không xài. Ông bỗng nhớ đứa trẻ, cũng sống đâu đó ở thành phố này.

Thời điểm đó, đứa trẻ hoàn toàn rảnh rỗi, thanh thản nằm nghe nhạc, xem phim. Nó hoàn toàn không hay ông bạn già đã lần theo nét vẽ bâng quơ của nó để đến… một biển khác. Nó tắt điện thoại, đó là cách nó tuyệt giao với thế giới này, như bạn bè vẫn thường làm, theo kiểu của họ, người đi núi, người tìm biển, người khóa trái ngoài… Đứa trẻ hoàn toàn không biết ở hiên nhà người, trên đất người, ông bạn già của nó bơ vơ ngồi lau đôi kính ướt. Ông không biết tìm bạn mình ở nơi nào, vì không biết quê quán, không biết bạn đến từ đâu.

Và ở nơi nào đó mà người ta gọi là quê, cũng có một ông già khác, treo võng ngoài bìa vườn, chờ ngày qua, chờ cho hết cuộc hội hè đình đám, chờ cho qua hết cuộc nhắc nhớ sự cô đơn.

Họ sống với biển của mình lâu tới mức, lúc cần tìm người, họ hoàn toàn mất dấu tích của nhau.


Ừ thôi, cỏ mọc

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư

Có lẽ cuộc đời đã nói với tôi về sự tùy nghi, lâu lắm rồi, chỉ là tôi không nhận biết.

Mấy hôm trước mua được cái đĩa hát của nghệ sỹ Tấn Tài, có bài Bông Ô Môi mà tôi mê hồi nhỏ. Từ tiệm băng đĩa, tôi cắm đầu chạy về nhà, vì thấy ham quá. Và khi người nghệ sỹ cất tiếng “bông ô môi, gió cuốn rụng đầy trên sông, nhìn mây trời mênh mông…” bỗng tôi nổi quạu. Trời ơi, sao ta lại nghe bài vọng cổ này ở đây, trong cái thành phố chật chội, bức bối này, trong mớ âm thanh hổn độn và nghẹt cứng những xe những tàu những người réo gọi, mắng mỏ nhau.

Vọng cổ, phải nghe trên những dòng sông vắng, những bờ chuối, giồng khoai, hay bên hè, nơi có hàng lu nước lá vú sữa rụng đầy… mới đúng điệu. Hồi nhỏ, nhà nghèo, tôi vẫn thường ngồi chỗ mé mương, cạnh mấy cây muồng, cây bình bát, nghe ké cassette hàng xóm. Ở đó, tôi khóc mò thương cô Lan lụy tình anh Điệp mà bạc mệnh, thương nàng công chúa Mông Cổ yêu kẻ thù để nhận lấy một kết cuộc bi thương… Ở đó, tôi thuộc lòng từng lời từng chữ, “mười năm rồi còn chi nữa em ơi, mình xa nhau mỗi kẻ một phương buồn. Tôi giang hồ đã mỏi gót phong sương, em ở lại đây với bốn bề khói lửa…”.

Bài ca cũ còn nguyên, nhưng cái không gian lặng ngắt chỉ phảng phất tiếng ong bầu, tiếng tay chuối khô xao xác… không còn nữa. Tôi bây giờ đã chợ, chán ngắt. Muốn quăng cái đĩa đi nhưng lại tiếc… tiền, dùng dằng cho vào máy hát, tự dặn mình, thôi kệ. Bông Ô Môi đi hết nửa bài, và sự kiên nhẫn đã được đền đáp, tôi cảm giác những âm thanh thành phố đã chìm dưới một đáy sâu nào, chỉ còn tiếng chuông chùa lẫn trong mái dầm khua nước, và người đàn ông trở về sau chiến tranh, mái đầu điểm bạc đắng lòng nhìn bông ô môi rụng váng đỏ cả mặt sông.

Bài ly biệt vẫn hay, vẫn ngọt ngào, buồn bã. Tôi bắt đầu bập bẹ đánh vần hai chữ tùy nghi. Tôi tưởng tôi đã biết rồi, nên cười ngạo những câu than thở kiểu như, “trời ơi, ở chỗ lạ ngủ không được. Nhớ cái gối ôm…” hay “cái món ăn của vùng ấy nuốt không vô, thứ thì lạt nhách, thứ mặn lè…”…Tôi cũng từng gối cỏ nằm sương, ăn bốc ngủ vùi (nghĩa là món gì cũng bốc được, vùi ở đâu cũng ngủ được), thấy cũng chịu chơi lắm.

Nhưng lâu lâu cũng rầu, vì nhìn thấy cây gòn mọc trong sân quán nhậu, củ khoai nướng cháy bùi ngùi bên đường, cây càng cua nhón chân mọc ké nơi rào, bầy chim sâu chim sẻ ríu rít trên chùm dây điện rối... Và bà cụ gầy nhom với rổ đọt bí, mớ rau lang ngồi bán ở nhà chờ xe buýt, những người buôn gánh chào nhau bằng những thổ ngữ đặc trưng của xứ sở mình, đám trẻ đánh giày xách thùng đồ nghề rảo trên những vỉa hè nham nhở… Họ không thuộc về nơi này, như tôi.

Ý nghĩ đó lại cục cựa khi tôi gặp người đàn ông ngồi thổi sáo trong cái lạnh đầu đông Hà Nội. Tôi hỏi ông thổi bài gì mà buồn vậy, ông cười, “thổi vu vơ ấy mà, nghĩ tới đâu thổi tới đấy”. Cảm giác như đó chỉ là nửa nụ cười. Vì ông không có mắt. Không phải mù, mà chỗ đáng ra lấp lánh nhìn đời chỉ có mảng da thịt trũng sâu. Ông cũng có con, trạc tuổi con tôi, nhưng mẹ nó đã đưa nó đi rồi. Ông nói “thằng bé kháu lắm. Nhưng lâu rồi không gặp, tôi không biết giờ nó đã bằng từng nào… Mình vầy… nên muốn gặp con cũng khó…”. Giữa những ngập ngừng mà tôi viết lại bằng dấu ba chấm, dường như là quãng ông nghẹn ngào, ký ức về mình đang bị xóa dần trong lòng đứa trẻ xa xôi. Dù miệng ông vẫn cười.

Tôi mua một cây sáo, đây là cây thứ hai mà ông bán được trong ngày. Hôm qua khi ông lần trong bóng tối vĩnh cửu về căn nhà trọ ở một bãi sông nào đó, hàng vẫn còn nguyên. Hai năm ngồi rao khúc nhạc buồn bã ở ven hồ Gươm, những ngày khốn khó như thế vẫn thường lặp lại. Ông cười, “Quen rồi, nếu không bỏ buồn qua một bên được thì phải tìm cách sống với nó”. Ông sống bằng cách nào ? Ông hỏi tôi có mang theo áo ấm không, vài ngày nữa sẽ có gió mùa đông bắc, trời trở rét. Ông đoán được thời tiết nhớ vào mùi của nước hồ. Một đứa trẻ bán tranh dạo ngang qua, ông hơi nghiêng tai, nói, mẹ vừa tìm cháu đấy, My à, cháu mãi chơi quá... Đứa trẻ nhoẻn cười, ông thấy được nụ cười của nó, cũng như thấy được con đường về nhà, lúc cuối ngày.

Tôi nhớ tới người đàn ông đó, như một tấm gương về sự tùy nghi với thân phận, với nỗi đau. Tôi học cách nếu không bỏ nhớ qua một bên thì sống chung với nó. Chiều nay bạn học cũ ở xa về, rủ đi nhậu ở một cái quán ngoại ô, uống vài ly, lại nghĩ vẩn vơ.

Cái hồi tôi bảy tuổi thì có một dòng sông chảy qua xóm. Bến trước nhà ba tôi làm cái vó cạnh bụi trâm bầu. Vó chồm ra hơn nửa sông, đêm đêm treo ngọn đèn chong dụ dỗ tôm cá (nói cho cùng người ta cũng giống hệt vậy, lao miết về phía nhiều ánh sáng đèn). Chòi vó lợp lá chầm đóp, chung quanh dừng bằng những tay chuối khô cắt trong vườn. Ngày hanh nắng nằm trong chòi mát rượi, dã dượi gió sông thốc vào, lá khô cứ xao xác suốt. Trời mưa, chòi dột tả tơi, những tay chuối che bề nào cũng ướt.

Suốt những năm đó, tôi coi chòi vó là nhà. Mùa chướng trở, bông tràm rụng tơi bời, có bữa đang ngủ nghe cổ nhột ran, tưởng đâu có con sâu róm đang bò, ai dè bông tràm nằm vắt vẻo. Con nước rằm, theo má cất vó tới khuya, đợi trăng đậu vào lòng vó bèn cất lên, trăng chảy xuống lòng sông, nguyên vẹn, trên vó chỉ còn đám tép rong, bầy cá lìm kìm, cá lòng tong, đôi khi gặp những con rắn râu, khắp mình đầy rêu, nằm khờ ịt trên lưới. Có khuya xa xắc, bỗng dưng nghe tiếng gọi Vó ơ… dằng vặc của mấy dì đi chợ sớm, thấy rõ ràng mình leo vắt vẻo mút đầu vó, cất lên cái lưới ướt đẫm sao khuya. Sáng ra lồm cồm bò dậy, mới hay chỉ là giấc mơ.

Và chỗ cái vó cất những mộng mị trăng sao đó, ngay trân cái bàn rượu chiều nay. Lạ là, tôi đã không còn cảm giác mình đi lạc, không còn ngồi thom lom trong hồi ức.

Cái quán này mà dẹp đi, cho trở lại khung cảnh ngày trước, tôi biết làm gì với nó, khi mà tôi đã đủ già, để thấy rằng dòng sông đó chỉ là con rạch nhỏ xíu, và chuyện cất lưới lên những con tép bạc tép rong cá lòng tong chẳng làm nên cuộc mưu sinh.

Lâu lâu nhớ chơi. Rồi phải sống với từng milimet đất dưới chân mình, như cỏ mọc.

Của nước và gió

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư

Tôi từ giã căn nhà cũ đúng mùa nước rong. Chị tôi nói, may, nếu còn ở lại lội nước mệt xỉu. Con sông sau nhà bắt đầu đầy khi gió chướng gió Nam hui hút giành ngọn. Sóng vỗ ì oạp vào sàn nhà mỗi khi có chiếc tàu nhỏ chạy qua. Một bữa ngồi viết ba cái lăng nhăng, thòng chân xuống định đứng lên vặn vẹo người cho đỡ mỏi thì chủm, chân dầm trong nước. Sông đã lặng lẽ dời bờ vô hơn nửa… nhà. Mắc cười, tôi nhắn tin cho người bạn ở xa, “nước sông dâng tới chỗ tui ngồi viết”. Không hiểu sao tôi nghĩ tin nhắn của mình sẽ làm anh bạn chạy tới tủ sách lôi những cuốn của nhà văn Đoàn Giỏi, Sơn Nam, Nguyễn Quang Sáng… ra đọc lại, cho đỡ thèm, đỡ nhớ phương Nam.

Tôi không nhớ trong những cuốn sách đó có bao nhiêu trang, bao nhiêu câu chuyện liên quan đến con nước rong. Dường như là không có câu văn nào về dòng sông sau nhà tôi. Chảy qua thành phố với cái tên xa lạ, dòng sông nhỏ bị che khuất bởi những dãy nhà ken dày hai bên bờ, và cứ vậy, nó chảy thầm suốt một mùa mưa. Người ta sống trên nó, rửa chân và vất rác lên nó nhưng quên lãng nó. Và một buổi sáng mở cửa sau, sông bỗng tràn đầy trong mắt.

Sự trở lại lẫm liệt và rực rở tới mức người ta phải kêu lên, trời đất ơi, nước rong. Nước tràn trên những con đường trong thành phố. Tôi lâu không ngước nhìn trăng bỗng gặp trăng sóng sánh dưới chân mình. Chị tôi kê tủ giày, thùng gạo, mấy vật dụng bằng sắt lên cao, sóng đánh vói theo. Hết rằm, con nước tự bò ra khỏi nhà, nhưng vẫn đầy lấp ló. Tôi quét nhà, trong mấy hốc kẹt còn sót lại nhiều rác rưởi, cùng những trái mắm, trái đước lên mầm. Tôi thả chúng vào sông, hơi lo, với mớ rễ đã khô se, chúng có đủ sức sống để mọc lên ở một bãi bùn xa xôi nào. Và trên những con sông gần biển, lũ cá dứa chắc không còn nhiều nữa, nên những trái mắm mới trôi dạt đến nơi này.

Hơn hai phần ba số lượng những con sông của Cà Mau không có lục bình. Chúng chỉ mang những trái mắm, hay đước, vẹt, bẹ dừa nước, lưỡi mèo phèn… trong lòng nước ngầu đục phù sa của mình. Những lúc thôi nhìn chữ nghĩa, ra ngó sông, thấy trái dừa chuột khoét lừng lửng trôi ngang qua, tôi vui như gặp bạn cũ. Nước càng đầy thì cuộc trôi giạt càng đông đúc, là những trái mắm như trái tim sắp vỡ ra từng lớp, là cái bắp chuối đỏ, là những bông tra vàng, trái quao cong... Cái đầu mơ mộng của tôi nghĩ tụi nó đang nói với nhau, nước rong tính ra chợ sống, nhưng kiếm không ra cục sình cắm rễ, thôi về. Chúng không dừng lại. Cuộc diễu hành của sự sống đồng bãi như vô tận, như không bao giờ chấm dứt.

Và không có gì ngăn chặn được những cuộc trôi đi khi mà gió chướng càng thổi sâu vào mùa, nước càng đầy. Sông vào những ngôi nhà ven sông đòi lại đôi bờ đã bị con người xâm chiếm. Rác của con người vất xuống, sông thản nhiên trả lại cho người. Nhưng trong sông vẫn còn sự tử tế, thay vì dâng lên nhà người cái dòng chảy ô nhiểm đen ngòm, sông liếm láp đôi chân tôi bằng thứ nước lợn cợn phù sa.

Nhưng vào cái mùa sông đẹp nhất, tôi chuyển nhà đi. Giờ thì mở cửa sau không còn mênh mông nước, dù tối ra đường vẫn xẻ trăng dưới bánh xe lăn. Tôi nhìn gió. Gió trong suốt vô hình. Nhưng có thể nhìn thấy chúng trên bãi lau sậy bát ngát sau nhà. Sậy đang mùa bạc đầu, tôi vẫn thường cầm trái ổi ngồi nhai chèm chẹp trong khi bông sậy già bị gió thổi bay lả tả chung quanh. Bông sậy li ti, phải nhìn qua tia nắng xiên mới thấy chúng bồng bềnh, nhẹ nhỏm, chênh chao giữa không trung. Ngồi nhìn cái chậu rửa chén váng bông sậy trên mặt, thấy bình an đến nỗi không dám nhúng tay vào.

Chỗ bãi sậy người ta định xây trường mẫu giáo. Nhưng trẻ con chưa thấy đã hoa cỏ mọc đầy. Gió chướng được một chỗ chạy chơi, với tất cả sự hoang dã và mơ mộng của mình. Ở đâu đó, các con sông đang trình diễn cuộc nổi trôi thì gió cũng trình diễn cơn phiêu bạt. Mang trong mình sự cám dỗ mang mùi đất, gió thổi làm bông sậy lay lắt, bông tràm chút bay chút đậu, và những hạt cỏ đã khô se trên ngọn cũng lăn đi. Không biết chúng sẽ theo gió tới tận đâu, tôi bỏ chữ một bên ra nhìn, và lại hỏi thầm.

Nhưng để được trọn vẹn lời đáp những hoa cỏ đã đậu lại ở đâu, đã chết khô hay nảy mầm sống mãnh liệt, chỉ có gió chướng mới biết. Tôi chỉ có một phần của câu trả lời khi mưa xuống trên bãi cỏ hoang. Lau sậy đã loang ra xa. Có vài cây lứt mọc sát bìa rào, và một bữa nào tôi đi công tác về, chợt nhìn giữa xanh cỏ dại là tím biếc của hoa mua.

Nhìn hoa, bỗng nhớ lại mùa trôi giạt trên dòng sông cũ. Những trái mắm héo queo ở góc nhà khi về với đồng bãi, biết đâu đã sống đàng hoàng, xanh lá.

Tôi lại nhắn tin cho người bạn xa mấy câu thơ của nhà thơ Đinh Trầm Ca “Bèo bữa trước vì sông mà trôi giạt. Chợ chở hoa về rợp bóng quê nhà. Thì sá gì cuộc nổi trôi ta”. Bạn nói, bao giờ gió chướng thì cho hay, bạn về.

Thì đây, bây giờ đây. Mùa của cuộc rong chơi. Mùa đi.

Khúc hát lên đường

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư


Có lần, giữa lưng đèo ở núi rừng Tây Bắc, xe bị mắc lầy, kẹt giữa con dốc dài, trong đống bùn nhão, bụng thì đói khủng khiếp, bên đường chỉ vài căn nhà lúp xúp của đồng bào, mà họ cũng đóng cửa đi nương. Đoàn người ngồi lê ngồi lếch, vạ vật dưới chân núi, chờ xe chuyên dụng đến gạt bùn giải cứu.

Em kéo tôi đi dạo, em nói ở đó nhăn nhó cũng vô ích. Chúng tôi rẽ vào con đường nhỏ xuống thung lũng, bên những cái rào hờ hững là vạt cải đang lên, mầm xanh nhuốt dưới mưa sương. Có một chòm nắng quét qua thung lũng, làm những rặng cây dưới kia cũng đổi màu. Em chắc lưỡi, hít hà, đẹp quá chừng ta ơi. Tôi gật đầu, và trong cái khoảnh khắc đó, tôi quên mình đang đói và chiếc xe đang nằm ì trên đống bùn. Tôi chỉ biết mình đang đứng trước vẻ đẹp chưa từng có trong đời. Một cậu bé từ trong con đường mòn trơn ướt từ dưới thung nhấp nhô hiện ra trong mưa lay phay, mắt cậu đen sâu hút, cây rựa cong cong vung vẩy trong tay, và trên vai là con gà trống ung dung đậu. Cậu đi qua, mắt hơi cười, và khi người khuất sau rặng cây rồi, tiếng gáy của con gà vẫn còn đọng từng giọt trên những dấu chân nhỏ. Em ngó tôi, hỏi, “cứ ngồi than thở trên kia thì làm sao thấy được những cái đẹp tình cờ này, hả chị?”

Tôi không trả lời, ngượng nghịu vì mình đã mất nửa giờ gắt gỏng, lo âu. Tôi tự hỏi, trong ba mươi phút đó, mình đã mất bao nhiêu cơ hội để khám phá vùng đất này. Tôi day qua định cảm ơn em, nhưng em đã phăm phăm đi đằng trước, cái ống quần kaki rất ngầu quệt vào cỏ, bê bết nước và bùn.

Chính em rủ tôi đi chuyến này. Lúc em gọi điện, tôi đã hỏi, sao đi được hả nhỏ ? Em nổi quạu, dễ lắm, chỉ cần xếp vài bộ đồ, nhịn nhậu nhẹt vài cữ, với chút tiền dành ra ấy, quảy ba lô lên vai, là tụi mình có thể tới bất cứ đâu bất cứ lúc nào. Không biết đường đi, thì hỏi. Sợ gì.

Lâu lắm tôi đã không đi, mất cảm giác. Bởi đi không phải là nhu cầu tối thiểu, như ăn, ngủ. Hôm nay đi không được, thì mai, thì mốt. Mà, lần khân tới khi già khú đế, không đi được cũng chết vì bệnh tật chứ không phải chết vì không đi. Vậy nên, tôi luôn bỏ lỡ những chuyến đi của cuộc đời mình. Đôi lúc, đã lên kế hoạch đi đâu đó, ừ, ngày mai đi. Quãng thời gian chờ sáng, tôi ôm cái gối ôm của mình, nghĩ, trời ơi, mai đi rồi, mình sẽ xa cái chỗ nằm quen, quán cafê quen, những bạn bè quen. Xuất hiện cái rào đầu tiên, sự quen thuộc bị xáo trộn. Rào thứ hai: đường xa, sông sâu cách trở. Rào thứ ba: nhớ nhà. Rào thứ tư: không ai đưa rước con đi học (hay lý do tương tự, không ai cho đàn gà ăn). Rào thứ năm: tiếc tiền. Và rào thứ sáu, thứ bảy thứ n quây kín tôi lại. Chuyến đi vào lúc sớm mai trở nên tuyệt vọng, mù mịt xa.

Và sự khao khát khám phá thế giới chung quanh đã không đủ mạnh để thôi thúc tôi lên đường. Nhưng nếu tôi vượt qua tất cả những cái rào đó, lúc bước chân lên xe, trong tôi sẽ xuất hiện một cái rào khác, khiến tôi trùng trình, nơi mình đến, có cái gì hay không ta? Mình đi xa vậy, mắc công vậy, tốn tiền vậy mà không có thu hoạch gì thì tiếc. Tiếc lắm.

Tôi cũng hỏi câu đó khi em sắp gác máy, em cười “có ai mà gặt được trước khi gieo hôn, hở chị?”. Tôi cũng cười. Em chuyên viết ký du khảo cho báo địa phương, đi nhiều, căn phòng em trong cơ quan ít khi mở cửa. Nghe nói có hồi em định lấy chồng, má em khóc quá chừng, “tội nghiệp con nhỏ, rồi phải chôn chân ở nhà”. Trong ý nghĩ của người mẹ, nếu con gái mình không đi lang thang điều đó đau khổ ngang bằng… chết. Nhưng có một vài trục trặc khiến đám cưới không diễn ra. Em đi rong để quên buồn, rồi sau này đi rong vì nghiện, không đi bứt rứt không yên. Những lần em chuẩn bị lên đường, tôi hay dặn, đi về nhớ kể cho nghe. Em cười, coi đó như một lời hẹn hò, khi về, sẽ có bữa ăn nhậu gì đó nho nhỏ, gọi là tiệc đón.

Không hiểu tại sao em chẳng nghĩ câu nói đó theo đúng nghĩa của nó. Việc đi để kể lại là không thể sao? Tôi tự hỏi khi xốc hành trang lên vai, đi cùng em.

Dẫn đoàn, đóng vai trò “cục đường” kéo mấy con kiến đằng sau là một anh nghệ sỹ nhiếp ảnh. “Cục đường” thường ngồi ở một ngọn đồi nào đó tiễn mặt trời chìm xuống dòng sông và sáng sau luôn dậy sớm chờ mặt trời lên. Tôi hay bước lên xe với cái mặt ngái ngủ. Một người viết văn thì cần những khoảnh khắc đó làm gì, tôi nghĩ. Em thì khác, xăng xái, nôn nao, em nói, “ba trăm sáu mươi lăm ngày mặt trời mọc ba trăm sáu mươi lăm kiểu khác nhau, thì như hôm qua em bị nhức đầu, nên mặt trời lên thấy khác, bữa nay đúng lúc mặt trời lên, biết đâu sẽ có đàn chim bay qua...”. Có lần, chúng tôi đi đón bình minh. Tôi ngủ gà gật, lâu lâu mở mắt nhìn thấy đang đi trên con đường nhỏ, lướt qua những ngôi nhà nhỏ, cái miếu thờ cũng nhỏ. Mở mắt ra lần nữa thấy mình đứng trước một cây cầu ọp ẹp bằng tre bắc qua kinh trên con đường dẫn ra một vùng đầm phá. Mùi rêu tanh nồng. Một cái chợ nhỏ họp bên bờ đầm. Mấy bà cụ bán khoai, bán xôi cười khoe hàm răng đen bóng, giọng Huế trên môi có vần có điệu, có ngằn có ngữ, nói như hát. Ngồi cạnh là mấy chị phụ nữ với những cái rổ con con cùm nụm cùm nịu ít cá tôm. Vài tia nắng lên xiên qua làn sương mỏng. Trẻ con xoắn quần đi lại dưới đầm, chân chìm vào mặt nước dày đặc rong tảo, thong dong như đi trên bộ. Đứa bé gái bồng em nhỏ đã ngủ say trên tay, như mèo con ì ạch tha chuột, đi về phía xóm.

Tôi đứng đó, ngây dại trước một bình minh trong vắt. Nhìn người dân thong dong lội lỏm bỏm dưới đầm, tôi hỏi, “ủa, đất ở đây không lún sao ta?”. Em cười, xoắn quần, tháo giày lội xuống. Một cách trả lời. Tôi làm theo, dầm chân vào buốt lạnh của nước và cát, thảng thốt nghĩ mình từ nay không còn thản nhiên, hài lòng với những bộ phim quảng bá du lịch chiếu trên ti vi.

Bởi cái vị nồng của biển, cái rộn rã ban mai, cái không khí trong lẻo này, hay sự buốt lạnh truyền lên từ gan bàn chân không ai kể cho ai được. Những năm dài quẩn quanh nhàm chán từ nhà tới cơ quan, từ cơ quan tới quán café, lười nhác đến nỗi chỉ ngồi ở một góc quen, với cái bàn quen, tôi khoe khoang là mình đã biết Huế với những bộ phim, những cuốn sách, với lăng tẩm cung điện, và vào một buổi sáng không hẹn, tôi đứng nhìn sự biết của mình tan đi trước cái đẹp của một miền quê.

Em thì đang hăm hở lội tuốt đằng kia, chào hỏi một chị mua nước ngọt chở ra căn chòi nhỏ giữa đầm khơi. Đó những người dịu dàng, em kể khi quay lại, vì họ ít khi nào để nước sánh ra khỏi những cái thùng.

Tinh tế đến từng chi tiết. Bỗng dưng tôi nhớ những lần dặn “về nhớ kể nghe chơi”, bản thân việc đó gây buồn, cho em và cho tôi. Sẽ không khó khăn gì, nếu em thuật lại, ngày thứ nhất đến đâu, nơi ấy có những cảnh đẹp nào, món ăn gì, cùng vài chuyện đáng nhớ nho nhỏ. Tiếp theo là hành trình của ngày thứ hai, thứ ba… Dĩ nhiên, những bức hình chụp bằng cái máy ảnh cà tàng của em cũng là một cách kể. Thác nước, khúc sông trôi, hoa phượng tím, bên bờ rào thưa có đứa trẻ chăn bò… Tôi gật gù gật gù, ừ đẹp quá, mắc cười quá, dễ thương quá.

Nhưng em đã mang về một dòng suối, cánh rừng, dòng sông… câm lặng. Em không thể xê dịch không gian và thời gian để đưa tôi tới cảm giác tan đi dưới dàn đồng ca rền rĩ, buốt nhức của những con ve mùa hạ, lẫn trong nó là cái âm thanh trong lẻo thanh thoát của dòng nước chảy lỏn lẻn qua khe đá. Và gió và nắng, chúng lung linh, sống động đến nỗi, ở trong nó người ta không bắt kịp bằng tất cả các giác quan của mình.

Sau vài chuyến đi rong, tôi nói tôi phải bắt đền em, vì mỗi sáng ra đường đúng lúc máy bay cũng ngang qua, tôi chênh chao quá. Bởi với tôi, nó là biểu tượng xê dịch, là bài hát lên đường. Em cười, lại rủ rê, “vài bữa xuống Rạch Gốc nè, xách ba lô đi cho vui”. Cái xã ven biển tôi đi công tác cả chục lần, nhưng đi với em mới thấy nó… đẹp đến giật mình. Em khiến tôi từ bỏ thói mặc cả, kiểu như nếu tôi đi thì tôi sẽ được gì, tôi “hy sinh” nhiều vậy thì tôi “có” gì? Đông Bắc hứa có núi và rừng. Dãi đất miền Trung hứa hẹn cát trắng và biển cả. Tây Nam Bộ hứa bằng những con người tử tế, dễ thương. Nhưng em chứng minh được một điều, nếu không nhận được lời hứa nào, tôi cũng thấy mình có nhiều. Đi là tới, là được, là có. Chẳng thể hứa một buổi trưa nóng rẫy, chúng tôi nhìn thấy bụi cỏ bên đường nở hoa trắng muốt, dù lá cỏ bị giẫm nát bởi những dấu chân trâu. Chẳng ai hứa, những gì chúng tôi sẽ nhìn thấy, cảm nhận suốt cuộc hành trình, tổ chim sẻ chon von trên vai pho tượng Phật, bài hát của những người yêu nhau trên những ngọn núi cao, những cụ già mót khoai bên rẫy, nụ cười của em bé Simacai khi một tay cầm chim đứng đái, tay kia vẫy khách không ngừng. Ai mà hứa được những cái đẹp, cái chua xót, xốn xang không ngừng tuôn chảy trên mỗi bước đường?

Và cứ mỗi lúc tôi đứng ngây ra trước vẻ đẹp bình dị của vùng đất nào đó, em kín đáo ngó tôi cười tinh quái, “mê rồi hả chị?”. Trong ba lô em có cái bản đồ xếp làm tám, mỗi khi em chỉ vào một chấm nhỏ nào trên đó, “chiều mai mình sẽ tới đây nè”, bỗng dưng tôi cảm giác có sương rơi.

Nhưng không phải lúc nào cũng có sương, có hoa, có nắng, có những cái đẹp rạng ngời. Luôn xảy ra những trục trặc không lường trước. Chẳng nhằm nhò gì, em biết thiền theo kiểu của mình. Không thèm nôn nóng hay cáu giận bởi những bất trắc, chiếc xe chết máy, bể bánh, hay khi lỡ chuyến tàu, hoặc thời gian chờ đò quá lâu… em sẽ rảo quanh, trò chuyện với người dân ở đó, tìm hiểu tên gọi của một loại hoa cỏ lạ. Có lần xe dừng trước đèn đỏ, em chỉ vào những người nhăn nhó sốt ruột đi xe máy đứng quanh, khều tôi “mắc gì phải vậy. Để dành ba mươi giây chờ đèn đỏ để nhớ tới một đứa bạn đã xa, hỏng phải tốt hơn sao?”.

Có cảm giác em không để trống bất cứ giây phút nào. Em luôn trong trạng-thái-sống. Em nói, còn sức thì đi rong ruổi xa xôi, đến khi ngồi xe hết nổi, em lội bộ lòng vòng ngắm tất cả những hẻm hóc, ngóc ngách trong thành phố. Và khi chân quá mỏi, em cũng bắc cái ghế ngồi trước cổng để nhìn mấy bà bán phở, bán tàu hủ, bán trái cây… mưu sinh trên đường.

Cả những vẻ đẹp bình thường quen thuộc đó, cũng phải biết khao khát, tìm kiếm và trải nghiệm mới có. Em nói vậy mặc dù không nói vậy.


Tình thầm

Truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tư

Quán nhỏ. Trang trí cũng không đặc biệt, chỉ mấy chiếc đèn lồng đỏ đã méo mó, ám bụi treo giăng giăng trên cái trần ố vàng. Tấm nhựa phủ trên bàn nước hoa văn âm u như loại mà người ta thường trải trên bàn thờ. Một mảng tường dày đặc những mẫu quảng cáo nước giải khát, vất vả lắm, cô người mẫu mặc áo tắm nằm xoãi trên bãi biển mới chen được một chỗ trống khoe cái rốn có xỏ khoen. Chân tường loang vết cà phê.

Cũ kỹ. Nhàu nhĩ. Mụ mị. Hai cô chủ quán chắc bị ngâm lâu trong cái ủ ê nên cũng ơ hờ khi khách bước vào. Hoặc họ chỉ thờ ơ với anh thôi. Cứ mỗi lần đưa anh đến cái quán tuềnh toàng này, nhìn ánh mắt tai tái của hai đứa con gái, cô lái xe thấy sướng lắm. Anh rất đáng được chào đón như vậy.

Mà, có vẻ anh cũng thích cái kiểu đối xử lạnh lẻo đó. Những lần đến, ngồi uống ly cà phê sánh đặc nhưng lạt nhách vì pha nhiều bột bắp, đến nỗi cây muỗng rớt vào tưởng như không chìm được xuống đáy, nhưng anh lại hưng phấn lạ thường. Cả trong niềm tuyệt vọng khi Tóc Tém, cô gái đẹp nhất, thà ngồi tỉa chân mày, thắt bím cho bạn chứ chẳng thèm ngó ngàng đến anh, đến chiếc Lexus đắt tiền bóng lộn đậu trước quán.

Ánh nhìn dửng dưng cho thấy, đấy chỉ như xe đạp trị giá ba trăm ngàn. Và sự lịch lãm, sang trọng, hào hoa của anh thì cũng ngang bằng đám thanh niên bên xưởng tiện nhếch nhác dầu nhớt ngồi ở góc quán mỗi trưa. Ngày đầu tiên bước vào cái quán này anh giống như một người tầm thường, tay trắng. Tệ hơn, trong ánh mắt của Tóc Tém, dường như không mấy cảm tình. Mỗi lần thấy nàng bực dọc đá ghế khi anh bước vào, cô lái xe biết mình sẽ còn đưa anh quay trở lại Dốc Mây nhiều lần nữa, cuộc theo đuổi, chinh phục sẽ rất dài.

Cô thay cha làm công việc lái xe cho anh là một sự kiện lớn đối với đám em nhỏ, chúng tin rằng sẽ có xảy ra chuyện tình giữa Lọ Lem và hoàng tử, căn cứ vào những bộ phim Hàn Quốc, phim Đài Loan mà ngày nào tụi nó cũng coi. Sẽ có cổ tích, chị hai dữ dằn, mạnh mẽ, giỏi giang của chúng sẽ lấy được tấm chồng giàu, chúng tin vậy. Cô chỉ cười khào khi bắt gặp ánh nhìn lem nhem nước của người cha vừa ngã bệnh, rồi lớn tiếng rầy, mấy đứa, đừng nói bậy.

Câu đó còn có nghĩa, con không có hy vọng gì, vốn chẳng nên hy vọng gì, ba à. Gương mặt méo mó của ông già giãn ra, nhẹ nhỏm. Cô biết rõ người đàn ông mà từ mai mình sẽ phục vụ đưa đón dù ba cô chẳng mở miệng kể gì, “kín miệng, như người cha nói với con gái khi tôi xin việc ở hãng taxi, là đòi hỏi đầu tiên của người lái xe”. Nhưng ông già không thể giấu giếm việc trở về nhà vào những khuya xa, cơ thể mỏi nhừ vì ngủ trên xe, và cả người vẫn còn vương vất mùi nước hoa đắt tiền.

Lúc ấy, cô không tưởng tượng ra được đó là hình ảnh của mình, sau này. Cũng đậu xe dưới khuôn viên khách sạn nào đó thiếp đi vì chờ đợi mỏi mòn, cũng chứng kiến ông chủ thay áo cho bạn gái và thay bạn gái như… áo, cũng phải dìu anh ta lên thềm nhà ướt đẫm sương, cũng bị anh ôm chầm lấy và gọi một cái tên xa lạ, sau đó gục đầu lên vai mình. Về nhà, đứa em kế khẽ dịch một khoảng giường cho chị, thì thầm, chị Hai thơm quá. Cô hơi quạu, mùi hương này khiến cô trằn trọc rất lâu.

Nhưng sáng sau, dù hai mi mắt giữ rịt lấy nhau, cô cũng đến đón anh đúng giờ, như một cây kim đồng hồ khô dầu rọt rẹt vẫn mẫn cán chạy đều. Cô sẽ đưa anh dạo một vòng cà phê, công ty, quán trưa, từ xế chiều trở đi là sân tennis và những cuộc hẹn hò tình tự trên rừng, dưới biển. Thời gian ba cô lái xe cho anh lâu tới mức, đôi khi anh gọi cô, “dừng đây đi, bác Năm” rồi tự phì cười. Cô không cười, cô có quá nhiều lý do để không cười, mưu sinh vất vả để nuôi mấy đứa em và người cha bệnh tật, bản tính lầm lũi, và việc mình ở ngay trước mắt người khác mà lại bị quên lãng làm cô thấy khó chịu.

Nhưng khó chịu hơn là khi anh quan tâm cô, trong cơn cao hứng bâng quơ nào đó. Nên trong lúc chọn giày cho bạn gái, anh cũng tặng cô một đôi, tất nhiên, chẳng vừa chân lắm. Hay có lần anh đặt vào tay cô bộ váy áo, mà cô không biết phải làm gì với chúng. Lam lũ, bụi bặm, phóng khoáng cô đã quen. Cô thấy vui vẻ trong sự quên lãng mình là phụ nữ, nhưng bằng cách nào đó anh nhắc. Bực mình lắm.

Cô rã rời về nhà than, sao muốn nghỉ việc quá đi. Đứa em ranh mãnh nhận xét, “chị Hai yêu rồi”. Cô dựng lên, nạt nộ, “nói bậy riết rồi quen…”. Làm sao yêu được cái người mà ngày ngày cô chứng kiến anh ta loay hoay vào những cuộc hẹn hò với ai, ai và ai. Trên chiếc ô tô sang trọng, mỗi lúc cô nghe ông chủ ngọt ngào với cô gái khác, “Anh thấy trống rỗng và cô đơn. Không hiểu sao khi gặp em, anh chỉ muốn nói với em thôi”, cô ghét đến nỗi chỉ muốn vọt miệng, “xạo đó, ổng nói câu này với mấy chục người rồi”. Nhưng cô không thể thốt ra lời, chỉ biết nhìn những người phụ nữ xiêu đổ dần dần vào vòng tay anh.

Có quá nhiều bí mật phải cất giữ làm cô căng ra, mỏi nhừ. Lòng cứ ứ đầy, ấm ức. Nhiều nàng tình nhân hay dúi vào tay cô ít tiền, chỉ mong tìm kiếm chút thông tin, anh là người như thế nào, anh thích gì, anh đã từng yêu ai… Nếu cô nhận, món tiền gọi là “bán thông tin” gần bằng khoản lương hàng tháng. Cô thì chỉ cần kể một câu chuyện, có lần dừng xe trước đèn đỏ chỗ ngã tư, rẽ trái một tí là tới công ty, nơi nhân viên các phòng ban đang chờ anh tới. Bỗng dưng anh thấy một nàng chạy xe máy đậu bên cạnh. Tóc nàng uốn hơi xoăn, thả dài xuống cái lưng áo đỏ rực. Đèn xanh bật, nàng chạy thẳng, anh biểu cô lái xe đuổi theo, nàng vào quán cafê, anh kéo ghế lại gần, “xin lỗi, tôi thấy em rất giống một người quen cũ…”. Chuyện tình xảy ra. Và câu chuyện trả lời cho mọi câu hỏi.

Nhưng cô chỉ cười nhẹ, đẩy món tiền trở lại cho chủ. Cô chẳng thích nàng nào, vì họ ngã vào anh mau quá, ngay khi anh vừa bước ra khỏi xe, ngay khi anh vuốt mái tóc, mỉm cười, trao tấm danh thiếp… Cuộc chinh phục dài nhất của anh cũng chỉ bảy tháng, với một cô giáo dạy tiếng Anh cao ngạo. Lần đó anh suýt làm cô lạc tay lái khi hỏi bỗng dưng, “San có thích đám cưới không?”, cô lặng đi một thoáng rồi thập thò hỏi, “là… sao!?”. Anh cười xòa, nói không có gì, rồi điện thoại hẹn hò cô giáo. Cô lái xe thở hắt ra, “hú hồn, không phải mình…”. Một ý nghĩ ướt và lạnh ào tới, làm chênh chao con đường trước mặt, dường như anh đang yêu nghiêm túc, dường như đây là một cuộc tình dài, sâu.

Chiều lại, cô đưa anh tới chỗ hẹn. Hơi trịnh trọng và căng thẳng, anh hỏi, “tôi mặc cái áo này trông ổn không?”, cô cố nhếch cười, gật đầu. Anh vào rồi, cô vòng xe vào bãi đậu, tự kêu mình, “thôi, ngủ”. Nhưng cái đèn gỗ chỗ anh ngồi cứ hắt xuống mặt làm cô không chợp mắt được. Ngó tới ngó lui một hồi cũng hướng lên gác, thấy anh đặt cái hộp có chiếc nhẫn lên bàn. Cô giáo ngó chừng rất ngạc nhiên và cảm động, ngay lập tức đồng ý. Cô lái xe ở dưới này buột miệng khẽ kêu “Đừng!” nhưng quá trễ. Cuộc hẹn kết thúc sớm, anh nhắm mắt xoãi người ở băng ghế sau, bất động như đang trôi đi, chìm trong sự thất vọng. Cô giáo đáng lẽ phải từ chối vài ba lượt, để anh tin rằng nàng yêu anh thật lòng, không phải vì sự lấp lánh của viên kim cương. Đáng lẽ nàng cầm chiếc nhẫn buông chủm xuống hồ cá bên dưới, thản nhiên phủi tay, hay cho phứ cô bồi bàn gần đó.

Đó là lần đầu tiên cô lái xe thấy đời ông chủ mình thật buồn. Bóc những lớp vỏ còn trơ lại nỗi cô đơn, chẳng ai có thể chạm tới. Cô lặng lẽ cho xe chạy mãi trên những con đường ngoại ô, dưới ánh đèn thiếu ngủ đỏ ngầu. Anh bật dậy khi cô đánh xe vòng vào thành phố, chỉ cái quán bên đường, anh bảo, “ghé đây uống chút gì đi”. Và đó là Dốc Mây.

Quán khuya chỉ còn loe hoe vài người khách. Gọi cafe đá nhưng Tóc Tém bảo hết nước đá rồi. Hỏi trà Lipton nóng, Tóc Mây dặn chờ một chút, lụi hụi đi nấu nước. Hai nàng đều hay hay, họ toát lên vẻ buồn bã, kìm nén nào đó không giải thích được. Anh bỗng tươi tỉnh, rạng rỡ, cô lái xe bắc cái ghế ngồi đằng trước, giả bộ ngó bâng quơ mấy con thằn lằn chạy rột rẹt trên trần, cười thầm, “Thấy gái như là chết đi sống lại…”, rồi giật mình, ủa, người ta vui mắc mớ gì mà mình cũng vui.

Cái cảm giác đó làm cô lái xe thấy hoang mang. Cô cố gắng hào hứng khi đưa anh tới Dốc Mây mỗi tuần vài ba lượt, đôi khi thấy anh ghé bên đường mua quà cho Tóc Tém, cô huýt sáo vống lên che giấu một nỗi buồn ngấu trong gan ruột. Cô dặn mình phải cảm tình cái quán đó, hai đứa con gái đó. Cô không muốn đứa em lém lỉnh nói cô ghen. Mắc gì mà ghen, cô thích họ, nhất là nàng Tóc Tém, bao lâu rồi mà vẫn giữ được vẻ ngạo nghễ, khinh khỉnh trước anh.

Mùa mưa đi, rồi mùa trở lại, cái mái che trước Dốc Mây được lợp lại, quán sửa sang đôi chút, nhưng chẳng có dấu hiệu gì là Tóc Tém ngã lòng. Anh chuyển qua đeo đuổi Tóc Mây. Người này có khuôn mặt với những đường nét nhợt nhạt, xanh xao, bộ vó yếu đuối não nùng. Anh bảo nàng kéo ghế ngồi với mình, nàng lướt thướt lại, lặng lẽ nhìn mưa, chép miệng nói một câu lạt lẽo đến nỗi nêm thêm ký đường, hai ký muối :

- Nước ở đâu mà ông trời cứ mưa hoài.

Tóc Tém hơi bồn chồn, cứ rảo quanh, đau đáu nhìn, hình như nàng đã bắt đầu thích anh. Cô lái xe nhìn cảnh đó qua cửa kính, cảm giác như đang xem lại một vở kịch câm, nhân vật diễn những động tác quen thuộc, chậm chạp, lười nhác. Nam chính âu ếm nhìn người nào, ngay lập tức người ấy thành nữ chính. Và nữ phụ thì lượn lờ tìm cớ ngang qua, thấy khăn vớ khăn lại lau bàn, thấy chổi vớ chổi quét qua quýt, chỉ để nam nữ chính không thấy thoải mái bên nhau. Khán giả không hiểu sao thắt ruột.

Một bữa vở kịch có thêm nhân vật phụ, bà già. Tình cờ anh cũng ở đó, Tóc Tém làm ra vẻ hững hờ, giới thiệu, “đây là mẹ em”. Câu nói chẳng hề có biểu cảm gì mà khiến anh với bà già mừng rơn. Bà già cứ nắm lấy tay anh, hỏi han ân cần, làm nghề gì, nhà ở đâu, ông bà song thân còn hay mất. Bà hấp háy đôi mắt đục, hướng về con gái, cằn nhằn, “từng tuổi này con nhỏ còn kén chọn, thiệt rầu hết sức…”. Anh cười, nháy mắt với cô lái xe đang ngồi riêng một góc. Nhưng cô đang mãi miết nhìn trăng trôi, không quay lại.

Và đó là ngày cuối cùng cô đi cùng anh. Hôm sau, đứa em gái cô chuyển đến công ty lá đơn xin nghỉ việc. Anh chưng hửng, cứ hỏi tại sao. Nhỏ em lí lắc cười, “anh gọi điện thoại mà hỏi chị em”. Cô bắt máy với cái giọng lạnh tanh, “tôi không thích công việc này nữa”.

- Nhưng tôi có thể sắp xếp cho San việc khác, thí dụ như làm ở văn phòng.

- Tôi thấy không tiện.

- Nhưng từ chiều nay tôi phải đi đứng làm sao, khi mà San không đến?

- Trong công ty nhiều người biết lái xe, anh nhờ họ.

- San à, tôi…

Nhưng cô tắt điện thoại rồi, cô sợ chỉ một câu nói của anh nữa thôi, cô sẽ chạy tới, vò lá đơn quẳng vào sọt rác. Rồi lại cùng anh đi trên những con đường lúc nhúc, nghẻn cứng người mà cô thì hầu như không cầm nổi tay lái vì một bí mật vừa rơi vào làm tràn ly nước, vì buồn.

Hôm qua, trong lúc có mặt bà già, Tóc Tém đã để anh cầm tay rất lâu. Tóc Mây hết đứng lại ngồi, một hồi kéo bạn ra phía sau nhà, họ âm thầm cãi nhau, và trong khoảnh khắc giận dỗi ngoay ngoắt, Tóc Tém ôm ghì bạn lại, cả hai lả đi với nụ hôn sâu.

Cô lái xe đứng lặng ngoài rào, như bị trăng đông thành pho tượng. Cô không biết làm gì với niềm tin vào tình yêu đang phụt phù nhóm lửa trong anh.

Những mùa trăng ướt

Truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tư


Sanh cùng tuổi Nhêm, xuống tóc thọ giới cùng một ngày, lúc loay hoay vận y cà sa, Sanh bất ngờ thò tay vào sờ soạng giữa hai đùi Nhêm rồi cười tí tởn, “Nhỏ xíu. Vậy tui làm anh nghen”.

Nhêm đỏ mặt, gật đầu, vì Sanh khôn ngoan, dữ dằn và già dặn hơn. Những đứa trẻ như Sanh luôn già trước tuổi. Cha hứng nước thốt nốt rơi từ ngọn cây xuống đất gãy cổ, mẹ nó đi cõng hàng lậu thuê qua biên giới, chết đuối giữa dòng nước lũ, chỉ một năm sau. Sanh tựa cửa nhìn những người thân mình bước đi vào sớm mai và cũng trong những buổi sớm mai ứa nắng trên đồng, họ về bằng chiếc cáng với hơi thở đã tắt. Sanh sống với chú. Nhà chú cũng nghèo, thím chia thức ăn cho con mình trước, tới Sanh chỉ còn miếng cơm cháy với chút nước cá kho. Sanh vào chùa để “kiếm ăn”, như lời nó nói, là chọn lựa giữa đói triền miên và đói nửa buổi.

Tui còn cha mẹ đâu mà tu báo hiếu, Sanh nói thẳng. Vào những buổi chiều đói rã rời, long đầu óc, đã có lúc Nhêm rủ Sanh lén lút ăn cái gì đó, Sanh lắc đầu, tui phải giữ giới để trả ơn buổi sáng và trưa Phật cho tui ăn no. Và Sanh để mặc Nhêm lăn lộn với cái bụng trống rỗng cồn cào, nó ngáy pho pho. Đói cũng là một thói quen của Sanh, từ tuổi lên mười.

Nhêm thì nghĩ mình không bao giờ có thể quen được những cơn đói buổi chiều tà. Khi nhà hàng bên kia đường bắt đầu có khách. Gió từ mé biển cứ đòng đưa mùi thức ăn trên đầu, làm nó nghẹt thở như thể đó là dây thòng lọng. Cái vòng rào loang lổ nước sơn và cánh cổng rơi vài mảng gạch không thể chặn lại mùi dầu cháy tỏi trong chảo. Sanh nhìn Nhêm suốt buổi tối cứ thều thào nhỏ dãi, nó giễu cợt, “Nhắm có ở chùa được tới năm sau không, ê?”.

Nhưng Nhêm đã ở chùa ba năm. Thời gian đủ để nó bình tâm, thôi quay quắt trước những ngọn gió trần tục ban chiều. Ba năm cũng đủ cho những nhà hàng, quán ăn phục vụ khách du lịch kịp quây kín, như bóp nghẹt ngôi chùa. Hành trình khất thực có chút thay đổi, Sanh và Nhêm không còn đi trên lộ nhựa, dọc bờ cát ven biển, dưới những hàng cây thốt nốt im lìm. Phum sóc đã dạt xa lên đồng, co cụm gần chân núi Cóc. Và những thức ăn mà bà con dâng thường không có những mùi thơm của những quán xá bên đường.

Nên thỉnh thoảng, khất thực xong, bọn Sanh vòng về con đường bắt đầu ướp nắng để thưởng thức sự vương vất của những món ăn xa lạ. Các cô gái với những bộ trang phục buông tuồng trễ nải tụm lại ngó hai nhà sư trẻ cười cợt, “Lục ơi, tu chi cho khổ vậy, về nhà ôm em sướng hơn nhiều…”. Nhêm cúi đầu bước đi, chân líu ríu. Sanh ung dung đằng sau, mắt lại đầy giễu cợt, “Thấy chịu không nổi thì về nhà đi, Nhêm”.

Lần về thăm nhà gần nhất, mẹ Nhêm cũng nói vậy, sau khi chắp tay vái nó ngoài sân, “sư về nhà luôn đi, ba năm rồi còn gì…”. Giọng bà mỏng, ríu dần lại khi cha nó bước ra, cha muốn nó tu đạt tới tỳ kheo, muốn nó được cả sóc kính nể và trọng vọng, điều mà cho dù có nhiều đất ruộng và trâu, cha Nhêm cũng không có được. Ông đành đặt hy vọng vào Nhêm.

- Na Thi vẫn chưa về đâu - Cha nói.

Cha biết cách để Nhêm tự nguyện ở lại chùa, học kinh kệ. Na Thi chưa về. Cô nhận lời phụ bán quần áo cho thím A Phò khi Nhêm vào chùa được hơn năm. Trưa cuối gặp nhau bên hè, đá chân vào đám cỏ mần trầu, cô bần thần vuốt mãi mớ tóc xoăn tít, Nhêm đi rồi em ở lại đây buồn lắm, ngang qua nhà Nhêm em nhớ quá. Em đi vài năm em về, lúc đó Nhêm cũng hoàn tục rồi. Ngoéo tay, ngón tay cũng run, nóng bỏng. Rồi Nhêm lại khăn gói tới chùa xa, không gặp Na Thi lần nào, về nhà thấy mẹ Na Thi buông nón chắp tay lạy đằng xa, bà nói ngay, Na Thi có về, nó hỏi thăm sư có khỏe.

Trong lúc Nhêm trông Na Thi về thì biết đâu Na Thi cũng chờ đợi nó, ý nghĩ đó làm những câu kinh Phạn cứ vuột khỏi môi, trôi tuột. Lục Cả hơi buồn. Vài đệ tử nhập thế, chùa chỉ còn Lục Cả, Nhêm và Sanh. Hai sa di cứ loay hoay với những bài tụng sơ đẳng nhất, nên Lục Cả cô đơn với những kiến thức Phật pháp sâu sắc, bao la, cô đơn với những pho kinh thư đồ sộ. Ông hầu như không kỳ vọng vào đám trẻ, một vô thần, níu Phật để trốn chạy cái đói, cái ghẻ lạnh, một ngóng mãi phía cổng chùa.

Khuôn viên chùa rộng mênh mông, người ít, mà lá cây rụng vô kể, cỏ cũng nhiều. Suốt ba tháng nhập hạ, sư trẻ dường như chỉ tụng niệm và làm cỏ. Cỏ lớn nhanh, mãnh liệt đến nỗi họ phạt cỏ đằng trước thì sau lưng đã lún phún mầm xanh. Tưởng tượng, chỉ một tháng họ không cầm dao làm lụng, cỏ sẽ vươn tận thềm chính điện, lút đầu người. Vậy nên lúc cắm đầu thổi lửa vào đống cỏ khô, Sanh nhằn, sao mà tui ghét trời mưa quá.

Nhêm cũng ghét. Giữa lễ nhập hạ cho tới xuất hạ, chỉ là những cơn mưa dài, lướt thướt. Hai đứa quẩn quanh trong chùa, cắm mặt vô những trang kinh, mắc chán. Sanh học lóm được nghề làm tranh kiếng, nên xin Lục Cả ít tiền mua vật liệu, mày mò làm. Những lúc ấy Nhêm thật sự cô đơn, Sanh bỏ quên Nhêm để cắm mặt vẽ bức chân dung cha mẹ nó. Vài lần Sanh đã ném cọ đi khi phác thảo hình ảnh cha mẹ mình ngồi thảnh thơi, an nhàn trong căn nhà gạch khang trang. Nó dằn vặt vì đấy không phải là chân dung của những người thân, không giống họ chút nào, cả căn nhà, cả nếp áo phẳng phiu, tươi rói. Rốt cuộc bức tranh thờ dang dở, vì trong ký ức Sanh đã không còn lưu giữ những khuôn mặt cũ. Điều đó làm nó tuyệt vọng. Sanh hay rủ Nhêm xách cuốc chim đi làm cỏ ở gần rào sau, từ đó nhìn lên cánh đồng dưới chân núi là những phum nhỏ nằm quẩn dưới chòm cây xanh rì, khói bếp len qua những tầng lá thành những sợi lam mỏng vờn, phai mãi vào nền trời. Thốt nốt dọc theo các con đường nhỏ ngoằn ngoèo vẽ vào cánh đồng những nét cô đơn, vết mực đậm và đầy đặn ở phía này và bắt đầu mỏng vút cuối tầm nhìn. Dưới trăng chiều, vài con trâu quay tít cái đuôi xua những con ruồi xanh lè, to bằng đầu ngón tay cứ chực xông vào. Thấy Sanh níu vào rào, Nhêm hỏi, “Nhớ nhà hả ?”. Dứt mắt khỏi sóc Tà Cóc đang im lìm dưới làn mưa mỏng, quay vào sala, giọng Sanh quạu quọ, “Có nhà đâu mà nhớ”.

Nhêm sợ Sanh, nó có thể rất hiền lành, tử tế, nhưng Nhêm nói điều gì đó nhắc nhớ tuổi thơ buồn bã, và Sanh nổi khùng lên. Nhưng làm sao Nhêm biết chuyện nào buồn, chuyện nào không ? Bởi vậy, hai đứa hay hục hặc nhau vì những chuyện không đâu, thí dụ Nhêm buồn tình lấy hơpâm gõ bài “chim sáo”, hai gáo dừa mới lộp cộp đã bị Sanh đá văng lông lốc, ai mà biết lúc người ta khiêng cha Sanh từ ngoài đồng về, ông chủ lò nấu đường vẫn dửng dưng ngồi gõ hơpâm cho hết bài, rồi mới thủng thẳng phủi đít đứng lên, “Chết rồi hả ? Thôi, tiền còn nợ tao coi như xóa bỏ”. Những chiều Sanh ngồi trước sala, lặng lẽ nhìn bồ đề rụng lá, Lục Cả thở dài, có lẽ ông thất vọng vì nhà chùa không làm lành được những khối tổn thương trong lòng Sanh, cũng như bất lực trước một xã hội tổn thương, những giá trị luân lý đục ngầu bên ngoài cánh cổng.

Ở đó cũng có đám người đang ghét cay ghét đắng mưa rơi. Khách du lịch thưa thớt. Gió biển ướt rượt thổi qua dãy nhà hàng, khách sạn vắng người, những cô gái không lượn lờ ngoài sân nữa mà co cụm trong nhà, hết giũa móng tay tới sơn móng chân, hết tỉa chân mày đến se lông mặt. Rồi sự lười nhác trễ nãi biến mất, họ tản đi khi người đàn bà cho vay tiền góp, lăn cái thân năng chịch vì mang cả ký lô son phấn trên mặt đứng trước nhà hàng tru tréo gọi Lan Huệ, Sầu, Ai ơi. Mấy chục chiếc vòng chất gần đến cổ tay kêu leng keng mỗi khi bà chuyển động.

Nhờ âm thanh đó, cùng với dáng người thấp lé đé các con nợ luôn phát hiện bà từ xa, và họ biến mất. Cô cũng tạt vào chùa vào một bữa âm thanh những chiếc vòng xủng xẻng đã quá gần. Te tái vào ngồi ở thềm sala, cô dáo dác nói, cho ngồi chút chơi nghen. Nhưng mặt cô không có vẻ là chơi, căng ra khi bóng người qua cổng. Sanh mỉa mai, có trốn nợ thì trốn chỗ khác, ở đây là chỗ tu hành. Cô độp ngay, giọng cố kìm lại nên nhỏ mà rắn đanh.

- Ủa, đây là chỗ từ bi mà, mắc gì tôi không được vô. Ừ, trốn nợ đó. Hay là Lục…cho tiền đi, trả nợ xong tôi không ghé đây nữa.

Nói rồi cô phủi đít dợm đứng lên, nhưng mớ âm thanh leng keng vẫn còn quanh quẩn ngoài kia. Cô trùng trình ngó Sanh, “chùa này đâu phải của Lục, mắc gì tôi sợ”. Cô ngồi lại, điệu bộ lỳ ra, vẻ thách thức.

Những ngày sau, cô lại tới. Cô nhận ra một chỗ nương náu an toàn, nơi mà mọi lời mắng chửi rủa sả không vọng đến, hoặc hoặc vói theo một cách yếu ớt. Chùa không hẳn là thiêng liêng với họ nhưng là sức mạnh tinh thần của tộc người. Ai cũng biết điều đó. Họ đã chứng kiến những cái sroc nghèo xơ xác, những ngôi nhà cột cặm trống trước trống sau nhưng ngôi chùa thì luôn luôn rực rỡ. Đó là lý do Nhêm ở đây, cha muốn nó là một con người rực rỡ. Đó là lý do Sanh ở đây, nó không bao giờ đói dưới sự rực rỡ này. Đó là lý do cô ở đây, cộng đồng người trong sroc kia sẵn sàng thấm máu vào áo mình để giữ cái rực rỡ tồn tại trong thế giới đức tin của họ.

Cũng không tìm được lý do khác cho việc cô gái lui tới chùa. Cô chẳng hề yêu thích ai ở đây, cái cách nói chuyện khinh khỉnh, sấn sổ, ngạo ngược của cô nói lên điều đó. Nhưng Lục Cả luôn bất an, ông luôn sai sư trẻ làm lụng mỗi khi cô nhẩn nha lại. Và ba tháng hạ của năm mười bảy tuổi, họ đã làm rất nhiều việc, lợp lại mái sala, sơn một số chi tiết trong chính điện, cuốc đất mảnh vườn sau để gieo cải, quét lá khuôn viên chùa. Cô luôn lẻo đẻo đi theo, hỏi những câu ngớ ngẩn, thí dụ, sao không đốn bỏ cây bồ đề luôn để khỏi quét lá cho mắc công? Sao bức tranh này không sơn màu xanh mà là màu vàng? Sao nền chính điện cao dữ vậy? Lục Cả nhiều lúc cũng buồn cười, ông nói, tụi tôi làm không mệt bằng nghe cô hỏi. Cô rụt cổ cười. Nhêm cảm giác, nếu bóc mảng son phấn ra, mặt cô sẽ lành và trong như em gái nó.

Chắc cô cũng bằng tuổi ấy, mười sáu, hoặc nhỏ hơn. Sanh hỏi tuổi, cô vặt vẹo, “Lục rảnh quá thì đi tụng kinh, xoi mói chuyện của tôi làm gì?”. Sanh xúi Nhêm hỏi thăm tên, quê quán cô gái này, Sanh nói “con nhỏ đó ghét sư, tại hôm trước sư đuổi…”.

Nhưng Nhêm cũng không khá hơn, hỏi, cô chỉ vào khoảng sân, châm chọc :

- Cỏ.

Người nhà chùa xem đó là tên của cô. Cỏ bằng tuổi Na Thi, mười bảy. Đương nhiên là từ nơi khác đến. Lục Cả nói, những đứa con gái làm nghề này chỉ đổi chỗ cho nhau. Con gái ở đây thì bôn ba xứ người mua vui cho thiên hạ bằng đuôi mắt cuối mày, và ngược lại. Chúng làm nên một cuộc nổi trôi buồn bã. Nhêm bỗng liên tưởng tới Na Thi mỗi khi nhìn Cỏ cố che mảng da thịt bằng cách kéo cái áo ngắn ngủn nằm vắt vẻo nửa lưng trên.

Nỗi nhớ Na Thi đã lạt đi rất nhiều, Nhêm áy náy lắm. Sau lễ xuất hạ, trời vẫn còn nhập nhòa mưa. Nhưng bọn Nhêm không bỏ bất cứ buổi khất thực nào, dù là đi dưới mưa. Không hẳn vì những thức ăn cúng dường hai sư có được sau một buổi vòng tay ôm bát, mà vì nỗi nhớ những nẻo đường, hàng cây, bờ đá… Ba tháng quẩn chân vườn chùa, bỗng dưng thấy mọi thứ đều thay đổi, lạ lẫm, và trò đùa của các cô tiếp viên rảnh rổi ngày càng tai quái hơn, có lần qua quán “Duyên Quê”, một cô môi đỏ trút vào bát họ ít thức ăn. Quay lưng đi một quãng, Cỏ lao theo giằng lấy bát, hắt xuống đất. Mớ thịt đã bị băm nát nằm vãi trên sân. Cỏ hằn học hỏi :

- Thịt rắn đó. Muốn phá giới sao?

Các cô khác đấm vào lưng nhau cười ngặt nghẽo. Sanh ngó sững cô, cái nhìn ánh lên chút dịu dàng, hàm ơn. Về tới cổng chùa rồi Nhêm vẫn còn ngơ ngác. Nó sợ. Những người không có đức tin sẵn sàng báng bổ đức tin. Nhưng Sanh vẫn thích đi trên con đường đang còng lưng gánh những quán bia, nhà hàng, nên ngày nào nó cũng kéo Nhêm vòng lại. Ngày nào cũng thấy Cỏ ngồi chán chường ở quầy bar trong quán, nét mặt, khóe môi, bàn tay… tất cả chi tiết trên người cô buông lơi, trễ nãi, cảm giác mọi thứ đang rời nhau và trôi đi. Cả nụ cười mỉm khi nhìn thấy người nhà chùa cũng là nụ cười đang trôi vô định. Nhưng hành trình đột ngột thay đổi, Sanh không đi qua đó thêm một lần nào, vì một buổi trưa ngang qua cuộc tiễn đưa, thấy Cỏ đang chèo kéo quấn vào đám đàn ông sắp lên xe, trong cái khói nắng mùa hạ. Mắt còn đậu lại trong khi chân vẫn liên tục bước, sư trẻ thấy Cỏ ngó theo, thoáng chênh chao.

Cô không ghé chùa nữa, vì mùa khô bắt đầu quay lại, khách lác đác đến tắm biển, uống bia. Buổi chiều, sư trẻ đi nhổ những dây mướp đã chết khô trên bờ rào, dáo dác ngó về phía cổng, ai bước vào hai đứa cũng thất vọng thở hắt ra.

Ngày cuối cùng của mùa hạ, người trong sroc mượn sân chùa làm lễ cúng trăng. Cỏ ghé chơi lúc sắp khuya rồi. Khỏi nói Nhêm mừng như thế nào, đến nỗi, nó tự hỏi, gặp Na Thi, nó có mừng được bằng cỡ đó không. Sanh không tỏ thái độ gì, dửng dưng ngậm ngọn cỏ vung vinh trên môi, “ủa, tối nay không ở nhà chơi với tụi nhà giàu?”, Cỏ cười, “mắc mớ gì tới Lục?” rồi lảng đi, lại gần Nhêm, coi người ta bắt mấy đứa nhỏ ăn cốm dẹp, theo thông tục. Hồi nhỏ, Nhêm cũng được đút cốm dẹp, khi người ta vuốt lưng, hỏi, năm nay muốn gì, nó gần như òa khóc, “mắc tiểu quá, con muốn đi tiểu”. Năm đó nắng dai, lúa bị khô háp trên đồng, hành không đặng củ, cả sroc cứ đổ thừa tại Nhêm.

Giờ thì mấy đứa nhỏ cũng trợn trạo ngốn cốm dẹp và nói thích lúa, thích gạo. Điều đó làm Nhêm buồn cười, trẻ con không thích đồ chơi đẹp, quần áo đẹp thì thôi, lúa gạo mà làm gì. Chắc là cha mẹ chúng đã dạy trước, Nhêm cũng từng buộc phải học thuộc lòng. Chỉ là tụi nó bây giờ khôn ngoan hơn, và không bị mắc tiểu giữa chừng, như Nhêm. Đang kể chuyện vẩn vơ thì sương trên đuôi lá bồ đề rụng xuống trán, Nhêm giật mình.

Không thấy Cỏ ngồi bên cạnh nữa. Sanh đã kín đáo lôi xểnh cô ra phía sau sala, chỗ những dây bìm bìm leo xum xuê trên mái chuồng gà bỏ hoang. Nỗi nhớ, sự ghen hờn, xót xa, niềm kiêu hãnh giày bừa trong lòng Sanh làm nó như mê đi. Cỏ chỉ cười nhẹ, xấp xãi bước theo, vẻ mặt không ngạc nhiên chút nào. Hoặc cô đã chờ đợi điều này lâu, nên chỉ thở cồn cào như một con sóng nhỏ khi tay và môi Sanh bắt đầu uống ngấu lấy cô. Thằng con trai đó đi qua những cơn đói nhưng chưa bao giờ ngưng sống, như cỏ của những mùa trăng ướt.

Nhêm tìm thấy Sanh đang đứng đối mặt với khoảng tường, y cà sa căng tròn, bọc lấy thân thể Cỏ. Cô chỉ còn đôi chân, và khuôn mặt, phần còn lại của cơ thể đã tan biến. Bóng trăng lấp ló chồm vào đôi người lấp ló. Nhêm chết sững và nỗi tức giận nào đó ứa ra bưng mắt, buốt những đầu ngón tay, nó hồng hộc chạy về phía chánh điện, chỗ Lục Cả đang tụng khúc cầu an.

Sanh rời khỏi chùa vào chiều hôm sau, hoàn toàn không có một nghi lễ hoàn tục nào đưa tiễn. Ngang qua quán rượu, Sanh dừng lại chờ rất lâu mới thấy Cỏ ơ hờ bước ra, Sanh chụp níu lấy tay :

- …Đi với tôi nghen?!

- Đi với Lục thì lấy gì ăn? - Cỏ hắt tay Sanh, lạnh lùng hỏi lại.

Không biết, ngay việc bây giờ đi về đâu Sanh còn không biết. Có thể đi làm thuê, làm mướn ở một nơi xa xôi nào đó, đào đất, trèo thốt nốt lấy nước, làm cửu vạn hay vác những bộ tranh kiếng bán dạo khắp nẻo đường. Sanh nuốt thất vọng quay đi. Đám con gái trong quán thò đầu ra cửa sổ, nhìn theo cái lưng gù gù như cõng đá, tru lên thảm thiết, trời ơi, Lục đừng đi, Lục mà đi thì tụi tui phải chung tiền cho con quỷ sứ này, phải biết Lục dễ dụ dỗ vậy, tụi này không đánh cuộc… Sanh khựng lại một vài giây, rồi nó gần như bỏ chạy, nó cảm thấy mình tắt thở rồi. Chết trước khi những cơn đói ập đến trừng phạt nó, vì sự bội tín, vô ơn với Đức Thích Ca.

Những ngọn gió cuối mùa Nam còn sót lại đưa tin thắng cuộc của cô tiếp viên đi nhanh. Người đàn bà cho bạc góp hể hả đòi được món nợ cũ, ghé chùa nói với Lục Cả, “Riết rồi không thấy người nữa, chỉ thấy mấy thứ giống người...”, rồi day mắt về phía sư trẻ đang quét lá giữa sân chùa vắng, “may nhờ lục Nhêm tu tập tử tế…”

Nhêm nghe được, cười khan, nỗi buồn cào cấu rát lòng, sao người ra đi lại là Sanh mà không phải nó, sao cô gái đó chọn Sanh? Hỏi hỏi và hỏi. Trời thì cao và xanh xao.

Đi giữa đôi bờ…

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư


Có lần, ngồi uống trà ở một ngôi nhà nằm trong con hẻm nhỏ ở thành phố Cần Thơ, tôi nói gièm, cháu viết gì đó về chú nghen, ông Lê Chí lắc đầu nguầy nguậy, thôi Tư ơi, chú thì có gì mà viết. Tôi nản lòng hết biết, một phần vì câu nói của người mà tôi nghĩ là thân thiết, một phần vì sự thật tôi biết quá ít về ông: thơ, quãng đời mà ông có khi tôi chưa sinh ra, thậm chí, tôi sẽ phải ngơ ngác, chú ơi chú sinh năm nào?

Tôi đi lòng vòng ra sân, nhìn mấy con rùa nắp chạy rượt trong hồ nước, bỗng phát hiện mình biết cái người ở kế bên ông Lê Chí nhiều hơn. Người này ngộ lắm, cũng làm thơ, nghe chừng nổi tiếng… tương đương ông Lê Chí. Tên cũng hao hao, Lê Chi Sắc. Bạn cùng thời với ông uống vài ba ly vô nói vui, “thơ Chi Sắc hả, ừa, không thường đâu, trường phái “câu mâu” mà”. Tôi là lớp hậu sinh, đọc thơ ông rải rác in trên báo, thấy đúng là khó kiếm một câu chép lại để… dỗ dành người yêu.

Tôi gặp ông khá nhiều lần, nhưng trong ngăn ký ức tôi ngoài cái tên ông, thì trống trơn, không có hình ảnh cái của áo ông, hay nét mặt, giọng nói, nụ cười… Giữa những lần chào nhau, ông thường hỏi thăm ba tôi có khỏe không, và tự câu hỏi đó đã làm tôi đi tụt lại giữ một khoảng cách, vì ý nghĩ ông Chi Sắc này là bạn của ba mình, một người lớn.

Nhưng bỗng một ngày tôi nhận ra ông cũng có thể là bạn mình. Ông trẻ quá, nhìn cái kiểu ông hớn hở cầm hai giò lan dại mua ở bên đường, tôi nhớ mình hồi nhỏ gì đâu, nhớ nỗi vui má đi chợ về, mua cho mấy cái bánh ú, củ khoai mì. Cái cảm giác thấy được ông khiến tôi ngây ngất.

Và trong chuyến đi Tây Bắc dài thăm thẳm, ngày nào tôi cũng lặng lẽ lượm lặt chi tiết, hình ảnh ông rồi lục đục cất giữ vào cái ngăn mang tên Lê Chi Sắc. Là ông dắt tay cô gái Mường nhảy sạp trong một tối mưa mịt mùng bản Lác, những bước nhảy hồn nhiên, một chút bối rối, một chút ngượng nghịu, một chút thích thú. Tôi nhớ, ở điệu nhảy cuối cùng, ông đã kéo tôi ra khỏi cái góc nhà, và nỗi vui ông đầy tới mức tràn cả sang tôi. Hay cái cách ông giận dỗi vợ chồng chủ quán ăn dọc đường đã cư xử thô lỗ, sau khi lua chén cơm qua quýt, ông bỏ ra xe ngồi một mình. Vẻ mặt rạng rỡ, mắt lấp lánh ánh cười trong một khuya rượu núi Simacai. Một trưa nắng cháy trên những dãy núi héo hắt, ông bước lên xe, trên tay là cây sim dại vừa nhổ bên đường, rễ cây còn ôm theo một chùm đất, ông cười, “về trồng bậy làm kỷ niệm chơi”.

Trên xe, cái góc ông cất đồ không lẫn được với ai, những phong lan, sim dại, tượng gỗ, vật dụng đan bằng mây, tre, cái ếp đơm xôi, tù và sừng trâu. Và đá. Có lần đi giữa đảo đá Jeju, nhà thơ Chim Trắng bỗng dưng nhắc, “trời ơi, phải có thằng cha Lê Chi Sắc ở đây, chả mê phải biết”. Mê đá, chuyến ta bà nào ông nhà thơ này cũng nhặt đá đem về, viết giấy dán lên, Lũng Cú, Hạ Long, Phú Quốc, Côn Sơn… Một bữa sửa nhà giấy rời ra, đá lổn nhổn cục nào như cục nấy, lượt đá ông nhặt sau “tai nạn” đó, ông viết chữ lên luôn cho… chắc.

Trong ngôi nhà quá rộng với một người nhưng quá chật với hàng hàng lớp lớp những mặt nạ gỗ, mặt nạ gốm, tượng nhỏ tượng to, cồng chiêng, trái bầu khô, chuông gió… ông luôn sống trong ký ức của những chuyến đi, của những vùng đất mà mình từng đến, của những người bạn, người thân. Những ký ức xanh tươi rất lâu. Bạn bè cũng nhớ ông lâu, nhớ hoài, vì đi qua một hòn đá lạ, một giò lan, một lọ gốm đất nung, một con… rùa, hay chỉ tiếng những thanh tre khô chạm vào nhau đinh đong… cũng nghĩ, ờ, Lê Chi Sắc thích mấy cái này lắm, hay chuông gió kia nhà Chi Sắc cũng có.

Nên trong lòng bè bạn, ông cũng tươi mới như những ngày đầu. Cái ngăn ký ức của tôi dành cho ông chẳng lâu sau đã chật. Nói về cái sự mê đi… chợ của ông thôi, tôi phải giữ trong mấy ngăn mới đủ. Tôi hình dung, nếu muốn bắt bí ông, hỏi câu “chú đã đi bao nhiêu cái chợ rồi ?”, ông sẽ ngẩn ngơ cười, “hỏi kỳ, sao nhớ hết?!”. Đến một chỗ nào, ông nhà thơ luôn để ý coi cái chợ nằm đâu, và mình có bao nhiêu thời gian để ra… chợ. Chợ với ông không đơn thuần là chỗ mua bán, mà là chỗ chơi. Câu chữ ông dùng chính xác là vầy: “đi chợ chơi”. Có lần, xe mới dừng lại, ông đã xăm xăm đi, đám trẻ tong tả bám theo. Ông lội lòng vòng, quay xuống rồi ngược lên, đám trẻ mỏi chân, hỏi nhau, “Ủa, anh Chi Sắc đi đâu vậy?”. “Đâu có biết, thấy đi kiểu hăng vậy là “có vấn đề” nên lội theo”. Đằng trước ông đã ngoặt vào một cửa hàng, ở đó người ta bán toàn tượng gỗ, mặt nạ gỗ, được chạm khắc bằng các đường nét thô sơ, nhưng sống động, huyền bí như vừa mới lấy ra từ những khu nhà mồ. Đám trẻ nhìn ông chống nạnh vừa thở vừa nghiêng ngó, mắt sướng rỡ, tự hỏi, ông làm sao biết được cái chỗ ngộ vầy trời.

Tôi có lần ghé nhà, đúng lúc ông vừa về sau khi đi một vòng qua Hà Tiên, Rạch Giá. Ông hí hửng khoe mấy con chuột đồng và bó hẹ nước mua ở chợ Vị Thanh, “trời ơi, mười mấy năm mới gặp lại hẹ nước”. Tôi mắc cười, như thể bó hẹ nước xanh nhuốt kia là cô Hường cô Huệ nào đó mà hơn mười năm trước ông từng yêu thương hò hẹn. Nhìn ông, rồi nhìn bó hẹ, tôi tự hỏi ông sẽ làm gì với nó, nấu canh, hay xào, hay ông cứ ngồi ngắm nghía, mà nhớ đồng bãi Cà Mau.

Về xứ lần nào ông cũng đi thẳng về quê, khi trở lại thành phố mới là khoảng thời gian cho bạn bè. Và đi chợ, không phải cái chợ lạ bán những món hàng lạ, mà là cái chợ quê xứ bày bán cá rô cá lóc, rau đồng, bông súng, bông so đũa, rắn rùa, tôm lụi… Quen thuộc, nhưng ông vẫn “đi chợ chơi”, để biết đâu, gặp rắn bông súng hay trái bình bát chín, ông sẽ “mua chơi”. Dường như ký ức về cái thời trẻ vụng của ông được lưu giữ trong những cái chợ như thế này, nên ông đi để nhớ đất xưa, nhà xưa, quê xưa. Còn tôi đi chợ là để mua gì đó cho bữa cơm trưa, nhưng có bữa đi qua cô bé ngồi với rổ năn bộp, tôi nhớ ông. Nhớ cái hình ảnh ông rảo lòng vòng trên những cái lối đi xem xép nước và bùn để đi kiếm chúng.

Bằng cách đó, ông sống trong tôi. Những ký ức về ông đôi khi cánh cửa không giữ được, chúng ào tới, xôn xao. Mấy đứa con gái theo hỏi ông làm sao mà trẻ lâu, bắt chước cái kiểu “ăn uống giản dị”, như lời ông nói. Mỗi sáng uống một cốc mật ong pha loảng, trưa ăn bữa chính, chiều mấy củ khoai luộc hay ít trái chuối xiêm. Mỗi tuần vài ba lượt ăn lá nha đam (gọt vỏ), xay chung với ít mật, ít trái dâu tây. Cũng không đơn giản lắm đâu, nhưng thích trẻ lâu nên bấm bụng làm theo. Rồi một bữa nhận ra, cái tâm hồn đã già từ thuở thiếu nhi của mình, già hoài không trẻ, thì níu kiểu gì cũng không có được vẻ mặt nhẹ nhỏm của ông, hay cái kiểu lè lưỡi, rụt vai cười hồn hậu.

Giữa hai bờ già – trẻ, ông qua lại tỉnh bơ. Mới hồn nhiên đó, bỗng dưng nghe ông cằn nhằn mấy người trong đoàn sao rề rà chậm chạp, tôi thấy ông đã ở bên bờ của ba tôi. Hay có lần ông rầy tôi viết cái entry hơi gay gắt trên blog, tôi buồn quá xách xe về, cảm giác ông không phải bạn-tuổi-ba-mươi thô vụng của mình, ông là người lớn, ông cách tôi một con sông. Buổi tối gặp lại, nghe ông rủ, sáng mai đi kiếm cái giỏ bàng đi… chợ chơi, tôi bỗng chênh chao, ông này đúng là bạn mình mà. Nghĩ kỹ thì ông khó tính, khó nổi bật lên trong những người khó mà tôi quen. Không phải là nhiều hay ít, mà là cái kiểu khác nhau. Cái kiểu của ông Lê Chi Sắc này, tôi ngán, vì đúng lúc cảm nhận của mình bị dẫn dắt vào cái trẻ trung, hồn nhiên, bỗng dưng ông sang bờ quay quắt làm mình đứng lại chơ vơ.

Mà ông nhanh lắm, sông rộng vậy nhưng ông bước qua bờ gọn hơ, bất ngờ. Hoặc là trong ông không hề có một dòng ngăn cách nào. Làm “mất lửa” nhiều người với kiểu câu “thôi nhỏ ơi, chú thì có gì đâu mà viết” nhưng ông lại ấm áp trước gánh hàng rong, người bán vé số, con chim sẻ, người chạy xe lôi. Coi cái cách ông dịu dàng với ký ức, với kỷ niệm, ai cũng nghĩ ông là người cũ, ở bên bờ cũ nhưng ông hiện đại không ngờ. Ông về xứ lần nào cũng có vài ba người bị ông rầy vì không sắm điện thoại di động, không chịu làm quen với máy tính, không vô mạng…Một chị cười ngất, nói chắc ông quảng cáo cho hảng máy tính nào đây. Ông cũng cười xòa, rồi nghiêm giọng, nói vậy chớ cái máy vi tính hay lắm, không tưởng tượng được đâu em ơi. Ông luôn tạo một con đường vòng, cứ nói vài câu là ông quay về ngay cái chủ đề đó. Với tôi, ông nhà thơ đã chớm bảy mươi này, chưa biết chat trong gmail, chưa biết nén file hình ảnh nhỏ lại để gửi kèm thư cho mau… mới là biểu tượng cho… IT. Tiếp nhận muộn màng, tự mày mò, tự khám phá công nghệ mới một cách kiên nhẫn và hào hứng, như thể ông đang tìm một giò lan đẹp, đến một vùng đất đẹp… Buông bó hẹ nước chuột đồng qua một bên, ông ngồi trước máy tính đọc và trả lời mấy cái thư, xử lý tin, bài cho website văn học đồng bằng rồi quay lại với hẹ nước chuột đồng, hình ảnh ấy sao mà ngộ.

Nhưng với ông nhà thơ này, đâu có gì ngộ. Bình thường thôi. Và cũng rất bình thường khi bạn bè một bữa ngồi làm việc trên máy tính bỗng nhớ ông, như đã từng nhớ ông khi gặp bờ rào đá, hoa cỏ lạ…

Của ngày đã mất

Truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tư


Vào giữa mùa khô, chúng tôi thực hiện chuyến du khảo đồng bằng châu thổ. Hai tuần cuối cùng của cuộc điền dã, chúng tôi ở lại Thổ Sầu. Những khúc hát của các bà má ở xứ này đã giữ chân chúng tôi lại quá lâu.

Chúng tôi thuê một chiếc ghe nhỏ, len lỏi vào những con kinh, rạch chằng chịch của Thổ Sầu. Sáng, cậu lái ghe là một người ít học, hoang dã và mạnh mẽ. Sáng cùng mẹ đi bán hàng bông từ năm mười hai tuổi, cậu ta rành rẽ đường ngang lối tắt, thuộc lòng con nước lớn ròng. Hôm gặp Sáng ở bến sông, tôi nói tôi cần tìm những bà già biết hát, cậu ta cười, “Nhóc luôn. Chú muốn đi tui chở”.

Và Sáng không quá lời, hôm nào chúng tôi ra đi cũng gặp khúc hát mới từ một bà già trầu đỏ trên môi. Em có vẻ phấn khích với những giai điệu mà chúng tôi chưa từng biết, chưa ai sưu tầm bao giờ, “Phụ mẫu đánh em quặt què quặt quại. Treo em lên tại nhánh bần. Rủi mà đứt dây rớt xuống em cũng lần theo anh…i a…”(*). Em làm việc luôn trên ghe, nghe lại những đoạn băng ghi âm, đính những mẫu ghi chú vào và viết lời, ký âm vào giấy. Cuối ngày, tôi sẽ nghe băng và đối chiếu với bản ký âm. Em ngồi gần đó, dõi theo nét mặt tôi, và thường nhoẻn cười khi thấy tôi cau mày khi phát hiện vài sơ sót nhỏ.

Em theo tôi làm công trình sưu tầm, khảo cứu dân ca hơn một năm, không vì niềm đam mê nào rõ ràng ngoài việc em thích tôi, “vì thầy giống ông Ba”. Đó là ông già hàng xóm đã làm bạn với em suốt một tuổi thơ thui thủi, cha ở tù vì biển thủ của công, mẹ mải mê lao vào những cuộc hẹn hò. Em cắt tóc bên cao bên thấp tới trường, trông khá quái dị. Và tôi đã xoa đầu em một cách bâng quơ, trong một cơn phấn khích mà tôi không thể nhớ. Em nhắc lại rất chi tiết, “hôm đó tay thầy thơm mùi cỏ cú. Em biết cỏ này, vườn ông Ba nhiều lắm”. Ngừng một chút, em dụi mặt vào ngực áo tôi, giữa cái sảnh đông người, “thầy cũng dịu dàng, như ông Ba”.

Tôi cười, em ngây thơ tới mức ngay cả sự tàn tạ, khô kiệt của sự sống và dịu dàng cũng không phân biệt được. Nên việc cho phép em tham gia nhóm nghiên cứu cũng vì một cái gật đầu bâng quơ. Khi hoạch định chuyến đi, em níu tôi đòi theo, tôi ngó em từ đầu tới chân, giọng hơi mỉa mai, “vụ này cực khổ lắm, cô nhắm chịu nổi không?”. Em cười, “Dạ, không sao đâu. Miễn là em được ở bên thầy…”. Câu cuối cùng em hạ giọng, nghe nhẹ như một lọn gió bấc buốt qua lớp áo, tôi lấy kính ra lau.

Khi ấy tôi đã sáu mươi chín tuổi. Em mới hai mươi hai. Tôi không bao giờ muốn nhớ điều đó, nhưng đôi kính lão, dáng người héo như chỉ là da bọc lấy những đốt xương rời, mái tóc đã ngã màu bông lau chín… tất cả những gì thuộc về tôi đều nhắc nhở, tôi đã quá già. Tôi từ chối thẳng, “thôi, cô ở lại. Tôi sẽ đi với Trâm”. Cái tên của một đàn chị khá giỏi giang không làm em thất vọng mảy may, em tỉnh bơ quay đi.

Hôm ra xe thì em đã cõng ba lô chờ sẵn ở đó, thấy tôi đi một mình em không có vẻ gì ngạc nhiên, chỉ cười chòng chọc, ý như “em biết mà, thầy nói gạt em”. Tôi ngẩn ngơ không biết làm gì với một cô gái thông minh và quá hiểu mình thì em đã kéo tôi lên xe. Em ngủ suốt đường đi, ngủ ngon lành như đứa trẻ con. Nhiều lần đầu em dục dặc mất điểm tựa, tôi đã lén kéo vào mình, nhưng bàng hoàng nhận ra vai tôi đã cứng khoèo.

Những ngón tay cũng khô khi tôi lần vào ngực em trong tối đầu tiên. Em giấu nụ cười trong chiếc mền, “được nằm kế bên thầy, thích lắm”. Cái cảm giác mình đang khô đi khiến tôi rã rời, hầu như không có một cơn rạo rực nào khiến tôi có thể ôm lấy em. Lời bỗng rát trên môi, lục cục lòn hòn, xẵng lè, “tôi không thể ngủ được khi có người lạ”. Em vẫn cười và nhích ra mép giường, suốt đêm không chạm vào tôi. Tôi thì không sao chợp mắt, phấp phổng sợ em mê ngủ, lăn độp xuống đất.

Vẻ mặt hốc hác của tôi sáng sau đã khiến em áy náy. Những ngày rong ruỗi tiếp nối, luôn có hai giường riêng biệt, cho tôi và em. Giấc ngủ không vì vậy mà đến với tôi dễ dàng.

Không biết có phải vì vậy mà tôi cáu kỉnh suốt, chỉ vì một nốt nhạc sai, tôi cũng có thể càu nhàu, giận dỗi. Nhưng mỗi lần tôi nhăn trán thì em chỉ rụt cổ cười. Có lần tôi giận đến xé phăng bản ký âm đi, em lại gần và cắn vào tay tôi, nheo mắt, “thầy tính đuổi em đi bằng mấy cái lỗi nhỏ xíu này hả?”. Tôi ngó cái dấu răng trên da thịt mình, cảm giác em gần gủi tới mức như đang ở trong tôi. Bản ký âm em làm lại không hề có một sai sót nào. Dường như em sung sướng cố ý mắc một vài lỗi để buộc tôi sưng sỉa, rầy rà. Tôi biết điều đó, nhưng không hiểu sao tôi lại chờ đợi được cuốn vào vở kịch của em bày sẵn.

Thị tứ đã lùi xa sau lưng, chúng tôi đi sâu vào những xóm làng heo hút. Cái túi chứa những cuộn băng cassette ngày càng đầy, giữa đêm em mở lại tiếng gà trưa, hay ai đó ới lên “ăn cơm…” trong một khu vườn thăm thẳm. Bờ lau xào xạc gió. Nước chảy vào họng đìa. Con chim nào đó kêu ánh ỏi. Một ngày đã qua với em là ngày không bao giờ mất. Tôi thì mất trắng, đôi khi nằm giường bên này, mở cuộn băng ký ức của riêng mình, nghe lại tiếng khóc ngất của em khi bị đỉa đeo, tự hỏi, sao lúc đó tôi không ôm em vào lòng mà chắp tay sau đít càu cạu, “chán không chịu nổi. cô còn tính khóc tới chừng nào nữa?”.

Vài lần lội tắt qua những cánh đồng tàn rạ để đến cái xóm nhỏ vắt vẻo giữa đồng khơi, nơi có bà già nào đó đang cất giữ trong ký ức một câu hò, điệu lý mà chúng tôi chưa biết, tôi đã tưởng cái ngày hôm đó không bao giờ mất. Giữa trời và đất lồng lộng, bỗng dưng tôi cười xòa, nói đùa mấy câu ý nhị. Cái cảm giác chỉ có em và tôi và cây cỏ dại trên đồng làm tôi thấy dễ chịu. Thậm chí tôi chủ động nắm tay em, và bàn tay nhỏ nhắn đó thoáng lạnh đi vì bất ngờ. Em giả vờ ngó bâng quơ mây lên trời, lâng lâng vui. Nhưng tôi đã không giữ tay em được lâu, vì khi rình bắt con chuồn chuồn gần cái ao nhỏ sắp cạn nước bên bờ ruộng, tôi đã thấy lại mái tóc trắng xóa của mình. Và cơn nắng khô khốc trùm phủ lên tôi, khi bước vào cái xóm nhỏ đó, nghe mời, “hai chú cháu uống ly nước dừa cho mát rồi hẵng đi”. Tôi ngồi rũ ra, thở dốc, không hoàn toàn vì điệu hò mà chúng tôi cần tìm đã bị chôn vùi tuyệt tích xuống đất cùng với một người già, bảy tháng trước.

Cuộc đi của chúng tôi bỗng dưng chậm lại. Em hay than mỏi chân, ngồi ì ra dưới một gốc ô môi bên con đường xóm vắng người. Tôi cằn nhằn “kiểu này thì biết chừng nào mới tới chỗ đây. Tôi đã nói là cô chịu không nổi mà. Thiệt là… chỉ làm vướng chân tôi”. Em cười hinh hích, kéo tay tôi ngồi ngồi xuống cạnh mình, nói “thầy ơi, thầy mỏi chân đi”. Sau câu nói ấy thì tôi thấy mình bỗng mỏi thật, vì chỉ cần đi chút nữa, gặp người đời, tôi sẽ thấy lại tuổi sáu mươi chín của mình trong mắt họ. Sẽ phải nghe câu nói hồn nhiên của một người hồn nhiên, “Ông anh có con gái ngộ quá, phải ở gần tui hỏi cưới cho thằng út tui, mình làm sui gia chơi”. Và em bỏ chén cơm ăn dở xuống, rối bời nắm lấy tay tôi, “không phải đâu, chú ơi, không phải…”. Cái khoảnh khắc rối bời này sẽ lặp đi lặp lại, chừng nào em còn ở bên tôi.

Tôi muốn ngồi mãi ở cái dưới vòm bông ô môi đỏ, vì chút nữa thôi, trong khi em đặt máy ghi âm một câu hát dân gian, tôi chụp hình gương mặt già quéo của bà cụ và máy ảnh bỗng run, tôi thấy chính mình trong ống kính, lụ khụ, hom hem, miệng phập phều đôi môi trống. Tôi sẽ ở bên em như thế này sao, như một bộ xương đang khô đi, rơi ra từng lóng một. Bà cụ vẫn đang say sưa trệu trạo hát,“Nước chảy lánh linh chảy ra Vàm Cú. Thấy dạng em chèo cặp vú muốn hun”, em cười ngắt nghẻo, “trời đất ơi, ngoại làm con đau bụng rồi nè”.

Tôi gần như không dám nhìn vào cái cười trong trẻo đó vì sợ mình sẽ nhớ lâu. Chuyến khảo cứu đã bước vào những ngày cuối, và khi tới Thổ Sầu, tôi đã giữ được thái độ lạnh lùng với em. Một sự xa cách cần thiết cho tôi thanh thản về lại phòng làm việc trong Viện Âm nhạc, hoàn tất công trình nghiên cứu của mình cho đến cuối đời. Và cho em đủ tỉnh táo để thấy rằng những thanh niên cùng khoa xứng đáng hơn tôi.

Nên thời gian ở Thổ Sầu tôi thường cau có, Sáng thấy đôi khi tôi gầm gừ em chỉ vì những lỗi nhỏ, cậu ta cằn nhằn, “chú ỷ lớn rồi ăn hiếp cổ…”. Tôi nạt lại “cậu thì biết gì…” rồi bỏ đi chỗ khác. Sáng day qua em, an ủi, “thây kệ ổng, mấy ông già hay khó tánh…” rồi ngẩn ra khi thấy em cười tỉnh bơ, chẳng có vẻ gì buồn bã. Tôi hoang mang, cáu giận cũng là một cách quan tâm. Nhưng dửng dưng thì có tác dụng không?

Chiếc ghe đưa chúng tôi đi từ khúc hát này đến khúc hát khác, vì sông rạch chằng chịt, chúng tôi không thể quay lại thị xã trong ngày. Đêm chúng tôi ở lại nhà bà con, ngủ trên những chiếc vạc cau gồ ghề, cọt kẹt hay bộ ván đã bị mọt đục nham nhở. Ngày lại, chúng tôi đi dọc những triền sông mãi miết những hàng dừa nước, những lùm chùm gọng, những bụi ráng, ô rô… Giữa những câu hát phều phào đứt quảng vì thiếu hơi “em đi tìm anh nước mắt nhỏ úa cọng cỏ vàng. Anh không tin đi trở lại mấy nẻo đàng em qua” đôi khi tôi được nghe lại tiếng bìm bịp kêu chen lẫn trong nước chân khỏa vào nước, và giọng của Sáng ngập ngừng, “chân của đó trắng quá chừng…”. Tôi ngồi nghe mớ âm thanh đó với vẻ mặt điềm nhiên, vì tôi biết, em đang dõi theo mình.

Không phải vô tình mà những cuối ngày, khi ngồi đối chiếu lại băng và bản ký âm, tôi thường được nghe những cuộc chuyện trò. Tiếng tu hú gọi bầy tao tác, sau đó là giọng Sáng, bữa nào nghe tu hú kêu tui mệt muốn chết. Em hỏi, “sao vậy ?”. Sáng cười khà khà, “vì tui mắc kêu theo nó, cứ tui nín nó kêu, tui kêu nó nín, một hồi muốn đứt hơi”. Em cười giòn. Sau đó là tiếng gió xào xạc, tôi đoán là em và Sáng đang ngồi dưới một bờ tre. Rồi Sáng thở dài, “mai mốt đó về chắc tui buồn ác liệt…”. Tôi nhấn nút stop, như một động thái vô tình, sau khi sửa lại bản ký âm. Tôi thờ ơ vặn mình cho đỡ mỏi, rồi nằm dài khoan khoái trên sạp ghe. Ở đằng mũi, em làm sao thấy tôi đang tái nhợt đi.

Thời gian ở Thổ Sầu vì thế mà hiện diện một cách bất thường. Ngập ngừng, dằng dặc với tôi và em nhưng quá mau với Sáng. Chạng vạng nào Sáng cũng chép miệng than, trời ơi, mới đây mà hết một ngày rồi. Thích em không giấu giếm, có bữa Sáng táo tợn hôn lên mặt em rồi nhảy ào xuống nước. Em ngó về phía tôi, và tôi thì cố gắn lên môi nụ cười bình thản.

Em cúi đầu, nhìn sông trôi xơ rơ.

Buổi chiều của ngày cuối cùng trước khi Sáng chạy chiếc ghe trở lại thị xã, em cho tôi nghe một đoạn băng thừa, Sáng nói, “tối nay tui lấy ghe chở đó lại đằng xã uống nước chơi, cũng gần đây thôi”. Em ngập ngừng, ừa, cũng được. Tôi chuyên chú nghe lại điệu Lý tình tan,“Có con chim nhạn bỏ đàn. Qua đây nhớ bậu bò càng khóc thương”, rồi bôi bôi xóa xóa trên tờ giấy trước mặt. Cây viết tuôn mực như đang khóc. Để kìm lòng lại, tôi bỏ chúng qua một bên, soi mình xuống sông, để thấy tóc mình, gương mặt gãy khúc trên mặt sóng, mầy già rồi, mầy già rồi, mầy già rồi.

Lúc em xin phép đi với Sáng thì mặt tôi đã ủi phẳng, trán tôi không nhíu lại, mày tôi không cau, nụ cười tôi an nhiên, dặn dò mấy câu như chính con gái mình hẹn hò. Tôi mà chớp mắt, em sẽ trở lên bờ. Buổi tối trong căn nhà mà chúng tôi nghỉ lại, tôi ngồi đập muỗi lép bép đến khuya, bà cụ già đã hát điệu hò huê tình lúc chiều hỏi tôi sao buồn vậy, tôi cười, đâu có, tại trà đậm quá. Bà gật đầu, “Ừ, tụi nhỏ chậm thiệt, tới giờ vẫn chưa về”. Tôi không tin bà lãng tai, dù có lúc, tôi hỏi bà đi lại có khó không, bà trả lời, ăn thịt chó tội chết.

Nửa đêm. Tiếng dây xích buộc ghe xủng xẻng dưới bến làm tôi chui vào mùng và ngủ say, thanh thản. Tôi tin rằng chưa bao giờ mình lại ngủ một giấc sâu, đến mức cảm giác như mình đang chìm từ từ vào chết. Em bước lặng qua chỗ bộ vạc tôi nằm ngáy. Dưới bến, Sáng chắc là không ngủ được, tiếng dây xích mũi ghe cứ lao xao suốt.

Sớm sau, lúc chạy chiếc ghe cũ chậm chạp ạch đụi đưa chúng tôi ra thị xã, Sáng nói, mai mốt tui lên Sài Gòn làm mướn, thể nào cũng kiếm hai người chơi”. Em hoảng, “Anh không bao giờ tìm được tụi tôi đâu. Đừng đi”. Nhưng chẳng có dấu hiệu nào Sáng sẽ nghe lời em, bắt đầu từ ý nghĩ bỏ Thổ Sầu, chiếc ghe và những dòng sông, cậu ta bước vào cuộc theo đuổi biền biệt.

Cái ý nghĩ chính chúng tôi đã làm thay đổi số phận của Sáng khiến chuyến xe ngột ngạt. Tôi và em vẫy tay cho đến khi Sáng chỉ còn dấu chấm than nhỏ nhoi, tuyệt vọng. Em day lại, quệt nước mắt và suốt chặng đường dài, không hề nhìn tôi. Cái cảm giác mất em bắt đầu ăn lan trên từng thớ thịt. Chuyến xe cập bến vào một buổi chiều tàn lụi, nhưng chúng tôi mãi mãi không trở về được cái nơi mình ra đi. Đời vốn không buồn, nhưng người ta cứ làm cho nó buồn.

Chiếc taxi đưa tôi đi một quãng, thì cái trống trải đã thấu buốt tận đỉnh đầu. Tôi ríu giọng nhờ người tài xế quay lại chỗ em đã buông lời từ giã dửng dưng. Chỉ còn nhao nhác những khuôn mặt lạ, em đã mất trước khi ngày mất. Sẽ còn gặp nhau, nhưng em không là em cũ. Tôi gần như nói ra bằng lời, may quá, cuối cùng thì cô ta cũng chịu rời khỏi mình. Thật may.

May quá, mai kia khi trút hơi thở cuối cùng, tôi chẳng phải nặng lo cho em, lúc đó ngồi cạnh tôi với gương mặt ướt.


(*) Mượn từ “Bộ hành với ca dao” của nhà thơ Lê Giang
Chuồn chuồn đạp nước

Truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tư


Nhỏ con tham gia một gameshow, cha là người trợ giúp. Câu hỏi như sau, người ta hay nói chuồn chuồn đạp nước, vậy câu ấy mô tả trạng thái nào của chuồn chuồn?
a. đẻ trứng
b. tìm kiếm bạn tình
c. đói
d. sắp chết
Ba mươi giây bắt đầu. Cha nói, b là trúng phóc. Nhỏ con hỏi vặn vẹo, chắc hôn nghen. Cha hơi tự ái, chắc chắn trăm phần trăm. Cha biết đoạn trò chuyện này sẽ được phát trên truyền hình toàn quốc, nếu không dằn mặt nó thêm vài câu nữa. Nhỏ con trên trường quay ngần ngừ, nó nhờ thêm một quyền trợ giúp, lần này họ lọc lại chỉ còn hai phương án, nhỏ con hú vía, b và d bị xóa trắng. Nhỏ con chọn a, nó lý luận với ông dẫn chương trình, chắc lúc đói chuồn chuồn không còn sức để đi đạp nước đâu. Nhờ kiểu suy luận cùn đó mà những câu hỏi sau nữa nó tự tin để vượt qua, cầm tấm sec mười lăm triệu mừng quýnh vẫy tay chào khán giả.

Đó là một ngày tháng chín gió giành ngọn dữ dội. Nam chưa đi mà chướng đã tới thổi cheo heo. Hai cha con rời trường quay, ở bãi đậu xe, nhỏ con nói, phải con nghe lời cha là tiêu tùng rồi. Cha ậm ừ chống chế, lúc đó quýnh quá mà. Trên đường về nhà gặp lúc triều cường, cha phải chạy vòng qua ngã khác để tránh con đường bị ngập nước, nhưng ở vòng xuyến cha lại quẹo phải, nên lạc đi xa. Nhỏ con muốn mau về nhà để mừng tưng bừng với mẹ nên kêu lên, cha đi đường này chi cho xa vậy? Cha thắng nhủi đầu xe, dục dặc, lâu nay chạy lộn đường hoài, bộ không biết sao mà còn hỏi tới hỏi lui?

Nhỏ con chưng hửng không hiểu vì sao cha quạu bất tử. Nhưng nó đang ngây ngất với món tiền thưởng nên không để bụng buồn lâu. Cha nghe nhỏ con im re đằng sau, cũng cụt hứng, lặng lẽ chạy miết. Hồi lâu nghe nhỏ con lại khều khều bên hông, cha mới hay mình đã chạy qua khỏi nhà. Tẻn tò quay lại, nhìn hai mẹ con họ nhảy cà tưng dưới cánh cổng chấp chới những bông huỳnh anh, cha hoàn hồn, nếu chẳng may chiếc xe bị ngập bugi tắt máy giữa chừng, không biết mình có xô ngang bỏ lại bên đường sau khi đá vô chiếc xe mấy cái.

Bữa cơm tối đó cha ăn một cách gượng gạo. Gắp cho nhỏ con cái đùi gà hấp rau răm, mẹ nói mẹ phải đi mấy cái chợ mới mua được gà thả vườn, cha mới nhận ra trên mâm có thịt gà. Một cơn khó chịu nào đó đầy ứ trong cổ họng cha, vợ không gắp cái đùi gà còn lại cho mình, chuyện này chắc có liên quan tới vụ chuồn chuồn đạp nước mà nhỏ con kể lúc chiều. Khi đó mẹ đã cười ngặt nghẽo, vậy mà ba mầy toàn viết văn dạy đời thiên hạ. Cha chép miệng, con người là con… người, cũng có lúc lẫn lộn, em cũng mang dép lộn hoài đó.

Nhưng cha biết mang dép lộn không thể xếp chung với chuyện chuồn chuồn đạp nước. Cha nghi ngờ đáp án của chương trình, ngay trong khoảnh khắc ở trường quay và khi nằm trên ghế bố trong phòng, cha thấy hình ảnh con chuồn chuồn đang vào độ tuổi yêu, khao khát bạn tình, cô đơn soi bóng mình trên sóng nước là quá chừng có lý. Cha vùng dậy, chui xuống gầm sàn lục tìm cuốn sách Thế giới loài vật mà tháng trước dọn dẹp cơ quan cha quẳng về nhà. Cuốn sách mất tăm. Chỉ có một đống rác, cha cằn nhằn, nhà có hai người phụ nữ mà dơ như vầy, thiệt hết chịu nỗi.

Cha mặc quần áo xách xe đi, mẹ cầm cây chổi nhìn theo cái lưng dài thượt của cha tự hỏi tại sao chỉ vài tấm giấy báo mà mặt mày cha nghiêm trọng vậy. Chạy mông mênh, cha vẫn không biết mình đang đi đâu. Rút điện thoại gọi cho ông bạn, rủ ra quán văn nghệ, câu đầu tiên khi bạn kéo ghế ngồi là:

- Chuồn chuồn đạp nước là nó đẻ hả mậy?

Ông bạn gật đầu cái rụp, không mảy may suy nghĩ như đó là chuyện đương nhiên mặt trời mọc ở đằng Đông.

- Ừ, bộ mầy chưa biết hả?

Cha muốn bỏ về. Ông bạn này làm thơ, dân làm thơ ngu ngơ trên trời với mây gió, vậy mà ông biết chuyện sinh đẻ của chuồn chuồn. Còn cha thì không. Cái ý nghĩ đó làm cha buồn nẫu nê, bia ngon bao đời nay bỗng dưng đắng đót. Ông bạn nghe kể lại chuyện ở trường quay, ông cố làm ra vẻ mặt nghiêm túc để nén cười, để nói một câu nghiêm túc:

- Thôi bỏ qua mầy ơi, đâu phải cái gì người ta cũng biết hết.

- Ừ, nhưng không biết vụ này thì mất mặt quá, mậy.

Ông bạn nhà thơ cười ha ha:

- Quan trọng là người ta trong mắt mình như thế nào. Tao thấy mầy cứ mệt mỏi vì chuyện mình như thế nào trong mắt người ta.

Nhưng đây không phải là người ta, đây là vợ và con mình, cha nghĩ vậy nhưng không còn sức để cãi. Cha về nhà và ngủ một giấc với hy vọng, khi thức dậy cha quên cơn ác mộng mang tên con chuồn chuồn này, thức dậy với một bình minh khác.

Và đó thực sự là một bình minh khác. Lúc cha bước ra khỏi phòng với cái đầu nhức bưng thì con gái cũng dắt xe đạp tới trường, con gái mặc cái áo dây mới mua bằng tiền thưởng, cha ứa gan với cái khoảng vai trần nhỏ nhắn của đứa con gái mười chín tuổi. Cha định cằn nhằn thì những con chuồn chuồn bỗng chao liệng, khiến cha nghẹn ứ. Cha hình dung nhỏ con sẽ trả lời như vầy, áo kiểu này bây giờ là mốt đó, con thấy cha không biết gì hết, chuồn chuồn đạp nước còn không biết thì biết gì. Hoặc vả con nhỏ sẽ không nói, nhưng ánh mắt nó nói trong lúc quay lại thay áo khác. Cha sợ điều đó, cha đứng trong phòng tắm và ngậm bàn chải rất lâu, đờ đẫn đến nỗi nuốt hết mớ bọt kem đánh răng trong miệng. Mẹ nói vói vào, Duyên Anh tính mua dàn vi tính mới cho anh, chớ máy cũ chập chờn có ngày bản thảo mất hết. Cha ỉu xìu, thôi, xài máy đó quen rồi, máy lạ mất hứng viết. Mẹ gạn hỏi, giọng gì nghe như chết rồi vậy, anh có bị sao không?

Không, cha không bị sao hết, không có vết xước nào dù tối qua trong trạng thái mụ mị trở về nhà. Bữa nhậu thằng bạn trả tiền. Cha không mất gì nhưng thấy mất gì đó. Cha tới cơ quan và bỗng cảm thấy hụt chân như những bậc thang biến đâu rồi. Anh tài xế bước vượt lên, cười hỏi, bữa qua nhậu dữ lắm sao mà sáng nay thấy anh lờ đờ vậy? Cha lượng sượng ờ ờ. Một tháng sau, khi cái gameshow có nhỏ con thi được phát sóng trên truyền hình, anh lái xe sẽ kín đáo cười với cô thủ quỹ ế chồng khi thoáng bóng cha qua cửa, thấy tướng vậy mà cũng dở òm. Hàng trăm triệu dân trên đất nước này sẽ biết người viết ra những trang văn đầy góc cạnh nóng bỏng, thấu đáo mọi sự được mất, triết lý xâu xa, là một người mất căn bản trầm trọng về… chuồn chuồn.

Buổi chiều lại, cha không vào cơ quan, cha chạy xe về quê. Cha ngồi trong khoảng vườn đượm nắng chiều, nơi cha vẫn thường về khi mệt mỏi hay căng thẳng, tuyệt vọng, nhìn chuồn chuồn đậu trên đám chà trong ao, cào cào búng trên những bụi cỏ ống, mấy con ong ve vãn bông đậu bắp. Bây giờ thì cha nhìn đăm đắm nấm mộ của bà nội, cha rầu rĩ, phải má không chết sớm thì chắc mình đã biết vụ chuồn chuồn đạp nước rồi. Thành ngữ được lưu truyền trên môi những bà già quê mà.

Cha ở với đám chuồn chuồn cào cào ong mật suốt cả cơn nắng tắt, nghĩ mông lung, tụi chuồn chuồn đã chơi với mình suốt một tuổi thơ sao không đẻ cho mình thấy, hay là mình đã từng thấy nhưng cuộc sống thành thị khiến mình quên đi, tại sao không quên chuyện gì khác mà quên chuyện chuồn chuồn đạp nước? Có quá nhiều chuyện nhân tình thế thái mà cha không quên, có nhiều thằng cha xỏ lá cà khịa đâm sau lưng cha, đáng lẽ nên quên đi cười trọn nụ, để đời nhẹ nhỏm mà cha không quên, thì sao lại quên vụ này? Cha thẩn thờ trở vô nhà đúng lúc chú Út cà xình cà xang từ đằng xóm về, chú say. Cha đã viết cả một tiểu thuyết dài về đứa em này, một điển hình của sự thoái hóa của nông thôn. Những sòng nhậu đông đúc buổi sớm mai, những người nông dân bị mất cảm giác về đất, những bạo hành trong cơn say. Cuốn sách đó cha có đem về nhưng chú không đọc, mà nếu đọc thì chú cũng chẳng hiểu cha đang viết cái gì.

Cuộc đời cha là một sự cao quý xa vời đối với chú Út. Nên thấy mặt cha, chú lấm lét, cố vịn vách để đứng cho vững, để chứng tỏ mình chỉ uống chút xíu thôi. Bình thường, cha luôn ở trước mặt em mình với tư thế đĩnh đạc, miệng thì gầm gừ, mầy hư kiểu này ba má dưới chín suối làm sao yên được. Bình thường thì thím đứng tựa bếp nhìn cái cảnh anh em rầy rà, thím thấy thỏa thuê, sung sướng. Thím hay bồng con ra chợ xã gọi điện thoại méc cha vụ này vụ nọ, thím nói bây giờ thì chú chỉ nghe mỗi mình cha thôi.

Nhưng cha hoàn toàn câm lặng, chiều nay. Cha nín thinh ngó chú đang trùng trình bên vách, rồi lủi thủi dẫn xe qua cây cầu tre cọt kẹt. Thím nguýt chồng, “đọ, sáng mắt chưa, nhậu nhẹt tới mức anh Hai giận bỏ về rồi kìa”. Cha ngoái lại, tự hỏi, sau khi biết vụ chuồn chuồn đạp nước, không biết cô em dâu của mình có còn gọi điện nữa không?

Cha đã đi qua ba bảy hai mốt bình minh, luôn thức dậy với nỗi tuyệt vọng mình còn nhớ. Ông bạn nhà thơ thấy cha gầy sọp, la lên, “trời đất, không chừng vợ con mầy đã đi khỏi cái trường quay đó rồi, sao mầy còn ở lại hoài chi cho khổ vậy?”

Cha nói, công việc khiến tôi là cái thứ dễ bị thương tổn. Cha cũng muốn đi khỏi cái giây phút nghiệt ngã đó. Cha muốn quên nó đi, chuyện nhỏ như con thỏ mà. Cha nói thầm, ừ, quên thì quên, mình có phải thần thánh đâu mà chuyện gì cũng biết. Sai lầm chỉ một chút từ a tới b thôi. Cha về nhà, huýt sáo bài hát yêu thích để cho mình phấn chấn trở lại, ngồi viết một truyện ngắn mang tên “Quan trường”, “để trả lời câu hỏi của con, đấy có phải vũng bùn không mà ai cũng lấm lem khi bước vào”. Cha đọc lại câu dẫn nhập và nghĩ, mình thôi không viết về nông thôn nữa. Thấp thoáng những cánh chuồn chao trên mặt ao bèo. Sợ phải nhớ chuyện mình đã cố quên, cha bỏ ngang, lấy cái phim chân dung Đài tỉnh làm về mình ra coi lại. Nhưng tới cái cảnh cha đang đọc bản thảo còn mẹ với nhỏ con thì ngồi gần đó, lắng nghe mê say, ánh mắt của hai người họ đắm chìm trong ngưỡng mộ, cha bỗng hoang mang. Bầy chuồn chuồn chấp chới trong lòng.

Cha nhớ có lần mình đốt con cúi lấy tổ ong vò vẽ trên cây khế, nhỏ con đã nhìn cha như một anh hùng.

Cha nhớ có lần dầm mưa sửa lại cái máng xối, mẹ đã nịnh nọt, “nhà văn mà làm được mấy chuyện này không phải dễ kiếm à nghen”.

Cha nhớ hàng trăm chuyện vụn vặt như vậy. Nhưng bây giờ, cha có hái mặt trăng xuống thì cũng không chắc hai người phụ nữ đó có nhìn mình được như xưa, sau sự cố chuồn chuồn.

Cha bắt đầu vùi đầu vào sách. Cha đọc nhiều tới mức lên mâm cơm là nói vanh vách những hiện tượng thiên nhiên, lịch sử những kỳ quan thế giới, kết cấu của tầng địa chất, sự diệt vong của khủng long ăn thịt và voi mammoth, nguy cơ của loài chim cánh cụt khi Bắc Cực tan băng. Đặc biệt là chuồn chuồn và những gì có liên quan tới chuồn chuồn, thí dụ như “chuồn chuồn bay thấp thì mưa. Bay cao thì nắng bay vừa thì râm” (đám bạn của cha lúc nhậu sương sương ba mớ thì nhại vầy “chuồn chuồn bay thấp thì cao. Bay cao thi thấp bay vừa thì thôi”). Cái đó thông dụng không tính, nhưng một bữa nhỏ con không có nhà, mẹ về hỏi Duyên Anh đâu, cha nhấm nhẳn, “lúc này chắc có người yêu hay sao, như tổ con chuồn chuồn”. Mẹ chưng hửng:

- Là sao? Hỏng hiểu?

Cha cười mủm mỉm, ủa, hỏng biết thiệt hả, nghĩa là bí ẩn đó, có đời nào người ta biết hay người ta thấy cái tổ con chuồn chuồn làm sao đâu. Mẹ hứ một tiếng, trong mắt không hiện ra nể trọng gì, chỉ ánh lên mấy chữ, ông chồng ngớ ngẩn, ăn nói không giống ai.

Cha thấy tuyệt vọng với mớ kiến thức của mình. Buồn quá, lại gọi ông bạn nhà thơ ra quán quen. Đang nghe bạn đọc bài thơ mới làm, cha bỗng sực nhớ, giờ này, trên kênh Khám phá đang có chương trình sự sinh sản của gấu trúc. Mình không thể bỏ lỡ, biết đâu nhỏ con lại cần mình trong một câu hỏi cắc cớ của chương trình cắc cớ nào đó, và trong lúc con bối rối, mình sẽ giúp nó đem về mười lăm, hai chục triệu gọn hơ.

Cha bỏ bài thơ giữa chừng. Về nhà đúng lúc ti vi chiếu lại giây phút huy hoàng của nhỏ con khi nhận tấm sec. Cha tháo một chiếc giày rồi khập khựng nửa muốn vào nửa không. Nhỏ con càu nhàu, nói không thèm lên truyền hình nữa, nó không ăn ảnh lắm, mặt lại nhiều mụn, dòm không đẹp như ngoài đời.

Cha ra ngồi dưới giàn huỳnh anh, run rẩy châm thuốc hút, tàn đóm rụng xuống chiếc giày còn lại.Trời tối mịt, mà chuồn chuồn vẫn bay rợp lòng. Hay vì chuồn chuồn nhiều quá nên khiến trời tối mịt? Cha cũng không biết nữa.

rơm rạ xốn xang

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư

Tôi đã sống trọn một ngày ở thành phố xa lạ đó. Một ngày, đủ để tôi không còn bất ngờ nếu thấy giữa những tòa cao ốc bỗng có mấy ngôi nhà kiểu cổ với những diềm mái cong lên, không ngạc nhiên khi đang đi trên con đường xe cộ tuôn trào gầm gào bất chợt rẽ vào ngỏ hẻm, bất chợt vắng lặng, hanh hao với những hàng rào gỗ, những dây leo, bầy chim sẻ ríu ran trên mái rêu. Đủ bình thản cho tôi, khi ngồi nhìn mấy cậu nhóc nhảy loi choi đọc Rap trong buổi tưởng niệm một nhà thơ nổi tiếng, sau tiết mục ngâm thơ, biểu diễn đàn gayageum... Cả khi lần theo những bậc thang gỗ từ căn phòng lưu giữ những kỷ vật, bút tích của nhà thơ xuống một không gian tưởng niệm khác, dường như tôi đã rất dửng dưng. Nhưng không hiểu sao tôi lại thảng thốt, “Má ơi! Rơm rạ!” khi đẩy cửa bước vào.

Trong cái khoảnh khắc đó, tôi quên mình đã ra khỏi biên giới hàng vạn dặm, quê nhà đã quá xa. Không cầm lòng được, bởi vẻ đẹp của những sản phẩm, mô hình tinh xảo được làm bằng cọng rạ sợi rơm được trưng bày ở đây. Những đàn trâu, bầy khỉ, em bé, cụ già, ngôi nhà, đôi giày nhỏ… nằm ngồi lũ lượt trong những gian tủ kính lấp lánh ánh đèn. Không cầm lòng được, vì rơm rạ quê mùa quá đẹp, nhưng ráo hoảnh, buồn thiu.

Nơi này khác với cái bảo tàng rạ rơm mà tôi đã từng đi qua, là cả một cánh đồng thênh thanh gió nắng. Một cái xóm nhỏ ngó ra con kinh nghiêng chắt nước lên đồng. Không gian sống động đến nỗi có thể cảm nhận được mùi hương của bông súng nở trong đìa, tiếng con chim tu hú gọi bầy tao tác, cá quẫy dưới váng bèo. Trên bờ vườn, dưới ao, mấy bầy gà, bầy vịt ta thong dong bới tìm mồi trong rào sậy. Những con vịt ơ hờ, lười nhác, hay co một chân lên ngủ vật ngủ vờ, bỗng một bữa lăng xăng kêu hoài, chúng cảm giác mình sắp được tự do ngoi quẫy trên đồng, bên những chân rạ còn ứa nhựa, sắp được vục cái mỏ dài vào những ụ rơm tươi. Mùa gặt.

Mùa máy suốt lúa được đẩy xùng xèng dài theo xóm. Nó cắc cớ thổi rơm vướng những nhánh cây, tạo thành những cái hốc, làm chỗ cho đám con nít chui ra chui vô. Nơi đó ấm áp, thơm tho đến nỗi có bữa một đứa ngủ quên, báo hại cả nhà nó phải nhảy xuống ao mò kiếm xác, có bữa đang chiêm bao, bỗng dưng nghe lưng áo ướt đầm, thức dậy mới hay cái ụ rơm bị tuột xuống mé kinh, dập dềnh. Thì có sao, đứa nhỏ níu mấy bụi cỏ ống, lóp ngóp lội lên.

Đứa trẻ đó không bao giờ lớn, cũng chẳng đi đâu, cứ quanh quẩn trên những đống rơm mùa hạ cùng với bầy trẻ khác. Chúng nhào lộn, chúng nhảy từ trên đỉnh xuống bãi rơm nằm tràn ra đường đi, chúng phủ rơm lên người nhau, nói cười nắc nẻ… Lúc nào đi qua miền thương tưởng rạ rơm, cũng thấy tụi con nít với cuộc chơi không bao giờ chấm dứt. Cuối chạp, những cây rơm đã dẻ dặt, xạm màu nắng, không còn hấp dẫn nữa, đám trẻ kéo ra đồng, chạy nhảy cuồng nhiệt trong những cơn gió trời cuồng nhiệt. Buổi xế tát vũng kiếm cá, đào hang bắt chuột, cuối chiều thả diều trên những chỗ ruộng gò, nước đã kiệt chỉ còn trơ chân rạ. Tôi ngồi ở một bờ mẫu nào đó, bắp chân nhột ran vì những cọng rạ chọc ngoáy, nhìn theo một đứa giống hệt tôi hồi nhỏ, cả nước da đen, cái xương vai nhô lên bén ngót, gầy guột, cả cái tính mau nước mắt khi diều đứt dây băng xuống chân trời.

Tôi đã gặp đứa bé đó suốt miền rơm rạ, những chiều nó lăng xăng rải rơm đậy giồng cải mới gieo, những khuya gặp nó đi coi ti vi ké ở nhà hàng xóm về, một mình trên con đường rập rờn cỏ hoa và bóng tối, con cúi vấn bằng rơm trên tay đỏ rực, những tàn đóm lóe lên rồi hui hút bay trước khi lịm tắt đi. Có lần tôi thấy nó đứng kế bên một chị con gái tóc dài đang ngồi dong dãi lựa những cọng rơm dài, nó cứ kéo tay chị, òn ỉ, “làm cho con cây chổi nhỏ đi, đi mà, Út!”. Tôi ngó người đó cắn cọng dây giữa cặp môi buồn để riết chặt cái cán chổi, thấy chị sao mà giống một người thân, buột miệng kêu “dì! dì ơi!”. Nhưng tiếng kêu tôi đã bị tiếng reo của đứa bé đang chầu hẫu ngồi chờ làm bạt mất, cây chổi nhỏ xíu đã được bó xong rồi. Ngay lập tức, nó hớn hở xách đi quét bộ ván ngựa, vài hạt lúa lép trên cái chổi mới vướng lại lổ thủng chỗ mọt ăn.

Người con gái, bộ ván, vách bếp treo một hàng chổi rơm đều tắp… cho tôi một cảm giác kỳ lạ, như thể tôi chính là đứa bé kia, như thể tôi đang sống ở đó. Không có một chi tiết giả nào trong không gian thương nhớ rơm rạ này. Vi tế đến mức, qua một ngày nắng gió, những sợi rơm lại se khô một chút, lại vàng sẫm hơn một chút, lại giòn hơn một chút. Sang tháng ba thì rạ ngoài đồng đã khô quéo cọng, đứa bé kia lúp xúp theo cha nó đi đốt đồng. Ngọn lửa nhỏ run rẩy trong tay, chẳng mấy chốc cơn lửa chạy lan đi. Khói từng bầy dùng dằng tan tác trong những cơn gió rối bời cuối mùa. Đứa bé đang thắc thỏm cho mấy con dế than dế lửa không biết có chạy kịp không thì đám bạn nó ở ruộng bên kia réo qua ăn chuột đồng nướng rạ.

Mưa đầu mùa ào tới khi khói vẫn còn vướng vất trên những thửa ruộng khô. Xa mưa, rạ rơm sống một cuộc đời khác, của những hóa thân. Rạ hòa trộn vào bùn nhão nuôi dưỡng những mầm lúa xanh nhuốt. Bầy gà tìm trùn đất, bươi đống rơm ướt vung vãi ra sân. Đống lúa lép, bùi nhùi mấy con vịt Xiêm đã sục sạo suốt một mùa gió chướng, bỗng mọc lên mấy chòm lúa mỏng mảnh, xanh xao. Tôi lại thấy đứa bé có khuôn mặt quen trốn ngủ dầm mưa hái những cái nấm mọc theo mảng rơm mục rã. Những cái nấm còn tròn như trứng chim, chỉ qua một đêm đã giương chiếc dù nhỏ xíu, thấp tè.

Giữa mùa mưa, những bãi rơm đã ngã màu của đất, hoặc chúng hóa thân vào đất. Nhưng tôi vẫn nhìn thấy sức sống của rơm rạ trong cái nách lúa đã trổ đòng đòng, trong giồng gừng, giồng bạc hà mướt lá… Cái màu vàng ngày cũ đã tự cháy để tái sinh vào màu xanh rượi của cỏ cây. Tôi không mảy may tiếc, vì biết khi những ngọn gió ráo tạnh trở về cái xóm nhỏ này, lại một mùa rơm rạ mới.

Tôi lại ngồi ở chỗ bờ đất tươi thơm, lại gặp những người quen đi lại thẩn thơ. Có anh Kim Ba hiền lắm ngồi ở bộ vạc cau trước nhà ai run rẩy viết mấy câu thơ “mẹ xin rơm gánh về phơi nắng. Phơi nỗi lo trong rừng rực trưa nồng…”, đi một quãng gặp ông già Bắc Sơn râu tóc trắng gõ đũa lên miệng chén ca “Nắng hạ đi, mây trôi lang thang cho hạ buồn coi khói đốt đồng để ngậm ngùi chim nhớ lá rừng…”, và một chiều tơi bời khói rạ, người đàn ông đứng cạnh tôi đọc khẽ mấy câu thơ “Gió phóng túng thổi trên đồng bát ngát. Gốc rạ phơi vàng nghệ giữa trời...” Tôi hỏi ông tên gì, ông cười, Diệp Minh Tuyền. Qua cái bờ tre cong muốn vẹo lòng, gặp một người đang cúi lạy trước rơm, hỏi sao làm chuyện kỳ cục vậy, người này cười, “cả đời tôi muốn được sống thanh thản mà mãnh liệt hết mình như rơm rạ…”, định hỏi tên thì người bỗng hát vống lên bằng cái giọng tệ dễ sợ, em là tôi mà tôi cũng là em. Và trên những con đường, mé mương, bờ ruộng, tôi thường gặp lại những người bạn thuở thiếu thời, ai cũng thơ thẩn theo chân một đứa bé giống hệt mình, hồi nhỏ.

Họ cũng tới miền rơm rạ bằng một sân ga bí mật nào đó giống như cái ga Chín – Ba Phần Tư trong thiên truyện Harry Potter, như tôi. Đưa tôi đi đôi khi là một cơn gió chướng lạc bầy se sắt lạnh, đôi khi là mấy cái nấm rơm nằm héo hon trong rổ nơi góc chợ, có khi là bà già bán dạo chổi rơm đi liêu xiêu trong khói nắng… Một bữa đón con ở trường về, đi qua cây so đũa rụng bông trắng xóa ở góc đường báo tin mùa rơm mới, tôi buồn bã nhận ra không một sân ga, chuyến tàu, cánh cửa nào cho thằng con mình đi đến cánh đồng tháng Chín xôn xao rơm rạ cùng mình.

Con tôi chỉ có thể loanh quanh trong căn phòng chật, mòn quẩn với đống đồ chơi nhựa, với câu chuyện cổ tích tôi gửi lại. Quá nhiều cổ tích, về miền rạ rơm đã mất, những mảnh đất, vùng trời đã mất, những người anh hùng đã mất…

Ý nghĩ đó làm tôi muốn khóc.

“Tóc nào hãy còn xanh…”

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư


Có lần ngủ dậy, tôi ngậm ngùi bò đi lượm những sợi tóc rơi rớt trên drap, chị bạn ngạc nhiên, “ai dè liều mạng, bậm trợn như mầy mà cũng biết tiếc từng sợi tóc”. Tôi cười, “tụi nó là một phần của em mà”.

Người nói câu hay ho đó đã sống hai mươi lăm năm mà không biết tóc cũng thuộc về mình. Cô ta hàng ngày thấy nó cùng với gương mặt mình trong gương, chải chuốt, thỉnh thoảng cô ta cũng đi tiệm cắt tỉa chút đỉnh. Nhưng với cô ta, tóc cũng như áo, quần. Gội tóc chỉ vì muốn cái mùi hoa lài đó khiến người đi sau phải hít hà, cắt tóc để cho gương mặt đỡ khó coi, và một cái dây buộc tóc thật đẹp cũng vì muốn thu hút cái nhìn của người đời.

Nên trong suốt thời xanh trẻ của mình, mái tóc tôi thuộc về cái nhìn của người khác. Tóc suôn mộc bà ngoại ưa. Tóc ngắn dễ chạy nhảy, sau này các chị ở cơ quan thích, khen “nhìn trẻ trung lắm”. Và có dạo tóc dài, cũng để cho ba vui.

Ba thích con gái tóc dài. Ba có cô cháu gái, tóc chảy khỏi thắt lưng. Hồi đó, thấy ba thương chị, cứ nghĩ một phần do mái tóc. Tôi nhìn còn thích, nói chi… Nhất là những buổi chiều lơ thơ nắng, nhìn chị gội tóc ở sàn sau. Chị ngồi dong dãi, trước mặt là cái chậu nước nhỏ, chị xỏa tóc vào đó, lộ ra cái cổ cao, phơ phất những sợi tóc con. Phải mất năm bảy gàu, nước mới ướt đến da đầu. Rất thong thả, chậm rãi và từ tốn, bàn tay chị nhẹ nhàng như múa trên mớ tóc, trên tấm khăn lau, cảm giác như ta có thể thổi bàn tay đó bay đi được, dù chị có quá nhiều chuyện phải làm trong buổi chiều, nấu cơm, quét nhà, rửa chén, giặt giũ, rồi đóng các cửa, thắp nhang trên bàn thờ…

Sau này, khi tóc tôi đã quá nửa lưng, tôi nhận ra nuôi được mái tóc dài cần có một bàn tay dịu dàng, tâm hồn dịu dàng, tính cách dịu dàng. Tôi chẳng có chút nào. Một bữa má rầy, con gái con đứa gì tóc tai xấp xãi, sẵn đang nực nội, khó chịu, tôi đi tỉa phứt cái đuôi tóc đã bắt đầu chảy xuống khỏi bờ vai. Cắt lìa một thứ không thuộc về mình, tôi chẳng ngậm ngùi lâu.

Cái con bé ngồi ne nép bên bờ rào, với hai lọn tóc dài rốt cuộc chỉ là một ký ức lưu lại trên tấm hình cũ. Lâu lâu giở ra coi lại, mắc cười vì bộ quần áo năm ấy coi sến quá, sến chảy nước mắt. Lâu lâu giở ra coi lại, mắc cười vì cái mặt mình khi đó khờ ịt. Và lâu lắm mới lại giở ra coi, hết hồn, trời ơi, mình đã từng có một mái tóc xuân xanh.

Đó là lúc tóc bắt đầu xơ xác. Hay trước đó chúng đã lìa bỏ âm thầm mà tôi không biết. Một bữa lùa tay vào, cảm giác tóc đã mỏng không còn đan kín được bàn tay. Má nói, ừ, sinh con xong tóc ai cũng rụng, không ít thì nhiều. Hóa ra, mấy mươi năm trước, một phần tóc má cũng rời đi khi tôi chào đời. Mấy mươi năm trước nữa, ngoại đã ngậm ngùi nhặt tóc mình trên chiếc giường ấm sực lửa than.

Chỉ là những tế bào chết, nhưng chúng cũng làm nên cuộc hy sinh. Cái ý nghĩ đó làm tôi ngậm ngùi. Không phải là tóc người dưng, tóc của mình đây, cái sợi vừa rớt xuống vai. Và không phải chỉ vì thằng nhóc nhỏ xíu đang khóc cười kia mà tóc rơi. Chúng lìa đi khi tôi cau có, giận dữ, khi tôi mất ngủ, ngập đầu vào những trang viết, nhốt mình trong những cuộc họp tẻ nhạt, khi tôi thấy mình đang rất nhớ ai. Và khi ngồi cầm sợi tóc rời, thương đến nỗi nhìn nó cảm giác vẫn còn tươm máu, thì lại có những sợi tóc khác buông tay cho sự nuối tiếc này.

Có lần ngồi gội đầu, sững sờ nhớ ra mình đã mất nhiều hơn là mấy sợi tóc kia. Sự hồn nhiên tươi tỉnh. Vài đứa bạn xưa. Mấy người quen cũ. Nhặt tóc còn có thể nhìn thấy mất nhưng có những cái mất khác không nhận biết được. Mỗi ngày nhìn thấy người thân ra vào, lui tới, bỗng một hôm phải nhấc điện thoại lên hỏi, ba ơi, ba sinh năm nào ? Ba cách má bao nhiêu tuổi?”, giềng mối còn, nhưng cảm giác về nhau đã mất. Đôi khi lần khân một chuyến thăm, vì nghĩ, người còn ở đó chớ có đi đâu, không hay những sợi dây liên kết tan chảy từng ngày.

Không dấu vết nào để lại cho những cuộc mất. Cho đến tóc rơi, nhắc nhớ cái cách người ứng xử với người. Chỉ có thể nhặt những tàn tích và ký ức để ngậm ngùi, để ngó mình mà tử tế hơn.

Vì chẳng bao giờ trở lại mái tóc xa xanh năm trước. Buồn xo. Nhớ hai câu thơ của Tô Thùy Yên đã chép lâu rồi, “…Một buổi vuốt tóc mình. Nghe sướt ghê lòng tay…”, nghĩ, mình sướt cả khúc lòng chứ, phụ nữ mà. Gặp người chị họ trong một đám giỗ, ngó tóc chị vẫn lướt thướt trên lưng, khen, tóc chị đẹp làm em phát thèm. Chị day lại cười, “đẹp thì cũng chẳng làm gì, chị muốn được như em…”. Để chị sẽ có một mái tóc thưa, sẽ nghe được tiếng trẻ nhỏ gọi mẹ, mẹ ơi. Tiếng kêu mà quá nửa đời người chị và chồng mong chờ trong vô vọng.

Mười năm trước, trong khi gội đầu, chị dạy tôi cách yêu thương những gì thuộc về mình, tôi không học được. Mười năm sau, chị dạy tôi biết ngọn núi mình đang đứng cũng rất cao. Tôi cố học điều đó. Một bữa xế trưa, chạy về nhà thơ ấu, gầy rạc dán mình trên võng. Ba nằm toòng teng trên võng gần đó, bỗng ngồi dậy kêu lên, “trời đất ơi, sao tóc tai xơ cờ vậy ?”. Tôi cười và giấu mặt vào võng giấu nước mắt, khi không còn mái tóc dài lướt thướt, ba vẫn thương tôi hơn bao giờ hết.

Còn buồn chi nữa, đời muốn ta để dành buồn cho muôn vàn chuyện khác…

Dời bến

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư

Bà con của một người bà con dẫn cô lên giúp việc nhà họ vào một bữa trời mưa. Cô vắt đôi tà áo ướt đẫm nước, tròn con mắt phân trần, “xứ gì ngộ quá, đâu có cũng nhà mà không có chỗ đụt mưa. Ở đâu cũng tường rào kín mít, kiếm đỏ con mắt mới gặp được mái hiên, tui mới đứng chút xíu đã bị kêu tránh ra cho người ta buôn bán. Phải ở dưới quê bà con còn đem ghế cho ngồi…”

Ngay cái ngày đầu tiên đó cô đã mang một chuẩn mực mới đến với gia đình họ, tạm gọi là “phải ở dưới quê…”. Ngó mấy con cá rô nằm cạnh rổ cải bắp, cô thẩn thờ, trời ơi, phải ở dưới quê, mình nấu cá rô với bông so đũa, ngọt nước dữ lắm. Bông so đũa mùa này trổ trắng trên mấy bờ kinh, mật ơi là mật. Hàng xóm cãi nhau, cô ngó qua rào, “phải ở dưới quê thể nào cũng có người chạy tới can, người ngoài nói tiếng ngọt tiếng lạt, cũng đỡ căng lắm…”. Sau mỗi bữa ăn, cô tần ngần, “phải ở dưới quê, đồ ăn dư như vầy là nuôi được mấy con heo…”.

Cả nhà chủ vừa buồn cười, vừa khó chịu. Họ đã sống một cuộc sống được xem là hiện đại, đầy đủ, họ hài lòng với những gì mình có. Nhưng cô giúp việc tỏ ra không mấy hài lòng, suốt ngày đi so sánh, mà so sánh với nếp quê mới kỳ cục. Phải ở dưới quê, ra vườn chút xíu là kiếm được rổ rau rồi, đâu phải mua chi cho uổng tiền. Phải ở dưới quê, mùa này gió chướng thả cửa, ở trong cái nhà hả họng đón gió sông, mặc sức mà… run, mở máy lạnh làm chi, ngộp quá chừng. Phải ở dưới quê, chặt cây chuối ra ao tập lội, khỏi mắc công đi hồ bơi. Phải ở dưới quê…

Mỗi ngày qua, cô lại đưa ra một vài kiểu so sánh mới, chi tiết và tinh tế đến mức cô đặt cả bụi và cỏ lên bàn cân. Cỏ ở thị thành cũng vô duyên, phải ở quê, cỏ phơi khô, đem đốt, lấy tro trồng đậu, trồng dưa. Chủ nhà quen dần, thấy mến cái cách nói thẳng thừng, gọn lỏn, ngỏn ngoẻn, tỉnh bơ như thể cái xóm nhỏ heo hút kia mới chính là thiên đường. Và cô, dù đã xa mảnh thiên đường đó mà lòng còn cắm sào ở bến sông, níu mãi bụi ô rô, đọt nhãn lồng, hàng lơn nước xanh rêu, con gà mái quýnh quáng gọi đàn con đến bên ổ mối. Cô đi chậm, cô hòa nhập chậm, bởi bước chân cô kéo theo hàng hàng ký ức, lớp lớp nỗi nhớ. Dễ gì…

Mỗi người có một chuẩn mực của riêng mình để vịn vào, đối chiếu, so sánh. Chủ nhà từng nghĩ cuộc sống hiện đại, sung túc là thiên đường. Nhưng bây giờ thì họ hoang mang, thế giới mơ ước của họ có nguy cơ đổ vỡ trước cô giúp việc ương bướng, bởi cô không nghĩ vậy, gì chớ, quê cô là nhất. Cô là người không dễ bị thuyết phục, kể cả lúc buộc phải đồng tình, ừ cái bếp này không khói, khỏi bị chảy nước mắt, nhưng không khói thì không thơm mùi củi ướt, mùi những con mối nhỏ, trứng kiến bị cháy vàng, mùi khoai lang vùi trong than. Mỗi khi cô “nhưng” nhà chủ thót tim, vì thấy mình thua là cái chắc. Nhiều lúc nằm nhìn cái máy điều hòa thấy mặc cảm dễ sợ, mặc cảm với những ngọn gió phóng khoáng thổi nước chảy tràn lên những bờ sông quê cô. Và việc có nhiều tiền cũng đôi khi làm nhà chủ bẻn lẻn, họ không bao giờ mua được cái chốn nhớ cho mình, với khói đốt đồng, bông khế rụng, mấy con ong bầu vo ve đục kèo nhà làm tổ.

Sáu tháng, cô chỉ có cái lý duy nhất “phải ở dưới quê…” mà xiêu lạc cả nhà chủ. Họ bắt đầu cảm thấy cái nơi mà họ chưa từng đặt chân đến mới là thiên đường. Bữa cô về quê dự đám giỗ, họ nôn nao như chính mình trở về, đám trẻ con dậy sớm, lăng xăng dặn, chị Hai về nhớ đi câu thác lác, bứt bông súng, hái chùm ruột đem lên cho tụi em ăn nghen. Người lớn rảo qua rảo lại, ngó cô giúp việc nháo nhác bên cái giỏ, chỉ mấy hộp bánh tây, trà lài mà cô nhét vào, xổ ra, rồi lại nhét vào, mắc tức. Chút nữa thôi, chuyến tàu trưa sẽ đưa cô về lại thiên đường riêng mình. Nhà chủ ngó cái lưng cô giúp việc khuất dần và nghĩ thầm, mình đã từng có thiên đường, nhưng nó đã không còn nữa.

Cô trở lại nhà chủ cũng một bữa mưa rào. Dường như mưa cuối mùa. Lui cui rửa đôi dép, cô cằn nhằn, “rầu quá, dưới quê bước ra là gặp sình lầy, dơ muốn chết, phải ở thành phố…”.

Chủ nhà hơi khựng lại, ngỡ ngàng. Cô vẫn hồn nhiên, “đám giỗ làm bánh lủ khủ, phải ở thành phố, chạy ra chợ mua cho gọn…”. Lòng cô đã không còn buộc dây nơi bến cũ, thiên đường của cô cũng tan biến mất rồi. Rốt cuộc không có thiên đường nào hết. Chuyện bình thường thôi, cô đã được nếp sống thành thị nuông chiều, nhận ra một chuẩn mực mới. Biết vậy, nhưng nhà chủ vẫn buồn, vì lòng họ đã neo vào một cô giúp việc quê mùa, hồn nhiên, chân chất của mưa xưa.

Những bình minh khác

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư

Chị gọi thằng nhỏ chạy xe ôm ngoài đằng đầu hẻm chở ra ngoại thành tìm mua một mảnh đất rộng để xây nhà vườn. Thằng nhỏ này lanh chanh, nhiều chuyện, mau mắn, gì cũng biết, gì cũng nói được. Chị lẳng lặng nghĩ, chắc hàng ngày cậu ta hay chở khách quen về đường này.

Nên cậu ta nhớ được chòm cây tràm bông vàng ở khúc quanh nào, đoạn nào sẽ có ngôi miếu hoang, quãng nào đường dằn xóc. Cậu ta đưa chị đi khá xa, dân cư bắt đầu thưa thớt, nhưng bảng bán đất nhiều lên. Những cái bảng được kẻ bằng nhiều màu sơn khác nhau, nét chữ khác nhau, cái thì đổ tháu run rẩy, cái thì nắn nót, thơ dại như nét chữ học trò: “Ở đây có bán đất”, nhẹ nhỏm như “ở đây có bán giấm”, “ở đây có bán heo con”. Ngang qua cái bảng viết sai chính tả “Báng đất”, chị định cười thì thằng nhỏ xe ôm buông giọng ngậm ngùi, “Tui thấy cặm bảng bán gì cũng được, nhưng cái bảng bán đất thì buồn quá, buồn hơn hết thảy”. Chị hơi chồm ra đằng trước, ngó mặt thằng nhỏ qua vành tai đen đúa của nó, vì câu nói này ngộ quá. Rồi chị day nhìn bên đường, chắc là bị tác động bởi lời thằng nhỏ, bỗng dưng chị thấy những cái bảng cặm trước nhà người cũng hơi… buồn, trơ trọi, nhỏ nhoi, đìu hiu trong cỏ. Mà, cái “bán dừa khô” hay “bán lá chầm đóp” cũng cỏ cheo leo, đâu có buồn riêng nào cho hai từ “bán đất”?!

Chị định cãi, nhưng thằng nhỏ dừng xe lại. Thêm mấy lượt dừng, chó trong xóm mấy lượt sủa ran, chị mới tìm được mảnh đất ưng ý. Đủ rộng để cất một biệt thự, chung quanh là ao cá, vườn cây, lối đi vòng vèo những thảm cỏ xanh. Chị thích đến nỗi không quan tâm giá cả. Rảo quanh một vòng, thằng nhỏ xe ôm lọm thọm đi đằng sau, nghe chị thao thao vẽ giang sơn của mình. Nhà sẽ day mặt hướng Đông, biệt lập với con đường bởi một dòng sông nhỏ. Chị đứng ở một gốc cây vú sữa già nua, tưởng tượng đây là phòng làm việc của mình, khi mệt mỏi hay căng thẳng, chị ngước lên, sông sẽ rợp trong mắt với bèo, với lục bình, với mây trôi bóng nước. Day sang trái là một bờ lau sậy đang trổ bông trắng xóa, bên phải là vạt hoa sao nhái vàng bừng lên trên nền cỏ xanh. Thằng nhỏ nghe chị với một sự ngạc nhiên kỳ lạ, nó nói, chị mê mấy cái mắc cười quá, nào là sông, nào là sậy, mấy thứ đó cũng thường thôi mà.

Chị nhìn thằng nhỏ với ánh mắt bao dung, cười, “thấy thường vậy, nhưng ở thành phố kiếm không ra đâu nhỏ à. Ngày nào cũng chen chúc, cũng vội vã, cũng mệt mỏi, vùi đầu vô cái máy tính với bốn bức tường, ra đường thì xe cộ khói bụi nghẹt thở…”. Trong cơn cao hứng, chị nói luôn một thôi một hồi, về những nhàm chán, những ngột ngạt của cuộc sống, về những giấc mơ ướt đẫm mồ hôi, thấy mình bị trói trong hàng trăm sợi dây rối bời, càng vùng vẫy chúng càng siết chặt, khủng khiếp hơn là những chiêm bao thấy mình chìm trong làn nước đen ngòm. Chị nói về cái cảm giác tù đọng khi thức giấc với bốn bức tường câm lặng, hé cửa ra là sóng âm thanh hổn độn của đường phố xô vào. Những bình minh lặp đi lặp lại, không bao giờ nhìn được mặt trời lên, vội vã áo quần, vội vã tất giày, vội vã phấn son rồi ào ra đường, ào qua ngày, qua tháng, qua năm.

Chị muốn có những bình minh khác, bình minh tươi mới ở ngay trên mảnh đất còn lộn xộn cây tạp, cỏ hoang này, mở cánh cửa kính váng sương mờ và nghe mùi đất bừng trong mũi. Nhưng thằng nhỏ xe ôm chẳng có vẻ gì là hiểu được cuộc sống mệt mỏi của chị, nó cười cười. Tác dụng rõ ràng nhất là chị thấy giải tỏa những bức bối, thấy nhẹ nhỏm, hân hoan, hay vì buổi bình minh chị hình dung quá rực rỡ, hay vì buổi chiều ở cái xóm ngoại ô này quá yên tĩnh êm đềm, đến nỗi chị nghe được tim thằng nhỏ chạy xe ôm đập thình thình khi chị trao tiền cọc cho phía chủ.

Dọc đường về, thằng nhỏ trầm lặng hẳn đi, qua một khúc quanh nó chỉ vào cái biệt thự nằm ẩn hiện trong vườn, nó nói “chỗ này hồi trước là nhà em”. Giọng nó ỉu xìu. Chị cầm câu nói như lần một đầu dây theo thằng nhỏ, hèn gì nó rành rẽ con đường này, cái xóm này. Hèn gì nó biết rành ngôi miếu kia có tổ ong vò vẽ lớn, biết chòm cây kia bị gió xô ngã bao lần, biết nơi nào có mảnh đất như chị ước ao. Trên đường theo dấu cuộc mảnh đời, chị ngang qua cái câu ngậm ngùi khi nảy, “thấy cặm bảng bán đất sao mà buồn”. Và chạm vào nhịp tim bất thường của nó lúc chủ đất run rẩy đếm tiền.

Thằng nhỏ thấy mình trở về năm năm trước. Choáng váng cầm món tiền chưa từng có trong đời, mua sắm thỏa thuê, không còn đất trồng cải, trồng dưa, nuôi cá, cả nhà sống bằng tiền rứt từng thước đất. Tiền cũng hết lúc đau ốm thắt ngặt phải bán nhà, đi thuê lại một căn trọ để sống. Người trong nhà chia nhau đi tứ tán, con gái đi ở mướn, con trai chạy xe ôm, mẹ làm công nhân vệ sinh, cha đẩy xe trái cây đi bán. Thằng nhỏ nói bằng cái giọng run run, “bữa nào mệt quá, về nhà tui chỉ ước được nhìn thấy nhỏ em tui cười. Nhưng bên nhà chủ hai tháng họ mới cho về một lần. Có lúc nhớ nó tui hay vòng qua đường đó, nhưng chắc nó ở nhà sau…”

Xe đã qua đoạn dằn xóc khá xa rồi, mà sao chị nghe ruột cuộn lên, đau thắt. Bình minh của thằng nhỏ này sao mà giản dị đến không ngờ, tỉnh giấc trong căn nhà chật chội, thấp lè tè, được nhìn thấy em gái soi gương buộc tóc vội để nhường chỗ cho mẹ chải đầu, cài tay áo bảo hộ lao động, trong khi cha xì xụp bơm lại chiếc xe đẩy cà tàng. Một bình minh chật chội, không cần mặt trời lên xiên nắng qua sương mai, không cần sông trôi bèo trôi. Nhưng đó chỉ là bình minh mơ ước, thằng nhỏ nói, “bữa nào tui thức dậy, cũng thấy có mình ên”.

Chị thì thức dậy với gia đình mình, nhưng trong mắt nhau người đã lạc mất rồi. Nên chiều nay chị mới đi tìm bình minh có hoa có cỏ, tình cờ gặp một bình minh khác, buồn hiu.

Rời

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư


Một buổi sáng hanh hao, tư duy kiểu hoa hậu, bạn nói, ước sao trên đời này chỉ còn người tốt. Năm phút trước đó, khi chúng ta đang nói về người nhạc sỹ quen biết đang chống chọi với căn bệnh ung thư, tôi đã than vãn, trời ơi, ước gì đừng có thứ bệnh quái quỉ này. Bạn của năm phút đó đã cười, kêu lên, sao vậy được? Phải sống theo tự nhiên, sinh lão bệnh tử chứ, phải có ung thư, những cơn đau tim, những cơn hen suyển bóp nghẹt khiến người ta nằm nghỉ mãi bên đường. Chứ mở con mắt ra gặp toàn người già một trăm, trăm năm mươi tuổi ai mà chịu nổi. Nhưng ngay lập tức, giọng bạn chùng xuống, ừ, sao nhiều người tử tế chết trẻ quá, phải cho tụi xấu xa ung thư trước hết đi.
Trước nhất, đó là công việc rất nhọc nhằn. Có người đi trộm cá ao nhà người chỉ để cho mẹ một bữa cơm tươm tất, ta có nên thảy qua bên kia rào ác? Có kẻ giết người để cứu người khác nữa, ta có đóng cái bảng bệnh ung thư vào người? Có người làm ác đến cuối đời, bỗng một lần bật khóc trước một nụ mầm gãy, ta phân vân không biết phân loại người này, làm sao tránh được áy náy, hoang mang.
Sẽ hoang mang hơn nếu như ước muốn của các nàng hoa hậu, và của bạn, của tôi, của những rã rời khi thấy cái ác nhơn nhơn diễu qua trước mặt, ước muốn ấy thành sự thực. Trái đất chỉ còn lại toàn người tốt. Mà làm sao nhận biết được họ tốt khi không còn người xấu nữa? Không biết. Ta biết người đó tốt vì họ dám đối diện, tranh đấu hay ngạo nghễ coi thường cái xấu. Trên cái nền xám xịt, những người tốt hiện ra, lấp lánh, bây giờ tối tăm biến mất rồi, người tốt nhòe lẫn vào nhau thành một khối, một màu. Quen mắt, nhàm chán. Suốt ngày, một bầy người tốt ấy ngó nhau, chẳng biết phải làm gì, vì đối tượng để tranh đấu đã mất. ngó nhau, thấy lười nhác, thụ động, thấy chí khí, lòng dũng cảm, sự trung thực thoái hóa dần.
Họ bắt đầu trở thành người xấu, xấu ít tranh đấu với xấu nhiều, trong quá trình đó, xuất hiện người tốt. Các tôn giáo cũng mừng húm, cuối cùng, cũng phải có ai đó để Đức Chúa, Đức Phật cải huấn, hướng thiện.
Giai thoại rằng, có lần nhà văn Ngô Khắc Tài càu nhàu với nhà văn Trang Thế Hy về một nhà văn xí xớn cà chớn nào đó, ông Hy cười, hỏi “Ra đường mà gặp toàn Ngô Khắc Tài thì mầy có chán hôn?” Tôi không biết đoạn sau, nhưng đoán là ông Tài chỉ có thể gãi đầu, cười. Tôi thích ông Tài, nhưng nếu ra đường mà gặp toàn ông Tài thì ngán ngược, bởi tôi thích chỉ vì ông bật lên khỏi người đời bởi cái sự… ngông ngênh không giống ai. Nhưng nếu không có hàng dãy người đó làm tôi chán quá đi, làm sao tôi thấy ông Tài ngộ?
Và lẫn lộn trong những đoạn nhớ rời, không mắc mớ gì tới tư duy hoa hậu (thường là muốn trái đất không còn chiến tranh), tôi nhớ người bạn… Mà không, năm năm trước, anh không phải bạn tôi, bởi vì anh là phó chủ tịch tỉnh. Liên quan đến một vụ phá rừng (hay trồng rừng – tùy quan điểm của mỗi người nghĩ), báo chí, dư luận phản ứng khá gay gắt, anh dõng dạc, tôi làm, tôi chịu, tôi làm bởi vì tôi tin tôi đúng. Anh rời bỏ chức vụ đó. Và sự dũng cảm của anh phát sáng, khoan hãy nói anh tốt xấu, tử tế hay không, hãy nhìn anh đương đầu như thế nào trên cái nền chính trường chỉ rặt những gương mặt xanh xao, hèn hèn, sợ trách nhiệm, đến phát biểu thì chỉ dám nói “tôi thấy báo cáo này còn chung chung quá, chưa cụ thể”. Nhưng hỏi cụ thể thế nào, chung chung ở chỗ nào thì ngắc ngứ, tức là chỉ nói cho có, trong độ an toàn nhất định.
Khu rừng chỉ toàn cây cỏ lành, có thể ăn được, chữa bệnh được, làm đồ dùng được thì chắc là người ta đã dọn dẹp sạch sẽ. Và muông thú cũng có hiền, dữ, con hiền làm mồi cho con dữ và con dữ lọt vô nanh vuốt của con dữ hơn.
Và nếu thế giới này chỉ có người hiền, thì sáng nay chúng tôi đã không ngậm ngùi đến vậy, ngậm ngùi cho một người hiền trong thế giới ngày càng hiếm người hiền.
Và nếu sáng nay có một người được cho là cà chớn đó vừa qua đời, chúng tôi cũng ngậm ngùi. Khi Ngô Phù Sai chết rồi, Câu Tiễn buồn mấy mươi năm nữa. Và tôi chắc rằng khi Hạng Võ gục xuống, Lưu Bang cũng khóc ròng, cũng chênh chao, cũng buồn tẻ suốt quãng đời sau đó.
Trong bọn họ, tôi thật không phân biệt được ai hiền, ai dữ. Chỉ biết họ là người.
Gương kia ngự ở trên tường…

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư

Hôm rồi đi cắt tóc, chạy xe lại tiệm quen thấy đóng cửa, nghe nói thợ quen đi Đà Lạt chơi cả tuần mới về. Sực nhớ có hiệu uốn tóc mới mở gần nhà, trên đường về lon ton ghé vào thử. Đẩy cánh cửa kính mà chông chênh, bồi hồi vì cảm giác xa lạ, vì gặp chừng bốn năm cô gái tóc quệt xanh quệt đỏ xác xơ. Trao “cái gốc con người…” mình cho mấy cô này cũng ớn thiệt. May, chị thợ chính xuất hiện, lấy lại lòng tin bằng lọn tóc dày đen mượt buộc nhỏng phía sau.

Nhưng sự bất an lại xuất hiện khi nhìn vào mảng gương lớn chiếm cả mảng tường. Ai mà trắng trẻo, mịn màng đẹp một cách ngỡ ngàng vậy trời? Tự hỏi, và cũng tự trả lời, có ai trồng khoai đất này, ta chớ ai. Nhưng tại sao ta không giống ta? Rõ ràng trước khi đi, đứng chải tóc ta còn buồn rượi đi một chút vì nhan sắc mình “thất thu” quá, tạo hóa chơi ác quá, da không trắng, mắt không to, mũi không cao, môi không đỏ… Bỗng dưng đổi khác quá chừng, cảm giác bất an cồn cào, không biết hình ảnh nào là của mình, trong gương nhà hay gương hàng xóm. Buột miệng hỏi chị thợ làm tóc đang lách tách lia mũi kéo, “ngộ, sao soi gương này tôi thấy… đẹp hơn bình thường quá…”. Chị cười, tùy mình khéo chọn lựa, lúc mua. Khách của chị chủ yếu là phụ nữ mà, ai lại không muốn mình đẹp…

Khách thất vọng một chút, hoá ra vẻ đẹp của mình chỉ là ảo tưởng thôi, một mánh lới của người đời. Hoang mang. Còn có cái gì để tin, để soi rọi mình khi cả hình ảnh trong gương cũng không còn chân thực? Những chuẩn mực, những giá trị sống đã từ từ rơi rụng, phai tàn, và nay, không thể tin cậy vào tấm gương phản chiếu hình hài ta nữa. Rồi làm sao? Làm sao ai biết làm sao? Soi mình ngược vào lòng, nhưng chỉ thấy nỗi buồn long lanh trong đó, soi vào mắt người, cũng thấy bóng mình khi xấu khi đẹp, tùy vào người ghét hay thương.

Lật sách vở ra coi, trong từ điển tiếng Việt, họ định nghĩa vầy: 1- Vật thường bằng thuỷ tinh, có một mặt nhẵn bóng phản xạ ánh sáng tốt, dùng để tạo ảnh của các vật (Soi gương. Ngắm mình trong gương. Mặt hồ như mặt gương). 2- Cái được coi là mẫu mực để noi theo (Làm gương cho em. Noi gương bạn).

Thấy mấy chỗ muốn sửa quá, thứ nhất, gương là một mảnh thuỷ tinh, chuẩn mực phản chiếu tuỳ thuộc vào độ cao hứng của anh thợ, mà anh thợ là con người. Vì vậy, đôi lúc anh thợ vui, nên những chiếc gương hiện lên toàn là ước mơ và ảo tưởng, nàng có mụn trứng cá soi gương để thấy da dẻ mình mịn màng, nàng hơi thấp bé soi gương để thấy mình cao, nàng hơi dư cân soi gương để thấy mình thon gầy, mảnh khảnh… Thứ hai, gương không hẳn là mẫu mực để noi theo, bởi cái anh ăn cắp kia đích thị cũng là một tấm gương, mà đâu có ai dám noi theo.

Cái anh đấy, là tấm gương đã vỡ, nhưng độ phản chiếu vẫn còn nguyên. Người đời không lúc nào thôi soi rọi, bởi mỗi người cũng là một tấm gương. Ta đi qua họ như đi vào nhà cười, ta thấy mình ngờ ngệnh, xấu xí, ta thấy mình cao lớn, đẹp đẽ, ta thấy ta trong những hình dáng méo mó kia. Một nỗi buồn.

Không còn đủ đức tin với gương, cũng may, còn người để tôi soi mình xót xa…
Ấu thơ tươi đẹp
Truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư

Đó là chuyến tàu cuối hạ. Người cha bước vào buồng trước, thằng con có đôi mắt tối và ướt của cha bước theo sau, nó quảy một ba lô nhỏ căng tròn, đầu của một siêu nhân với chiếc mặt nạ ló ra khỏi dây kéo. Cha na cái vali, dường như cũng nặng. Trong lúc xếp hành lý xuống gầm giường, người cha hơi càu nhàu, “chỉ vài tháng là trở vô rồi, xách đồ theo chi dữ vậy Sói?”. Thằng bé tên Sói trèo lên giường phía trên, nó nói, “kiếm băng khác phát đi cha, tua đi tua lại câu này hoài con nghe chán chết”. Người cha cười khì, vai rúc rích, “cái thằng…”.
Em nằm sát trần tàu, ở cái giường mà nhiều người bất đắt dĩ mới chịu lấy vé chui lên. Họ thấy ngộp trong cái khoảng không gian quá hẹp, rủi mũi ai cao, đụng trần là cái chắc. Nhưng em quen rồi, em thích giường này, thích cái chỗ không ai nhìn thấy mình, còn em thì nép ở trên cao, vô tư nhìn thiên hạ.
Tàu rời ga đi về phía cha em. Thằng nhỏ Sói chắc vẫn thường ngược xuôi trên những chuyến tàu, nó nằm bẹp, không thèm ngóc đầu nhìn cảnh vật ngoài cửa sổ. Em cũng vậy, có gì mà coi khi đêm đã nhấn chìm mọi thứ, đã nuốt chửng tất cả vào lòng mình. Nhìn thằng Sói này sướng hơn, vì nó có đôi mắt buồn quá, tưởng như té vô đó thì không mong lội lên. Nó đang nằm gác tay lên trán, con nít mà nằm kiểu đó thì cách gì cũng không hợp. Người cha ở giường dưới nói vọng lên, “Lần này cầu trời tàu chạy đúng giờ. Mẹ Sói khỏi phải cằn nhằn”.
- Con trông tàu càng trễ càng tốt. Con ghét mấy con chó quá. Lần nào vô nhà tụi nó cũng sủa nhoi hết. Thằng Sói nói, mặt nó lộ vẻ chán chường.
- Thì tại con mau lớn quá, chó nhìn không ra.
- Con là chủ cái nhà đó mà chó coi thua khách.
- Khách nào?
- Cha hỏi làm chi, khách của mẹ thì mắc mớ gì cha.
Thằng nhỏ sẵng giọng. Người tên Cha lại cười trừ. Căn buồng trở lại im lặng, dãy giường bên kia, chỉ một ông già lặng lẽ đắp khăn ngủ khò. Thằng nhỏ lại gác tay lên trán :
- Về kỳ này con mua thuốc chuột thuốc chết mấy con chó.
- Chơi gì ác vậy?
- Đâu có chơi.
- Tội nghiệp tụi nó.
- Cha rảnh dữ ha, đi tội nghiệp mấy con chó.
Những cuộc trò chuyện đi theo một nhịp điệu đều đặn, chỉ vài ba câu qua lại thì thằng Sói sẽ vặt lại cha nó bằng cái giọng gay gắt, vóng cao. Sau đó là sự im lặng của người cha mang tính chất dàn hòa, thua cuộc. Em thò đầu nhìn xuống, và thấy đúng thật thằng nhỏ không nói chơi, mắt nó vằn lên những tia giận dữ, gương mặt tối sầm.
- Mỏm của mấy con chó sẽ sùi bọt mép.
- Nghĩ đâu ra trò đó ghê vậy Sói? – Người cha nhổm dậy, vói lấy gói thuốc lá. Sói cười cay độc, ai biểu tụi nó sủa con. Điếu thuốc trên tay cha bỗng dưng run rẩy, ông kẹp nó giữa hai ngón tay dường như tê dại đi rồi. Ông day nhìn ra cửa sổ, qua tấm lưới chắn, là màn đêm mù mịt. Thằng nhỏ Sói dường như vẫn mãi mê đuổi theo cái ý nghĩ bóp nghẹt tiếng sủa của những con chó khi nó trở về nhà, nên nằm bất động.
Thằng nhỏ Sói này giống hệt em, hồi trước. Dù nhà của cha em không có chó, nhưng mỗi lần về là thêm một người phụ nữ bước lại vuốt tóc em, hỏi, “Nhiên phải hôn nè? Nhiên năm nay bao nhiêu tuổi? Nhiên thích ăn gì cô chở đi”. Em nhìn chằm chằm vào cái miệng nũng nịu âu yếm của cô ta, tỉnh bơ, “muốn ăn thịt cô quá hà”. Cô nào xấu số nói thêm “con thích gì cô cũng chiều” sẽ nhận được một câu trả lời không chờ đợi, “cô uống thuốc chuột chết đi, con thích vậy”. Người phụ nữ khựng lại, lùi hai ba bước, gượng gạo cười, kêu cha em “anh ơi anh, bé Nhiên nói chuyện dễ thương ghê”. Sau đó, cô bỏ giọng thẻ thọt, ra vẻ lo lắng, “coi bộ bên đó không quan tâm con gái lắm, anh à”. Cha em cười, chuyện của bên đó, mình xen vô làm gì.
Em ở với cha suốt mùa hè. Khi còn một tuần nữa tựu trường, cha lại đưa em đi, đôi khi bằng xe hơi của cha, nhưng thường thì đi tàu. Cha em nói một mình ông lái xe về thì đường dài và cô đơn lắm. Có lần, không gọi điện thoại được cho mẹ, tiễn em tới cỗng thì đến giờ cha phải quay lại ga, và trong lúc đoàn tàu chuyển bánh ngoài kia thì em vẫn loay hoay với xâu chìa khóa. Không chìa vào mở được cánh cửa. Em ngồi đợi dưới mưa tháng tám, mẹ về, mẹ la lên, trời đất ơi, mẹ đi suốt, khóa cũ thấy không an toàn nên mẹ thay khóa mới. Em đá cái ổ khóa đó văng xuống cống, sưng vù mấy đầu ngón chân, mẹ giễu cợt, “chà, không biết bên đó dạy làm sao mà mỗi lần về chị lại cộc cằn không chịu nổi”.
Thằng nhỏ Sói này cũng trên đường về với mẹ. Ở đó có những con chó không còn nhớ hơi chủ nhỏ. Và chúng sẽ chết. Nếu mười ba, mười bốn tuổi mà âm mưu dập tắt một hơi thở, dù là của chó thì cũng chẳng hợp chút nào. Dường như người cha cũng đang sắp lại chuỗi suy đoán như em, mặt ông phảng phất lo âu, môi đã máy mấy lần nhưng không cất thành lời. Hồi lâu, hết điếu thuốc rồi dụi cái tàn vào miệng chai nước suối, nguời cha nói :
- Về nhớ điện thoại thường thường nghen. Nhưng đừng điện lúc nửa đêm.
- Sao vậy? Lúc đó cha mắc ôm bà nào hả?
- Cái thằng… - người cha gắt lên - nói bậy riết rồi quen.
Thằng nhỏ Sói cười hề hề, răng nó nhọn hoắc, “nói tầm bậy tầm bạ trúng tùm lum tùm la”. Người cha cũng gượng cười theo, ông nằm xuống, vói tay tắt đèn. Vào cái lúc sắp xa con chín tháng liền, cha bỗng dưng thấy cuộc sống của con như vầy không bình thường, muốn bù đắp cho con. Cha kéo con gần lại bằng những câu chuyện dịu dàng, nhưng con thì đẩy cha ra, bằng mọi giá, bởi con không muốn khóc khi xuống ga của mẹ. Em biết.
Thằng nhỏ Sói kéo tấm ra mỏng của tàu lên cổ, cả gương mặt nó chìm vào ánh sáng lờ mờ. Nhưng thằng nhỏ Sói không ngủ, vẫn còn hai cái hố thẳm sâu biền biệt, mở trâng tráo. Những đêm như thế này em cũng không ngủ. Em sợ khi mở mắt thức dậy đã nhìn thấy mẹ em, mặc cái áo mẹ mua trong lúc vắng em, ra mở cửa. Vào nhà, em thấy một đôi giày đàn ông xa lạ. Và cái đèn ngủ màu đỏ của em mẹ đã thay bằng thứ ánh sáng xanh tái. Có cái tủ mới trong bếp. Một vài đĩa CD mà em yêu thích thì mất. Em lạc giữa nhà mình và mất một nửa thời gian bên mẹ để làm quen lại.
Mùa hè ở nhà cha thì ngắn hơn, và hầu như em chưa kịp quen gì thì cha đã gọi điện đặt vé tàu tiễn em đi. Thằng nhỏ Sói đang thao thức dưới kia cũng không khác gì em, lúc nhân viên tàu đi bán thức ăn đêm, người cha mua hai tô cháo gà. Thằng nhỏ Sói cười kha kha kha, nói, cha muốn con ăn gà để nổi mề đay cùng mình hả? Người cha hơi bực, “ông con ơi, sao không chịu nói sớm”. Sói thản nhiên, tưởng cha biết lâu rồi.
Người cha cắn môi. Ông trợn trạo húp vài muỗng rồi bỏ ngang, hút thuốc. Chuyến tàu cuối hè bỗng trùng trình giảm tốc độ, tưởng như cái buồng phổi đang xám lại kia quá nặng nề. Tàu vào ga tỉnh lẻ.
Người cha rủ thằng nhỏ Sói xuống ga. Sói im lặng, như đã ngủ say rồi. Cha xuống một mình, ông phải mua thêm vài gói thuốc lá nữa, trong một đêm quá dài của năm này. Nhưng thằng Sói tụt xuống sàn, dán mắt nhìn qua ô cửa. Những cái đèn neong xanh xao đang soi những hàng quán ngái ngủ, những đứa trẻ bán dạo thoát khỏi cơn mộng du lanh lảnh rao mời rồi khi tàu lăn bánh, chúng lại tiếp tục lờ đờ vừa đứng tựa vào tường ngủ ngây ngô. Thằng Sói đứng nhìn cho đến khi người cha quay vào, ông hỏi, “ủa, không ngủ sao?”.
- Chừng này mà ngủ gì?
- Gần mười hai giờ rồi còn sớm sao ông con?
- Con đâu có ngủ giờ này.
- Hèn chi toàn điện thoại lúc giửa đêm. Con thức chi khuya vậy?
- Thức để suy nghĩ… Mà, cha hỏi nhiều quá…
Thằng nhỏ Sói bỏ lửng câu nói, bứt ngang cuộc trò chuyện, trèo lên giường. Nó không bao giờ để người cha nhìn thấy khuôn mặt mình, đôi mắt mình. Nó luôn quay lưng và nói. Cúi mặt và nói. Ngó bâng quơ và nói. Người cha ngồi dựa vào vách tàu, xé mở gói thuốc mới. Đốm lửa lại xập xòe trên môi.
Chiếc tàu đi vào vùng gió cát, rùng mình suốt vì những cơn lạnh buốt. Thằng Sói đã ngủ, nằm co như dấu hỏi, như con tôm luộc chơ vơ trên cái dĩa lớn. Cô độc. Người cha cũng ngủ, cái đầu lọc thuốc còn bẹo dính bên mép. Em không còn gì để nhìn, nhưng không chợp mắt được. Em luôn thức trắng trên những chuyến tàu.
Em sợ bỏ lỡ những bình minh, cái khoảnh khắc mà người ta tỉnh dậy, tan chảy theo cơn lười nhác và tuyệt vọng, họ đã vĩnh viễn làm mất ngày hôm qua, và không có cách gì giữ lại ngày mới này. Thằng nhỏ Sói nhìn quanh quất, bất giác nó ứa nước mắt ra. Để che giấu điều đó, nó tụt xuống đi rửa mặt, nó chao đi trên con tàu trùng trình, tiếng bánh xe sắt nghiến vào đường ray buốt nhức. Người cha ngồi dậy, không thấy Sói đâu thì hơi hoảng, bươn ra cửa, dáo dác. Nhác thấy bóng thằng nhỏ Sói quay vô, người cha kêu lên, “sao không kêu cha dắt đi?”. Sói dửng dưng, “mặt ai nấy rửa, cu ai nấy cầm, lâu nay con làm được mà”. Người cha vò tóc, dường như vẫn chưa dứt khỏi cơn mơ, ông khẽ cụng đầu vào thành tàu.
Giữa bữa sáng, người cha nói, “tại chiêm bao thấy con đi lạc nên mới quýnh”. Thằng nhỏ Sói ngoáy mấy sợi mì quấn vòng quanh chiếc đũa, nó gật gù, “Cha để lạc thì con mới lạc”. Em ngồi xếp bằng, ngó mấy cái xoáy ngựa trên đầu thằng nhỏ Sói, và nghĩ, thằng nhỏ này đã đi lạc lâu rồi. Điều đó gần như chắc chắn, vì em chính là thằng nhỏ Sói, giây phút này. Thấy ngạc nhiên và kỳ lạ, thấy không chấp nhận được khi người lớn bắt đầu tìm kiếm mình khi đã rời khỏi họ quá chừng xa.
Tàu lại vào ga. Lần này tàu sẽ dừng hẳn hai mươi phút. Hành khách tuôn xuống và đùn lại những hàng dài trước cửa những phòng tắm. Qua tấm lưới chắn, em nhìn thấy người cha chen đẩy thằng nhỏ Sói vô tắm trước. Ba phút sau nó đi ra với cái đầu rỏ nước long tong, cầm cái túi để người cha bước vào. Em vẫn thường xem cảnh chen chúc tắm táp như trò ảo thuật, người ta nhàu nhĩ bước vào và tươi mới, phấn khởi khi trở ra. Nhưng bây giờ thì em bận nhìn thằng nhỏ Sói, nó ôm cái ba lô nhỏ rúm vào người vì sợ kẻ cắp, đi rà theo mấy quán hàng. Nó dừng lại trước một gia đình đang ăn cơm không biết sáng hay trưa bên hàng hiên của nhà ga. Một đứa trẻ nằm gối lên đùi người mẹ, đầu đứa trẻ khác lại gối lên bụng đứa kia. Họ sẽ hát vài bài khi chuyến tàu ngược về phía mẹ em ghé lại ga này lúc xế chiều.
Em biết họ. Nhưng em không chắc thằng nhỏ Sói có biết, bởi nó cứ đứng nhìn, em chỉ thấy cái gáy của nó với sợi đuôi rùa im phắt. Cả người Sói thả lỏng, ba lô được xách hờ bằng mấy ngón tay buông lơi. Hồi lâu, Sói quay lại nhìn về phía tàu, và đôi mắt nó xuyên qua khỏang sân ga rộng, làm vạt nắng xanh xao. Hay có cục mây bay ngang đầu mà em không thấy? Rồi Sói quay đi, nhòa vào dòng người. Cái dáng gầy gò với chòm tóc nhuộm vàng rốt cuộc chỉ còn trong trí nhớ của em.
Người cha trở ra, ông ngó quanh rồi thong thả lên tàu, giấc mơ kỳ dị lạc mất con đã bị nước dội khuây khỏa. Chỉ khi tới cửa buồng, người cha mới hơi chột dạ, hỏi thăm ông già, mà giọng đã có phần run “chú Hai có thấy thằng con cháu lên đây không?” Ông già lắc đầu. Người cha quay ngoắt xuống sân ga, gào tên thằng Sói trong khi mấy cái loa thông báo tàu sắp rời đi. Chân người cha gần như không chạm đất, cả người ông lướt đi giữa dòng người. Cầm điện thoại rướn người nhìn vào căn buồng trống trãi, người cha lạc giọng, “Thằng Sói mất rồi… A lô. Mất. Không phải hành lý. Thằng Sói... Cô vừa ý chưa? Dẹp đám cưới của cô giùm tôi…”.
Người trong mấy buồng chung quanh cũng túa ra, nháo nhác. Ông già chặn một nhân viên của tàu ngang qua nhờ tìm giúp thằng bé. Rồi ông già bồn chồn ngó xuống sân ga đã nhợt nhạt bóng người, “trời đất ơi, tàu sắp chạy rồi, không biết tìm thằng nhỏ kịp không đây?”.
Em biết là không. Thằng nhỏ Sói sẽ tan biến như chưa từng có trong đời. Nó xuống một ga không có bầy chó sủa khi nó về nhà của chính mình, một ga không có những người phụ nữ biết chính xác cái quần cộc của cha nó nằm ở đâu trong lúc nó tìm loay hoay.
Em thì mãi mãi ở lại con tàu này bằng một vốc thuốc ngủ vun vén ở mỗi tiệm thuốc tây một chút. Nên em hoàn toàn tôn trọng sự chọn lựa của Sói.
20, 21
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

Chị trắng trẻo, vấn tóc cao, sang trọng trong chiếc áo dài nhung đính cườm, ngồi bên phải, trước cô dâu. Em bận một bộ đồ ba ba đã cũ nhàu, khổ sở dán thân mình gầy nhom vào chiếc ghế chạm trổ tinh tế. Em cười thiu thỉu. Chị cũng cười nhưng mắt không nhìn thẳng, vẻ mặt ngượng ngập, buồn hiu.
Tấm ảnh nằm lẫn trong album cũ của gia đình. Mọi người vẫn thường giở ra xem và vẫn không hiểu tại sao cái khoảnh khắc đó chị lại buồn, bởi trong tất cả tấm ảnh còn lại, chị luôn rạng rỡ, viên mãn. Cái áo dài màu trái giếc tôn làn da trắng chị không mặc thêm lần nào nữa. Chị muốn thay nó ra ngay trong ngày cưới của con trai mình, ngay khi đứa em mà chị kéo từ dưới bếp lên cứ bần thần chùi cùi tay vào vạt áo, “chụp hình chi không biết, chế coi, tui ăn mặc xấu quá chừng…”. Chị gạt ngang, ấn em ngồi vào ghế, cảm giác em lọt thỏm ở đó, nhỏ nhoi, tự dưng chị nghe xương vai của em nhọn sắc buốt tay mình. Người thợ ảnh bảo mọi người cười. Chị không dám nhìn vào cái ống kính đen ngòm, nghẹn thở bởi cái áo mà mình đang mặc, bởi cái ghế mình đang ngồi, bởi sự viên mãn mà mình đang có.
Bởi em đang ngồi cạnh chị, già nua, khốn khó. Chị mua gởi cho em nhiều bộ quần áo mới, sau đám cưới đó. Lâu lâu về quê, thấy mớ đồ vẫn xếp trong tủ, nhãn mác còn nguyên, nhưng chị không thể cất tiếng quở rầy, vì em ướt mẹp từ ngoài đồng vô. Em giăng lưới cá, được chừng chục ký, loại cá rô phi nhỏ chừng hai ngón tay khép, xách tới chợ xã bán được mỗi ký hai ngàn. Tay em nhiều vết xước do bị vây cá đâm. Từ chợ về em đi sạ mớ lúa giống đã lên mầm trắng xóa. Tối lại em chong đèn làm sạch mấy thùng cá, ủ mắm. Em ngồi miết bóng vào đêm, mấy cây nhang muỗi vẽ những đường khói cong cong, gió lọt qua vách làm khói bay dùng dằng đâu đâu.
Khói cũng không bao bọc lấy người. Rời rạc. Khói của hiện đại, mà em thì cũ. Khói này của chị, như cái ti vi kia của chị, như mấy bộ quần áo đẹp kia của chị, nên chúng chỏn lỏn trơ khấc giữa căn nhà em, thấp và tối, ẩm ướt hơi đất, ngai ngái mùi lá mục.
Đó là cái bìa bọc lấy quyển từ điển đời em. Mỏng lắm, chỉ vài trang ít ỏi đề mục ít ỏi. Lấy chồng. Sinh con. Bầy đàn đông đúc. Quanh quẩn ruộng vườn. Làm lụng. Mồ hôi. Đứt tay. Hết gạo. Giăng lưới. Đặt lờ. Trồng tưới. Chợ khuya… Em đã đi gần hai phần đời bằng những từ nhọc nhằn đó, phần đời còn lại, em chỉ còn chữ Thiệt thòi, ở trang cuối.
Chị đã từng thêm vào cuốn sách em những Son môi, Giày da, Đi du lịch, Xem phim… nhưng chúng cứ rơi khỏi đó, hay em tự rời ra. Chúng quá rực rỡ và sang trọng trên cái nền giấy lem nhem loang nước. Và vô vọng, xa xỉ hơn là Bức tranh, Tiệc tùng, Ngắm mưa, Quán cafe...
Bù đắp cho đứa em nghèo, nhiều lúc chị sắm sửa cho em thật nhiều để rồi nhận ra lấy tấm áo của mình đắp lên em thì cũng không thay đổi được gì. Cái ti vi màu chị tặng vẫn nằm im lìm trong căn nhà chưa có điện. Tiền của chị dúi vào tay em không thể dùng để viết chữ “khám sức khỏe định kỳ” hay “máy rửa chén” vào từ điển của mình. Mỗi người phải sống cuộc đời riêng. Vài lần, giữa buổi tiệc bàn tay cầm ly vang Pháp của chị đã run khẽ khi đứa con gọi điện thoại, dì ra chợ bán trầu, ghé nhà mình chơi. Tay chị run như cái sức nặng của giỏ trầu đang treo lủng lẳng trên đó. Giá của chúng, chắc chỉ bằng ly rượu sóng sánh này.
Nhìn lại tấm ảnh lạc lõng, rơi ra khỏi chuỗi hình ảnh hào nhoáng của tiệc cưới, chị thấy không phải chỉ cách nhau hai cái tay ghế. Không phải chỉ khác nhau màu áo, màu da. Chị đã đi quá xa, đã hút bóng.
20, 21, ai cũng biết chuỗi số đó liền nhau, nhưng với chị và em, nó cách hàng trăm năm. Em còn mãi ở nửa thế kỷ trước, chị đã ở đầu thế kỷ này. Người ở lại 20 ngóng nhìn và hy vọng, kẻ 21 thì ngoái lại thấy thương, nhưng tầm nhìn đã xa lắm, sự xót thương chỉ là mường tượng, một cảm giác trách nhiệm mơ hồ. Chị không thể quay lại và em cũng không thể nhanh hơn. Ngày còn gần gủi, lâu lâu chị đứng chờ để dắt em theo mình một quãng, em được chị tặng cho mấy chữ Ăn sáng, Karaoke, Mua sắm… mà em nhắc hoài, nhớ hoài, vì thấy gì cũng tốn nhiều tiền, mắc xót.
Nhưng giờ thì không còn nhớ cái cảm giác những ngón tay chị và em đan vào nhau ngày đó. Giờ thì tấm ảnh cũ của gia đình không còn gây buồn, vì người ta đã nhận biết một cách bình thản, nếu chụp ảnh dãy phố này, khu phố này, thành phố này, hay vùng châu thổ này… thì sẽ nhìn thấy những khoảng cách, những vết cắt, những từ điển nghèo nàn của người còn ở lại thuở 20.
Những tấm ảnh ma mị, ta thấy ta đứng cùng một không gian thời gian nhưng kẻ trước người sau, ta thấy ta đứng chung nhau mà không hề đứng chung nhau, ta thấy rõ ràng ta nắm tay nhau nhưng ta đã không nắm tay nhau từ lâu lắm.

Bến Tre
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

Cứ mỗi lần qua Trung Lương, tôi hay nghĩ, chỉ cần rẽ vào thành phố Mỹ Tho, qua một chặng đường, là tới một bờ sông. Qua con sông đó, tôi sẽ gặp Bến Tre. Tôi sẽ được về nhà.

Cái ý nghĩ đó gây cho tôi một cảm giác lạ lùng, chẳng có mối quan hệ ràng ruột nào ở đó, chẳng có giọt máu, đốt xương nào của tôi, của những người thân tôi ở lại trên mảnh đất đó, vậy mà vẫn thương, một cách kỳ lạ, vẫn nghĩ rẻo đất hẻo lánh kia là quê, là nhà mình.

Mà ngộ, tôi không biết Bến Tre. Cẩn trọng với từ “biết”, bạn chơi cùng nhau mười năm, tôi không dám nói biết, ở trên đất quê mình ba mươi năm, tôi ngập ngừng chưa biết đã biết chưa, huống chi, chỉ hai lần tôi đến Bến Tre.

Bến Tre lần đầu, tôi ngơ ngác như một cô dâu mới, con phà Rạch Miễu chạy chậm như chiều. Một chuyến phà thong dong, người ta bỏ ra khỏi xe, ngồi ngắm sông, người ta cười nói chậm, đốt thuốc và nhả khói cũng chậm rì. Thời gian như ngưng đọng, trên gương mặt người, trên giòng sông, trên cái cồn đất xanh rì cây trái. Suốt ba ngày sau đó, tôi chỉ biết Bến Tre có cái quán cháo cua đồng, nấm mối xào ngon rụng rún, sông Hàm Luông thì buồn lắm, đi mãi đi mãi mới gặp được một con tàu ngược nước. Sông chảy cũng chậm, dịu dàng. Người say chậm. Yêu chậm và tỏ tình chậm.

Lần thứ hai tôi qua phà Rạch Miễu, mưa và đêm tối mịt mùng. Xe mượn nên xe lạ, đất lạ, sông lạ, cả mưa, cả người cũng lạ. Đứng gần tôi có một bà mẹ trẻ đang cố giữ ấm cho con bằng chiếc khăn choàng mỏng. Đứa bé thì cố ngọ nguậy chui ra để nhoẻn cười với mọi người. Một dì khoác tấm cao su trên vai như Thi Sách sắp ra trận trong tuồng “Tiếng trống Mê Linh”, tôi đoán là dân buôn bán, vì bao đồ ngồn ngộn được ràng phía sau xe, âu yếm hỏi tôi, ăn mặc phong phanh vậy có lạnh không con? Tôi thưa rằng không, trước câu hỏi đó, tôi có lạnh vì mưa xiên qua phà, lay lắt. Nhưng bây giờ tôi ấm như đang ngồi trước lửa, và trong cơn chếnh choáng như lần uống rượu đầu đời, tôi gật đầu khi một chị hỏi quá giang về ngã ba Tân Thành.

Sau này, nhớ lại, tôi buồn cười. Đi một đoạn, mới sực nhớ chị ta bịt kín mặt, không biết là người tốt hay người xấu, không biết đoạn đường trước mặt có đèn hay tối tăm, có mũi dao nào rởn lạnh chỉa vào lưng ta, và người ấy có cười khà khà, cầm túi và xe (mượn) của ta chạy mất. Ý nghĩ đó càng ngày càng riết róng, nên vừa đi vừa phấp phỏng. Đằng sau, chị hồn nhiên kể chuyện mình, một người Bến Tre trôi giạt đất Sài Gòn, mai là đám giỗ ba chị, tôi canh chừng cái túi mình, nhát gừng ừ hử. Rồi chị xuống ngã ba đón xe ôm về Tiên Thủy, tôi vào thị xã. Tôi thấy không mất gì mà đau xót như đã mất gì. Mất trước khi gặp chị trên chuyến phà đêm đó, mất lòng tin.

Chuyến phà, nụ cười của đứa bé, dì “Thi Sách”, chị phụ nữ không gương mặt, không tên tuổi ấy, cũng là một phần của nỗi nhớ tôi. Một nỗi nhớ mơ màng và mỏng, dai như tơ nhện. Hay nó chỉ là cảm giác. Như một mảnh gió bị lá cây xé vụn, những vẫn còn đủ ướt lạnh, khi lướt qua da ta làm se những lổ chân lông, cay mắt, và rùng rùng từng đốt sống trên lưng. Cảm giác thanh sạch về một dòng Hàm Luông trong vắt, hiền hòa, dịu dàng, lừ đừ. Cảm giác bình yên như những con đường nhỏ hai bên phủ đầy cỏ chạy mê miết dưới những vườn dừa mê miết. Cảm giác ấm áp với những người bạn ít nói hay cười, từ tốn, nói câu nào chắc câu ấy, không giao đãi à ơi. Cảm giác thơm thảo như mùi nấm mối nướng rợp cả góc vườn bên sông. Cảm giác ngây dại, hồn nhiên khi rượu Phú Lễ ngấm vào lòng. Và tuổi thơ thiếu thốn nào dậy lên khi ngậm lại cục kẹo dừa ngọt lừ, béo ngậy.

Khi tôi ngồi ghi lại những cảm giác rời này, tôi nhớ câu nói của Tài, “Người ta tốt đến nỗi mình thấy mình không xứng đáng. Bến Tre dễ thương. Xuống đó gặp toàn đực rựa, nhưng về nhà viết mấy bài thơ... tình”. Tôi nhớ lúc ông sếp tôi buồn, căng thẳng, lúc đau, lúc bị những đồng chí của ông xiên tên vào lòng, ông hút thuốc nhiều, và ngó ra ngoài cửa, chép miệng, “nhớ tụi Bến Tre quá chừng...”. Cũng ông, mỗi khi vui, ông lại nhắc, phải có mấy đứa Bến Tre ở đây... Tôi nhớ lời Duyên khi từ giã Bến Tre rồi, “mưa ở đó cũng hiền”. Tôi nhớ tới lời bài hát, “Uớc gì đang trắc trở. Gặp nụ cười Bến Tre…”.

Nhưng cụ thể Bến Tre là gì, tôi không biết. Kỷ niệm gom lại thì cũng một chuyến đi chơi sông, đám bạn bè nhổ tôi từ quán này trồng qua quán khác, từ cháo cua đồng qua nấm mối, cháo vịt. Những con đường nối tiếp những con đường đưa tôi đến một đám cưới rộn ràng. Chú rễ cười xòa như năm trước cười tiễn tôi, đường dài, thẳm nắng. Những chiếc phà chậm rãi cắt ngang những dòng chảy chậm. Chôm chôm chín đỏ, chất vun trong những cái cần xé để bên đường. Những ông bà già nhảy tango trong sân nhà văn hóa. Rượu Phú Lễ trong vắt, sủi tăm. Một người viết lớn càng thu mình càng lồ lộ ra, con đường hẻm heo hút, ngôi nhà nhỏ, vườn dừa… không có gì che chắn được sự phát sáng đó. Những người viết trẻ hơn ngà ngà đọc những câu thơ cũ, xếp bằng ngồi mời rượu nhau ở hàng ba nhà của một nhà thơ nghèo, sau lưng là tấm vách bằng mê bồ trét cứt trâu, những tấm vách “che bề nào cũng gió”. Và căn gác trọ, có ông già ‘tiếp tân”vui tính, chỉ còn vài chiếc răng lơ phơ, duyên dáng kể chuyện đời mình (cũng) bằng thơ, vẫn nhớ phòng số 5 mà tôi từng ở, để lần sau nữa, ông lại trao cho tôi chìa khóa phòng số 5… Tôi nhớ được cũng chỉ vậy, viết trôi chảy cũng chỉ vậy. Những cảnh như vầy có thể gặp ở bất cứ đâu trên vùng đất Tây Nam Bộ này, nhưng cái cảm giác Bến Tre thì không lẫn vào đâu được.

Cảm giác của một người đứng trước sông. Giải thích về sự hiền hòa, ngang tàng, trầm tư, hào sãng và cởi mở của Bến Tre, tôi chỉ biết lấy cái tâm thế đứng trước sông của Bến Tre ra mà nghĩ. Quay mặt về đâu cũng sông, đi đâu, ngó đâu, Tiền Giang hay Vĩnh Long, Trà Vinh cũng có những dòng sông vây bọc, sông rẽ đất mà chảy, cắt những cù lao để trọn một vòng tay mà ôm lấy cù lao. Phía còn lại là biển. Bến Tre như một người ngồi thiền định trên một lá sen, tâm trong trẻo róc rách tiếng nước đang lên. Một miền Tây thu nhỏ ít phai lạt, nhiều cảm giác.

Và vì nó nhiều cảm giác, nên tôi không biết thể hiện, cụ thể hóa bằng câu chuyện của mình như thế nào. Viết lại cảm giác là một điều không trọn vẹn, ít nhiều dang dở. Huống chi là chia sẻ, bởi hầu như không thể chia sẻ một cảm giác mà ta đang có. Nên mỗi khi nghe bạn xa bảo sẽ đi miền Tây, tôi mời bạn đến chỗ tôi, tất nhiên rồi. Và Bến Tre. Thông cảm cho tôi, cứ mỗi lần khách đến, tôi căng như người vào trận đánh. Làm sao cho khách ấn tượng mạnh, thương nhớ dài lâu, làm sao khách còn quay lại một vùng đất không có cảnh quan hùng vĩ, tú lệ. Làm sao người nhớ ta như ta đã từng nhớ người. “Ra trận” chỉ những món ăn ngon lạ lùng, những cánh rừng ngập mặn mênh mông, những dòng sông mùa nào cũng đầy nhóc nước, những con rạch quanh co, những chiếc xuồng ba lá chao trên mặt nước mong manh… “Ra trận” còn có những con người, mà tôi nghĩ cũng là những kỳ quan. Và người Bến Tre với tính cách sánh đặc, nồng Tây Nam Bộ sẽ làm choáng váng, ngất ngây khách lạ. Tôi cũng là dân miền Tây, gặp Bến Tre còn thấy ngẩn ngơ, thấy ngọt ngào nữa mà.

Thông cảm cho tôi, một người tầm thường của vùng đất bị quên lãng, bởi chiến tranh, bởi trắc trở địa lý, bởi những vướng bận vụn vặt đời thường. Khó khăn, lâu lắc lắm khách mới đến được, cũng khó khăn và lâu lắc khách mới trở lại, dịp để gieo thương nhớ, lỡ không kịp, biết còn có lần sau?

Thông cảm cho tôi, bởi cái cảm giác Bến Tre tôi không thể cứ ôm ấp mãi, tôi cần người để nói, Bến Tre dễ thương hen, để nhận được sự đồng tình, “Ừ, Bến Tre dễ thương”. Để nhìn vào họ, thấy niềm vui ngọt lành nhói lên trong mắt, thấy ký ức mơ màng trở về những chuyến phà.

Chuyến phà mang vẻ mặt cô gái sầu muộn làm cho nhịp sống đô thị ngẩn ngơ, dừng lại bên kia những con sông. Quãng thời gian nó chạy lòng vòng qua những cái cồn xanh um cây trái đủ để người ta rũ hết bụi đường. Và hít thở gió sông, và thấy lòng lành những vết. Và khi tách bờ Bến Tre, chuyến phà bỗng trở thành cô gái đang hò hẹn, một chút bâng quơ, một chút nhớ, và chút gì đó tuyệt vọng… Bởi qua bờ, lưu lạc trên đất khác, quay lưng lại với sông rồi, kẻ còn sông trong lòng thì vẫn nồng Bến Tre, nhưng cũng nhiều người lạt đi, phai đi. Bởi qua bờ, cuộc sống ồn ào chen chúc, sự mệt mỏi ngay lập tức ập vào, và khi ngoái nhìn, Thương đã mịt mù xa, như ở một thế giới khác.

Bến Tre, rốt cuộc chỉ còn là những cảm giác. Mềm, ấm và ngọt ngào.

Và câu chuyện về nó được viết lên bởi một người viết vụng về, cũng không sao tránh khỏi rời rạc và chắp vá, nó không phải một bài bút ký thông thường, theo khuôn mẫu thông thường, tôi đến, tôi đi lòng vòng, tôi thấy, tôi về. Bởi tôi không đến, cũng không đi đâu, không thấy, và tôi không về. Tôi ở dưới mặt đất, cảm giác trên ngọn dừa, những con đuông dừa rúc vào nách lá non, và trong tổ chim vắt vẻo, những con sẻ nhỏ đang khẻ mỏ chui ra khỏi trứng. Tôi ở bên một con sông, cảm giác bờ kia đang liêu xiêu bông bưởi rụng trên những chiếc lá mục trong vườn. Tôi soi mình xuống nước, cảm giác dưới đáy sâu kia phù sa đang nhảy múa, dịu dàng.

Tôi đang phân bua với mọi người tại sao tôi là một người miền Tây lạt, vì những dòng sông quê tôi đều ở sau lưng tôi. Hay sông luôn ở trước mặt, nhưng tôi đã quay lưng lại ?

Ghi trên điểm gãy

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư

Tôi dừng chân ở một cuộc trình diễn nghệ thuật sắp đặt lớn mang tên “chia cắt”.

Người ta dựng mảng rào ở cuối một nhịp cầu nhỏ, trên đó, họ buộc oằn những mảnh vải bạc màu. Chữ trên hàng triệu mảnh vải cũng phai những lời khấn nguyện hòa bình, sum họp, những dòng nhớ thương khắc khoải. Một cây cầu khác rơi mất nhịp ở hai đầu đứng chơ vơ trên cánh đồng hoang vắng trãi rộng đến một con sông, bên kia sông là dãy núi xa mờ.

Một tháp chuông với những cái diềm mái trang trí theo kiểu cổ, vài đại tự bản xứ mang nghĩa “Hòa Bình”. Một đầu tàu kéo theo mấy toa hiu hắt hướng về Bắc. Đài quan sát hướng dãy ống nhòm về Bắc. Những ánh nhìn vọng phía Bắc… Trong vòm cây, bài hát thương nhớ Bắc réo rắt nao lòng. Và như một chi tiết tinh tế trong cuộc trình diễn đó, vài em bé thót người, nhón chân, đu trên cái ống nhòm. Tôi đứng giữ máy ảnh giữa mưa rơi lắc rắc để ghi khoảnh khắc em nhìn về phía núi. Bỗng thấy cuộc trình diễn này biến tôi thành một chi tiết của nó mất rồi. Thấy mình là một cây kim trong cái la bàn, cũng ngẩn ngơ đau đáu run rẩy về Bắc.

Dưới đồi, hồ nước nhân tạo mô hình bản đồ đất nước Triều Tiên (trọn vẹn) bị mùa thu trải sương mưa lên mù mù, ủ ê, lạnh buốt. Có thể mưa cũng là chi tiết trong cuộc sắp đặt. Như tôi, như những em bé kia, như hàng ngàn người có mặt ở đây trong ngày thu buồn bã này. Cảm giác mưa cũng gãy, cũng bị chặn lại ở bên kia núi, bên kia biên giới.

Người ta làm mọi thứ trông thật, tinh tế, đến từng chi tiết nhỏ. Cả hàng rào kẻm gai, cả người lính canh đang khép cổng cũng làm cơn đau nào đó cuộn lên trong tôi. Sắc nhọn. Của một cánh đồng không gieo trồng, một dòng sông không trẻ chăn trâu trầm nghịch, một cây cầu dang dỡ, một đoàn tàu đã hơn năm mươi năm không lăn bánh, tháp chuông cũng từng ấy năm chưa được ngân lên hai tiếng hòa bình. Ở đây, dường như không có cái gì sống đúng bản chất của nó, kể cả những con người-chi-tiết đang có mặt ở nơi này, cũng kìm nén, ấm ức, ngột ngạt. Cũng buốt nhức cái nỗi niềm nhớ thương những người thân mà không được gặp. Cũng thấy cái biên giới này là một vết thù vô lý, nhưng không ai biết cách, không ai dám vượt qua, và chấp nhận sống cùng nó, đau đớn cùng nó.

Cuộc trình diễn bắt đầu từ năm 1953, nửa thế kỷ sau, khi tôi đến, bối cảnh có nhiều thay đổi. Một khu vui chơi giải trí được dựng lên. Dãy hàng quán bán thức ăn và đồ lưu niệm. Người bạn tôi ái ngại, xây công viên làm chi vậy trời, chỗ này đâu phải chỗ chơi. Ai lại vui chơi trên chính vết thương hở miệng của dân tộc mình ?!

Nhưng người ta vẫn sắp đặt ở đây những nụ cười, những tiếng reo vui. Nhiều đôi trai gái thầm thì yêu thương trên ghế đá cạnh lối đi. Đám trẻ con chạy giỡn bên đài phun nước. Vài gia đình bày thức ăn trên bãi cỏ quây quần dùng bữa chiều. Và những chi tiết sắp đặt này vẫn sắc nhọn, gây đau như mảng rào cầu nguyện, hay dòng sông, cánh đồng…

Vẫn nằm trong một kịch bản xót xa về những lát cắt, giữa quá khứ và hiện tại, giữa nhớ và quên, giữa chiến tranh và (ảo tưởng) hòa bình. Đâu đó, người ta bắt gặp cảnh đứa cháu gái đang lim dim mắt ngún nguẩy theo điệu nhạc từ cái ipod đeo trên cổ trong khi người bà lụm cụm đang níu mãi cái ống nhòm nhìn về phía núi, bên kia dãy núi đó, có những người thân thuộc ruột ràng của bà, có một phần đất nước. Cô gái trẻ không quan tâm điều đó, cô hoàn toàn không có ký ức với những gì thuộc phần đất xa xôi kia. Tôi cũng không, nhưng vì tôi liên tưởng đất nước từng bị chia cắt của mình nên mới thẫn thờ.

Chiến Tranh, kẻ bày ra trò sắp đặt này, cùng với những kẻ phụ việc mang tên Tham Vọng, Định Kiến, Thù Hận… ít nhiều đã thành công. Người ta đến đây, tự biến mình thành một chi tiết cho cuộc trình diễn nhói đau, tự mình là nhựa, ứa ra trên điểm gãy của cành. Sông là dao, núi là dao, và cánh đồng, cây cầu, mảng rào, cánh cổng, con tàu đều bén ngót, cắt ngọt.

Giữa cơn mưa chiều, tôi buộc mảnh ý nghĩ của mình lên mảng vách oằn những lời thương nhau, với nguyện ước, cầu mong những dòng nhựa ứa đau dai dẳng cho cuộc chia cắt này sớm một ngày khô. Đồng loại tôi kéo chéo áo mà lau nước mắt sum vầy.

Tôi ngoái nhìn lại tác phẩm gợi nhiều cảm xúc của Chiến Tranh, tôi biết những hình ảnh xao xác đó không xuất phát bởi tấm lòng người nghệ sỹ, bởi nghệ sỹ chẳng bao giờ lại nhẫn tâm gây đau cho đồng lọai của mình. Nhưng nghệ sỹ mang tên Hòa Bình bao giờ mới đến làm nên cuộc trình diễn của riêng mình?!
Quà tặng âm nhạc

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư

Hết hy vọng. Không mong gì lấy giấc ngủ vùi để chạy trốn cô đơn và nhàm chán trên chuyến đi dài. Không mong được chợp mắt, khi anh tài xế liên tục mở nhạc, mở cải lương, hát mòn hát mỏi mà chưa tới bến cuối, anh dò mấy cái đài phát thanh, cho nó nói ra rả chuyện trồng đậu nuôi bò, vốn không ăn nhập gì với nghề của anh, như thể chỉ để tìm cái cảm giác có tiếng-nói-của-người quanh mình. Rồi vào cái lúc những mũi khoan của âm thanh bất lực trước đôi mắt ríu lại, thiu thiu thì radio phát chương trình quà tặng âm nhạc.

Hết hy vọng. Giấc ngủ (đáng ra phải có) bị đẩy ra xa vì những cuộc gọi tới một tổng đài nào đó trong radio, yêu cầu một bài hát nào đó, gởi tặng cho mấy người nào đó, kèm theo những lời nhắn, lời chúc tốt lành. Đoạn phát thanh tương tác thường là vầy:

- Em chào chị Đài
- Vâng, xin chào bạn.
- Dạ, em là Xíu, em xin yêu cầu bài hát “tình quay gót” do ca sỹ Đang Nằm trình bày. Dạ, bài hát này em gởi tặng thím Tư và bà ngoại của em, tặng mấy bạn Đậu, Cà, Súng, Sen ở Mị Cà Tha với lời nhắn, dù xa cách, tụi mình vẫn là bạn mãi mãi nghen. Chúc chị Đài một buổi chiều làm việc vui vẻ.
- Vâng, cảm ơn bạn, sau đây mời quý thính giả nghe bài hát…

Giấc ngủ vốn là thứ nhạy cảm, nó phì cười khi nghe lời nguyện gắn bó bằng bài hát có cái tên phũ phàng, “tình quay gót”, về cái sự đồng kính gởi hết sức lạ lùng giữa thím Tư và bà ngoại, mà không biết bà ngoại còn trẻ hay răng đã rụng hết rồi, bà ngoại biết làm gì với cái tình quay gót này. Nào chỉ có vậy, suốt chương trình, là những lời nhắn mang nhiều sắc thái khác nhau, tình cảm như “em vẫn yêu anh” với bài hát “Em đi bỏ mặc con đường” (?!); thắm thiết như “cảm ơn anh đi cùng và che chở cho mẹ con em” với bài hát “Hẩm hiu một mình”(?!); dè dặt như “không biết em còn nhớ tôi không?” với bài hát “Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân”(?!); hồn nhiên như “mong được làm quen với các bạn yêu nhạc gần xa, các bạn có cùng sở thích nghe nhạc buồn, yêu màu tím về số điện thoại 09xxxx”, ngay sau đó radio vang lên đoạn nhạc dạo “Mắt nai cha cha cha”(?!).

Và âm thanh khoan xoáy vào giấc ngủ là những tiếng nói xao động. Ai đó líu ríu, ai đó lúng búng, lí nhí, ai đó nói một hơi dài xong thở cái khì, ai đó nhát gừng, bối rối, ai đó hồn hậu guộng, chên, chung (Chú thích: ruộng, trên, Trung). Những giọng nói đôi lúc gần gủi, thật đến nỗi như nghe được nhịp tim người đập loạn khi nhắn lời yêu thương. Chỉ cảm thấy yêu ai đó thôi, đã run rẩy lắm rồi, đằng này bày tỏ yêu thương bằng lời, trước hàng vạn người nghe, chắc xao xuyến không thể tả. Xao xuyến không tan.

Và loang ra cả giấc ngủ của người khác. Nhắm mắt, mà thấy lướt qua những cuộc đời. Nhắm mắt, mà trong trí thấy người ta đang háo hức mở những món quà. Chúng không được bọc trong giấy kiếng bóng loáng, đính nơ hồng, không được lựa chọn từ tủ kính rực đèn, quà rẻ tiền và hồn nhiên đến nỗi một phần của thế giới sững sờ, trời ơi, thời buổi này người ta còn xí xớn tặng bài ca. Một phần của thế giới chỉ cần bỏ ra vài ngàn, là có thể mua cái đĩa nhạc (in sang lậu) toàn những bài mình thích, mang về nhà nghe sướng lổ tai. Chẳng thể gởi lời yêu cầu tặng bạn bè bài hát nào đó trên radio, bởi bạn cũng rời xa cái phương tiện giải trí cũ kỹ ấy lâu rồi, bạn đã có những thông tin, những trò vui khác, hiện đại hơn, phong phú hơn. Một phần của thế giới nghe một mình. Sướng một mình. Lâu lâu cũng gởi cho bạn bè vài file nhạc đính kèm qua email. Bạn cằn nhằn, tải về lâu lắc quá. Bài hát rốt cuộc ở lại với từng người, vang trong bốn bức tường, chia sẻ nhợt nhạt. Chúng hay, và sang trọng. Nhưng chúng có một cuộc đời buồn tẻ.

Nhưng cái bài hát làm cho giấc ngủ tan tác buổi xế chiều nay đã có một khoảnh khắc sống dù nó cực kỳ sến, bình dân, “em đi lấy chồng, về nơi xứ xa…”. Bài hát không chỉ được nghe như một bài hát, vì nó được yêu cầu bởi người thanh niên nào đó tên Phi với lời nhắn “Anh đang ở Vĩnh Thuận. Chỗ này buồn lắm. Anh nhớ em thích bài ca này. Anh… anh chúc em hạnh phúc bên chồng…”. Câu cuối cùng nghe tiếng được tiếng mất, vì anh nghẹn ngào, vì gió trên đồng phụt phù, hay tiếng bầy vịt đang rộ lên? Không biết nữa, nhưng cái cảm giác hoang vắng và hiu hắt dâng lên trong giọng nói, trong những âm thanh nền. Người con gái đó, giờ này đang bửa củi, nấu cơm chiều, hay đang dỗ con? hay cô đang ở một thành phố nào đó cạo rửa những lớp phèn trên mười móng chân mình? Cô có ở bên radio để nghe lại bài hát cũ? Họ có hẹn hò có dặn dò chờ đợi nhau trên sóng mỗi tuần không? Cô gái ấy còn thích bài hát này?

Tự dưng ai đó muốn vào vai cô gái gọi về chương trình “quà tặng…”, để nói cô đang vui vẻ, và anh chàng kia hãy quên cô đi. Sống đi. Sống mà không ngó lại ký ức nữa. Thật ra chỉ cần cất tiếng, giọng nói xa lạ đã tự nói lên một điều chua xót, tất cả đã khác rồi. Không ai còn ở chỗ cũ nữa, sao anh không chịu đi?

Điện thoại đã ở sẵn trong túi. Gọi rất dễ dàng. Nhưng để biết trò mạo danh kia là nhân danh sự yêu thương con người hay tàn nhẫn với con người, là một chuyện nghiêm túc hay trò đùa vớ vẩn, thì khó.

Nhịp cầu ảo...

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư

Một phòng học loang lổ của ấp được phía xã trưng dụng làm nơi gặp gỡ. Phía trước là khoảng sân ngập nước. Mảng tường tróc lở. Khung cảnh gây lên một niềm phấn khích nhỏ trong lòng tôi, chuyến này coi bộ hay, được gặp bà con tận ấp. Chứ mấy lần trước đi tới xã là lủi vô, bà con phải lặn lội xa xôi, cũng mắc cỡ. Bây giờ thích hơn, bây giờ thì những đại biểu của dân đã gần dân hơn một chút.

Và mặc kệ cái loa phóng thanh lúc nói lúc nín, lúc rít lên chói gắt, lúc rột rẹt, không gian nóng hập, ngọ nguậy trong cái bàn dành cho trẻ con tiểu học, thấy lưng mình thừa ra nửa thước… tôi vẫn thấy vui. Cái ý nghĩ mình hiện diện ở cái chỗ chật hẹp, loang lổ này làm ve vuốt được nỗi khổ tâm mình kém cỏi, tôi sung sướng nghe, sung sướng ghi chép, sung sướng nhìn ngắm.

Bỗng dưng niềm phấn khích biến mất, bỗng dưng lại tuyệt vọng, bỗng dưng tắt ngấm lửa lòng. Như xem một bộ phim làm lại, chỉ thay đổi bối cảnh, câu chuyện giữ nguyên, diễn viên giữ nguyên, những gương mặt quen thuộc. Những gương mặt dầm sương dãi nắng mà tôi đã xao xuyến xốn xang khi gặp lần đầu. Và lần hai, lần ba. Tôi không cảm thấy nhàm chán khi nhìn ngắm họ, nhưng bất an.

Trong sổ tay của tôi có ghi câu danh ngôn này, “con người rất dễ cô đơn bởi họ thường chỉ lo xây tường, chứ không lo xây những nhịp cầu”, nên dù là người không thích hợp với nghị trường, tôi cũng tự nhủ, ừ, tốt thôi, mình làm cây cầu cho dân bớt cô đơn. Nhưng vào một bữa mưa lay phay, tôi hoang mang nhận ra, những nhịp cầu mà tôi bắc, cùng chừng ấy người đi thôi, bàn tay tôi đưa ra, cũng chỉ chừng ấy người nắm. Mà cây cầu có ý nghĩa gì khi chỉ dành cho một số người đi tới đi lui?

Kể lại cái cảm giác thất vọng này, ai đó nghe được, đùa, bảo vậy là gặp “cử tri chuyên nghiệp”, “cử tri chất lượng cao” rồi. Những cụm từ mà khi nghe lần đầu, tôi đã âm thầm đau. Nhưng không bất ngờ. Ai cũng biết những cuộc gặp gỡ được tổ chức với thành phần con người được chính quyền địa phương lựa chọn, mời (có kèm theo căn dặn miệng?!). Nên có nhiều chú, bác lần nào đến đây tôi cũng gặp. Nên không lạ gì, nếu như trong các cuộc tiếp xúc dân, bà con nói đi nói lại vụ dòng kinh cạn, nợ đọng ngân hàng, đến cây cầu gãy, con đường lở, ngôi trường sắp sập, chế độ cho người có công… nhưng rất hiếm khi nhận được ý kiến góp ý xây dựng chính quyền sở tại, càng hiếm hoi nghe bà con khen chê cung cách làm việc của những ông quan xã, những người trực tiếp thực hiện cụ thể hóa chủ trương chính sách, một “văn phòng đại diện” cho Đảng, cho nhà nước, họ tốt, dân biết là nhà nước tốt, họ xấu, dân cũng mất lòng tin vào bộ máy chính quyền. Họ là người có thể một tay che trời. Bà con biết, nhưng bà con không dám nói? Bà con dám nói nhưng chán chường không muốn nói?

Hay chính quyền thực sự làm tốt, tuyệt nhiên không để xảy ra sai sót trong điều hành, trong ứng xử với dân? Muốn biết giả thuyết này có phải là sự thật hay không, ta có thể tìm được câu trả lời ở thím bán quán hàng đằng góc chợ, ở những anh chạy đò dọc, ở những chị phụ nữ trên đường mua nước mắm về… nhưng tại sao ta không có câu trả lời ở cuộc gặp chính thức, đàng hoàng giữa dân và đại biểu của dân?

Thí dụ chính quyền địa phương có nhiều chỗ sai sót mà dân không nói, chỉ có ba khả năng, một là dân thấy cái sai đó như là chuyện bình thường, quen thuộc, hai là không tin đại biểu của họ, dân cho là một giuộc với nhau cả, quan lớn lớn bao che cho quan nhỏ, có méc cũng uổng công, có khi còn rước họa vào thân, ăn ở không yên trên cái đất này. Mà, nếu đại biểu như con Hà Há Ha này, thì nó có quyền lực, tài cán gì để ngăn chặn, diệt trừ cái xấu, bảo vệ dân? Chỉ quyền lực mới đối đầu với quyền lực, ngòi bút cũng chỉ là tiếng nói lẻ loi, không đấu với quyền lực được. Đó là một thứ nước xa nhưng lửa thì gần lắm. Khả năng thứ ba, bà con là những “cảm tình viên” của chính quyền được lựa chọn đến đây.

Khả năng nào cũng làm tôi tức thở. Và cây cầu tôi dang dở, hiển nhiên. Hoặc nó chỉ là ảo tưởng, ngay từ đầu…
Lớn lên từ những ngộ nhận

Tham luận*

Nguyễn Ngọc Tư



Làm sao giải thoát được sự cô đơn, làm sao nói với nhiều hơn một người, tôi tự hỏi mình câu hỏi đó khi bắt đầu tuổi mười tám trên một mảnh vườn thênh thang vắng rợn bóng người. Những năm sau đó thật là dài, như vô tận, với một đứa trẻ luôn cần sự sôi động. Và tôi viết văn. Câu hỏi mà những người thân đặt ra khi nhìn thấy những trang viết đầu tiên của tôi là “tại sao con viết văn?”. Tôi bảo rằng, tại con buồn.

Đó là ngộ nhận đầu tiên của tôi về nghề viết, tôi tưởng viết là sẽ không cô đơn nữa. Nhưng cô đơn là sự tối cần của người viết, nó là một điều kiện hàng đầu của nhà văn. Không một người viết hay nào tôi biết mà không cô đơn, không một thần tượng văn chương nào của tôi mà không bị cô đơn giày vò. Và để chạy trốn nỗi cô đơn trong giao tiếp đơn thuần mặt nhìn mặt, tay nắm tay, việc viết văn đã dẫn tôi đến sự cô đơn khác, đó là ở giữa đám đông mà họ không thấy tôi, hoặc họ thấy một cái gì đó giống tôi, họ tưởng là tôi, nhưng tôi đang đứng ở một chỗ khác, một mình, chờ một bàn tay chạm. Khi người ta bằng mọi cách chạy trốn sự cô đơn thì tôi, và những đồng nghiệp của tôi lại nuôi cô đơn, cho nó ăn để duy trì sự cô đơn tồn tại trong người mình cho cái gọi là sáng tạo văn chương.

Với lý do đó, tôi bắt đầu một ngộ nhận khác, rằng văn chương là công việc đơn độc, đó là công việc thuần túy cá nhân, ít ảnh hưởng đến những người chung quanh. Nhưng khả năng tác động của văn học với mỗi độc giả đã dạy tôi rằng, một khi tác phẩm đến với bạn đọc, nó không còn là của tôi, và tư duy theo cách của tôi nữa. Mỗi người đọc có một cách nghĩ khác nhau. Nhà văn luôn ở trong tâm thế của một người mẹ phải đưa đứa con ra đường, và để cho nó tự sống, được nâng niu hay ruồng rẫy, được chăm sóc hay chà đạp, bà mẹ không thể làm gì, bởi đứa con đã vượt ra khỏi tầm tay bà. Một người viết dấn thân luôn gặp phải va chạm giữa những tư tưởng, những kiểu hiểu và hành xử khác nhau. Đó là công việc không an toàn chút nào, nó đầy rủi ro, bất trắc. Người viết cũng là một người lính. Tôi hoàn toàn thích cách ví von này, nó làm cho tôi có được một lý do để yêu nghề.

Bởi tôi đã tưởng mình không yêu thích, không đam mê viết. Tôi chỉ nghĩ, đó là một nghề sống được, như người thợ máy, như người thầy giáo, như một viên chức mẫn cán... Tôi sẽ rời bỏ công việc này khi nào tôi không thích nữa. Nhưng văn chương đã ở bên tôi vào những lúc mệt mỏi và kiệt sức nhất, những lúc tôi hạnh phúc, thăng hoa nhất. Và giữa lúc này đây, ở giữa các bạn, những người thuộc một quốc gia khác, với một văn hóa chính trị khác với đất nước tôi, tôi thấy mình yêu công việc sáng tạo văn chương hơn bao giờ hết, yêu vì ngạc nhiên trước khả năng chia sẻ của văn học, đã vượt qua khỏi những biên giới địa lý, những rào cản ngôn ngữ, những khác biệt của lối sống. Tôi vốn là người hay xây những bức tường quanh mình, bỗng một ngày nhận mình cũng có khả năng bắc một nhịp cầu. Và tôi có thể đến với người, nếu muốn.

Tôi sinh sống ở vùng đất Nam Bộ, và những tác phẩm của tôi đều viết về đất và người Nam Bộ. Mảnh đất cuối cùng của đất nước tôi hay mang một cảm giác nhược tiểu của vùng đất mới khai phá, không có cái nền văn hóa dày và sâu, nằm xa những trung tâm văn hóa kinh tế lớn, giáo dục, đặc biệt là văn học ít có thành tựu, không được đánh giá cao trong giới cầm bút, trong những tổng kết của văn học Việt Nam. Bất cứ người viết văn nào xuất hiện ở vùng đất này đều được sự đón nhận nồng nhiệt, tôi cũng vậy. Được xem như một đặc sản của miền Nam, một người viết Nam Bộ thuần túy, nhận nhiều kỳ vọng của mọi người, đặc biệt là đồng nghiệp, tôi sung sướng, và thấy hài lòng, mình đã làm việc đó cho quê hương, cho mảnh đất này.

Nhưng sự trải nghiệm của tuổi tác, của thời gian đã làm tôi nhận ra, những gì tôi viết là không gian của riêng tôi, của sự tưởng tượng và sáng tạo. Những đất ấy, người ấy, tôi chỉ mượn cái hồn cốt, giai điệu của Nam Bộ để chuyển tải. Thổ ngữ địa phương chỉ là phương tiện thể hiện ý tưởng và câu chuyện của người viết. Chúng được mọi người xem là phong cách riêng của văn tôi. Nhưng thực chất đó chỉ là một lớp vỏ, tôi muốn bỏ qua cả lớp vỏ đó, để tận mắt thấy trên mảnh đất này, người đời đang lạnh hay ấm, vui hay đau qua làn da, qua từng vết tím, từng cái se lại của lỗ chân lông, thấu thị tận tâm hồn, như một người hành hương về chốn tâm linh không cần bất cứ phương tiện hiện đại nào, chỉ bằng đôi chân trần. Những gì tôi viết, tình yêu, sự dối trá, thù hận, sự tha thứ, hay trả thù, tôi tin rằng chúng xảy ra ở bất cứ vùng miền nào trên trái đất này. Bởi đâu đâu cũng những thân phận, những số phận con người.

Nghề viết, văn chương vốn gây nhiều ngộ nhận, ngộ nhận liên tiếp ngộ nhận. Ngộ nhận ngay từ trên tác phẩm, tưởng chỉ là con chữ nhưng bỗng đâu nhân vật với đầy đủ xương thịt sống động mỉm cười. Tỉnh ra là sự thất vọng bàng hoàng giữa ý tưởng và thể hiện thực tế; giữa cuộc sống bề bộn nóng hổi và sự xa lạ lạnh lẽo của trang viết; giữa thực tài và mơ ước, khát vọng văn chương; giữa cái cảm giác của một người viết ra tác phẩm và của một người đọc để nhìn nhận nó theo cách khách quan.

Tôi luôn tự hỏi, mình đã đủ tỉnh táo chưa, đầu mình đã đủ lạnh chưa cho một trái tim quá nóng? Những trang viết này có làm mình xấu hổ không, có đi vào lòng người không, có khiến người ta nhớ không? Những câu hỏi đặt ra chỉ là cách để tôi không phải vướng vào một ngộ nhận sơ đẳng nhất, nhưng dễ giết chết người viết văn nhất, đó là ảo tưởng về mình. Tôi sợ mất mình, sợ lạc mình ở một nơi mà cả đời không tìm lại được vì tưởng mình đã ở quá cao. Thực tế, trong văn học không hề có đỉnh cao nào, và tôi chỉ là người viết cô đơn ngơ ngác bên chân núi.

Chỉ cần giữ được mình, dù thời gian tiếp nối, những ngộ nhận cũng tiếp nối, lên một bậc thang, ngoái nhìn bên dưới, tôi sẽ nhìn rõ hơn con đường mình từng đi. Nó in hằn những bước chân lúc thẳng, cương quyết, lúc chuệch choạc, ngập ngừng.

Ngày mai, khi nghĩ về những gì tôi phát biểu trong cuộc gặp gỡ này, rất có thể tôi sẽ tự cười mình. Bản thân tác phẩm của mỗi người viết văn đã nói lên nỗi buồn, nỗi cô đơn, tư duy sáng tạo, cách nhìn cuộc sống… diễn giải bản thân ngoại phạm vi tác phẩm, mong nhận được sự đồng cảm của các bạn, có thể sẽ là một ngộ nhận khác.

Sự quyền biến sâu thẳm của công việc viết văn khiến tôi có những giấc mơ dại dột của riêng mình và khi tỉnh dậy, tôi luôn thấy mình lớn lên.


Lời ngỏ cho bản dịch
“Cánh đồng bất tận” ra tiếng Hàn
Nguyễn Ngọc Tư

Khi tôi, cô con gái nhà nông quẩn quanh trong vườn nhà viết những trang văn đầu tiên, tôi bắt đầu tin văn chương thay đổi được số phận con người, ít ra là thay đổi số phận tôi.
Khi tôi, một người viết văn non nớt đón nhận những phản hồi đầu tiên từ độc giả của mình, tôi bắt đầu tin văn chương kỳ diệu, khi gắn kết những con người xa xôi ở những vùng đất xa xôi xích lại gần nhau. Tôi bắt đầu tin văn chương cũng có lửa, làm tan chảy những bức tường thép mà mỗi người tự dựng lên; văn chương cũng là băng, gắn kết những ốc-đảo-người thành một khối, văn chương cũng là nước, dịu dàng mà mãnh liệt vượt qua những rào cản của lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ…
Đã có nhiều câu hỏi đặt ra, tại sao tôi viết “Cánh đồng bất tận”. Tôi nói rằng tôi muốn vượt qua mình, muốn thử sức mình, muốn làm mới mình. Nhưng tôi cũng tự hỏi, tại sao tôi viết “Cánh đồng bất tận”. Ký ức giả vờ thản nhiên kể tôi nghe một câu chuyện trong kho tàng văn học cổ, chuyện rằng người vợ có chồng đi chinh chiến, đêm đêm nàng chỉ bóng nàng trên vách, bảo với đứa con, kia là cha con. Khi người lính trở về, đứa bé không nhận cha, nó nói nó đã có cha, đêm đêm vẫn đến. Và người mẹ đã trầm mình dưới lòng sông để chứng minh sự tiết hạnh, trong sạch của mình. Người ta thường quá tự tin vào mắt, vào tai mình, người ta không dè dặt trước chữ “biết”.
Xin cảm ơn nhà văn Ha Jae Hong, người đã quan tâm và dịch “Cánh đồng bất tận”, một tác phẩm dày đặc thổ ngữ Nam Bộ (mà một số vùng mìền khác của Việt Nam còn cảm thấy… khó hiểu). Chúng tôi đã có nhiều cuộc gặp gỡ, trao đổi với nhau, đôi khi chỉ vì một vài thổ ngữ lạ, và tôi đã thấy người dịch không làm một công việc bình thường với sự cần mẫn bình thường, tôi nhận được ở anh một tấm lòng nhiệt thành, tâm huyết, một sự thấu hiểu, đồng cảm lớn giữa người viết và người đọc.
Hàn Quốc, với tôi là một đất nước xa xôi về mặt địa lý nhưng không xa lạ, nên tôi rất vui khi bản dịch ra ngoại ngữ đầu tiên của “Cánh đồng bất tận” là tiếng Hàn, bởi tôi nghĩ người Hàn, như người Việt, sẽ có một sự đồng cảm đặc biệt với tinh thần Á Châu sâu sắc, kín đáo và dịu dàng…
Tác phẩm của tôi chưa phải là băng, là lửa, nhưng tôi mong chúng là nước…
Đầu đội trời…

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư


Về thành phố lúc mười hai giờ sáng, người chạy xe ôm trao cho chiếc nón bảo hiểm. Mình ngớ người, ờ, bữa nay Mười Lăm tháng Chín, rồi bật cười, đội nón lên, và lúc nửa đêm đó, thành phố của mình cũng bắt đầu khác lạ hơn bao giờ hết.

Một thành phố tràn ngập nón bảo hiểm. Cũng chẳng phải dân mình ý thức cao, chỉ là thành phố có quá nhiều đoạn quốc lộ xuyên qua nó đến nỗi không biết chỗ nào quốc lộ, chỗ nào không, cũng chẳng thể đi một một quãng lại đội nón vào, chốc lát lại lúi húi tháo nón ra. Thành ra không cần đến tháng mười hai, nón bảo hiểm đã xuống đường nườm nượp.

Xáo trộn. Xôn xao. Mỗi người đánh dấu ngày Mười Lăm của mình theo cách riêng mình. Anh cảnh sát chở về hàng mấy trăm xe mô tô vi phạm luật mới. Nghĩa là cũng có hàng mấy trăm người buồn bã tha thểu cầm biên bản đi xe… ôm về nhà. Có người quên đội nón chạy một khúc đường thấy cảnh sát bèn trốn chui trốn nhủi lòng vòng trong hẻm, đời hèn đi một tí. Kẻ khác khẳng khái, không chịu lòn cúi, tần ngần tạt vào sắm cái nón bảo hiểm đầu tiên trong đời xe cộ. Và tất nhiên, vỉa hè cũng có người hớn hở mang nón bảo hiểm ra bán, lời đủ cho con đóng tiền trường. Nhà nhà bán nón, người người bán nón. Mấy cái hàng bánh trung thu ngơ ngác thấy hàng bán nón còn đông đúc hơn mình. Tất nhiên, nón bảo hiểm thôi, chớ mấy bà bán nón thời trang thì khóc ròng. Quán cà phê dành cho tình nhân cũng ế ẩm, tụi yêu nhau thà cầm điện thoại nói nhớ nhau chớ chẳng chịu anh một nón em một nón ra đường. Và mình, đánh dấu ngày bằng một cái nón bảo hiểm cũ mèm, không thể cài dây của một người xa lạ trao cho.

Thành phố cũng đánh dấu ngày mười lăm bằng một khối đoàn kết lạ lùng. Đám đông vốn hằng ngày nhìn nhau so đo giàu nghèo cao thấp bỗng dưng hòa hợp, đại đồng. Không nón bảo hiểm trên đầu, thấy lạc lõng, vô duyên, dị hợm. Thấy... khác thường, không giống ai. Và sự trái thường cá nhân xưa rày luôn bị phản ứng. Nhưng sự bất an đó cũng có thể được dẹp bỏ bằng... nón bảo hiểm. Những cái nón bảo hiểm kiểu nào cũng tròn tròn trên đầu, cũng chừng ấy màu sắc, đố ai đẹp hơn, sang trọng hơn ai. Những lời than phiền cũng giống nhau, cũng bời bời, dồn về một điểm mang tên: nón bảo hiểm. “Trời ơi, ban đêm mà đội nón ra đường vô duyên hết sức”, hay “trời ơi, nón lên giá dã man, mới mua năm chục giờ lên trăm hai rồi”, hay “trời ơi, bình thường đã mệt với áo khoác, khăn che mặt, găng tay, kính râm, bây giờ xách kè kè thêm cái nón nữa, lòng thòng lểnh thểnh, giống… móc bọc quá”… Câu chuyện của buổi trà sáng, cà phê sáng, quán nhậu trưa, quán bia chiều, trước cuộc họp, sau buổi mít tinh… có thể tóm lược chủ đề, “nón bảo hiểm, trời ơi!”. Nó cũng làm cho chương trình thời sự tiêu tốn một ít thời gian, báo chí tiêu tốn một trang để nói à ơi thiệt hơn.

Mình thấy buồn cười, mình nghĩ nếu cái nón bảo hiểm có linh hồn, nó sẽ khoái chí lắm, nó sẽ ngênh mặt cười vào bọn người ta điên rồ này, những bác sỹ, kỹ sư, giáo sư, nhà giáo, sinh viên, công nhân, nông dân, cả những nhà thơ, nhà văn nhà báo, những người được xem là tinh hoa của xã hội bỗng chốc quên mất xã hội vì bận nghĩ suy, băn khoăn, trăn trở, giận hờn, cáu kỉnh vì một cái nón đội đầu không hơn không kém. Nếu người ta cũng có thể hoang mang, điên đảo, bận lòng chỉ vì một vật nhỏ nhoi như vậy, người ta quả thật dễ tổn thương.

Và đáng thương. Bởi ta không nghĩ tới cái nón trên đầu, ta không có cái nón xa lạ đó trong đầu, ta vẫn đầu trần, ta không có gì, thì cái nón bảo hiểm hay nón lá, nón lụa, nón tai bèo cũng chẳng khác gì nhau.

Ta bực mình khi ban đêm mát mẻ cũng phải đội nón bảo hiểm ra đường, ta bực mình vì không thể thì thầm những lời yêu vào tai, không thể ôm xiết và vùi mặt vào lưng người yêu, ta bực mình vì phải vướng víu nón khi ngoái lại một người thương vừa chạy vù qua mặt… Trong cái buổi bực mình ngằn ngặt đó, ta quên những ý nghĩ về một bãi cỏ hoang nằm ì ngay trước quãng trường, một con đường mù bụi, những hàng cây lâu năm bị đốn bỏ một cách không thương tiếc, dòng sông đặc sệt những rác… Ta quên quanh đây còn nhiều kẻ xấu. Và họ chỉ đợi có vậy, chỉ chờ một phút lơ đểnh của người đời thôi, một phút mất cảnh giác, họ cũng đã làm thêm chuyện xấu xa khác.

Nón bảo hiểm có quyền cười cợt con người, bởi quá nhiều người chỉ mãi mê nhìn nó mà không thấy những thân phận đi bên nó. Thấy một sự đại đồng, công bằng, nhưng chỉ là công bằng ảo. Dưới những cái nón bảo hiểm tròn tròn y hệt nhau là những khuôn mặt khác nhau, mang nỗi vui buồn, sự giàu nghèo khác nhau. Nỗi đau khác nhau. Hạnh phúc khác nhau.

Những va chạm đó mới làm người ta thương tổn, cái nón bảo hiểm kia đáng gì mà chúng ta lại khổ tâm?

Thế giới của hai người

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư


Đã đến lúc ta phải nghi ngờ phương pháp ở cử của mấy bà già ở quê.

Về mặt khoa học, ai cũng biết, một tuần hạn chế tắm gội thì vi trùng khủng khiếp. Khủng khiếp hơn là phải nhốt mình trong căn buồng tối mịt, hơi nóng lửa than hầm hập, người bị rang giòn. Mùi than cháy và tro nóng hăng nồng trong không khí. Mồ hôi lúc nào cũng ròng ròng. Khắp mình bôi nghệ tươi vàng khè. Vậy mà mấy bà già chỉ cho mỗi tắm trơn vài gàu nước ấm.

Đó là chưa kể phải trùm chăn kín mít với nồi nước xông nghi ngút khói. Mùi lá sả, lá ổi, lá gừng tươi làm bạn thèm… một nồi ốc luộc. Nhưng phải đến sáu tháng sau bạn mới có cơ may được ăn. Còn nhiều món ngon chết giấc mà bạn phải chịu đựng, giày vò, thèm thuồng, như nước đá bào chan xirô, kem sầu riêng, chè khoai môn, cóc ổi ăn kèm với mắm sống, măng hầm xương, thịt bò xào khổ qua, gà xé phay, canh chua cá lóc hay đơn giản hơn, chỉ là rau sống. Mấy bà già kiên quyết đãi bạn món cá (hoặc thịt) kho quéo, rắc tiêu cay xé, mấy loại canh rau lang, bồ ngót, bắp chuối, thường xuyên hơn là món móng, giò heo bởi vì nó… lợi sữa. Sau bữa cơm là một muỗng gừng tươi ngâm với mật ong cũng rất ư là… nóng bỏng.

Sau bữa cơm, bạn cũng đừng hòng nằm dài ra đó mà sướng, mấy bà già cằn nhằn chừng nào bạn chịu nằm sấp mới thôi. Ăn no mà ép cái bụng xuống vạt giường, bên dưới là than đước đang âm ỉ cháy, thì ấm ức thật. Và ngay khi bạn cảm thấy mình đã mạnh giỏi, đã khoẻ khoắn, muốn chạy chơi đâu đó thì vừa thò chân xuống giường đã bị rầy te tua, “đàn bà sinh nở, như con cua lột, đã dặn nằm chờ cho cứng cáp, mà cứ cãi…”

Thật sự ta nghi ngờ mấy bà già. Đây không đơn thuần là vấn đề sức khoẻ mà mấy cụ lại buộc một bà mẹ trẻ rơi vào cảnh lăn qua lăn lại trên giường nhỏ, không biết làm gì, chỉ ăn rồi lăn ra ngủ, ngủ dậy lại tới bữa ăn, cuối ngày thì tắm vài ba gàu nước nồng hăng mùi lá thuốc.

Đã đến nước này, mấy bà già còn muốn gì, ta?

Cái chân đi, cái chân rong ruổi đậu lại một chỗ rồi. Buổi sáng không còn cà phê ở quán vỉa hè gần góc đường nhiều bóng cây. Trưa qua đi trong nỗi nhớ mấy bộ phim tình cảm éo le trên ti vi, và chiều đến kéo theo nỗi bâng khuâng vô bờ bến, mấy đứa bạn ta bây giờ không biết ăn uống nhậu nhẹt ở đâu, đêm thăm thẳm sốt ruột không có cuốn sách nào trong tay để ru giấc ngủ say, chờ ngày mới đến. Chàng vào thăm ngày mấy lượt, mỗi bận âu yếm an ủi mấy câu, ngơ ngẩn ngó con, hôn con rồi đi làm lụng, họ hàng vén rèm thăm hỏi một chút rồi cũng về nhà. Không còn những con đường người đông rợp, không còn những cái quán quen, không có những tin tức nóng hổi trên nhật báo, không ti vi, điện thoại… Thế giới như chỉ còn mình ta.

Mà không, còn một người nữa trong thế giới nóng nực và thinh lặng này, hắn đang ngủ say kia. Hắn ngày càng đỏ, chắc do ảnh hưởng lửa than. Tóc hắn dài như mấy tay chơi nhạc rock ở Mỹ. Móng chân, móng tay cũng dài, cứ chực chờ cơ hội tụt găng tay giữ ấm ra để cào mặt chơi. Da hắn mỏng, trong như pha lê, như những mạch máu nhỏ li ti kia hoàn toàn có thể chạm được. Hắn hay cười trong giấc ngủ. Lúc thức cũng chẳng thèm nói năng gì, đói: khóc. Khó chịu: khóc. Nực nội: khóc. Lạnh lẻo: Khóc. Buồn ngủ: khóc. Đái dầm ướt tả: Khóc. Thế giới chỉ hai người nhưng mỗi người lại một ngôn ngữ khác, thành ra dù muốn hay không, bạn phải học, để khỏi cô đơn.

Bạn cầm tay hắn, hôn khắp mình hắn, bạn nghe mùi sữa thơm nồng nàn. Sữa là của bạn, nhưng sữa chỉ thơm trên da thịt hắn. Lẩn khuất trong đó là mùi khói, mùi dầu khuynh diệp, mùi phấn rôm... dịu dàng. Lúc bạn chán, bạn buồn, chẳng biết làm gì, bèn quay qua nhìn mặt hắn, sờ nắn hắn, tìm được chút mình trên gương mặt còn thô sơ, chưa rõ nét kia. Bạn trò chuyện với hắn bằng ngôn ngữ của mình, đôi khi cuộc chuyện trò diễn ra trong câm lặng, chỉ tim nói cùng tim, suy nghĩ nói cùng suy nghĩ. Hắn đái bổng lên trời, cầm cái lon sữa bò hứng vờn theo tia nước, bạn bật cười. Thấy vui quá chừng, vui mà lạ, vui không giống như ngồi nói chuyện phiếm với mấy đồng nghiệp, vui không giống như đùa với chàng, không giống như làm được một việc gì đúng như mơ ước.

Vui, vì khi thế giới không còn ai nữa, đã nín lặng, đã trôi xa, thì vẫn còn một người ở lại với bạn.

Hắn chắc cũng vui, vì lúc mới chào đời hắn rên rỉ dữ dội, bạn phải đặt hắn nằm nghiêng, quấn khăn thật chặt, ghì sát hắn vào người, thở trên vành tai hắn, gã trai cô độc kia mới chịu thôi than thở. Hắn sợ bạn bỏ hắn, dứt hắn ra.

Nhưng bạn vẫn còn đây, tay bạn vẫn nắm tay hắn, hơi thở vẫn còn bên hơi thở dù những ngày rất dài qua đi. Và cái thế giới nhỏ bé đó thắp mãi trong ký ức một ngọn đèn rực rở, lúc cô đơn nhất, yếu đuối nhất có người ở bên người.

Cái phương pháp ở cữ xưa cũ của mấy bà già, dường như vượt ra khỏi mục đích vì sức khỏe. Nghi ngờ lắm…

Ai biểu xấu!?

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư

“...Bạn diễn đạt hơi thiếu biểu cảm. Giọng bạn đuối đi khi đến cao trào. Một điểm nữa là ngoại hình bạn bị hạn chế. Mà đây là thi Tiếng hát truyền hình chứ không phải tiếng hát phát thanh...”. Lời nhận xét này của một thành viên ban giám khảo cuộc thi tiếng hát truyền hình tỉnh trong đêm chung kết. Tôi thấy một chút điếng dại đi thoáng qua trên gương mặt thí sinh, khi giữa sân khấu lấp lóa ánh đèn, trước hàng ngàn người và đông đảo bạn xem truyền hình trực tiếp, anh bị chê... xấu.
Hẳn anh không muốn mình xấu. Hẳn cha mẹ anh cũng không muốn sinh con xấu. Nhưng vào cái lúc vị giám khảo đến từ thành phố văn minh kia “âu yếm” (quả thật vẻ mặt ông rất hồn nhiên) nhận xét về ngoại hình mình, anh sẽ oán giận cuộc đời, oán giận mẹ cha đã tạo ra anh giữa đời này, làm cho anh tới nông nỗi này, chết đứng trên sân khấu. Mà anh vẫn phải gượng gạo cười, chờ người ta chê xong, cảm ơn, và rời sân khấu trên đôi chân không phải của mình, gương mặt không còn là của mình, di chuyển một thân xác đã khô những máu, thân xác cũng không còn là của anh.
Tôi bỗng nghĩ mình may, phải biết hát hò, có khả năng tôi cũng đi thi. Và cái cô Hà Há Ha mang số báo danh Không Không Có cũng bị trời trồng bởi “ngoại hình hạn chế” hay “tên bạn rất không hợp để làm... ca sĩ”. Bất ngờ? Không, ta vẫn biết vậy khi nhìn vào gương, khi nghĩ về mình, nhưng ta vẫn đau một cách không kiềm chế. Và ánh đèn đêm đó, vẻ mặt vô tư của vị giám khảo đó, biển người đó, bài ca đó... mãi mãi là nỗi ám ảnh không nguôi được. Chỉ muốn làm cát, làm nước, làm giun dế cho rồi...
Sao ngay từ đầu, trong thể lệ cuộc thi, người ta không đưa ra điều kiện “ngoại hình đẹp” như mấy nhà hàng vẫn thường dán thông báo tuyển tiếp viên. Nhất thiết phải dán mấy cái hình mẫu Jude Law, Lương Triều Vỹ hay Mai Phương Thúy để người ta hiểu đẹp là phải như thế này. Bởi mỗi người có một quan niệm khác nhau về cái đẹp, như tôi, lam lũ, đen đúa, bụi bặm... là đẹp, thì bạn nói bạn thích vẻ dịu dàng, thuần khiết, mỏng manh, sang trọng... Người dự thi, sau khi ngó qua tiêu chí và mấy tấm hình mẫu thì dù có giọng đẹp như Lê Dung, Tuấn Ngọc, Mỹ Linh cũng ngó lại cái “ngoại hình hạn chế” mà rút lui không nuối tiếc.
Để không phải trút tâm huyết gan ruột mình hát cả chục bài, vượt qua bốn năm vòng thi; để không nuôi chút vui, chút hy vọng, khát vọng gì khi qua mỗi ải; để không phải xót lòng nghe người đời hỏi, “ê, sao ba má bạn đẻ bạn xấu vậy?”. Để đi qua một giấc mơ dài, chợt tỉnh bất ngờ vì bị dội vào người thứ nước lấy lên từ những dòng sông băng, buốt nhức, cắt da cắt thịt. Tỉnh dậy, để thấy đời buồn vì những chuyện không đâu.
Cảm giác và nói ra cảm giác là hai chuyện khác nhau, một cái là của riêng mình và cái kia tác động đến người khác. Ai cũng nghĩ như vị giám khảo kia, nhưng không phải ai cũng thiếu tế nhị, thừa tàn nhẫn để thể hiện nó bằng lời, công khai giữa đám đông.
Tôi nhớ có lần, bạn bè hỏi tôi sao mà lúc này quan tâm quá nhiều tới nhan sắc. Tôi cười thầm, ngoài miệng nói vậy thôi, chứ thật ra tôi tin là mình cũng... có chút duyên ngầm. Nhưng tin cũng chẳng làm gì, vì tôi biết với “ngoại hình hạn chế”, chắc chắn tôi không thể thi “tiếng hát truyền hình” (nếu có giọng ca khá), không thể làm nhân viên tiếp thị (nếu chẳng còn viết văn được nữa), và nếu khó khăn hơn nữa, để nuôi đám con ăn học, tôi cũng không tìm được một chân bưng bê trong quán bia.
Ai biểu xấu?!
Chọn lựa của nụ cười
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

Rủi, tuần đầu tiên cô bé vào làm việc ở cơ quan, phải dự đến ba cuộc họp. Lần nào cũng ngồi cạnh chị phó chủ tịch, lần nào cũng bị rầy, vì một lỗi, cô bé hay cười quá. Mà cười là cười hết cỡ, cười hồn nhiên, sảng khoái, bị trừng nguýt, cô bé cố nén, nén không được, đành cúi mặt xuống bàn, cười. Đầu tuần sau người ta gọi cô bé họp (lại họp), bảo là thái độ không tốt. Họp hành không phải chỗ muốn cười là cười, đây là chỗ cần nghiêm túc, bởi vì họp là việc nghiêm túc.
Cô bé kể lại chuyện mình bị “giũa te tua” (chữ của cô), giọng vẫn còn ấm ức, em không hiểu làm sao mà lại không được cười khi mà mình mắc cười. Công chức cũng là con người mà, chị… Ừ, thì hẳn rồi, chứ tôi đâu có nói họ là tượng đá, tôi trả lời. Cô bé không thoả mãn với câu trả lời.
Ít lâu sau, tôi có dịp họp chung với chị phó chủ tịch mà cô bé kể, ngồi ngang mặt nhau, suốt buổi tôi loay hoay nhìn chị, nhìn người này người nọ. Đến hết buổi thì chị cười một lần, cùng với mọi người, nhưng cái cười mệt mỏi, gượng gạo, xòe một cái tắt mau, không dư vị. Lại nhớ câu nói hôm trước của cô bé, công chức cũng là người…
Nhưng có chút chức quyền người ta đã hơn người một tí. Vậy làm sao tỏ ra hơn người? Ít cười. Đến một cơ quan liên hệ làm việc, dễ phân biệt được nhân viên hay quan chức, nhân viên thì còn cười chào, hỏi han, hoặc thờ ơ giũa móng tay, tỉa chân mày, quan chức mặt nghiêm nghị, lừ lừ. Một kiểu gồng. Có người gồng trên mình mấy bộ quần áo te tua tơi tả, tóc tai xấp xãi cố khoe khoang tư chất nghệ sỹ. Có người đeo kính trắng, xách cặp to, dày cộp cho toát ra vẻ trí thức. Nên cũng có người chơi… mặt lạnh cho giống chính trị gia.
Tôi định hôm nào gặp cô bé, để nói cô nghe giá trị của sự tự tin. Ít ra thì tôi cũng gần chục năm sống đời công chức còn chân cô bé vẫn ướt sũng ngẩn ngơ. Ít ra thì ngần ấy năm, tôi phải thu hoạch được gì đó. Rất đàn chị, tôi sẽ vỗ đầu em mà nói rằng, người ta ngồi họp không dám cười vì không tin đó là cuộc họp nghiêm túc. Như người ta không tin mình có văn hóa nên gắn cái biển gia đình văn hóa; không có cá tính, tư chất của một người nghệ sỹ, biết mình không đủ tầm như một trí thức, sợ mình không có được cái phẩm chất của một lãnh đạo giỏi nên vịn vào hình thức, trang phục, vẻ mặt… Tôi tham dự nhiều cuộc họp, ngoài một điều nhàm chán là ngồi nghe đọc lại nội dung những tài liệu đã được gởi trước (thấy mình giống… bò ợ cỏ ra nhai lại), còn vì những khuôn mặt trầm trọng như nhau, suy tư như nhau. Biểu cảm nghèo nàn. Nhất là ở những người giữ cái chức trung bình, tầm tầm, trên nhiều người nhưng vẫn còn dưới nhiều người, bởi những người giỏi, cao lớn thật sự, họ đã đủ tự tin vào mình.
Tự ti ám vào cả những người công tác ở các hội đoàn thể, nơi gần với dân nhất, ít “hành là… chính” nhất. Có lần hỏi mấy anh cán bộ Đoàn sao khệ nệ, làm mặt ngầu coi ớn quá vậy, các anh phân trần, nếu không làm vậy mình nói thanh niên đâu có nghe, vì cùng trang lứa với nhau, mình xí xớn quá người ta không phục… Trời, ngay lập tức một câu hỏi xuất hiện, nhói bên sườn, vậy thì những phần việc mà anh Đoàn này làm vẫn không đủ cho anh tự tin trước mọi người sao?
Thành phố nhỏ teo, tôi gặp lại cô bé hôm nào. Nghỉ việc ở cái Hội đoàn thể có những cuộc họp không cười ấy rồi, bây giờ cô bé bán hàng trong cửa hàng sách, văn hóa phẩm. Lý do đơn giản, “Cái mặt em mà không cười coi kỳ lắm chị. Mà em hay cười từ hồi nhỏ, giờ biểu đừng cười, thà chết còn sướng hơn…” Biết là không dễ xin được một việc thư nhàn, ổn định trong một cơ quan nhà nước, gắn liền với nó là chút lợi, chút danh, biết là mình vừa rời bỏ vị trí mà những sinh viên mới ra trường ao ước, nhưng cô bé chọn ở lại với chính mình, với nụ cười.
Cô bé mới chính là người xoa đầu tôi. Trời ạ. Không cần mười năm để học mấy bài cũ kỹ ấy. Có gì mà đáng học. Cũng may, những năm tháng dài đằng đẵng đã qua tôi đọc được vài cuốn sách, nhớ cái câu “chính trị là nhan sắc…” (mà nhan sắc tất có lúc tàn rữa), nên không tự tắt nụ cười. Chỉ vì đời nhạt nhẽo quá, tôi ít cười thôi. May, tôi vẫn còn nhớ được nụ cười của chính mình.
May, người như chị phó chủ tịch cũng không đông lắm, nên đời còn nụ cười để nhoè nỗi đau, còn nụ cười để ủ ấm vá víu những tan hoang, còn nụ cười để ai đó tin rằng, mình đang sống giữa con người…
Và cô bé kia không thân thiết gì với tôi, tình cờ quen nhau, đôi ba lần gặp gỡ, cà phê, nhưng tôi thở phào khi cô thà mất việc chứ không từ bỏ chính mình. Nếu không thì hẳn tôi sẽ thêm một vết xót. Như chị phó chủ tịch kia, bữa nào chị đến sở làm cũng ngang qua nhà tôi, cũng rơi vào tôi ít muối khi mỗi ngày chị già đi một chút, lạnh lẻo hơn một chút. Người phụ nữ đó, từng làm cô giáo của tôi, một cô giáo hay cười, tươi tắn, bỗ bã với trò bạn bạn tui tui, nhưng trò sợ lắm, vì cô dạy hay, nói cái gì chắc nụi cái đó.
Nhưng bây giờ cô giáo của tôi chỉ là pho tượng. Mà không đủ tự tin rằng mình là tượng.

Chầm chậm xe lôi

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư

Chữ cấm gồm một nguyên âm và hai phụ âm. Trẻ mẫu giáo, đến lớp lá, là biết đánh vần â mờ âm cờ âm câm sắc cấm. Chữ này dễ nói.
Vừa rồi, anh Cần Thơ nói “cấm”… xe lôi. Lần này cấm thiệt. Lúc trước cấm... thể nghiệm, cấm... thăm dò ý kiến dân thôi. Còn nhớ, khi đó dân cự quá, nhà báo cự quá, tới nhà thơ vốn dĩ mơ màng mây gió còn nhảy ra cự… Nhưng anh vẫn thì "lập trường vững vàng" (cũng là một cụm từ yêu thích). Cấm. Cấm tiệt. Cấm mất tăm mất dạng.
Có nhiều lý do, anh nói xe lôi làm mất vẻ mỹ quan đô thị, rối rắm hệ thống giao thông, trật tự công cộng quá đi, quê mùa, nhếch nhác quá đi. Những thành phố khác như anh Sài Gòn, hay xa mút chân trời như anh Cà Mau cũng cấm xe lôi, xe vua, xe ba gác rồi. Bề thế, hoành tráng nhất miền Tây Nam Bộ như Cần Thơ ta đây, chẳng lẽ chịu thua sao?
Đố ai tìm ra được một chỗ sai nào trong hệ thống lý lẽ đó. Chặt chẽ và hợp lý. Hẳn khi ban hành cái lệnh cấm này các anh đã ngồi lại với nhau, bàn bạc nhiều lần, tốn nhiều giấy để in các tài liệu có liên quan, chi phí nước khoáng để cãi nhau cũng bộn, được sự đồng thuận hết cấp ủy dưới lên tới cấp ủy trên. Nhưng trong tất cả cuộc họp bàn đó, hình như thiếu vắng sự có mặt của mấy ngàn lao động hành nghề xe lôi, của hàng chục ngàn dân đang sử dụng dịch vụ này, của hàng ngàn người, nhiều trong số đó là người già và trẻ con, chỉ biết ngó vào chiếc xe lôi mà no mà đói.
Chắc chắn, nếu có cuộc họp đó, cái anh ghi biên bản sẽ mỏi… rụng tay luôn. Và xấp biên bản sẽ dày như hồ sơ… xây dựng cơ bản.
Ta thấy gì trong đó?
Ý kiến anh Nguyễn Văn A, thợ mộc ở phường X quận Y: tui không thích cấm xe lôi vì tui không thể mua tấm ván ép mà phải gọi điện thuê nguyên chiếc xe tải dù nhỏ nhưng giá thuê sẽ không nhỏ chút nào với giá xăng chớp mắt là thấy lên vùn vụt.
Ý kiến của chị Trần Thị B bán quán cơm bình dân nổi tiếng ở đường Danh Nhân: Rồi tui chở rau củ, thịt thà từ chợ về nhà bằng gì hả trời?
Ý kiến của chú Lý Hoàng C nuôi heo trong hẻm Cây Lứt: Mấy ông tính sao chớ, không lẽ tui kêu taxi chở cám sao? Mà, hẻm nhà tui hẹp đến nỗi gặp mấy người bụng bự giữa đường còn ngại, làm sao xe nào vô được đây?
Ý kiến của Bé Mén, học lớp 4 trường Anh Hùng Dân Tộc: con thích xe lôi vì đi xe lôi từ nhà tới trường chỉ tốn có một ngàn đồng, con còn dư lại một ngàn để mua… cà rem.
Anh xe lôi thì không nói nhiều, từ đầu tới cuối buổi ngồi se cái nón bạc màu trong tay, trên khuôn mặt cháy nắng đen đúa buồn lo rối bời. Tơi tả trong lòng là học phí cho con trẻ, là thuốc thang cho mẹ già, là người vợ đang oằn mình tảo tần với gánh chè, gánh cháo. Anh nghẹn lời hỏi: “rồi tụi tui biết sống bằng gì?”.
Giả sử, có cuộc họp đó, thì anh thư ký sức mấy mà ghi vào biên bản cái giọng nói run rẩy, chua xót, lo âu, hẫng hụt của anh xe lôi. Làm sao, có ngôn ngữ nào (mà anh biên bản thì rất hạn chế ngôn ngữ cuộc đời, khả năng diễn đạt hành chánh anh có, ngôn từ kêu, sáo, tha thướt trên đầu cây ngọn cỏ anh có, nhưng chúng không thể gắn vào miệng dân đen) để nói lên cái cảm giác đau ứa ra khi ngồi để người ta bàn tán, định đoạt công việc, chén cơm, manh áo, sinh mạng của người thân mình, tương lai của con mình. Người bênh vực thì ai cũng có tình có lý nhưng miệng không thép không gang. Người có quyền quyết định thì khăng khăng chữ “Cấm!”.
Bởi vì chữ này dễ nói hơn “sửa sang”, “chỉnh trang”, hay “lập lại trật tự”. Lại nhớ, mấy chữ “nhà nước của dân do dân và vì dân” anh cũng hay nói lắm, chứng tỏ anh cũng thích lắm. Hai chữ, cụm từ anh thích như nhau nhưng ngôn ngữ tiếng Việt trong trường hợp này chắc không cho phép anh nói cùng một lúc.
Và tôi ước gì có cuộc gặp nhau, trong biên bản hẳn sẽ có tên tôi, Hà Há Ha, nghề nghiệp lạ đời, sống ở cuối trời, hôm nay đứng trước anh mà nói rằng, tôi sẽ ân hận suốt đời, vì tôi lao động văn chương mà chưa viết một dòng nào về những chiếc xe lôi, về cuộc sống những người chạy xe lôi dầm sương dãi nắng kiếm sống lương thiện, nhọc nhằn, vì không ghi lại hình ảnh của một người bạn già mình, sau chuyến đi Bắc về, ông gọn ghẽ, hồn nhiên như trẻ con ngồi giữa những giò phong lan, những thùng tượng gỗ, lọ gốm chất chung quanh, vẫy tay chào tôi trên chiếc xe lôi, khi ấy chiều nắng xế. Ông không hề trả giá khi lên xe. Bởi những người chạy xe lôi trong thành phố này, ông coi là bạn. Bởi đó có thể là những hình ảnh cuối cùng. Của ông già. Chiếc xe lôi. Và một phần ký ức của tôi.
Tôi sẽ ân hận quay quắt khi chưa một lần bước chân lên những chiếc xe lôi, từ đây sẽ bặt tăm mù mịt…
Nhưng cuộc gặp đã không xảy ra, không có biên bản nào. Nhưng biên bản làm gì, gặp gỡ làm gì khi người ta ngay từ đầu đã quyết chí không lắng nghe nhau? Chầm chậm xe lôi

Thư gửi ông Sơn Nam
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư
Nhà Quê nhiều lần làm con giận lắm, ông à. Con mua táo về, táo Mỹ nghen, mắc tiền lắm, Nhà Quê cắn xong một miếng, nhấm nhẳn, ăn thua... mộng dừa, con ức không chịu nổi vì đã bị phụ lòng còn bị giũa một trận te tua, tội phí tiền mua mấy thứ không ngon lành gì. Con bị sốc đâu cũng năm ba lần như vậy, tặng măng cụt Nhà Quê nói ăn cũng không hơn... mãng cầu gai, còn sầu riêng thì bị quăng ngay ra cửa, vì cái mùi... thúi chịu hổng nổi.
Con thấy tổn thương ghê gớm. Nhà Quê mà ông và con yêu mến cũng có điều đáng phàn nàn, không chịu tiếp nhận cái mới gì cả, đôi lúc còn cực đoan nữa. Nhà Quê ít chịu mở ti vi coi thời sự, đã qua thời dùng bình ắc quy nhưng Nhà Quê đợi tới cải lương (hay phim) mới chịu bật ti vi. Nên hiểu biết của Nhà Quê không vượt ra khỏi cái xóm đó, con kinh đó, bờ chuối, bờ dừa đó. Sách báo thì chỉ được mấy lão nông đảng viên về hưu để mắt tới, tầm 30- 40 rảnh thì nhậu thôi, cầm tờ báo lên than buồn ngủ quá trời. Những kiến thức, những thông tin của thế giới bao la này nhiều khi bị cắt xén ra từng mẩu bằng... bàn tay, lúc ngồi soi bóng nước trong cầu cá tra, buồn tình mới săm soi vài chữ.
Vậy nên những chuyện đồng cốt thầy bà thì miễn bàn, Nhà Quê mê vô kể. Ai đó cắt lưỡi lấy máu để gỡ bùa, ai đó chữa bệnh ung thư bằng nước lạnh, ai đó lấy ếm trên nóc nhà tóe lửa, ai đó được bà cậu (tại sao bà mà là cậu được ta?!) nhập vào, bứt cọng tóc của thân chủ mà biết được quá khứ vị lai, sáng mai đi hướng nào mới tốt; ai đó một bữa đi nhậu về té sông, lội lên không biết bị người cõi nào nhập mà ho một cái, kẻ thù lăn ra chết. Sợ thiệt! Nhà Quê chịu khó chèo lắm, mỗi khi nghe đồn đãi có đồng cốt nào đó mới lập bàn thờ, tưng bừng như đi hội. Lúc đi tìm giống lúa mới, hay tham quan các mô hình canh tác cũng không hào hứng, đông đủ vậy.
Con có ghét gì Nhà Quê đâu, con thương còn không hết. Vì thương nên con mới bực mình. Hồi đó có câu “dân như mắt khóm”. Trái khóm, ông cũng biết, quá chừng mắt. Nhưng bây giờ những con mắt đó đã nhắm lại rồi, không hiểu tại sao. Nhà Quê hay bị nhằn kiểu vầy, mấy ông Nhà nước làm sao chứ để số đề hoành hành quá, mấy ông Nhà nước tính làm sao chứ nò đó trên sông nhiều quá, có bữa không biết đường chạy xuồng. Vụ số đề, rốt cuộc ai chơi? Nhà Quê chơi. Ai làm thầu? Nhà Quê luôn. Biết tỏng tòng tong đường dây mua bán, biết luôn kẻ mua người bán, nhưng Nhà Quê vẫn thấy việc dẹp bỏ nó không phải của mình. Và những cái nò đó chằng chịt trên sông cũng vậy, và những trò đồng cốt lường gạt cũng vậy... chúng được tồn tại, nuôi nấng, chiều chuộng ngay trong lòng Nhà Quê.
Con biết cái thư này làm ông buồn, ông nghi hoặc, Nhà Quê làm gì đến nỗi, dù gì, cũng còn phần hồn vía giản dị, trong trẻo. Dạ còn, hào sảng còn, chơi hết mình còn, hồn hậu còn, nhưng cũng giống như bức tường xây lâu ngày, vôi vữa bắt đầu rơi ra từng mảng nhỏ, Nhà Quê bây giờ đi đám giỗ cũng bằng tiền, cũng ghi sổ để tới đám giỗ nhà khác coi người ta đi bao nhiêu mình đi lại bấy nhiêu. Trai gái không biết làm gì nên lấy nhau sớm, có đứa mười sáu tuổi đã bồng con nèo nẹo. Có xóm, vợ nhậu vô rượt đánh... chồng te tua. Sổ đỏ nằm ở ngân hàng, nhưng có thừa ra chút tiền, đi sắm dàn karaoke về ca cho đã, chứ đằng xóm người ta sắm hết rồi, mình không có, cũng kỳ.
Bữa nay con méc mấy chuyện này với ông, Nhà Quê hay được, lại giận, nói chân con còn dính phèn mà đã day qua nói xấu quê hương xứ sở mình. Con lại được đội thêm cái nón nữa, dù con không muốn, con đủ đen rồi, muốn làm hảo hán đầu đội trời chân đạp đất.
Thôi, con dừng bút, chừng nào nhớ ra cái gì, con lại viết thư cho ông. Biết đâu chừng, thư sau, con sẽ kể một chuyện dễ thương của Nhà Quê để chứng minh là con yêu Nhà Quê, như ông.
Xe đêm...
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

Má dặn, đi xe nhớ đừng ngồi trước, phía trước nguy hiểm lắm, nhưng cũng đừng ngồi mị đằng sau, cũng… ghê. Có người buồn cười, những vụ tai nạn nghiêm trọng gần đây, trước sau gì cũng tan nát. Trời kêu ai nấy dạ. Má nổi quạu, mình phải tránh cái chỗ ông trời hay kêu chớ.

Vậy thì ngồi giữa. Có một chỗ núp ông trời nên chịu cực tí, chân không duỗi thẳng được, băng ghế chưa đến một sải tay nhưng chen chúc đến bốn người. Một bà già, một chị phụ nữ dẫn theo đứa con chừng mười tuổi dồn người thứ tư ép sát vào thành xe. Mỗi khi muốn xoay trở, người thứ tư xếp vai mình ra đằng trước. Chị ta ghét cái chỗ ngồi này, như ghét những chuyến xe đêm, ghét trạng thái mụ mị, vật vờ, tối tăm của nó.

Ngó ra những ngọn đèn mê mỏi bên đường, người thứ tư xem đồng hồ. Đoạn đường tỉnh lẻ - Sài Gòn xa khủng khiếp. Đứa bé tựa vào vai mẹ, ngủ ngon lành. Phía sau lặng ngắt, không phải vì tất cả đã ngủ mà họ đang vật vã với cơn say xe. Trong cái vũng đêm chênh chao, nghe tiếng mấy cái túi ni lông cứ sột soạt, mùi nôn oẹ chua khẳm, mùi dầu gió hăng nồng, và khói thuốc lá bắt đầu trộn lẫn các thứ mùi với nhau, sánh đặc. Anh tài xế chống lại cơn buồn ngủ bằng một thứ được gọi là nhạc trẻ, kiểu như “Không yêu đừng nói lời cay đắng”... Loại này chống buồn ngủ hiệu quả, vì không gây tức anh ách, cũng khiến người ta phì cười.

Nhưng hai người phụ nữ ngồi bên cạnh thì chẳng tức, chẳng cười, cũng chẳng quan tâm không khí quặn mùi. Họ đang nói, và lúc này đây nói cũng là một cách thiền, bỏ sự đời qua một bên. Giọng bà già giòn tan, chị phụ nữ thì ngập ngừng, day diết. Trong những câu nói qua nói lại, lúc nhát gừng, ngắn ngủn, lúc chảy tràn, họ nhắc tới bệnh viện, và bệnh ung thư. Chị phụ nữ lo lắng, giọng nói đôi khi hụt đi khi nhắc tới những từ như: “xét nghiệm”, “đơn thuốc”, “hóa trị”. Bà già gạt đi, tay cứ xua xua như có con muỗi vo ve trước mặt, cuối mỗi câu, bà già hay đệm mấy chữ, ‘Hỏng sao. Đừng lo. Dễ ợt…”. Bà nói bà ra vô bệnh viện như cơm bữa, bà rành sáu câu, bà nuôi bệnh ung thư trong mình nè, nhưng sống phẻ re, bà đi hóa trị như đi du lịch. Nhưng giọng chị phụ nữ cứ như tái dại đi, yếu ớt, nghe như tuyệt vọng, con cái còn nhỏ quá, dì Sáu à, con sợ…

Đâu đó nghe tiếng thở dài. Xe đêm thường chở theo nó những tiếng thở dài, những người sắp, đã và đang đối đầu với bệnh tật. “Cô bác xuống bệnh viện nào?” luôn là câu hỏi của nhiều tài xế chạy đêm, họ biết con đường nào ngắn nhất, tiện nhất để đưa khách đến đó. Thường, khách có nhu cầu khám và chữa bệnh nhiều khi chiếm hơn một nửa chuyến xe, còn lại là những người buôn bán, về quê hay đi học… Ít có ai đi công cán mà chung chạ xe đêm. Chỉ những con bệnh tỉnh lẻ tối tối chảy trôi về thành phố, để sớm hôm sau họ có mặt ở các bệnh viện, phòng khám thật sớm, vạ vật chờ mở cửa, vạ vật chờ lấy được toa thuốc, kịp về chuyến xe tối lại, ở thêm một bữa, là gánh nặng tiền trọ, tiền ăn…

Những chuyến xe ngược về tình lẻ lại xốn xang những tiếng thở dài, ai vừa phát hiện ra bệnh mới, ai vừa qua cuộc điều trị rã rời, ai còn lơ lửng chờ kết quả xét nghiệm cuối cùng…

Và bà già tươi giòn kia, chắc chắn bà không kịp về chuyến xe tối mai, vì phải nằm lại trong căn phòng trắng toát, vật vã, héo rũ sau đợt hóa trị. Người thứ tư nhìn bà đã bắt đầu thiu thiu ngủ, nghĩ thầm. Nghe có chút đau nhói. Chị ta ghét đi xe đêm, ghét sự thao thức, ghét người bạn đường đang sắp ngả đầu vào vai mình, tóc bà rủ vào cổ mình, nhồn nhột. Một mái tóc kỳ lạ, đen rợn, lúc ghé quán ăn khuya bên đường, đi ngang qua chỗ bà ngồi, người thứ tư không thể gỡ cái nhìn của mình ra khỏi màu tóc đó. Tự hỏi, ở tuổi này, người ta còn gì để nắm níu, để tha thiết mà phải dùng tóc giả che giấu đi mái đầu đã xác xơ vì chống chọi cùng căn bệnh hiểm?

Tự hỏi, bên bờ sống – chết, bà làm đẹp để làm gì và để cho ai? Tự hỏi và tự trả lời, người thứ tư biến thao thức của mình thành một trò chơi trên ti vi. Chắc bên sông còn ông già người yêu cũ, bà muốn giữ hình ảnh mình đẹp mãi trong ông; chắc hồi trẻ bà có theo đoàn văn công; chắc bà không muốn nhớ tới tình trạng bệnh tật của mình, khi mỗi ngày nhìn tóc rơi xuống đất. Hay bà mặc cảm xấu xí, người thứ tư nghĩ tới điều đó khi mớ tóc giả của bà già trong cơn gà gật, đã tuột xuống tay chị ta. Những ánh đèn bên đường quét qua khuôn mặt mệt mỏi xanh xao, lướt nhanh trên mái đầu hiu hắt chỉ còn dăm ba sợi tóc của bà. Người thứ tư xếp vai mình, xoay người, trùm lại tóc cho người bạn đường. Thương, mà vẫn ước một tấm khăn vấn đầu, đỡ phản cảm hơn nhiều. Vô tình chạm tay, bà già giật mình, thảng thốt, ngồi thẳng dậy, người thứ tư nói khẽ, “tóc của dì tuột ra, con sửa…” Bà gật đầu, không còn chút ngái ngủ nào (chuyện tóc tai quan trọng đến thế sao, người thứ tư lại tự hỏi), ngó qua người phụ nữ đang thở đều, bà thì thầm, “con nhỏ có thấy… không?” Người thứ tư lắc đầu, không đâu. Bà già cười một cái xào, tuồng như nhẹ nhỏm lắm, nhưng giọng càng về cuối càng chua xót, ngậm ngùi,“sợ con nhỏ thấy, rồi nó lo. Tội nghiệp, ở cùng xóm với dì mà, hiền lắm. Cô coi, bệnh tật nó đâu có chừa ai. Con nhỏ trẻ vậy…”

Người thứ tư nghe một cơn lạnh buốt phà vào mặt, chị ta dựng cái áo khoác ngang mày. Nhưng tối như vầy, có rưng nước mắt thì cũng đâu ai thấy, che chi mắc công.

Chị ta so vai lại. Chỗ ngồi bỗng rộng thênh thang, bởi có người thấy mình nhỏ bé.

Ở trọ

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư


Dãy nhà trọ có năm phòng, diện tích như nhau: bốn mét vuông; kiến trúc như nhau: thấp tè, bít bùng, như cái hộp, không cửa sổ, cửa sau, chỉ có một sàn nước, khu vệ sinh sinh hoạt chung; vật liệu xây dựng như nhau: nóc thiếc, vách thiếc, cửa cũng được đóng bằng thiếc.

Gã ở cuối dãy, căn phòng đã xuống cấp trầm trọng, cửa nẻo xập xệ, nhiều lúc gã thấy cài cửa rất mắc công. Bà chủ nhà ấm ức, mấy căn kia đâu có tệ vậy, tại cậu, mà, tôi thấy tướng cậu không xài cái gì bền hết, lọt vô tay cậu là hư… Nghĩ là bà ám chỉ con bồ cũ mình đã thôi lui tới từ cuối mùa mưa, gã sừng sộ đá vào cánh cửa một cái rầm, bỏ vô võng nằm. Bà chủ nhà hết hồn, nguýt một cái, te tái đi.

Gã biết bà sẽ đi đâu, dù không nghe được tiếng bước chân, không nghe giọng nói xủng xoảng như những thanh kim loại va nhau, nhưng chắc chắn bà sẽ ghé cái phòng cuối dãy đằng kia, mặt bà đỏ gay, phân trần, “cái thằng khó ưa, nói không được…”. Và người ở trọ căn phòng đó, mà mọi người hay gọi là Năm, không rõ là thứ hay tên, sẽ tỉnh bơ, cười cười, thôi kệ, mỗi người mỗi ý, dì giận làm chi cho mau già… Già, chắc chắn không ai muốn, bà chủ nhà dịu lại, nhìn ra vạt sân đằng trước đong đưa hoa cỏ, chép miệng, “phải ai cũng được như cô…”

Gã nằm đằng này, tưởng tượng ra ngay cái cười lỏn lẻn của Năm. Người đâu mà dại. Mới tới thuê nhà, sắp xếp đồ đạc đâu đó xong xuôi, Năm ra đằng trước ngó ngiêng, thấy cỏ ống mọc liếm lên thềm, Năm xoắn quần xách dao ra chặt rạp, è ạch, bùn sình văng tới đầu. Mấy bữa sau tan ca sớm, Năm ghé mua cái thúng, túc tắc đi xúc đất về cơi sân cao lên, thấy mọi người dòm mình ái ngại, Năm cười tỉnh bơ, kiếm chuyện làm chơi, ở không cũng buồn, ngứa ngáy tay chân.

Với dân ở trọ chuyên nghiệp, Năm giống như con dã tràng xe cát. Ở không thì ngồi nói chuyện trên trời dưới đất, hoặc vả đánh bài tiến lên, kêu lô tô, hay nhìn thằn lằn ỉa miệng ve chơi, mắc gì tha đất về, bứng cây này cây nọ, rồi lui cui trồng tưới. Đời công nhân chưa đủ cực sao, tay đã bị nước ăn chưa đủ đau sao còn cầm dao cầm cuốc. Ở trọ mà, nhà này nhà người, đất này đất người. Chủ nhà lúc vui thì thôi, buồn buồn thì kiếm chuyện đuổi đi, mà chủ nhà hay buồn lắm, sáng đi chợ, thấy gạo cá mắc mỏ là buồn, coi ti vi thấy xăng lên giá cũng buồn, đòi tăng tiền phòng. Cãi cọ không xong, vậy là quẩy gói đi, riết rồi hành trang cũng gọn lỏn vài cái bao tải.

Cuộc sống tạm bợ không chịu nỗi, vậy mà Năm còn trồng ổi nữa, mọi người tặc lưỡi, nói “trồng chi mắc công, biết có ăn được hay không…”, Năm nói gọn hơ, mình không ăn được thì tụi nhỏ sau này ăn. Trời ơi, hay là kiếp trước người này gây tội gì với mấy con dã tràng nên kiếp này làm người mà không khác chi chúng. Năm cười tỉnh bơ, cười tỉnh táo, và cười tỉnh rụi trước những lời bàn ra bàn vô, “cuộc đời này cũng là nhà trọ, nhưng ai cũng muốn sống tử tế, đàng hoàng hết – Năm nói, và thấy mọi người đang trố mắt nhìn mình, Năm sượng sùng, vuốt mặt như thể mặt mình đang dính vảy cá ̶ bà ngoại tui nói vậy, không phải tui đâu…”. Cuộc đời là chốn trọ, ừ, nhưng có ai không yêu, không tha thiết với sự tạm bợ này?

Sau này, chẳng ai còn băn khoăn khi thấy cảnh Năm đi làm về là xoắn tay áo cặm cụi lau dọn, trang hoàng căn phòng trọ, chẳng ai bần thần khi Năm chăm chút từng mầm cây, từng cái lá sâu. Để một bữa sau đợt mưa dai dẳng, người ta ra nhìn trời, bắt gặp vạt sân rực rỡ. Bụi mồng tơi xanh nhuốt quơ quơ mấy cái tược trong gió tìm chỗ để quấn quýt, để leo. Hàng hẹ kiểng trổ bông, đủ tím cả một góc lòng, đủ kiêu hãnh với mấy cái bông lồng đèn đỏ chói. Và cái giồng cải gieo lẫn trong mấy bụi hành cũng miết xanh.

Gã cũng ở đó, chứng kiến vạt sân đang lên tiếng thì thầm. Gã đứng ngây ra một lúc, nhớ cái gì đó xa xôi, mờ nhạt, sương khói nhưng day diết khôn cùng, có thể là nhớ nhà, nhớ quê, nhớ mảnh vườn xưa mà gã đã xa rời từ khi phiêu bạt. Tóm lại, nhớ ông bà ông vãi gì đâu. Cái vạt đất nhỏ nhoi làm gã mềm đi, bữa đó, gã không đóng cửa bằng… chân. Bữa đó, gã phát hiện ra tấm vách thiếc phòng mình móp méo nhiều chỗ, chắc do gã không chịu cúi xuống dùng tay tháo giày mà cứ vung chân cho giày văng đi. Bữa đó, gã thấy căn phòng mình bừa bộn khủng khiếp, mạng nhện đã giăng đến mấy cái góc mùng, có vài tổ tò vò đóng ngay trên đầu giường. Nhìn quanh chốn trọ của mình, lần đầu tiên gã hơi xao xuyến.

Gã lén tận hưởng mảnh vườn của Năm trước khi lứa cải đầu được đem chia cho từng nhà, bữa đó cả dãy đều ăn canh cải. Năm nói, đợi lứa cải sau tụi mình xúm lại chiên bánh xèo ăn chơi. Khi ấy cây cóc chị trồng cũng bộn lá rồi, cải xanh non, lá cóc non, mua thêm đọt lụa cặp ăn với bánh xèo là bá cháy, ai đó buột miệng. Và chính ai đó cũng lập tức hối hận, kiểu này Năm sẽ đi kiếm cho được cây lụa đem về trồng.

Nhưng Năm đi rồi, trước mùa mưa, trước khi giồng cải cứng cáp. Năm xin làm ở một nhà máy lớn, mới thành lập, phía tây thành phố. Năm thuê nhà gần đó để đi làm cho tiện.

Mảnh sân tiễn Năm bằng vạt bông mười giờ đỏ rực. Gã đi làm về thì bông đã héo, đã phai màu rồi, và Năm đi rồi. Gã đứng trong khoảng sân nhỏ chuồn chuồn bay vơ vất, nghĩ, mình biết làm sao với giồng cải này, cây ổi này, luống hẹ kiểng này, với chốn trọ này.

Chiều đó, người ta thấy gã xách cái thùng tưới lọm thọm trong sân. Chiều ấy gã đi mua hộp nước sơn về, vẽ lên vách hai câu thơ gã lượm được đâu đó “Xanh trên đời chốc lát. Mà tình cờ gặp nhau…”.[*] Bà chủ nhà lại rên lên, trời ơi, sao cậu tự ý vẽ bậy trong nhà tui vậy. Gã cười, tỉnh bơ, “tại con nhớ Năm…”.

Ờ thì, ai cũng nhớ. Chừng này, cũng đâu đó trong thành phố đông đúc này, Năm chắc đang xoắn tay ngắm nghía chốn trọ mới, chắc ở đó cũng có mảnh đất hoang tàn, và Năm sẽ khiến nó nó nói, nó hát, nó nhảy múa.

Kỳ cục, gã thấy nhớ Năm.

Đi một vòng đời
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

Một bữa tự dưng hứa thưởng cho mình một chuyến du lịch nước ngoài (thí dụ như... Campuchia) khi xong cuốn sách. Đi hỏi thủ tục làm passport, anh công an rút ra cái hồ sơ, sực nhớ quên mang tiền, bèn nói, thôi, để tôi... suy nghĩ cái đã. Chạy về nhà lấy tiền, quay lại, anh công an nhận ra mình có lần phỏng vấn anh (một cây văn nghệ phong trào), anh tặng luôn bộ hồ sơ (sao không chịu nói sớm). Hỏi thủ tục, anh nói dễ ợt hà. Vầy nghen, về cơ quan làm cái đơn trình lãnh đạo, lãnh đạo chấp thuận thì ra quyết định chuyển qua sở ngoại vụ và du lịch, sở này sẽ bán cho bộ hồ sơ, sau khi xét duyệt xong thì trình ủy ban nhân dân tỉnh ký, xong đem qua chỗ phòng quản lý xuất nhập cảnh, phòng sẽ chuyển hồ sơ đi Sài Gòn, mỗi tuần một lần. Dễ ẹt, nghe mà muốn chóng mặt. Anh còn dặn thêm, chụp ảnh thì phải lòi hai cái vành tai ra như vầy nè (anh chỉ vào hình mẫu trên bàn làm việc). Giấy chứng minh nhân dân đừng có cũ quá, nhất là hình phải giống người.
Nhưng cái giấy chứng minh nhân dân của mình cũ mèm rồi, nhăn nheo móp méo, hình thì xấu đau xấu đớn, cái hồi mười tám tuổi xấu dã man, chẳng giống mình bây giờ tí nào. Sực nhớ có người anh họ (cũng) trong ngành công an làm chứng minh nhân dân, ghé qua anh, anh viết giùm cho lá đơn có tên gọi là “Đơn xin đổi giấy chứng minh nhân dân”, xong anh phát hiện ra giấy cũ, cả hộ khẩu cũng không hề có ngày tháng sinh, chỉ ghi gọn lỏn, sinh năm 1976 (Lại không hiểu, mình tuổi Rắn, phải là năm 1977 chứ). Anh nói bên phòng quản lý xuất nhập cảnh họ không chịu đâu. Mà giấy khai sinh đâu rồi ?
Đâu có biết nè. Hồi nhỏ tới giờ không có khái niệm giấy khai sinh, ngày sinh càng mù mịt hơn nữa. Má không nhớ, má nói, in hình như là bữa đó sáng trăng. Hồ sơ học sinh thì bị thất lạc lâu rồi, vì nghỉ học nửa chừng, nhà trường giận hay sao mà bỏ luôn. Ông anh công an nói, thôi, đi vô trong xã làm giấy khai sinh đi, trước sau gì người ta cũng đòi.
Mình chạy vào xã A đang quản lý hộ khẩu mình. Anh cán bộ hộ tịch kêu trời, anh kêu về nguyên quán xã T, huyện Đ, nhờ ở đó họ xác nhận. Mình cãi, nguyên quán là ông bà ông vải tôi ở đó, họ có biết tôi là ai đâu mà xác nhận. Thôi xin cho tôi về xã X, quê ngoại tôi, chỗ mà trong hộ khẩu ghi là nơi sinh đi, chỗ này gần.
Mình chạy vào xã X, quên mất, xã X tách địa giới hành chính ra làm hai xã X và Y rồi. Nhưng mình lủi đại vô xã Y, vì tiện đường và vì nhà ngoại mình ở đó, quá hợp lý. Mấy anh ở đây nhận ra mình hay xuất hiện trên... ti vi, một năm hai lần, truyền hình trực tiếp, nên tươi cười xác nhận cho mấy chữ “Chị Hà Há Ha không có hồ sơ hộ tịch lưu tại xã Y (xưa là X)”. Ký tên. Đóng dấu. Mình chạy ngược về A, gặp lại anh “người xưa” đã ba giờ đồng hồ không gặp, anh cán bộ hộ tịch buồn bã, “phải cái xã Y ghi là “đã thất lạc hồ sơ” thì hay biết bao nhiêu. Bây giờ không đâu dính đâu, bời rời như cơm nguội. Mình năn nỉ (chứ lúc sáng còn “kênh” lắm), “thôi, anh làm ơn mắt nhắm mắt mở giùm”. Anh còn buồn hơn, “tui mở hai con còn không thấy”. Nhưng thôi, anh lúi húi ghi giấy hẹn, mai chị quay lại.
Đó là tất cả của ngày.
Hôm sau chạy tới xã A chờ lấy giấy khai sinh, anh cán bộ xã phải làm đi làm lại vì lần đầu không có ngày tháng sinh, mình nhăn nhó, “làm ơn thì làm ơn cho trót...”. Anh lại buồn, sao chị nói không biết ngày tháng sinh. Mình ghi vội ngày 15 tháng 8, vì chợt nghĩ bữa đó chắc... trăng sáng. Cầm cái giấy trong tay, bỗng dưng xao động vì cái ngày sinh vừa bâng quơ sáng tác ra kia.
Chợt nhớ, mình bỏ quên mình lâu quá. Nửa đời rồi, mình không biết sinh nhật là gì. Nửa đời quên nghĩ mình có gì, mình còn gì.
Chiều nay thì cầm được cái giấy chứng minh nhân dân mới (có ngày sinh). Chiều nay thì làm cái đơn xin làm passport (chỉnh sửa lần thứ ba) dâng lên ban lãnh đạo. Chiều nay đi chụp ảnh. Vô tiệm thứ nhất, khi lấy hình mới hay mình không lòi... vành tai. Ghé tiệm thứ hai, cái mặt rất... khùng. Nhưng thôi, kệ, miễn có lỗ tai là được.
Sực nhớ, mình có... vành tai. Bấy lâu nay nó nằm... sau tóc. Nhận lại những thứ thuộc về mình mà ngơ ngác nửa đời người.

No comments:

Post a Comment