Tuesday, March 15, 2011

Làm Người Là Khó- Đoàn Duy Thành 2

4
“…tôi tâm sự với một vài đồng chí: “chiến tranh phá hoại của Mỹ cũng không nguy hiểm phức tạp bằng “chiến tranh nội bộ”, thiệt hại đủ mọi thứ, nhất là mặt tinh thần, sức khoẻ”. Tôi bị mệt mất mấy tuần, nhưng mệt hơn cả là nghĩ lại những lời nói của các đồng chí đối với nhau…”
Chương 5
Ra tù và tiếp tục hoạt động cách mạng

Ngày 27-10-1953 tôi từ Côn Đảo về Sài Gòn cùng với ông Bùi Văn Phái hơn 60 tuổi, bằng tàu của Hồng Thập tự Quốc tế.

Do chuyến đi chữa bệnh ở nhà thương Chợ Quán tháng 2-1953, tôi đã liên hệ được với cơ sở ta ở Sài Gòn, tôi nhắn tin bà Nguyễn Thị Năm là cơ sở cách mạng đã từng nuôi đồng chí Phan Bôi (Hoàng Hữu Nam) nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ năm 1946- 1947, đến Căng Phú Lâm đón tôi và ông Bùi Văn Phái về. Ông già Phái người quê ở Hành Thiện, Nam Định, ông ở lại nhà bà Năm ít ngày thì được ông Nguyễn Thế Truyền, người cùng quê, làm chủ bút báo Thần Chung ở Sài Gòn đón về nhà. Ông Phái giới thiệu tôi với ông Truyền. Ông Truyền cho con trai mời tôi đến toà báo để phỏng vấn, tôi từ chối. Sau đó ông Truyền có viết một bài trên báo Thần Chung, giới thiệu ông Bùi Văn Phái là đại tá quân đội của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và nhắc tên tôi là Duy cùng về chuyến với ông Phái - đăng ở trang nhất báo Thần Chung với cái “tít” rất to “Quân tử cố cùng” ca ngợi sự dũng cảm của những người tù chính trị Côn Đảo. Tờ báo này bà Năm có gửi ra cho tôi, tôi đã chuyển đến đồng chí Hoàng Mậu- Bí thư Thành uỷ và các đồng chí uỷ viên Thường vụ Thành uỷ Hải Phòng lúc đó xem. Sau khi tôi báo cáo xong với Đặc khu uỷ Sài Gòn-Chợ Lớn (thay mặt cho Trung ương cục Miền Nam), được đặc khu uỷ Sài Gòn bố trí cho về Bắc bằng máy bay dân dụng.

Khoảng 20-11-1953 tôi ra đến Khu căn cứ của Thành uỷ Hải Phòng ở huyện Quỳnh Côi, Thái Bình, được Văn phòng Thành uỷ thu xếp cho ở tại nhà chú Siêu thôn Đồn Xá, Quỳnh Côi. Còn Văn phòng Thành uỷ ở thôn An Phú cách chỗ tôi ở khoảng 1 km. Đón tôi tại trạm giao thông của Thành uỷ tại Quỳnh Côi có đồng chí Vũ Kính, Chánh Văn phòng Thành uỷ, nguyên là uỷ viên Thường vụ quận Ngô Quyền; đồng chí Bảo tức Nhạn, cán bộ Ti giao thông Hải Phòng. Gặp lại các đồng chí cũ rất vui. Hai đồng chí Kính và Bảo hiện nay còn sống ở Hải Phòng.

Hôm sau các đồng chí Hoàng Mậu và Tô Duy, Vũ Kính đến thăm tôi tại nhà chú Siêu, hỏi thăm qua loa tình hình sức khoẻ, chuyến đi từ Côn Đảo về Sài Gòn và từ Sài Gòn ra Bắc. Đồng chí Hoàng Mậu nói: “Tớ đã biết cậu được tha ra Sài Gòn lâu rồi, Trung ương cục Miền Nam đã báo cho biết...”. Chính vì thế tôi cũng bớt được nhiều hình thức phiền toái khi cuộc cải cách ruộng đất đang thời kì quyết liệt Một vài anh em được tha, hoặc vượt ngục ra trước tôi đều phải ở rất xa Thành uỷ. Chỉ có mình tôi được ở gần cơ quan Thành uỷ. Sau khoảng một tuần nghỉ ngơi cho lại sức, tôi bước vào giai đoạn thẩm tra việc bị bắt, bị tù... Thành uỷ lập riêng một tổ thẩm tra do đồng chí Hoàng Mậu, Khu uỷ viên Khu uỷ Tả Ngạn, Bí thư Thành uỷ Hải Phòng làm tổ trưởng (cựu tù chính trị Côn Đảo thời kì 1930-1936); đồng chí Lê Thành Dương, Phó ban Tổ chức Thành uỷ và đồng chí Đào Luyện, Trưởng phòng chính trị Ti Công an làm uỷ viên. Trong hơn hai tháng thẩm tra, tôi chỉ ở nhà chú Siêu thôn Đồn Xá, trừ 3 ngày phải di chuyển sang Hải Dương vì có tin địch tấn công vào Thái Bình phải tạm lánh sang huyện Ninh Giang, Hải Dương. Khi về qua sông Luộc, đò quá đông. Trong đoàn chúng tôi có 2 đồng chí là Nguyễn Văn Quyết và Vân (Vân Phễu) không biết bơi. Thuyền sắp đắm, kêu gọi người biết bơi nhảy xuống. Tôi yên trí là mình bơi giỏi, quên là mình đang ốm, nên đã nhảy xuống bơi trước. Bơi gần vào bờ bị dòng xoáy cuốn, không thể bơi vào được. Nhờ đồng chí Đoàn (Đoàn đen) bơi vào trước, may lại thấy cây chuối ở ngay bên bờ sông, đồng chí Đoàn vất cây chuối xuống cho, tôi mới bơi vào được. Khi sắp chìm, tôi nghĩ không chết ở Côn Đảo nay về Hải Dương- Thái Bình lại chết đuối ư? Những kỉ niệm như thế này chúng tôi nhớ rất lâu. Sau này đồng chí Đoàn, đồng chí Quyết, đồng chí Vân... thường đến tôi chơi, nhắc lại chuyện này. “Nếu không có chúng tôi nhảy xuống bơi cứu thuyền khỏi đắm thì một số đồng chí và nhân dân đi chuyến đò đó sẽ chết”. Kết quả không ai việc gì, trừ tôi xuýt chết đuối. Khi lên bờ, mọi người cởi áo ra cho tôi mặc chống rét, vì lúc đó là mùa đông giá buốt.

Chiều tối hôm đó về đến Quỳnh Côi, các đồng Hoàng Mậu, Tô Duy, Lê Thành Dương, Văn Bút, Trần Đông (mới từ Bí thư Huyện uỷ Thủy Nguyên về làm Trưởng ti Công an Hải Phòng) v.v... đến thăm và chúc mừng tôi thoát chết đuối.

Trong thời gian ấy nhiều người ngoài cuộc tưởng như tôi bị giam lỏng ở nhà chú Siêu đợi thẩm tra, nên ít bè bạn đến chơi. Có một số đồng chí, bạn thân, đến nói nhỏ cho biết về tình hình cải cách ruộng đất chỉnh đốn tổ chức, đấu đá cường hào, địa chủ khắp nơi, nhất là tin Thái Nguyên đã bắn Nguyễn Thị Năm, liền khuyên tôi không nên đi đâu, không liên hệ với nhiều người. Các đồng chí còn kể cho nghe về vụ án H122 ở Hải Phòng và Hồng Quảng, bắt oan hơn 100 người, Trưởng phòng chính trị Ti Công an Hồng Quảng là An (hay đi ngựa) bị truy ép quá đã tự tử... Rất nhiều chuyện đấu tố trong giảm tô, Cải cách ruộng đất, có nơi như ở thôn Lan, Kim - Can, Thanh Hà mới đấu tố về giảm tô đã đánh chết ngay trong đêm đó 3 người là địa chủ, cường hào (?). Không khí ngay ở Đồn Xá nơi tôi ở, thấy cũng căng thẳng. Nhà hàng xóm chú Siêu, người bà con có con bò cày, thỉnh thoảng rỗi rãi ngồi viết báo cáo mãi cũng muốn đi lao động đôi chút, tôi bảo gia chủ để tôi cày giúp. Được 2 buổi thì có cán bộ xã bảo: “Gia đình địa chủ đấy, đồng chí đừng làm như vậy, mất lập trường...”.

Còn tôi thì từ khi ra tù như chim “xổ lồng” vô cùng phấn khởi, vô cùng hào hứng, chỉ mong sao xong sớm việc thẩm tra để đi công tác. Việc phải trả lời gần 100 câu hỏi của Tổ thẩm tra tôi chẳng thấy có gì khó chịu cả, viết hết hàng mấy tập giấy cũng không biết mệt, chỉ mong sao được tiếp tục công tác. Ra khỏi tù tội, hưởng không khí tự do là sung sướng lắm rồi! Tình cảm bè bạn, đồng chí, những đồng chí cũ như Hoàng Mậu, Tô Duy, Lê Thành Dương, Đào Luyện, Vũ Kính v.v... tôi cảm thấy họ vẫn niềm nở như lúc tôi chưa bị bắt. Trừ một vài người khi cùng cấp với mình thì vồn vã “bù khú”, nay thấy mình họ bắt tay hơi hờ hững, cũng không đến thăm mình. Có những anh trước là cấp dưới mình, nay tỏ ra lạnh nhạt, đúng là “Nhất tự cách trùng” tôi học lúc thiếu thời, nay mới được chứng minh bằng nghĩa thật của nó!

Tôi phải viết rất nhiều báo cáo, riêng báo cáo về nhà tù Côn Đảo. Tôi viết xong ngày 9-12-1953 đã hàng mấy chục trang, nay còn lưu trữ ở Cục Lưu trữ Trung ương Đảng. Đến gần Tết âm lịch 1953-1954, việc thẩm tra việc tôi bị bắt và bị tù đã xong. Một hôm đồng chí Vận, bảo vệ của đồng chí Hoàng Mậu, bảo tôi đến gặp Thành uỷ. Trời mùa đông giá rét, sao lúc đó rét thế! Tôi theo đồng chí Vận sang An Phú nơi Thành uỷ ở, vừa đi vừa suy nghĩ không rõ Thành uỷ gặp có việc gì. Vì trong hơn hai tháng tôi ở nhà chú Siêu thôn Đồn Xá, thỉnh thoảng sau bữa cơm chiều hai đồng chí Hoàng Mậu và Tô Duy dắt nhau đi dạo chơi lại rẽ vào nhà tôi chơi, hỏi thăm vài câu... rồi hai đồng chí về, vừa đi vừa chuyện trò vui vẻ, không thấy nhắc gì đến việc thẩm tra tôi cả. Nay có người đến tìm sang gặp Thành uỷ chắc có việc quan trọng.

Sang đến thôn An Phú thấy đồng chí Hoàng Mậu và đồng chí Tô Duy ngồi trên ổ rơm trò chuyện, tôi bước vào chào hai đồng chí. Đồng chí Hoàng Mậu cười và nói: “Trông cậu thấy khá rồi đấy, bỏ chống gậy rồi à?”. Còn đồng chí Tô Duy bắt tay tôi, mời ngồi xuống ổ rơm. Lúc đó trời rét quá, đi vội, nên cũng xúc động, tôi thở hơi mạnh. Đồng chí Tô Duy hỏi: “Cảm động à?” Tôi trả lời: “Tôi cũng hơi cảm động!”. Hai đồng chí mời tôi ăn kẹo, uống nước chè tươi. Từ hôm ra tù đến hôm nay mới được Thành uỷ mời ăn kẹo “nu-ga”, đó là bữa tiệc ngọt đầu tiên. Tôi nghĩ cũng là hạnh phúc! Đồng chí Hoàng Mậu hỏi thêm một vài việc lặt vặt. Đồng chí Tô Duy nói ngay: “Anh ấy báo cáo như thế là đủ rồi”, sau đó chuyển sang nói chuyện gia đình, chuyện trong tù. Đồng chí Tô Duy hỏi tôi có gặp anh Tô Kim là anh ruột anh Tô Duy bị tù ở Căng Hanh Thông Tây không, v.v... Các anh còn khen tôi mưu trí, dũng cảm. Việc chuyển 10 chỉ vàng, chắc đồng chí Hoàng Mậu thấy thú vị. Đồng chí lấy tay phát vào lưng tôi, nói: “Nếu nó căng lên thì đau chết!.” rồi cười ha hả rất sảng khoái. Sau đó anh Tô Duy nói: “Việc thẩm tra việc bị bắt, bị tù của anh đã xong. Sắp Tết rồi, anh về Thanh Hà để ăn Tết với gia đình, vì xa nhà đã lâu”. Tôi thực sự vui mừng, vì nghĩ tới hình ảnh chiến trường địch ta “cài răng lược” ở đất Hải Dương, khu tự do Thanh Hà, là nơi huyện Kim Thành đóng quân, sơ tán ở đó, nay tôi lại được về Thanh Hà ăn Tết, có nghĩa sẽ được gặp vợ, anh em bạn hữu. Lâu nay nghĩ là khó có ngày gặp lại, mới xa nhau mấy năm mà kẻ mất người còn, người hi sinh đã lên con số chục! Lòng tôi bồi hồi khó tả. Tôi cảm ơn Thành uỷ, cảm ơn hai đồng chí đã thông cảm đến tình cảm riêng của tôi, nhưng tôi lại lo hành trình từ Thái Bình về đến Thanh Hà, qua bao nhiêu bốt địch, qua huyện Ninh Giang, Tứ Kì, qua sông Luộc, sông Hương, sông Gia, đò Mép... qua bốt Yên, bết Thượng-cốc... phải mất 3 ngày mới về được khu tự do nhỏ bé là thôn Mạc Thủ, Thanh Hà, cũng không dễ dàng gì. Trước khi về tôi gửi 2 tấm ảnh của đồng chí Vũ Hạnh, nguyên Thành đội trưởng Hải Phòng cùng bị tù với tôi ở Côn đảo nhờ tôi chuyển giúp cho gia đình. Để tránh việc kiểm soát của địch, ảnh hưởng đến tôi, anh Hạnh viết thư bằng tiếng Pháp sau tấm ảnh, gửi về cho cụ thân sinh ra anh và vợ.

Anh Hạnh ghi: “Mon pa pa ét ma Belle journée...”. Tôi nghĩ mãi không hiểu tại sao Hạnh lại ghi thế. Về đến Hải Phòng mới biết vợ anh tên là Nhật. Hoá ra tay Hạnh chơi chữ với “Tây”? “Belle journée” có nghĩa: “Ngày đẹp”, tức là Hạnh - Nhật.

Trong thời gian ở Quỳnh Côi, Thái Bình, tôi báo cáo với Thành uỷ về đề nghị của Đảo uỷ xin Thành uỷ và TƯ gửi tiếp tế cho anh em Côn Đảo. Cuộc sống ở Côn Đảo rất khó khăn, thuốc không có, địch chỉ cho tiếp tế sữa đường và các thức ăn khô. Đồng chí Hoàng Mậu, nguyên là tù chính trị Côn Đảo nên rất thông cảm với anh em. Nhưng ngân sách thành phố không có, phải báo cáo lên khu uỷ và TƯ mới có tiền để tiếp tế cho anh em tù ngoài Côn Đảo được.

Tôi về đến thôn Mạc Thủ, xã Liên Mặc, huyện Thanh Hà, gặp đồng chí Trần Phương (Phương xích) Thành uỷ viên, phụ trách giới công thương Hải Phòng. Lúc này đã giải tán cấp quận, nên đồng chí Phương không còn là Bí thư quận uỷ Ngô Quyền nữa. Đồng chí Phương trả lại tôi tài liệu tư trang mà khi vào nội thành hoạt động tôi đã gửi lại đồng chí Vũ Kính, uỷ viên thường vụ quận uỷ Ngô Quyền, đồng chí Kính chuyển cho đồng chí Phương trả lại tôi. Tôi nghỉ tại Mạc Thủ và nhắn tin cho vợ tôi ra ăn tết với tôi, tại nhà một người cháu gọi tôi là chú họ, lấy chồng tại thôn Mạc Thủ. Chao ôi, bao nhiêu nhớ thương, lo âu, xa cách đã trút vào những giọt nước mắt mừng tủi của vợ tôi. Mới thấm thía rằng sự hi sinh thầm lặng của những lứa đôi cùng hoạt động cách mạng thật không sao kể xiết. Và dù sao chúng tôi cũng có được giấy phút hạnh phúc này. Còn biết bao đồng chí tôi ngoài Côn Đảo, trong các nhà tù, khát khao phấp phỏng chưa biết sống chết ra sao, bao giờ mới gặp lại vợ? Nghĩ thế mà cầm tay vợ cứ rưng rưng nước mắt...

Cơ quan đồng chí Trần Phương cũng ở gần đó, trong mấy ngày Tết những anh em quen biết lại có dịp gặp nhau hàn huyên chuyện cũ khi còn công tác ở quận, ở khu căn cứ Đèo Voi...

Ăn tết xong, trước khi trở lại Thái Bình để chuẩn bị đi chỉnh huấn, tôi bàn với nhà tôi cố gắng gom góp ít tiền gửi tiếp tế cho anh em Côn Đảo. Vợ tôi đã bán lứa lợn nái, ít thóc, mua 3 bộ đồ cắt tóc gửi cho 3 banh. Lúc đó Côn Đảo chỉ có 3 banh; banh 1 và banh 2 nhốt tù án chính trị, banh 3 nhốt tù binh (chủ yếu là ở miền Bắc chuyển vào). Vì lúc này ở Côn Đảo không có phương tiện cắt tóc, anh em phải xin hoặc mua lưỡi dao cũ của những người Việt trông nom tù, có những người tốt họ gom các lưỡi dao cạo cho chúng tôi. Chúng tôi bẻ đôi lưỡi dao, rồi dùng đũa tre chẻ làm đôi, kẹp nửa lưỡi dao cạo (Gillete) vào giữa, vừa làm dao vừa làm kéo, phát lóc từ trên xuống, rồi cạo. Có những anh em thợ cạo giỏi như anh Thân, anh Nhường dùng dao phát tóc cũng đều như cắt bằng tông-đơ hay bằng kéo. Vợ tôi đã làm việc này rất chu đáo. Số dao kéo ấy khi được trao trả, anh Thân đã mang về được một bộ.

Khi nhà tôi gửi đồ tiếp tế ra Côn Đảo, được phép của Thành uỷ tôi đã viết một lá thư bằng mực hoá học cho Đảo uỷ Côn Đảo, nói tóm tắt tình hình chiến sự cả nước và chỉ thị của TƯ và Thành uỷ cho Côn Đảo. Lá thư vợ tôi viết gửi anh Vũ Hạnh với danh nghĩa là vợ tôi báo tin tôi đã đi Pháp chữa bệnh, theo ám hiệu tôi đã bàn với Đảo uỷ, trước khi ra tù, nhằm đánh lạc hướng địch. Khi nhận được thư, các đồng chí trong đó dùng “Tanh-tuya di-ốt” bôi lên phía sau lá thư là hiện chữ. Đọc nhanh và ghi chép. Khi giấy khô chữ trong thư cũng biến hết. Lá thư này đã đến tay các đồng chí Đảo uỷ. Sau này khi còn sinh thời, vợ tôi hàng năm đến họp mặt, các đồng chí Côn Đảo đều nhắc lại sự kiện trên. Nhiều đồng chí đề nghị kết nạp vợ tôi là thành viên tù chính trị Côn đảo vì đã hết lòng với anh em.

Đi chỉnh huấn

Sau những ngày nghỉ phép ăn Tết với vợ tôi ở Mạc Thủ, Thanh Hà, tôi trở lại Quỳnh Côi, Thái Bình để chuẩn bị đi chỉnh huấn.

Khoảng trung tuần tháng 2-1954 chúng tôi tập trung đến lớp chỉnh huấn do khu uỷ Tả ngạn tổ chức. Lớp chỉnh huấn do đồng chí Đỗ Mười, Bí thư khu uỷ, trưởng ban tuyên huấn khu uỷ Tả ngạn, trực tiếp chỉ đạo. Còn những người chỉ đạo thường xuyên là đồng chí Trần Phương, Phó ban Tuyên huấn; đồng chí Thế Phấn; đồng chí Dũng, uỷ viên Ban Tuyên huấn và một số cán bộ của Ban phụ trách lớp.

Hồi trước tôi biết đồng chí Trần Phương khi còn ở Hưng Yên, khi đồng chí sang Hải Phòng làm Phó Bí thư Thành uỷ thì tôi đã bị bắt. Gặp nhau ở lớp chỉnh huấn, tôi cảm thấy đồng chí như đã thân quen lâu rồi, trao đổi chuyện ở tù, hoạt động ở nội thành v.v...

Lớp trưởng kiêm Bí thư chi bộ là chị Nguyễn Thị Định, uỷ viên Thường vụ, Phó Chủ tịch tỉnh Thái Bình. Tôi được cử làm tổ trưởng một tổ. Tuy chưa được giới thiệu sinh hoạt đảng, nhưng các cuộc họp chi bộ tôi được mời họp như một đảng viên chính thức.

Đến tháng 4-1954 Thành uỷ Hải Phòng giới thiệu tôi với chi bộ, tôi được tiếp tục sinh hoạt Đảng. Có lẽ tôi là một đảng viên duy nhất ra tù được tiếp tục sinh hoạt sớm như vậy. Một phần vì nhà tù Côn Đảo được Trung ương trực tiếp chỉ đạo, còn các nhà tù khác do Thành uỷ, Tỉnh uỷ, Khu uỷ trực tiếp chỉ đạo thì phải sau chỉnh huấn thẩm tra, xác minh, mới được phục hồi, được tính tuổi đảng liên tục, hoặc cắt tuổi đảng một số năm, hoặc bị khai trừ... tùy theo lỗi nặng nhẹ khi bị bắt, bị tù, khai báo...

Trong buổi khai mạc lớp, lần đầu tiên tôi biết đồng chí Đỗ Mười. Trước tôi chỉ nghe nói tới anh Mười, Khu uỷ viên phụ trách phụ vận Liên khu III, khi chưa thành lập khu Tả Ngạn. Tôi nghĩ anh Mười chắc là người hiền dịu, nho nhã. Khi thấy anh đến nói chuyện, tôi cảm thấy anh là võ tướng, ăn nói bộc trực, dễ gần... Đôi lúc thông tục anh vỗ vào ngực nói: “ở Tả Ngạn, tôi làm Bí thư Khu uỷ, Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính Khu, Tư lệnh kiêm Chính uỷ, Trưởng ban Tổ chức, Trưởng ban Tuyên huấn...”. Tôi nghĩ chắc anh giỏi lắm. Hay Tả Ngạn không có người tài buộc anh phải kiêm tới 6 chức? Anh đến lớp giải đáp những vấn đề thảo luận và hôm bế mạc anh đến dặn dò anh em. Tôi thấy anh hăng say, xông xáo, ăn nói khúc chiết, đôi khi người ta cảm thấy được cả sự tự hào, tự phụ bên trong người anh nữa. Trong quá trình học tập, kiểm điểm, nghe báo cáo phụ khoá về giảm tô và Cải cách ruộng đất, xem phim Bạch Mao nữ và Chiến sĩ gang thép của Trung Quốc, đọc Thép đã tôi của Liên Xô, xong từng bài liên hệ kiểm điểm. Chỉ gợi ý nói khuyết điểm thôi, không nói ưu điểm. Từng bài liên hệ kiểm điểm xong phải báo cáo Trung tâm thông qua. Trước và sau đó phải đưa ra Tổ thông qua. Trong tổ tôi có 3 đồng chí là người Hải Phòng: tôi, đồng chí Nghĩa (tức Linh), đồng chí Phạm Văn Diệt là Trưởng phòng giao thông quận, cũng mới ở tù ra. Còn các đồng chí ở các tỉnh khác trong Khu, trong số đó có đồng chí Mai, nguyên là Thông phán Toà sứ Hưng Yên thời Pháp thuộc, đã chỉnh huấn lớp trước, nhưng kiểm điểm tiếp thu không tốt, phải đi chỉnh huấn lại. Tổ giao cho tôi đi sát giúp đỡ anh Mai. Tôi đã giúp anh Mai đi vào thực chất của vấn đề kiểm điểm, phân tích rõ ràng ranh giới giữa kẻ thù và ta. Anh nói với tôi: “Nghe anh phân tích tôi thấy thông. Nhưng mấy con mẹ (chỉ mấy chị trong tổ) chỉ đáng làm “vú em” cho nhà tôi chẳng hiểu cái gì cả, mà lại lên “nước mặt, nói không ai nghe được”. Tôi phải phân tích cho anh biết vì sao lại như thế? Vì chị em nghèo, không được học hành như anh, họ thấy đâu nói đấy, lời lẽ giản đơn, thô kệch, nhưng thiết thực. Ta chấp nhận cái đúng, cái cốt của câu nói, không nên chấp nê về kiểu cách lời nói rồi sinh ra phản ứng, bỏ mất cái hay... Cuối lớp anh viết thu hoạch tốt và được thông qua.

Tôi ở Côn Đảo cũng đã tổ chức chỉnh huấn cho anh em, kiểm điểm rất sâu sắc những sai lầm khuyết điểm khi bị bắt, khai báo, đầu hàng về tư tưởng, thoái chí, cầu an hưởng lạc nhưng cũng nêu gương những mặt ưu điểm, thành tích. Còn ở lớp chỉnh huấn này chỉ nêu khuyết điểm, tôi thấy làm cho mình “hèn” đi, tự mình bôi nhọ mình những điều không có. Nếu không thế, báo cáo không được thông qua. Riêng tôi, tôi kiên trì có thế nào, nói thế, không nói thành tích, nhưng cũng không bịa ra khuyết điểm để báo cáo, để sớm được thông qua. Kết quả báo cáo của tôi vẫn được thông qua sớm, từ tổ, chi bộ lên đến Ban chỉ đạo lớp cũng được thông qua nhanh.

Một hôm tôi gặp đồng chí Trần Phương, tôi tâm sự với đồng chí ấy về phương pháp học tập, kiểm điểm, cần khơi dậy ý chí chiến đấu, tinh thần dũng cảm của mọi người. Nếu chỉ nói khuyết điểm sẽ làm giảm khí thế mọi người, chỉ thấy hèn nhát mà không thấy kiên cường... Rồi tôi nhắc đến vụ bắn Nguyễn Thị Năm, địa chủ Thái Nguyên. Sự việc này khi ra đến Sài Gòn, tình cờ tôi gặp một cơ sở của Khu 6, thuộc quận Ngô Quyền, anh Nam người huyện An Dương, bị địch lùng bắt phải chạy vào Sài Gòn, ở xóm Chiếu, bên nhà bà Năm, biết tôi mới ở Côn Đảo về, là người Hải Phòng nên anh Nam kể mọi chuyện miền Bắc, từ vụ bắn Nguyễn Thị Năm, giảm tô, Cải cách ruộng đất nghe rất lạ tai và khủng khiếp, cả vụ “H cent vingt deux” (H122) anh Nam cũng kể rất rành rọt cho tôi nghe. Tôi chỉ nghe, không bình luận gì, vì mới ở tù ra, dù sao cũng phải giữ bí mật với anh Nam về mọi hoạt động của tôi ở Sài Gòn, để làm tròn nhiệm vụ của Đảo uỷ giao cho. Nhưng được một ít thông tin cũng tốt. Tôi chỉ nhắc anh Nam cẩn thận, kẻo địch xuyên tạc về giảm tô và Cải cách ruộng đất của ta. Khi học về chính sách Cải cách ruộng đất, tôi liên hệ giữa chính sách và việc thực hiện vụ bắn Nguyễn Thị Năm có 3 điều sai chính sách và một điều không hợp đạo lí truyền thống của người Việt Nam. Ba điều sai chính sách là:

- Địa chủ kháng chiến được chiếu cố,
- Địa chủ kiêm công thương được chiếu cố.
- Địa chủ hiến ruộng được chiếu cố.

Nguyễn Thị Năm có được 3 điều mà luật Cải cách ruộng đất khoá thứ I Quốc hội thông qua, có chiếu cố. Điều không hợp đạo lí, Nguyễn Thị Năm là phụ nữ, bắn một địa chủ là nữ, không phải cường hào gian ác sẽ trái đạo lí thông thường của người Việt Nam. Tôi trao đổi với đồng chí Trần Phương việc này, đồng chí bảo tôi: “Cậu tập trung vào học tập chỉnh huấn, kiểm điểm cho tốt để báo cáo được thông qua. Còn việc đó nói gì cũng không được đâu, có khi còn nguy hiểm nữa... chúng ta sẽ bàn sau...”. Với thái độ thân mật, nghiêm túc, thông cảm của đồng chí Trần Phương, tôi nghĩ chắc vấn đề này nghiêm trọng lắm!

Sau này khi sửa sai Cải cách ruộng đất xong, tôi được nghe nhiều cán bộ cao cấp nói lại: “Khi chuẩn bị bắn Nguyễn Thị Năm, Bác Hồ đã can thiệp và nói đại ý: “chẳng lẽ Cải cách ruộng đất không tìm được một tên địa chủ, cường hào gian ác là nam giới mà mở đầu đã phải bắn một phụ nữ địa chủ hay sao?”. Nhưng cán bộ thừa hành báo cáo là đã hỏi cố vấn Trung Quốc và được trả lời là: “Hổ đực hay hổ cái, đều ăn thịt người cả!”. Thế là đem hành hình Nguyễn Thị Năm!

Qua hơn 3 tháng học tập chỉnh huấn, sắp đến ngày bế mạc. Hội nghị Genève khai mạc cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ - chấn động địa cầu. Lớp chỉnh huấn chúng tôi được tập trung đi tuyên truyền cho hội nghị Genève. Tôi được cử làm đội trưởng một đội đi xa và sâu vào lòng địch là Thành phố Hải Phòng. Đội gồm có tôi và anh Phạm Văn Điện người Hải Phòng, 2 cán bộ là người Tiên Lãng, Kiến An (lúc đó Hải Phòng - Kiến An chưa hợp nhất), 2 cán bộ nữa là người Thái Bình. Sức khoẻ của tôi lúc này có khá hơn, nhưng vết thương ở ngực bên trái nước vàng vẫn chảy ra, hàng ngày vẫn phải thay băng. Có đồng chí gợi ý tôi xin ở lại lớp, hoặc vào nơi tạm chiếm Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, đi lại thuận tiện hơn, có gì phải cấp cứu cũng nhanh hơn.

Nhưng tôi vẫn đi Hải Phòng, vào sâu sát ngoại thành Hải Phòng- Kiến An, ở thôn Xích-thổ. Sau bị địch càn quét, tôi chuyển cả đội sang thôn Bạch Mai huyện An Dương, có đêm phải bơi qua sông Cái Tắt sang xã Hùng Vương, đoạn đường số 5 sát Hải Phòng. Sang đến nơi bị động, cơ sở trốn hết, cả đoàn lại bơi về, sang thôn Văn Tra - Văn Cú, An Dương. Mỗi lần bơi qua sông lên bờ, đầu tiên là tôi phải băng ngay lại vết thương. Lúc nào trong ba lô của tôi cũng có gói bông băng và lọ thuốc đỏ. Hôm bị địch vây ở thôn Xích Thổ phải chui xuống hầm nước, đỉa bu cắn cả vào chung quanh vết thương. Khi địch rút lui, còn mấy con đỉa bám gần vết thương. Nay nghĩ lại vẫn sởn gai ốc. May không bị vi trùng uốn ván, thật là phúc. Kết thúc đợt đi tuyên truyền, về dự tổng kết lớp chỉnh huấn, tôi được khen thưởng cao nhất, được khen học tập tốt, báo cáo kiểm điểm nghiêm túc, đi vào sâu đất địch. Tôi nhận giấy khen của Ban Tuyên huấn Khu do đồng chí Phó ban Trần Phương kí, được 2 ảnh nhỏ (4x6) của Bác Hồ. Nay tôi vẫn còn giữ làm kỉ niệm.

Về công tác tại Văn phòng Thành uỷ

Tôi được phân công tiếp tục về Hải Phòng công tác, nằm trong Ban Thư kí vụ, phụ trách công tác tổng hợp. Văn phòng lúc này đóng ở huyện Vĩnh Bảo. tình hình chính trị, hội nghị Genève diễn ra thuận lợi, công việc văn phòng càng phải khẩn trương, phải nắm tình hình địch ở nội thành, sự di chuyển của chúng. Ngoài việc phụ trách tổng hợp, tôi còn phải theo dõi phụ trách một số đường giây mới, do các đồng chí ở tù ra mà tôi nắm được, gây dựng được nhiều cơ sở trong các cơ quan đầu não của địch ở Hải Phòng. Tài liệu ở nội thành chuyển ra rất nhiều. Tôi phải làm việc suốt ngày đêm, tranh thủ ngủ vài tiếng đồng hồ, ngay trong bữa ăn cũng làm việc, cũng đọc báo cáo. Đồng chí Hoàng Mậu, Bí thư Thành uỷ là đồng chí hoạt động từ năm 1930, công nhân kĩ thuật cơ khí bậc cao, người Việt gốc Hoa. Đồng chí Hoàng Mậu là đồng chí gương mẫu toàn diện, học lực có hạn, nhưng khi tôi viết báo cáo với đồng chí, đồng chí duyệt rất cẩn thận. Đặc biệt có những từ ngữ đã tâm đắc thì báo cáo thiếu là không được. Đồng chí có thư kí riêng là đồng chí Hải, sau sang làm phó giám đốc đài phát thanh Hải Phòng, nhưng mọi việc viết báo cáo tôi đều phải viết và báo cáo trực tiếp với đồng chí Hoàng Mậu. Các thư kí khác có viết một báo cáo nào đó, đồng chí Hoàng Mậu cũng bảo đưa qua tôi sửa chữa và trực tiếp báo cáo với đồng chí ấy, mặc dù đã có chánh văn phòng lúc đó là đồng chí Minh Sơn. Nếu đã qua đồng chí Minh Sơn, đồng chí Hoàng Mậu cũng bảo đưa qua tôi, nên công việc đã bận lại càng bận thêm. Tôi sợ mình bao biện công việc của đồng chí khác, anh em đồng nghiệp sẽ không vui, nhưng đồng chí Hoàng Mậu không nghe, anh em cũng rất thông cảm với tôi và giúp tôi hoàn thành nhiệm vụ.

Mọi việc ở Văn phòng Thành uỷ đang ổn định, tháng 10-1954 tiếp quản Hà Nội. Mấy ngày sau văn phòng Thành uỷ chuyển về thôn Vũ Xá - xã Ái Quốc, huyện Nam Sách nằm trên đường số 5, tiện cho việc chỉ đạo của Thành uỷ, các cơ quan Hải Phòng đóng dọc theo đường số 5 đến ga Phạm Xá, ga trung chuyển giữa khu tự do mới được giải phóng và khu “chu vi 300 ngày” nơi quân Pháp tập kết chuyển vào miền Nam dưới vĩ tuyến 17.

Đồng chí Đỗ Mười, Bí thư khu uỷ, vừa được đề bạt làm uỷ viên TƯ dự khuyết khoá II, cùng với 4 đồng chí khác là Xuân Thủy, Trần Hữu Dực, Bùi Quang Tạo, Nguyễn Thị Thập. Đồng chí Đỗ Mười được cử làm trưởng ban chỉ đạo tiếp quản khu “chu vi 300 ngày”, trực tiếp làm Bí thư Thành uỷ Hải Phòng

Trong một buổi về thôn Vũ Xá làm việc với thành uỷ Hải Phòng, làm việc xong, mọi người còn có mặt cả, đồng chí Đỗ Mười bảo đồng chí Hoàng Mậu: “Cho đồng chí Thành về giúp việc tôi tiếp quản Hải Phòng...” Tôi vừa ngỡ ngàng vừa sững sờ, không hiểu ai đã giới thiệu tôi với đồng chí Đỗ Mười, mà đồng chí biết tôi một cách đột ngột như vậy. Đồng chí Hoàng Mậu hơi lúng túng nói: “Có một cậu nó đang làm quen với công việc, anh lấy đi chưa có người thay!” Anh Mười đứng phắt dậy tuyên bố: “Cứ cho cậu Thành lên giúp việc tôi, nếu Hải Phòng có gì xảy ra tôi chịu trách nhiệm...”.Anh Mậu lặng im. Tôi đứng dậy thưa với anh Mười: “Tôi mới ở tù ra, mới đi chỉnh huấn về, mới được xác minh, còn nhiều anh em biết tôi nhưng chưa về, sợ rằng sau này có vấn đề chính trị sẽ phiền cho anh.” Anh Mười nói to: “Cậu muốn lấy lí do để không đi giúp việc mình. Cậu phải biết tôi là Bí thư khu uỷ chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính khu, Tư lệnh kiêm chính uỷ khu, trưởng ban tổ chức, trưởng ban tuyên huấn, ai thế nào mình biết hết, địch ta ai lừa dối được mình”. Anh Mậu nhìn tôi có vẻ e dè, sợ anh Mười, khẽ gật đầu. Tôi nói: “Nếu anh đã nói như vậy tôi xin đi giúp việc anh”. Anh Mười và đoàn tùy tùng ra về. Anh Mười dặn lại tôi: “Mai lên Hải Dương gặp tôi...” Lúc đó khu đóng ở thành phố Hải Dương mới giải phóng.

Về Thủ đô mới giải phóng công tác

Hôm sau tôi nhận quyết định của đồng chí Hoàng Mậu lúc đó kiêm cả chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính Hải Phòng kí. Tôi về công tác ở Ban chỉ đạo tiếp quản khu “300 ngày”, kiêm đại diện Uỷ ban kháng chiến hành chính Hải Phòng tiếp dân ở Hải Phòng ra Hà Nội gặp chính quyền mới. Thành uỷ cử cho tôi một cán bộ giúp việc là đồng chí Trần Việt (Việt mặt đỏ).

Hôm sau tôi lên Hải Dương gặp đồng chí Đỗ Mười nhận việc. Đồng chí giao cho tôi thu xếp trụ sở cho Ban chỉ đạo về Hà Nội, anh Mười cũng bàn giao công việc của khu tả ngạn cho đồng chí khác thay thế.

Tôi cùng đồng chí Việt thuê nhà làm trụ sở của Đại diện Uỷ ban kháng chiến hành chính Hải Phòng ở số 32 Bà Trưng Hà Nội làm trụ sở tạm thời. Mấy hôm sau anh Mười lên Hà Nội gặp tôi và đưa tôi đến gặp đồng chí Trần Danh Tuyên, Bí thư Thành uỷ Hà Nội để xin nhà làm trụ sở Ban chỉ đạo khu “300 ngày”. Đồng chí Tuyên cho nhà “Khai trí Tiến Đức” gần Bờ Hồ. Tôi kí các thủ tục nhận nhà, thu xếp dọn dẹp vệ sinh để đón anh Mười và Văn phòng về ở. Công việc rất bận rộn. Lúc đầu chỉ có tôi, đồng chí Việt và cô cấp dưỡng đến dọn dẹp nhà cửa, nấu nướng. Nhà to cửa rộng, không có người ở, lá rụng đầy sân, chỉ riêng việc dọn lá bàng ở sân đã mất mấy ngày. Anh Mười cử cả tiểu đội bảo vệ đến giúp làm vệ sinh, chúng tôi mới đỡ vất vả. Ngân sách chưa có, không có tiền thuê lao động đã phải huy động anh em làm ngoài giờ.

Bộ máy lúc đầu giúp việc anh Mười chỉ có đồng chí Phạm Gia Tuân, đồng chí Vũ Trọng Nam làm Thư kí và một tiểu đội bảo vệ, một lái xe Jeep cho anh Mười. Tôi làm cả hai việc vừa giúp anh lo chuẩn bị tiếp quản Hải Phòng, vừa làm đại diện cho Uỷ ban kháng chiến hành chính Hải Phòng, phụ trách hành chính cơ quan, thu xếp dọn dẹp, bất cứ việc gì cũng đến tay. Chỉ trong 15 ngày là ổn định mọi việc.

Các tỉnh thuộc khu 300 ngày đều cung cấp cán bộ như Kiến An có đồng chí Hồng Cẩn cán bộ trung đoàn và một đồng chí nữa, Hồng Quảng có đồng chí Chuyền, khu Tả Ngạn cử đồng chí Vũ Viết Nhuận... Tổng số đã lên hơn 10 người. Mọi công việc chuẩn bị cho tiếp quản rất khẩn trương. Nào báo cáo của quân sự do đồng chí Nguyễn Như Thiết, Phó Tư lệnh Quân khu Tả Ngạn chuẩn bị các hướng hành quân vào Khu “300 ngày”; báo cáo chính trị về kế hoạch tiếp quản lên Bác Hồ và Bộ Chính trị duyệt; mở 2 lớp đào tạo cán bộ vào tiếp quản, mỗi lớp khoảng 500 người ở hội trường Tổng Công đoàn do Trung ương tổ chức và chỉ đạo (nhưng Ban chỉ đạo phải đến báo cáo tình hình và kế hoạch tiếp quản). Chuẩn bị cho 500 cán bộ hành chính vào trước. Công việc bề bộn, cộng với tác phong khẩn trương của anh Mười, làm cho chúng tôi, nếu không chuẩn bị có khi suốt ngày không kịp ăn. Nhiều lúc vừa ăn vừa bàn công việc. Tôi đang ngồi làm việc, anh Mười vào vẫy tay đi, thế là chạy ra xe đi ngay. Có khi vừa đi vừa thắt quần.

Hôm sang ngân hàng gặp anh Lê Viết Lượng, Tổng giám đốc ngân hàng Việt Nam xin 20.000 đồng Đông Dương để chi cho cán bộ vào nội thành chuẩn bị trước (lúc đó kinh tế khó khăn, mới tiếp quản Thủ đô tiền Đông Dương khan hiếm), tôi ngồi nghe đồng chí Lê Viết Lượng phân tích khó khăn, sốt cả ruột. Anh Mười nói đi nói lại sự cần thiết phải có số tiền đó. Mãi anh Lê Viết Lượng mới đồng ý, nhưng thái độ tỏ ra không vui. Anh Mười giao cho tôi nhận tiền. Anh Lượng nhắc tôi: “Bảo anh Mười tiêu tiết kiệm nhé!”. Tôi hơi khó chịu trả lời: “Chúng tôi sẽ tiết kiệm từng xu, anh biết tính anh Mười rồi đấy, anh đừng lo...”. Anh Lượng vẫn còn nói thêm: “Vẫn cần phải nhắc như vậy cũng không thừa”. Sau này tôi mới biết anh Lê Viết Lượng được ghép vào 4 vị “Tứ kiệt” của Việt Nam.

Tôi cầm về một bó tiền Đông Dương, không tủ, không két, cứ phải bỏ vào cái túi vải, đi đâu cũng mang theo mình. Chỉ mong sao chi hết sớm cho đỡ vất vả. Vừa phải làm thủ quỹ, vừa làm kế toán, công việc này tôi chưa quen, nhưng vẫn phải mở sổ sách. Chứng từ thì viết tay, chỉ sợ mất tiền, anh em vào nội thành không có tiền ăn, còn mình lấy tiền đâu đền? Công việc đã bận, lại kè kè gói tiền bên mình, sinh mất ăn, mất ngủ. Bên cạnh đó vết thương cũng chưa lành vẫn phải băng bó. Thế mà anh em khen tôi trẻ ra. Mới biết thức ăn tinh thần quan trọng đến mức nào! Hàng ngày đã làm việc liên miên, đến tối lại phải nghe phản ảnh của anh Nguyễn Tài, Trưởng Phái đoàn Việt Nam thực hiện Hiệp định chuyển giao khu “300 ngày”. Anh Tài sáng đến Quỳnh Khê, Kim Thành để họp với Phái đoàn Pháp, tối về phản ảnh với anh Mười kết quả đàm phán. Đủ mọi sự việc diễn ra hàng ngày, nào địch tháo dỡ máy móc chuyển vào Nam, dân di cư dồn về Hải Phòng, yêu cầu nọ, yêu cầu kia của địch, đêm nào cũng bàn thâu đêm, suốt sáng để có phương án cho hôm sau anh Tài đi “đấu” tiếp với phái đoàn Pháp. Tôi thấy anh Vũ Trọng Nam thức khuya nhiều quá, chân tay mọc lông lá...rất ái ngại! Lắm lúc ban ngày ngồi làm việc, mấy bàn thư kí đều ngồi ngủ gật, trông rất buồn cười...

Phương án tiến quân do anh Nguyễn Như Thiết trình bày đến lần thứ 11 mới được thông qua. Anh Thiết mỗi hôm ra về đều than phiền với tôi:

- Tôi biết tính anh Mười cẩn thận, nên kế hoạch làm rất tỉ mỉ, các tình huống đều nêu ra hết, nhưng vẫn không được thông qua! Trong chiến đấu tôi cũng không thấy khổ bằng bây giờ!

Tôi động viên anh Thiết:

- Bọn tôi ở đây phải phân công nhau ngồi nghe với anh Mười, tuy vậy nhiều lúc anh Mười gọi tất cả cùng phải nghe. Nghe đi nghe lại, đầu gật mà mắt vẫn phải mở, sợ thủ trưởng phê bình.

Không những thế 3, 4 giờ sáng anh Mười còn đến phòng ngủ của tôi đánh thức dậy và bảo:

- Thành, Thành, nếu nó ỳ ra không chịu rút thì làm thế nào?

Tôi phân tích:

- Địch đã đến nước này, phải rút về Khu 300 ngày. Chúng không dám ỳ ra đâu, anh yên tâm!

Anh Mười lại đặt các câu hỏi khác, phân tích tình hình, đồng bào di cư, địch dỡ máy móc phải làm sao giữ lại, vận động quần chúng đấu tranh ra sao, và bảo tôi viết chỉ thị cho Hải Phòng về rất nhiều vấn đề mà Mười đã nêu ra. Có lần tôi mệt quá, vừa đặt lưng xuống giường là ngủ thiếp đi, anh Mười đến phát vào lưng tôi: “Dậy, dậy, sao mà ngủ nhanh thế!” Anh lại nêu vấn đề: “Địch ỳ ra không rút thì giải quyết thế nào?”. Tôi vừa mệt, mắt cay xè, thấy thủ trưởng lo lắng, tâm huyết quá mà các lí lẽ đã phân tích với anh Mười những buổi trước hết rồi, tôi bình tĩnh, nhưng nói giọng hơi gay gắt:

- Nó ỳ ra thì đánh bỏ mẹ nó đi...

Anh Mười ngồi yên, suy nghĩ không nói gì rồi từ từ đứng dậy đi vào phòng ngủ, mặc dù chị Thanh, phu nhân của anh đã đến từ tối.

Bản thân là con người say sưa công việc cách mạng, không từ nan việc gì bao giờ, nhưng từ hôm về Hà Nội làm việc thực sự với anh Mười tôi tự thấy mình “lây” ngọn lửa nhiệt tình của anh. Sau này tôi vẫn thường nhắc lại điều đó với anh Mười.

Ba trăm ngày chẳng mấy chốc đã sắp hết, ngày tiếp quản Hải Phòng đến gần. Cơ quan chúng tôi lại chuyển về thị xã Hải Dương với bao nhiêu công việc. Cán bộ các nơi ùn ùn tập trung đến. Mặc dù Ban tổ chức Thành uỷ đã có sự chỉ đạo của đồng chí Hoàng Mậu, nay là Phó Bí thư, nhưng anh Mười vẫn nhắc tôi phải xem lại. Tôi cảm thấy quá sức và lo rằng có khi làm cho các đồng chí tổ chức không thông cảm đánh giá mình bao biện, nhất là các đồng chí mới ở tỉnh, thành phố và các đồng chí cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc. Nhưng mọi sự việc đều xếp sắp ổn thoả.

Nhớ lại những ngày ở Khai Trí Tiến Đức bên bờ Hồ Hoàn Kiếm, mọi người làm việc mệt mỏi, những khi nghỉ ngơi chốc lát, đứng trông ra cửa sổ về phía Hàng Khay thấy học trò nữ Trường Trưng Vương quần áo dài thướt tha qua bờ Hồ, nhiều đồng chí ngắm nhìn không chớp mắt. Anh Mười biết, bảo: “Các cậu hủ hoá mắt hết rồi... Hỏng hết, viên đạn bọc đường nó làm hỏng hết cán bộ...”. Chỉ có tôi, anh Nam, anh Tuân, là anh Mười không bắt được chúng tôi nhìn, ngắm bao giờ nên anh không nói gì. Thỉnh thoảng đi họp Trung ương về, anh bỏ kẹo vào túi rồi vứt cho chúng tôi mỗi người vài cái.

Có nhiều lần họp chi bộ, anh cứ dùng chữ “viên đạn bọc đường” để nhắc nhở anh em. Tôi thấy anh nhắc nhiều lần quá, nên đứng dậy đề nghị anh Mười không nên nhắc nhở điều ấy nữa, vì chúng ta cũng có thể là viên đạn bọc đường, bọc lại chúng, chứ không chỉ bị chúng bọc. Anh Mười không nói gì, nhưng từ đó anh thôi dùng câu: “đạn bọc đường”.

Khi phục vụ cho đồng chí Nguyễn Tài và các đồng chí Ban liên hiệp đình chiến TƯ ở Trung Giã, tôi có làm một việc, chủ ý gây cho địch lúng túng, mất thì giờ, ta có cớ để đấu với chúng. Đó là việc lập danh sách tù binh Việt Nam. Tôi cứ để tên tôi là Duy vào danh sách tù chưa được thả, phái đoàn ta phụ trách về tù cứ đòi, địch phải mất công tìm hết nơi này nơi khác về tên Duy tù binh. Phái đoàn ta nói: “Không thấy tù nhân tên Duy được trao trả về”. Cuối cùng tìm không thấy, địch đem những văn bản, quyết định tha tôi cho phái đoàn ta để xác minh giúp, còn chúng sẽ xác minh xem tên Duy có ở lại khu chúng kiểm soát không? Ý định tôi lúc đó ra sao tôi có nói với cán bộ phụ trách tù binh: chỉ là “đánh lừa” để chúng mất thời giờ truy tìm...v.v. Tôi không bao giờ nghĩ tới chuyện ấy sau này gây phiền phức. Đó là trong đơn vu khống lí lịch tôi, kẻ xấu đã viết: “Chính Duy là tay sai địch nên địch đã truy tìm bằng nhiều văn bản, gửi các địa phương của chúng, tìm Duy để sử dụng...”. Những hồ sơ của địch sau khi đã có kết luận, tôi đã xin các đồng chí sao lục cho một bản. Câu cách ngôn: “gậy ông lại lập lưng ông” cũng là bài học cho những ai chỉ đơn giản nghĩ điều thuận mà không thấy điều nghịch như tôi.

Về tiếp quản Hải Phòng

Ngày 13-5-1955, Văn phòng Ban chỉ đạo và văn phòng Thành uỷ nhập làm một, về trước một ngày, đóng tại Sở dầu - Hạ lí. Ngủ một đêm tại đây, sáng hôm sau tất cả theo đại quân vào tiếp quản Hải Phòng.

Anh Mười hỏi tôi vào thành sẽ ở đâu, tôi nói đã chuẩn bị với bộ phận vào trước, chuẩn bị cho anh và văn phòng ở số 9 phố De La République, nay là số 1 Hoàng Diệu, là trụ sở của Đốc Lí Hải Phòng. Còn Thành uỷ về ở số 11 Négrier, phòng Nhì của bộ tư lệnh Pháp miền Duyên Hải, nay là phố Lí Tử Trọng, sau chuyển cho Bộ tư lệnh Quân khu, rồi chuyển tiếp cho Bộ Tư lệnh Hải Quân. Còn Thành uỷ chuyển về số 5 Đinh Tiên Hoàng ngày nay, là một cơ sở hậu cần của quân đội Pháp đóng tại Hải Phòng.

Tôi về làm thư kí văn phòng Thành uỷ và được bầu là Bí thư chi bộ, do đồng chí Nguyễn Mạnh Giao làm Chánh văn phòng, đồng chí Trần Phương (Phương xích) Thành uỷ viên phụ trách văn phòng. Tôi được phân công theo rõi khối nội chính.

Lúc đó tiếp quản công việc bề bộn, giải quyết chưa xuể thì ngày 26-9-1955 Hải Phòng bị một cơn bão lớn, gió đông vào lúc thủy triều dâng, tràn hết các con đê oèo oặt do thực dân Pháp để lại. Nước ngập tràn thành phố. Do nước cường tràn vào nhanh, những xã ven đê như Tràng Cát có tới 327 người chết, hầu hết là người già và trẻ em. Anh hùng Phạm Minh Đức đã xả thân cứu giúp đồng bào, bị nước cuốn trôi. Khi nước rút phải vận động cán bộ toàn thành phố đi cạo mặn giúp dân. Những xã ven sân bay Cát Bi, chúng tôi đi giải quyết hậu quả, phải vào sát hàng rào dây thép gai kéo các em bé ra, cháu nào cũng chúc đầu vào dây thép gai, chết rất thê thảm. Lúc nước cường, anh Mười, anh Hoàng Mậu và tôi đi xe Jeep của anh Mười xuống nhà thờ Nam Pháp. Đến đó thì nước đang dội vào thành phố, có nguy cơ xe chết máy không về được. Tôi bảo chú lái xe chở anh Mười về trước, còn anh Hoàng Mậu và tôi cùng đồng chí Vân bảo vệ anh Mậu sẽ về sau. Nước tràn vào mỗi lúc một lớn, chúng tôi không thể nào xuống được xã Sâm Bồ, Hạ Đoạn. Ba anh em phải khoác tay nhau đi hàng ba về nội thành. Về đến đầu cầu Rào nước đã lên ngang thắt lưng. Ba anh em đi về đến nội thành, thì nội thành biến thành bể nước, không còn chỗ nào hở cả. Về đến văn phòng đã trưa, mọi người chờ đợi. Chúng tôi phải một mẻ ướt sũng. Nhưng khi nước thủy triều rút, bão cũng gần tan nên nước rút nhanh. Lúa bị chết hết vì nước mặn. Đê không đủ cống để thoát nước. Thật là trời thử thách lòng kiên định của nhân dân Hải Phòng.

Theo các cụ cao niên kể lại: “Đây là trận hồng thủy lớn nhất sau 150 năm mới lại xảy ra” (Khi quai đê lấn biển đường 14 Đồ Sơn, tôi đã lấy mực nước lớn nhất năm 1955 làm Tiêu chuẩn cho đê biển Hải Phòng. Đê cao 71 hơn mốc nước năm 1955 là 2 mét, chân đê rộng 60 mét, có kè đá hoặc xi măng cốt thép bên ngoài bảo đảm 150 năm sau nếu lịch sử thủy triều lập lại thì nhân dân ven biển sẽ tránh được tại hoạ).

Mọi công việc tiếp quản ngày một ổn định. Nhưng Cải cách ruộng đất đợt 5 lại đến. Thành phố có đỡ hơn. Ngoại thành làm mạnh. Tôi phụ trách nội chính nên phải theo rõi tình hình Cải cách ruộng đất. Hồ sơ cán bộ do các đoàn Cải cách ruộng đất gửi về Thành uỷ, xin bắt đồng chí này, đồng chí khác... ngày càng nhiều. Còn riêng tôi, nghĩ gia đình chỉ là trung nông nên tôi cũng chẳng để ý đến gia đình là thành phần gì. Một hôm tôi cùng một vài đồng chí trồng một cây bàng ở sân văn phòng Thành uỷ (cây bàng nay vẫn còn), đồng chí Hoàng Mậu nhìn tôi cười cười và nói: “Cậu trồng cây đó làm gì?”. Linh tính báo cho tôi biết có điều gì chẳng lành, tôi đoán chắc mình cũng có hồ sơ của đoàn Cải cách ruộng đất gửi về nhưng văn thư giữ kín không chuyển cho tôi. Tôi vẫn bình tĩnh. Mấy đồng chí thư kí khác như anh Hưng, anh Quảng, anh Minh Sơn cũng có danh sách là gia đình địa chủ. Trông đi trông lại văn phòng đều là con cái địa chủ cả. Nhưng ban thường vụ chẳng thấy nói gì. Tôi vẫn làm việc bình thường. Khoảng tháng sau, người chị dâu nhà tôi “giả vờ” đi chợ xuống Hải Phòng vào thăm tôi, nhà tôi nhắn tin xuống: “Nhà bị qui là địa chủ thường. Em tuy con nhà cố nông, nhưng vì liên quan, không được sinh hoạt đảng. Anh bị họ tố là Bí thư chi bộ Quốc dân đảng, nhưng họ tố bí mật với nhau, không nói công khai, đội Cải cách ruộng đất không thấy nói gì, anh yên tâm công tác. Em phản đối kịch liệt họ tố sai. Đội họ bảo em cứng đầu cứng cổ, chẳng sợ gì cả. Em nghĩ họ làm bậy, tố bậy, nên em coi họ rất thường!”.

Khi sửa sai gia đình tôi được hạ xuống trung nông, còn nhà tôi đến khi sửa sai mới được khôi phục đảng tịch. Nhà tôi được cả xã, cả khu vực khen ngợi là dám chống lại những việc làm sai trái của Cải cách ruộng đất, nói thẳng nói thật, không như một số đảng viên khác cùng về làm dâu ở làng tôi như chị C. (còn sống), đấu bố chồng và gọi tên bố chồng chửi... nhà tôi rất khinh. Sau này tuy là chị em trong họ, nhưng khi chị C. đến chơi, nhà tôi vẫn lảng tránh, tỏ ra khinh bỉ. Tôi cũng nhắc nhà tôi nhiều lần “Đảng đã sửa sai, biết bao nhiêu kẻ cơ hội, đâu có riêng gì chị C...”.

Trong lúc phong trào Cải cách ruộng đất đang lên, du kích và cốt cán Cải cách ruộng đất vác súng vào thành phố lùng bắt địa chủ và con cái địa chủ là cán bộ công nhân viên chức Nhà nước. Họ đã bắt được một vài người. Tôi báo cáo anh Mười cứ để thế này thì không nên. Thành phố mới tiếp quản, lòng dân còn nhiều điều suy nghĩ về chế độ mới, đề nghị anh nhắc các Đoàn uỷ Cải cách ruộng đất không để cốt cán vác súng vào nội thành tìm địa chủ... Anh Mười nổi nóng tuyên bố: “Bắt trói tất cả đứa nào vác súng vào bắt cán bộ nghi là địa chủ. Muốn làm loạn à? “. Công an ra tay, tóm được mấy nhóm giải về Đoàn uỷ xử lí. Từ đó không có cốt cán nào dám vào nội thành nữa. Nhưng họ tung tin: “Tay Bí thư Thành uỷ Hải Phòng phản động, chống lại Cải cách ruộng đất, nhưng nó to lắm, Đoàn uỷ cũng không làm gì được...”. Đến khi phát hiện sửa sai, đi họp Trung ương về, anh Mười phấn khởi gọi tôi bảo: “Mình đúng, mình đúng? Làm sai hết rồi! Sửa sai mới mệt cơ!”.

Trong Cải cách ruộng đất ở Hải Phòng còn một chuyện: Đón đồng chí Mi-cai-ăng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Đồng chí Mi-cai-ăng lúc đó là nhân vật thứ 3 của những nhà lãnh đạo Liên Xô. Ta mới được giải phóng một nửa nước, được đón tiếp một cán bộ cao cấp của Liên Xô lúc đó là một điều rất vinh dự. Trong chuyến thăm này, chương trình của Đoàn có đến thăm Thành phố Hải Phòng, vào ngày 12-3-1956. Hải Phòng thành lập ban đón tiếp do anh Mười trực tiếp chỉ đạo. Tôi được giao trách nhiệm đi báo cáo, liên lạc với Ban đón tiếp Trung ương. Từ ngày bắt đầu chuẩn bị hơn một tháng trời, tôi được giao chiếc Moscovic Liên Xô kiểu cũ với đồng chí lái xe là anh ruột đồng chí Nguyễn Mạnh Giao, Chánh Văn phòng Thành uỷ, sáng đi chiều về, lên Hà Nội nghe chỉ thị, lúc thì gặp anh Ung Văn Khiêm, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, khi thì gặp anh Vũ Tuân, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, có hôm phải gặp cả hai người để báo cáo tình hình chuẩn bị đón tiếp đồng chí Mi-cai-ăng ở Hải Phòng. Rồi nghe truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Trung ương.

Vì là lần đầu tiên đón khách quan trọng, nên anh Mười bảo tôi phải hỏi kĩ cách thức đọc diễn văn chào mừng ra sao, bắt tay, đi đứng ra sao? Anh Ung Văn Khiêm đều hướng dẫn cho tôi, để tôi về báo cáo anh Mười. Anh Ung Văn Khiêm còn cho dịch quyển Tự điển Ngoại giao từ tiếng Nga sang tiếng Việt của đồng chí Vi-sanh-ky, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô, để tôi đọc và báo cáo tóm tắt với anh Mười.

Mọi việc chuẩn bị rất khẩn trương. Hàng ngày tôi đi Hà Nội, qua quê tôi, nhìn cây gạo đầu làng cao nhất vùng, đang mùa nở hoa đỏ ối, thấy nhớ vợ, nhớ nhà da diết. Vì từ khi bắt đầu Cải cách ruộng đất, cán bộ không được phép về thăm nhà. Tôi cho xe đi chậm chậm, mỗi khi qua quê. Tôi nhìn mọi người sao thấy họ đều lo âu, trầm tư. Cũng có người nhìn thấy tôi, khẽ nghiêng đầu chào thầm lặng. Tôi biết là tình hình đấu tranh rất căng thẳng. Chiều từ Hà Nội về, khoảng 16 giờ mà đã vắng tanh, không ai qua lại đường 5, chỉ còn những chiếc xe tô lác đác chạy ngược xuôi Hà Nội - Hải Phòng.

Ít ngày sau đó tôi được tin xã tôi đã bắn ông Đào Quang Xương mối lái trâu thuần, có hơn một mẫu ruộng. Cả nhà cụ Tổng Toạ, gia đình toàn đi kháng chiến, con gái lớn là cô Đàm làm chủ tịch, con gái thứ hai là cô Địch làm xã đội trường, chiến đấu rất dũng cảm, vì nhà có 3 mẫu ruộng cũng bị đấu tố sỉ vả... Không chịu đựng được sự oan ức, sáng sớm ngày mồng một Tết năm đó, cả nhà đã giả vờ đi tát nước sớm, đến bờ sông Tường, 4 người đều nhảy xuống sông tự tử. Riêng cô Bùi Thị Địch, khi chết hai chân còn để trên bờ. Mọi người đoán là cô Địch bố trí cho bố, mẹ và chị nhảy xuống sông tự tử trước, còn cô Địch nhảy xuống sau. Nhưng do quá uất ức nên chân còn trên bờ, đầu đâm xuống nước chết ngay! Đối với tôi, tôi còn phải gọi cô Đàm, cô Địch bằng dì, hai cô với mẹ tôi là con cô con cậu ruột. Trước khi Cải cách ruộng đất có lần tôi về nhà, hai dì đến nhà tôi chơi có hỏi: “Tình hình Cải cách ruộng đất sắp đến, chắc gay go lắm? Cậu Quảng (tức Phạm Chí Dũng nay là Đại tá về hưu, là em cùng bố khác mẹ với các dì), cậu Quảng đã viết thư về đoạn tuyệt với gia đình”. Hai dì bảo tôi cho vài lời khuyên. Tôi nói: “Gia đình ta chỉ có 3 mẫu ruộng, cụ chỉ có chức Phó tổng mua, gia đình hiền lành tử tế, đều tham gia kháng chiến rất tích cực, hai dì chiến đấu ở xã ai mà chẳng biết. Theo ý cháu, đối chiếu với chính sách gia đình chỉ là phú nông là cùng thôi. Hai dì cứ yên tâm, tin tường vào chính sách Cải cách ruộng đất và Bác Hồ...” Hai dì vẫn tỏ ra rất buồn, nhất là chuyện cậu em ruột viết thư đoạn tuyệt gia đình. Hai dì ngồi suy nghĩ hồi lâu rồi đứng dậy ra về: “Anh nói tôi cũng thấy tin, nhưng ông bà (ý nói cụ ông, cụ bà Tổng Đàm) thì vẫn lo lắm anh ạ”. Tôi động viên hai dì mấy câu và gửi lời thăm hai cụ. Rất thương là hai dì đều chưa có gia đình. Khi Cải cách ruộng đất, không phải ai xa lạ mà chính là bà vợ hai với cô con dâu vợ cậu Quảng là cốt cán Cải cách ruộng đất, đấu tố hai cụ quyết liệt nhất...

Sáng ngày 12-3-1956 toàn dân Hải Phòng, quần áo chỉnh tề tay cầm cờ hoa đứng dọc đường từ Sở dầu về đến Hải Phòng, đón đồng chí Mi-cai-ăng và Đoàn từ Hà Nội xuống.

Tôi cũng rất phấn khởi vì sắp làm tròn nhiệm vụ được giao. Nếu hôm nay không có chuyện gì xảy ra là toàn thắng. Mọi người hào hứng, phấn khởi chờ đợi. Anh Mười, anh Mậu và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt Hải Phòng quần áo chỉnh tề chuẩn bị đón đoàn. Tôi đi kiểm tra lại một lần nữa ở chung quanh trụ sở Uỷ ban Quân quản thành phố. Không khí Cải cách ruộng đất ở ngoại thành căng thẳng, nhưng trong thành phố rất vui.

Khoảng 10 giờ bỗng có điện từ Hà Nội về báo tin Đoàn không xuống nữa làm mọi người rất thất vọng. Anh Mười chuẩn bị micro phát biểu một vài ý kiến cảm ơn đồng bào. Giữa lúc anh Mười sắp nói, thì anh Trần Quốc Hoàn; Bộ trưởng Bộ Công an và anh Lê Quốc từ Hà Nội xuống. Anh Hoàn nhanh nhảu nói: “Đoàn sắp đến nơi rồi”. Anh Mười vỗ vai anh Hoàn nói: “Đoàn không xuống rồi”. Anh Hoàn cãi lại: “Tôi vừa ở chỗ Đoàn, đang chuẩn bị đi. Xe tôi đi trước để kiểm tra”. Anh Mười nắm hai vai anh Hoàn bảo: “Thôi, thôi xong rồi... Để tôi nói với đồng bào vài lời cảm ơn...”.

Thế mới biết đón một đoàn Quốc tế đầu tiên sang thăm Việt Nam, nó quan trọng đến chừng nào. Tổ chức bảo vệ thật là kì công. Thế mà bạn không chiếu cố. Sau tôi được biết là cán bộ tùy tùng bảo vệ đề nghị đồng chí Mi-cai-ăng không đi, vì Hải Phòng mới giải phóng, tình hình Cải cách ruộng đất đang căng thẳng, không an toàn, do đó Đoàn quyết định không đi thăm Hải Phòng nữa.

Anh Mười bảo tôi xuống nhà máy Tơ giải tán buổi nói chuyện của Ban tuyên huấn. Tuy với danh nghĩa bề ngoài như vậy, nhưng thực chất tập trung gần 1000 cán bộ quân đội, dân chính có vấn đề nghi vấn tới nghe nói chuyện. Khi đón đoàn xong sẽ giải tán. Lúc đó tôi mới biết cuộc họp “đặc biệt kì lạ” này vì an ninh cho phái đoàn. Khi đến nhà máy tôi lại gặp đồng chí Hồng Vũ, Vũ Hạnh là bạn tù Côn Đảo, một số cán bộ của Quân khu Tả ngạn.v.v. Tôi nghĩ may mà mình về trước được mấy tháng, nếu ra tù sau với hồ sơ ghi “T.T” (trao trả), chắc mình cũng nằm trong diện các đồng chí này đây. Nghĩ thế vừa buồn vừa mừng.

Đến cuối năm 1956, đầu năm 1957, thời kì sửa sai Cải cách ruộng đất, Trung ương điều anh Mười lên làm Thứ trưởng Bộ Thương nghiệp, anh Hoàng Hữu Nhân, bí thư Khu uỷ Hồng Quảng về thay làm Bí thư thành uỷ Hải Phòng. Trước khi về Trung ương công tác, anh Mười nói với tôi: “Tôi lên Trung ương công tác, cậu ở lại, nếu được bố trí làm phó chủ tịch Uỷ ban thành phố thì tốt, chí ít cũng làm Giám đốc một sở”.

Sang công tác thương nghiệp

Anh Mười đi khoảng hai tháng, tôi nhận được quyết định sang làm phó chủ nhiệm công ti Bách hoá, do đồng chí Nguyên Danh Huyền làm chủ nhiệm. Tôi cầm quyết định đi ngay, không nói một lời.

Sang Sở thương nghiệp gặp đồng chí Dương Văn Mùi, Phó Giám đốc, đồng chí Dương Văn Mùi cầm quyết định xem, có vẻ không vui (đồng chí Mùi hiện đang ở Hải Phòng), đồng chí nói: “Thành uỷ cứ quyết định, không bàn gì với Sở. Trước đã điều anh Nguyễn Hoài, Thư kí văn phòng Uỷ ban về làm chủ nhiệm công ti Bông vải sợi, anh em trong ngành thắc mắc...” Tôi cũng không nói gì. Đồng chí Mùi giới thiệu tôi về công ti Bách hoá gặp đồng chí Huyền. Đồng chí Huyền cũng tỏ vẻ không vui, phân công tôi phụ trách nghiệp vụ kinh doanh, ra ngồi riêng ở 31 Hoàng Văn Thụ. Còn đồng chí Huyền chủ nhiệm, đồng chí Nguyễn Hữu Huân phó chủ nhiệm ngồi ở số 5 Trần Quang Khải. Đồng chí Huân tiếp tôi vui vẻ. Nếu nói về trình độ nghiệp vụ thì tôi chưa quen công tác thương nghiệp, nhưng nói về chính trị thì tôi đã kinh qua Bí thư Quận uỷ, vào Đảng từ 1946, được thưởng Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng nhì; còn đồng chí Huyền mới vào Đảng năm 1950 được thưởng Huy chương Kháng chiến chống Pháp, lương kém tôi 2 bậc.

Nhưng đồng chí Huyền là con người cũng dễ gần. Sau vài cuộc họp, nhất là sau đại hội chi bộ, tôi được giới thiệu tham gia chi uỷ. Tôi không bầu cho mình, điều đó nhiều đồng chí trông thấy, nhưng tôi vẫn được phiếu cao nhất.

Tôi làm việc được khoảng nửa năm, công việc đã quen dần. Tôi sống hoà mình, ngày ngày cùng đi lao động, tối đi học bổ túc văn hoá với anh em. Tôi vào học lớp 5 cùng với anh Huyền, anh Huân, anh Hoài, anh Tốn, anh Hân (Sở Thương nghiệp) và nhiều đồng chí trong ngành. Mọi người chưa biết trình độ nhau ra sao. Qua hai tuần học tập, thầy giáo bổ túc dạy toán giảng về “thừa số nguyên tố”. Sau bài giảng, giáo viên hỏi có đồng chí nào xung phong lên phân tích “thừa số nguyên tố?”. Giáo viên nhắc mãi, chẳng ai lên, tôi buộc phải giơ tay lên phân tích 3 con số thầy cho trước. Tôi phân tích cả ba số cũng khá nhanh. Thầy bảo tôi chắc đã học trước rồi. Tôi cười. Từ hôm đó mọi người “kháo” nhau tôi học giỏi lắm. Khi đến giờ toán, giáo viên gọi lên bảng là mọi người chỉ tôi. Lúc đó tôi nhớ lại việc cụ Phan Bội Châu kiên quyết đi thi, sau khi hết tang mẹ, lấy văn bằng Thủ khoa Thi hương, cốt để thuyết phục được các nho sĩ làm cách mạng theo mình.

Đi Hà Nội học nghề buôn bán

Tôi được Sở Thương nghiệp Hải Phòng cử đi học lớp “cao trung thương nghiệp” ở Hà Nội. Có 6 đồng chí đi học lớp này. Chúng tôi tập trung về số 66 Hoàng Hoa Thám. Trưòng làm bằng tre nứa lá, tường nhà và các phòng ngăn cách nhau cũng bằng nứa, khung tre; trống tuyền, trống toàng. Đêm đông, đắp cái chăn chiên rét thấu xương, nhưng mọi người rất chăm học. Chúng tôi vừa củng cố nhà trường mới xây, chủ nhật đi kéo xe bò xây dựng “đường Thanh niên” (đường Cổ Ngư cũ). Tôi được cử làm Bí thư Chi bộ kiêm Chi trưởng Chi G (trường có 6 chi gồm hơn 300 học sinh). Trong 7 tháng chúng tôi học tập nghiệp vụ, đồng thời học xong chương trình lớp 6 bổ túc văn hoá. Trường có mời một số giáo viên Liên Xô và trường Nguyễn Ái Quốc sang giảng. Mỗi môn học đều kiểm tra rất kĩ. Các đồng chí giáo vụ cũng rất chăm lo hướng dẫn cho học viên. Tôi vừa học cho mình, vừa lãnh đạo anh em trong chi, trong tổ học tập nghiêm túc, nên mỗi đợt kiểm tra mọi học viên trong chi, trong tổ đều đạt điểm cao. Thi hết khoá tôi được là học sinh xuất sắc toàn diện, đỗ thủ khoa, được đồng chí Hoàng Quốc Thịnh thứ trưởng, trao giấy khen của Bộ Thương mại cho tôi và 2 đồng chí thứ nhì, thứ ba. Tôi trở lại Hải Phòng với số vốn kiến thức sơ đẳng thương mại, nhưng dù sao cũng là người có học. Vì tất cả các đồng chí làm công tác thương nghiệp khác chưa ai đi học nghề buôn bán cả. Đây là lớp đầu của Bộ Thương nghiệp, và trường 66 Hoàng Hoa Thám cũng là tiền thân của hai trường Đại học Thương nghiệp và Ngoại thương sau này. Cho nên tôi không còn là “lính mới” nữa.

Trong khi tôi đi học vắng, công ti bách hoá đã tách làm hai: công ti bách hoá bán buôn, công ti bách hoá bán lẻ. Tôi vẫn là Phó chủ nhiệm công ti bách hoá bán buôn, anh Nguyễn Hoài làm chủ nhiệm công ti. Sau hai tháng anh Hoài sang làm chủ nhiệm công ti ăn uống, phục vụ. Còn công ti bách hoá bán buôn chuyển thành công ti Bông vải sợi may mặc, do tôi làm chủ nhiệm, đồng chí Nguyễn Văn Tích và đồng chí Trương Giám làm phó chủ nhiệm.

Những mặt hàng kinh doanh bách hoá chuyển sang công ti bách hoá đảm nhiệm, những mặt hàng bông, vải, sợi của công ti bách hoá chuyển lại cho công ti tôi kinh doanh. Việc sáp nhập các công ti lúc đó còn do Bộ Thương nghiệp quyết định, UBND thành phố tham gia, nhưng thường là nghe ý kiến của Bộ cả, cho nên lúc đó có câu ca dao (vận Kiều):
Trong tay sẵn có đồng tiền
Tách ra rồi lại nhập liền như chơi...
Tôi xây dựng công ti Bông vải sợi may mặc trở thành đơn vị tiên tiến với khẩu hiệu đề ra: “Vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”. Bộ đã lấy làm khẩu hiệu chung cho toàn quốc.

Phong trào xây dựng Tổ lao động xã hội chủ nghĩa, cửa hàng may mặc Hồng Bàng kéo dài được 20 năm. Toàn là chị em nữ mậu dịch viên, với những tên tuổi nổi tiếng lúc đó như: Mai Thị Đảm, Trần Thị Phương... đã một thời được nhân dân và mậu dịch viên cả nước biết đến.

Tôi cũng là chiến sĩ thi đua nhiều năm liền. Khi còn ở Văn phòng Thành uỷ cũng là chiến sĩ thi đua, sang thương nghiệp cũng là chiến sĩ thi đua, nên năm 1960 được Chính phủ tặng Huân chương Lao động hạng II cho công ti và cá nhân tôi được tặng Huân chương Lao động hạng III. Năm 1959 tôi được vinh dự Bác Hổ tặng bằng khen, là một trong những cán bộ được thưởng huân chương lao động sớm nhất của Thành phố Hải Phòng.

Năm 1959-1960 Công ti Bông vải sợi may mặc được Bộ Thương nghiệp và UBND Thành phố lấy làm đơn vị thí điểm cải tiến quản lí. Chúng tôi đã xây dựng một nếp làm việc mới cho toàn công ti. Kiểm kê, kiểm soát hàng hoá bán hàng, cập nhật hàng ngày, kho tàng ngăn nắp, các phiếu kho công khai để theo ô hàng, ai muốn kiểm tra có thể biết ngay. Do cung cách làm ăn khoa học như thế, chúng tôi đã đào tạo nên những chiến sĩ thi đua thủ kho toàn quốc Nguyễn Văn Nổi (khi về tiếp quản miền Nam, làm Giám đốc Công ti thương mại tỉnh An Giang), chiến sĩ bảo vệ Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Phát (người Việt gốc Hoa) v.v... đều rất tận tâm với công việc.

Năm 1959 do cải tiến quản lí hàng hoá nhập kho, đo đếm cẩn thận, nên cuối năm số dư tồn kho 800.000 tiền mới (800 triệu tiền cũ), Bộ cho là kinh doanh phục vụ tốt, nhưng tài sản thừa lớn như vậy là quản lí để hỗn loạn tài sản. Tôi trình bày thế nào Bộ và Thành phố cũng không nghe. Tôi đã nói: “Nếu chúng tôi tham ô hết số hàng hoá này, chắc sẽ được khen thưởng. Nhưng vì chúng tôi quá thật thà mới có số dư này. Lí do vì vải popeline sanford nhập từ Nhật Bản, mỗi tấm nhập chỉ tính 30m/tấm, nhưng khi đo thực tế là 33m đến 35m/tấm. Khi bán hàng, mậu dịch viên đo đúng, còn thừa lại nhập kho. Các hàng hoá khác nhập ngoại cũng tương tự như vậy, nên nó thừa ra. Tôi mời cán bộ kế toán tài vụ, kho vận của Bộ về xác minh, các đồng chí không nghe, bảo đợi năm sau kiểm kê sẽ kết luận. Năm 1959 đáng lẽ công ti và tôi đều được Huân chương nhưng bị dừng lại, riêng tôi được bằng khen của Bác Hồ.

Sang năm 1960 trước khi kiểm kê tôi mời Bộ, UBND và Sở Thương nghiệp đến chứng kiến, tôi trực tiếp chỉ đạo, kiểm kê hết 40 ngày. Kết thúc kiểm kê, hội đồng đánh giá là chính xác, và sự thừa ra đúng là do quản lí tốt, không để thất thoát, không để mậu dịch viên tham nhũng. Cho nên trong công ti tôi lúc đó, mặc dù chính sách lương bổng, khen thưởng giải quyết thích đáng, nhưng vẫn có tiếng kêu làm thương nghiệp chỉ có “tiền đền, không có tiền đồ”. Nhưng chỉ hơn 10 năm sau, tôi trở lại làm Giám đốc Sở Thương nghiệp, thì chẳng còn tiếng kêu đó nữa, mọi người đua chen xin vào thương nghiệp với bất cứ giá nào! Tôi nghĩ: quả là có nhiều vấn đề trong quản lí thương nghiệp rồi!

Khi làm Chủ nhiệm công ti tôi rất quan tâm đến xây dựng cơ sở vật chất cho công ti, mở rộng màng lưới bán lẻ, may đo, như cửa hàng 44 Hoàng Văn Thụ, Gi-long, Phúc Vĩnh Xương v.v. làm cho màng lưới ngày càng rộng, chiếm lĩnh thị trường bán buôn, thị trường bán lẻ, sắp xếp tư thương có nề nếp. Tôi còn trực tiếp đi khai thác các nguồn hàng, trao đổi với các nơi, nhất là thị xã Móng Cái- Hải Ninh lúc đó. Kế hoạch phân phối hàng hoá của các tổng công ti rất có hạn nên phải tìm nguồn hàng. Tôi cùng với cán bộ nghiệp vụ, nhất là với đồng chí San (hơn tuổi tôi, nhưng là cán bộ nghiệp vụ biết việc, chịu khó), lần nào đi Móng Cái mua hàng, đồng chí San cũng đi với tôi. Lúc đó giao thông khó khăn, chỉ có đường thủy. Tàu Hải Đông đóng bằng gỗ, do Trung Quốc đóng giúp, trọng tải khoảng 15 tấn, chạy từ Hải Phòng - Móng Cái phải mất khoảng hơn 12 giờ. Chúng tôi cứ tối đi, sáng đến Núi Ngọc, nếu nước to thì tàu chạy đến sông Can Long, không phải đi bộ hơn 10 km từ Núi Ngọc đến Móng Cái. Môi chuyến đi mua hàng là rất vất vả hàng tuần. Ra đến Móng Cái phải nhờ các đồng chí tỉnh Hải Ninh trao đổi với bên Trung Quốc giúp, hoặc các đồng chí mua vải của Trung Quốc về Việt Nam rồi bán cho Hải Phòng bằng chuyển khoản hoặc đổi hàng. Mỗi lần cũng mua được hàng trăm nghìn mét, chủ yếu là vải hoa và ka ki Trung Quốc. Mặc dù lúc đó ở Trung Quốc rất nghèo, sang thị trấn Đông Hưng (nay là Thành phố Đông Hưng) chỉ có lèo tèo vài rổ ốc, cá tôm tép lặt vặt. Có một cửa hàng ăn duy nhất, không có khách.

Các đồng chí Trung Quốc cho biết: nhân dân chỉ được phân phối 0,4 mét vải/người để vá quần áo. Thế mà bạn vẫn tiết kiệm vải bán cho ta! Có lần hai anh em đi tàu Hải Đông, đến cửa Vạn Hoa, sóng to gió lớn, tàu không thể nào vượt được sóng để sang vịnh Hạ Long, lái tàu quay ngược, quay xuôi mãi xuýt đắm mới qua được cửa Vạn Hoa, thật là hú vía.

Khi có hàng về, tôi phân phối cho các cửa hàng may đo, may thêu quần áo trẻ em. Bán miễn tem phiếu, hoặc miễn một nửa, cũng làm cho người mua lúc đó phấn khởi lắm rồi. Nhưng bán được ít ngày, Sở thương nghiệp có lệnh phải thu đủ tem phiếu, nếu không thu các tỉnh kéo về mua làm gì có quần áo trẻ em mà bán? Tôi nghĩ cũng đúng, vì nhiều nơi có tem phiếu cũng không mua được vải, được quần áo... Chế độ tem phiếu của mô hình kế hoạch hoá tập trung bao cấp, đã để lại trong tôi bao ấn tượng, ví như ngày mời Thứ trưởng Thường trực Bộ Nội thương Trần Văn Hiển về chứng kiến kho tem phiếu, được coi giá trị bằng tiền, đã mốc meo, hôi thối... mà chẳng ai quản lí, kiểm kê, kiểm soát. Ngoài thị trường thì “con phe” đầy rẫy, xếp hàng mua bán đủ mọi thứ tem phiếu... Nhờ vậy vụ đốt tem phiếu được coi như một cuộc cách mạng ghê gớm trong ngành thương nghiệp.

Sang công tác thương nghiệp được hơn 4 năm, tôi phụ trách cả 3 công ti: Bông vải sợi may mặc, bách hoá, bách hoá bán buôn. Công việc đã để lại trong tôi rất nhiều suy nghĩ về tổ chức này, tính chất phục vụ nhân dân của nó, với đầy đủ ý nghĩa của một Nhà nước CNXH. Tôi hết sức làm việc, xây dựng cơ sở vật chất tính toán, đồng thời đi học tiếp văn hoá, nghiệp vụ... để nâng cao kiến thức với mong muốn phục vụ tốt hơn và tìm được cách thay đổi phương thức làm ăn. Tạm biệt nghề buôn bán, sang nghề sản xuất công nghiệp.

Tôi đang say sưa công tác thương nghiệp thì 1962 tôi nhận được quyết định sang làm Phó Giám đốc Sở Công nghiệp, chuyên lo phụ trách khối Tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp. Giám đốc lúc đó là đốc Hồng Cẩn.

Mối quan hệ giữa Liên hiệp xã thủ công nghiệp với Sở công nghiệp vốn không được tốt đẹp lắm.

Anh em bên Liên hiệp xã thủ công nghiệp cho là Sở chèn ép, phụ thuộc Sở quá nhiều. Tôi là Phó Giám đốc Sở kiêm Phó Chủ nhiệm Liên hiệp xã thủ công nghiệp, còn chủ nhiệm là đốc Nguyễn Thị Minh Nhã, Bí thư Hội phụ nữ Hải Phòng, Uỷ viên Thường vụ Thành uỷ. Tôi phải làm việc với 2 thủ trưởng, Văn phòng sở riêng, Văn phòng Liên hiệp xã riêng, tôi vẫn ngồi làm việc tại số 3 Cù Chính Lan, trụ sở của Sở Công nghiệp. Còn Hồng Bàng trụ sở Liên hiệp xã thủ công nghiệp có Đồng chí Thịnh làm 78 Phó Chủ nhiệm Liên hiệp xã làm ở bên đó. Tôi phải có kế hoạch tốt để làm việc vì Đồng chí Hồng Cẩn muốn nhập hẳn Liên hiệp xã vào Sở công nghiệp, còn Liên hiệp xã thì chị Nhã và anh chị em không muốn. Tôi cố gắng thu xếp làm việc cho có hiệu quả. Sau hơn một năm công việc dần dần ổn định. Công nghiệp, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp Hải Phòng đều phát triển mạnh mẽ. Có lá cờ đầu Hợp tác xã Hồng Quang nổi tiếng lúc đó. Do vậy Thường vụ Thành uỷ thấy cần thành lập Sở Tiểu công nghiệp + Thủ công nghiệp riêng để chỉ đạo cho sát, xứng với tầm của một thành phố công nghiệp lớn ở miền Bắc.

Thành lập hai sở: Sở Công nghiệp, Sở Tiểu công nghiệp - và thủ công nghiệp. Năm 1964 Thành phố tách Sở Công nghiệp ra làm 2 sở: Sở Công nghiệp và Sở Tiểu công nghiệp - thủ công nghiệp. Thực chất là Sở xí nghiệp công nghiệp quốc doanh và sở Hợp tác xã sản xuất công nghiệp và thủ công. Lúc đó có những hợp tác xã như Hồng Quang, Sông Lô, Kim Sơn v.v... còn lớn hơn một số xí nghiệp quốc doanh.

Đồng chí Nguyễn Hữu Cẩn (Hồng Cẩn) làm Giám đốc Sở công nghiệp, tôi làm Giám đốc sở tiểu, thủ công nghiệp, kiêm Chủ nhiệm Liên hiệp hợp tác xã thủ công nghiệp.

Lúc đó Xí nghiệp công nghiệp quốc doanh của thành phố có khoảng trên dưới 30 đơn vị (không kể quốc doanh Trung ương đóng tại Hải Phòng). Còn hợp tác xã Thủ công nghiệp thì có hàng trăm đơn vị, chưa kể tổ sản xuất và cá thể. Hai sở liên kết với nhau chặt chẽ. Tôi thường nói vui với đồng chí Hồng Cẩn là: “Hai sở thi đua nhau xem sở nào hơn...” Tuy nói vui, nhưng tôi thực sự cố làm cho ngành phát triển nhanh chóng. Tôi cùng các đồng chí trong sở và Liên hiệp xã tổ chức sắp xếp qui hoạch lại các hợp tác xã. Tất cả các hợp tác xã cơ khí nội thành tổ chức thành hơn 30 hợp tác xã có qui mô lớn từ 100 xã viên trở lên, tập trung vào một khu vực ở An Dương (Khu đường Thiên lôi, kéo đến Lán bè ngày nay). Các hợp tác xã sản xuất hàng bách hoá tiêu dùng, tập trung về khu miếu Hai xã...v.v. Trong khi đó, xí nghiệp quốc doanh địa phương vẫn còn ở rải rác trong các đường phố. Các hợp tác xã của tôi thì ở tập trung, những ngôi nhà mới lợp tôn, khung sắt vững chãi, mọc lên ở 2 khu trên, làm cho ngành thủ công nghiệp lúc đó mọi người đều nhìn thấy là đang vươn lên so với xí nghiệp quốc doanh địa phương.

Ngành thủ công nghiệp Hải Phòng được lấy làm thí điểm cải tiến quản lí. Liên hiệp xã thủ công nghiệp Trung ương coi thủ công nghiệp Hải Phòng như “con cưng” của mình. Các vấn đề nghiên cứu chính sách đối với công nghiệp, Ban công nghiệp Trung ương lúc đó đều xuống Hải Phòng nghiên cứu, hoặc có các hội nghị về chính sách đối với sản xuất công nghiệp, Hải Phòng thường được Trung ương giao chuẩn bị báo cáo thực tế và đề xuất chính sách.

Sự nghiệp phát triển tiểu công nghiệp - thủ công nghiệp Hải Phòng rất nhanh, đa ngành nghề. Nhiều mặt hàng mới được tổ chức sản xuất như: cúc bấm của hợp tác xã Quần Lực, khoá Thăng Long, giầy vải Hợp Lực, nồi nhôm Toàn Thắng và Quần Lực, đúc đồng chân vịt máy tàu của 19-5, vành xe đạp Hồng Quang và các phụ tùng xe đạp của Quyết Tiến, Quyết Thắng... được người tiêu dùng ưa thích, kể cả việc chế biến hạt nhân ngọc trai bán cho đảo Cô Tô để nuôi ngọc trai xuất khẩu v.v... Tôi đã chỉ đạo xây dựng một mô hình “xí nghiệp hợp tác xã”, lấy một số thợ kĩ thuật đúc đồng của ngành quân giới, như bố con cụ Chiếu ở 40 ngõ Cấm, bố con ông Mỹ Long... về xây dựng một xí nghiệp hợp tác xã đúc đồng. Lúc đó cả phía bắc chưa đúc được chân vịt (Hê-lít) cho canô và tàu biển, phải nhập ngoại. Đồng chí Nguyên, cán bộ miền Nam tập kết, phụ trách việc nghiên cứu đúc thử chân vịt. Đêm đúc thử 5 chân vịt, đường kính dài 25 cm, tôi cùng anh chị em thợ đúc đồng thức suốt đêm để xem kết quả. Đúc xong, khi dỡ khuôn mẫu ra hỏng 4 cái, còn một cái tuy đủ hình thù nhưng rỗ nhiều, phải dùng que hàn đồng để hàn cho hết rỗ... Mọi người tỏ ra bi quan. Vì đúc không có máy đo độ lỏng của đồng, phải thử bằng “que cời”, độ xoắn của cổ chân vịt dùng dây rơm để đo... Tôi động viên anh em yên tâm, sau hai ngày nghỉ ngơi, rút kinh nghiệm, lại đúc tiếp. Lần này đúc 5 cái, chỉ hỏng 2, còn 3 cái rỗ cũng ít hơn. Như vậy coi là thắng lợi. Tôi cho đúc tiếp hàng loạt, vì lúc đó phương tiện giao thông đường thủy đang phát triển, nhất là loại chạy trên sông ven biển. Nhà nước thiếu ngoại tệ nhập chân vịt của Liên Xô, Ba Lan... nên mặt hàng chân vịt bán khá chạy. xí nghiệp hợp tác xã đúc đồng ngày càng nổi tiếng, không những đúc chân vịt loại nhỏ, mà nâng lên đúc loại 50 cm, rồi đến một mét. Đến nay đã đúc được chân vịt 2,2 mét cho tàu một vạn tấn... Trong quá trình trưởng thành của xí nghiệp đúc đồng 19-5, năm nay là hơn 40 tuổi, nhưng năm nào công nhân và lãnh đạo xí nghiệp cũng nhớ đến người sáng lập ra nó. Nay xí nghiệp đã trưởng thành, đúc tượng đồng đứng nữ tướng Lê Chân tại vườn hoa công viên thành phố cao lom, tượng ngồi Nguyễn Bỉnh Khiêm, là những tác phẩm đáng kể của xí nghiệp đúc đồng Hải Phòng. Một vài năm, tôi lại đến thăm xí nghiệp.

Có câu chuyện mang tính “duy tâm”, anh chị em công nhân kể cho tôi nghe: Có hai đồng chí Giám đốc đều chết trẻ, vì bệnh ung thư cả. Anh em cho rằng những năm trước ta không nhập nguyên liệu đồng để sản xuất, anh chị em mua đủ mọi loại đồng, như tượng phật, chuông chùa, đồ cúng tế bằng đồng... đem về đúc thành chân vịt... nên trời Phật phạt các Giám đốc. Từ ngày nhập đồng lanh-gô về đúc thì giám đốc mạnh khoẻ. Tôi bảo “Có khi các đồng chí làm vệ sinh không kĩ khi đúc”. Các đồng chí nói: “Công nhân trực tiếp đúc lại không việc gì!” Tôi nói: “Vấn đề tâm linh còn phải bàn tiếp, dài lắm, khoa học chưa chứng minh được, ta không nên phủ nhận mà cũng không nên công nhận. Đợi khoa học kết luận cho thận trọng...”.

Trong quá trình xây dựng ngành tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp Hải Phòng, mỗi khi nghĩ đến, tôi lại càng căm thù đế quốc Mỹ, không khác gì căm thù thực dân Pháp, kẻ bắt mình tra tấn gần chết... Đó là, Giôn-xơn thả bom, đánh phá kinh tế miền Bắc. Chúng thả bom B52 và các loại bom vào khu vực An Dương, san bằng thành bình địa khu vực các hợp tác xã cơ khí thủ công nghiệp. Đồng chí Hiệu chủ nhiệm hợp tác xã cơ khí Kim Sơn hi sinh. Mặc dù các máy móc của hợp tác xã đã chuyển đi sơ tán ra vùng ngoại thành và huyện Kim Thành thuộc tỉnh Hải Dương, chỉ còn vỏ nhà máy mà thôi, nhưng đối với kinh tế hợp tác xã, thì đó cũng là tổn thất rất lớn. Tôi cứ nghĩ nếu không xảy ra chiến tranh phá hoại miền Bắc của giặc Mỹ, chắc chắn ngành tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp Hải Phòng phải tiến nhanh vượt bậc 80 so với xí nghiệp công nghiệp quốc doanh địa phương. Các xã viên trong ngành cũng nói như vậy. Sau khi chiến tranh kết thúc, ngành hợp tác xã thủ công nghiệp Hải Phòng vẫn phát huy được truyền thống của mình, vẫn giữ vững được sự phát triển với tốc độ cao.

Tham gia Thành uỷ Hải Phòng

Tháng 2-1968, giữa lúc chiến tranh phá hoại bằng máy bay địch ác liệt, một kì đại hội rất đặc biệt họp trong hang núi Voi. Trời mưa suốt. Nhưng đại hội rất sôi nổi, nhất là những phiên họp bầu cử, làm việc đến 2 giờ sáng mới xong. Vì việc kiểm phiếu thủ công, lại tranh thủ họp để kết thúc hội nghị sớm, các đại biểu dự đại hội rất vất vả. Trong một bữa cơm chiều, đồng chí Quốc Hiệu, Giám đốc Sở thương nghiệp mời tôi đi ăn thịt bò thui do thị đội thị xã Kiến An mời, đúng là hơn 20 năm tôi mới lại được ăn bữa thịt bò thui rất ngon. Trời mưa tầm tã. Có lẽ anh em cũng không giữ được vệ sinh, hay là do tôi ăn nhiều, mới bị “Tào tháo” đuổi. Lo quá, phải uống nhanh mấy viên thuốc. May mà ổn định, nên vẫn tiếp tục về họp đại hội suôn sẻ. Thật bất ngờ, tôi được đại hội bầu vào ban chấp hành Thành phố.

Tạm biệt sở thủ công nghiệp và liên hiệp hợp tác xã, sang làm Trưởng ban Tài mậu Thành uỷ.

Sau đại hội, tôi được phân công làm trưởng ban Tài mậu, đồng chí Nguyễn Đỉnh Khôi cùng là thành uỷ viên, thay tôi làm Giám đốc Sở thủ công nghiệp. Lần này tôi trở lại công tác thương nghiệp, ngân hàng, giá cả, tài chính, nhưng chủ yếu là tổng kết, nghiên cứu, đề xuất chính sách với thành uỷ và Trung ương.

Sau khi tổng kết 10 năm công tác tài mậu ở Hải Phòng, có nhiều vấn đề thành công và tồn tại.

Tôi đặc biệt thấy nổi bật vấn đề lãng phí trí tuệ chất xám là lãng phí lớn nhất. Ban Tài mậu Trung ương lúc đó đồng chí Nguyễn Thanh Bình là trưởng ban, đồng chí Tô Duy là phó ban. Tháng 7-1968 đồng chí Tô Duy xuống làm việc với ban Tài mậu Hải Phòng, đồng chí nói: “Ban tài mậu sắp mở lớp bồi dưỡng cho các đồng chí phụ trách tài mậu tỉnh, thành phố, huyện thị. Mới sang làm tài mậu, nên anh Thành cần đi học vì chưa làm tài mậu bao giờ.” Tôi đồng ý đi học gần 2 tháng ở Hưng Yên. Lúc đó sơ tán, không học ở Hà Nội. Đến lớp học chỉ có mình tôi là cấp tỉnh thành, còn đều là cán bộ huyện cả. Hình như thành phố Hà Nội không có ai đi học. Khi xem chương trình tôi thấy thấp hơn khoá học cao trung thương mại của Bộ thương nghiệp. Nhưng tôi vẫn học nghiêm túc. Chương trình đã học rồi nên có thì giờ đọc sách, nghiên cứu, khảo sát, tối đốt đèn dầu đánh “tổ tôm” với Ban giáo vụ. Đồng chí Tô Duy cũng giảng mấy bài, đem giáo án ra đọc rồi phân tích. Trong các bài giảng khác, tôi chỉ tiếp thu được một ý của đồng chí Đoàn Trọng Truyến về “Phân công lao động mới trong CNXH”. Khi kết thúc lớp học, viết thu hoạch, tôi viết kĩ và sâu về các vấn đề ban giáo vụ nêu ra, tôi viết và phân tích cả những vấn đề nhà trường không đề cập tới. Viết xong chuyển lên ban giáo vụ. Mấy hôm sau đồng chí Tô Duy gặp tôi cười và nói: “Chắc anh đã học những vấn đề này rồi phải không?”

Tôi cười, không nói gì. Sang đầu năm 1969 tôi đi học lớp chính trị cao cấp khoá V, trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương. Các khoá trước học có 18 tháng, khoá V học hai năm. Khoá học lại vào thời gian Mỹ tập kích vào Sơn tây nhằm giải phóng “giặc lái Mỹ”, nhưng thất bại do ta mới di chuyển tù binh đi nơi khác. Trường lại bắt đầu đào giao thông hào chiến đấu, đêm phải cử học sinh trực đêm canh gác trên mái trường. Tôi trong Ban chi uỷ và Tổ trưởng học tập, tôi tự lập kế hoạch học lập lí luận, học văn hoá ngoại ngữ, tranh thủ đọc sách, 3 tháng mới về thăm nhà một lần. Khi còn ở địa phương công việc rất bận rộn, không có nhiều thì giờ nghiên cứu học tập. Nhất là thư viện trường Nguyễn Ái Quốc lúc đó sách nước ngoài rất nhiều, kể cả sách kinh tế của chủ nghĩa tư bản như của: Recardo, Adam Smith, Keynes v.v... tôi ham đọc sách quên cả mọi việc, chủ nhật nào cũng ở lại trường mượn sách đọc, đọc đến vàng mắt, khi ra ngoài trời chỉ thấy màu vàng hàng mấy giờ liền. Ngoài học tập, nhà trường còn cho mỗi tổ 10 m2 đất để tăng gia cải thiện. Tổ tôi có hai đồng chí Đặng Việt và Nguyễn Văn Hân rất chăm chỉ lao động. Tuy có 10 m2 đất mà chúng tôi trồng hơn mười thứ rau, mùa nào thứ ấy, đủ rau ăn cho tổ, còn bán cho bếp nhà trường. Khi bế mạc, chúng tôi có đủ tiền để liên hoan mời cán bộ nhà trường đến dự, tiêu chuẩn mỗi người một con vịt. Còn thừa 75 đồng, chúng tôi gửi biếu tạp chí Học tập nay là tạp chí Cộng sản.

Nói về tăng gia, tôi phải nhắc đến đồng chí Đặng Việt, con ông Đặng Hướng, Tổng đốc Nghệ An. Cải cách ruộng đất qui gia đình đồng chí Việt là đại địa chủ, cường hào gian ác. Đồng chí Đặng Việt lúc ấy là Trung đoàn trưởng trung đoàn Cao Bắc Lạng, nổi tiếng một thời đánh Pháp trên đường số 4, đoạn Cao Bằng - Lạng Sơn được gọi “Vua đường 4”. Vì thành phần, đồng chí Đặng Việt phải chuyển ngành sang Tổng cục Thủy sản. Trong học tập đồng chí rất chăm chỉ, cùng học tiếng Anh với tôi, nhưng đồng chí rất giỏi tiếng Pháp nên cũng giúp tôi được nhiều. Ưu điểm nổi bật nhất là thành tích tăng gia trồng rau. Cứ tối đến, anh tranh thủ xách cái thùng lấy phân, sang khu chung cư của Ban Lịch sử Đảng phía bên kia đường, đối diện với trường Nguyễn Ái Quốc, lấy phân bắc về bón rau. Đồng chí chịu khó cả lao động lẫn học tập. Tôi với đồng chí Đặng Việt ngày nào cũng nấu canh rau đủ loại. Chúng tôi lấy cơm tập thể của trường, đem về phòng nấu thêm thức ăn. Nhất là năm thứ hai, các lớp khác bế mạc, nên học viên được ở nới rộng 2 người/phòng, thay vì 4 người/phòng. Có phòng chỉ có một người, nên cuộc sống tinh thần, vật chất của trường được cải thiện rõ rệt. (Nay đồng chí Đặng Việt đã hơn 80 tuổi, người rất khoẻ và đánh tenis rất giỏi, thỉnh thoáng vẫn lại chơi với tôi và cho sách mới viết của đồng chí).

Hai năm học tập nghiên cứu ở Học viện, thực sự tôi có thì giờ nghiên cứu lí luận có hệ thống, về lí luận Marx-Lénine. Tư tưởng Hồ Chí Minh, triết học trước Marx và các học thuyết kinh tế của các nhà kinh tế tư bản chủ nghĩa, tạo cái vốn lí luận để sau khi ra trường xử lí các vấn đề yên tâm hơn, không sợ sai như trước. Khi học, tôi rất chú ý so sánh cái cũ, cái mới, những cái Marx kế thừa, những cái Marx sáng tạo, để thấy rõ thiên tài của Marx là ở chỗ nào. Cả Lénine cũng vậy. Tôi phân tích và ghi chép những cái mới của các vị và suy ngẫm vận dụng vào thực tế Việt Nam, nên ít giáo điều hơn. Khi viết thu hoạch hoặc kiểm tra, các giáo viên thường thích những lập luận mới của tôi.

Khoá V coi như khoá có nhiều cải tiến trong học tập, thảo luận, đọc nhiều hơn giảng, thoải mái hơn, viết thu hoạch kiểm tra cũng thoáng hơn trước, không cho điểm, viết đạt yêu cầu trung bình là xong. Sau hai năm học tập, thực sự tôi thấy mình trưởng thành, hiểu biết lí luận có hệ thống, so sánh được cái hay cái dở của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Vì tôi công tác hành động cụ thể nhiều ở địa phương, làm thiết thực, nên đối chiếu với lí luận nhìn vấn đề đúng sai rất rõ. Không còn “tù mờ” như trước. Ngoài học tập lí luận tôi học xong chương trình văn hoá lớp 7 và lớp 8. Anh, Pháp văn cũng được nâng lên. Hán tự tôi cũng đọc xong cuốn Gia (nhà) của nhà văn Mao Thuẫn (ta dịch sang tiếng Việt sau này là Gia đình), do đồng chí Lâm Bá Cương cùng tổ cho mượn. Khi còn nhỏ tôi học chữ nho, văn viết theo văn phạm cổ điển Trung Quốc, gọi là “Văn ngôn”, còn văn nói gọi là “Văn bạch thoại” hoặc gọi văn phạm “phổ thông”, nên nhiều đoạn hành văn tôi không hiểu, phải hỏi đồng chí Cương. Lúc nhỏ tôi đã đọc hết các chuyện Tam quốc, Đông chu Liệt quốc, Tây Hán chí, Phong Thần, Thủy hử (108 anh hùng Lương Sơn Bạc), văn họ viết theo ngữ pháp văn ngôn, tuy thế lúc đầu cũng phải có người hướng dẫn... nhưng dễ đọc. Tôi không nói tiếng Trung Quốc được nhiều, nhưng đọc thì tốt, nên sau này tôi vẫn mua Nhân dân Nhật báo Bắc Kinh để đọc.

Kết thúc lớp học dài hạn chính trị cao cấp, tôi về Hải Phòng, lúc này đang chuẩn bị Đại hội Đảng bộ lần thứ III (Đại hội Đảng tỉnh, thành phố 2 năm hoặc 2 năm rưỡi họp một lần, không phải 5 năm một lần như bây giờ)

Đại hội lần này diễn ra không suôn sẻ lắm!

Đại hội dự kiến bầu 35 uỷ viên Ban Chấp hành, Đại hội chỉ bầu được 22 đồng chí. Nhiều đồng chí Thành uỷ viên cũ không trúng cử (trong số hơn 10 đồng chí trong Thành uỷ cũ không trúng cử, có 4 đồng chí uỷ viên thường vụ, một Phó Bí thư Thường trực). Tôi vẫn được bầu vào Thành uỷ và được phân làm Trưởng ban công nghiệp kiêm Trưởng ban Khoa học kĩ thuật. Số Thành uỷ viên bầu được ít nên các đồng chí thành uỷ phải kiêm nhiệm nhiều công việc, rất bận rộn.

Khi chiến tranh phá hoại miền Bắc mở rộng, tôi được phân công sơ tán triệt để các xí nghiệp và nhân dân thành phố ra ngoại thành, trừ xí nghiệp xi măng không thể chuyển ra ngoại thành được, ta phải bám trụ để sản xuất tiếp.

Đồng thời xây dựng một xí nghiệp xi măng sản xuất theo kiểu nửa thủ công, nửa cơ giới ở Minh Đức (sau này thường gọi là xi măng Minh Đức). Công việc chuẩn bị sơ tán lần này rất khẩn trương và triệt để. Tôi phải huy động hầu hết cán bộ Ban công nghiệp và Ban Khoa học kĩ thuật làm công tác sơ tán, phối hợp với các đồng chí Phó Chủ tịch khối bên Uỷ ban nhân dân Thành phố như đồng chí Hồng Cẩn, đồng chí Kim Tái. Công việc sơ tán nhân dân và xí nghiệp cơ bản xong.

Đêm 16-4-1972 Mỹ đem máy bay vào đánh phá Hải Phòng. Ta biết trước địch sẽ dùng B52 ném bom khoảng 10 tiếng. Ta huy động mọi lực lượng để vận động nhân dân sơ tán. Nhưng nhiều người còn do dự, vì những năm trước địch chỉ đánh bom bằng máy bay thường, đánh rồi lại nghỉ, nên nhân dân coi thường... không chịu đi sơ tán triệt để, nhất là lần này đi sơ tán gặp rất nhiều khó khăn về đời sống. Khu công nhân xi măng thì phải bám trụ để sản xuất.

Tối hôm đó khu phố đã huy động tổng lực cán bộ đi vận động nhân dân sơ tán trước 10 giờ đêm, nhưng vẫn còn người ở lại.

Đúng 12 giờ đêm 16-4-1972 Mỹ cho hàng loạt máy bay B52 thả bom rải thảm khu thượng Hạ Lí, An Dương. Chúng tập trung vào khu Thượng Lí, có nhà máy xi măng và kho Thượng Lí, Sở Dầu... Nhà máy xi măng coi như thiệt hại lớn nhất, chỉ còn 3 ống khói (nhưng chỉ sau 3 ngày, khói trắng xi măng lại nhả khói lên bầu trời cao). Nhà cửa của nhân dân bị san bằng, bom Mỹ đã giết hại dân thường, hầu hết bà già trẻ em chui trong hầm kèo tre, không kiên cố. Riêng khu Thượng Hạ Lí có 960 người bị chết, còn khu An Dương sơ tán triệt để hơn, mật độ bom rải mỏng hơn, nên thiệt hại về người không lớn.

Trận ném bom ác liệt này làm cho đoạn đường số 5 từ cầu xi măng đến ga Thượng Lí hỏng nặng. Đường bị phá, đất lật lên ngập đường, có những đống đất cao hàng mét. Khi đến để giải quyết hậu quả, xe tôi phải bỏ lại sau, đi bộ. Lúc đó còn chưa sáng rõ, tôi thấy một đồng chí bộ đội lò mò đi về hướng tôi. Đến gần mới biết là tướng Đặng Kinh, Tư lệnh quân khu III vừa ở trong nhà máy xi măng đổ nát ra. Chúng tôi gặp nhau, trao đổi một vài việc cần làm ngay, rồi chia tay nhau, để đi vào công việc của mỗi người.

Thời gian từ tháng 4-1972 đến ngày kí Hiệp định Paris tháng 1-1973 là những tháng ngày chống chiến tranh phá hoại ác liệt nhất của Hải Phòng. Sau trận ném bom B52 rải thảm đầu tiên, địch thả thủy lôi phong toả Cảng. Đêm ngày chúng cho các loại máy bay vào ném bom, bắn phá. Chúng đánh không theo một qui luật nào, nên việc sơ tán nhân dân nội thành lúc này hết sức khẩn trương và triệt để. Có những đêm tôi kiểm kê nhân dân ở nội thành, chỉ còn 7.000 người, đều là những người có trách nhiệm phải ở lại.

Cơ quan tôi không ở số 7 Đinh Tiên Hoàng mà phải sơ tán xuống số 44 Lạch Tray, là trụ sở của Ban Khoa học kĩ thuật, xa Cảng và nhà máy xi măng hơn. Lúc này các con tôi đều đi sơ tán, nhà tôi là Bí thư Đảng uỷ kiêm Phó Giám đốc Công ti Kho vận nội thương, hàng ngày vẫn phải nhận hàng, bảo quản kho hàng hoá ở rải rác khắp nội thành. Chúng tôi cùng ở 44 Lạch Tray, phải đào hai hố tránh bom cách nhau khoảng 50m ở ngay trong cơ quan, đề phòng rủi ro, còn có người trông nom 4 con nhỏ. Có lần chúng tôi chuẩn bị bữa cơm chiều, mua được con vịt chưa cắt tiết, để ở giữa sân, thì máy bay đến thả bom ngay nhà bên, mảnh bom văng cắt đứt đầu con vịt. Cũng may chúng tôi đã xuống hầm, mọi người không việc gì! Khi “máy bay địch đã bay xa, mọi việc trở lại bình thường” tiếng loa của Đài phát thanh thành phố vừa phát, chúng tôi chui ra khỏi hố cá nhân, thì thấy con vịt mất đầu, lăn ra chết ở giữa sân Ban Khoa học kĩ thuật. Sự sống chết lúc này, cảm thấy nó nhẹ nhàng quá! Chẳng ai quan tâm đến con vịt, mà mọi nhà xoay quanh vào bữa cơm chiều cho nhanh, đề phòng máy bay địch trở lại đánh ban đêm...

Giặc Mỹ muốn biến Việt Nam trở lại thời kì đồ đá. Hải Phòng là cửa ngõ của miền Bắc ra biển, Hạm đội 7 của Mỹ luôn luôn túc trực ở đây. Các loại máy bay đi đánh phá miền Bắc, khi về qua Hải Phòng, còn quả bom, viên đạn nào chúng đều trút xuống, “góp phần đưa Việt Nam về thời kì đồ đá” vừa nhẹ máy bay, đỡ nguy hiểm khi hạ cảnh xuống “Hàng không mẫu hạm” đỗ ngay trên vịnh

Những ngày này cho đến kết thúc cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, kí hiệp định Paris, không đêm nào tôi vắng mặt ở Hải Phòng. Có những đêm tôi đi kiểm tra việc sơ tán của nhân dân ở các khu phố, ra đến Bến Bính thì còi báo động vang lên, đèn thành phố tắt hết. Có đồng chí cùng ngồi trên xe với tôi, bảo tôi chạy vào số 3 Cù Chính Lan, trụ sở của Sở Công nghiệp, xưa là nhà Bank của Pháp, xây dựng kiên cố, chui xuống tầng hầm là yên tâm. Tôi bảo đồng chí lái xe, tắt đèn chạy về số 44 Lạch Tray. Tôi nói đùa với các đồng chí: “cứ về đất Thánh...”.

Đến 44 Lạch Tray chúng tôi vừa chui xuống hầm thì bom nổ khắp nơi trong thành phố. Sau khi máy bay địch đã bay xa, tôi được thông tin địch ném bom đúng vào số 3 Cù Chính Lan, sụp hẳn một gian nhà 2 tầng, mọi người “hú vía”. Từ đó anh em bảo tôi là tạng người “sống dai”, đã chết hụt khi bị tra tấn, vứt nhà xác Côn Đảo cũng không chết... Trong chiến tranh, trước cái sống cái chết quá dễ dàng, “tâm linh” mờ ảo, chẳng có cơ sở khoa học gì, đôi khi chỉ dựa vào những suy đoán vớ vẩn cũng làm cho người ta yên tâm hơn... Đồng chí Tấn thường nói với mọi người: “Cứ đi với ông Thành là yên tâm, không chết đâu mà lo...”. Lòng tin không có căn cứ khoa học ấy đã giúp tôi hoàn thành nhiệm vụ một cách nhanh, gọn.

Như khi đồng chí Bí thư Thành uỷ Trần Kiên giao nhiệm vụ cho tôi làm Trưởng đoàn ra Cát Bà kiểm tra đôn đốc phân tán kho tàng ở thị trấn Cát Bà, di dân vào trong núi, đề phòng địch tập kích bất ngờ bằng không quân... Những người ra đi cùng tôi không hề ngại ngần. Lúc này cảng Hải Phòng bị giặc Mỹ phong toả bằng các loại thủy lôi, loại hẹn giờ, loại do chấn động sẽ nổ. Chúng làm cho tàu của thế giới không dám vào Cảng. Hôm trước ta khai thông được luồng nào, hôm sau chúng lại rải thủy lôi tiếp. Ta dùng mọi kĩ thuật để phá thủy lôi, nên cũng hạn chế được ít nhiều tác hại của chúng.

Các cửa sông ra vào cảng như cửa Nam Triệu, Lạch Huyện, chúng rải thủy lôi rất dày. Ta phải đặt nhiều chòi canh ven các cửa sông, nhất là từ Phao số 0 trở vào. Các chòi canh phải đếm từng quả thủy lôi địch rải xuống, đánh dấu toạ độ vị trí có thủy lôi để thông báo cho các tàu qua lại. Do đó không một tàu nào bị nạn thủy lôi cả. Một vài tàu đánh cá nhỏ chủ quan, cho là chấn động của máy nhẹ, thủy lôi không nổ, nên có một vài trường hợp đụng phải thủy lôi nổ, nhưng thiệt hại không lớn. Đoàn tôi gồm 14 cán bộ, do tôi làm Trưởng đoàn, đồng chí Vũ Minh Chính, Phó Ban Tuyên huấn, đồng chí Nguyễn Đình Nhiên, Phó Ban Tổ chức làm Phó trưởng đoàn. Đoàn ra Cát Bà phải đi làm 2 chặng đường: đoạn 1 bằng thuyền buồm, và chèo rất nhẹ nhàng, vượt qua sông Bạch Đằng sang đảo Cát Hải, rồi đi bộ qua đảo Cát Hải. Đến xã Lương Năng, tàu hải quân hoá trang đưa chúng tôi qua bến Gót, đi ra thị trấn Cát Bà, hết 2 tiếng đồng hồ, theo ven núi ít có thủy lôi. Nguy hiểm nhất là qua bến Gót. Thủy lôi giặc thả rất dày, tàu vượt qua bãi thủy lôi, mọi người im phăng phắc. Đồng chí nào cũng được hải quân cho mượn một phao buộc ngang ngực. Các đồng chí hướng dẫn ngồi lên mui tàu, nếu thủy lôi nổ nó tung người lên, các đồng chí sẽ vớt. Trong lúc mọi người lo lắng, đồng chí Tấn là cán bộ Ban Công nghiệp thường đi công tác với tôi, người Bình Định, lại nói vui: “Đi với ông Thành thủy lôi nó không nổ đâu!.” Mọi người phá lên cười, quên cả sự nguy hiểm.

Ai ở lâu Hải Phòng thời trước, mới thấy hết khó khăn của đường ra đảo Cát Bà, Cát Hải như thế nào. Mỗi tuần chỉ có 3 chuyến ca nô chở khách, còn lại là đi nhờ thuyền đánh cá, đi “đâm độ” từ bến Bính, hoặc cửa Cấm ra Cát Hải, rồi lại thuê thuyền đánh cá ra Cát Bà, không có lối đi bộ... Mới thấm thía vì sao con đường xuyên đảo ngày nay được nhân dân đón nó như sự “đổi đời” của mình.

Đoàn tôi ra đảo công tác hơn ba tuần, mọi người rất hăng hái làm việc. Ở thị trấn rồi về các xã Trần Châu, Gia Luận, Xuân Đám, Việt Hải... toàn đi bộ leo núi. Giữa Đảo cá, mà ngày nào cũng chỉ có rau cải, rau muống luộc chấm nước mắm và ít cá khô. Mãi đến hôm Đoàn ra về, đồng chí Lê Nam, Bí thư Huyện uỷ mới bắt con gà mái của nhà nuôi, làm thịt chiêu đãi đoàn. Trong hơn 3 tuần làm việc ở thị trấn Cát Bà, việc đầu tiên là chuyển nhanh 300 tấn gạo dự trữ và chuyển hết dân vào hang sâu, giáp với vườn Quốc gia. Chúng tôi cùng huyện uỷ, UBND huyện Cát Hải, tổ chức các cuộc nói chuyện về âm mưu địch, việc chúng đánh bom thị trấn Cát Bà chỉ còn là ngày một, ngày hai. Nhân dân cần đi sơ tán triệt để. Sau một tuần toàn cơ quan Huyện uỷ, Uỷ ban, lui vào sâu trong xã, làm việc trong các hang núi an toàn. Sau đó chúng tôi đi xuống các xã thuộc đảo Cát Bà để tuyên truyền chiến thắng ở miền Nam và chiến thắng ở miền Bắc, chống chiến tranh phá hoại của Mỹ. Cát Bà xa thành phố theo đường “chim bay” khoảng 45 km, cách Đồ Sơn 30 km, đi phải hết 4 giờ bằng đường thủy, trong thời bình, còn trong chiến tranh đi lại rất vất vả không biết đâu mà tính. Việc đi bộ leo trên vách núi từ thị trấn Cát Bà, qua đèo Khế vào các xã Trân Châu, Xuân Đám nếu người yếu tim cũng có thể rơi xuống biển. Đoàn chúng tôi lặn lội về hết các xã, xã xa nhất là Việt Hải, vừa đi vừa có dân quân đi trước chặt cây, dọn lối cho đoàn đi, phải hết 4 giờ mới đến được xã. Nếu sang xóm Trà Báu phải mất thêm 1 giờ leo núi nữa. Mọi công việc được giao, chúng tôi đã hoàn thành trong hơn 3 tuần. Hôm ra về, chúng tôi đi bộ đến xã Hiền Hào rồi sẽ có thuyền của thành phố ra đón ở bến Hiền Hào.

Đoàn chúng tôi chào tạm biết đồng chí Lê Nam và các đồng chí Huyện uỷ, Uỷ ban huyện Cát Hải.

Đồng chí Lê Nam nói đã điện về Thành uỷ, khoảng 4-5 giờ sáng sẽ có thuyền đón Đoàn ở bến Hiền Hào. Tôi hỏi đồng chí Nam điện bằng điện thoại hay mật mã? Đồng chí Nam nói đánh điện thường (claire). Tôi nói ngay “Thế thì nguy hiểm quá, địch sẽ phục kích chúng ta”. Chúng tôi quyết định cách đi, không đến Hiền Hào nữa, mà ở xóm trong gần lâm trường Cát Bà, leo qua núi sang xí nghiệp muối Phù Long, nhờ thuyền buồm của xí nghiệp chở đoàn về bến Máy Chai, ô tô của Thành uỷ sẽ ra đón. Ngay đêm đó, chúng tôi báo cho xã Hiền Hào biết và đề 86 phòng địch oanh kích sáng sớm, chuẩn bị dân sơ tán, không đốt lửa sớm, không đi làm ra phía bến Hiền Hào. Các thuyền đánh cá phải sơ tán hết, không cho bất cứ thuyền nào tập trung ở bến Hiền Hào... Đúng như dự đoán, sáng sớm hôm sau chúng tôi chuẩn bị ra hầm thì máy bay Mỹ đã đến bến Hiền Hào. Chúng bay đi bay lại, rà sát mặt biển, nhưng mọi vật đều yên lặng, chúng tìm kiếm nhiều lần rồi “cút”. Sau khoảng 1 giờ, chúng tiếc rẻ, bay trở lại. Lúc đó chúng tôi đã ra đến chân núi, vượt núi sang Phù Long, xí nghiệp muối. Mọi người cũng “hú vỉa” vì một sơ suất nhỏ! Lúc đó trời đã sáng, chúng tôi nhìn rõ 2 máy bay Mỹ lượn vài vòng rồi sau mới bay đi.

Đường vượt qua núi rừng sang xí nghiệp muối lần này hoàn toàn mới, không giống như sang Việt Hải. Đi Việt Hải tuy phải phá cây cối, nhưng đã có lối mòn, thỉnh thoảng có người qua lại. Còn đường này phải sử dụng một tiểu đội dân quân của xã Hiền Hào và tự vệ lâm trường đi mở đường, mang theo cả dây leo, thậm chí còn phải làm cả thang tạm để bắc đi qua khe. Chúng tôi đem cơm nắm đi theo, ăn dọc đường, mãi đến 2 giờ chiều mới sang đến xí nghiệp muối, gặp đồng chí Kích, Giám đốc xí nghiệp, tổ chức cho bữa cơm toàn “cá và muối”. Không có cá to, chỉ có cá lụn vụn khô, nấu “canh chua” và rán. Chúng tôi bày cơm nắm còn lại, và cơm nóng xí nghiệp chiêu đãi đoàn, ăn rất ngon lành. Mọi người nghỉ ngay tại các hang núi Phù Long để chờ tôi đến. Giám đốc Kích trực tiếp lái thuyền buồm của xí nghiệp đưa đoàn về cảng Máy Chai Hải Phòng.

Đi thuyền cũng phải lướt qua bến Gót, bên bãi thủy lôi, nhưng bớt nguy hiểm hơn tàu chiến của thủy quân, vì không có động cơ, chạy bằng buồm và lái bằng gỗ. Lúc đó chưa có kênh Cái Tráp, phải qua sông “Ruột lợn”, sông Chanh của Quảng Ninh, qua cửa sông Bạch Đằng, qua kênh Vũ Yên mới về sông Cấm. Đường đi rất dài, chưa đi tắt kênh Cái Tráp mới đào 1982-1983 như ngày nay được.

Thuyền vừa lướt qua bãi thủy lôi, cửa sông Lạch Huyện (bến Gót) thì gặp sự cố rất nguy hiểm. Nước triều đang xuống mạnh, trời tối, chỉ có ánh trăng lờ mờ, nhìn không rõ, thuyền đâm thẳng vào hàng cọc cắm đăng cá trên sông, với hướng gió buồm đang căng. Đồng chí Kích hỏi đồng chí quan sát: “Có cái gì đen...đen phía trước...”. Đồng chí quan sát vội nói to: “Đâm vào đăng rồi”. Tôi ngồi bên đồng chí Kích, thấy đồng chí không nói gì, dùng hết sức vừa lái, vừa buông dây buồm cho thuyền quay ngoắt 180 độ. Con thuyền nghiêng ngả 2, 3 lần như sắp lật úp xuống nước. Nhưng với tay lái vững của đồng chí Kích, thuyền trở lại bình thường, hướng về thành phố. Đến Máy Chai cho Đoàn lên bờ đồng chí Kích lái tàu về ngay, vì nếu chậm đến sáng, máy bay địch đánh Hải Phòng sẽ không có chỗ ẩn nấp. Khi bắt tay tôi, đồng chí nói: “Lúc đó em không nói gì, nhưng rất lo. Nếu nước đang chảy xiết, thuyền chạy đâm vào cọc và đăng chỉ còn nước thuyền lật úp xuống nước. Lúc đó ai biết bơi bám vào cọc xăm, có người vớt ngay thì sống. Nhưng ban đêm, chưa biết có thoát được ai! Em rất bình tĩnh, cắn răng bẻ lái, chùng dây buồm cho thuyền quay 180 độ mà không để lật thuyền. Thế mới khó. Em là dân Thủy Nguyên, quen sông nước, bình tĩnh mới xử lí được tình huống hôm nay”. Tôi cảm ơn đồng chí Kích.

Về đến trụ sở Đảng, tôi mới nói lại với các đồng chí trong Đoàn, mọi người lại “hú vía” lần nữa.

Tôi gọi điện đến nơi sơ tán của đồng chí Bí thư Thành uỷ Trần Kiên xin đến báo cáo. Đồng chí Kiên bảo tôi: “Khuya rồi, về nhà nghỉ, sáng mai đến báo cáo sớm”.

Đoàn chúng tôi về Hải Phòng, sau 3 ngày thì máy bay Mỹ đánh phá thị trấn Cát Bà, cuộc đánh phá mang tính chất hủy diệt. Liền trong một tuần, suốt từ sáng đến chiều, chúng cho từng đoàn máy bay đánh phá liên tục, từ biển vào đánh Cát Bà, qua Long Châu, rồi Bạch Long Vĩ. Chúng tàn sát tất cả cái gì nổi trên mặt đất của thị trấn Cát Bà. Chỉ sau một tuần Cát Bà biến thành bình địa. Sau hoà bình trở lại, ta mới xây dựng cơ quan huyện vào phía trong, là cơ quan đầu não của huyện Cát Hải. Còn thị trấn, mặt bằng do bom Mỹ tạo nên trở thành mặt bằng xây dựng khu du lịch và Cảng hiện nay, chạy chung quanh vịnh Cát Bà, nơi còn có cái tên quen thuộc của nhân dân địa phương là “Tùng Dinh, Tùng Vụng”.

Thương tiếc thay, đồng chí Kích, một con người đẹp trai, tháo vát, có tài như thế lại gặp một thảm nạn hết sức vô lí, ở hiền mà không gặp lành. Hôm đó có cơn lốc và một đám mây tích điện lớn đã gây ra tiếng sét kinh hoàng. Sét đánh trúng xí nghiệp muối, là nguyên nhân cái chết rất thương tâm của Kích. Chao ôi, trong tích tắc Xí nghiệp muối Phù Long mất đi người Giám đốc trẻ đang sung sức mà anh chị em công nhân hết sức mến yêu. Đã bao năm qua anh lãnh đạo hơn 300 nhân viên, hầu hết phụ nữ chưa chồng, ở một nơi xa thành phố, xa thị trấn Cát Bà anh dành hết thời gian nhiệt huyết vào việc quản lí kinh doanh, quản lí tổ chức nhân sự để mọi người yên tâm sản xuất, chiến đấu giỏi, góp phần bắn rơi máy bay và bắt sống giặc lái trên biển. Riêng tôi càng tiếc một cán bộ dưới quyền năng động, có nhiều triển vọng như anh.

Từ chuyến đi dài ngày ra công tác ở Cát Bà - Cát Hải, qua thực tế cuộc sống của nhân dân, tôi biết ước mơ của mọi người trên đảo là có một con đường bộ nối với thành phố. Tôi hình thành một ý tưởng là khi có điều kiện sẽ xây dựng một con đường “xuyên đảo”. Ước mơ, ý tưởng ấy cứ dằn vặt trong tôi từ lần đi công tác dài ngày đầy gian nan và khó khăn này. Các đồng chí trong Đoàn hiện nay hầu hết còn đủ mặt, trừ đồng chí Nguyễn Đình Nhiên mới qua đời năm 2003.

Hôm sau tôi đến báo cáo với đồng chí Trần Kiên, Bí thư Thành uỷ, đồng chí khen Đoàn chúng tôi đã làm tốt nhiệm vụ, sáng tạo, nên đã trở về thành phố an toàn. Sau được mấy ngày, giặc Mỹ đánh phá hủy diệt Cát Bà, toàn bộ cán bộ công nhân viên của huyện Đảo và nhân dân thị trấn không có ai thương vong. Ngay tối hôm đó, sau khi được báo cáo của Huyện uỷ Cát Hải, đồng chí Trần Kiên gọi điện cho tôi, tỏ vẻ rất mừng và nói: “Đồng chí thấy không? Nếu tôi không cử Đoàn ra Cát Bà chuẩn bị sơ tán thì thiệt hại biết bao nhiêu”. Tôi động viên đồng chí Bí thư: “Anh rất sáng suốt...”.

Tôi về tiếp tục công việc cũ là phụ trách việc sơ tán và chuẩn bị kế hoạch xây dựng lại thành phố khi hoà bình trở lại. Nhưng việc chính trước mắt vẫn là chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.

Trong những tháng cuối năm, Hội nghị Paris đang đi vào thời kì cao trào. Địch càng đánh phá quyết liệt miền Bắc. Hàng ngày từng đàn máy bay vào đánh phá các khu kinh tế, quân sự Hải Phòng, đánh cả vào khu dân cư Cầu Đất, Thượng, Hạ Lí, An Dương, Máy Chai... dù sơ tán đã rất triệt để, số người trong thành phố vẫn còn trên dưới một vạn người có trách nhiệm và lực lượng võ trang, nên ngày nào ít nhiều cũng có người thương vong! Do đó, công việc phòng không nhân dân suốt 24/24 giờ rất căng thẳng. Có khi vừa cất tiếng còi báo yên, tiếng loa phát thanh vừa thông báo: “Máy bay địch đã đi xa, mọi hoạt động trở lại bình thường” thì tiếng còi báo động đã cất lên. Tiếng loa phát thanh lại gấp gáp: “Đồng báo chú ý! đồng bào chú ý! Máy bay địch đang ở phía đông, cách thành phố 30 km... mọi người về nơi trú ẩn an toàn!.” Ngày nào cũng lặp đi lặp lại như vậy. Những người còn ở lại thành phố vì trách nhiệm cũng quen dần, coi rất bình thường cái chuyện báo an, báo động. Nhưng cũng có việc rất mệt, nhức đầu, không phải chiến tranh phá hoại của Mỹ, mà do mất đoàn kết nội bộ. Tôi phụ trách khối công nghiệp, được phân công chỉ đạo hội nghị kiểm điểm nội bộ của Công ti Gỗ Hải Phòng do đồng chí Hiệp làm giám đốc. Nơi đây nội bộ mất đoàn kết kéo dài giữa các đồng chí trong Đảng uỷ và Ban Giám đốc. Cuộc họp kiểm điểm một tuần tại Xí nghiệp gỗ Hiệp Hưng, khu Hạ Lí. Hầm tránh máy bay ở đây khá tốt. Đang kiểm điểm phê bình, tự phê bình, lại có báo động. Cuộc họp đút quãng, tất cả xuống hầm... hết báo động lại họp tiếp. Tôi không phải người trong cuộc mà là người chủ trì cho các đồng chí kiểm điểm, thế mà người tôi lúc nào cũng như bị sốt, nhức đầu, trán hâm hâm nóng, mồ hôi âm ỉ chảy ra!. Sau khi kết thúc kiểm điểm, tôi tâm sự với một vài đồng chí: “chiến tranh phá hoại của Mỹ cũng không nguy hiểm phức tạp bằng “chiến tranh nội bộ”, thiệt hại đủ mọi thứ, nhất là mặt tinh thần, sức khoẻ”. Tôi bị mệt mất mấy tuần, nhưng mệt hơn cả là nghĩ lại những lời nói của các đồng chí đối với nhau, thật khó có lời văn “tả chân” nào nói hết được!

Cuộc phong toả Cảng Hải Phòng bằng thủy lôi của Mỹ cũng không đem lại kết quả theo mong muốn của chúng. Hàng ngày vẫn có tàu Liên Xô và các nước XHCN ra vào cảng. Việc phá thủy lôi, khai thông luồng lạch cho tàu vào cảng vẫn làm thường xuyên. Địch thả, ta lại phá bằng mọi phương tiện... Đến khi kết thúc chiến tranh, theo Hiệp định Paris, phía Mỹ phải có trách nhiệm phá hết thủy lôi mà họ thả xuống biển nhằm phong toả cảng Hải Phòng, và họ phải luyên bố trước thế giới là đã phá hết thủy lôi. Thực tế thì ta đã phá hết thủy lôi thả theo lòng lạch tàu ra vào. Khi chúng đem phương tiện của Mỹ đến phá, chỉ còn lại những quả thủy lôi thả chệch ra khu vực không có lòng lạch tàu ra vào mà thôi!

Trước diễn biến ở chiến trường miền Nam, trước khi Hiệp định Paris kí kết, canh bạc “khát nước” của Ních-sơn và Kit-sing-giơ đến hồi căng thẳng. Chúng phản bội những điều thoả ước, cho ngừng đàm phán, và dùng B52 đánh phá Hà Nội, Hải Phòng trong 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972.

Trong những ngày này tôi và 5 cán bộ dưới quyền với một cái xe Ru-ma-ni “đít vuông” (mà lúc đó có cái tên “xe Rumani vừa đi vừa đẩy”) chạy lồng khắp nơi. Đi đâu người ta cũng biết là xe “Ban sơ tán”. Nói vậy thôi, chứ xe chạy tốt, với tài xế Hồng (Ngảnh) thường gọi là “tài Ngảnh” chăm sóc, bảo vệ xe nên mọi chuyến đi do trung uý chuyển 89 ngành “tài Ngảnh” lái đều suôn sẻ. Nhất là những buổi lên Hà Nội báo cáo, phải đi tắt mấy cầu phao, qua phà rất vất vả. Nhiều lúc cầu, phà chỉ cho xe ưu tiên đi. Tài Ngảnh thay áo thường lấy áo bộ đội 4 túi ra mặc, chễm chệ ngồi cầm tay lái. Tôi ngồi bên cạnh cũng bật cười. Nhưng quả thật rất có tác dụng. Anh em bảo vệ cầu phà vẫy tay cho đi ngay. Với bộ quần áo sĩ quan, không đeo lon mà lúc đó cũng rất “hiệu quả”, được qua cầu, phà nhanh; đến họp đúng giờ, lại tránh được nguy hiểm khi xếp hàng qua cầu phà, tâm lí thủ trưởng nào cũng khoái. Đồng chí Ngảnh còn bảo tôi: “Khi chuyển ngành em vẫn giữ lại phù hiệu trung uý, nhưng sợ thủ trưởng mắng không dám đeo”. Tôi bảo đồng chí Ngảnh: “Nộp lại cho đơn vị, kẻo phạm quân pháp, ảnh hướng đến cả tôi nữa đấy!”. Tài Ngảnh đồng ý ngay.

Trận “Điện Biên Phủ trên không” của quân dân ta đánh B52, khiến con chủ bài cuối cùng ấy của Mỹ đem ra thi thố, đã thất bại. Hiệp định Paris được kí kết, hoà bình được lập lại. Phương án sắp xếp dân về hồi cư, qui hoạch lại đường xá, khu phố, những nơi bị bom Mỹ san bằng như khu Thượng, Hạ Lí, khu Sở Dầu, khu An Dương, tôi trình ra Ban Thường vụ, nhưng không được thông qua, vì khó khăn về tài chính. Nhân dân tự do về tranh cướp lại chỗ ở cũ, không ai ngăn cản nổi, nên kế hoạch qui hoạch, cắm mốc cho dân xây dựng không thành công, cứ mạnh ai người ấy làm.

Sau này qui hoạch tốn kém quá! Nghĩ lại rất tiếc. Nếu lúc đó Ban Thường vụ Thành uỷ kiên quyết và UBND thực hiện tốt, thì thành phố sẽ đi vào qui hoạch từ những năm giữa thập kỉ 70 rồi!

Sang đầu năm 1973 với thắng lợi Hiệp định Paris lập lại hoà bình ở Việt Nam, quân Mỹ phải rút hết về nước. Một nửa nước đã có hoà bình, chỉ miền Nam còn tiếp tục chiến đấu, chúng ta có nhiều thuận lợi hơn trước. Tình hình giải phóng miền Nam rất sáng sủa và đã có thể dự đoán được ngày thống nhất đất nước.

Sau 9 năm chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ. Hải Phòng là điểm số 1 đánh phá của máy bay Mỹ, từ ngày 5-8- 1964 cho đến 31-1-1973. Tuy còn phải cảnh giác với âm mưu tráo trở của đế quốc Mỹ, nhưng trong tâm trí mọi người đã có thể nghĩ đến ý tưởng của Bác Hồ: “... sẽ xây dựng đất nước ta to đẹp hơn, đàng hoàng hơn...”.

Đồng chí Trần Kiên, Bí thư Thành uỷ, đồng chí Đỗ Chính, Phó Bí thư đã tổ chức một đoàn cán bộ chủ chốt thành phố đi thăm Thủy điện Thác Bà, thành phố Việt Trì, Đền Hùng và tỉnh Vĩnh Phú. Tôi là một thành viên trong đoàn với chức danh Trưởng ban Công nghiệp kiêm Trưởng ban Khoa học. Một cuộc đi khá lí thú; vừa đông vừa gặp nhiều sự kiện. Đồng chí Đỗ Chính, người gốc Hưng Yên nhưng đã nhiều năm công tác tại Phú Thọ, đã làm Bí thư huyện uỷ Vũ Ẻn, nơi có rất nhiều truyền thuyết về phụ nữ Vũ Ẻn. Cùng với Phong Châu, Vũ Ẻn là nơi của những con cháu “chính hiệu” Hồng Lạc. Tôi đi cùng xe với đồng chí Đỗ Chính, được nghe đồng chí kể hết chuyện phụ nữ huyện bắt nạt Bí thư Huyện uỷ, đến chuyện các vị “thầy chùa” đã có hàm sắc Hoà thượng, Thượng toạ, đến cách đi xe đạp, lái xe đạp, nhảy xe đạp của phụ nữ... làm cho chúng tôi cười tưởng “vỡ bụng”.

Trưa hôm đó được Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Phú Kim Ngọc, Phó Bí thư Thường trực Hoàng Quy, đồng chí Đô, Chủ tịch UNDN, tiếp đoàn ở cơ quan nơi sơ tán, cách thị xã Phú thọ khoảng 20km, ở trong rừng.

Lần đầu tôi gặp đồng chí Kim Ngọc, con người nổi tiếng “khoán hộ” trong nông nghiệp từ năm 1965, đã bị phê phán và cấm. Tôi thấy đồng chí có vẻ một thầy đồ “nho”, người gầy, mặc bộ quần áo nâu, nói chuyện ít khi cười, kể cả “mỉm cười” cũng không. Tôi tự hỏi đồng chí còn nặng tâm tư hay tính người nghiêm nghị? Đến khi ăn cơm xong, đồng chí Kim Ngọc về phòng làm việc (cũng là nơi ăn nghỉ), tôi đi theo đồng chí và dừng ở cái bàn bằng mấy cây tre làm chân, một tấm phản gỗ để trên. Đồng chí gọi người phục vụ pha trà cho tôi uống. Hồi đó tôi chưa uống trà, chỉ uống nước sôi để nguội, nên xin đồng chí không phải pha trà. Tôi đi vào câu chuyện mà trước khi ăn cơm đã đề nghị với đồng chí, được đồng chí nhận lời tiếp sau khi cơm nước xong. Chung quy vẫn cáu chuyện khoán chui trong nông nghiệp... Tôi đề nghị đồng chí cho tôi xem Nghị quyết khoán của Tỉnh. Đồng chí chậm rãi, mặt tươi lên, nhưng vẫn không cười, bảo tôi: “Đồ quốc cấm, ông xem làm gì?”. Tuy nói vậy song đồng chí vẫn đứng dậy đi vào nơi để tài liệu lấy đưa cho tôi xem. Đồng chí ngồi kiên nhẫn đợi tôi đọc xong, dù có những đoạn tôi phải đọc đi đọc lại để suy ngẫm. Đồng chí Kim Ngọc ngồi xỉa răng, vẻ mặt đăm chiêu suy nghĩ. Khi tôi đọc xong, trả lại, đồng chí Kim Ngọc hỏi tôi: “Ông thấy thế nào?” Tôi trả lời: “Hay đấy!”. Đồng chí bảo tôi: “Cũng dám khen cơ à ?”. Rồi chúng tôi chuyển sang câu chuyện làm ăn sau hoà bình lập lại, chuyện Hải Phòng bị đánh phá, thủy lôi phong toả v.v... khoảng 30 phút, tôi cảm ơn đồng chí về nghỉ cùng với đoàn ở một lán trong rừng.

Sau cuộc gặp đồng chí Kim Ngọc, tôi suy nghĩ rất nhiều về nông nghiệp. Mặc dù tôi phụ trách công nghiệp. Một con người cố nông, tá điền, học hành không nhiều mà suy nghĩ sâu sắc. Xem qua văn bản Nghị quyết, nội dung đơn giản, nhưng điều cốt yếu đã đặt lợi ích của nhân dân, của đất nước lên trên hết, thậm chí trên cả tính mạng người ra Nghị quyết.

Tôi nghĩ lại, cuối năm 1950, khi tôi là Bí thư Quận uỷ Ngô Quyền, cơ quan Quận uỷ đóng ở nhà ông Hạp, Châu Xá, Kinh Môn. Xã tổ chức tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản để chuẩn bị Đảng ra công khai 1951. Cán bộ huyện Kinh Môn có mời tôi đến nói chuyện. Tôi nhớ rất kĩ một câu nói của tôi: “Khi đất nước được giải phóng khỏi thực dân Pháp, chúng ta sẽ không còn có nhà tranh vách đất lụp xụp như nhà ông Hạp...”. Mọi người hồ hởi tin tưởng Cách mạng. Cách làm của đồng chí Kim Ngọc khi còn là Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc đã giúp nông dân có nhà ngói, xoá bỏ được nhà tranh vách đất... tại sao lại bị cấm?

Trở lại làm công tác thương nghiệp lần thứ ba

Cuối năm 1973-1974 tôi lai được phân công sang làm Giám đốc Sở Thương nghiệp. Những năm trước tôi làm thương nghiệp (Lúc đó trong xã hội còn coi khinh nghề “thương”). Sự quản lí rất chặt chẽ, hàng hoá còn dồi dào, việc bán hàng, kiểm kê hàng ngày đã vào nề nếp. Tôi nhớ lại khi tôi làm Phó Chủ nhiệm Công ti bách hoá, ngày mồng một Tết tôi bán hàng cho anh chị em nghỉ Tết. Chỉ bán 3 mặt hàng: pháo rời, kèn te-te cao xu và kẹo, mà đến tối kiểm kê mất 2 đồng 30 xu, tôi phải móc túi ra đền... Sau này hàng tuần mới kiểm kê, nếu thiếu ghi sổ chịu, còn thừa không bao giờ có cả (?).

Tôi sang nhận chức Giám đốc, xuống các công ti thuộc sở, thấy tình hình khác lắm! Anh chị em bán hàng thì cửa quyền, đời sống khá hơn trước nhiều, không có ai xin ra khỏi ngành... Tôi về tổ vải sợi Hồng Bàng thăm chị em, được chị Mai Thị Đảm và cô Phương cho biết: “Bây giờ khác xa thời thủ trưởng ở đây, bây giờ chỉ có “tiền đồ”, không có “tiền đền” như trước đâu...”.

Thế ra quá trình làm “cải tiến”, rồi “3 xây 3 chống”, những kết quả đi đâu hết, mà càng ngày tệ tham nhũng càng phát triển. Tôi nghĩ chữ “Nhân dục vô nhai” của thánh hiền để lại quả là sâu sắc. Chế độ gì đi nữa, không có cơ chế quản lí nghiêm, con người biết quản lí, tạo ra giá trị gia tăng cho toàn xã hội, và phân phối đúng đối tượng tham gia làm ra giá trị gia tăng, thì không có khả năng phát triển sản xuất và không hạn chế tối đa được tham ô lãng phí! Tôi suy nghĩ tìm cách làm cho mậu dịch viên bớt cửa quyền, bán hàng theo tem phiếu, phục vụ bữa ăn sáng cho cán bộ công nhân viên tốt hơn, khai thác nguồn hàng ở các nơi về bán... Cũng phải thay đổi cả cách tiếp dân, cả sổ mua hàng và tem phiếu. Sở Thương nghiệp có trụ sở to nhất thành phố, nhà băng “Năm sao”, trên đường Trần Phú. Tôi được đồng chí Giám đốc Nguyễn Quốc Hiệu bàn giao. Đồng chí Quốc Hiệu sang làm Giám đốc Sở Thủy sản. Đồng chí Quốc Hiệu cho biết làm thương nghiệp phức tạp lắm! Hàng ngày nhân đến đến đợi mua hàng hoá, tất nhiên phải có tem phiếu nhưng đến cửa hàng, mậu dịch viên bảo: “Hàng hết, hoặc chưa có, về nhà đợi khi có hàng đến mua”. Nhân dân kéo đến Sở khiếu nại. Nhất là anh em thương binh đến Sở tỏ thái độ rất gay gắt, đôi khi làm mất trật tự nữa. Khi đồng chí bàn giao phòng làm việc cho tôi, Giám đốc Quốc Hiệu chỉ cho tôi hai lối đi, để khi cần phải đi lối hậu, thoát ra ngoài.

Có 4 Phó giám đốc (một là nữ) còn 3 là bạn cũ cả. Hai đồng chí Bùi Ngọc Tiễn và Hoàng Văn Được là Phó Giám đốc khi tôi còn làm Chủ nhiệm công ti, các đồng chí đều hợp tác với tôi để thực hiện nhiệm vụ chung rất tốt. Ngày nay chúng tôi vẫn còn lại những tình cảm nồng nàn với nhau, nhất là đồng chí Vũ Hồng Quảng thường xuyên lên Hà Nội thăm tôi với tình đồng nghiệp.

Sang Thương nghiệp sau cuộc chiến tranh phá hoại mang tính hủy diệt của đế quốc Mỹ, các công ti, cửa hàng hầu hết bị đánh phá. Tôi tập trung giải quyết ý thức phục vụ khách hàng của mậu dịch viên, trở lại khẩu hiệu: “Vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi” của thời kì “cải tiến” thương nghiệp ở Công ti Bông vải sợi may mặc.

Tôi tập trung xây dựng cửa hàng bách hoá tổng hợp Minh Khai, xây dựng lại chợ Sắt, xây dựng lò mổ lợn An Dương v.v..., đồng thời xây dựng hơn 30 ki-ốt, hoặc gian hàng nhỏ bán ăn sáng cho cán bộ công nhân viên. Mỗi buổi sáng phải bảo đảm 150.000 suất ăn sáng trở lên với 4 món ăn mà lúc đó coi là phong phú lắm rồi: phở, cháo, xôi, bánh mì; góp phần cải thiện cho cán bộ công nhân viên, không phải chạy vạy nơi này, nơi khác mới có ăn sáng để kịp giờ đi làm. Từ 4 giờ sáng các cửa hàng đã mở cửa, cũng làm cho không khí sôi động sau bao năm chiến tranh phá hoại ác liệt, giúp cho mọi người thấy thoải mái chút ít.

Còn đối với tem phiếu, đặc biệt là phiếu thịt lợn, vải, tôi tuyên bố công khai trong Đại hội Đảng toàn thành phố là: “Ai không mua được thịt và vải cứ mang tem phiếu đến bắt đền Giám đốc Sở thương nghiệp...”. Khi tôi phát biểu xong, có một vài đồng chí bảo tôi chủ quan, sau đại hội họ mang tem phiếu đến đòi, giám đốc không có hàng bán sẽ mất tín nhiệm. Có một đồng chí Thường vụ (nay còn sống, tôi không tiện nêu tên) bảo tôi: “Ông mất hơn chục phiếu vì câu tuyên bố đó đấy...”. Tôi chỉ cười không nói gì. Vì trước khi phát biểu ở Đại hội, tôi đã cân đối thịt, vải... với số lượng phiếu phát ra thấy trước vẫn đủ và thừa. Tại sao nhân dân kêu ca? Con phe bán tem phiếu xếp hàng mua tem phiếu của nhân dân, cán bộ công nhân viên chức rất đông. Thiếu hàng là giả tạo, do mậu dịch viên thông đồng với con phe không bán hàng cho người có tem phiếu mà dành hàng hoá bán cho con phe kiếm lời đấy thôi.

Thật là bất ngờ! Sau lời hứa của tôi ở Đại hội Đảng bộ Thành phố, không có một ai đem tem phiếu đến bắt đền Giám đốc Sở Thương nghiệp vì không có hàng cả. Tôi xuống kiểm tra các cửa hàng bán 2 mặt hàng chủ yếu thịt và vải, lúc nào cũng đủ hàng bán, nhân dân không phải xếp hàng dài như trước. Sau một năm, số các đồng chí có ý nghi ngờ cho là tôi “đại ngôn” đã bớt hẳn, tôi gây được lòng tin, “lời nói đi đôi với việc làm”, dần dần khôi phục lại uy tín của ngành thương nghiệp. Tôi làm Giám đốc Thương nghiệp 23 tháng thì được cử làm Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân thành phố.

Trong những năm tháng chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở Hải Phòng, mặc dù công việc bận rộn, gia đình có 4 con nhỏ, nhà tôi cũng phải lo công việc kho hàng rất lớn của Bộ Nội thương, trăm công nghìn việc, nhưng tôi vẫn học văn hoá, học ngoại ngữ. Chiến tranh phá hoại không có lớp học lớn, tôi tổ chức một số anh em cùng học, mời thầy giảng ban đêm, tôi đã học xong lớp 10, để chuẩn bị vào học đại học. Tôi tổ chức học hết chương trình “toán học đại cương” để vào học đại học cho vững, hơn nữa toán sẽ giúp cho công tác chỉ đạo, làm việc khoa học hơn, thiết thực với công việc hàng ngày. Sự học hành của tôi liên tục, không nghỉ lúc nào đến một tháng cả. Do đó, cũng lạo ra được thói quen không bỏ dở, tư duy kiến thức không ngừng nâng cao.

Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước

Từ đầu năm 1975 việc chuẩn bị cho giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước rất sôi nổi. Chiến công nối tiếp chiến công. Từ chiến trường miền Nam đưa về, hàng ngày tin chiến thắng giòn giã. Nhất là sau khi giải phóng Buôn-mê-thuật, mọi sự chuẩn bị cho việc giải phóng miền Nam, tiếp quản các tỉnh, thành phố, được chuẩn bị ráo riết. Ngành thương nghiệp Hải Phòng phải chuẩn bị hàng nghìn cán bộ cho việc tiếp quản thành phố từ Huế, đến Đà Nẵng...

Khi chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, Hải Phòng một lúc cử hơn 800 cán bộ vào tiếp quản thành phố Sài Gòn. Các cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc đi hết. Cán bộ gốc miền Bắc bổ sung. Bộ máy của Sở cạn kiệt nhân lực. Lúc đó thực sự mỗi người làm việc bằng hai, bằng ba nhưng cũng không thấy mỏi mệt. Sự phấn khởi sung sướng trong toàn dân, trong cán bộ công nhân viên chức, không lời nào tả hết. Bao nhiều năm chờ đợi, một trăm mười ba năm mới có ngày độc lập hôm nay. 93 năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp và 20 năm dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ, biết bao sự chết chóc, hi sinh, bao nhiều lần nhà cửa bị đốt phá, làm đi làm lại biết bao nhiêu lần! Cơm rau, cháo chia nhau đi sơ tán... nay về sum họp trọn đời, ai mà không cười rơi nước mắt!

Riêng tôi càng nhớ miền Nam, nhớ Côn Đảo dữ dội. Tôi chỉ ở tù Côn Đảo và các nhà tù miền Nam tròn một năm, nhưng sao nó để lại cho tôi biết bao kỉ niệm, buồn vui lẫn lộn. Tôi nhớ thế, chỉ muốn bay ra Côn Đảo, xem lại nơi bị địch giam cầm. Không có sự đùm bọc của đồng chí, đồng đội chắc tôi cũng để “nắm xương tàn” trên bãi Hàng Dương - Hàng Keo. Không hiểu có ai giống tôi không? Ở những chiến trường gian khổ, ở nơi bị đày ải, nếu tôi chưa đến được đó thăm lại, thì chẳng mấy đêm ngủ ngon. Trong những giấc mơ, các nơi ấy hiện về như thật. Có giấc mơ vượt đảo, tôi bơi thế nào về đến ao nhà tôi. Khi ở Côn Đảo cũng có nhiều lần tôi mơ vượt đảo, bơi về đến tận sông Tường Vu. Những nơi đó nếu tôi được đến thăm lại thì sau này mới không mơ tới nữa...

Tôi nóng lòng được vào thăm miền Nam được thăm “Má Năm” (bà Nguyễn Thị Phương Lan) một cơ sở cách mạng kiên cường, đã nuôi cán bộ cách mạng từ những năm 1930, như đồng chí Phan Bôi, (năm 1946 là Thứ trưởng Bộ Nội vụ với tên là Hoàng Hữu Nam) rồi đến anh Lê Đình Thụ, Trần Mạnh tức Vũ Quang Đạo và tôi, cùng nhiều đồng chí khác sau này.

Tháng 6-1975 tôi nhận được lá thư, ngoài bì đề: “Gửi chú Duy (tù Côn Đảo), nhờ Thành uỷ Hải Phòng chuyển giúp”.

Bóc thư ra xem, là thư của “Má Năm”. Tôi phấn khởi quá. Tôi biên thư cho Má và mời Má ra Bắc chơi. Trong thư gửi cho tôi Má cũng dự kiến ra miền Bắc thăm em gái là bà Nguyễn Thị Phương Hoa, Vụ trưởng cơ quan Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam, Đại biểu Quốc hội khoá I, đơn vị tỉnh Kiến An cũ.

Tháng 8-1975, má Năm được bác sĩ Trần Huy Bích đưa ra thăm tôi. Vợ chồng tôi và các cháu, bố mẹ tôi, rất mừng được đón bà Năm ra thăm. Má ở chơi miền Bắc khoảng hơn 2 tháng, được đồng chí Lê Đức Thịnh, Chủ tịch UBND Hải Phòng tiếp và mời cơm thân mật. Má chỉ lên Hà Nội chơi 2 lần gồm hơn một tuần với bà Phương Hoa. Còn Má ở Hải Phòng với vợ chồng tôi và các cháu. Nhà tôi và Má rất “ý hợp tâm đầu”, không lúc nào rời nhau, như mẹ con vậy! Vợ chồng tôi đưa Bà đi chơi khắp Hải Phòng, về quê tôi ở Hải Dương, đi thăm danh lam thắng cảnh ở Hà Nội và vùng chung quanh. Khi ở nhà, bà thêu thùa, may vá cho các cháu đủ loại quần áo. Bốn cháu trai của bà còn nhỏ, nghịch nhiều, quần áo rách đến đâu bà vá đến đó. Lúc ấy vải cung cấp hạn chế, nên bà đùm hai áo rách thành một áo lành. Các cháu mặc khen bà vá đẹp, bà - cháu cùng phấn khởi...

Thăm Côn Đảo sau thống nhất đất nước

Tháng 9-1975, tôi biên thư xin phép đồng chí Trần Kiên, Bí thư Thành uỷ vào thăm miền Nam và thăm Côn Đảo, đồng thời đồng chí Lê Đức Thịnh, Chủ tịch UBND 94 Thành phố giao cho tôi vào miền Nam để mua một số hàng hoá với chức danh là Giám đốc Sở Thương nghiệp. Lúc này má Năm còn đang ở chơi với gia đình tôi tại Hải Phòng.

Tôi đến Sài Gòn bằng máy bay quân sự. Lúc đó máy bay chở khách cũng do quân đội quản lí.

Sài Gòn mới giải phóng. Sau 22 năm tôi trở lại Sài Gòn, thấy thành phố đổi thay khá nhiều. Những con đường trước đây tôi qua lại nhiều là Căng Phú Lâm, nhà thương Chợ Quán nay đã mở rộng. Riêng chỗ chữa bệnh cho tù nay làm kho thuốc, vẫn còn nguyên hiện trạng. Căng Phú Lâm, khu hầm giam tù còn nguyên, nhưng bên trên đã thay đổi bằng nhà xây mới.

Tôi đến Thành uỷ Sài Gòn gặp đồng chí Lê Đình Thụ, là bạn tù, cùng trong Đảo uỷ vượt đảo khi xửa. Nay đồng chí Thụ đổi tên là Vũ Hồng, Thành uỷ viên Thường trực Thành uỷ, kiêm Chánh Văn phòng Thành uỷ. Công việc của anh rất bận, nhất là ta vừa tiếp quản thành phố được hơn ba tháng, nhưng anh sốt sắng chuẩn bị cho tôi cùng vợ chồng đồng chí Cao Hồng Lãnh ra thăm ngay Côn Đảo bằng máy bay trực thăng MI 6.

Đi từ sân bay Tân Sơn Nhất ra Côn Đảo chỉ hết 45 phút. Hơn nửa tiếng lúc này bỗng dài dặc biết mấy. Bởi tôi nao nức mong sao thật chóng đến giấy phút gặp lại Côn Đảo, nơi địa ngục trần gian mang tên “Pénitencier de Poulo-condore”.

Khi máy bay hạ cánh, một xe Jeep ra đón, đưa thẳng tôi và anh chị Hồng Lãnh đến thăm các trại giam, thăm nhà lao số III và nhà xác Côn Đảo. Lao III lúc đó đang nhốt sĩ quan nguỵ, nên chúng tôi chỉ đứng ngoài ngó xem thôi. Côn Đảo từ lâu đã không chỉ có bốn nhà tù như thời tôi ở đó, giờ cả thảy 9 nhà tù lớn với nhiều nhà tù phụ. Thời tôi, lúc tù đông nhất là 2.300 người, sau này thời Mỹ nguỵ các đồng chí hướng dẫn cho biết có lúc lên đến 2 vạn người. Thật kinh khủng. Đi thăm 4 tiếng liền rồi chúng tôi phải rời Côn Đảo về lúc 15 giờ vì sợ máy bay gặp mưa to gió lớn sắp ập đến không bay được. Đành bịn rịn chia tay Côn Đảo!

Khi chưa được thăm Côn Đảo, chỉ mới tới sân bay Tân Sơn Nhất, tôi hào hứng, phấn khởi bao nhiều, giờ trên đường về lại buồn bấy nhiêu. Đàn ông ít khi khóc, vậy mà suốt 45 phút ngồi trên máy bay nhìn xuống biển cả, tôi miên man suy nghĩ tới từng đồng chí trong số 81 anh em hi sinh trong cuộc vượt ngục ngày 12-12-1952...càng nghĩ càng không cầm được nước mắt chứa chan. Anh chị Hồng Lãnh thắc mắc hỏi han khi thấy tôi cứ khóc. Nhưng có lời nào có thể giãi bày cho anh chị Lãnh hiểu được lòng thương cảm của tôi đối với anh em hi sinh trong chuyến vượt đảo kinh hoàng ngày ấy?

Tối hôm đó Thành uỷ Sài Gòn chiêu đãi chúng tôi bữa cơm thân mật. Anh chị Lãnh bảo tôi tường thuật câu chuyện vượt đảo, Nghe xong anh chị Cao Hồng Lãnh cũng ngậm ngùi tiếc cho cuộc vượt đảo không thành. Anh nói: “Các đồng chí dũng cảm mưu trí hơn chúng tôi thời kì 1930-1945”. Tôi nói: “Thưa anh, chúng tôi là tù binh, có điều kiện hơn các anh thời trước. Các anh đều là cán bộ chính trị. Còn mưu trí, dũng cảm thì cũng thế cả...” Anh cười vui và nói: “Hậu sinh khả uý”... Thế mà sau này một số người xấu vu khống tôi, họ đặt điều: “Sau ngày giải phóng miền Nam, tôi vội vàng vào miền Nam và ra Côn Đảo để sắp xếp che giấu...?”. Từ ngày ra thăm Côn Đảo về, tôi hết nằm mơ vượt Côn Đảo, nằm mơ về tù ở Côn Đảo. Những giấc mơ như thế rất mệt đối với tim và bàng hoàng khi tỉnh dậy hàng giờ! Trong dịp đi thăm miền Nam sau giải phóng, tôi đã kiến nghị với Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Chính phủ 3 việc mà tôi rút ra từ thực tế tiếp quản miền Nam và kinh nghiệm tiếp quản Hải Phòng.

1. Tập trung thu thập chiến lợi phẩm, các kho tàng quân sự, dân dụng, các phương tiện trang bị mà các công sở không dùng hết, đặc biệt các loại hàng tiêu dùng, kể cả ô tô dân dụng, thiết bị xây dựng... đem bán theo giá thị trường, chuyển ra thành vàng hoặc đô la Mỹ gửi vào ngân hàng. Tôi thấy hàng nghìn xe con bỏ khắp sân bay Tân Sơn Nhất, kho quân sự Long Thành.v.v. Ngay khách sạn Oscar, nơi tôi và đồng chí Tích trưởng phòng nghiệp vụ Sở thương nghiệp được Bộ Nội thương bố trí cho ở, chỉ trong 2 tuần, người quản lí khách sạn đến tháo vật dụng mang đi 2 lần. Lần đầu tháo điều hoà nhiệt độ, lần thứ hai tháo đi một quạt trần. Hai chúng tôi ở chung một phòng chỉ còn một quạt trần. Không rõ người quản lí tháo điều hoà và quạt đem đi đâu?

2. Tiền và hàng hoá một số nước viện trợ khẩn cấp cho Việt Nam, (như Thái Lan lúc đó viện trợ khẩn cấp cho Việt Nam 2 vạn tấn gạo.v.v.) đều nên bán theo giá thị trường, rồi chuyển thành vàng, đô la Mỹ gửi vào ngân hàng. Tất cả các khoản tiền trên, đợi sau khi qui hoạch, đem ra xây dựng lại đất nước. Không nên vội vàng đem chia, hoặc “gạt” cho mỗi tỉnh một ít, mỗi ngành sử dụng một ít, để sửa chữa xây dựng như lúc đó đang làm.

3. Tập trung cán bộ kĩ thuật thiết kế, xây dựng con đường xuyên Việt, tập trung vốn vào xây dựng để thể hiện ý chí thống nhất đất nước. Mặt khác, về kinh tế, văn hoá xã hội, con đường sẽ tạo ra nhiều thuận lợi cho cả nước, nhất là những tỉnh liên quan đến đường xuyên Việt. Con đường này sẽ có các con đường “răng lược” hoặc “xương cá” chạy rẽ sang 2 bên đến các tỉnh biên giới Campuchia, Lào, Trung Quốc. Tỉnh nào cũng có đường bộ đi đến biển và đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long.

Tháng 6-1976 tôi tham gia Ban Thường vụ Thành uỷ và được phân công làm Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố phụ trách thương nghiệp - tài chính ngân hàng - giá cả - khoa học kĩ thuật. Đến khi vấn đề “nạn kiều” xảy ra, tôi được phân công phụ trách huyện Cát Hải, xây dựng lại hệ thống phòng thủ đảo Cát Bà. Bởi khi chống chiến tranh phá hoại của Mỹ các công sự, hầm ngầm trong núi, cảng Gia Luận... đều do Trung Quốc giúp xây dựng.

Từ lần đưa Đoàn ra Cát Bà, chỉ đạo sơ tán nhân dân, cơ quan, kho tàng ở thị trấn, chống chiến tranh hủy diệt và phong toả Cảng của đế quốc Mỹ, trong suy nghĩ của tôi đã hình thành ý tưởng đề xuất xây dựng một con đường bộ từ Hải Phòng ra Cát Bà. Nay có điều kiện, tôi đề xuất phương án “xây dựng đường xuyên đảo”. Ban Thường vụ Thành uỷ bàn. Bàn đi bàn lại mãi, mấy kì họp không thành, vì lí do không có tiền và có ý kiến cho rằng Hải Phòng đi thẳng ra Cát Bà sao được? Biển to, sông rộng, đi thế nào? Có đồng chí bảo tôi: viển vông, duy ý chí, đại ngôn (nói khoác).

Đến tháng 8-1978, các đồng chí Thường vụ nể tôi quá đồng ý một phần kế hoạch, còn tôi cũng thoả hiệp với các đồng chí chỉ cần có quyết định về chủ trương, để có kinh phí xây dựng phần trên đảo, còn các đoạn khác tính sau. Đa số ý kiến Thường vụ Thành uỷ về con đường bộ phải qua bến Bính, qua Phà Rừng, sang Quảng Yên, qua phà sông Chanh, sang nông trường Hoà Bình thuộc khu Hà Nam phong Cốc thuộc tỉnh Quảng Yên cũ, qua phà Cái Tráp đến Cát Hải, qua phà bên Gót sang Cát Bà. Tất cả phải qua 5 phà và qua đất của Quảng Ninh hơn 20km. Khi thông qua đề án tôi rất buồn nhưng phải chấp nhận vì thiểu số. Dù sao thế cũng đạt được 50%, tức là phần trên đảo Cát Bà, Cát Hải sẽ làm trước, còn lại tính sau...

Chiến tranh biên giới nổ ra. Nhân dân thị trấn Cát Bà chủ yếu là bà con Hoa kiều, đã bỏ về Trung Quốc hơn 7.000 người, còn lại hơn 10 người là đảng viên, cán bộ người Việt gốc Hoa. Dân số Cát bà lúc đó chỉ còn khoảng hơn 6.000 người, chủ yếu ở các xã làm nông, lâm nghiệp. Nghề đánh cá “vó đèn” hầu hết của bà con người Việt gốc Hoa, nay bỏ về Trung Quốc hết. Bởi vậy nghề đánh cá “vó đèn” từ đây cũng kết thúc vai trò lịch sử của nó. Lúc đó thành phố phải huy động nhân dân các xã huyện An Thuỵ, Tiên Lãng ra Cát Bà canh tác, đánh cá. Một số bà con tuy cũng có nghề cá, nhưng ra Gia Minh, Bến Gót, không quen với nghề cá biển nên bỏ về, trừ nông dân xã Trường Sơn huyện An Thuỵ còn ở lại Khe Sâu để cày cấy, trồng trọt, cung cấp rau quả cho thị trấn. Tôi ở lại đảo 6 tháng liền, chỉ về Hải Phòng một vài lần trong những ngày nghỉ, kể cả Tết âm lịch 1978-1979, tôi cũng ăn Tết với nhân dân ở đảo. Nhà tôi ở nhà một mình, vì 2 cháu đi bộ đội, 2 cháu đi học xa. Đêm ba mươi rạng mồng một Tết, chị Huyền, Giám đốc Công ti vật tư, phu nhân của tướng Đặng Kinh đến đón giao thừa với nhà tôi cho đỡ buồn? Tết năm đó đón Xuân ở Cát Bà, người không đông như mọi năm, nhưng tôi cùng với cấp uỷ, cơ quan địa phương vận động tổ chức Tết cho nhân dân rất chu đáo. Pháo nổ suốt đêm, làm tan đi cái không khí vắng vẻ của một thị trấn vốn có gần một vạn người, nay chỉ còn hơn nghìn người. Nông dân các xã cũng ra thị trấn vui Tết, cùng với lực lượng vũ trang Trung đoàn 174 góp phần làm cho không khí thị trấn “Tưng bừng khói lửa”.

Tôi cùng đồng chí Quốc Hiệu, Bí thư huyện uỷ, đồng chí Thơm, Chủ tịch Cát Hải, đồng Trần Khoát, Chính uỷ, đồng chí Thông, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 174 và cán bộ chủ chốt trên Đảo, đi khảo sát kiểm tra toàn bộ các hệ thống phòng thủ để tổ chức bố phòng lại, bảo đảm nếu có chiến sự xảy ra sẽ không bị động.

Tôi có 3 cán bộ cùng đi ra công tác ở Đảo là đồng chí Ngấn, Phó Giám đốc Tài chính, đồng chí Tô Xuân Hồ, sau này là Chánh Thanh tra Thành phố, cùng đồng chí Chính bảo vệ. Đoàn chúng tôi được trang bị 2 tiểu liên K54, 2 súng lục.

Đi lại khắp trên đảo, mòn hết hai đôi giày bộ đội Liên Xô viện trợ, mà lúc đó thường gọi là “giầy Kôt-xư-ghin” (tên Thủ tướng Liên Xô lúc đó). Chân tôi bị hỏng mất móng chân trái, do đi liên tục, không để ý, khi tháo giày ra thì móng chân đã đen và rụng luôn. Đến nay nghĩ đến vết thương móng chân bị hỏng tôi lại nghĩ đến đường xuyên đảo... Để chuẩn bị cho việc thi công tuyến đường trên đảo, Sở Giao thông vận lải cử đồng chí Luận, Trưởng phòng, ra làm Phó Chủ tịch UBND huyện phụ trách giao thông, cùng với đồng chí Phòng phụ trách kinh tế, tham gia ban chỉ huy công trường xây dựng tuyến đường trên đảo.

Tôi đề nghị UBND thành phố chuyển ngay cho một máy xúc, 2 xe tải, dùng phà chuyển ra bến Bèo để cùng lực lượng thủ công thi công xẻ núi, san đường chạy quanh thị trấn. Khi xe xúc, xe tô tải ra đến thị trấn, nhân dân trong các xã kéo ra xem mấy ngày liền. Đầu tiên có xe chạy trên đảo, nó như dấu hiệu một ước mơ dần dần được thực hiện. Trong khi thi công xẻ núi, làm đường ở thị trấn, tôi cùng các đồng chí lãnh đạo Huyện đi khảo sát con đường từ Đèo Khế vào xã Trân Châu, Xuân Đám... Đây là con đường mòn, đi lại mang hàng hoá, đồ dùng, phải “thồ” trên vai. Đi bộ cũng rất khó khăn. Đồng chí Ngấn đã có lần trượt chân rơi “tõm” xuống biển, may vớt kịp, không việc gì, chỉ quần áo ướt sũng. Đồng chí giơ tay bắt tay tôi: “May quá! Không bị va đầu vào đá”. Các cụ trong 2 xã Trân Châu, Xuân Đám, kháo nhau: lần này ông Thành làm được con đường vào xã dân sẽ làm “đền thờ”. Có người lại nói: “Ông Thành làm được con đường này thì chó nó cũng đi được guốc!.”. Khi làm xong đoạn đường này, tôi đi xe com-măng-ca vào thông đường và thăm nhân dân 2 xã. Nhân dân reo mừng sung sướng. Tôi nói đùa: “Có ai đem chó đi guốc ra đón tôi không?” Mọi người cùng cười hả hê thoải mái.

Đến nay thì con đường này đã trở thành đường “cao tốc” của Đảo, đi suốt từ bến phà Cái Viềng qua đoạn đường này để vào thị trấn Cát Bà, điểm du lịch của Hải Phòng và cả nước. Đến tháng 8-1979 tôi được bầu làm Chủ tịch UBDN Thành phố. Tôi vẫn tiếp tục xây dựng huyện đảo. Tôi đề nghị Ban Thường vụ ra quyết định bổ sung xây đường xuyên đảo đi trên đất Hải Phòng, không qua đất Quảng Ninh, đào kênh Cái Tráp, không phải qua sông Ruột lợn và sông Chanh, rút ngắn hơn 20 km. Như vậy đường bộ, đường thủy ra Cát Bà đều đi trên đất Hải Phòng, rút ngắn tuyến vận chuyển than từ Hòn Gai về cảng Hải Phòng, các tỉnh thành phố khác cũng rút được phí vận chuyển, không phải qua sông Chanh và sông Ruột Lợn.

Để thực hiện được chủ trương xây dựng Đảo, tôi xin với Quân khu III cho đồng chí Trần Khoát về làm Bí thư huyện uỷ, kết hợp với kinh tế quốc phòng. Đồng chí Trần Khoát rất tích cực thực hiện chủ trương của Thành uỷ và UBND thành phố và sau này là đồng chí Nhật.

Dưới sự lãnh đạo của Thành uỷ và UBND thành phố qua các thời kì, dần dần Cát Bà trở thành như hôm nay, xứng đáng là khu du lịch của cả nước, Trung tâm đánh cá của vịnh Bắc Bộ. Đó cũng là ước mơ bao đời nay của nhân dân trên 2 đảo Cát Hải - Cát Bà (tên cũ là Các Bà), niềm tự hào của nhân dân thành phố Cảng “Trung Dũng quyết thắng”.

(còn tiếp)
“… Mình càng làm tốt bao nhiêu thì sẽ càng phát sinh đố kị kèn cựa bấy nhiêu! Đó cũng là lẽ thường tình dễ hiểu. Người “quân tử” biết tiến biết thoái, không nên dấn sâu vào con đường “danh vọng”. Nguyễn Trải đã về nghỉ, lại nể vua ra giúp đời, nên bị chết oan. Ở đời khó lắm! …”
Chương 6
Thời kì đổi mới ở Hải Phòng
Sau 29 năm, từ tháng 6-1950, tôi sang làm Bí thư quận uỷ Ngô Quyền.

Hai mươi chín năm, hơn một phần tư thế kỉ đối với một đời người là dài. Trải biết bao thăng trầm, tôi luôn rèn luyện đạo đức, đặc biệt là học tập, làm thế nào để khi mình làm cán bộ lãnh đạo, cấp dưới không phải phàn nàn: “làm đầy tớ thằng khôn, hơn làm thầy thằng dại”. Làm đầy tớ thằng dại, thì còn khổ biết bao nhiêu!

Tháng 8-1979 tôi được bầu làm Chủ tịch UBND Thành phố. Lúc này tôi đã học xong đại học quản lí kinh tế, học xong bằng C tiếng Anh, và học thêm 2 năm chương trình đại học Anh văn. Về lí luận chính trị, kinh tế tôi đã học tập nghiên cứu và đọc kĩ các tác phẩm kinh điển của các bậc hiền triết thời phong kiến, thời tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là các học thuyết về Chủ nghĩa cộng sản, Chủ nghĩa xã hội và cả học thuyết của các nhà triết học trước Marx... cộng thêm những vốn liếng có được qua 35 năm tham gia cách mạng. Tôi đinh ninh trong dạ khi có điều kiện sẽ thực hiện những kiến thức đã học và kinh nghiệm đã trải qua.

Hoàn cảnh kinh tế, chính trị nước ta nói chung và Hải Phòng nói riêng lúc đó gặp nhiều khó khăn. Về chính trị, cuộc chiến tranh biên giới Việt Trung và Tây Nam Nam Bộ đang lên đỉnh điểm. Kinh tế bước vào thời kì khủng hoảng, viện trợ từ bên ngoài cắt giảm nhiều, trật tự xã hội trong thành phố hết sức rối ren. Trong thời bình mà riêng phường Vạn Mỹ (Cầu Tre) có 53 lối đi trong phường, phải rào bớt 36 lối còn lại 17 lối để dễ kiểm tra người qua lại. Ban đêm ở thành phố cũng như ngoại thành phải dùng 3 công cụ, lúc đó gọi là: cái gậy an ninh, cái đèn an ninh, cái kẻng an ninh. Người đi đêm là người ngay thẳng phải mang 1 trong 3 công cụ trên để phòng thân, gặp công an, bảo vệ đi tuần tra sẽ cho đi ngay, chẳng khác gì thời loạn lạc.

Cảng Hải Phòng phải quân sự hoá, tất cả bộ đội vào làm bốc vác. Đại tá Võ An Đông, Tư lệnh F350, chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Hải Phòng được cử làm Giám đốc cảng. Còn thành phố, một số cán bộ cao cấp ở Trung ương cũng đề nghị xem xét có nên quân sự hoá thành phố không (gọi là quân quản như thời kì mới vào tiếp quản), hoặc phải giới nghiêm từ 10 giờ tối đến 5 giờ sáng.

Trong lúc đó mọi việc tôi bàn với đồng chí Bí thư Bùi Quang Tạo, nguyên Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Phó ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương, mới được cử về làm Bí thư Thành uỷ. Đồng chí mới về, nên cần nắm tình hình thành phố, mọi việc điều khiển đồng chí Tạo phân cho tôi cứ làm bình thường.

Cảng Hải Phòng khi chưa có vấn đề “Nạn kiều” (Trung Quốc kêu gọi người Việt gốc Hoa về nước), công nhân bốc xếp ở cảng chủ yếu là người Việt gốc Hoa, rất quen với bốc vác hàng có trọng lượng 100 kg/kiện. Thế mà lúc đó cứ 3 tháng, có khi 1, 2 tháng, đồng chí Đỗ Mười, Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (Phó Thủ tướng) lại phải xuống cảng để giải toả cảng. Hàng bốc ra để rải rác khắp đường phố, nhất là khu bãi cổng cảng và vườn hoa Bon-nan. Lãng phí và ăn cắp rất ghê gớm. Chuyển hàng ra khỏi cảng còn để ở ngoài trời, trong cảng hàng hoá đã đến tiếp. Không bốc dỡ kịp, tàu nước ngoài có khi đậu tại cảng chờ giải phóng hàng tháng. Họ kêu ca, ta phải nộp phạt cho một ngày tàu chậm bốc xếp khoảng 13 kg vàng/ngày tùy theo tàu to nhỏ, hết sức lãng phí.

Trong những lần giải toả cảng, Chính phủ cử các bộ trưởng, thứ trưởng, cán bộ thuộc các bộ liên quan xuống theo. Một số tỉnh thành có liên quan đến vận tải hàng hoá như Hà Nội, Quảng Ninh cũng đến Hải Phòng họp hàng tuần... Thành phố bận rộn, lại phục vụ các cuộc họp giải toả. Họp giải toả nhiều quá cũng nhàm, ít tác dụng. Anh Mười rất vất vả về công tác giải toả hàng mấy năm liền...

Lúc đó ở Hải Phòng, mỗi đợt giải toả xong, đoàn xe Anh Mười rời Hải Phòng về Hà Nội, công nhân Cảng và nhân dân thành phố đùa tếu nói: “Ông Mười đã đi xa, mọi việc ở Cảng trở lại bình thường...”. Hàng hoá lại ùn tắc, bốc hàng lên không có chỗ để, tàu cứ điều vào, đỗ hết cầu tàu. Tàu vào sau phải đậu ở dọc sông Bạch Đằng, Cửa Nam Triệu ra đến phao số 0. Đêm đến đèn các tàu bật lên sáng như một thành phố trên biển.

Đến khi công nhân bốc xếp là người Việt gốc Hoa rút về Trung Quốc hết, còn lại toàn công nhân Việt Nam sức yếu, chưa quen việc, xảy ra đổ vỡ mất mát rất nhiều... Bởi vậy trên mới có sáng kiến quân sự hoá Cảng cho bộ đội vào bốc thay công nhân. Nhưng tình hình không được cải thiện. Sau gần 2 tháng quân sự hoá, thì xảy ra vụ cháy kho 5, thiệt hại rất lớn, vì đây là kho vải. Ai cũng biết vải lúc bao cấp nó quan trọng đối với mọi người như thế nào. Chính quyền thành phố phải chịu trách nhiệm hoàn toàn chuyện giải quyết hậu quả. Đã khó khăn lại thêm khó khăn. Vậy mà Trung ương cho Hải Phòng các loại vải bị cháy dở, hoặc đã bị vòi cứu hoả phun nước hoặc hoá chất vào, thì cả nước có câu ca dao:
Cả nước đau lòng
Hải Phòng phấn khởi (?)
Đấy là bề nổi. Mọi nơi nghĩ như vậy, còn chúng tôi thì cực khổ suốt hàng mấy tháng trời, xử lí bao nhiêu công việc do cháy kho 5 sinh ra. Đồng chí Cao Văn, Phó Chủ tịch Uỷ ban phải bận vào công việc này 6 tháng liền mới giải quyết xong hậu quả.

Nhưng cả nước không bị thiệt, vì kho của ta có mua bảo hiểm. Khi cơ quan bảo hiểm nước ngoài đến xác định thiệt hại để đền bù, số tiền đền bù vượt hơn thiệt hại chút ít.

Sau khi đã giải quyết xong hậu quả cháy kho 5, Ban Thường vụ Thành uỷ họp, kiến nghị với Trung ương thôi quân sự hoá Cảng và giao việc tổ chức bốc xếp cho địa phương phụ trách. Chính phủ đồng ý ngay. Khi có quyết định, anh Bùi Quang Tạo bàn với tôi tổ chức lại việc bốc xếp Cảng. Hàng ngày sáng nào cũng giao ban tại Văn phòng Thành uỷ, đồng chí Tạo và tôi cùng dự, anh Tạo rất say sưa với công việc này. Chúng tôi bàn nhau, đặt chỉ tiêu bảo đảm bốc một vạn tấn hàng/ngày. Chỉ sau hơn một tháng chúng tôi đạt mục tiêu đề ra, và những tháng sau từng bước tăng lên. Công nhân có thu nhập, trộm cắp giảm hẳn, tàu không phải chờ đợi, ta không bị nộp phạt. Mọi người hào hứng phấn khởi, và cũng kết thúc ách tắc trong khâu bốc dỡ.

Xong việc giải toả Cảng anh Tạo và Thành uỷ, UBND thành phố, Cảng đều vui mừng, sự quản lí Cảng đã sang trang, kết thúc giai đoạn lịch sử “giải toả”.

Trong quá trình thực hiện các chính sách quản lí kinh tế, kế hoạch tập trung, tôi có rất nhiều suy nghĩ về cách quản lí của ta. Làm thế nào để xây dựng được cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, cho dân giàu lên, không thiếu thốn như hiện nay? Làm thế nào cho “dân giàu, nước mạnh”, nghe khẩu hiệu này khi tôi mới nói ra, đã có người phản đối. Thực lòng ai cũng muốn khá giả, nhưng nói chữ “giàu” hình như ai cũng coi là mất lập trường, rất kiêng kị. Có đồng chí cán bộ cao cấp còn uốn nắn lại thành: “Nước giàu, dân mạnh”. Tôi buồn cười, nhưng không dám cười, chỉ lắng nghe.

Có lần xuống xã, một đồng chí bí thư xã mời tôi về nhà chơi. Vừa vào đến sân đồng chí ấy nói: “Tôi rất tự hào báo cáo với đồng chí Bí thư Thành uỷ: Trên 30 năm tham gia cách mạng, đến nay tôi cũng chỉ có một gian nhà tranh, vách đất, và cái giường 3 xà...”. Tôi hiểu ý đồng chí muốn nói mình liêm khiết. Tôi buột miệng: “Tôi tưởng đồng chí khoe với tôi là cả xã đồng chí đều có nhà xây, có tiện nghi... và đồng chí cũng như vậy thì mới đáng lự hào. Chứ hoà bình bao nhiêu năm rồi mà vẫn nghèo như thế này là chúng ta dốt, ai còn theo chúng ta, nói gì đến xây dựng Chủ nghĩa xã hội...”.

Tôi chậm được ra nước ngoài. Tháng 9-1974 lần đầu tôi thăm Quảng Châu và Hải Nam Trung Quốc. Tháng 8-1978 sang Nhật bản, tháng 10-1980 sang Liên Xô. Ba cuộc đi ra nước ngoài giúp tôi có sự so sánh và cách nhìn vấn đề khá lí thú.

Tôi sang Trung Quốc thời kì đang cách mạng văn hoá rất mạnh ở Trung ương. Nhưng ở Quảng Đông, đồng chí Triệu Tử Dương, Bí thư Tỉnh uỷ thì làm khác, chỉ tập trung làm kinh tế, còn cách mạng văn hoá làm qua loa... Tôi xem nông dân Trung Quốc đào giếng trên các đồi ở Hải Nam để dự trữ nước tưới cho lúa. Lúa Hải Nam rất tốt do không làm theo các Công xã Trung ương. Đoàn chúng tôi được tiếp đón rất trọng thị...

Rồi tôi thăm Thành phố Yokohama của Nhật do Thị trưởng Thành phố Asô-ka-ta mời. Sau một tuần tham quan nghiên cứu tôi thấy phong cách làm ăn của Nhật thiết thực, lời nói đi đôi với việc làm. Những nơi tôi được tiếp mục sở thị đều đẹp hoặc bằng trên ti-vi giới thiệu. Tinh thần khắc phục sau động đất của Thành phố Yokohama thật xúc động, đáng cảm phục. Tất cả đều hằn sâu trong kí ức tôi.

Năm 1980 tôi đi hội thảo khai thác vùng Si-bi-ri Liên Xô, ở Kha-ba-rốp, thủ phủ Si-bi-ri, do đồng chí Trần Phương, Bộ trưởng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch làm trưởng đoàn. Đoàn viên có đồng chí Phan Văn Khải, lúc đó là Phó Chủ tịch UBND thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí Nguyễn Văn Hiệp, Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội và tôi là Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng, cùng một số Thứ trưởng và chuyên viên cấp vụ của một số ngành Trung ương. Máy bay đưa thẳng đoàn từ Hà Nội đến Kha-ba-rốp, hết gần 7 giờ. Qua eo biển Nhật Bản, được 2 máy bay khu trục của Nhật Bản lên “nghênh tiếp”, hai bên cánh đeo 2 quả tên lửa sơn vàng chói.

Lần đầu tiên được sang Liên Xô, tôi nghiên cứu khá tỉ mỉ. Đặc biệt ở Kha-ba-rốp, tôi xuống các hộ nông dân tập thể, có gia đình chỉ còn các cụ già ở nhà, con cái đi lao động ở nông trường. Tôi hỏi thăm cuộc sống của các cụ hàng ngày, được biết các cụ chỉ ăn bánh mì với bơ, khoai tây. Riêng nho rất nhiều. Nhà ở xếp gỗ thành tường, mái lợp da thú như những cái lều, cái hầm... Chúng tôi trao đổi riêng với nhau: Nhân dân Liên Xô thế này mà giúp đỡ Việt Nam mỗi năm hàng tỉ rúp vàng, tương đương một tỉ đô la Mỹ, điều đó thật đáng suy nghĩ. Còn hội thảo chẳng đi đến kết quả rõ rệt. Các đồng chí Bộ Ngoại thương Liên Xô phát biểu rất bảo thủ, không những thế còn tỏ thái độ uốn nắn Việt Nam... Sau cuộc hội thảo, tôi có rất nhiều băn khoăn về kinh tế Liên Xô lúc đó...

Với tất cả những gì hiểu biết về chủ nghĩa xã hội, về kinh tế, tôi suy nghĩ xây dựng một chiến lược phát triển kinh tế và xã hội cho thành phố Hải Phòng mà tôi đã ấp ủ từ lâu. Nhưng tôi tự nhủ phải thận trọng, nhất là đối với Bí thư Bùi Quang Tạo, một uỷ viên Trung ương từ khoá II, hơn tôi 16 tuổi. Anh cũng bị tù trước 1945. Trong một thời gian rất ngắn làm việc, anh em tỏ ra “ý hợp tâm đồng” rất dễ làm việc. Công việc tôi đề xuất anh Tạo ủng hộ rất nhanh. Còn ý kiến anh nêu ra tôi chấp hành nghiêm chỉnh, nếu có cái gì cần bàn thêm anh cũng nghe theo ý tôi.

Vấn đề đầu tiên là an ninh trật tự, ổn định đời sống nhân dân. Còn các vấn đề kinh tế xã hội, văn hoá, giáo dục. tôi đã hình thành trong các bản dự thảo, tùy theo tình hình, thời cơ sẽ đưa ra Ban Thường vụ hoặc Thành uỷ bàn. Những vấn đề này trong các buổi giao ban hàng tuần giữa Bí thư và Chủ tịch Thành phố vào chiều thứ 7, sau khi kết thúc những việc chính, tôi đưa vào câu chuyện ngoài, nói với Bí thư để từng bước tạo sự nhất trí giữa 2 cán bộ chủ chốt của Thành phố, về con đường đi lên CNXH.

Trong 30 tháng làm bí thư Thành uỷ Hải Phòng, cứ đến chiều thứ 7 giao ban xong, anh Tạo về Hà Nội, vì gia đình anh ở Hà Nội cả, chỉ có một người phục vụ ăn uống là ở Hà Nội xuống, còn lái xe cũng do Hải Phòng cử. Dù giao ban xong sớm 5, 10 phút; tôi ra về để anh về Hà Nội, nhưng anh bảo tôi: “Chưa hết giờ..., ở lại bàn thêm”. Chúng tôi ở lại nói chuyện quốc sự mà hai anh em cùng quan tâm...

Việc đầu tiên tôi làm là xoá bỏ các rào dậu của một số phường, để các ngõ ngách thông thoáng cho dân đi lại bình thường, tăng cường lực lượng kiểm tra của bộ đội, công an, tự vệ về ban đêm, tổ chức phục kích một số bọn trộm cắp có tổ chức với lực lượng chiến sĩ ở các đồn công an Máy Chai, dọc sông Cấm. Ba công cụ “an ninh” thời chiến được xoá bỏ. Tôi trực tiếp vào trại giam xem xét 12 tên tù tử hình còn giam giữ nhiều năm ở trại giam mà không thực hiện án. Có tên đã trốn tù, mất bao công sức truy tìm mới bắt lại được. Qua đọc hồ sơ tội ác của bọn chúng, và trực tiếp gặp một số tên để cân nhắc, tôi bàn với anh Tạo đề nghị Chủ tịch nước (lúc đó là anh Trường Chinh) và Ban Bí thư giảm tội cho 6 tên xuống chung thân, còn 6 tên gian ác nhất cho thi hành án. Chủ tịch nước và Ban Bí thư đồng ý, giảm án cho 6 tên, còn 6 tên tàn ác nhất đã giết 2 người trở lên để cướp của... cho xử ngay trong một tháng.

Thành phố tổ chức thi hành án tên đầu tiên để rút kinh nghiệm. Anh em Sở Công an và cơ quan thi hành án đem phạm nhân đến Tràng Cát, xa thành phố khoảng 6 km, bắn vào lúc 5 giờ sáng, chỉ có vài chục người đến xem, tác dụng giáo dục rất ít... Tôi nhắc các đồng chí, những tên xử tiếp, phải đem đến Nhà hát nhân dân xử cho toàn thành phố xem. Gọi 600 tên tiền án, tiền sự ngồi chung quanh nơi hành án, còn nhân dân đứng vòng ngoài. Xử vào lúc 7 giờ sáng, thông báo cho nhân dân biết trước đến xem. Nhân dân kéo đến xem tới hàng vạn người, đứng cả đường ngoài sông, ngăn cách với Nhà hát nhân dân. Sau vụ xử có những tên “tiền án, tiền sự” đái cả ra quần, có tên sợ quá chết ngất đi. Quần chúng đi xem, hả hê, thấy pháp luật Nhà nước nghiêm minh. Khi công bố tội trạng tên tử tội, có người nói: “Tên này phải bắn đến 3 lần mới đúng” hoặc “phải xử bằng hình thức cho dân tùng xẻo chúng hoặc phải lăng trì theo kiểu cổ điển của phong kiến mới hả dạ”. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng không nên xử ở Nhà hát nhân dân, nên chọn một chỗ khác. Có người còn làm ca dao đả kích cho thêm sức mạnh thuyết phục:

“Biến nơi văn hoá thành nơi pháp trường...”

Nhưng tôi nói với Thành uỷ và cán bộ chủ chốt là trong tình hình đặc biệt, phải có biện pháp tốt để giáo dục rộng rãi nhân dân. Chế độ ta nhân đạo, bắn một người để cứu hàng vạn người. Người xưa có câu “Sát nhất nhân, thiên vạn nhân cụ”. Việc ngăn ngừa tội phạm phải được giáo dục, răn đe, ngắn ngừa từ gốc... Theo tôi lúc này, nếu Nhà hát lớn thành phố dựng được bức tường tránh đạn lạc, còn 3 tên tội phạm sẽ xử tiếp ở Nhà hát lớn mới có tác động tốt hơn cho cả thành phố và các tỉnh lân cận.

Nhưng thế cũng là đủ, còn 3 tên nữa cho xử tiếp ở Nhà hát nhân dân, giải thích cho người làm ca dao, thấy hết ý nghĩa việc làm của thành phố “quang minh, chính, đại” để họ đồng tình. Thành uỷ và UBND Thành phố hi vọng rằng từ nay về sau không còn phải xử đại hình ở nơi văn hoá này nữa. Quả là từ đó đến khi tôi rời khỏi Hải Phòng không còn án tử hình.

Tình hình trật tự trị an dần dần tốt lên, trộm cắp giảm hẳn. Nhưng vệ sinh đô thị chưa tốt, cuộc sống của dân, nhất là nông thôn, “tháng ba ngày tám” thành phố phải phân chia cán bộ xuống xã để chống đói cho nông dân... Lúa chín nông dân không chịu thu hoạch, thành phố phải huy động cán bộ công nhân viên chức đi gặt giúp. Lương thực cung cấp cho cán bộ công nhân viên chức Nhà nước và khu phi nông nghiệp rất khó khăn. Do đó, một mặt phải đi mua lương thực ở miền Nam, mặt khác tìm cách khuyến khích nông dân tăng vụ, trồng màu, rau khoai chống giáp vụ... biết bao công việc đặt ra cấp bách.

Tôi quyết định trước hết phải xuống với nông dân, đi vào thực chất xem tại sao trên đồng ruộng vựa thóc, một năm hai vụ chiêm mùa, xen một vụ mầu mà cứ đói triền miên. Những năm trước, tôi xuống theo dõi nông nghiệp cũng rất sâu, chứ không phải “cưỡi ngựa xem hoa”. Tôi nghĩ do quản lí, nếu có cày bừa máy vào làm, có giống mới... chắc năng suất có thể lên cao. Nhưng cày bừa máy, khoa học kĩ thuật, giống mới, phân bón, thuốc trừ sâu...tất cả hợp lực hỗ trợ mà năng suất vẫn tụt. Có nơi ngày công 300gam/ngày. Quê tôi đồng đất Hải Dương “ruộng tốt, cau sai”, không chua mặn, cũng vậy.

Tháng 9-1977, cụ thân sinh ra tôi mất. Tôi đưa cụ ra cánh đồng loại nhất đẳng điền, lúa sắp chín mà trông như cỏ may. Khi tôi còn nhỏ, loại ruộng này, nhà tôi cày cấy bình thường cũng được 100 kg/sào. Nay chưa chắc được 40kg/sào. Tôi hỏi các bậc lão nông tri điền họ cũng nói như vậy. Tôi nghĩ tất cả do khâu quản lí, khi nào có điều kiện tôi sẽ đề xuất thay đổi cách quản lí mới xem sao.

Tôi đi kiểm tra tất cả các huyện ngoại thành, từ những hợp tác xã làm ăn giỏi như Phục Lễ huyện Thủy Nguyên, Cổ Am huyện Vĩnh Bảo. Có cán bộ được nhân dân tín nhiệm như đồng chí Công, Bí thư Đảng uỷ xã Phục Lễ, có năng lực, có uy tín. Đánh một hồi trống họp Đảng bộ là 100% đảng viên đến họp. Họp hợp tác xã cũng vậy, xã viên đến đủ 100% trừ người ốm đau nặng. Thế mà năng suất cũng thất thường, ngày công cũng không khá, chỉ được trên 1 kg/ngày. Xem ra xã viên làm nhanh cho xong công việc hợp tác xã, còn công sức tập trung vào ruộng 5% và đi bắt tôm cá ngoài sông, biển, hoặc đi buôn bán lặt vặt. Kinh tế hợp tác xã chỉ cung cấp khoảng 20% cho cuộc sống của gia đình họ, bởi vậy họ phải bươn chải bên ngoài là chính.

Một hôm tôi xuống xã Hoà Nghĩa thuộc huyện An Thuỵ, xã lớn gần 600 ha, giáp với con đường 14 ra Đồ Sơn (nay là đường 353). Tôi vào thăm một số gia đình, thấy nhà nào cũng đói. Tôi đến một gia đình có 3 cháu đang đói, nằm ở trên giường. Tôi hỏi: “Bố mẹ cháu đi đâu?”. Các cháu trả lời: “Bố mẹ chúng cháu ra bãi biển bắt tôm, cá về bán đong gạo”... Đồng chí Bí thư, Chủ tịch, Chủ nhiệm hợp tác xã, cùng đi với tôi cho biết: “Xã có đất canh tác 500 ha, nhưng năm nào cũng không cày cấy hết, bỏ hoang cho cỏ năn mọc trên dưới 100 ha. Nông dân không cấy vì thu nhập thấp, lúa chín cũng không chịu đi thu hoạch, bỏ ruộng ra bãi biển kiếm sống. Tôi hỏi: “Các cháu bị đói là tại ai?”. Đồng chí thì trả lời do nhà thiếu lao động, bố mẹ không chịu lao động cày cấy. Đồng chí Bí thư tự nhận là tại xã quản lí kém v.v.. Tôi nói: “Là tại tôi, tại Chủ tịch thành phố...”. Các đồng chí nhìn tôi tỏ vẻ sợ! “Tôi nói thật đấy. Tôi sẽ cho lái xe về ngay nhà lấy mấy cân gạo cho các cháu, nấu cho các cháu ăn kẻo bị đói lả”. Các đồng chí vội ngăn lại, bảo xã có gạo. Rồi đồng chí chủ nhiệm hợp tác xã vội về xuất kho lấy gạo nấu cơm cho các cháu. Mấy hôm tiện đường, tôi rẽ vào xã Hoà Nghĩa thì được biết thóc quỹ hợp tác xã còn, các đồng chí xuất cho những gia đình khó khăn vay. Thành phố hỗ trợ một ít, qua vụ đói. Các xã khác ngoại thành cũng làm tương tự, nhất là huyện Tiên Lãng và huyện An Lão, huyện thuần nông rất nghèo, gặp rất nhiều khó khăn trong đời sống.

Từ những vấn đề thực tế của nông dân, với cương vị Chủ tịch UBND thành phố, tôi đề xuất thay đổi cách quản lí nông nghiệp. Tôi đem vấn đề bức xúc này bàn với anh Bùi Quang Tạo, anh tỏ ý đồng tình. Hai anh em trao đổi ngày này qua ngày khác, những buổi chiều thứ bảy hàng tuần, ngoài những việc phải giải quyết ngay, chúng tôi tập trung suy nghĩ và trao đổi vấn đề “khoán hộ”. Anh Tạo nói: “Khó nhất là anh Trường Chinh. Vụ khoán chui của anh Kim Ngọc tỉnh Vĩnh Phúc, lúc đó tôi ở Ban Tổ chức Trung ương thấy găng lắm!” Tôi đề nghị anh ở Hà Nội thăm dò xem liệu Vĩnh Phúc làm cách đây 15 năm rồi, nay có thể khác không. Tôi nói vui: “Vạn vật biến chuyển, con người tư duy cũng phải biến chuyển. Nhất là lúc này lương thực không đủ ăn, ruộng nông dân bỏ hoang, ta phải vay đô-la nhập lương thực, nhập phân bón bao nhiêu dân vẫn đói, cán bộ công nhân viên phi nông nghiệp chỉ ăn mì. Rõ ràng có ruộng cấy ra thóc, mà không có gạo ăn”. Anh Tạo suy nghĩ, tỏ ra rất buồn. Tôi tin tưởng anh Tạo đã đồng tình với tôi. Anh nói chúng ta sẽ liệu và anh bảo tôi: “Anh thân với anh Ba, anh thăm dò ý anh Ba xem. Còn tôi sẽ thăm dò những anh em thân quen anh Trường Chinh”. Chúng tôi đi đến thống nhất tạm thời cho khoán màu ở ngoại thành, lấy xã Hưng Đạo làm thí điểm... rồi từng bước ta mở rộng sau. Còn những nơi khoán chui ruộng như Tiên Lãng, ta lờ đi, nhắc báo Hải Phòng không phê bình Tiên Lãng quá đà trệch hướng, Huyện cho khoán màu, xã lợi dụng khoán cả lúa. Đồng chí Lựu Bí thư Huyện uỷ thấy báo Hải Phòng phê bình, lo quá, đồng chí thanh minh với tôi. Tôi bảo cứ yên lâm, đừng cấm nông dân. Chúng ta sẽ xin với trên cho làm thử khoán lúa tới người lao động và nhóm lao động...

Trong lúc lương thực thiếu, trên cung cấp không đủ, tôi và đồng chí Trịnh Thái Hưng, Phó Chủ tịch cùng một số cán bộ của Văn phòng UBND thành phố vào miền Nam chạy gạo, bằng cách đổi hàng công nghiệp. Chúng tôi đến tỉnh Cửu Long kết nghĩa, được tiếp đón trọng thị, nhưng khi bàn đến mua thóc đổi hàng công nghiệp thì rất khó khăn. Trong lúc đồng chí Sáu Ức, Chủ tịch UBND tỉnh đang bàn giao để đi làm chuyên gia bên Campuchia, giao cho đồng chí Tuấn, Phó Chủ tịch bàn với chúng tôi. Tôi và đồng chí Hưng bàn đi bàn lại với tỉnh kết nghĩa, có cả đồng chí Văn Hiến tỉnh uỷ viên nguyên là Thành uỷ Hải Phòng làm Giám đốc sở nông nghiệp Cửu Long, nhưng đồng chí Phó Chủ tịch chặt chẽ quá. Tôi nghĩ chắc tỉnh cũng có khó khăn về lương thực, nên tôi đề nghị thôi không mua lương thực của tỉnh Cửu Long nữa. Về sau các đồng chí nghĩ sao không rõ, đồng chí Tuấn lại bán cho Hải Phòng 1.000 tấn thóc. Tôi nói với đồng chí Văn Hiến rằng, chúng tôi thông cảm, anh không nên áy náy về vấn đề này.

Hôm sau Đoàn chúng tôi sang Hậu Giang, gặp đồng chí Chủ tịch Bảy Mạnh, đồng chí Đặng Toàn, Phó Chủ tịch, nguyên Chủ tịch thành phố Hải Phòng vào tăng cường cho Hậu giang. Chúng tôi chỉ bàn 2 tiếng đồng hồ, đồng chí Chủ tịch bán cho 2.000 tấn gạo bằng cách đổi hàng rất thuận lợi cho Hải Phòng.

Kết quả mua được 2.000 tấn gạo và 1.000 tấn thóc. Chúng tôi ra về bằng đường bộ. Trong dịp đi công tác này, tôi gặp một số tỉnh để vừa học tập, vừa thăm dò việc “khoán” nông nghiệp. Có đồng chí rất bỡ ngỡ vì việc quá mới, có đồng chí trả lời: “Chúng tôi phải tổ chức hợp tác xã xem sao đã. Chưa biết hợp tác xã ra sao, nói gì đến khoán”. Tỏ thái độ không đồng tình là Bến Tre và Thuận Hải, còn đa số trả lời chung chung: “Các anh cứ làm trước, nếu tốt chúng tôi sẽ làm”. Tôi chỉ dám trao đổi khéo léo, sơ sơ thôi, chứ không dám nói thẳng ra, vì vấn đề này vẫn là vấn đề “quốc cấm”.

Trên đường về, chúng tôi làm việc với Khánh Hoà, đêm ngủ tại Cam Ranh. Bộ Tư lệnh Hải quân mời đến xem tàu ngầm Liên Xô. Sáng hôm sau trên đường về qua thành phố Nha Trang một sự cố đau lòng xảy ra: đồng chí Nguyên Văn Sinh, chuyên viên Văn phòng Uỷ ban bị nhồi máu cơ tim chết ngay trên xe trong lúc đang đi cùng với đồng chí Trịnh Thái Hưng. Chúng tôi đưa ngay đồng chí Sinh đến Bệnh viện Nha Trang, nhờ bệnh viện khám lại tử thi để xác định nguyên nhân. Đồng chí Sinh bị đau tim đã lâu. Khi đi vào miền Nam đồng chí Sinh đi bằng máy bay, đồng chí có cháu là bộ đội Hải quân nên kết hợp đi thăm cháu. Trước khi ra Bắc bằng đường bộ, tôi đã bảo đồng chí Sinh xem lại sức khoẻ rồi hãy đi. Đồng chí Sinh nói với tôi: “Anh yên tâm, sức khoẻ tôi khá rồi”.

Tôi đến gặp đồng chí Hồ Ngọc Nhường, Chủ tịch UBND tỉnh Phú Khánh đề nghị giúp đỡ. Đồng chí Nhường giúp hết sức tận tình, chỉ thị cho bệnh viện làm mọi thủ tục, đóng cho một quan tài trong bằng kẽm, ngoài bằng gỗ, giải phẫu và làm vệ sinh tử thi đồng chí Sinh rất chu đáo. Chúng tôi nghỉ lại một đêm ở thành phố Nha Trang, một đêm biết bao buồn bã, không ai ngủ, chỉ mong sao chóng sáng để đưa đồng chí Sinh về Hải Phòng. Sáng sớm hôm sau, đồng chí Hồ Ngọc Nhường và Văn phòng UBND tỉnh Phú Khánh tiễn chúng tôi với sự cảm thông sâu sắc về chuyến công tác gặp nhiều trắc trở. Đoàn chúng tôi ra về với một xe tang bí mật (xe khách do Khánh Hoà chở giúp) trên chở quan tài đồng chí Sinh và một vài cán bộ ngồi phía trước. Còn xe tôi lúc đi trước, lúc lùi lại sau để bảo đảm thời gian và tốc độ đi vừa phải. Nó là cái xe Volga mầu mận tím trước của Giáo sư Tôn Thất Tùng (Giáo sư mua xe mới, chiếc xe cũ cho Hải Phòng). Đoàn xe đến Lăng Cô thì xe của tôi bị chết máy, đồng chí Chức lái xe chữa mãi không được. Tôi bàn với anh Hưng gọi điện cho anh Trần Hoàn, Uỷ viên Thường vụ Bình Trị Thiên, đề nghị cho xe đến đón, và kéo xe của tôi về Huế. Đồng chí Trần Hoàn lập tức mượn xe của đồng chí Vũ Thắng, Chủ tịch UBND tỉnh đến đón tôi, và cho xe kéo chiếc xe hỏng về Huế. Thật là:

“Phúc bật trùng lai,
Hoạ vô đơn chí!

Về đến Huế, đồng chí Vũ Thắng đã đón tôi tới khách sạn và mời cơm toàn đoàn. Chúng tôi giữ bí mật về chiếc xe khách chở hàng “đặc biệt” đi theo. Vì cả đêm chiếc xe đó phải đỗ ở sân khách sạn Sông Hương, ngại nói ra anh em khách sạn lại sợ, sinh “rách việc”, cứ lặng yên không ai nói gì cả.

Hôm sau chúng tôi cảm ơn, chào tạm biệt đồng chí Vũ Thắng, đồng chí Trần Hoàn, về Hải Phòng. Nhưng các đồng chí ở Huế cũng biết là chiếc xe khách trong chở quan tài, thấy chúng tôi không nói gì, các đồng chí “tế nhị” cũng không hỏi. (Sau này đồng chí Vũ Thắng và đồng chí Trần Hoàn có nói lại với tôi). Viết đến đây, tôi muốn một lần nữa cảm ơn ba anh: Hồ Ngọc Nhường, Vũ Thắng, Trần Hoàn. Nhưng ba anh đã qua đời! Rất buồn và nhớ các anh, những “chiến hữu” không bao giờ quên nhau. Nhất là anh Trần Hoàn, một con người năng động, sôi nổi, tình cảm... luôn coi Hải Phòng là quê hương thứ hai của mình.

Đến 15 giờ cùng ngày, đoàn xe chúng tôi về đến Hải Phòng. Gia đình đồng chí Sinh và Văn phòng Uỷ ban, Văn phòng Thành uỷ, các cơ quan, bạn bè thân thuộc đã đón đồng chí Sinh ở bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp. Vừa buồn vừa tủi, vừa mừng lẫn lộn. Những ngày qua chị Sinh và các cháu lo lắng không biết bác Thành, bác Hưng... có mang được bố các cháu về không? Hay phải mai táng tại Nha Trang? Hôm sau, đám tang đồng chí Sinh được cử hành long trọng. Thi thể đồng chí do Khánh Hoà làm vệ sinh và ướp lạnh tốt, nên hình dáng vẫn như người nằm ngủ. Cả gia đình đều gặp tôi cảm ơn. Tôi bảo đây là trách nhiệm, là tình cảm của đồng chí với nhau, chỉ khi không còn điều kiện mới phải bó tay.

Một thời gian đi công tác dài ngày ở các tỉnh phía Nam, tôi có thêm những suy nghĩ mới về đất nước. Trước đây so với 3 nước như: Nhật Bản, Trung Quốc, Liên Xô thì Việt Nam vẫn có ưu thế hơn. Thế mà sau hơn 5 năm thống nhất đất nước, dân vẫn cứ nghèo, thành phố Hồ Chí Minh mấy năm đầu thấy khá hơn các tỉnh phía Bắc nay xuống cấp quá nhanh, xe máy hết dần, chỉ còn xe cũ với loại Honda 50 là phổ biến, xe đạp xuất hiện nhiều. Từ ăn mặc, đến nhậu nhẹt giảm hẳn. Quần áo nâu sồng, dép lốp xuất hiện.

Các tỉnh miền Trung còn khó khăn hơn. Đến Phan Rang, nóng ơi là nóng! Đồng chí Thư kí thấy tôi mồ hôi nhễ nhại, mệt mỏi, tìm mãi trong cặp ra đưa cho tôi một gói sâm chè cao ly và một cốc nước, nói khẽ: “Anh vào góc kia uống”. Đồng chí hướng dẫn tôi xé bao chè sâm, dốc vào miệng, uống cho đỡ mệt. Đúng là lần đầu tiên tôi uống chè sâm, uống xong thấy dễ chịu thật. Tôi suy nghĩ làm sao để dân giàu lên, mình được uống chè sâm với dân thì sướng biết bao! Phải làm và làm cho được.

Về đến Hà Nội, buổi trưa nắng hè oi ả, lại thấy rặt xe đạp là xe đạp, với dép cao su. Nhiều người còn mặc quần áo vá. Tôi nghĩ bao giờ thì lên đến chủ nghĩa xã hội? “Phải quyết tâm làm cho nó đến...”

Là người Hải Phòng không ai không hiểu Hải Phòng là thành phố Cảng, thành phố công nghiệp, và đường lối chung phải ưu tiên phát triển công nghiệp. Nhưng giữa lúc ngành công nghiệp đang đứng trước những thách thức lớn, công nghệ lạc hậu, vốn không có, nguyên liệu nhập về không đủ, phải chia nhau từng tấn sắt thép, mà Uỷ ban kế hoạch Nhà nước cũng quên Hải Phòng là thành phố công nghiệp, nên những năm cuối thập kỉ 70, phân chia nguyên liệu sắt thép chỉ ngang Quảng Ninh và Thái Bình. Vậy Hải Phòng phải tìm hướng đi nào cho phù hợp và có hiệu quả nhất, không giáo điều, máy móc? Chúng tôi tạm thời vẫn duy trì những ngành công nghiệp khó khăn và phát triển những ngành công nghiệp có điều kiện, chờ thời. Khởi đầu bằng nông nghiệp lúc đó là thuận nhất, vì ngân sách trống rỗng, lương thực Nhà nước cấp có hạn. Đầu tư vào nông nghiệp là nhanh nhất. Sau 1 vụ khoảng 3, 4 tháng là có ăn. Thực tế phương hướng này rất đúng và đã giải quyết được nhiều khó khăn cho thành phố. Ấy thế mà lại có người cho Hải Phòng đi chệch hướng. Đến khi Hải Phòng được Trung ương đồng tình, ủng hộ và khuyến khích, thì họ lại tức tối, chống phá. Thế mới biết vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng đã là khó, nhưng vượt qua rào cản của những người thiển cận, bảo thủ còn phức tạp hơn nhiều.

Hiện lương thực cung cấp cho cán bộ công nhân viên thiếu quá, hết 10 ngày đầu tháng đã không có gạo bán. Trong khi tầu gạo đã đến Cảng. May gặp anh Đinh Đức Thiện, Bộ trưởng Giao thông vận tải kiêm Bộ trưởng Dầu khí (lúc đó là Bộ, sau này là Tổng cục Dầu khí), Thành uỷ và UBND đề nghị anh Thiện tạm xuất cho ít gạo để bán cho cán bộ, công nhân. Anh Thiện đồng ý xuất ngay cho Hải Phòng 2.000 tấn. Một tháng sau anh Thiện xuống Văn phòng Uỷ ban, vừa bước vào phòng làm việc của tôi, anh vừa nói: “Có thằng Bộ trưởng nào như tao không? Kiêm hai Bộ trưởng mà không cho lấy hai vợ. Có thằng Bộ trưởng nào như tao phải đến Chủ tịch thành phố hàng ngày? Chủ tịch bảo xuất gạo, phải xuất gạo ngay. Lập trường giai cấp ở chỗ đó đấy! Thế mà họp Chính phủ họ bảo tao xuất vô nguyên tắc, chưa nhập kho lương thực chưa có phiếu xuất kho đã xuất cứ xồn xồn như các bà hàng cá. Phê bình tao, tao bảo nếu để công nhân đói, họ lên kéo sụp “cổng nhà đỏ” này thì các anh không yên đâu. Để tôi làm Thủ tướng 15 phút, tôi sẽ giải quyết xong các vấn đề rắc rối, trì trệ của các anh. Tao nói xong, không họp nữa ra về, xuống thẳng Hải Phòng vào nói cho cậu biết...” Tôi chỉ còn biết cảm ơn anh đã gánh chịu những lời phê bình cho nhân dân Hải Phòng, chứ không dám bình luận gì thêm...

Anh Đinh Đức Thiện, con người thông minh, tính tình thẳng thắn, bộc trực. Khi làm Bộ trưởng Giao thông vận tải, mỗi khi xuống Hải Phòng, anh đến thăm tôi, kể rất nhiều chuyện trong nhà tù, trong kháng chiến chống Pháp, nhất là trong chiến tranh chống Mỹ. Khi anh phụ trách hậu cần, chuẩn bị chiến dịch Hồ Chí Minh, những sáng kiến táo bạo của anh trong việc tích trữ đạn pháo các loại, nhất là đạn pháo 130 ly. Anh nói: “Mình chuẩn bị đánh chúng sao cho ba đời chúng còn khiếp pháo của tao”. Anh hay đọc thơ cho tôi nghe. Thơ anh viết hay, có nhiều góc cạnh châm biếm rất vui, kể cả thơ châm biếm ông anh Lê Đức Thọ làm tổ chức...

Tôi rất quý anh và anh cũng mến tôi. Khi sinh thời, đã nghỉ hưu, anh cũng hay đến tôi chơi và bảo tôi lại nhà chơi. Nay thỉnh thoảng tôi cũng đến thắp hương cho anh, tưởng nhớ một con người hết lòng cho đất nước.

Tôi bàn tiếp với anh Tạo để ra nghị quyết về “khoán sản” trong nông nghiệp. Anh Tạo đưa ra Thành uỷ bàn nhiều kì họp. Vẫn còn 4 Thành uỷ viên không đồng ý. Anh Tạo trao đổi với tôi tiếp tục tranh thủ sự đồng tình của anh Trường Chinh. Tôi đã hỏi ý kiến anh Lê Duẩn, Tổng Bí thư, sau 3 giờ báo cáo. Anh Ba nghe rất kĩ và đồng tình ngay (tôi sẽ nói kĩ trong chương “Anh Ba với Hải Phòng”). Anh Phạm Văn Đồng coi như đã đồng ý rồi. Anh rất vui, chỉ hỏi anh Ba, anh Trường Chinh ý kiến thế nào? (Tôi sẽ nói kĩ trong chương “các đồng chí Bộ Chính trị lúc đó với Hải Phòng”).

Để từng bước xoay chuyển tình hình, tôi bàn với anh Tạo cho chia huyện An Thuỵ ra, huyện Kiến Thuỵ nhập với thị xã Đồ Sơn vừa có thị xã vừa có huyện, gọi là huyện Đồ Sơn. Huyện An Lão cũ nhập với thị xã Kiến An, gọi là huyện Kiến An. Trước mắt giải quyết mâu thuẫn triền miên của huyện An Thuỵ. Bước sau sẽ tách hai thị xã Kiến An và Đồ Sơn đưa lên thành Quận. Còn hai huyện Kiến Thuỵ, An Lão trở lại huyện cũ theo truyền thống. Thành uỷ và Uỷ ban thành phố mời đồng chí Vũ Trọng Kiên, Trưởng ban Tổ chức Chính phủ xuống Hải Phòng làm việc một ngày, đồng chí Vũ Trọng Kiên đồng ý trình Chính phủ phê duyệt.

Tháng 3-1980 hai huyện mới được thành lập. Đồng chí Vũ Ngọc Làn, Bí thư Huyện uỷ Kiến An, sẽ nhận chỉ đạo điểm nghị quyết khoán. Đồng chí Nguyễn Đình Nhiên, Bí thư Thị xã Đồ Sơn về làm Bí thư Huyện uỷ Đồ Sơn.

Tôi đã báo cáo anh Trường Chinh 2, 3 lần, anh tỏ vẻ không phản đối. Một lần anh Trường Chinh đi xem bắn tập tên lửa thật ở Hải Phòng, tôi đưa anh đi xem tại Đồ Sơn. Trưa ăn cơm chỉ có hai người, tôi lại đem vấn đề khoán ra xin ý kiến anh. Tôi cảm giác anh không vui, nhưng anh không nói vào khoán. Anh kể chuyện huyện Xuân Trường, quê anh với thái độ gay gắt, phê bình huyện này buông lỏng quản lí, để hợp tác xã khoán lung tung, không có kỉ cương gì... Tôi biết là anh phê bình tôi. Tôi chuyển sang báo cáo công việc khác, về làm kinh tế, về Cảng...

Anh Tạo kể lại hôm họp Quốc hội, (anh Tạo và tôi đều là đại biểu Quốc hội khoá VII) giờ nghỉ giải lao, anh Trường Chinh gọi anh Tạo ra ngoài phê phán rất gay gắt: “Anh định phá hết hợp tác xã nông nghiệp ở Hải Phòng và cả nước à?”. Anh Tạo bảo tôi: “gay lắm!” Nhưng tôi một mặt mời anh Trường Chinh về thăm Hải Phòng, lấy thực tế thuyết phục, mặt khác bảo đồng chí Nguyễn Đình Nhiên ra nghị quyết của Huyện uỷ về khoán, dựa vào nghị quyết dự thảo của Thành uỷ mà viết.

Anh Nhiên do dự, nhưng sau hai, ba ngày anh lên Hải Phòng gặp tôi, mời tôi về Huyện bàn việc ra nghị quyết. Tôi báo cáo anh Tạo việc này, anh Tạo tỏ ý không đồng tình và bảo: “Cậu Nhiên không ổn đâu. Hồi tôi làm Tổ chức Trung ương, tôi biết cậu này”. Tôi trình bày lại với anh Tạo. Việc khoán đã chín muồi lắm rồi, cứ cho một huyện ra nghị quyết trước, để lấy ý kiến từ cơ sở, thêm áp lực với trên. Anh Tạo nể tôi, bảo “Thôi tùy anh”. Tôi nói với anh Tạo nếu trên có hỏi, anh cứ bảo chủ tịch thành phố cho làm. Anh tỏ vẻ không vui, nói “Nếu có trách nhiệm là trách nhiệm chung”. Hôm sau anh Nhiên lên thành phố hỏi tôi: “Anh Tạo có đồng ý không?”. Tôi nói anh Tạo đồng ý rồi, nhưng có vấn đề đấy, cần làm thận trọng, đừng để xảy ra phức tạp.

Huyện Đồ sơn ra nghị quyết được 32 ngày thì Ban Thường vụ ra nghị quyết 24 nổi tiếng về “khoán” trong nông nghiệp, làm cơ sở cho chỉ thị 100 của ban Bí thư tháng 11981 về khoán sản phẩm trong nông nghiệp cho nhóm lao động và lao động xã viên và làm cơ sở cho nghị quyết khoán 10 tháng 4-1988 của Bộ Chính trị khoá VI về “khoán 10”.

Cuộc đấu tranh cho một cái mới ra đời thật quá vất vả, khó khăn. Trong thời kì chuẩn bị ra nghị quyết, các huyện ngoại thành, nhất là huyện Tiên lãng, xã Đoàn Xá Đồ sơn, xã Hưng Đạo, huyện An Lão nghe thành phố bàn khoán, tình hình sản xuất bức xúc, hợp tác xã cứ tạm cho khoán từng phần, mỗi xã để dành một số ruộng khoán để rút kinh nghiệm.

Các đoàn kiểm tra của Trung ương về Hải Phòng ngày càng đông, đoàn đồng tình, đoàn lưỡng lự, đoàn phản đối, đủ các loại. Quần chúng thì phán khởi. Tỉnh Hải Hưng, một tỉnh nông nghiệp lớn bên cạnh Hải Phòng. Đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ tuyên bố “Nếu có dây thép gai tôi sẽ rào luồng gió độc của Hải Phòng thổi sang”. Nhưng các huyện của Hải hưng. các đồng chí Bí thư, chủ tịch lén lút xuống Hải Phòng học kinh nghiệm khoán.

Các anh trong Bộ Chính trị như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, anh Nguyễn Duy Trinh, anh Trần Quốc Hoàn... đều xuống nghiên cứu khoán. Anh Giáp, anh Trinh tỏ ý đồng tình ngay. Anh Trần Quốc Hoàn hỏi rất sâu và tỏ vẻ lưỡng lự, nói: “Thiếu lương thực thì phải làm thôi”. Các anh uỷ viên Ban Bí thư và uỷ viên Trung ương như anh Hoàng Tùng. anh Vũ Oanh, anh Trương Kiện thì ủng hộ rất nhiệt tình. Anh Vũ Oanh còn tuyên bố: “Đây là chìa khoá vàng” làm một số người chống khoán phản đối quyết liệt. Đến mức đồng chí Vũ Duy Hiệu, đảng viên năm 1930, nguyên chủ tịch Uỷ ban cách mạng lâm thời tỉnh Hải dương 1945, nguyên phó tổng giám đốc ngân hàng Việt Nam, anh ruột anh Vũ Oanh phải đến hỏi tôi “Khoán ra sao, mà chú Vũ Oanh lại mạnh mồm nói như vậy?”. Tôi báo cáo với anh Vũ Duy Hiệu “Anh Oanh nói đúng đấy! Anh yên tâm”. Sau này ta đã xuất được trên 3 triệu tấn gạo, tôi lại chơi, nói vui với anh Vũ Duy Hiệu: “Nay đã là kho vàng rồi, không chỉ có chìa khoá vàng...” Anh Hiệu rất vui. nay anh đã 95 tuổi.

Ba mươi tết năm 1980, anh Đỗ Mười xuống thăm và chúc tết nhân dân Hải Phòng. Tôi mời anh đi xem sản xuất nông nghiệp. Ngồi trên chiếc xe Commăngca anh thấy ngày 30 tết, nông dân cấy rợp đồng, anh cười vui vẻ nói: “Chỉ có khoán mới có chuyện làm ăn chăm chỉ của nông dân như thế này...”

Trở lại khoảng tháng 9-1980, nghị quyết 24 về khoán trong nông nghiệp đã được hơn 3 tháng. Thành uỷ tổ chức sơ kết. Một số tỉnh và ngành Trung ương cùng đến dự. Một số tỉnh không được mời cũng đến. Các báo càng đến đông. Những nhà báo như Lê Điền, Thái Duy, Hữu Thọ ủng hộ khoán ngay từ đầu, rất sốt sắng viết bài, tuyên truyền cho khoán. Những nhà báo còn do dự hoặc chưa đồng tình cũng đến đông để nghe ngóng tình hình.

Lúc đó anh Trường Chinh đã đồng ý cho khoán trong lần thứ năm tôi xin ý kiến anh. Ý kiến anh góp tôi đã ghi kĩ và đọc lại cho anh nghe (tôi sẽ nói trong chương “anh Trường Chinh với Hải Phòng”). Khi họp hội nghị, tôi hỏi ý kiến anh Tạo, đề nghị cho tôi phổ biến ý kiến anh Trường Chinh, anh Tạo tỏ ra ngại ngần, nói: “ấy chê -ết! ấy chê -ết! Để xem đã”. Mặc dù tôi đã đọc ý kiến anh Trường Chinh đồng ý cho khoán để anh Tạo nghe, nhưng có lẽ anh chưa tin, và sợ không đúng ý anh Trường Chinh. Tôi đành không phổ biến, nhưng cũng tiếc!

Đến khoảng tháng 11-1980. Ban nông nghiệp Trung ương họp các trưởng ban nông nghiệp toàn quốc, có mời anh Tạo và tôi lên dự. Anh Tạo bảo tôi đại diện, anh không đi. Tôi cùng đồng chí Trưởng ban Nông nghiệp đi họp. Đồng chí trưởng ban nông nghiệp Hải Phòng lúc đó chưa đồng ý khoán. Khi đến cuộc họp, đồng chí Võ Thúc Đồng là trưởng ban bảo tôi: “Hôm nay Hải Phòng cử “gà nòi” đi họp đây”. Mấy đồng chí phó ban chống khoán, cũng đùa vài câu và cười hơi “mỉa mai”. Tôi vui vẻ bắt tay các anh và các đồng chí trong hội nghị.

Vào cuộc họp, sau lời tuyên bố lí do cuộc họp, là nghe việc khoán nông nghiệp của Hải Phòng, anh Võ Thúc Đồng mời tôi phát biểu trước. Tôi lên phân tích lí do làm khoán, cơ sở lí luận, kết quả và tồn tại, khoảng 45 phút. Sau đó các tỉnh phát biểu. Tất cả đều phản đối khoán, phê phán các mặt tiêu cực của nó, lên án gay gắt. Có những lời nói thiếu văn hoá nữa. Duy chỉ có đồng chí Huy, Viện phó Viện nông nghiệp thì ủng hộ một vài ý nhưng rụt rè. Hôm đó tôi thấy cần phải đem ý kiến anh Trường Chinh ra phổ biến, tôi đọc nguyên văn lời anh Trường Chinh mà tôi đã ghi vào sổ... Tôi vừa đọc thong thả, vừa theo dõi thái độ hội nghị. Thấy nhiều bộ mặt ngơ ngác, có bộ mặt nghi ngờ, có người thì thầm với nhau, nhằm nói to cho tôi nghe thấy, như: “Kì này tay Thành sẽ chết với ông Trường Chinh... dám bịa, ghê thật!”. Tôi vẫn tỏ ra như không nghe thấy, và cứ nói một cách phấn khởi về ý anh Trường Chinh...

Khi kết thúc hội nghị, anh Võ Thúc Đông tiễn tôi, vỗ vai tôi nói: “Tôi ủng hộ ý kiến anh, nhưng trong lúc này điều kiện tôi không nói công khai được...”. Còn các đồng chí Vụ trưởng ủng hộ khoán như: Lê Công Thiện, đồng chí Phước thì tỏ ra phấn khởi và bảo tôi: “Cứ yên tâm, chúng tôi sẽ ủng hộ triệt để Bài phát biểu của anh hôm nay thuyết phục lắm!”.

Đến nay, đồng chí Võ Thúc Đồng đã 90 tuổi với 75 tuổi Đảng, thỉnh thoảng gặp đồng chí, tôi nói vui: “Chiến sĩ Côn Đảo mà nhát, không dám công khai ủng hộ khoán ngay từ đầu”. Anh cười và đấm tôi: “Cậu hay nhớ dai...”.

Làm thế nào để xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội
và dần dần nâng cao đời sống nhân dân?

Đây là câu hỏi cực khó trong đầu thập kỉ 80 đối với toàn quốc. Đặc biệt là Hải Phòng, nơi còn khó hơn nhiều vì thành phố vừa công nghiệp vừa có Cảng. Nông nghiệp tuy đã bước đầu làm khoán, nhưng vẫn rất nghèo, do đồng ruộng chua mặn!

Bài toán trong đầu tôi tuy một phần đã có phác thảo, nhưng bước đi cụ thể ra sao? Cái nào làm trước, cái nào làm sau? Biết bao con toán. Trong lúc ngân sách thành phố không còn gì, gạo chạy từng ngày, nguyên liệu dùng trong công nghiệp Trung ương cho rất ít, thất nghiệp, ăn mày ăn xin các nơi kéo về, lũ lượt đi ngoài phố. Giờ trưa ăn cơm, người ăn xin gõ cửa vào cả nhà ông Chủ tịch!

Tôi đề nghị anh Tạo, Thường vụ Thành uỷ và Thường trực Uỷ ban chọn lựa một số công trình thủy lợi loại vừa, hỗ trợ cho nông dân làm khoán, vừa giải quyết việc làm, vừa tăng cường cơ sở vật chất kĩ thuật, cung cấp nước cho nông nghiệp, tổ chức lấn biển với qui mô lớn để tăng diện tích cho nông nghiệp và lấy đất xây dựng công nghiệp. Tôi luôn quan niệm rằng: xây dựng CNXH tất nhiên phải có những công trình lớn như nhà máy Thủy điện Hoà Bình, cầu Thăng Long., nhưng đối với người dân không phải ai cũng biết. Cái mà họ cần là nơi đang sống phải ngày một tốt hơn. Từ cái ngõ vào nhà sao cho không lầy lội mỗi khi trời mưa, cái nhà đang ở không dột nát, cái hố xí mỗi khi đi vệ sinh không phải một nón che đầu, một nón che phía trước... Vì vậy, phải xây dựng, chỉnh trang và làm sạch đẹp thành phố, phá bỏ những hố xí không có mái che ở các khu lao động như Thượng Hạ Lí, An Dương, Máy Chai, Trại Chuối... Tôi cũng cho phá dỡ những tàn tích chiến tranh còn lại như bộ khung nhà máy lọc nước của xí nghiệp xi măng, bên cầu Thượng Lí, trông rất khó coi, các lô cốt thời Pháp còn ngăn cản đường giao thông ở đường số 5 như tháp canh Dụ Nghĩa lấn 1/4 lòng đường; tháp canh Đồn Riêng, đường 14 ra Đồ Sơn v.v... Những khu nhà tranh tre nứa lá, lợp tôn lụp xụp ở các phố lao động, tôi bảo cán bộ vận động nhân dân sửa chữa cho ngăn nắp, từng bước bỏ hố xí thùng, xây hố xí tự hoại, nhà nước cấp kinh phí một nửa. Ngoài ra, những công trình văn hoá sẽ cùng lúc được khởi công như xây dựng nhà văn hoá Việt Tiệp, cung văn hoá thiếu nhi, sửa chữa phục chế Nhà hát lớn thành phố, trang bị nhạc cụ và dàn âm thanh hiện đại cho Đoàn ca múa, tạo mọi điều kiện cho Đoàn kịch nói dựng vở Nhân chứng và lịch sử nói về Bác Hồ, tổ chức hội thảo về danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm, thay nhạc hiệu của Đài phát thanh và truyền hình Hải Phòng bằng bài “Thành phố Hoa Phượng đỏ” thơ của Hải Như, nhạc của Lương Vĩnh... Ở ngoại thành phát động phong trào “ngói hoá” nông thôn, xây dựng cụm văn hoá xã, thị trấn huyện khang trang, phấn đấu xây dựng Hải Phòng từ các công trình ở xã lên đến huyện và nối vào thành phố.

Tất cả những dự định trên, tôi đều viết thành đề án đưa ra thành uỷ và Hội đồng nhân dân bàn, ra nghị quyết. Triển khai ý tương đó, cùng với việc luôn luôn báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Trung ương tôi đã tham khảo các đồng chí lãnh đạo ở một số tỉnh, thành phố, như các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, thành phố Hồ Chí Minh; mời các học giả, nhân sĩ trí thức, các văn nghệ sĩ đóng góp ý kiến như: học giả Nguyễn Khắc Viện, Vũ Khiêu, Trần Bạch Đằng, kiến trúc sự Khôi Nguyên La Mã Ngô Viết Thụ, người thiết kế dinh Thống Nhất Sài Gòn, các giáo sư Vũ Tuyên Hoàng, Võ Tòng Xuân, các văn nghệ sĩ như nhà văn Nguyên Hồng, Học Phi, nhạc sĩ Văn Cao...

Để thử nghiệm khả năng chỉ đạo của mình, tôi cho làm một công trình nhỏ đầu tiên, đó là con đường phường Vạn Mỹ, đoạn từ cầu Tre đến Đoạn Xá. Đường cũ rải nhựa mỏng đã bong hết, chỉ còn cát đá, sỏi, đất lại là lối xuống cảng, xe cộ đi lại nhiều, dân cư đông đúc, rất bụi. Quần chúng kêu ca, oán trách chính quyền thành phố đã lâu, không ai giải quyết đoạn đường dài 800m này. Tôi hỏi sở nhà đất và đô thị, sở giao thông và sở tài chính họ đều nói không có tiền. Trong khi đó công nhân làm đường thất nghiệp, máy móc bỏ không. Tôi nghĩ chỉ còn cách đi vay. Tôi biết xí nghiệp vận tải đường sông III trực thuộc bộ Giao thông vận tải, đơn vị làm ăn khá, đồng chí Nghiệp giám đốc xí nghiệp có quan hệ tốt với thành phố. Tôi đến gặp đồng chí Nghiệp xin vay một triệu đồng, 6 tháng sẽ trả. Đồng chí Nghiệp đồng ý ngay và nói: “Nếu chậm một năm Chủ tịch trả cũng được”. Tôi cảm ơn. Hôm sau, tôi cho triển khai ngay, với nguyên tắc phải làm tốt, rải nhựa bảo đảm đường thành phố cấp cao, khẩn trương thi công trong 40 ngày, kết thúc con đường đầy bụi bặm cho nhân dân. Báo chí, đài, không cần nói, chỉ khi hoàn thành xong đúng kì sẽ nói. Các đơn vị ra quân phối hợp làm chặt chẽ. Thiết kế, sơ đồ tiến độ thi công làm rành mạch rõ ràng. Hàng ngày hết giờ làm việc tôi đến kiểm tra xem anh em làm có đúng như lời nói không? Và mệnh lệnh của chủ tịch, anh em có chấp hành nghiêm chỉnh chỉnh không?

Không kể những ngày chuẩn bị, tính từ ngày thi công, đúng 39,5 ngày con đường nhựa phẳng lì, đen bóng hoàn thành. Tôi cũng thấy phấn khởi. Anh em đề nghị tổ chức khánh thành, tôi bảo thôi vì chỉ có khúc đường ngắn, làm rút kinh nghiệm. Nếu cần thì cho đài, báo thông tin cho nhân dân biết. Đợi khi nào có công trình lớn sẽ tổ chức khánh thành. Mọi người vui vẻ đồng tình. Tôi lại nghĩ: “Tiền đâu? Ở đầu mà ra cả”. Từ đó ai hỏi tôi xin vốn, xin tiền, tôi bảo các đồng chí hỏi cái đầu của các đồng chí. Đến nay trở thành thành ngữ: “Tiền đâu? Ở đầu mà ra”. Hải Phòng có cảng là thế mạnh, Hải Phòng phải tận dụng thế mạnh này chứ.

Nhân dịp Tổng Bí thư Lê Duẩn về thăm Hải Phòng, tôi dựa vào ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư thường nói: “Mỗi tỉnh thành phải tự lo, phải coi mình như một nước nhỏ, phải tìm cách làm sáng tạo...” Tôi đề nghị anh Lê Duẩn cho Hải Phòng mua một con tàu biển, chở hàng đi bán ở những thị trường gần. Anh Lê Duẩn đồng ý ngay và còn khuyến khích nữa. Tôi lại đề nghị anh nói với anh Lê Khắc, Bộ trưởng Ngoại thương giúp.

Sau một tuần được ý kiến của anh Ba (tên gọi thân mật của Tổng Bí thư Lê Duẩn), chúng tôi mời anh Lê Khắc xuống làm việc ở Hải Phòng. Anh Khắc đồng ý cho Hải Phòng mua tàu theo ý anh Ba. Thế là ngành vận tải biển do Trung ương độc quyền, nay Hải Phòng, đơn vị đầu tiên có tàu biển xuất dương.

Ngay sau đó, tôi nhờ chị Trương Thị Nhân -giám đốc Công ti Vận tải và thuê tàu (Vietfract) của Bộ Ngoại thương mua giúp một tàu biển cũ của Nhật Bản. Đồng thời tôi khẩn trương xây dựng cảng Cửa Cấm, Cảng riêng của Hải Phòng, để khi mua được tàu về là có Cảng đậu ngay, không phải thuê cầu Cảng của Trung ương, khỏi bị động và tránh cước phí rất đắt. Không những thế khi đã có Cảng, nếu tàu nhà không đậu hết, cho thuê cũng tăng được ít nhiều ngân sách địa phương. Vì Cảng Trung ương lúc nào cũng chật ních tàu, tàu phải chờ đợi lần lượt vào Cảng rất nhiều. Khi mua được tàu về, chị Nhân bảo tôi: “Anh nghĩ xa thật. Có cảng cho tàu đậu ngay, còn có cảng để kinh doanh nữa”. Tuy cầu cảng Cửa Cấm mới có một cầu tàu dài 105m, nhưng tàu mới, đỗ cảng mới cũng thấy vui! Tàu cũ mua về cho sơn lại, với cái tên “Sông Cấm”, ngành Hàng hải Việt Nam có thêm một “bạn mới”, “người địa phương Hải Phòng”.

Chúng tôi chuẩn bị chuyến hàng đem bán cho Hồng kông. Hàng hoá đủ loại: tương, cà, mắm, muối... Vì là lính mới, dân “local”, bỡ ngỡ mọi thứ. Từ thuyền trưởng đến thủy thủ đều nhờ Công ti Vietfracht giúp đỡ. Chuyến hàng đầu tiên chạy từ Hải Phòng đến Hồng kông, mua bán xong, trở về hết một tuần. Cả một tuần không đêm nào tôi ngủ được. Tôi lo đủ mọi thứ. Hồng kông lúc đó là thị trường tư bản duy nhất ta có đại diện thương mại. Tôi rất sợ bị sự cố xảy ra: sợ đắm tàu, sợ bị bắt, bị lừa. Vì toàn cán bộ mới ra buôn bán với nước tư bản, hàng ngày các đồng chí trên tàu “Sông Cấm” đều báo cáo công việc của mình cho Chủ tịch. Chủ tịch Uỷ ban thành phố như một anh Giám đốc công ti, lo từng ly từng tý. Từ giấy thông hành (Passport), đến cuộc sống thủy thủ, đến hàng hoá đem bán v.v... Tôi nhớ không kĩ lắm, tổng số hàng bán giá khoảng trên một triệu US đô la, do công ti dịch vụ du lịch là đồng chí Vân Nam chuẩn bị. Hàng mua về, bán lãi được gấp đôi. Thật là thành công rất đáng phấn khởi.

Tôi chỉ đạo anh em rất chặt chẽ. Ai buôn lậu, lợi dụng tham nhũng, kỉ luật nghiêm minh. Việc kinh doanh rất có hiệu quả, nhất là những chuyến đi Nhật sau này, chở hàng của ta đi bán, mua hàng cũ về bán lại cho dân, thành ra xe máy rất rẻ (lúc đó chỉ việc ra bãi rác chọn, trả cho công an Nhật mỗi chiếc 5 -10 $US là được giấy phép xuất). Xe máy của Nhật đem về định giá phải chăng ở thị trường Việt Nam đắt như “tôm tươi”. Đi vài chuyến đã có tiền thực hiện chương trình lấn biển, làm thủy lợi, mua hàng hoá cung cấp cho cán bộ công nhân viên, nhất là mặt hàng vải vóc. Nhà nước phát phiếu nhưng không có vải bán, thành phố có vải nhập về bán thu tem phiếu, bị lỗ một ít, nhưng nhân dân phấn khởi. Năm 1981-1982 làm ăn khá lên, nhân dịp 2-9 và Tết âm lịch, thành phố biếu cán bộ công nhân viên, các lực lượng võ trang, học sinh trung học, đại học mỗi người 5m. Vì lúc này Nhà nước không còn vải để bán theo tem phiếu nữa, coi như xoá bỏ tem phiếu.

Năm 1981 tôi cho mua thêm con tàu thứ 2 mang tên “Hoa Phượng”, trọng tải 2.900 tấn, có một khoang chở hàng đông lạnh, với giá gần 200.000 đô la. Khi đoàn đi mua tàu ở Nhật Bản điện về xin ý kiến quyết định, tôi phải điện đi, điện lại và gọi điện trực tiếp. Vì giá một con tàu có một khoang chở hàng đông lạnh 1.000 m3, mới có 6 tuổi giá chỉ như vậy là quá rẻ. Tôi sợ bị lừa, bảo các đồng chí fax cả lí lịch tàu về xem. Tôi vẫn lo bị lừa, nhờ các đồng chí Tổng cục Hàng hải xác minh giá cả và kĩ thuật giúp. Các đồng chí đều nói đúng, tôi mới đồng ý mua. Đúng là rẻ thật. Giá cước 1 m3 hàng lạnh là 600 $US, ta đang thiếu loại tàu này. Khi tàu về có hàng chở từ Nhật, nên chỉ sau chưa đầy một năm đã thu xong vốn. Xem ra ngành hàng hải địa phương có vẻ làm ăn tốt. Từ đó Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng cũng mua tàu kinh doanh. Còn Bình Trị Thiên thì liên doanh với Hải Phòng mua con tàu thứ 3, tên là tàu “Huế-Hải Phòng”, 2.600 tấn còn rất mới và đẹp. Hôm tàu về cảng Cửa Cấm, anh Vũ Thăng Bí thư Tỉnh uỷ từ Huế ra đón tàu. Chúng tôi rất hài lòng về con tàu đẹp, giá cả phải chăng.

Đến lúc này, bộ máy của công ti vận tải biển Hải Phòng nhỏ bé (Haiphong ship), đã đi vào nề nếp với 3 con tàu kinh doanh có hiệu quả. Tôi cho là bước dầu đạt được yêu cầu.

Tôi chuyển sang khôi phục sản xuất công nghiệp địa phương, từ lâu do thiếu nguyên liệu bị trì trệ. Trước hết là hợp tác với nhà máy xi măng, mua than cốc cho nhà máy, chỉ yêu cầu trả lại thành phố xi măng bao, để thành phố xây dựng công trình. Sau nữa tôi tìm cách thúc đẩy cho phát triển mạnh nghề giày dép xuất khẩu, ngành may mặc, ngành giấy, hoá chất Sông Cấm, nhập thiết bị xây dựng nhà máy chế biến ô xy, phát triển ngành tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp truyền thống, tạo công việc làm cho nhân dân.

Tiếp theo tôi mở công trình lấn biển lớn, kết hợp với xây dựng đường xuyên đảo đi trên đất Hải Phòng, không phải qua đất tỉnh Quảng Ninh, một công trình mà tôi ấp ủ từ lâu. Theo dự kiến, tuyến đường đi thẳng từ ngã 5 qua đường Đà Nẵng, xuyên qua doanh trại quân đội (nhà tù Đoạn Xá) qua Hạ Đoạn, Sâm Bồ, đắp đập ngăn sông Cấm, nối với đảo Đình Vũ, qua phà Đình Vũ, sang xã Hoàng Châu huyện Cát Hải cũ để xuyên qua huyện này ra bến phà Gót sang Cát Bà, ra đến Bến Bèo thị trấn Cát bà, tất cả dài 53 km.

Đoạn đường từ cảng Đoạn Xá ra Đình Vũ được thi công trước, với hai lực lượng: lực lượng hàng vạn lao động làm đường đất và lực lượng các loại tàu thuyền chở 25 vạn khối đá từ Thủy Nguyên, Cát Bà về làm đập Đình Vũ.

Công trường mở ra thu hút được rất nhiều lao động nông thôn, kể cả nông dân Thái Bình, Hà Nam Ninh cũng ra làm với công mỗi ngày là 1 đồng và 1 kg gạo. Lao động các nơi xếp hàng xin việc, làm cho thành phố sôi động hẳn lên.

Trong dịp đi kiểm tra cắm tuyến con đường “xuyên đảo”, tôi ghé thăm xí nghiệp muối Phù Long. Các anh chị em cán bộ công nhân viên kể lại bao nhiêu chuyện về cuộc sống trên hòn đảo xa đất liền, chuyện đồng chí Kích giám đốc xí nghiệp bị sét đánh, anh chị em vô cùng thương tiếc. Trước khi ra về, tôi hỏi anh chị em có đề xuất gì với thành phố không. Các chị em nữ nhao nhao đề nghị: “Cho chúng cháu về công tác ở thành phố để lấy chồng. Chúng cháu ở đây ế chồng hết”. Tôi trả lời chị em: “Cứ yên tâm. Hôm nay có một mình tôi không thể giải quyết được”. Chị em cười ồ lên! Tôi cũng hơi ngượng, vì câu nói sơ hở! Tôi vội nói tiếp: “Tôi sẽ tìm mọi cách để giải quyết nguyện vọng chính đáng của chị em...”.

Trên đường về, tôi ghé vào trung đoàn 174 bàn với đồng chí Thông trung đoàn trưởng, đồng chí Khoát chính uỷ, đưa trung đoàn đóng từ Mốc trắng Hiền Hào, chuyển dần về đóng gần xí nghiệp muối Phù Long để tạo điều kiện cho chiến sĩ làm quen với tự vệ nữ xí nghiệp.

Năm 2003 nhân dịp ra kỉ niệm ngày thành lập trung đoàn 174 ở thị trấn Cát Bà, tôi gặp lại đồng chí Thông, đồng chí Khoát và hàng trăm chiến sĩ của trung đoàn đã lập gia đình với nữ công nhân muối xí nghiệp Phù Long. Khi nói chuyện với hội nghị, tôi nhắc lại chuyện này, mọi người đều vui lắm. Nay xí nghiệp muối Phù Long đã giải tán, nhưng công nhân xí nghiệp ở lại Cát Bà làm ăn rất đông, góp phần tăng lao động cho Cát Bà để xây dựng khu trung tâm du lịch của thành phố và quốc gia.

Đối với nông nghiệp, sau khi cải tiến một bước quản lí “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và lao động xã viên” (cách nói và viết lúc đó phải như vậy. Cấm không được dùng cụm từ “khoán hộ”, nhưng thực chất là khoán cho gia đình), việc đầu tiên về kĩ thuật là phải giải quyết nước ngọt, vì các huyện nông nghiệp Hải Phòng, đất đều bị nhiễm mặn. Để ngọt hoá đất canh tác, tôi quyết định cho xây các cụm thủy nông, bơm nước ngọt từ các sông đầu nguồn, như trạm bơm Trung Trang (có 24 máy bơm, mỗi máy 4.000 m3/giờ. Thường gọi là “Cống Trung Lương”). Cống Thượng đồng, cống Rỗ, cống Dương Áo, cống An Sơn đều có trạm bơm. Một số cống lớn có từ 4 đến 12 cửa như: cống Cổ Tiểu 2, cống Cái Tắt. Ba cống ở đê lấn biển trên đường 14 là những cống chuyên dùng tiêu mặn và ngăn nước mặn. không có Trạm bơm.

Các cống từng bước xây dựng, đã thực sự “ngọt hoá” đồng ruộng Hải Phòng. Sau này cụm từ “ngọt hoá đồng ruộng” đã được nhiều người dùng, thành quen thuộc.

Sau khi cơ bản hoàn thành con đường xuyên đảo đi từ ngã 5 ra đến Đình Vũ, và quai đê lấn biển khu Tràng Cát, đắp chặn cửa sông Cấm nối sang sông Lạch Trạy, giáp với Thủy Giang, diện tích đất được mở rộng là 2800 ha.

Để tiếp tục công cuộc lấn biển, tôi đề nghị Thành uỷ và UBND thành phố quyết định lấn biến nữa. Đồ Sơn, từ Cầu Rào đến xí nghiệp muối Đồ Sơn, nối với đê “Cầm Cập” mở rộng thêm 2050 ha. Tuyến đê này rất quan trọng, vì nó mở cho khu du lịch Đồ sơn một diện tích rộng lớn, nối liền với nội hành, tạo ra khu kinh tế tổng hợp: du lịch, chăn nuôi, trồng trọt,... phục vụ cho nội thành và xuất khẩu.

Nhưng trên thực tế về mặt địa lí, việc này rất khó khăn. Kinh nghiệm lấn biển qua các năm, tháng khi đất bồi lên độ +2 trở lên so với “cost 0” Hòn Dấu là an toàn. Nhưng dự án lấn biển lần này phải đắp một con đê mới dài 15 km, có đoạn sâu 0,8 vào quãng giữa đê, đúng gió hướng Đông.

Tuy được thông qua, nhưng nhiều đồng chí còn lo lắng và do dự. Đến ngày khởi công, có những đồng chí lãnh đạo vắng mặt, vì sợ vỡ đê, không thành công sẽ liên đới chịu trách nhiệm! Quả nhiên, gặp rất nhiều khó khăn, phải thay 3 lần chỉ huy công trường. Đầu tiên là đồng chí Công Đông, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp, sau đến đồng chí Trần Đảm, Giám đốc Sở Thủy lợi, một đồng chí xông xáo, nhiệt tình, lăn lộn với công trường, biết kĩ thuật, nhưng sau trận bão năm 1981, đê đã hàn khẩu xong bị vỡ 14 chỗ. Có chỗ vỡ rộng hàng trăm mét, sâu 1415m. Đồng chí Trần Đảm đến gặp tôi, xin rút lui Trưởng ban chỉ đạo công trình. Tôi hỏi han rất kĩ, thì đồng chí Trần Đảm nói vẫn quyết tâm làm tiếp, nhưng phải tìm đơn vị khác thi công.

Tôi tiếp tục cùng các đồng chí Phó Chủ tịch Nguyễn Dần, Cao Văn, Trịnh Thái Hưng, Nguyên Mạnh, Trần Hạnh v.v... đi khảo sát thực địa mấy ngày liền. Từ khi khởi công tôi thường xuyên có mặt tại hiện trường. Cứ sau giờ làm việc buổi chiều tôi đến ngay công trình, trừ những ngày đi họp ở Hà Nội. Tôi mời các đồng chí chỉ huy quân sự gồm đồng chí Võ An Đông, Tư lệnh trưởng F350, đồng chí Nguyễn Chất, Phó Tư lệnh, đồng chí Trường Xuân, Chính uỷ... đi khảo sát tiếp. Tôi quyết định giao cho đồng chí Võ An Đông làm chỉ huy trưởng công trường. Những kinh nghiệm trong quá trình đắp con đê dài 15km và những khuyết điểm tồn tại cũng được tổng kết. Địa hình, thủy triều, cũng được xác định cho rõ. Tất cả phương án kĩ thuật chi tiết được thông qua, lịch thi công từng tuần, từng tháng cũng được thông qua. Đặc biệt tháng “hạ long”, chỗ vỡ sâu nhất phải được thực hiện trong tháng 3-1982.(Tháng 3 có con nước, và thủy triều lên, có biên độ thấp nhất trong năm).

-Mọi lực lượng công nghiệp của thành phố, lao động, được huy động tối đa cùng với lực lượng vũ trang quyết tâm hoàn thành con đê trong năm 1982. Lực lượng vũ trang điều tất cả khả năng cơ giới của mình để phục vụ tốt nhất. Hàng ngày có 2 trung đoàn thay phiên nhau đắp những đoạn đê xung yếu.

-Thành phố huy động 10 tàu hút bùn thường xuyên phun cát, tạo chân đế bằng cát cho những đoạn đê xung yếu.

-Chuẩn bị 10 sà lan giải bản, chở đến khu “Hạ Long”, mỗi sà lan chất đầy đá, kéo thành một đoạn đê sắt, đánh đắm, làm thành một thân đê vững chắc.

-Ban chỉ huy cho đan rọ tre, rọ sắt, rồi dùng phà và thuyền chở đất củ, đất sét, xa công trường hàng chục km, đem về cho vào rọ thả chìm để phục vụ “Hạ Long”.

Để chuẩn bị cho “Hạ Long” đúng tháng 3-1982, mọi việc phải làm trong khoảng 6 tháng, từ tháng 10-1981, hết sức khẩn trương vất vả. Các lực lượng ra quân, phối hợp rất đúng tiến độ. Hai đồng chí Phó Chủ tịch Nguyễn Dần, Cao Văn, lúc nào cũng có mặt ở hiện trường cùng với các đồng chí khác và Ban chỉ huy công trình, bảo đảm chính xác các công đoạn thi công. Để giảm áp lực nước cho khu “Hạ Long”, ta đã phải khoanh các vùng chứa nước trong 2050 ha đất mới lấn biển mở rộng ra nhiều ô nhỏ, có đê nhỏ và thấp để giữ nước khi xuống, không đổ dồn vào điểm “Hạ Long”, tạo cho cửa “hạ long” có dòng chảy vừa phải, không chảy xiết, khoét sâu, gây khó khăn cho công việc.

Điểm chính giữa nơi “Hạ Long” là chỗ bị vỡ đê dịp bão tháng 9-1981, sâu tới 14-15m, phải dùng các loại bạch đàn dài trên 10 mét làm cọc. Việc đóng cọc này cũng nhờ ta biết được quá khứ, khi ngài Trần Hưng Đạo phá quân Nguyên bằng cách đóng cọc gỗ lim trên tuyến sông Bạch Đằng, sông Giá (mà ngày nay đã tìm thấy hàng bãi cọc). Ngài đã nhờ quy luật thủy triều tạo nên chiến thắng quyết định cho dân tộc.

Từ thực tế cuộc sống ấy, anh em bộ đội dùng phà chở gỗ bạch đàn, đợi khi nước thủy triều cân bằng thả cọc xuống. Mỗi cọc có một đòn gánh buộc ngang thân cây, tùy theo mức nước nông hay sâu mà để đòn gánh cao hay thấp. Hai chiến sĩ đặt cây cọc từ phà xuống nước, đúng điểm đã định, rồi mỗi người đu vào một đầu đòn gánh, nén cọc xuống cho vững chắc. Còn cọc xuống được sâu nhờ nước chảy vào khi triều dâng, chảy ra biển khi thủy triều xuống, lắc đi, lắc lại làm cho cây cọc xuống đến thềm đất cứng. Cứ như thế hàng ngàn cây cọc đóng xuống điểm “Hạ Long”.

Đúng đến 3 ngày thủy triều thấp nhất, Ban chỉ huy bố trí lực lượng đánh đắm sà lan sắt.

Sau đó mỗi kíp một tiểu đoàn làm 4 tiếng liền, chuyển các rọ đất, đá lấp vào điểm “Hạ Long”. Trong 3 ngày liền tiến công liên tục, nâng cao điểm “Hạ Long” lên +4, đạt yêu cầu đề ra. Hết thời hạn thủy triền thấp nhất, toàn tuyến đê 15 km đều đạt cao trình +4m trở lên, kết thúc thời kì khó khăn nhất của tuyến đê lịch sử này.

Khi mới khởi công, các cụ già xã Hoà Nghĩa, Anh Dũng gần đó nói: “Nếu ông Thành đắp được con đề này, chúng tôi sẽ đi bằng đầu. Chúng tôi ở đây hàng trăm năm, nếu lấn được chúng tôi đã lấn rồi, không phải đợi đến các ông. Nơi này nguy hiểm lắm, đang đêm gió đông thổi vào thân đê, thủy triều lên là đê vỡ. Đời này qua đời khác, không làm được...”.

Khi đê hàn khẩu xong, các cụ kéo nhau lũ lượt đi xem. Các cụ gặp tôi đều cười vui vẻ, nói: “Chỉ có các ông cộng sản mới làm được...”. Tôi nói với các cụ: “Nhờ hồng phúc của Bác Hồ, chúng tôi mới làm được...”.

Hàng tháng trời, các cụ, bà con nông dân ở các huyện ngoại thành rủ nhau đến xem như xem cuộc triển lãm. Lúc đó còn hàng nghìn lao động đang bồi trúc cho đê lên cao hơn. Quả là con đê đã làm chấn động nhân dân Hải Phòng với chiều cao 6,5m so với “cost” Hòn Dáu, chân đê rộng 60m, mặt đê rộng 5m, độ xoải bên ngoài 1/3 độ, trong đê 1/2, ngoài lát đá hoặc bê tông lưới thép. Đoạn đê biển này hàng năm vẫn được gia cố, đã trở thành đường giao thông đi tham quan biển Đồ Sơn, nó tồn tại như một minh chứng cho sự quyết lâm, lòng dũng cảm của lãnh đạo và nhân dân Hải Phòng.

Đã hơn 20 năm kể từ ngày khánh thành “không kèn, không trống”, nhưng tôi không thể quên những năm đầu, đêm mưa bão, tôi thắc thỏm đến mất ngủ. Khi bão lớn nhất, tôi ra đê để kiểm tra độ bền vững của đê ra sao.

Nhớ lại lúc đó, khi quyết toán kinh phí chưa đến 1 đồng/m2, (nay 1 m2 lên hàng triệu đồng). Những đồng chí ngại không dám ra dự lễ khởi công, sợ liên quan trách nhiệm, nay cũng rất hoan nghênh. Có đồng chí nói với tôi: “Phải hiểu biết khoa học, kĩ thuật, có quyết tâm và lòng tin mới làm được...”. Tôi không dám nhắc lại chuyện cũ, và coi như tôi không nhớ. Có nhớ tôi cũng không bao giờ nhắc lại sự “thận trọng” đó, làm mếch lòng đồng chí mình. Khi tôi và đồng chí Nguyễn Dần, Chủ tịch UBND thành phố đưa đồng chí Đỗ Mười đi thăm đoạn đê “xung yếu” này, đồng chí Đỗ Mười bảo tôi và đồng chí Dần: “Đê này mà vỡ thì Bí thư với Chủ tịch đi tong!”. Tôi và đồng chí Dần cùng cười.

Sau khi hoàn thành xong hai dự án lấn biển lớn, và rất nhiều khó khăn, mở rộng hơn 5.000 ha, bằng diện tích một huyện, chúng tôi mở thêm công trường lấn biển khu Gia Minh, Thủy Nguyên gồm 1300 ha. Thành phố chỉ đạo cho các huyện Vĩnh Bảo, Kiến Thuỵ, Tiên Lãng... tổ chức lấn biển từng vùng nhỏ 300-500 ha, có sự viện trợ của thành phố. Các huyện ra quân làm rất tốt, mở rộng thêm diện tích canh tác, đẩy nước mặn ra xa những thửa ruộng phía trong đã thuần hoá, đưa năng suất lúa lên rất nhanh.

Để từng bước nâng dần đời sống của nhân dân, theo qui luật cơ bản của chủ nghĩa xã hội: “Đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao, làm cho chủ nghĩa xã hội từng bước được thực hiện”, tôi chỉ đạo các đơn vị sản xuất kinh doanh phải hết sức tiết kiệm, nhất là công ti xuất nhập khẩu, Haiphong Ship, Cảng... là nơi tạo ra giá trị gia tăng. Có chỉ thị của Thành uỷ cấm các cấp không được biếu xén cấp trên, hoặc khao thưởng “ăn nhậu” phung phí... để có tiền góp với thành phố lo cho cán bộ công nhân viên chức, lực lượng võ trang, các học sinh trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học đóng trên địa bàn thành phố gồm hơn 25 vạn suất (250.000 người), trong dịp quốc khánh 2-9, Tết âm lịch có túi quà, và mỗi năm 5 mét vải thông dụng như ka ki, pô-pơ-lin, vải đen may quần cho phụ nữ v.v... Đồng thời phải tìm kiếm công việc làm cho người thất nghiệp. Kiên quyết, nhưng làm từng bước, xoá 6 tệ nạn xã hội như: mãi dâm, cờ bạc, ăn mày, trẻ em lang thang, văn hoá truỵ lạc, mê tín dị đoan, ma chay giỗ Tết ăn uống linh đình tốn phí.

Về giao thông vận tải, cầu Rào đã qua 3 đời Chủ tịch là: Đồng chí Lê Đức Thịnh, đồng chí Đỗ Chính, đồng chí Đặng Toàn, đến tôi là Chủ tịch thứ 4 mà cầu Rào vẫn chưa hoàn thành. Nhân dân kêu ca: “làm quá chậm, như kéo rào”. Tôi cùng các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Uỷ ban và đồng chí Lê Bảo, nguyên Phó Chủ tịch, cố vấn xây dựng cho UBND, ngày đêm tìm mọi cách xử lí các sự cố kéo dài đó. Cầu đã khởi công cuối năm 1973 sau khi kí hiệp định Paris về Việt Nam, mà đến 1979 mới xong các mô và trụ. Lắp được mỗi bên một nửa dầm đúc hẫng dự ứng lực, thép dự ứng lực mua từ chiến lợi phẩm ở sân bay Tân Sơn Nhất đã bị han rỉ. Kĩ thuật làm cầu kiểu mới này của Pháp, ta chưa quen nên cầu khánh thành 1980 thì đến cuối năm 1987 bị đổ. Do dự đoán được tình hình nên khi cầu sụp đổ không bị thiệt hại gì thêm, ngoài cầu đổ. Cây cầu đầu tiên làm theo kĩ thuật “dự ứng lực” ở Việt Nam sau 7 năm bị đổ, làm cho nhiều người không tin tưởng. Nhưng sau các cầu: Niệm Nghĩa, An Dương, Phù Long đến vẫn vững. Đến nay, cả nước có hàng chục cầu đúc dầm hẫng, dự ứng lực, có cầu dài hơn 2km vẫn tồn tại vững vàng.

Thực là vạn sự khởi đầu nan. Cầu Rào do đội cầu địa phương thực hiện, Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo kĩ thuật. Thời gian làm cầu quá kéo dài, vệ sinh công nghiệp không đảm bảo. Cầu Rào đổ, cũng gây ra sự đàm tiếu trong một thời gian. Tôi chỉ là người hoàn thành cầu trong giai đoạn cuối với thời gian 6 tháng. Khi cầu đổ tôi đã về công tác ở Trung ương, nhưng sự đàm tiếu đổ dồn vào tôi. Âu cũng là qui luật xã hội “túm người có tóc, chứ ai túm người trọc đầu”. Tôi chỉ cười không giải thích, chỉ nói ngắn gọn: “Nếu ai muốn nghiên cứu kĩ, hãy xem nhật kí công trình”. Mãi đến khi Bộ Giao thông vận tải kết luận sự cố này, thì dư luận mới không đổ dồn vào tôi. Nhưng nay vẫn còn 3 cầu: Niệm, An Dương, Phù Long, nên thơ Tố Hữu vẫn giữ được tính chính xác của nó, kể cả cầu Rào đã được làm lại thành 4 cầu (4 cống 3 cầu, 5 cửa ô...).

Từ những việc làm thực tế ấy, tôi hình thành một mô hình xây dựng CNXH, dựa trên đường lối của Trung ương vận dụng vào Hải Phòng, đề ra bước đi thích hợp cho thành phố. Từng bước bổ sung, hoàn chỉnh về lí luận, kết hợp điều kiện cụ thể cho một thành phố đi lên CNXH. Ý tưởng thì rất lớn, nhưng thực hiện lại vô cùng khó khăn. Nhất là về lí luận, Nghị quyết của các kì đại hội, của các khoá Trung ương cũng chưa đặt rõ tiêu chuẩn cho từng giai đoạn tiến lên CNXH phải làm những việc gì, bước đi theo kế hoạch từng năm, dài hạn 5 năm ra sao. Cái có định lượng thì thiếu định tính, cái có định tính lại không có định lượng. Đọc tài liệu các nước bạn cũng thế. Vậy ta lấy cơ sở gì xây dựng cho Hải Phòng một nền tảng, một lí luận thuyết phục để mọi người ra sức tập trung trí tuệ, sinh lực, xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH? Tôi suy nghĩ trăn trở, vừa lắng nghe những tư duy, ý tưởng của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Trung ương, dần dần từng bước hình thành mô hình xây dựng CNXH ở Hải Phòng. Mô hình đó, tư tưởng bao trùm là phải vì con người. Sau nữa thuyết phục mọi người tin là làm được. Cái được trước hết là đem lại lợi ích cho chính mình. Khi tham gia công sức để tạo ra của cải vật chất, văn hoá tinh thần, kết quả trở lại với họ, họ có thể nhìn thấy, sờ thấy, đếm được. Cách đây 5.000 năm Kinh Thi đã nói: “Văn chất bân bân, nhiên hậu quân tử” (Văn hoá, vật chất dồi dào, sau đó mới có người tử tế). Nhưng sau 5.000 năm các vua chúa Trung Quốc vẫn để người dân nghèo đói, nói nhưng không làm, muốn làm lại do cơ chế không có, không làm được. Đến đời Xuân Thu, Khổng Tử đã viết Kinh Xuân Thu để quản lí Nhà nước, với nội dung lấy nhân nghĩa làm đầu, “Quốc dĩ dân vi bản, dân dĩ thực vi tiên” (Nhà nước lấy dân làm gốc, người dân lấy ăn làm trước). Nói hay như vậy nhưng cũng không làm được là bao. Khổng Tử còn nói: “Nhân dục vô nhai” (lòng tham không có đáy). Vua chúa lúc ấy chỉ biết lợi dụng triết lí đó để phục vụ lợi ích của họ, không tận dụng động lực này để phục vụ cho từng người, tức là phục vụ cho cả cộng đồng. Thời kì cận đại, các khẩu hiệu của giới cầm quyền đưa ra trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản dân quyền như: “Tự do, bình đẳng, bác ái”; “Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc” rất hay, rất nổi tiếng. Nhưng rốt cục vẫn là một thiểu số dân được hưởng những tư tưởng triết học tiến bộ đó.

Trở lại các triết lí xa xưa của các vị Thánh “Tâm linh” như Đức chúa Jésus, đức Phật Thích Ca, đức Thánh Mohamat v.v..., tư tưởng học thuyết đẹp đẽ của các ngài nhằm dạy cho loài người thương yêu nhau, đùm bọc giúp đỡ nhau khi hoạn nạn. Rồi do lòng sùng kính, nhân loại cúng bái, tế lễ, cầu nguyện các đấng “Chí tôn” phù hộ... dần dần trở thành những tôn giáo, đạo giáo khác nhau đi vào cuộc sống của dân lành. Kết quả là tùy theo phong tục tập quán của từng quốc gia, từng vùng lãnh thổ, những tín đồ kế thừa giáo lí mở rộng tư tưởng chính thống ra nhiều chi phái khác nhau.

Nhưng một điều đáng tiếc là tất cả những lí tưởng ban đầu của các đấng “Chí tôn” vẫn không được thực hiện dù ở bất cứ nước nào.

Từ khi chủ nghĩa Marx ra đời, giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đặc biệt là dân tộc bị mất quyền độc lập, làm nô lệ cho ngoại bang như Việt Nam, trông chờ tin tường vào chủ nghĩa Marx rất lớn. Bác Hồ của chúng ta, người đặt niềm tin vào chủ nghĩa Marx hơn ai hết, đã đem tư tưởng, triết học của Marx vào Việt Nam, với những lời nói ngắn gọn, xúc tích, rất dễ hiểu, rất chân thành, đi vào lòng người như: “Nước có độc lập mà người dân vẫn còn nghèo đói, thì độc lập đó cũng không có ý nghĩa gì!”. Lời nói đó đã chỉ ra cho chúng ta phải hành động, không nói suông, lừa dối quần chúng để nắm chính quyền, dùng quyền hành cho mình sống “Vinh thân, phì gia”.

Tôi rất tâm đắc với tư tưởng chỉ đạo của Tổng Bí thư Lê Duẩn: “Mỗi tỉnh phải coi mình như một nước, phải chủ động sáng tạo, không ỷ lại trông chờ cấp trên...” “Tỉnh uỷ, Thành uỷ là gì? Là lo cho dân ăn gì, mặc gì, mỗi năm được ăn bao nhiêu quả trứng, bao nhiêu kg thịt? Chứ Tỉnh uỷ, Thành uỷ cũng chung chung như Trung ương thì dân tin vào Đảng sao được...?” Vận dụng số vốn lí luận về học thuyết Marx-lénine, duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, có tham khảo kinh dịch của Trung Quốc, các triết gia trước Marx như Hê-ghen, Phơ-ec-bách, Di-đơ-rô, Ê- pi-quya v.v... Tôi nhận ra rằng Hải Phòng cần phấn đấu xây dựng từng bước lên CNXH với sự lãnh đạo, giúp đỡ của Trung ương, chắc chắn sẽ thành công. Để có thực tế phục vụ đúc kết lí luận, tôi tiếp tục suy nghĩ, nhiều đêm, ngày hình thành ra mô hình CNXH ở Hải Phòng, quê hương thứ hai biết bao yêu dấu của tôi.

Làm Bí thư Thành uỷ

Đúc kết trong thời gian hơn 30 tháng làm Chủ tịch UBND Hải Phòng, tôi đã cùng đồng chí Bùi Quang Tạo và tập thể Thành uỷ, UBND Thành phố, cùng cán bộ công nhân viên, lực lượng vũ trang, nhân dân Hải Phòng làm được một số công việc mang tính mở đầu cho Hải Phòng từng bước đi lên CNXH. Việc lớn nhất là xây dựng được một đội ngũ cán bộ tin cậy lẫn nhau và xây dựng được lòng tin của nhân dân đối với lãnh đạo Thành phố.

Trước hết, đội ngũ cán bộ lãnh đạo đã hình thành một tổ chức thực hiện hiệu quả mọi chính sách, chủ trương đề ra gồm UBND và các cán bộ chủ chốt của sở, ngành. Các Phó Chủ tịch lúc ấy là đồng chí Nguyễn Dần (sau làm Chủ tịch thay tôi), đồng chí Võ Thị Hoàng Mai, đồng chí Cao Văn, đồng chí Trịnh Thái Hưng, đồng chí Nguyễn Mạnh, sau đó là các đồng chí Nguyễn Đình Nhiên, Trương Quang Được, Trần Hạnh, Đào An, Nguyễn Thị Bảy. Bên Thường trực Đảng có đồng chí Lê Thành Dương, Lê Danh Xương. Cấp sở có những cán bộ bị kíp lãnh đạo trước đánh giá là trung bình, thì qua những công việc làm cụ thể, nay đã hoàn thành nhiệm vụ, được nhân dân khen ngợi như các đồng chí Dương Khắc Thụ, uỷ viên Thường vụ, Giám đốc Sở Công an, đồng chí Nguyễn Anh Đề, Giám đốc Nhà đất và công trình đô thị, đồng chí Trần Đảm, Giám đốc Sở Thủy lợi, đồng chí Lê Vân, Giám đốc Sở xây dựng, đồng chí Phạm Văn Diệt, Giám đốc Sở Giao thông vận tải, đồng chí Hồ Chu, Giám đốc Sở văn hoá v.v... các Giám đốc những công ti chuyên trách như đồng chí Vân Nam, Giám đốc Công ti Du lịch dịch vụ, đồng chí Cần, Giám đốc Công ti vệ sinh đô thị v.v... đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thành công việc của thành phố lúc ấy.

Đối với ngoại thành, khu vực nông nghiệp phải kể đến các đồng chí Vũ Ngọc Lan, Bí thư Huyện uỷ Kiến An (thị xã Kiến An + huyện An Lão), đồng chí Đào Hướng, Bí thư Huyện uỷ Thủy nguyên, đồng chí Lựu, Bí thư huyện Tiên Lãng, đồng chí Nguyễn Kì, Nguyễn Việt, Bí thư Huyện uỷ An Hải, đồng chí Rường, Bí thư Huyện uỷ Vĩnh Bảo, đồng chí Trần Khoát, Bí thư Huyện uỷ Cát Hải, cùng các đồng chí Chủ tịch UBND huyện đã góp phần to lớn vào phong trào khoán sản phẩm trong nông nghiệp theo chỉ thị 100 của Ban Bí thư và Nghị quyết 24 của Ban Thường vụ Thành uỷ Hải Phòng. các quận nội thành có các đồng chí Bí thư Quận uỷ, Chủ tịch UBND như quận Lê Chân có đồng chí Nguyễn Thị Xuân Mỹ, và quận Hồng Bàng có đồng chí Nguyễn Văn Cảnh, đồng chí Hiến, quận Ngô Quyền, đồng chí Vịnh, Bí thư quận uỷ đều là nòng cốt của các mũi tiến công. Riêng lực lượng vũ trang địa phương, lực lượng chủ đạo lấn biển khai hoang có Đại tá Võ An Đông, Đại tá Nguyễn Chất, Thiếu tướng Trường Xuân, Đại tá Nguyễn Đình Thản, Đại tá Vũ Văn...

Ngoài ra còn phải kể đến một đội ngũ cán bộ “thầm lặng”, nhưng sự đóng góp của anh chị em rất quan trọng cho sự phát triển của thành phố. Đó là các tổ chức quần chúng, các Ban của Đảng và Văn phòng Thành uỷ. Họ làm tham mưu cho cấp uỷ, viết bao nhiêu công văn, chỉ thị, nghị quyết để chuyền đạt những tư tưởng chỉ đạo của Thành uỷ xuống cơ sở Đảng và quần chúng. Các đồng chí đã làm việc ngày đêm, nhưng ít ai biết đến như các đồng chí Trần Mạnh, Chánh Văn phòng Thành uỷ, đồng chí Quản Đức Khiêm, Thư kí của Chủ tịch và Bí thư Thành uỷ, đồng chí Nguyễn Lộ, đồng chí Nguyễn Văn Đồng, Phó Văn phòng Thành uỷ. Đồng chí Phạm Văn Phách, Chánh Văn phòng và Bùi Mạnh Tưởng, Phó Văn phòng Uỷ Các đoàn thể quần chúng như chị Trần Thị Thanh Thọ, Uỷ viên Thường vụ, Bí thư Hội phụ nữ, đồng chí Trần Sáng, Bí thư Thành đoàn, chị Thịnh, Uỷ viên Thường vụ, Trưởng ban Kiểm tra, và nhiều các đồng chí lãnh đạo khác thuộc khối dân vận và công tác Đảng, cũng đã góp phần rất lớn vào công việc xây dựng phát triển cơ sở Đảng và phong trào quần chúng, hướng vào mục tiêu xây dựng thành phố. Ngoài ra sự kết hợp chặt chẽ với Quân khu 3 cũng góp phần thắng lợi không nhỏ. Mặt trận này có Đại tướng Nguyễn Quyết, Thượng tướng Nguyễn Trọng Xuyên và các đồng chí tướng, tá khác. Bộ Tư lệnh Hải quân có Thiếu tướng Đoàn Bá Khánh, Tư lệnh Hải quân, các đồng chí Tướng Trà, Tướng Phát... Sư đoàn phòng không 363 và các quân binh chủng của Bộ Quốc phòng đóng tại địa phương, tất cả đều hăng hái, triệt để hợp tác ủng hộ Hải Phòng vô điều kiện, hưởng ứng phong trào thi đua “làm giàu, đánh thắng” của Quân khu 3 một cách nồng nhiệt.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 5 (2-1982)

Tôi được Đại hội bầu làm Uỷ viên Trung ương dự khuyết khoá V (lúc ấy còn có uỷ viên dự khuyết, uỷ viên chính thức - nay chỉ bầu uỷ viên). Tôi được phân công làm Bí thư Thành uỷ Hải Phòng. Anh Bùi Quang Tạo về Trung ương làm Chủ nhiệm Thanh tra Chính phủ.

Sang năm 1983, tôi và đồng chí Nguyễn Tấn Trịnh được chọn trong số uỷ viên dự khuyết vào uỷ viên chính thức (do các đồng chí uỷ viên chính thức bầu)

Với thực tế của hai năm, bốn tháng làm Chủ tịch, từ những ý tưởng đã tổ chức thực hiện thành những công trình, những sản phẩm to nhỏ ở khắp thành phố, điều đó đã giúp tôi hình thành cơ chế xây dựng một mô hình XHCN ở địa phương, Thành phố Hải Phòng. Gần 32 năm được điều động đến Hải Phòng, khởi đầu là Bí thư Quận uỷ Ngô Quyền, nay làm Bí thư Thành uỷ, tôi lo lắng đêm ngày, đem hết sức lực, trí tuệ, suy nghĩ làm cho được ý tưởng mình đã theo đuổi từ khi được kết nạp vào Đảng, với bao hi vọng sẽ thành công. Mặc dù sức khoẻ tôi không phải là tốt lắm, năm 1982-1983 bệnh tôi kéo dài, chữa mãi không khỏi, công việc lại quá nhiều, nhất là sau khi tổ chức thành công Đại hội Đảng thành phố lần thứ 8 nhằm quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 5 để thống nhất tư tưởng và hành động toàn Đảng bộ và nhân dân thành phố. Sau đó, tôi bị sưng màng phổi, viêm họng hạt, chuyển sang “hen xuyễn”. Nhờ các bác sĩ Đông, Tây y, và tự rèn luyện nâng thể lực lên, nên tôi đã qua khỏi. Cũng từ đó sức khoẻ được nâng lên, đủ sức chống chọi với bao gian nguy thử thách về mọi lĩnh vực, nhất là lĩnh vực chính trị, để tồn tại đến ngày hôm nay...

Để triển khai Nghị quyết Đại hội 8 của thành phố, tôi chỉ đạo Uỷ ban Nhân dân thành phố và các ngành thực hiện thật tốt các công trình làm dở dang. Tôi cũng xây dựng quy chế làm việc giữa Đảng và Chính quyền, không chồng chéo giẫm chân lên nhau. Khi đã có nghị quyết của Đảng, chính quyền cụ thể hoá và triển khai thực hiện. Đảng không “lấn sân” của chính quyền. Khi có khó khăn chính quyền không thể khắc phục được, Đảng sẽ giúp đỡ. Công việc của Đảng là trực tiếp nghiên cứu xây dựng các Nghị quyết trên bình diện mô hình XHCN, đi từng bước có chọn lọc, Nghị quyết nào ra trước, Nghị quyết nào ra sau cho phù hợp. Trước khi ra Nghị quyết, tập thể Thành uỷ đi thực tế khảo sát tình hình, tổ chức thí điểm làm được khoảng 30% có kết quả rồi mới họp Thành uỷ ra Nghị quyết. cách làm đó coi như qui trình ra các Nghị quyết của Đảng, nó tránh tình trạng duy ý chí và giáo điều của đồng chí lãnh đạo chủ chốt. Chưa khảo nghiệm, mới nghe báo cáo, mới nảy sinh ý nghĩ hay hay trong đầu đã vội vàng ra Nghị quyết, như vậy Nghị quyết sẽ không sát với thực tế, quần chúng không chấp nhận, làm mất uy tín của Đảng, mất công sức của cán bộ cấp dưới.

Trong 4 năm 3 tháng làm Bí thư Thành phố, tôi đã chủ trì đề ra 46 Nghị quyết về các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, văn hoá, đời sống, dịch vụ du lịch... Tính bình quân hơn một tháng ra một Nghị quyết, nhưng không Nghị quyết nào trùng với Nghị quyết nào, được nhân dân, Đảng viên hoan nghênh thực hiện rất nhiệt tình, chưa có ai kêu là Thành uỷ ra quá nhiều Nghị quyết! Tất cả Nghị quyết đó, cái nọ bổ sung cho cái kia hình thành một mô hình XHCN về lí luận và thực tế. Có những Nghị quyết như: Ngói hoá nông thôn; Xoá bỏ hố xí thùng, xây dựng hố xí tự hoại, giải phóng cho chị em làm vệ sinh thường phải vất vả suốt đêm, kể cả ngày 30 Tết; Nghị quyết bê tông hoá ngõ xóm trong nội thành, không để tình trạng đi lại lầy lội trong các xóm ngõ; Nghị quyết xoá bỏ “6 tệ nạn xã hội” trong một năm, không còn ăn mày, ăn xin và trẻ em lang thang trong thành phố; Nghị quyết tiếp tục cải tiến quản lí nông nghiệp; Nghị quyết về giao thông; Nghị quyết về Công nghiệp và giải quyết công ăn việc làm cho người lao động; Nghị quyết về Văn hoá quần chúng; Nghị quyết về Thương nghiệp và thu mua lương thực; Nghị quyết về Xây dựng cơ bản, về lấn biển khai hoang mở rộng thành phố hướng ra biển; Nghị quyết về Xây dựng Đảng, các Tổ chức quần chúng v.v...

Tất cả các Nghị quyết được thực hiện đến nơi, đến chốn từ 70% trở lên. Tất cả những kết quả thực hiện các Nghị quyết được người dân nhìn thấy, sờ thấy, đếm được...

Có những việc làm của Thành uỷ, UBND Thành phố, đến nay tôi đã rời khỏi Thành phố về Hà Nội công tác gần 20 năm nhưng mỗi khi về Hải Phòng gặp nhân dân, cán bộ, là anh em nhắc đến như gói quà Tết hàng năm của Thành phố vào những dịp 2-9 Quốc khánh, Tết âm lịch... Những kỉ niệm không bao giờ quên! Rồi công trình lấn biển, hố xí tự hoại, đường lát bê tông hoặc tấm đan... đi đến đâu nhân dân cũng nhắc tới...

Hôm 30-5-2004 vừa rồi tôi ra Đình Vũ xem đường xuyên Đảo. Đến phà Đình Vũ, anh em phụ trách bến phà, cũng như nhân dân xúm lại quanh tôi hỏi thăm sức khoẻ. Đồng chí Vang phụ trách ở đó nói: “Bác để lại “lộc” cho chúng con được hưởng, ai cũng nhớ công ơn của bác...”. Tôi rất cảm động, nói: “Đảo Đình Vũ với đường xuyên Đảo đã góp phần làm cho hàng vạn người giàu có đấy! Các đồng chí quản lí tốt sẽ giàu to. Đồng chí rất trẻ, tôi gặp đồng chí lần đầu, trông chiếc thẻ đeo trên ngực mới biết tên tuổi. Vậy mà, đúng như sách cổ đã dạy: “Vi ân bất cầu báo, thụ ân bất năng vong...” (làm ơn không cần mong được báo đáp lại, chịu ơn không nên quên). Cảm ơn đồng chí đã thể hiện tinh thần đó”. Tối hôm ấy tôi về làm việc ở Thành phố, đồng chí Then, nguyên Bí thư Huyện uỷ An Lão, nay là Uỷ viên Thường vụ Trưởng ban Tuyên giáo Thành uỷ Hải Phòng (Đồng chí Then người thôn Đại, xã An Thọ, huyện An Lão) anh em tâm sự, đồng chí nhắc lại bao kỉ niệm hồi làm khoán trong nông nghiệp, lúc chưa khoán dân đói như thế nào, một số người phải đi tha phương cầu thực, sau làm khoán phấn khởi như thế nào, và nay cả huyện An Lão đều khá giả. Thật là bao nỗi buồn vui sâu sắc thời kì quá khứ...

Những năm 1983-1984 nông nghiệp Hải Phòng phát triển rất nhanh. Lương thực coi như đã tự túc được cho cả phi nông nghiệp. Hàng năm không phải lên Trung ương xin gạo, xin mỳ. Ngoài mua thóc nghĩa vụ (giá 0,2 đ//kg thóc) Hải Phòng được đồng chí Tố Hữu, đồng chí Trần Phương đồng ý cho mua thóc của nông dân sau khi làm xong nghĩa vụ với Nhà nước với giá 1,70đ/kg. Tuy giá ngoài cao so với giá nghĩa vụ nhiều, nhưng với giá nhập bằng đô la Mỹ chỉ bằng gần 1/2, Nhà nước lại không phải lỗ vốn bán lương thực cho Hải Phòng, còn Hải Phòng có thêm lương thực trả cho lao động ở các nơi về thành phố tham gia lao động lấn biển với giá 1kg và l đồng/ ngày công lao động. Mọi người phấn khởi lắm.

Thời gian đó Hải Phòng được coi như mô hình phát triển kinh tế năng động của cả nước. Khách đến tham quan ngày một đông. Báo chí ca ngợi, có ngày báo Nhân Dân đăng 4 bài về Hải Phòng. Bí thư Thành uỷ Hải Phòng cũng được cấp trên các ngành quan tâm. Nhiều đồng chí cán bộ lãnh đạo chủ chốt như Tổng Bí thư Lê Duẩn, Chủ tịch nước Trường Chinh... cũng rất quan tâm, đã có những dự kiến này dự kiến khác về tương lai của Bí thư Thành uỷ (những dư luận đó cũng làm cho một số người lo lắng và dần dần trở nên đố kị, ghen tị. Sự ác ý ấy hình thành dần dần từ nhỏ đến lớn, đến ngày 2-8-2003 mới bộc lộ hết để khách quan nhìn nhận có cơ sở khoa học kết luận chính xác, có căn cứ, không suy diễn... Việc này khá dài, 20 năm sau, mới hiểu thấu được sự tình...).

Trong khi phong trào đang lên, biết bao nhiêu đoàn các địa phương, các ngành đến Hải Phòng học tập, rút kinh nghiệm, tổng kết, thì giữa năm 1983, đồng chí Đỗ Mười nhân danh Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng cử 3 Đoàn sắp xếp công nghiệp về 3 thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh.

Đoàn về Hải Phòng do đồng chí Tô Duy làm trưởng đoàn. Về Hải Phòng trong lúc tình hình chính trị, tư tưởng và các mặt hoạt động rất tốt đẹp... Đồng chí Tô Duy xuống không làm việc với Thành uỷ mà chỉ làm việc với UBND thành phố. Đồng chí còn nói với đồng chí Bắc, cán bộ Văn phòng Uỷ ban và một số đ/c trong Đoàn là: “Tôi không gặp anh Thành, anh Thành có đến gặp tôi thì gặp...”. Đồng chí Tô Duy cử đồng chí Phí Đức Phong, cán bộ của Đoàn đến gặp tôi nói: “Kì này Đoàn xuống sắp xếp công nghiệp để giúp cho Hải Phòng phát triển cả công, nông nghiệp...”.

Mới mấy tháng trước đây, đồng chí Tô Duy xuống Hải Phòng gặp tôi rất thân mật. Nhất là đầu năm 1982, khi tôi làm Bí thư Thành uỷ, đồng chí Tô Duy cùng với vợ là chị Lê Thu, các cháu đến thăm Hải Phòng, chúc mừng tôi. Trong bữa cơm thân mật, chị Lê Thu còn nói: “Mình với Duy có nhiều kỉ niệm với cậu Thành lắm! Sau đám cưới chúng mình, chúng mình còn đến thăm cậu ở Hồ Lao (nơi căn cứ địa của Thành uỷ Hải Phòng thời kháng chiến ở huyện Sơn Động, Bắc Giang)”. Vợ chồng đồng chí Tô Duy tổ chức cưới ngày 8-7-1951, đám cưới tập thể, ngoài đồng chí Tô Duy và chị Lê Thu, còn có đồng chí Lê Xuân Thịnh với chị Kiệm; đồng chí Nghĩa (tức Linh) với chị Phụng Dương. Hiện nay 5 người còn sống, chỉ có anh Thịnh hi sinh tại Thái Bình năm 1952. Không những thế, từ ngày tôi về công tác ở Hải Phòng (tháng 6-1950), quan hệ giữa tôi và đồng chí Tô Duy vẫn tốt đẹp. Trước khi đi công tác Hà Nội (khoảng năm 1960-1961) đồng chí Tô Duy còn đến thăm tôi ở cơ quan chào “tạm biệt”. Trong các năm sau, mỗi năm một vài lần lên Hà Nội công tác, tôi thường vào thăm đồng chí Tô Duy. Năm 1980 khi tôi học lớp quản lí kinh tế do giáo sư Liên Xô giảng, khoá I tại trường Hành chính Trung ương, lúc đó tôi là Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng, đồng chí Tô Duy còn mời tôi về Xuân Cầu chơi, còn trực tiếp trẩy bưởi mời tôi ăn. Khi đi trên chiếc cầu tre vào Xuân Cầu, tôi còn dắt đồng chí, vì đồng chí nói với tôi đang bị 6 bệnh nên chân đi bị run. Khi tôi ra về đồng chí đề nghị tôi giúp cho 60 tấn xi măng để làm cây cầu này, và sửa chữa nhà lưu niệm của đồng chí Tô Hiệu, là chú ruột đồng chí Tô Duy. Tôi giải quyết ngay cho xã về Hải Phòng lấy xi măng sau một tuần. Lúc đó xi măng mua khó khăn lắm! Hải Phòng dùng ngoại tệ mua than “cốc”, gia công cho nhà máy xi măng để đổi thành phẩm mới có. Đồng chí Tô Duy rất phấn khởi.

Cả một quá trình thân thiện với nhau, đột nhiên có cuộc sắp xếp công nghiệp, đồng chí Tô Duy làm Tổ trưởng với thái độ “bất thường” đối với tôi... Tất nhiên tôi phải đánh dấu hỏi (?).

Nhưng thái độ của tôi vẫn bình thường. Muốn nói gì thì nói, đồng chí Tô Duy đã có thời kì là cấp trên của tôi, tôi gặp đồng chí Chủ tịch Nguyễn Dần dặn làm việc, hợp tác chặt chẽ với đồng chí Tô Duy.

Qua giao ban hàng tuần với đồng chí Nguyễn Dần, tôi biết được là các đồng chí đi sắp xếp công nghiệp thì ít, nhưng xuống nông thôn, tìm hiểu điều tra tình hình thì nhiều, với thái độ cố tình moi móc khuyết điểm... Qua báo cáo của các đồng chí Bí thư, Chủ tịch các huyện mà đoàn đồng chí Tô Duy đến làm việc, thì thấy ý định của đoàn không phải trọng tâm sắp xếp công nghiệp, họ tìm hiểu tình hình nông nghiệp là chính.

Cuối năm 1983 đầu năm 1984 thì đoàn rút về Hà Nội, sau cuộc làm việc với Ban Thường vụ Thành uỷ. Trong cuộc họp vui vẻ, thân mật, đồng chí Tô Duy nhắc lại ý đồng chí Phí Đức Phong là: “giúp Hải Phòng phát triển công nghiệp như nông nghiệp...” rất thiện chí!

Sau ít ngày, đồng chí Đỗ Mười mời tôi và đồng chí Nguyễn Dần lên số 8 Chu Văn An làm việc.

Trưa hôm đó đồng chí Đỗ Mười mời cơm chúng tôi rất chu đáo. Buổi sáng làm việc, khi đọc báo cáo của Tổ sắp xếp công nghiệp, tôi thấy rõ ý đồ của Tổ, trong đó có câu: “Hải Phòng chú trọng phát triển nông nghiệp là trệch hướng, sai đường lối của Đảng”. Khi phát biểu với đồng chí Đỗ Mười, tôi phân tích Hải Phòng là thành phố công nghiệp, Thành uỷ rất coi trọng phát triển công nghiệp, đồng thời rất coi trọng phát triển nông nghiệp để giải quyết lương thực cho công nhân là rất đúng với thực tế. Khoán sản phẩm, một mô hình đã được chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng cho thực hiện trong toàn quốc, sao lại bảo Hải Phòng đi trệch hướng? Thái độ của tôi nói rất găng, nhưng đồng chí Tô Duy hơi mỉm cười, khiến tôi phải đánh dấu hỏi (?) lần thứ hai. Sau đó tôi xin phép anh Mười ra về, vì chiều có cuộc họp. Anh Mười bảo tôi ăn cơm rồi sẽ về và nói: “Bí thư về thì làm việc với ai?”. Tôi báo cáo anh Mười có Phó Bí thư - Chủ tịch và Văn phòng ở lại ghi chép, ý anh thế nào tôi sẽ thực hiện nghiêm chỉnh... Nhưng rút cục tôi chỉ biết về báo cáo của Tổ sắp xếp công nghiệp còn ý anh Mười thế nào tôi không được biết.

Ngày 14-4-1984 Bộ Chính trị và Ban Bí thư triệu tập tôi lên Hà Nội làm việc hai ngày. Tổng Bí thư Lê Duẩn chủ trì, các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ... cùng dự, tổng số khoảng hơn 60 người đủ các ngành của Trung ương. Anh Mười không đến dự, nhưng cử người của Văn phòng đến theo dõi tình hình hội nghị. Về phía Hải Phòng còn có đồng chí Trịnh Thái Hưng, Phó Chủ tịch cùng tham dự với tôi. Qua nghe báo cáo tình hình, tôi trình bày khoảng 2 giờ, các đồng chí phát biểu đánh giá rất cao việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 5, nhất là Hải Phòng đã vận dụng sáng tạo, phát triển công, nông nghiệp có bước tiến mới, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế cả nước, mặc dù trước đó đã có báo cáo của Tổ sắp xếp công nghiệp do đồng chí Tô Duy gửi đến, vẫn giữ nguyên như cũ, vẫn ghi: “Hải Phòng thành phố công nghiệp mà chú trọng phát triển nông nghiệp là trệch hướng...” Hội nghị không ai nói đến vấn đề này cả.

Khi các đồng chí nhắc nhiều và đánh giá cao việc phát triển nông nghiệp Hải Phòng, nhân có ý kiến hỏi, tôi báo cáo bổ sung, có nói một ý như sau: “Thế mà đồng chí phụ trách Tổ sắp xếp công nghiệp Hải Phòng lại phê bình Thành uỷ phát triển nông nghiệp là trệch hướng...”. Anh Lê Duẩn nói chen vào: “Nói tầm bậy...”.

Sau khi tan hội nghị, tôi nghĩ mọi chuyện vậy là bình thường, và như vậy Trung ương đã bác bỏ báo cáo của Tổ sắp xếp công nghiệp ở Hải Phòng.

Tối hôm đó, tôi và đồng chí Trịnh Thái Hưng đến thăm anh Mười, thâm tâm tôi nghĩ chỉ có thân tình thôi. Ai ngờ hai chúng tôi đến nhà, anh Mười tỏ vẻ không bằng lòng, không bắt tay chúng tôi. Anh đứng dậy đi đi, lại lại nói gay gắt: “Cậu Thành phê bình mình, nói đồng chí phụ trách công nghiệp phê bình Hải Phòng trệch hướng, cứ nói đi nói lại mãi”.

Tôi và đồng chí Hưng nhìn nhau. Anh Hưng hỏi tôi: “Chúng mình có nói gì anh Mười đâu nhỉ?”. Tôi rất phân vân suy nghĩ, không rõ anh Mười nghe ai phản ảnh mà phẫn nộ đến như thế. Tôi để anh Mười nói cho hết cơn nóng rồi mới nói: “Tôi báo cáo anh Mười, có anh Hưng làm chứng, tôi chỉ một lần nói: “Đồng chí phụ trách Tổ sắp xếp công nghiệp Hải Phòng của Trung ương phê bình Hải Phòng làm nông nghiệp là trệch hướng, không nêu tên ai...”. Hai chúng tôi kể lại cuộc họp ngày hôm nay cho anh Mười nghe, mãi anh mới vui vẻ nói chuyện với chúng tôi... Khoảng 40 phút, chúng tôi xin phép ra về (Lúc này tôi vẫn nghĩ anh Mười nghe nhầm).

Hôm sau đến họp, mọi người lại chia buồn với chúng tôi về cơn lốc tối vừa qua, lật úp một thuyền ở bến Bính, phía bên Thủy Nguyên làm chết hơn 20 người... Tôi rất buồn.

Tại sao anh Mười lại nổi nóng với mình? Tôi tìm hiểu thêm ở Văn phòng Trung ương mới biết chính anh Mười là người phản đối Hải Phòng, lấy nông nghiệp làm trọng là trệch hướng, coi nhẹ công nghiệp... Tôi bắt đầu có “ấn tượng” về cách làm của Tổ sắp xếp công nghiệp do anh Tô Duy làm Tổ trưởng. Phải chăng cách làm ấy có mục đích của nó? Trên đường trở về Hải Phòng, tôi nhắc anh Trịnh Thái Hưng: “Anh Mười đối với Hải Phòng không như trước nữa đâu! Anh em mình làm ăn cần thận trọng” (đồng chí Trịnh Thái Hưng đã mất năm 1996). Đồng chí Hưng cũng bổ sung cho tôi thêm một số tình hình của Tổ sắp xếp công nghiệp khi làm việc ở Hải Phòng, có nhiều hành vi xoi mói, tìm khuyết điểm, giống như đồng chí Nguyễn Dần, Chủ tịch thành phố đã phản ảnh với tôi.

Sau sự việc đưa Hải Phòng ra đấu về khoán sản phẩm nông nghiệp là sai đường lối phát triển của một thành phố công nghiệp không thành công, nhóm người của anh Tô Duy còn tung ra dự kiến sẽ “hạ bệ” tôi hoặc điều về Trung ương để đe doạ tôi. Tôi vẫn làm việc và làm việc tích cực hơn. Đối với anh Mười tôi vẫn một mực quý trọng là Thủ trưởng cũ, không nghi ngờ, dù dư luận nói đến tai tôi những điều nhận xét về tôi của anh Mười không có thiện chí. Anh Mười thỉnh thoảng còn gọi đồng chí Nguyễn Dần, Chủ tịch UBND lên báo cáo tình hình Hải Phòng. Anh răn đe anh Dần không được nghe Đoàn Duy Thành và nói: “Bỏ tem phiếu là có tội”. Anh Dần về kể lại với tôi, tôi bảo: “Phát tem phiếu mà không có hàng bán cho dân mới là có tội, lừa dối dân, tạo cho mậu dịch viên và cán bộ tham nhũng”. Đến nay anh Dần thường kể lại chuyện này. Ngày 19-6-2004 anh Dần còn kể chuyện này cho đông người nghe ở nhà khách số 2 Bến Bính Hải Phòng.

Qua việc này và nhiều việc khác về thái độ của anh Mười đối với tôi, nhất là sau khi có những nhận xét đánh giá cao về tôi của Tổng Bí thư Lê Duẩn và Chủ tịch nước Trường Chinh và các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị khác, tôi cảm thấy có điều gì đó chẳng lành.
Tôi bàn với nhà tôi sẽ tập trung làm việc thật tốt cho Thành phố, đến 13-5-1985 kỉ niệm 30 năm giải phóng, tôi xin nghỉ. Tôi đã có đơn đề nghị từ lâu, rằng sẽ làm cho đủ 40 năm tham gia cách mạng là xin về hưu. Nhà tôi hỏi tại sao? Tôi nói:

- Nhân dục vô nhai” (lòng tham vô đáy), mình cũng như người khác, phải biết dừng ở điểm nào nên dừng. Mình lại là nhà nho, thấm nhuần đạo lí của Khổng Tử, của Tư tưởng Bác Hồ, mình làm chỉ vì mục đích vì dân vì nước, không vụ lợi. Làm Chủ tịch rồi Bí thư Thành uỷ một thành phố đi đầu trong xuất nhập khẩu đến hôm nay nhà mình có một đồng đô-la nào đâu? Anh chỉ cầm 200 USD năm 1978 làm Trưởng đoàn đi thăm Nhật Bản. Được cấp 200 đô la để chi cho cả đoàn, khi về không tiêu một xu lại trả lại tài chính đủ 200 USD. Không những thế, Nhật Bản còn cho mỗi người 300 USD do không phải lấy vé máy bay lượt về, do phía Nhật đài thọ, cũng đem về nộp cho Uỷ ban đủ 2.100 USD. Mình sống đến hôm nay và làm được một số việc cho dân, cho nước. Đó là hạnh phúc lắm rồi! Mình càng làm tốt bao nhiêu thì sẽ càng phát sinh đố kị kèn cựa bấy nhiêu! Đó cũng là lẽ thường tình dễ hiểu. Người “quân tử” biết tiến biết thoái, không nên dấn sâu vào con đường “danh vọng”. Nguyễn Trải đã về nghỉ, lại nể vua ra giúp đời, nên bị chết oan. Ở đời khó lắm! Nếu theo cách mạng như vậy là “tiêu cực”.

Trong lúc dân cần ta phục vụ, đem lại lợi ích cho dân, ta lại nghỉ, phải chăng ta thoái thác công việc cá nhân chủ nghĩa... Nói thế nào cũng được. Ta phải làm chủ mình để quyết định. Anh nghĩ ý “lên Hà Nội” chưa xuất hiện trong giai đoạn này thì hơn, không phải ai xa lạ khác “đánh” mình đâu, sẽ là những người thân đánh mình trước, em theo dõi mà xem. Cho nên ta không nên xin bất kì một thứ gì mang tính “lợi và danh” với anh Mười, sau này sẽ khó xử. Có xin thì xin công việc làm cho dân, cho nước... Với người khác cũng vậy thôi, không phải chỉ với anh Mười!

Sau cuộc họp của Bộ Chính trị, ý định đưa vấn đề “Hải Phòng đi trệch hướng” không thành công, chắc chắn sẽ có những việc làm mới khác, kể cả vu khống chính trị, tôi lại nói với nhà tôi như vậy Nhưng thực sự chúng tôi không quan tâm, chỉ mong làm sao cho dân ta giàu lên, không phải làm nô lệ ngoại bang.

Ngẫm lại lịch sử trong hơn 1.000 năm giữ nước, kể từ Đinh, Lê, Lí, Trần, Lê... đến nhà Nguyễn, nước ta đã trải qua 8 lần bị xâm chiếm của phương Bắc. Họ bị thất bại 7 lần, chỉ có một lần họ chiếm được nước ta 20 năm, do nội bộ mất đoàn kết (thời kì cuối nhà Trần). Vì nước xâm chiếm nước ta phương thức sản xuất không hơn ta là bao nhiêu. Nhưng từ năm 1862 Pháp bắt đầu đô hộ nước ta, một nước tư bản phát triển, phương thức sản xuất nổi trội hơn nước ta nhiều lần, nên dân ta phải chịu khuất phục chúng, làm nô lệ suốt 83 năm ròng rã. Chỉ có Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biết tận dụng thời cơ, với sự lãnh đạo thông minh tài tình, với ý chí kiên định, mới đưa dân tộc ta thoát ách nô lệ: Nhưng khi đó ta vẫn là một nước rất nghèo, phương thức sản xuất rất lạc hậu. Đã vậy Pháp lại đến, tái xâm lược Việt Nam thêm 9 năm, sau đó Pháp nhường cho Mỹ xâm chiếm một nửa nước ta 20 năm, tổng cộng lại là 113 năm dân lộc bị nô lệ. Miền Bắc tuy được giải phóng sớm 20 năm, nhưng đóng góp cùng miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ, tổn thất về người và của biết bao nhiêu mà kể. Một nước nghèo, lạc hậu, không có vũ khí tối tân để bảo vệ đất nước, đó là nỗi đau của cả dân tộc, của từng người Việt Nam, không một người yêu nước nào không “cám cảnh” điều ấy.

Thành phố Hải Phòng đang trong khí thế thi đua đẩy mạnh sản xuất công, nông nghiệp, dịch vụ, “Ngói hoá nông thôn, ngọt hoá đồng ruộng”, xây dựng thành phố “khang trang sạch đẹp, lịch sự văn minh”, xây dựng đường xá, cổng, ngõ, xoá bỏ hố xí thùng, xây hố xí tự hoại, thực hiện chủ trương nhà nước và nhân dân cùng làm (Nhà nước cấp 1/2 số tiền xây hố xí tự hoại cho dân), xây dựng nhà cửa khang trang nối nội thành đến các thị trấn, huyện, đường nội thành sang Kiến An qua Cầu Niệm mới khánh thành, hai bên phố xá được qui hoạch xây dựng trước, những ngôi nhà 2 tầng trở lên, hoặc mái bằng nếu làm 1 tầng v.v...

Trong khi đó bất ngờ ở Hà Nội có chỉ thị “Z30” rất mật, tịch thu nhà từ 2 tầng trở lên, bất kể to nhỏ, trị giá bao nhiêu. Chỉ thị “Z30” không được phổ biến cho các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, chỉ có chỉ thị bằng “miệng”. Hải Phòng cũng được 1, 2 đồng chí Bộ Chính trị nhắc nhở rằng Hà Nội làm trước, Hải Phòng theo Hà Nội mà làm. Bên Sở công an cũng được mấy đồng chí Thứ trưởng nhắc Giám đốc Sở Công an Hải Phòng triển khai, đề nghị Thành uỷ thông qua chủ trương cho làm...

Tôi triệu tập Ban Thường vụ Thành uỷ để bàn việc này. Tôi đề nghị mọi người suy tính thật kĩ mọi mặt, vì vấn đề này liên quan đến pháp luật, không thể tùy tiện tịch thu nhà của dân được, nếu họ không phạm pháp. Hải Phòng cần đợi chỉ thị chính thức bằng văn bản của Trung ương hoặc Chính phủ sẽ làm cũng không muộn. Mà tiến hành cũng phải có phương pháp. Trung ương chỉ thị rõ nguyên nhân tịch thu... mới tiến hành được.

Tôi trực tiếp lên Hà Nội xem việc tịch thu một số nhà. Tôi thấy chẳng khác gì Cải cách ruộng đất. Cải cách ruộng đất còn đấu tố rồi mới tịch thu, nhưng Z30 chỉ đọc lệnh là tịch thu, bốc cả gia đình gia chủ lên xe đi ở chỗ khác. Tôi đi 3 lần xem được 3 nhà. Tôi đến Văn phòng Trung ương Đảng và Văn phòng Chính phủ xin xem chỉ thị Z30. Hoá ra chẳng ai biết cả và tỏ vẻ giữ bí mật, thái độ người được tôi hỏi cũng sợ sệt, e dè nói “nước đôi”, không bảo làm, cũng không bảo không! Tôi thấy rất lạ lùng. Đang thời buổi hoà bình xây dựng, mọi người đang phấn khởi làm ăn, cớ sao lại có việc làm “kì lạ” này? Nhất là tôi thấy tận mắt một gia đình bị tịch thu, cả nhà đội khăn tang bị đẩy lên xe, khóc sướt mướt...

Về đến Hải Phòng tôi lại thấy dân chúng xao xuyến lo sợ. Nhiều người chạy đến Bí thư Thành uỷ hỏi han... Còn những gia đình đang xây dựng thì dừng lại không xây, hoặc thu nhỏ lại, định xây 2 tầng thì rút còn 1 tầng thôi v.v... Ngày nay, khi tôi đi từ Hải Phòng sang Kiến An, tôi vẫn thấy buồn phiền về “Z30” đã làm cho con đường này mất đẹp. Nhà cửa hai bên, xây dựng thời kì “Z30”, không xứng với con đường mở rộng!

Tại các cuộc Hội nghị lớn của Thành phố, tôi nói: “Đây là vấn đề quyền công dân, thành phố sẽ không làm việc này với bất kì gợi ý của ai. Chỉ khi có chỉ thị chính thức, đóng “dấu son” búa liềm, hoặc dấu Quốc huy, thì Hải Phòng sẽ thực hiện nghiêm chỉnh”...

Dư luận sức ép 4 phía với Hải Phòng. Thành phố Hồ Chí Minh điện ra hỏi: “Hải Phòng có làm không?”. Tôi trả lời: “Đợi chỉ thị chính thức”. Trong khi đó Hà Nội đã lịch thu tới 105 nhà. Có những đồng chí phê bình Giám đốc Sở Công an Hải Phòng mất lập trường, mất quan điểm, vì đồng chí Giám đốc Sở Công an Hải Phòng trả lời: “Hải Phòng chưa làm, vì Hải Phòng có cách làm khác...”.

Một buổi chiều sắp hết giờ làm việc, đồng chí Nguyễn Văn An, Bí thư Tỉnh uỷ Hà Nam Ninh (nay là Chủ tịch Quốc hội) gọi điện thoại cho tôi nói: “Có việc cần, tôi và đồng chí Thuật, Chủ tịch UBND tỉnh muốn ra Hải Phòng trao đổi với anh. Anh chuẩn bị cho chúng tôi ăn cơm tối, xong việc là về ngay...”.

Tôi chuẩn bị cơm tối và đón đồng chí An, đồng chí Thuật ở nhà khách số 13 Trần Hưng Đạo. Đến 20 giờ, hai đồng chí đến Hải Phòng. Chúng tôi bàn công việc ngay.

Đồng chí An, đồng chí Thuật trao đổi với tôi về việc tịch thu nhà ở thành phố Nam Đinh, thị xã Ninh Bình, thị xã Hà Nam... Qua trao đổi phân tích việc Hải Phòng không làm, nếu không có chỉ thị của Ban Bí thư, hoặc chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, hai đồng chí tỉnh bạn rất tâm đắc. Tôi lấy tình lấy lí phân tích mọi mặt cho hai đồng chí nghe. Thứ nhất là phi đạo lí, sai pháp luật. Cuộc sống của nhân dân còn khổ sở, tích cóp được ít tiền làm nhà cho cha mẹ, con cái ở không dễ dàng gì. Nay ta tịch thu, thế thì CNXH, người dân ở vào đâu? ở bằng cái gì v.v. và v v.

Hai đồng chí rất đồng tình với quan điểm của tôi. Tôi nói: “Tháng 6-1983 họp Hội nghị Trung ương tôi sẽ phát biểu về vấn đề này...”.

Hai đồng chí vui vẻ, yên tâm ra về, sau khi ăn cơm xong. Đồng chí An bảo đồng chí Thuật đưa cho tôi xem 100 quyết định kí tên, đóng dấu sẵn để ngay hôm sau tổ chức các đoàn đi tịch thu nhà ở 3 địa điểm trên. Anh An nói: “Tôi thấy không yên tâm nên điện ra trao đổi với anh. Chúng tôi sẽ đốt ngay các quyết định này tối nay”. Các đồng chí ra về.

Tôi tiễn các đồng chí, khi quay lại, nghĩ ngợi băn khoăn vô cùng. Thành phố Nam Định, hai thị xã Ninh Bình và Hà Nam mà có tới 100 quyết định tịch thu nhà, hỏi lấy đâu ra nhà mà tịch thu? Tôi phân vân quá! Các đồng chí mình đơn giản thật! Coi sinh mệnh chính trị của người dân như thế nào mà lại có “Z30”. Hai cuộc kháng chiến trường kì, bao sự hi sinh, nay “kí cóp” xây dựng được căn nhà, bị tịch thu với quan điểm cho rằng “làm ăn bất chính”, tài sản không rõ ràng... Nghĩ mà rơi nước mắt!

Về đến nhà đã 24 giờ. Nhà tôi hỏi tiếp khách gì quan trọng mà khuya thế? Tôi kể hết chuyện cho nhà tôi nghe. Tôi nói: “Tôi sẽ trình bày cặn kẽ vấn đề này ở Hội nghị Trung ương sắp tới...” Nhà tôi hỏi lại: “Anh định đương đầu đến bao giờ?” Tôi trả lời: “Tôi sẽ đương đầu đến khi còn cái đầu này”.

Hai vợ chồng tâm sự, đến lúc mệt quá, ngủ lúc nào không biết.

Lúc đó Hải Phòng đã có một vài nhà tư nhân xây dựng 2, 3 tầng, như nhà anh Thêm, thủy thủ tàu Viễn dương, xây dựng ở xã Đằng Lâm, gần sân bay Cát Bi; nhà anh Bút lái xe, xây dựng ở Quán Toan, bên đường 5. Anh Thêm rất sợ. Hôm đến dự tổng kết ở công ti VOSCO, khi nói chuyện, anh em xôn xao hỏi tôi Hải Phòng có tịch thu nhà như ở Hà Nội không? Có hai thủy thủ Viễn dương làm nhà ở Hà Nội đã bị tịch thu. Tôi trả lời: “Khi có lệnh chính thức sẽ làm”. Tôi cũng nói ý kiến riêng tôi thì không nên làm vậy. Tôi khuyên các thủy thủ tiết kiệm được tiền cần xây nhà cao và đẹp hơn nhà anh Thêm. Tới Hội nghị Trung ương tháng 6-1983 này, tôi sẽ tình bày quan điểm của tôi về vấn đề trên.
Nghe thế mọi người phấn khởi lắm.

Một hôm anh Mười về làm việc với Hải Phòng. Làm việc xong, tôi và đồng chí Nguyễn Dần, Chủ tịch, đưa anh Mười đi xem nhà máy đóng tàu bến Kiền. Qua Quán Toan, anh Mười trông thấy nhà anh Bút lái xe, anh Mười hỏi nhà ai mà to thế! Tôi báo cáo đó là của một lái xe Đoàn 12. Anh Mười nói: “Nếu tôi là Bí thư, Chủ tịch Thành phố, tôi sẽ tịch thu cái nhà này làm nhà mẫu giáo...”. Tôi và anh Dần nhìn nhau lặng im. Khi anh Mười về rồi, anh Dần bảo tôi: “Thế là cụ Mười cũng đồng ý tịch thu nhà...” Tôi không nói gì. Anh Dần nói thêm: “Đợi chỉ thị chính thức sẽ bàn việc này anh Thành ạ”!

Tôi gật đầu và suy nghĩ...

Nay, nếu ai qua Quán Toan nhìn lại cái nhà anh Bút (mà tôi thường gọi là “Hàn Bút” vì cách đấy khoảng hơn một km có nhà “Hàn Điềm”, địa chủ, cũng có cái nhà 2 tầng); nhà “Hàn Bút” và cả nhà “Hàn Điềm” nữa, so với nhà nông dân ở khu vực đó hiện nay, không ý nghĩa gì, chỉ như những “chuồng chim to” mà thôi.

Nhân chuyện liên quan đến nhận thức, thực thi luật pháp và quyền công dân, tôi nhớ lại một việc, đối với nhà cầm quyền có thể là chuyện nhỏ, nhưng đối với một người dân là cả cuộc đời và sự nghiệp của họ.

Hôm ấy, với cương vị là Chủ tịch thành phố tôi nhận được một lá đơn kêu cứu của một sinh viên trường Đại học Hàng hải. Nội dung trình bày sự việc và tha thiết đề nghị Chủ tịch can thiệp để nhà trường nhận cháu vào học. Số là bố cháu một cán bộ của “Haiphong Ship” đã nhận vận chuyển một loại hàng hiếm vào thành phố Hồ Chí Minh, bị công an tình nghi là buôn lậu đến khám nhà. Khi ở trường về thấy vậy, như một phản ứng tự nhiên, cháu đã vứt một túi sách sang nhà bên cạnh. Thế là cháu cũng bị bắt. Xét trong túi xách chỉ có quần áo cũ, không có gì liên quan đến vụ việc trên, vài ngày sau cháu được tha. Khi cháu trở lại trường thì trường không cho cháu tiếp tục học nữa, với lí do là đã bị bắt, bị tù. Tôi cho kiểm tra lại, và ghi ý kiến gửi tới giáo sư Lê Đức Toàn, hiệu trưởng: “Luật pháp chưa kết luận, các đồng chí cứ để cho cháu tiếp tục học, nếu sau này có bị tù, thì một người tù có học vẫn còn hơn một người tù vô học”. Tôi được biết sau đó cháu đã tốt nghiệp đại học và hiện nay đang là một thạc sĩ, một nhà kinh doanh giỏi.

Cuộc kiểm tra tài chính toàn diện của Đoàn Chính phủ

Tiếp theo Tổ sắp xếp công nghiệp của đoàn anh Tô Duy vừa kết thúc, thì đoàn kiểm tra tài chính toàn diện của Chính phủ về Hải Phòng do đồng chí Ngô Thiết Thạch, Thứ trưởng Bộ Tài chính làm trưởng đoàn. Lúc đó Hải Phòng đang nổi lên như một điển hình làm kinh tế giỏi, một “Con chim én báo hiệu mùa xuân”. Nhiều lời khen, chê lẫn lộn. Có dư luận tung ra: Hải Phòng lấy đâu nhiều tiền thế để xây dựng cầu, cống, đường xá? Họ đưa ra 3 yếu tố để có tiền:

-Buôn lậu.

-Ăn cắp của kho Cảng.

-Gián điệp cho ông Thành tiền để xây dựng, nhằm nâng cao uy tín ông Thành, nhờ vậy sau này được lựa chọn vào vai trò chủ chốt quốc gia để “khuynh đảo” đất nước.

Đoàn đồng chí Ngô Thiết Thạch đến gặp Bí thư Thành uỷ ngay và với thái độ đúng đắn. Tôi tiếp họ cũng rất thẳng thắn.

Trong buổi gặp đầu tiên, tôi đã nói ngay rằng: “Đồng chí Trưởng đoàn và các đồng chí trong đoàn cứ làm việc đến xong thì thôi. Từ thành phố đến quận, huyện và cả xã nữa, các đồng chí đi đâu cũng được, xem gì cũng được. Ai cản trở việc kiểm tra cứ cho tôi biết, tôi sẽ kỉ luật người đó ngay. Còn chế độ ăn nghỉ, tùy các đồng chí:

1) Ăn chế độ chung là 5đ/ngày. Nếu cần ăn thêm đoàn sẽ chi thêm, thành phố phục vụ.
2) Thành phố sẽ chi hoàn toàn 35đ/ngày như mức ăn bình thường của các đoàn đến Hải Phòng từ trước.

Tôi nói thêm đó là sự minh bạch của địa phương. Chúng tôi có những nghị quyết về tiếp khách, chi tiêu, bán hàng cho khách rất rõ ràng. Thí dụ bán xe gắn máy cho khách cũng giảm 5% theo thời giá lúc bán. Thành uỷ viên và con cái uỷ viên Thường vụ thành uỷ cấm không được mua...

Tôi lại nói:

-Tùy các đồng chí lựa chọn, kẻo sau này bảo thành phố đối phó, cho ăn 5đ/ngày để cuộc sống khó khăn phải rút sớm. Hoặc bảo cho ăn 35đ/ngày là mua chuộc đoàn, để bao che lỗi lầm cho địa phương...

Đoàn làm việc một thời gian, với những kết luận đúng đắn: Hải Phòng làm ăn minh bạch rõ ràng, sổ sách ghi chép từ cái nhỏ nhất như biếu xén cấp trên chỉ bằng hiện vật cũng đều ghi lại cho ai, tặng ai, biếu ai, đều ghi sổ sách, tiếp tân, bán hàng... đều có nghị quyết và ghi chép ngày, tháng, rõ ràng. Đoàn đã xác minh một số đối tượng, đều công nhận là đúng...

Khi đoàn rút, thành phố biếu mỗi đoàn viên 5m vải, còn tiền ăn, ở thành phố thanh toán cho đoàn chu đáo với mức 35đ/ngày. Sau cuộc kiểm tra dài ngày đó không có dư luận gì xấu về Đoàn, cũng như của địa phương.

“Chưa hết kiểm tra đâu” - tôi nghĩ. Đoàn kiểm tra của đồng chí Ngô Thiết Thạch chưa kiểm tra ngân sách Đảng. Quả nhiên tiếp sau đó đoàn kiểm tra ngân sách Thành uỷ lại về Hải Phòng do đồng chí Hoàng (Hoàng Lửa), Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương làm Trưởng đoàn và 5 cán bộ. Trước khi xuống Hải Phòng, anh Hoàng gọi điện thoại cho tôi, nói: “Tôi được ý kiến của Ban Bí thư xuống kiểm tra ngân sách Thành uỷ. Tôi dự định làm trong 45 ngày, đề nghị anh giúp đỡ...” Tôi trả lời: “Mời anh cứ xuống làm việc, tôi sẽ tạo mọi điều kiện tốt nhất cho anh kiểm tra...”.

Hôm sau anh Hoàng xuống thẳng Văn phòng Thành uỷ làm việc với Chánh, Phó Văn phòng và gặp đồng chí Lê Danh Xương, Phó Bí thư Thường trực Thành uỷ. Anh Hoàng nói khi kết thúc sẽ gặp anh Thành. Tôi chỉ thị cho Văn phòng Thành uỷ cung cấp mọi tài liệu về tài chính cho Đoàn, không có việc gì phải hỏi ý kiến tôi cả. Có việc gì cần, hỏi anh Xương giải quyết.

Điều thuận lợi cho Đoàn làm việc là Thành uỷ Hải Phòng vốn cấm không cho Văn phòng Thành uỷ, các Ban của Đảng, tổ chức quần chúng, cơ quan công an, viện kiểm soát, quân sự, tham gia làm kinh tế. Những ngành không có chức năng làm kinh tế không được làm kinh tế. Mặc dù Ban Bí thư có chỉ thị số 12 về việc Đảng làm kinh tế, nhưng Thành uỷ Hải Phòng có công văn gửi Ban Bí thư xin phép cho Thành uỷ Hải Phòng không làm kinh tế. Với lí do là Đảng cầm quyền, ngân sách của Đảng do chính quyền cung cấp. Quan điểm này tôi vẫn giữ đến hôm nay, mặc dù sau 1986 tôi rời Hải Phòng, Thành uỷ Hải Phòng bắt đầu làm kinh tế và thành lập Ban Tài chính quản trị, (cũng đẻ ra phức tạp và dư luận không hay), dù nay trong cả nước Đảng đã làm kinh tế, tôi vẫn giữ ý kiến là quyết định đó không phù hợp với một Đảng cầm quyền...

Trở lại với đoàn kiểm tra Đảng của đồng chí Hoàng dạo đó, Đoàn mới làm được 20 ngày đã hết việc, không còn việc gì phải xem xét nữa. Sổ sách chứng từ đầy đủ, Văn phòng Thành uỷ và đồng chí Lê Danh Xương đã báo cáo kĩ càng với Đoàn. Anh Hoàng vui vẻ kết thúc kiểm tra và gọi điện thoại cho biết: “Không có vấn đề phải gặp tôi, tất cả đã trao đổi với anh Xương và anh Trần Xuân Mạnh, Chánh văn phòng rồi”. Và Đoàn xin phép rút về Hà Nội. Tôi mời anh ở lại để gặp nói chuyện cho vui thôi, nếu kiểm tra không còn vấn đề gì. Anh Hoàng nói hôm sau phải họp Uỷ ban Kiểm tra không thể ở lại. Tôi cảm ơn anh Hoàng trước khi Đoàn lên đường. Hôm sau đồng chí Lê Danh Xương, đồng chí Trần Xuân Mạnh báo cáo lại: Đoàn rất phấn khởi. Khi ở Hà Nội nghe nhiều dư luận không hay, nay Đoàn qua thực tế thấy Văn phòng Thành uỷ giúp cho Thành uỷ chi tiêu rõ ràng, rành mạch, không có vấn đề gì. Riêng quà biếu thì hơi rộng, thí dụ cho 5 chai nước mắm, thì nên rút xuống 2, 3 chai/người thôi...

Tôi về nói chuyện với nhà tôi: kinh tế họ nói sai, tung dư luận xấu về Hải Phòng nhưng sự thật đã được kết luận. Vấn đề tiếp chắc là vấn đề chính trị. Với ý định của họ, qua hành động, thái độ, tôi cũng dần dần hình dung ra họ sẽ làm gì những bước tiếp. Nhưng nội dung cụ thể thì tôi không thể tưởng tượng được.

Cuộc họp Hội nghị Trung ương tháng 6-

Cuộc họp nội dung kiểm điểm công tác 6 tháng đầu năm và đề ra nhiệm vụ hoàn thành kế hoạch 1983 do Tổng Bí thư Lê Duẩn chủ trì. Đồng chó Tổng Bí thư đọc lời khai mạc xong, phiên họp đầu tiên do đồng chí Phạm Hùng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ Trưởng Bộ Công An điều khiển. Báo cáo tình hình 6 tháng đầu năm và kế hoạch thực hiện 6 tháng cuối năm, Văn phòng Trung ương đã gửi cho các Uỷ viên Trung ương đọc, nghiên cứu trước, đến Hội nghị là phát biểu ngay.

Đồng chí Phạm Hùng chỉ định tôi phát biểu trước.

Tôi phát biểu một số ý kiến ngắn gọn về Dự thảo báo cáo, còn dành thì giờ cho vấn đề “Z30”, về tịch thu nhà ở Hà Nội. Tôi nói “Z30” đã ảnh hưởng rất lớn tới các mặt chính trị, tư tưởng của Đảng bộ và nhân dân Hải Phòng, nhất là nội thành.

Tôi nói một mạch 2 giờ liền.

-Rõ ràng không có cơ sở gì đặt ra việc tịch thu nhà của người dân, khi họ không phạm pháp luật, không bị pháp luật xử. Chỉ một Quyết định của Chính quyền địa phương là xông vào đuổi người chủ ra khỏi nhà, rồi tịch thu. Trong lúc này nhà cửa cho dân ở thiếu thốn, ngay cán bộ CNVC cũng không thuê được nhà ở, hoặc có thuê được nhưng nhà hỏng không có tiền sửa chữa. Đối với những khu nhà Nhà nước quản lí thì dân xin sửa không cho, dân xin mua không bán, càng để càng dột nát, xuống cấp... Nay người dân (chủ yếu là cán bộ công nhân viên chức ở một số ngành đi công tác nước ngoài, như thủy thủ tàu viễn dương, cán bộ đi công tác nước ngoài) tích cóp được ít tiền để dựng gian nhà cho vợ con ở, thực sự phải nhìn nhận là việc tốt. Đất chật, người ta làm nhiều tầng, nhưng cũng không to tát gì. Tôi đã trực tiếp xem tịch thu 3 nhà ở Hà Nội thì thấy thảm thiết lắm. Họ kêu khóc, đội “khăn tang”, khi đội công tác đẩy họ lên xe chở đi. Tôi xin đặt ra một câu hỏi với Trung ương: “Chúng ta làm cách mạng để làm gì? Người cộng sản hi sinh suốt đời cho nhân dân, đem lại hạnh phúc cho nhân dân, thử hỏi ta đã đem lại cho nhân dân cái gì, sau khi đất nước đã được thống nhất 8 năm? Những việc của chúng ta làm là trái đạo lí. Bác Hồ trong di chúc đã nói: “Sau khi nước ta được thông nhất, chúng ta sẽ xây dựng đất nước ta to đẹp hơn, đàng hoàng hơn... “ Ta chưa xây dựng thì để cho dân xây trước, còn ta sẽ xây dựng lớn hơn, cả nước thành công trường, xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Thành uỷ Hải Phòng chủ trương “ngói hoá nông thôn”, mai đây sẽ xây nhà 2, 3 tầng, lại bị tịch thu hay sao? Năm 1950 khi tôi làm Bí thư Quận uỷ Ngô Quyền, cơ quan đóng ở huyện Kinh Môn, địa phương mời tôi nói chuyện về Chủ nghĩa cộng sản để chuẩn bị Đảng ra công khai hoạt động vào đầu năm 1951, tôi đã nói với nông dân xã Châu Xá: “Khi kháng chiến thắng lợi, bà con sẽ hết cảnh nghèo khổ, không còn ở nhà tranh vách đất, mà ở nhà xây”. Họ vỗ tay hoan hô không ngớt. Nay độc lập thống nhất rồi, mình không có tiền xây nhà cho dân ở, họ xây ta tịch thu, hỏi còn đạo lí gì nữa?

Hội trường im phăng phắc. Tôi nhìn anh Ba, anh Hai Hùng... Cả hai anh tỏ thái độ suy nghĩ, theo dõi ý kiến của tôi. Cuối cùng tôi đề nghị: “Hải Phòng chờ ý kiến chính thức của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thủ tướng Chính phủ sẽ thi hành nghiêm túc. Còn điện thoại nhắc nhở của một số đồng chí bảo nên bắt chước Hà Nội mà làm để có phong trào, thì chúng tôi không làm. Chúng tôi chịu trách nhiệm trước Đảng và trước dân. Có một đồng chí phê bình Hải Phòng không làm theo là vấn đề quan điểm, lập trường, chứ không phải cách làm. Tôi cho những lời phê bình đó “hồ đồ”. Tôi đề nghị Hội nghị Trung ương cần bàn rõ, để thực hiện thống nhất cả nước. Hiện nay nhân dân đang do dự, suy nghĩ về chính sách của chúng ta...

Sau khi phát biểu xong, đồng chí Phạm Hùng đứng dậy thong thả, hượm, hượm vài cái, cười và nói: “Rất sáng tạo, rất sáng tạo!

Tôi ủng hộ ý kiến anh Thành... Có đồng chí nào phát biểu gì, cứ nói...”

Mấy phút im lặng, rồi anh Ba đứng dậy phân tích đạo lí của Đảng ta, của dân tộc, nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Sau đó anh hỏi: “Có đồng chí nào phân tích đạo lí hơn thì phát biểu tiếp...”.

Tôi hồi hộp.

Không ngờ hai anh lại ủng hộ mạnh mẽ ý kiến của tôi đến thế. Tôi sợ quá! Nếu cứ nghe theo mấy đồng chí làm “Z30” thì thật chết, sai cả ý Đảng và lòng dân. Không hiểu cái chỉ thị “Z30” ấy ở đâu mà ra? Bây giờ Tổng Bí thư, Uỷ viên Bộ Chinh trị phụ trách nội chính lại đồng tình một cách triệt để với tôi. Biết bao suy nghĩ về vấn đề này...

Sau đó một số đồng chí Thành phố Hồ Chí Minh và phía Nam, đồng chí Quất, Bí thư Hà Bắc... phát biểu, hoan nghênh, ủng hộ ý kiến tôi. Thế là hết cái “Z30” mà sau này Hà Nội phải giải quyết hậu quả đến năm 19921993 mới xong.

Hội nghị Trung ương năm 1991 đồng chí Phạm Hưng, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã đặt cho sự kiện “Z30” cái tên mới là “Chết rét”... Khi phát biểu xong ngồi xuống, trông thấy đồng chí Hồng Hà, Tổng biên tập báo Nhân Dân ngồi ghế sau, tôi quay lại nói với đồng chí Hồng Hà: báo Nhân Dân ngày... 6-1983 có đăng 6 bài phê bình các địa phương không tịch thu nhà. Trong 6 bài đó có 5 bài phê bình Hải Phòng, một bài phê bình Hà Bắc... Tôi xin nhắc anh Hồng Hà, anh có đăng một triệu bài, nhưng không có chỉ thị đóng dấu búa liềm và quốc huy tôi cũng không làm đâu...” Anh Hồng Hà đính chính: “Đó là Tổ ý kiến bạn đọc cho in, tôi không biết...”.

Giữa thời kì hoà bình xây dựng đất nước mà có những việc làm kì lạ như vậy, thật đáng làm một bài học cho các thế hệ cấp uỷ mai sau suy nghĩ và thận trọng. Khi sai sẽ gây ra bao oán thù, nó sẽ tích tụ chồng chất dần lên, thành những hận thù sâu xa đến tận đời con, đời cháu... Khi có biến cố chính trị, những người bị xử sai này dễ ngả về phe chống đối cách mạng mà ta không thể coi thường.

Khi chúng ta ở thế “thượng phong”, phải nghĩ đến lúc “hạ mạt”. Trách nhiệm của người đi trước, phải biết để lại “hồng phúc” cho người đi sau. Chớ để xảy ra chuyện: “Cha ăn mặn, con khát nước” như dân gian thường nói. Những người cầm cân nảy mực một quốc gia càng phải nắm lấy những điều răn dạy của tổ tiên, và của các bậc hiền triết đã để lại cho nhân loại biết bao châm ngôn, tục ngữ... Chúng ta cần đọc kĩ, suy ngẫm kĩ. Bất kì hoàn cảnh nào cũng có thể ứng dụng, cho chuẩn mực, cho đúng đạo lí.

Kinh nghiệm sai lầm trong Cải cách ruộng đất, rồi chỉnh đốn tổ chức, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, tưởng rằng những bài học lớn lao đó chưa xa lắm. Tôi vẫn thường nghiêm khắc xem xét chính mình việc vận dụng học thuyết của Marxlénine, tư tưởng Hồ Chí Minh, với quan điểm chính trị, lập trường giai cấp cho nhuần nhuyễn, phù hợp với đạo lí muôn thuở mà tổ tiên ta để lại.

Có như vậy mới hi vọng tạo nên sự hoà hợp đoàn kết với tầm cao hơn, sâu rộng hơn, không chỉ có lí trí mà còn tình cảm của người đối với người... xây dựng một nước giàu, đủ sức bảo vệ lổ quốc, không bao giờ để ngoại bang xâm chiếm, nô dịch bằng bất kì hình thức nào.

Tổ chức kỉ niệm 30 năm giải phóng Hải Phòng

Từ 13-5-1955 đến 13-5-1985, tôi đã chứng kiến biết bao đổi thay của thành phố Cảng Hải Phòng. Tiếp quản, xây dựng rồi chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ kéo dài từ 81964 đến tháng 2-1973, ròng rã 9 năm liền. Chín năm ấy giặc Mỹ đã tàn phá gần 3/4 thành phố công nghiệp lớn thứ hai miền Bắc. Hàng nghìn chiến sĩ và nhân dân hi sinh do bom Mỹ giết hại, không kể hàng vạn con em Hải Phòng vào miền Nam chiến đấu, góp phần giải phóng miền Nam để rồi hàng nghìn chiến sĩ nằm lại trên chiến trường miền Nam máu lửa. Trung đoàn Hải Phòng chi viện cho Đà Nẵng, khi giải phóng Đà Nẵng, đã không còn một chiến sĩ nào của Trung đoàn trong số quân đi vào đợt đầu... Vậy mà sau 10 năm, quân dân Hải Phòng dưới sự lãnh đạo của Thành uỷ, sự chỉ đạo của Trung ương và Chính phủ, đã khôi phục, xây dựng lại Thành phố khang trang hơn, lịch thiệp hơn, từng bước thực hiện Di chúc của Bác Hồ.

Để đón nhận Huân chương Sao vàng của Nhà nước trao tặng, Thành uỷ, Uỷ ban Nhân dân Thành phố tổ chức ngày kỉ niệm với đầy đủ ý nghĩa lớn lao của nó. Trước hết phát động phong trào thi đua xây dựng thành phố, tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội, khơi dậy một tinh thần tự lực tự cường, không ỷ lại trông chờ, mà phát huy từ tiềm năng của thành phố, cùng với sự giúp đỡ của Trung ương, sự hợp tác với các tỉnh, thành trong cả nước, đồng thời tận dụng sự hợp tác quốc tế để xây dựng một mô hình XHCN của một địa phương, góp phần kinh nghiệm cho Trung ương.

Thành uỷ, UBND thành phố, tổ chức kỉ niệm 30 năm giải phóng rất long trọng. Các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Chính phủ, phân công nhau về các địa phương dự, vì dịp này cả nước cũng kỉ niệm 10 năm giải phóng, thống nhất đất nước. Thủ tướng Phạm Văn Đồng về dự với Hải Phòng, còn đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn xuống chúc mừng Hải Phòng trước một ngày. Đồng chí Chủ tịch Trường Chinh gọi điện cho tôi chúc mừng Hải Phòng và nói thêm: “Tôi cũng muốn đi Hải Phòng nhưng không được phân công, nên gọi điện chúc mừng Hải Phòng. Đồng chí chuyển lời tôi đến Đảng bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang Hải Phòng giúp tôi”. Giọng nói và lời văn của Chủ tịch Trường Chinh đến hôm nay nhớ lại tôi còn rất xúc động về tình cảm của đồng chí.

Anh Đỗ Mười cũng rất nhiệt tình. Anh gọi điện cho tôi, nói rằng anh sẽ xuống dự và sẽ giục anh Đồng Sĩ Nguyên với các đồng chí khác cùng xuống dự...

Ngày lễ lớn trên lễ đài Thành phố, Đoàn chủ tịch chỉ thiếu vắng Tổng Bí thư Lê Duẩn và Chủ tịch Trường Chinh, còn hầu hết các đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư đều đến dự và tham gia Chủ tịch đoàn. Ngày kỉ niệm có diễu hành của lực lượng quần chúng, diễu binh của thủy, lục, không quân rất hoành tráng. Các đoàn đại biểu tỉnh bạn kết nghĩa của Campuchia và Lào khi thấy máy bay phản lực bay qua lễ đài đã nói: “Chúng tôi kỉ niệm ngày Quốc khánh cũng không bằng Hải Phòng...”.

Các đồng chí lãnh đạo Hải Phòng và Kiến An qua các thời kì đều được trân trọng mời về dự. Các đồng chí về khá đông đủ.

Ngày tổ chức kỉ niệm 30 năm giải phóng Hải Phòng, Kiến An thành công rất tốt đẹp, gây được không khí vui tươi, hào hứng cho mọi tầng lớp nhân dân Thành phố.

Đến cuối năm tôi cùng Ban Thường vụ Thành uỷ chủ trì hoàn tất 46 Nghị quyết của Thành uỷ và Ban Thường vụ Thành uỷ. Tôi lên báo cáo với anh Lê Đức Thọ, Uỷ viên Bộ Chính trị phụ trách tổ chức, rằng hết năm 1985 tôi xin nghỉ. (Dự định này tôi đã chuẩn bị từ lâu, chuẩn bị cả cho vợ tôi cùng các cháu. Tôi phục vụ cách mạng đã tròn 40 năm, sức khoẻ do tù đày bệnh tật hiện suy giảm, vả lại cũng chưa bao giờ tha thiết quyền chức, danh lợi. Các cụ xưa đã răn dạy phải biết rút lui đúng lúc mới là người hiểu đời).

Tôi bị đồng chí Lê Đức Thọ phê phán là thiếu ý chí vươn lên. Tôi thưa lại rằng hàng năm tôi đã báo cáo Tổ chức là đến năm 56 tuổi tôi xin nghỉ, để Tổ chức biết trước, khỏi bị động... Anh Thọ lại tỏ ra nóng giận:

-Cậu nói thế khác nào cậu nói chúng mình. Cậu mới hơn 50 tuổi, chúng mình đã 70 tuổi... Cậu đã được xếp vào đội ngũ kế cận... Tại sao lại nghĩ như vậy.
-Tôi lại thưa với anh, tôi cũng được anh Nguyễn Đức Tâm cho biết như vậy. Nhưng tôi báo cáo với anh kẻo có người lại nghĩ tôi được trên chú ý, quên lời hứa của mình, anh em địa phương sẽ coi thường...
Anh Thọ đứng dậy nói:
-Thôi, bỏ cái ý định ấy đi. Cậu ở Hải Phòng làm tốt, tôi đã hỏi cung Hoàng Trừ, Trường Xuân, cậu gìn giữ lắm, gìn giữ lắm.

Rồi anh hỏi sang việc khác. Anh Thọ không chỉ nói riêng với tôi, mà còn nói với cán bộ giúp việc. Anh Đạt, thư kí của anh, đã đôi lần nói với tôi: “Tôi ít thấy anh Lê Đức Thọ khen cán bộ cao cấp trước mặt đông người, nhưng anh Thọ đã khen anh trước nhiều người: Cậu Thành cậu ấy gìn giữ lắm!.”.

Giờ đây tôi đã có thể nói rất thành thực rằng: “Anh Thọ cũng làm tôi khổ nhiều lần”. Tôi vẫn rất kính trọng cái “tài” và tính “quyết đoán” của anh, nhưng tôi thấy anh còn khá độc đoán chuyên quyền về công tác Tổ chức cán bộ.

Việc tôi xin nghỉ sau tổ chức lễ kỉ niệm 30 năm giải phóng Hải Phòng bị lọt ra ngoài. Những kẻ xấu tung tin tôi sợ lên Trung ương bị “vạch mặt” nên “ăn non”. Kì này vào Đại hội Đảng toàn quốc sẽ “lột lon”, hoặc điều đi để “điệu hổ ly sơn”. Có như vậy mới trị được những tay chân như Trưởng Xuân. Nào là kì này nếu không đánh bật Đoàn Duy Thành ra khỏi Trung ương thì cũng làm cho mất nhiều phiếu bầu, để không đủ vào Bộ Chính trị, không có điều kiện ngoi lên cao. Trong số những kẻ xấu bụng ấy, tôi biết rõ nhất là anh Tô Duy, anh Nguyễn Thắng, còn có tên là Thắng Rỗ, Thắng Lầm. Họ đi gặp các cơ sở quận Ngô Quyền và những anh chị em bị bắt, kêu gọi, kích động, để họ vu khống tôi. Nhiều anh chị em được anh Tô Duy đến tận nhà phát động như anh Sửu, cô Định v.v... Nhưng không ai theo họ cả, lại vào báo tin cho tôi biết. Trừ anh Hoàng Chữ đã viết một lá thư gửi cho đồng chí Đỗ Mười. Đồng chí Đỗ Mười xem xong chuyển cho anh Nguyễn Đức Tâm, uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương. Các anh ấy làm có lớp lang, bài bản, khá chu đáo... Mặt khác các anh ấy kéo thêm một số bạn bè, cán bộ dưới quyền (nhưng chẳng ai bị tù, trừ anh Hoàng Chữ, một nhân chứng sống của các anh ấy. Sau nay anh Hoàng Chữ khi đối chất đã phải xin lỗi tôi, nói rằng mình bị tác động. Tôi sẽ nói kĩ vấn đề đối chất ở chương khác).

Về phía gia đình tôi, vợ tôi và các cháu đều nói do tôi quyết định mọi việc. Các cháu là đảng viên, cán bộ trung cấp, chúng nói: chưa đủ độ “chín” để tham gia vào việc của bố! Riêng cụ thân sinh ra nhà tôi đã gần 90 tuổi, cụ khuyên tôi: “Trèo cây đã đến buồng rồi, không nên nghỉ...”.

Bè bạn, đồng chí thân thiết cũng khuyên tôi không nên nghỉ sớm, nếu Đảng và Nhà nước còn sử dụng.

Tôi cũng thấy khó xử. Mối quan hệ xã hội cũng ràng buộc tôi, để đáp ứng cả người có động cơ xấu và người có động cơ tốt với mình. Xem ra không cách nào khác là về Hà Nội, nhận một công việc thích hợp với khả năng, nhất là không chen vào ai, đặc biệt là anh Mười. Tôi nghĩ không bao giờ tôi chen lấn vào anh, vì anh là Thủ trưởng cũ của tôi, hơn nữa trong tư duy của hầu hết các “vị bô lão” ít ai dám mạnh bạo cho lớp trẻ vượt lên trên. Đặc biệt là anh Mười. Qua nhiều năm làm việc với anh, tôi hiểu ý anh rất sâu sắc. Đôi khi anh mới nói nửa lời tôi đã biết anh định nói gì rồi, chỗ nào nói thật, chỗ nào nói chỉ để động viên người khác. Tôi đã có ý định nếu được xếp vượt lên trên anh Mười là tôi kiên quyết rút, nhường anh Mười ngay.

Cũng như đối với anh Bùi Quang Tạo, khi trên có ý định điều anh Tạo về Trung ương, tôi tha thiết đề nghị anh Tạo ở lại làm Bí thư, tôi chỉ làm Chủ tịch là đủ. Tiếc rằng anh Tạo đã qua đời, chỉ còn anh Nguyễn Đức Tâm biết rõ chuyện đó.

Tôi thường suy nghĩ nhiều và đôi khi rất buồn về những kì chuẩn bị Đại hội Đảng ở địa phương cũng như toàn quốc. Đã có lần tôi trực tiếp nói với anh Ba, anh Trường Chinh, anh Lê Đức Thọ, anh Nguyễn Đức Tâm là việc phê bình, tự phê bình, nên làm thường xuyên hàng năm đối với cán bộ lãnh đạo các cấp.

Khi tổ chức Đại hội chỉ tập trung bàn công việc phải làm trong nhiệm kì và hàng năm của nhiệm kì đó, không nên cứ đến nhiệm kì 5 năm mới làm kĩ về phê bình. Làm như vậy mất thì giờ, những người cơ hội muốn lật nhau, thường tìm mọi cách nói xấu, vu khống để tranh giành địa vị trong các kì bầu cử của Đại hội. Các đồng chí lãnh đạo các cấp nhiều khi cũng lợi dụng các cuộc phê bình, tự phê bình, để loại trừ những người không ăn cánh với mình. Điều đó khiến cho việc chuẩn bị đại hội thường căng thẳng, không hồ hởi phấn khởi như ý nghĩa ngày hội lớn của Đảng. Những người muốn vào địa vị này, địa vị khác, chạy chọt, tranh thủ, buồn vui... không xứng với tầm cao của một đảng tiên phong, vì nhân dân mà làm cách mạng, không đúng với tư tưởng và đạo đức của Bác Hồ, tạo nên một thói hư trong Đảng.

Nghe tôi trình bày những suy nghĩ trên rất mừng là các đồng chí không có phản ứng gì, nhưng việc làm vẫn không thay đổi, vẫn làm theo cách làm cũ, nặng nề và mệt mỏi. Nhất là những Đại hội thay đổi cán bộ chủ chốt, thật là mệt và buồn. Như Đại hội 6, anh Linh thay anh Trường Chinh, Đại hội 7 đưa anh Văn ra kiểm điểm những việc mà anh Trường Chinh nói với tôi nhiều lần, đã giải quyết từ năm 1941-1942. Đại hội 9 thay anh Lê Khả Phiêu v.v... Ta không có chính sách đào tạo nhân tài, cứ “nước đến chân mới nhảy”. Anh Nguyễn Văn Linh đã nói nhiều lần ở Hội nghị Trung ương: “Tôi có được chuẩn bị làm Tổng Bí thư đâu”, và lúc cần quá, phải đi tìm người, anh Linh ví: “Chẳng khác gì cầm bó đóm đi tìm ếch, tìm không được ếch, lại bắt được nhái”. Anh Nông Đức Mạnh cũng than phiền là không được đào tạo làm Tổng Bí thư, Đại hội cử thì phải làm thôi...

Chúng ta đều biết “nhân tài” là nguyên khí của quốc gia. Một nước có 80 triệu dân thì nhân tài không phải hiếm. Có chính sách và có cơ chế đúng, cộng thêm người đứng đầu đất nước quan tâm là ra nhân tài. Nhưng đào tạo nhân tài quốc gia mới là chuyện quan trọng nhất. Phải có cơ chế rõ ràng, dân chủ tuyển dụng, đồng thời không những nâng cao dân trí, truyền thống văn hoá dân tộc và văn hoá thế giới cho mọi người hiểu được tiêu chuẩn thế nào là nhân tài. Phải qua khảo nghiệm thực tế, hành động thiết thực, ứng phó lúc khó khăn, liêm khiết, bình dân, gần quần chúng, đã được kiểm nghiệm như kiểu Bin Clinton đã qua mấy nhiệm kì Thống đốc bang làm rất giỏi, Hồ Cẩm Đào qua các vùng tự trị cam go nhất, qua nơi kinh tế lập trung, giải quyết các công việc phức tạp, được kiểm nghiệm là có tài. Như vậy người ta ở một nước lớn, đông dân, mà có Tổng thống 47 tuổi, Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước 59 tuổi.

Đương nhiên còn bao vị tiền bối, trưởng lão muốn giữ quyền, nhưng với tài năng, đức độ của nhân tài được quần chúng suy tôn mến phục, thì các vị trưởng lão cũng tránh cho nhân tài đi lên. Lịch sử Việt Nam những Triều đại có “Vua sáng, tôi hiền” vẫn chọn được nhân tài đó thôi. Bước vào chuẩn bị Đại hội VI, công việc rất khẩn trương như bao kì Đại hội khác. Nhưng lần này đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn đã qua đời, đồng chí Trường Chinh được tái cử làm Tổng Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu lại, tham gia Bộ Chính trị... Những việc đó có liên quan đến vấn đề nhân sự chủ chốt của Đại hội.
Về phần tôi, càng gần đến Đại hội những người có ý định không tốt càng tìm mọi cách làm giảm uy tín tôi, bịa đặt nhiều chuyện ly kì ngoài hậu trường. Còn chính trường thì những động tác của một hai đồng chí chủ chốt, có trách nhiệm về nhân sự, như anh Lê Đức Thọ, với cương vị phụ trách Tổ chức Đại hội, nói góp thêm trong các cuộc họp lớn của cả nước.

Tôi nhớ có hai lần:

-Lần thứ nhất ở Hội nghị cán bộ chủ chốt các địa phương, Anh Thọ nói về chuyện mấy đồng chí Bí thư Tỉnh, Thành uỷ, xuất bản Tuyển tập để tuyên truyền đề cao cá nhân. Tôi được biết có 3 Tuyển tập của 3 Bí thư là: Anh Nguyễn Văn Linh - Bí thư Thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh, anh Hoàng Minh Thắng - Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Nam Đà Nẵng, và tôi là Bí thư Thành uỷ Hải Phòng. Ba tác phẩm này đều xuất bản đầu năm 1985 để kỉ niệm 10 năm giải phóng miền Nam và 30 năm giải phóng Hải Phòng. Về lí do xuất bản tuyển tập của hai đồng chí trên thì tôi không rõ, còn quyển sách của Hải Phòng do Ban Tuyên huấn Trung ương chỉ đạo. Đồng chí Hoàng, Phó ban xuống Hải Phòng, chọn lựa bài nói của tôi, cộng với Nhà xuất bản Hải Phòng cho in cuốn: Hải Phòng trong chặng đường đầu của thời kì quá độ (Đoàn Duy Thành), Nhà xuất bản Hải Phòng. Đồng chí Hoàng giải thích là 30 năm kỉ niệm Hải Phòng giải phóng, cần có cuốn sách của lãnh đạo Thành phố để tuyên truyền giáo dục cho Đảng viên và nhân dân. Mọi việc đều do đồng chí Hoàng và Ban Tuyên huấn làm cả. Đồng chí Nguyễn Hữu Huân, Giám đốc Nhà xuất bản (nay đang ở Hải Phòng) chỉ đưa tôi duyệt qua những đầu bài tôi viết. Tôi không hề quan tâm một chút nào đến quyển sách này, nhất là ý đồ đề cao uy tín cá nhân...

Sau khi anh Lê Đức Thọ nói xong, một số cán bộ “dịch” ra là: anh Thọ ám chỉ Đoàn Duy Thành đấy! Như anh C.V.T, cấp thứ trưởng cùng nhiều anh em nói cho tôi biết, tôi chỉ cười vui vẻ và cảm ơn.

-Lần thứ hai là: Hội nghị Ban Tuyên huấn toàn quốc, gồm các đồng chí Trưởng, Phó Ban Tuyên huấn các tỉnh, thành phố và các Bộ ngành Trung ương dự họp. Trong buổi đến nói chuyện, anh Lê Đức Thọ nói: “Đồng chí Trưởng ban Tuyên huấn Hải Phòng về nói với anh Thành, Bí thư Thành uỷ biết là anh Tố Hữu tặng Hải Phòng bài thơ có 8 câu, 4 câu khen, 4 câu phê bình, anh Thành chỉ phổ biến 4 câu khen, cắt 4 câu phê bình...”.

Nghe anh Lê Đức Thọ nói, cả Hội nghị xôn xao bàn tán...

Đồng chí Tô Ngạc, quyền Trưởng ban Tuyên huấn đi họp về phản ảnh cho tôi biết. Sau một tuần, tôi đến nhà anh Lê Đức Thọ, mang theo bài thơ: “Mừng Hải Phòng” của anh Tố Hữu gồm 8 câu, in giấy trắng bóng, rất đẹp có kí tên Tố Hữu:
Bốn cống, ba cầu năm cửa ô
Đào kênh lấn biển mở cơ đồ,
Làm ăn hai chữ à ra thế
Chèo chống nghìn tay một tiếng hô.
Nhộn nhịp Sáu kho vui đất Cảng
Khang trang Tam Bạc rạng Thành Tô
Giá còn nữ tướng Lê Chân nhỉ?
Ắt cũng khen con cháu Bác Hồ!
Kí Tố Hữu
Ngoài ra anh Tố Hữu còn làm thêm 4 câu, dặn đồng chí Lê Danh Xương - phó Bí thư Thường trực, đồng chí Tô Ngạc, quyền Trưởng ban Tuyên huấn, đồng chí Vũ Long, Tổng Biên tập báo Hải Phòng, nhà thơ Nguyễn Viết Lãm, về báo cáo với tôi là: “Bốn câu thơ này làm ngoài, chỉ đọc cho Ban Thường vụ Thành uỷ nghe không đăng báo, không phổ biến rộng rãi”. Nhưng tôi đã phổ biến cả 4 câu, gồm 12 câu cho cán bộ Hội nghị và toàn thể hội viên Hội nhà văn Hải Phòng cùng nghe:
Triều dâng sóng dậy đời ca lát,
Gió tự Đồ Sơn mát Thủ đô,
Tám nghề, bảy chữ đừng ham nhé!
Chín chắn mười mươi cũng chớ phô.
Tôi báo cáo với anh Thọ và đưa cho anh xem toàn bài thơ. Anh xem xong tỏ vẻ nghĩ ngợi, không nói gì, bắt tay tôi. Tôi chào anh ra về, cũng không nói gì thêm. (Tôi sẽ nói kĩ việc này ở chương “anh Tố Hữu với Hải Phòng”).

Thế đấy! Đến Đại hội, có nhiều chuyện tương tự như câu chuyện của tôi. Nhiều đồng chí phàn nàn, còn tôi đã có quan điểm riêng, nên tôi coi những vấn đề này như mình đã dự đoán trước, không có gì phải suy nghĩ cả.

Trong lúc ấy, tôi thấy anh Mười gặp tôi rất vui vẻ. Tôi biết anh đã nắm chắc vấn đề gì về tôi rồi. Anh Tô Duy đã tìm ra ngón đòn “hiểm” đánh vào sinh mệnh chính trị của tôi, nhất là thư của anh Hoàng Chữ (cùng tù với tôi ở Cát Bi) gửi anh Mười, tố cáo tôi không bị tra tấn gì, mặc quần áo trắng, đọc nhật trình, xem địch tra tấn anh em. Anh Hoàng Chữ được coi là một nhân chứng sống duy nhất.

Anh Tô Duy dùng vấn đề kinh tế không lật được tôi, chuyển sang chính trị cũng rất có bài bản. Nhưng vì bịa chuyện nên dễ sơ hở. Tôi ở trong tù không ai biết tên tôi là Đoàn Duy Thành, mà chỉ tên là Duy, không ai biết tôi làm chức vụ gì ở ngoài cả. Thế mà anh Hoàng Chữ dám nói: “Tôi trông thấy một anh đẹp trai, trắng trẻo, mặc quần áo trắng, đọc nhật trình. Tôi hỏi ai đấy? Anh em tù bảo đó là anh Đoàn Duy Thành, Bí thư quận uỷ Ngô Quyền...”.

Sau này đối chất, kết luận xong, các đồng chí sao cho tôi một bản thư anh Hoàng Chữ, thấy chữ anh Mười kí ở dưới (chữ kí tắt ít người biết là chữ kí anh Mười), cùng với ý kiến chuyển thư của anh Hoàng Chữ cho anh Nguyễn Đức Tâm, Trưởng ban Tổ chức Trung ương xem xét.

Lúc đó tôi bị tiến công tứ phía. Anh Tô Duy lúc này đã tập hợp thêm được một số người. Ngoài người cũ là anh Tô Duy, Nguyễn Thắng (Thắng Lầm), Hoàng Chữ, có thêm anh Nguyễn Mạnh Ái, nguyên Cục phó cục bảo vệ quân đội, nguyên Bí thư Quận uỷ Ngô Quyền, anh Trịnh Đình Hoành, nguyên Quận đội trưởng quận Ngô Quyền, anh Lê Quang Tuấn, nguyên Bí thư Thành uỷ Hải Phòng, anh Trần Đông, nguyên Bí thư Thành uỷ Hải Phòng...

Tôi buộc phải suy nghĩ.

Những người này trước đây cũng là những đồng chí tốt, thân thiết với mình, sao nay bỗng nhiên cùng nhau tố giác mình trước ngày sắp diễn ra Đại hội lần thứ 6? chắc có thế lực nào đứng sau, đủ sức mạnh thuyết phục mới kéo được đông cán bộ chủ chốt Hải Phòng vào tố cáo mình, dùng đa số để quật ngã mình đây. Nhưng ai là người đứng sau họ? Tôi vẫn còn phân vân chưa xác định...

Những tháng đầu năm 1986, tôi phải đương đầu với bao nhiêu “cuộc chiến”.

Tôi nhớ nhất vào tháng 3-1986, cuộc họp tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng đấu Bí thư Thành uỷ Hải Phòng theo cơ chế thị trường, do cố vấn Liên Xô Pascard báo cáo. Trước khi có cuộc họp này, một buổi chiều vừa làm việc xong, tôi được điện thoại của anh Hồ Nghinh, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Ban Kinh tế Trung ương cho biết:

-Tối hôm nay tôi và các anh Vũ Quang, Uỷ viên Trung ương Đảng, Chánh văn phòng Trung ương xuống bàn với anh một việc rất cần. Anh chuẩn bị cho chúng tôi ăn cơm tối, bàn công việc xong là chúng tôi về Hà Nội ngay.

Tôi chuẩn bị cơm tối, chờ hai anh xuống cùng ăn và làm việc. Chín giờ tối các anh mới đến nhà khách số 13 Trần Hưng Đạo. Lúc đó đường số 5 còn xấu lắm, phải qua 2 cầu, nếu có xe lửa qua phải đợi, thường phải đi 3-4 giờ từ Hà Nội mới tới Hải Phòng. Nhưng vì hai anh hết lòng ủng hộ cuộc đổi mới của Hải Phòng nên đã cấp tốc xuống Hải Phòng thông tin cho tôi biết có cuộc họp quan trọng, để tôi chuẩn bị chu đáo. Một số người dự định sẽ đánh bại Hải Phòng trong kì họp này. Hai anh bảo tôi phải chuẩn bị kĩ báo cáo, có lập luận vững chắc để phản bác lại luận điệu bảo Hải Phòng đi theo kinh tế “thị trường”...

Tôi thấy anh Hồ Nghinh, anh Vũ Quang tâm huyết với Hải Phòng quá cũng rất xúc động. Làm cho dân giàu nước mạnh mà vất vả thật! Chúng tôi vừa ăn cơm, vừa bàn những phương sách đối phó, đến hơn 12 giờ khuya mới ăn cơm xong. Tôi tiễn hai anh về Hà Nội và nói: “Hai anh cứ yên tâm, tôi sẽ chuẩn bị kĩ và nói đầy đủ sự thật của Hải Phòng từ sau đổi tiền đến nay”. Đúng như hai anh thông báo, hôm sau tôi nhận được điện hoả tốc lên Hà Nội họp ở nhà số 10 khu biệt thự Hồ Tây. Lúc này anh Ba yếu, thường nghỉ ở đây. Họp ở Hồ Tây anh Ba dự cho thuận tiện. Hôm sau tôi đi sớm từ Hải Phòng lên, đúng 8 giờ sáng ngày 23 hay 26-3-1986, tôi không nhớ chính xác, đã tới nơi họp.

Tôi đi đến trạm gác khu biệt thự, trông thấy một đồng chí đi lén ở sau nhà và vẫy tay ra hiệu gọi tôi. Tôi cho dừng xe lại, bước xuống. Đó là đồng chí Nguyễn Lam, Ban Bí thư, Trường Ban Kinh tế Trung ương. Bắt tay tôi và ghé vào tai tôi, anh nói rất nhanh: “Hôm nay Bộ Chính trị đấu Hải Phòng đi theo kinh tế thị trường, do đồng chí Pascard, cố vấn Liên Xô báo cáo với Bộ Chính trị. Anh liệu mà báo cáo”.

Cảm ơn anh Nguyễn Lam, Hồ Nghinh, Vũ Quang phải lo lắng cho Hải Phòng. Còn với tôi, tôi đã chuẩn bị kĩ những việc làm, tôi cảm thấy rất tốt, và rất đạt kết quả, đặc biệt sau đổi tiền. Tôi đã báo cáo kĩ với đồng chí Pascard khi đồng chí xuống Hải Phòng cuối năm 1985, xem xét kết quả đổi tiền. Đồng chí còn khen Hải Phòng giải quyết sáng tạo, không bị động như một số nơi đồng chí đến nghiên cứu. Không biết vì sao mà phải có cuộc họp quan trọng này?

Tôi bước vào Hội nghị vẫn bình thường như bao cuộc họp khác mà Bộ Chính trị, Ban Bí thư gọi lên báo cáo.

Tôi thấy Hội nghị ngồi im phăng phắc, như đang đợi một cái gì đó. Tôi đến chào và bắt tay đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn và tất cả các đồng chí dự Hội nghị, khoảng hơn 40 người.

Anh Ba nói vài lời tuyên bố lí do và bảo tôi báo cáo tình hình Hải Phòng và các giải pháp giải quyết sau đổi tiền. Tôi báo cáo với Hội nghị gần 3 giờ, kể cả trả lời một vài câu hỏi chen ngang của vài đồng chí, Đến gần 11 giờ thì xong.

Anh Ba đứng dậy không nói gì thêm, chỉ hỏi có đồng chí nào bổ sung hoặc hỏi thêm tôi gì không. Hội nghị ngồi im không ai nói gì. Anh Ba tuyên bố: Hội nghị nghỉ trưa, chiều họp tiếp.

Chiều họp tiếp, anh Ba nhắc hỏi đồng chí nào có biện pháp hay hơn thì phát biểu. Anh Nguyễn Thanh Bình đứng lên, nói đại ý biện pháp giải quyết sau đổi tiền của Hải Phòng như vậy là tốt, cần rút kinh nghiệm chung, anh cũng bổ sung thêm một số kinh nghiệm của Hà Nội... Một vài đồng chí khác phát biểu đều ủng hộ cách giải quyết sau đổi tiền của Hải Phòng cho là sáng tạo, linh hoạt nên không ách tắc do thiếu tiền lẻ gây ra. Nhất là chỉ đạo đổi tiền tháng 9-1985, Thành uỷ đã phân công tất cả Uỷ viên Thường vụ trực tiếp chỉ đạo từng huyện, quận, nên không có sai sót gì đáng kể, sản xuất vẫn phát triển, dân không kêu ca thiếu tiền lẻ như các nơi, lưu thông phân phối không trì trệ...

Hội nghị với mục đích “đấu” Hải Phòng đi theo kinh tế thị trường, trở thành Hội nghị bàn biện pháp khắc phục sau đổi tiền.

Khi ra về tôi bắt tay chào anh Nguyễn Lam, anh Hồ Nghinh, anh Vũ Quang, anh Tiệp, cán bộ theo dõi Hải Phòng. Các anh ấy đều phấn khởi. Anh Hồ Nghinh nói: “Thế là ta đã thắng...”. Anh Nguyễn Lam bắt tay tôi thật chặt và nói: “Đúng là Đoàn Duy Thành”. Còn đồng chí Tiệp thì xuýt xoa “Tôi lo quá! Lo cho anh, lo cho Hải Phòng. Mấy ông găng lắm đấy! Không hiểu sao, sau khi nghe báo cáo của anh lại không thấy nói gì...”.

Nhưng chưa hết gian khổ. Càng đến gần Đại hội, càng nhiều việc. Anh Lê Đức Thọ gọi tôi lên chất vấn về tàu “Hoa Phượng Đỏ” của Hải Phòng đi buôn lậu hàng cũ ở Nhật Bản. Chỉ do một số thủy thủ mua mấy cái xe máy cũ của Nhật Bản về cảng, trốn thuế bị bắt, trong đó có con rể đồng chí Nguyễn Dần mua 2 cái. Chính vì việc này mà đồng chí Lê Đức Thọ kiên quyết không để anh Dần làm Bí thư Thành uỷ và không được đi dự Đại hội 6.

Tôi trình bày có tính tranh luận với anh Thọ về tàu “Hoa Phượng Đỏ” buôn lậu. Anh Thọ nói:

-Các anh không ra quyết định hủy tổ chức đội tàu, tôi sẽ bảo Ban Bí thư ra quyết định bác bỏ quyết định của các anh. Tôi đã hỏi anh Đồng Sĩ Nguyên rồi...

Tôi cãi lại, tôi làm đúng chỉ thị của đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư và đã được Chính phủ cùng Bộ Ngoại thương ra văn bản đồng ý. Chúng tôi không làm sai. Nếu bây giờ lại bảo sai và có văn bản của Ban Bí thư bác bỏ quyết định của địa phương, tôi cũng chấp hành nghiêm chỉnh. Tôi nói đến đấy, anh Thọ bảo: “Thôi được, tôi sẽ xem sau”. Thế là kết thúc. Sau đó anh Thọ cũng không nhắc lại việc này nữa.

Tôi còn một lần nữa tranh luận với anh Thọ là việc xử vụ Trường Xuân. Không rõ anh Thọ nghe phản ánh ở đâu, bảo Trường Xuân buôn bán xe tăng, buôn xác lính Mỹ (!?), đủ tội để xử tử hình. Tôi gặp anh Linh, Tổng Bí thư, thái độ anh không rõ rệt, bảo anh Thọ phụ trách việc này.

Anh Lê Đức Anh thì ủng hộ, bảo tôi:

-Anh với tôi cứu nó khỏi mất cái đầu đã, rồi sẽ tính sau.

Tôi gặp anh Mười thì anh phân vân, cũng muốn cứu, nhưng nói:

-Hình như cậu này là thành phần tiểu thương, chẳng có huân chương, huy chương gì cả...

Tôi nói:

-Thành phần thì tôi không biết, nhưng huân, huy chương tôi thấy cậu ta đeo đầy ngực...

Anh Mười suy nghĩ. Tôi hiểu ý anh cũng không muốn xử mức án cao nhất. Tôi gặp anh Trần Xuân Bách, người được anh Thọ giao cho hỏi cung Trường Xuân, anh Bách bảo tôi: “Mình hỏi 3 lần, nhưng chẳng có gì, mình thôi rồi...”.

Mọi người bảo tôi, việc bây giờ là ở anh Thọ.

Các anh bên Bộ Quốc phòng cũng bảo tôi như vậy. Anh Văn Tiến Dũng muốn cứu nhưng nói hơi khó. Mọi người bảo tôi muốn cứu Trường Xuân thì phải gặp anh Thọ. Anh Thọ đã hỏi cung Trường Xuân và khen tôi “giữ gìn lắm”. Tôi biết, làm kinh tế liên quan đến tiền, hàng. Muốn làm giàu cho đất nước, người lãnh đạo phải ý tứ gương mẫu từ những cái nhỏ nhất. Khi tổng kết các chương trình của quân đội, anh em đều gửi tặng phẩm cho tôi, tôi nhận hết và gửi lại tặng chiến sĩ có thành tích nhất. Quân đội làm biết bao công trình quai đê, lấn biển cho thành phố, thành phố trả công chu đáo, nhưng không bao giờ tôi nhận một gói chè của anh em. Tôi đến gặp anh Thọ trình bày chủ trương của Thành uỷ đã chỉ thị cho lực lượng vũ trang làm công trình quai đê lấn biển cho thành phố, cấm buôn bán, có nghị quyết của Thành uỷ rành mạch. Còn Bộ chỉ huy Hải Phòng làm kinh tế, là do Bộ Quốc phòng cho phép. Còn họ lợi dụng tham ô như thế nào đã được cơ quan điều tra xác minh. Theo tôi được biết thì 16 người liên quan tham ô 3,6 triệu đồng, trị giá bằng một bộ video cassette. Tất nhiên họ có tội, nhưng tôi biết một Uỷ viên Bộ Chính trị sang Nhật được tặng 5 bộ video cassette, đem về chia cho một số Uỷ viên Bộ Chính trị chưa có tivi loại tốt. Tôi không dám coi đó là tham ô, nhưng tôi nghĩ về việc bọn họ tham ô không lớn lắm, nên hạ án cho họ. Còn tôi, chắc anh Lê Đức Thọ đã rõ, tôi không liên quan dính dáng đến chủ trương và vật chất với anh em này. Anh Thọ chỉ nghe, không nói gì. Tôi lo nhất là đã nhắc đến 5 bộ video cassettee, sợ phật ý anh Thọ. Nhưng rất may, anh đứng dậy bảo tôi: “Tôi giao việc này cho anh Đỗ Mười, cậu gặp Đỗ Mười để bàn...” Tôi mừng quá, thế là ý tôi và anh Lê Đức Thọ sẽ thực hiện được bước quan trọng nhất.

Ra về, gặp lại anh Đạt, thư kí của anh Thọ, các anh cũng lo cho tôi. Anh Đạt nói: “Tôi chưa thấy cán bộ cao cấp nào dám cãi tay đôi với anh Thọ. Có anh chỉ cãi lại một câu thôi mà cũng đã khốn khổ...”. Tôi nói: “Mình tranh luận với anh Thọ có tình có lí, ngay việc tàu “Hoa phượng đỏ” anh Thọ cũng thôi. Vì mình trình bày với mục đích phục vụ nhân dân, không có cá nhân...”. Anh Đạt hiện nay sinh sống ở Hà Nội.

Trong thời gian tôi làm Bí thư Thành uỷ, ngoài việc lo cuộc sống của nhân dân, cán bộ cùng công nhân viên chức nói chung, tôi chú ý nhà ở cho cán bộ lãnh đạo từ chuyên viên I (lương lúc đó 105 đồng/một tháng) trở lên, vì những cán bộ này tập trung công việc hàng ngày ít có điều kiện lo việc nhà. Tôi đã cùng Ban Thường vụ Thành uỷ bàn và đưa ra Thành uỷ, Hội đồng nhân dân cùng bàn, ra Nghị quyết xây dựng khu nhà chung cư “Đồng tâm quốc tế” cho cán bộ. Môi hộ được từ 40 m2 đến 64 m2/hộ, có ít vườn, có khu nhà giữ trẻ, vườn hoa công cộng. (Đến nay vẫn là khu chung cư cho cán bộ Trung sơ cấp duy nhất ở Hải Phòng. Nhiều nhà đã xây lấn ra vườn, nhưng nói chung vẫn còn giữ được quy hoạch ban đầu).

Những năm tháng công tác ở Hải Phòng, tôi rất chú trọng học hỏi các tỉnh, thành phố trong cả nước, nhất là thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Các anh lãnh đạo ở hai thành phố lớn là những đồng chí có nhiều kinh nghiệm trong đấu tranh như anh Lê Văn Lương, anh Nguyễn Văn Linh, anh Võ Văn Kiệt, anh Mai Chí Thọ... Các anh lại là những người khiêm tốn và tôi cũng quen biết các anh từ lâu, như anh Lương, anh Linh, những người cùng tù ở Côn Đảo. Tuy là các bậc đàn anh lớp trước, nhưng các anh rất mến tôi. Khi tôi làm Bí thư Hải Phòng, anh Lương làm Bí thư Hà Nội, cứ 3, 4 tháng một lần, anh Lương lại đưa cán bộ chủ chốt của Thành phố xuống Hải Phòng trao đổi kinh nghiệm xây dựng, quản lí thành phố. Nhiều lần anh Lương còn tâm sự với tôi: “Tôi sẽ xin anh về Hà Nội làm Bí thư thay tôi”. Rồi chuyện đó đã xảy ra thật. Nhưng tôi xin với anh Ba Duẩn cho tôi ở lại Hải Phòng. Nếu anh Ba không đồng ý, thì 1984 tôi đã phải về làm Bí thư Hà Nội. Sau trên cử anh Nguyễn Thanh Bình về làm Bí thư Hà Nội. Anh Bình gặp tôi nói: “Đáng lẽ việc này là của anh, không phải của tôi...”. Còn anh Nguyễn Văn Linh, khi anh làm Bí thư Trung ương Cục, mỗi lần ra Hà Nội báo cáo anh thường xuống Hải Phòng nghỉ, vì anh ở Hải Phòng từ lúc 6 tuổi, học tập, hoạt động cũng ở Hải Phòng rất sớm, 16 tuổi đã bị bắt. Anh coi Hải Phòng là quê hương thứ hai. Mỗi lần anh đến Hải Phòng, tôi thường được phân công đưa anh đi thăm thành phố. Tuy giữ bí mật, nhưng anh em trò chuyện rất nhiều về công việc, quá khứ, hiện tại... Khi anh làm Bí thư Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh, mỗi lần ra họp Trung ương anh thường xuống thăm Hải Phòng và cũng thường mời tôi vào thăm thành phố Hồ Chí Minh. Tôi nhớ có một lần anh mời tôi nói chuyện về kinh nghiệm đổi mới ở Hải Phòng với Thành uỷ. Lần đó ăn cơm chiều xong, anh hẹn tôi 7 giờ tối đến trao đổi thêm. Anh em trao đổi rất nhiều việc của hai Thành phố và một số việc chung trong cả nước. Đến 10 giờ anh em phục vụ đem lên hai bát cháo lươn, rất ngon. Anh Linh bảo tôi: “Đây là do tài chính của Đảng lo đấy!” Tôi buồn cười, nhưng không dám cười. Ăn xong tôi mới nói: “Hải Phòng, Đảng không làm kinh tế, với lí do là Đảng cầm quyền, ngân sách Nhà nước phải cấp đủ cho cấp uỷ chi tiêu như bên UBND Thành phố. Vì Đảng làm kinh tế là không có lợi”. Anh tranh luận với tôi. Cho đến khi làm Tổng Bí thư, anh cũng còn tranh luận với tôi chuyện ấy. Nhất là khi Liên Xô sụp đổ, anh bảo tôi: “Nếu chính quyền sụp đổ, thì Đảng còn tiền đâu mà tiêu, nếu không làm kinh tế?”. Tôi bảo anh: “Nếu chính quyền Việt Nam sụp đổ thì đầu anh và đầu tôi cũng mất, còn đâu mà làm kinh tế? Ta phải dồn sức giữ lấy chính quyền”.

Tuy tôi phản đối Đảng làm kinh tế, nhưng tôi vẫn giúp kinh tế Đảng rất nhiều. Khi tôi làm Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, cả nước chỉ có quota nhập 2.000 xe con, tôi đã cấp cho Ban Quản trị Tài chính Trung ương do đồng chí Lê Đức Thịnh làm trưởng ban, với lời quyết của đồng chí Thanh Bình, Thường trực Ban Bí thư. Lúc đó chưa có thuế xuất nhập khẩu, lãi rất lớn. Anh Thịnh đã đem bán quota thu mấy triệu đô la Mỹ, để xây dựng khách sạn Tây Hồ. Nếu trực tiếp nhập sẽ lãi lớn hơn nhiều. Việc bán quota này cũng có dư luận không hay.

Tối hôm ăn cháo lươn với anh Linh xong, tôi nói vui với anh Linh: “Hôm nào đi họp Hà Nội, anh xuống Hải Phòng chơi, tôi chiêu đãi anh 2 bát cháo lươn, mặc dù ở Hải Phòng Đảng không làm kinh tế”. Hai anh em cùng cười. Anh Linh bảo sẽ bàn tiếp chuyện ấy.

Đối với anh Võ Văn Kiệt tôi được nghe tiếng anh nhiều, song ít được gặp. Đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn bảo tôi vào thành phố Hồ Chí Minh rủ anh Sáu Dân cùng đổi mới. Tôi vào thành phố, anh Sáu Dân đi vắng. Tôi gặp anh Mai Chí Thọ cũng bàn được một số công việc ở nhà riêng. Khi về tôi báo cáo anh Ba, anh Ba bảo tôi cần gặp trực tiếp anh Sáu Dân. Lần thứ hai tôi gặp anh Sáu Dân ở Hà Nội. Gặp anh lần đầu, tôi có cảm tình ngay. Anh vui vẻ thân mật, bàn công việc rất sôi nổi. Tôi trình bày các việc làm của Hải Phòng và đề nghị anh giúp đỡ. Anh nói: “Chúng ta hợp tác với nhau. Tôi đồng ý những ý kiến của anh. Chủ nghĩa thực dụng nó xấu, chúng mình cứ bước chân vào bước chân của nó, nhưng bước nhanh đi là được”. Đó là câu nói khiến tôi đánh giá anh Sáu Dân có tư tưởng đổi mới mạnh mẽ.

Tôi rất say sưa với công tác ở Hải Phòng, chỉ mong sao làm hết khoá, đến cuối năm 1986 sẽ về nghỉ. Nhưng anh Lê Đức Thọ, anh Nguyên Đức Tâm đã trực tiếp gặp tôi để trao đổi, điều tôi về Trung ương công tác, cũng không được các anh cho biết về làm công việc gì. Khi gặp anh Tâm lần cuối, tôi đề nghị anh: “Về Trung ương làm gì cũng được, nhưng đừng xếp tôi làm Bộ trưởng Bộ Ngoại thương”.

Thế là theo yêu cầu mới tôi phải rời Hải Phòng - nơi tôi đã gắn bó suốt 36 năm và luôn coi là quê hương thứ hai của mình; nơi tôi đã quen thuộc từng phố phường, xóm ngõ trong nội thành, đến các làng mạc thôn xã ở ngoại thành và hải đảo; nơi tôi có biết bao nhiêu đồng chí cùng chiến đấu, lao động, và đồng bào thân quen với biết bao nhiêu kỉ niệm vui buồn. Tôi nhớ lại những ngày hoạt động đầy căng thẳng trong nội thành, ngày đêm giáp mặt với quân thù, những năm tháng bị bắt, bị tù đầy, tra tấn chết đi, sống lại, rồi tiếp quản thành phố, xây dựng trong hoà bình, trong chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ... Tôi càng không bao giờ quên thời gian là lãnh đạo chủ chốt thành phố, cùng các đồng chí trong Ban Thường vụ, trong Thành uỷ, các đồng chí Bí thư, Chủ tịch các huyện, trưởng phó các ngành, giám đốc các doanh nghiệp... Họ đã cùng tôi đoàn kết, say sưa làm việc không kể ngày đêm, mà đến nay mỗi khi trở lại Hải Phòng, nhiều bà con vẫn còn nhớ, còn nhắc lại, nhiều cánh tay vẫy chào ở khắp nơi. Tôi tự nhận thấy đã làm được một số việc cho thành phố, cho dân, nhưng vẫn còn bao nhiêu ý định dang dở, chỉ với hoài bão xây dựng Hải Phòng sớm trở thành một thành phố văn minh, hiện đại, nhân dân giàu có, văn hoá phát triển...

Ngày 23-6-1986 trên đường từ Hải Phòng lên Hà Nội họp, đến cầu Lai Vu lúc 6 giờ chiều, nghe đài Tiếng nói Việt Nam công bố quyết định của Hội đồng Nhà nước bổ nhiệm một số thành viên Hội đồng Bộ trưởng, trong đó có tôi là Bộ trưởng Bộ Ngoại thương...

Tôi lên đến số 8 Chu Văn An, có đồng chí gặp tôi đã chào Bộ trưởng và chúc mừng. Trong lúc đó tôi chỉ buồn vì sau 36 năm tôi lăn lộn sống chết với đất, với người, nay phải rời xa Hải Phòng, chẳng khác gì phải rời tổ ấm.

Đúng 36 năm chẵn! Tháng 6-1950 tôi đến Hải Phòng - Tháng 6-1986 tôi ra đi.

Sao mà bâng khuâng, buồn thế! Nhớ Hải Phòng, nhớ nhiều công trình còn làm dở dang, bao nhiêu nỗi nhớ! Phải chăng đó cũng là cái “tật” của tôi. Khi ở Hải Phòng, mỗi lần thay đổi công tác là tôi rất buồn, có lúc rơi nước mắt, mặc dù được lên chức lên quyền. Tôi làm việc gì, ở đâu tôi cũng yêu mến say sưa với công việc, ra đi còn những công trình làm dở dang nên rất nhớ người, nhớ việc...

Hôm sau đến họp Trung ương, đầu tiên là tôi gặp anh Nguyễn Đức Tâm, phàn nàn việc tôi đã đề nghị không làm Bộ trưởng Bộ Ngoại thương nhưng không được xem xét. Anh Tâm bảo tôi: “Bộ Chính trị bàn kĩ rồi. Không có người. Còn anh làm Bộ nào mà chẳng được...”

Tôi phải chấp hành. Sau một tháng bàn giao, tôi về làm Bộ trưởng Ngoại thương, một lĩnh vực mới, một địa bàn mới...
(còn tiếp)
“… Nghĩ lại cái khẩu hiệu “Mình vì mọi người, mọi người vì mình” tôi thấy nó “rỗng”, ngay cả giữa đồng chí với nhau …”
Chương 7
Tòng chính tại thủ đô

Tháng 7-1986 tôi về Hà Nội nhận nhiệm vụ Bộ Trưởng Bộ Ngoại thương.

Đến Hà Nội được 2 ngày, đồng chí Lê Đức Thọ gọi tôi đến nhà riêng để bảo ban công việc mới. Sau một vài câu hỏi han về sự bàn giao công việc ở Hải Phòng, anh Thọ đi ngay vào công việc. Anh nói:

-Cậu lên Hà Nội, bây giờ chưa nên đi vào công việc của Bộ ngay, mà cần đi xuống cơ sở các tỉnh, thành phố để nắm tình hình. Khi nắm được tình hình các địa phương rồi, sẽ về Bộ nắm tình hình bộ máy tổ chức của Bộ. Vì ở trên Trung ương bảo thủ trì trệ lắm! Nếu không, sẽ bị bộ máy trên này bao vây, mình lại làm theo lối cũ, sa vào tình trạng quan liêu bàn giấy, xa rời quần chúng như một số cán bộ ở địa phương được điều lên Trung ương, không phát huy được tác dụng!

Anh kể tên một số cán bộ làm ví dụ. Tôi cảm ơn anh và làm theo chỉ thị của anh. Nhưng ý tôi hơi khác. Mình ở địa phương mới lên, muốn ở lại Bộ nắm tình hình chung, không riêng gì Bộ mà cả Trung ương, Chính phủ, các ngành, xem cung cách làm ăn ở trên này ra sao, rồi sẽ đi địa phương thì tốt hơn. Tuy vậy tôi vẫn chấp hành ý kiến anh Thọ. Sau một tuần ở Văn phòng Bộ, họp sơ kết 6 tháng hết 3 ngày, Bàn giao công việc với anh Lê Khắc, nguyên Bộ trưởng và nắm sơ qua tình hình Văn phòng Bộ hết 3 ngày.

Tôi với anh Lê Khắc biết nhau từ lâu, nên việc bàn giao, trao đổi công việc thuận lợi, vui vẻ. Anh tâm sự với tôi: “Mình được anh Nguyễn Lam, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Kinh tế cho biết là mình vẫn ở lại làm Bộ trưởng. Hôm nghe thông báo trên đài, mình mới biết ông lên thay mình...”. Rồi anh nói sang chuyện bàn giao công việc. Anh Lê Khắc nguyên là Phó ban Tổ chức Trung ương, sang làm Ngoại thương, nên anh chú ý nhiều về công tác cán bộ, rồi mới đến công tác nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu. Anh kể đã sang làm Bộ trưởng được 6 năm 6 tháng. Nhưng không làm được nhiều việc rõ rệt, vì quân của “Lí Ban” nó phá quá! Mình với cậu Tu, Thứ trưởng tổ chức hướng dẫn nhân dân trồng được 2 vạn ha cây điều ở Tây Nguyên và Nam Bộ (đào lộn hột) là đáng kể hơn cả. Anh phân tích cho tôi nghe về năng lực trình độ từng Thứ trưởng.

Khi tôi về còn 4 thứ trưởng là các anh: Nguyễn Tu, Hoàng Trọng Đại, Nguyễn Mạnh Cầm, Tạ Cả. Còn các anh Nguyễn Văn Đào, Nguyễn Chanh đã về hưu hoặc chuyển công tác. Rồi anh nói về đội ngũ cán bộ chủ chốt: Vụ Trưởng, Vụ Phó, Chánh Phó Giám đốc các Tổng công ti... Nghe anh em kể lại, anh rất nghiêm khắc với cán bộ, nhất là những cán. bộ quan hệ nhiều với anh Lí Ban, Thứ trưởng Thường trực cũ. Trong bộ có một bài văn vần, do anh em sáng tác:
Thời tiết năm lay Khắc nghiệt ghê
Chanh rụng, Đào rơi, hoa Đại héo!
Cầm về, Tu sửa, chốn vườn hoang...
Anh bảo tôi: - Các tay thứ trưởng này đá lẫn nhau ghê quá! Tôi đã bảo các cậu ấy không khác gì đàn ngựa nhốt chung một chuồng...

Qua anh nói, tôi vừa buồn cười, vừa nhớ mấy anh em bạn làm ngoại thương khuyên tôi đừng nhận làm Bộ trưởng Bộ Ngoại thương, rắc rối lắm, nhất là mình ở nhà quê lên, không “đọ” nổi họ đâu.

Nhưng biết làm thế nào? Tổ chức đã quyết rồi cứ làm đã...

Sau một tuần ở văn phòng Bộ, tôi vào nắm tình hình các tỉnh miền Nam, nơi có nhiều hàng hoá xuất nhập khẩu, các công ti lớn của Bộ cũng đóng ở Thành phố Hồ Chí Minh. Theo đúng chỉ thị của anh Lê Đức Thọ, tôi công tác ở miền Nam khoảng hai tháng. Khi anh Ba sắp mất tôi mới ra Bắc.

Dự lễ tang anh Ba xong (10-9-1986 anh Ba qua đời) tôi tiếp tục đi các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ.

Trong dịp đi công tác các tỉnh phía Nam tôi nhận thấy có rất nhiều việc thuộc Bộ Ngoại thương phải giải quyết, trong đó nổi bật việc xuất cà phê sang các nước Liên Xô và Đông Ấu. Tổng số lượng xuất có 15.000 tấn/năm mà năm nào ta cũng không hoàn thành, năm sau phải trả nợ năm trước. Trong chuyến đi này có đồng chí Tu, Thứ trưởng, đồng chí Nguyễn Xuân Quang, Tổng Giám đốc Tổng công ti Tổng hợp II của Bộ, đồng chí Nhật Hồng, Giám đốc Vietcombank Sai gon, đồng chí Vinh, Chánh văn phòng Bộ, và một số cán bộ của Bộ. Vấn đề bức xúc lúc đó là cà phê sắp đến mùa thu hoạch, nhưng giá thu mua quá rẻ, mua chịu của dân Dak-Lak, Gia Lai, Kontum, nhất là Dak-Lak, thì không thu mua được. Có gia đình tôi đến thăm còn 4, 5 tấn cà phê vụ trước, đóng vào bao, vào cót, để chờ giá cao mới bán. Trong khi đó giá bán cà phê cho các nước tư bản đang lên, từ 2.000 USD/tấn đến 2.700 USD/tấn. Còn giá cà phê ta mua, dùng hàng hoá đối lưu, tính ra khoảng 600 USD/tấn, mà ta lại mua chịu. Tôi quyết định mỗi gia đình có cà phê bán cho Nhà nước 50%, còn 50% cho bán sang thị trường các nước tư bản. Mọi người lúc đó mới đổ cà phê ra bán chịu cho Nhà nước 50%, còn 50% bán cho thị trường tư bản. Nhân dân phấn khởi, các đồng chí Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Dak-Lak phấn khởi. Tôi nhớ lúc đó đồng chí Tư Trương, Phó chủ tịch UBND tỉnh Dak-Lak phụ trách kinh tế và đồng chí Chính, Giám đốc công ti xuất nhập khẩu tỉnh, vô cùng phấn khởi về chủ trương này. Hàng ngày mua được cà phê là cho chuyển xuống thành phố Hồ Chí Minh để xuống tàu Liên Xô đang đợi ở cảng...

Trong lúc đang say sưa vận dụng linh hoạt việc mua cà phê rất có hiệu quả, tôi được điện của Văn phòng Chính phủ cho biết là phiên họp Thường vụ Hội đồng bộ trưởng anh Đỗ Mười bảo: “Ông Thành đang làm hỗn loạn tình hình mua cà phê ở Tây Nguyên, làm loạn thị trường v.v...”. Tôi lờ đi, không trả lời, vì đó chỉ là thông tin. Văn phòng Bộ cũng điện vào tương tự như vậy.

Hôm sau tôi nhận được điện thoại trực tiếp của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng, hỏi về việc này. Tôi báo cáo tóm tắt tình hình với anh Tô, cách giải quyết cụ thể và có kết quả rõ rệt. Còn ai đó bảo tôi làm loạn thị trường là không có căn cứ, nếu làm sai, tôi xin cách chức Bộ trưởng Bộ Ngoại thương. Anh Tô nói: “Tôi cũng nghe có người nói như vậy, nhưng tôi không nghĩ như vậy. Đồng chí cứ giải quyết xong công việc, về báo cáo...”

Không ngờ kết quả vượt quá yêu cầu, đến giữa tháng 12-1986 ta đã giao xong cà phê cho Liên Xô và các nước Đông Âu, không những thế mà còn trả hết nợ cà phê những năm trước tồn đọng lại... Thế mà mãi hết vụ cà phê 1987, cũng theo phương thức năm 1986, còn làm tốt hơn nhiều, do đó mới hết dư luận “ông Thành làm loạn thị trường miền Nam”. Ngày nay thỉnh thoảng gặp lại anh Tư Trương, anh Chính, anh Ba Quang chúng tôi còn nhắc lại câu chuyện xuất cà phê sang thị trường Liên Xô và Đông Âu năm 1986 và 1987.

Ra đến Hà Nội được 2, 3 ngày thì anh Ba mất. Tôi chạy lại gia đình anh. Chị và các cháu xúm lại hỏi tôi đi đâu mấy tháng: “Lúc anh Ba yếu nặng chú không lại?”. Tôi nói chuyện đi công tác miền Nam nên thất lễ với anh Ba trong những ngày cuối cùng. Cả nhà anh Ba lo lắng, nhất là mấy cháu gái: Cừ, Muội, Hồng, các con rể Lê Bá Tôn, Hồ Ngọc Đại. Nói là cháu, nhưng các cháu chỉ kém tôi 5,7 tuổi. Tất cả xúm lại hỏi tôi và lo lắng:

- Ba cháu mất rồi, liệu họ... có giết gia đình nhà cháu không?

Tôi nói:

- Tại sao các cháu lại có ý nghĩ lạ như vậy? Ai dám hại nhà mình? Ba cháu là con người vĩ đại, một nhà hiền triết mới kế nghiệp được Cụ Hồ, giải phóng miền Nam. Không có Ba làm sao giải phóng được miền Nam, thống nhất được đất nước, không để xảy ra lắm máu? Ai dám hại gia đình nhà mình? Đừng nghĩ linh tinh. Đảng mình là Đảng vĩ đại, nhân dân yêu quý Ba các cháu, sao lại nghĩ vớ vẩn như vậy? Các cháu yên tâm, chú nghĩ không bao giờ có chuyện đó. Còn bao nhiêu người có mặt... ai dám làm bậy?

Bấy giờ các cháu mới yên tâm. Hồ Ngọc Đại nói chen vào:

- Còn bao nhiêu các chú... Họ chẳng dám làm bậy đâu!

Sau đó, tôi mới tìm hiểu, tại sao có chuyện hoảng loạn tại gia đình anh Ba như vậy, khi anh qua đời... Đó là những người có dụng ý chia rẽ, nói phe cánh anh Lê Đức Thọ và Trần Xuân Bách định ám hại gia đình anh Ba. Tôi nghĩ không bao giờ có thể như thế được. Đảng ta được Bác Hồ xây dựng và lãnh đạo đội ngũ cốt cán cách mạng, đã làm nên bao kì tích, không thể có những hành động “đồi bại” như thế được. Mấy ngày đó tôi thường xuyên lại nhà anh Ba, để ổn định tư tưởng cho các cháu, nhất là cháu Cừ, vợ đồng chí Lê Bá Tôn, lo lắng nhất...

Tôi cũng chỉ mới biết có sự bất hoà giữa anh Ba và anh Lê Đức Thọ, cách đấy khoảng 4, 5 tháng. Vì tôi ít quan lâm, tôi tin các anh đã có quá trình rèn luyện, lại là người gần gũi Bác Hồ, chắc chắn các anh luôn luôn đoàn kết bên nhau để thực hiện và xây dựng sự nghiệp Bác để lại.

Khoảng tháng 5-1986 tôi đến thăm anh Ba ở Hồ Tây, gần đến khu biệt thự tôi gặp xe anh Thọ đi ra. Tôi vào thăm anh Ba, có anh Bùi San ở đó. Thấy tôi đến, anh Bùi San chào anh Ba ra về. Tôi bắt tay anh Bùi San và vào thăm anh Ba. Anh Ba tỏ vẻ hơi bực tức nói:

-Đấy nó đấy, tôi vừa đuổi nó ra rồi...

Tôi suy nghĩ mãi mới biết là xe anh Thọ vừa ra... Tôi không nói gì, chỉ thăm sức khoẻ anh, nói tóm tắt một vài việc lớn của Hải Phòng để báo cáo với anh, vì lúc này tôi thấy anh Ba mệt nhiều. Tôi muốn để anh nghỉ ngơi, nên xin phép ra về. Nhưng anh Ba bảo tôi ngồi lại nói chuyện, rồi anh nói:

- Mấy anh lại đây bảo tôi viết di chúc, tôi nói không cần. Việc viết di chúc chỉ dành riêng cho Bác. Còn tôi, tôi nghĩ Trung ương các đồng chí đã trưởng thành cả rồi, viết di chúc chỉ gây khó khăn cho các đồng chí. Mình nói thế này, nhưng khi Trung ương bàn lại khác, sinh ra phức tạp, mất đoàn kết. Các đồng chí viết sẵn di chúc bảo tôi kí, tôi không kí.

Rồi anh bảo tôi:

-Tôi đã bàn với một số đ/c Bộ Chính trị, kì Đại hội này đưa anh Linh hoặc anh Võ Chí Công thay tôi làm cả khoá hoặc nửa khoá rồi để đồng chí Thành làm. Còn anh Tố Hữu sau đổi tiền không còn khả năng làm Tổng Bí thư...

Tôi đợi anh Ba nói hết, và suy nghĩ. Những lần trước, khi về thăm Hải Phòng hoặc anh gọi tôi lên nhà chơi, anh Ba có nhắc vấn đề này, tôi đều nói:

- Nước ta còn ảnh hưởng lễ giáo phương Đông, lớp trẻ không thể qua mặt các đồng chí lão thành đi trước mình hàng thập kỉ...

Anh Ba ngắt lời tôi, mỉm cười và nói:

-Tôi đã bàn với một số đồng chí Bộ Chính trị, đồng chí Thành thì các đồng chí đồng ý...

Lúc đó anh mệt, tôi không dám nói dài với anh, chỉ nói gọn:

-Rất cảm ơn anh, nhưng theo tôi nghĩ thì rất khó...

Anh lại vui vẻ đứng dậy, vỗ vai tôi và nói: “Cứ làm việc cho tốt...”. Tôi chào anh ra về, chỉ nghĩ nhiều về bệnh tật của anh, và cũng hơi buồn vì trong các anh đã có sự rạn nứt... sẽ gây ảnh hưởng xấu đến đoàn kết nội bộ của Đảng.

Sau lễ tang Tổng Bí thư Lê Duẩn, tôi làm việc ở Bộ ít ngày, lại tiếp tục đi nắm tình hình các tỉnh thành phố phía Bắc. Trong lúc đó tình hình chuẩn bị Đại hội 6 khẩn trương. Đồng chí Trường Chinh được bầu lại làm Tổng Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Linh được bổ sung vào Bộ chính trị và Thường trực Ban Bí thư, cùng chuẩn bị Đại hội Đảng, chủ yếu là về văn kiện Đại hội, còn chuẩn bị tổ chức cán bộ do anh Lê Đức Thọ phụ trách.

Đi các tỉnh miền Bắc, nắm tình hình một vài ngày, tôi lại về Bộ làm việc. Các tin tức về việc chuẩn bị Đại hội 6 rất sôi nổi, nhất là vấn đề nhân sự Đại hội. Những đồng chí thân thiết với tôi đến chơi, thông tin cho tôi biết về thế lực chống tôi, đang hoạt động rất ráo riết với mục tiêu:

- Số một: đánh bật tôi ra khỏi Trung ương

- Thứ hai: phải làm mất rất nhiều phiếu để tôi không được giới thiệu vào Bộ Chính trị. Đồng thời các đồng chí bảo: Giá là các anh khác, họ sẽ ở lại Hà Nội theo dõi tình hình để đối phó. Tôi cứ bỏ nhiệm sở đi về các tỉnh nắm tình hình, đó là mắc mưu anh Lê Đức Thọ.

Tôi cười và nói: “Mình đã có quan điểm của mình rồi...”. Có đồng chí còn nóng với tôi, nói: “Ông định bỏ chúng tôi hay sao?” Thế mới khó. Tôi phân tích lại cho các đồng chí nghe: “Chúng ta phải làm cho thành công chủ nghĩa xã hội, dân giàu nước mạnh, không bị mất nước. Chứ tranh giành chức vụ, mất đoàn kết thì rất lôi thôi...”.

Trong lúc gần đến Đại hội, đồng chí Tạ Cả, thứ trưởng phụ trách tổ chức đến nói với tôi: “Một đồng chí lãnh đạo lâu năm ở Ban Tổ chức Trung ương, nói qua đồng chí cán bộ Ban Tổ chức Trung ương theo dõi Bộ Ngoại thương, bảo tôi nói lại với anh: Anh phải rất cảnh giác với những lời khen của anh Mười. Tất cả đều là “đãi bôi”. Anh Tạ Cả là đồng chí quen biết tôi từ lâu, nay đã qua đời, còn hai đồng chí kia vẫn khoẻ mạnh và đang sinh sống ở Hà Nội. Tôi nói với anh Tạ Cả, cảm ơn hai đồng chí đã thông tin cho tôi biết để cảnh giác... Còn tôi quan hệ với anh Mười vẫn bình thường, không tỏ ra một sự khác biệt nào, vẫn như khi tôi còn là cán bộ dưới quyền trực tiếp của anh ấy.

Anh Trường Chinh tuy làm Tổng Bí thư, nhưng tôi cảm thấy chung quanh anh có nhiều người không thực lòng ủng hộ anh. Anh chỉ chủ trì chủ yếu về văn kiện, Báo cáo chính trị trước Đại hội... Tôi cảm thấy anh bị lấn át. Anh thường gọi tôi sang nhà trao đổi những nội dung “đổi mới”, nhất là cách quản lí, lí luận về kinh tế thị trường, kinh tế kế hoạch hoá, hỏi kinh nghiệm xây dựng kinh tế của Nhật Bản và một số nước khác.

Khi trao đổi về nhân sự, anh bảo tôi rằng việc ấy anh Thọ chuẩn bị, chưa đưa ra bàn ở Bộ Chính trị, còn phân tán ý kiến ở những vị trí chủ chốt. Suy nghĩ một lát, anh nói với tôi:

-Nếu tôi tiếp tục làm Tổng Bí thư, tôi đề nghị anh Văn làm Chủ tịch nước, đồng chí phụ trách bên Chính phủ.

Tôi nghĩ có thể anh Ba đã bàn với anh Trường Chinh, hoặc tự anh Trường Chinh chọn tôi, tôi không rõ. Tôi thưa với anh Trường Chinh là:

-Theo tôi nắm được tình hình thì thế lực không muốn để anh làm tiếp Tổng Bí thư rất đông. Tôi thấy rất khó đấy! Tôi xin chân thành cảm ơn anh và đề nghị nên cử anh Mười làm Thủ Tướng vì anh Mười đã làm Phó Thủ tướng lâu năm!

Anh Trường Chính nghiêm nét mặt, tỏ vẻ không đồng ý và nói:

-Anh Mười anh ấy võ biền lắm, đồng chí thấy đấy? Các cuộc họp, tôi nói, anh ta thường chẹn họng tôi.

Và anh nói thêm một vài nhận xét khác về anh Mười...

Tháng 11-1986 Trung ương họp để thông qua các văn kiện chính thức đưa ra Đại hội 6. Tôi đang họp, chiều về thì được đồng chí Trung Thành, chuyên viên cao cấp của Ban Tổ chức Trung ương, làm công tác Tổ chức cán bộ từ 1951, theo dõi vụ việc của tôi cho biết là có thư tố giác tôi khai man lí lịch gồm 9 điểm, trong đó anh Thọ giao cho phải xác minh ngay hai vấn đề mới là: ngày bị bắt và ngày được tha từ Côn Đảo về. Tôi hỏi anh Trung Thành có phải là anh Tô Duy tố giác tôi? Anh Trung Thành hỏi lại tôi:

- Sao anh biết?

-Tôi biết lâu rồi, anh em Hải Phòng nói cho tôi biết, anh Tô Duy, anh Thắng, anh Ái đi sưu tầm hàng năm nay về việc tôi bị bắt, bị tù ở Hải Phòng. Quá nhiều người biết, họ đều nói đến tai tôi. Tôi vẫn còn nghi ngờ, vì tôi đánh giá anh Tô Duy không đến nỗi hành động trái lương tâm như vậy! Nhưng từ hôm anh Đức Lạc, Trưởng ban Tổ chức Thành uỷ Hà Nội, Phó Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội (bạn tù với tôi ở trại giam Cát Bi) lại tôi chơi, nói chuyện tỉ mỉ về việc này, tôi mới tin là anh Tô Duy đã làm việc ấy.

Anh Trung Thành bảo tôi đúng là anh Tô Duy. Tôi cung cấp thêm cho anh Trung Thành những vấn đề mới của anh Tô Duy nêu ra và thư của anh Hoàng Chữ gửi cho anh Đỗ Mười. Tôi chỉ được anh Trung Thành ghi sổ tay nói lại, tôi không được xem bản chính.

Mãi sau ngày đối chất 26-2-1993 tôi mới có bản photocopy thư vu khống tôi của anh Tô Duy và anh Hoàng Chữ. Anh Trung Thành và một số cán bộ phải làm khẩn trương hơn một tháng mới có báo cáo chính thức với anh Lê Đức Thọ là mọi việc đã rõ ràng như kết luận 897 ngày 24-10-1984 do anh Võ Chí Công kí.

Thế là ngón đòn vu khống chính trị do anh Tô Duy làm tham mưu bị bước đầu bẻ gãy. Nhưng chưa phải kết thúc. Họ còn đeo đuổi vấn đề này cho đến hôm nay, từng thời kì hành động của họ, tôi sẽ trình bày tiếp ở những phần sau...

Trong khi đó những anh chị em cùng cánh với anh Tô Duy dùng cơ sở quen biết của mình ở các tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương ở toàn quốc, thông tin cho các đoàn Đại biểu đi dự Đại hội về những tin thất thiệt liên quan đến lí lịch của tôi. Có những đồng chí Đại biểu đã phẫn nộ về những hành động tuyên truyền xuyên tạc bỉ ổi của họ, như chị Ba Thi đoàn Đại biểu thành phố Hồ Chí Minh, anh Quý - uỷ viên Thường vụ Phó chủ tịch tỉnh Hải Hưng, anh Đức Lạc - Hà Nội v.v... Họ đã trực tiếp gặp tôi thông tin cho biết, và các đồng chí đã phản bác lại những luận điệu vu khống trong các đoàn Đại biểu đi họp Đại hội.

Riêng ở Hải Phòng, Đại hội Đảng Thành phố bầu đại biểu đi họp Đại hội 6 (lúc đó các Uỷ viên Trung ương cũng phải do Đại hội cấp dưới bầu, không như hiện nay Uỷ viên Trung ương là đại biểu đương nhiên) do những người thuộc phe cánh anh Tô Duy, họ tuyên truyền lôi kéo được một số đại biểu, nên tôi bị mất hơn 40 phiếu bầu cử Đại biểu đi họp Trung ương ở Đại hội Hải Phòng.

Đến Đại hội Đảng toàn quốc, họ tiếp tục tìm cách tuyên truyền xuyên tạc. Anh Tô Duy công khai phát biểu ở đoàn, vu khống lí lịch tôi nhưng đã bị Đoàn ngăn lại, không cho phát biểu vô nguyên tắc.

Họ rỉ tai, nhỏ to thông tin xuyên tạc, vận động các đại biểu Đại hội không bầu cho tôi. Nhiều đồng chí Đại biểu thông tin cho tôi biết. Không những thế, họ còn dung túng cho bà Dung đeo băng trước ngực “đả đảo Đoàn Duy Thành” được đi chung quanh nhà họp Đại hội Ba Đình. Bà Dung là người thế nào? Bà Dung là đảng viên và là mậu dịch viên công ti bách hoá Hải Phòng, bị bệnh thần kinh phân liệt, có mâu thuẫn với chị Đỗ Thị Mận, Phó Chủ nhiệm công ti, là vợ đồng chí Đặng Toàn, Chủ tịch UBND thành phố. Đã nhiều năm bà Dung đến công ti đánh chửi chị Mận, đeo băng đả đảo anh Đặng Toàn. Tôi được phân công giải quyết vụ này. Xét về đời sống bà Dung, không có chồng con, nhà ở không có, phải đi ở nhờ, tôi đã dàn xếp với công ti xếp cho bà Dung một gian nhà ở, nâng cho một bậc lương v.v... Bà Dung không đến cơ quan gây sự đánh chửi chị Mận được khoảng nửa năm, sau đó lại đến tiếp diễn, rồi đi khắp phố chung quanh công ti bách hoá chửi vợ chồng anh Toàn chị Mận. Anh Đặng Toàn lại chạy đến tôi cầu cứu. Tôi mời các đồng chí Bí thư Đảng uỷ công ti và Giám đốc công ti, giao nhiệm vụ phải kiểm điểm và có hình thức kỉ luật với bà Dung. Thế là bà Dung bỏ việc đi kiện khắp nơi, và đeo băng đả đảo tôi.

Ban Tổ chức Đại hội nhiều người biết rõ căn nguyên việc này, đáng lẽ phải dẹp đi mới phải, trái lại cho đó là “dân chủ”, “quyền công dân”, cho đến nơi tiếp dân của Đại hội, đeo băng đả đảo tôi, được đi ngoài đường quanh Hội trường Ba Đình nhằm làm cho các Đoàn đại biểu nhìn thấy. Đó cũng là một việc làm của nhóm anh Tô Duy. Mặc dù khi tỉnh táo, bà Dung vẫn nói tôi là ân nhân của bà ta. Nghĩa là các anh ấy không thực hiện được việc gạt tôi ra khỏi danh sách giới thiệu của Trung ương, thì dùng đủ mọi thứ có thể, tác động vào lá phiếu, không bầu tôi vào Trung ương khoá 6, để đạt được mục tiêu thứ 2 của các anh ấy đề ra.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 khai mạc. Cũng như các lần Đại hội trước, chủ yếu là bàn nhân sự Ban Chấp hành Trung ương, còn bàn về báo cáo chính trị, nhiệm vụ kế hoạch 5 năm đã bàn kĩ ở Đại hội các cấp, đến Đại hội chính thức chỉ bàn những vấn đề lớn còn tồn tại đưa ra thảo luận. Thời gian còn lại là bàn về tổ chức nhân sự.

Trong Đại hội, anh Vũ Oanh nói với tôi:

-Anh Lê Đức Thọ “mót” làm Tổng Bí thư lắm đấy!

Lúc đó tôi mới biết. Vì nhiều lần anh Thọ gặp tôi đều nói là: “Anh bị nhiều bệnh không thể đảm đương được nhiều công việc”. Anh Thọ cũng nhiều lần hỏi tôi Tổng Bí thư nên là ai, tôi đều trả lời là tùy Bộ Chính trị quyết định, giới thiệu ra Trung ương chúng tôi sẽ bầu thôi. Ngay trong Đại hội, khi anh Vũ Oanh cho tôi biết ý anh Thọ, tôi cũng vẫn trả lời anh Thọ như vậy. Hôm Ban Chấp hành bàn về nhân sự, anh Thọ gọi tôi sang nhà riêng hỏi tôi về chuyện các đồng chí Trung ương bàn nhân sự Tổng Bí thư thế nào, đã giới thiệu ai chưa? Tôi báo cáo anh Thọ, tổ Trung ương của tôi các đồng chí đều nói không nắm được cụ thể, nên không giới thiệu ai, đợi Bộ Chính trị giới thiệu. Anh Thọ lại hỏi tôi: “Ý cậu thế nào?”. Tôi cũng báo cáo anh Thọ như lần trước và nói thêm vấn đề vị trí Tổng Bí thư rất quan trọng, đặc biệt trong lúc này là phải có uy tín mới qui tụ được toàn Đảng, nhất là anh Ba mới qua đời. Còn chọn ai tùy tiểu ban nhân sự chọn và báo cáo Bộ Chính trị. Tôi không nắm được cụ thể nên không dám giới thiệu cụ thể ai cả. Anh Thọ không nói gì thêm và hỏi sang việc khác...

Khi Đại hội đang họp ở các Đoàn và Tổ, (Đoàn Hải Phòng với Hà Nội là một Tổ, họp ở Văn phòng Ban Tổ chức Trung ương), tôi được đồng chí Đỗ Mười gọi ra ngoài và cùng sang số 4 Nguyễn Cảnh Chân, Văn phòng Trung ương Đảng. Đồng chí dẫn tôi vào một phòng. Khi đi trên đường tôi suy nghĩ không rõ anh Mười có việc gì. Tôi đoán có lẽ anh Mười làm công tác tư tưởng cho tôi để rút lui khỏi danh sách Trung ương giới thiệu. Một số đồng chí thôi Uỷ viên Trung ương khoá này, đều được từng đồng chí uỷ viên Bộ Chính trị gọi đến làm tư tưởng để rút lui. Tôi nghĩ có lẽ tôi cũng vậy. Nhưng khi vào một phòng, ngồi nói chuyện, anh Mười nêu vấn đề anh Võ Nguyễn Giáp (anh Văn) ra nói về lí lịch anh Văn, năm 16 tuổi đã được thực dân Pháp cho sang Pháp học 6 tháng. Anh Mười bảo tôi về nói cho Đoàn Đại biểu Hải Phòng biết và những ai quen biết ở Đoàn khác cũng nói cho các đồng chí ấy biết... Rồi anh Mười đi ngay.

Tôi lại trở lại tổ họp tiếp. Tôi suy nghĩ, không hiểu tại sao lúc này anh Mười lại nêu vấn đề lí lịch anh Văn ra. Việc này anh Trường Chinh đã nói với tôi mấy lần, và anh Trường Chinh đã kết luận về tiểu sử anh Văn từ năm 1941 - 1942, kể cả việc làm con nuôi Marti, Chánh mật thám Đông Dương, cũng được kết luận là không có, chỉ do những phần tử xấu tung ra. Nay lại có vấn đề đi Pháp học 6 tháng. Tối hôm đó tôi đến nhà anh Trường Chinh hỏi việc này anh Trường Chinh bảo tôi: “Làm gì có việc đó...”. Tôi về nhà, kể lại chuyện cho nhà tôi nghe. Lúc này chúng tôi ở nhờ một phòng của Bộ Ngoại thương. Tôi mới lên, nhà tôi đi theo để nấu nướng cho và nhà tôi cũng là đảng viên lâu năm, rất quan tâm đến việc một số người vu khống tôi. Nghe tôi kể xong, nhà tôi nói ngay:

- Em đã nói với anh nhiều lần, anh thương người và tin người quá đáng, lại thêm tính “phổi bò”, có gì nói hết. Sống ở Hà Nội họ khôn lắm, anh phải đề phòng. Còn việc anh Mười nói với anh, anh cứ lờ đi. Có khi anh Mười chỉ tung ra tin như thế, để anh biến thành cái loa cho anh ấy. Anh Văn và những người thân anh Văn chỉ biết anh đi tuyên truyền xuyên tạc lí lịch anh Văn, họ sẽ quay sang đánh anh. Như vậy anh Mười bắn một phát tên, được cả hai đích.

Tôi cười và khen nhà tôi:

- Em cảnh giác hơn anh.

Nhà tôi bảo:

-Từ hôm cái ông tổ chức báo cho anh biết ông Mười khen anh chỉ là “đãi bôi” thôi, nên em thấy anh Mười nói gì với anh mà em biết, em đều phải suy nghĩ xem ý tứ anh Mười thế nào, không tin ngay như anh đâu.

Khi bầu cử Ban Chấp hành Trung ương, tôi vẫn trúng Trung ương chính thức, nhưng phiếu thấp, chỉ hơn đồng chí thấp nhất cuối cùng (đồng chí Lữ Minh Châu có 42 phiếu). Như vậy nhóm người chống đối vu khống tôi đạt được yêu cầu. Với hơn 50% số phiếu bầu thì ít ai giới thiệu vào Bộ Chính trị, thường phải là 70% trở lên. Nhưng theo tôi được biết cũng có nhiều đồng chí uỷ viên Trung ương giới thiệu tôi vào Bộ Chính trị, nhưng ban nhân sự không giới thiệu.

Đến tháng 1-1987, Trung ương bầu bổ sung Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (Phó Thủ tướng), Bộ Chính trị lại giới thiệu tôi để đưa ra Trung ương lấy ý kiến. Lúc này tôi thấy anh Lê Đức Thọ chú ý tôi khác thường.

Ngay hôm họp Bộ Chính trị tôi được mời dự, anh Thọ nói:

-Anh Thành nay đã là Phó Thủ tướng, cần nắm tình hình và đi vào công việc...

Tôi rất bỡ ngỡ, hỏi các đồng chí Tổ chức Trung ương, vì tôi không biết gì về tin này cả. Các đồng chí Tổ chức cho biết là Bộ Chính trị đã nhất trí tất cả rồi, trừ anh Mười, nói để suy nghĩ thêm, chưa có thư trả lời chính thức.

Đến ngày 17-2-1987 tôi được Hội đồng Nhà nước phê duyệt là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Tôi vẫn kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại thương vì chưa có người thay.

Khi tôi nhận thêm nhiệm vụ mới, phụ trách lưu thông phân phối, thì cũng là lúc giá-lương-tiền đang bê bối, kinh tế khủng hoảng nghiêm trọng, lạm phát phi mã 780% năm 1986.

Tôi cùng với văn phòng Trung ương Đảng và Văn phòng Chính phủ chuẩn bị dự thảo Nghị quyết Trung ương lần thứ hai khoá 6, họp vào tháng 4-1987. Tôi suy nghĩ rất nhiều. Mình mới lên nhận nhiệm vụ, ngân sách cạn kiệt, dự trữ ngoại tệ tại Ngân hàng Nhà nước chỉ còn hơn 1 triệu $US. Lương thực rất khó khăn. Liên Xô và các nước Đông Âu viện trợ rất hạn chế... Tôi chủ trì biên tập dự thảo Nghị quyết với nội dung 4 giảm:

-Giảm bội chi ngân sách.
-Giảm tốc độ lạm phát.
-Giảm tốc độ tăng giá.
-Giảm khó khăn về đời sống của người ăn lương, của lực lượng võ trang và nhân dân lao động nói chung.

Các biện pháp đẩy mạnh sản xuất, nới lỏng đầu bán ra, giá nguyên liệu bán cho xí nghiệp vẫn giữ giá như cũ, nhưng bán ra theo giá thị trường, nhập một số hàng tiêu dùng và cho phép cán bộ công nhân viên đi công tác nước ngoài được mua hàng hoá theo tiêu chuẩn quy định không phải nộp thuế, để tăng thêm hàng hoá đang khan hiếm.

Về nông nghiệp:

- Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp theo chỉ thị 100, cải tiến quản lí nông nghiệp theo hướng mở rộng khoán ra toàn quốc.

Sau khi Nghị quyết được chính thức thông qua tháng 4-1987, tổ chức Hội nghị phổ biến cho cán bộ chủ chốt toàn quốc ở Hội trường Ba Đình, tôi phổ biến xong, có một số nhà kinh tế, và anh em hỏi tôi: trong điều kiện khó khăn này lấy gì mà làm được? Có nhà kinh tế bảo tôi là nên sửa 4 tăng -như đồng chí Trần Nhật Quang v.v. Mọi người hoan nghênh nghị quyết, nhưng không biết dùng cách gì mà giảm được. Khi tôi đến Câu lạc bộ Thăng Long nói chuyện, các đồng chí lão thành cách mạng cũng lo lắng cho tôi. Phụ trách lưu thông phân phối, ngân hàng, tài chính lúc này là vô cùng khó khăn. Tôi nói vui và cũng là lời hứa hẹn: “Nếu thành công, sang năm 1988 tôi sẽ đến báo cáo với các cụ”. Không những lo lắng, mà có người làm ca dao châm biếm Nghị quyết Trung ương 2:
Trăm năm trong cõi người ta,
Đầu vào thì cứng, đầu ra thì mềm
“Hộp đen” thì cứ phồng lên,
Cấp dưới cứ dẫy, cấp trên cứ đè
Anh Phạm Hùng gặp tôi nói: “Nghe người ta nói, anh làm bài ca dao này phải không? Vì bài này từ Hải Phòng mà ra”. Tôi thưa, với anh là tôi không làm bài này, nhưng khi anh em đọc cho nghe, tôi có sửa vài từ cho bớt “tục”.

Ngay kì họp Quốc hội tháng 7-1987 anh Nguyễn Văn Linh, anh Phạm Hùng đều có bài vịnh lại bài ca dao trên, đọc trước Quốc hội cho Đại biểu cùng nghe.

Tôi làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng được 6 tháng thì Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng nghỉ, anh Phạm Hùng lên thay vào tháng 7-1987.

Trong thời gian làm việc với anh Tô (tên thân mật của anh Phạm Văn Đồng), anh hay bàn chuyện trọng đại quốc gia với tôi. Anh biết tôi đã là cán bộ đón anh ở hội nghị Fông-ten-nơ-bơ-lô từ Pháp về qua ga Lai Khê, quê tôi; và sau đó cũng tham gia việc chuẩn bị đưa, đón anh qua đường 5 thuộc đất Kim Thành để đi Việt Bắc. Sau đó tôi lại cũng tù ở Côn Đảo, dù tôi là lớp tù sau anh nhiều thập kỉ và như người xưa thường nói: “Đồng bệnh tương lân”, anh cũng bị bệnh phổi lúc 17, 18 tuổi rất nặng, tưởng không qua được. Tôi thì bị địch đánh gẫy xương sườn số 9, sưng phổi, nước vàng chảy ròng rã 5 năm mới hết. Bởi vậy trong các cuộc đến làm việc với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, tuy anh hơn tôi 26 tuổi nhưng anh em bàn chuyện rất vui. Anh đáng tuổi đẻ ra tôi, nhưng tôi vẫn gọi anh bằng anh hoặc Chủ tịch, hoặc Thủ tướng. Có lúc vui chuyện, tôi nói: “Trong cái nhà Chủ tịch phủ, bao nhiêu năm không trang bị lại gì cả, vẫn những quạt trần Marelly của Ý sản xuất, kêu “cọc..., cọc... cọc”, hố xí, vệ sinh cũng vậy, tất cả đều thể hiện tính “bảo thủ không đổi mới”. Anh Tô cười khà khà vui vẻ nói: “Các đồng chí còn trẻ, phải đổi mới cả chỗ làm việc này nữa mới được” rồi anh lại cười. Tôi vẫn nghĩ anh là nhà “hiền triết”, nhà ngoại giao, hơn là nhà quản lí. Có hôm ngồi chờ đón khách ngoại ở phòng khách lớn của Chủ tịch phủ, tôi hỏi anh kì họp Quốc hội tháng 7-1987 anh sẽ nghỉ, anh đã chọn xong người thay chưa? Anh bảo: “Còn đang bàn...”.

Tôi hỏi: “Anh Đỗ Mười thế nào?” Anh suy nghĩ đến 2,3 phút, rồi trả lời gọn có 3 từ: “Chỉ có phá!” Tôi ngồi yên không hỏi gì thêm, anh cũng không nói gì thêm... rồi chúng tôi chuyển sang câu chuyện khác, khi khách chưa đến.

Cách đánh giá của các anh lãnh đạo chủ chốt với anh Mười ra sao tôi đều biết cả, từ anh Lê Duẩn, anh Trường Chinh, anh Lê Đức Thọ, anh Nguyễn Văn Linh... Nhưng anh Đỗ Mười vẫn làm cả Thủ tướng và Tổng Bí thư hơn 10 năm. Nhất là anh Phạm Văn Đồng biết rất rõ anh Mười, anh lại là người qua đời sau các anh trên. Sau này tôi mới hiểu một chi tiết nhỏ, là anh Mười làm thêm khoá thứ hai Tổng Bí thư, anh Tô phản ứng rất gay gắt. Tuy thế phản ứng của nhà lãnh đạo có tầm cỡ, nhà hiền triết, nhà ngoại giao cũng khác những người khác. Anh đã nói với 5 đồng chí là cấp tướng, nếu anh Mười không chịu thôi giữa nhiệm kì các đồng chí phải tham gia “hạ” anh Mười xuống... Việc này qua cơ quan nắm tin tức, anh Đỗ Mười đã được báo cáo lại. Như vậy sự phản ứng của anh Tô cũng quyết liệt. Nhưng lời nói việc làm của anh nhẹ nhàng, không thô bạo như những người thiếu học vấn...

Tháng 7-1987 Quốc hội chuẩn y để anh Tô nghỉ, vì tuổi cao. Anh Phạm Hùng thay làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Anh Đỗ Mười thôi giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về thường trực Ban Bí thư.

Tôi cũng có số “hên” và không “hên”. Làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng có 15 tháng, một nửa thời gian làm với Chủ tịch Phạm Văn đồng, một nửa thời gian làm với Chủ tịch Phạm Hùng. Tôi làm việc với hai Chủ tịch họ Phạm để lại trong tôi nhiều kỉ niệm, nhiều “dấu ấn” sâu sắc, không bao giờ quên. Tôi cũng học được ở hai anh những kinh nghiệm trường đời, nhân tình thế thái, mà cả hai đã trải qua. Các anh đã kể lại mọi chuyện cho tôi nghe, như tài sản quý bàn giao cho thế hệ trẻ. Ba anh em cùng tù Côn Đảo. Anh Phạm Hùng còn được đọc báo cáo của tôi năm 1953 khi anh làm Bí thư Đặc khu uỷ miền Đông Nam Bộ.

Cuối năm 1987, có cuộc họp liên tịch giữa Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng để kiểm điểm thực hiện nghị quyết 2 của Trung ương và phương hướng thực hiện tiếp...

Tôi trình bày báo cáo kiểm điểm thực. hiện nghị quyết 2 và biện pháp thực hiện tiếp. Về biện pháp có nhiều vấn đề, tôi nêu một vài vấn đề chủ yếu:

-Xuất Nam, nhập Bắc về lương thực, đỡ tốn phí về vận tải.
-Xoá bỏ các trạm ngăn sông, cấm chợ, cho lưu thông hàng hoá trong cả nước, cả nước là một thị trường thống nhất.
-Nhập vàng, kinh doanh vàng bạc, tạo ra thị trường vàng, để vàng làm “kim bản vị”.
-Chấp nhận đồng đô-la Mỹ được chuyển đổi theo giá thị trường, có hướng dẫn của Ngân hàng...v.v.

Thảo luận trong 2 ngày, các vấn đề khác được chấp nhận, riêng nhập vàng bị anh Đỗ Mười phản đối. Khi tôi trình bày xong báo cáo, anh Phạm Hùng đứng dậy cười vui vẻ:

-Ông Thành chơi sang nhỉ, nhập vàng cơ à?

Khi kết luận Hội nghị, anh Nguyễn Văn Linh - Tổng Bí thư chỉ kết luận những vấn đề không có ai phản đối, còn vấn đề “vàng” anh không nhắc đến.

Kết thúc hội nghị tôi lo quá. Vì vấn đề nhập vàng tuy là một mặt hàng nhập, nhưng nó có nhiều ý nghĩa quan trọng:

-Giá vàng trong nước và thế giới chênh lệch nhau lớn. Ta cấm tư nhân kinh doanh vàng bạc, nhà nước được phép kinh doanh, nhưng không được phép nhập vàng thỏi, chỉ khai thác tại nội địa được mỗi năm khoảng 2 tấn vàng cốm (sa khoáng), đem ra kinh doanh, nên giá vàng trong nước và thế giới chênh lệch nhau ba lần. Nhập vàng sẽ lãi lớn, bổ sung ngân sách, chống được lạm phát.

-Kinh doanh vàng bạc, tạo ra mặt hàng mới phong phú, bổ sung cho quỹ hàng hoá. Mặt hàng đặc biệt này được nhân dân ta ưa thích, dùng vàng làm đồ trang sức, tích trữ vàng...

-Phá bỏ được thị trường coi vàng như thứ cấm kị, chỉ có giai cấp giàu có mới dùng, còn người lao động không được dùng, tự mình đẻ ra kì thị dân lộc mình, coi vàng là thứ ghê gớm quá.

Trong thời tạm chiếm ở phía Nam, người dân bán trầu cau cũng có hàng đấu vàng. Như mẹ vợ chú Đào Hữu Thăng, di cư vào miền Nam, chồng chết, chỉ bán trầu cau, khi giải phóng gả chồng cho con gái lấy chú Đào Hữu Thăng là bạn tù của tôi, bà mẹ vợ cho con gái một đấu vàng toàn nhẫn là nhẫn, đào ở gốc cây đu đủ lên. Chú Thăng được một đấu, cân được hơn 1 kg, khoảng 30 cây. Khi tôi vào chơi nhà ở thành phố Hồ Chí Minh, chú Thăng mở tủ cho tôi xem. Thế thì việc kinh doanh vàng bạc để mở rộng kinh doanh, trước hết quốc doanh thu lãi cho ngân sách nhà nước, sau cho tư nhân kinh doanh, đáp ứng nhu cầu của nhân dân, ta có thêm dự trữ vàng trong dân, vị thế kinh tế, vị thế chính trị của nước ta có kim loại quý bảo lãnh cho nền kinh tế, điều đó rất cần thiết cho kinh tế thị trường.

Đêm về nằm ngủ tôi buồn quá. Sáng hôm sau, tôi lại trình bày tiếp với anh Phạm Hùng. Anh Hùng bảo tôi: “Sang báo cáo anh Linh, còn tôi đã đồng ý với anh từ hôm anh trình phương án”. Tôi đề nghị anh Phạm Hùng bảo anh Sáu Dân cùng đi với tôi sang báo cáo với anh Linh cho mạnh. Anh Phạm Hùng xua tay: “Đừng, đừng, mình anh sang là đủ. Anh Sáu cùng đi có khi lại không hay”... Hôm đó tôi mới hiểu giữa anh Linh và anh Sáu có vấn đề với nhau. Sau này tìm hiểu, tôi mới biết được ý của anh Phạm Hùng.

Tôi sang trình bày với anh Linh ngay. Vì vấn đề này tôi đã suy nghĩ từ lâu, nhất là những lí luận về tài chính tiền lệ của Keynes, nhà kinh tế tư bản nói nhiều về kinh tế thị trường và sự can thiệp của nhà nước vào thị trường như thế nào.

Tôi đến nhà anh Linh. Sau 15 phút tôi trình bày, anh Linh đồng ý ngay. Tôi vội nói:

- Hôm qua sao anh không kết luận cho tôi dễ làm việc. Vì có quyết định tập thể của Bộ Chính trị rất quan trọng.

Anh Linh ngắt lời tôi:

-Ấy chết, nếu hôm qua tôi kết luận, có người phản đối thì hôm nay tôi sao dám đồng ý với anh. Anh thấy đấy, những “tay to mồm” phản đối là khó xử lắm!

Tôi thầm phục anh. Tổng Bí thư thông minh, thế mà chị Huệ cứ hay nói với tôi, có lần có mặt cả anh Linh: “Anh Linh nhà tôi “đần” lắm, anh làm việc với anh Linh, anh giúp đỡ anh ấy...”. Anh Linh vỗ vai tôi, vừa cười vừa nói: “Bà Huệ ấy mà...?”

Anh đứng dậy bắt tay tôi và bảo:

-Anh với tôi cùng anh Hai Hùng chịu trách nhiệm trước Trung ương. Cứ làm, không cần phổ biến rộng. Đây chỉ là một mặt hàng, anh Hùng quyết là đủ. Nhưng nó là mặt hàng “vàng” nên Tổng Bí thư phải có ý kiến.

Anh rất vui tiễn tôi ra cửa...

Tôi ra về rất phấn khởi, báo cáo lại với anh Phạm Hùng và anh Võ Văn Kiệt. Hai anh phân công tôi phụ trách. Tôi đề nghị: Bộ Ngoại thương làm cũng được, nhưng mặt hàng vàng để Ngân Hàng nhà nước làm thì phù hợp với chuyên ngành hơn. Anh Phạm Hùng bảo tôi sang bàn với anh Lữ Minh Châu, Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước, lúc đó chưa gọi là “Thống đốc”. Tôi sang bàn với anh Lữ Minh Châu, anh Châu nói: “Đây là vấn đề mới, nên để bên Bộ Ngoại thương làm. Anh là Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, phụ trách trực tiếp tốt hơn...”. Tôi về báo cáo lại anh Hai Hùng. Anh Hùng, anh Sáu Dân cùng nói: “Ông Thành và Bộ Ngoại thương làm là hợp lí...” Tôi phải nhận và tổ chức bộ phận chuyên trách nhập vàng do đồng chí Đinh Phú Định, thứ trưởng, đồng chí Uyển, Vụ trưởng xuất nhập khẩu giúp tôi thực hiện cụ thể. Để lấy thực tế chứng minh, tôi giao đồng chí Lạc, Tổng Giám đốc Tổng công ti xuất nhập khẩu Kĩ thuật dầu khí (Petechim) nhập nhanh một chuyến để rút kinh nghiệm.

Công ti đã nhập lần đầu từ Hồng Kông, chở bằng máy bay 15 tấn vàng 999 JSC của Thuỵ Sĩ về Thành phố Hồ Chí Minh. Các doanh nghiệp Nhà nước, tư nhân đến xếp hàng mua từng thỏi vàng từ 5 kg đến 50 kg về chế biến ra từng cây vàng bán lẻ. Chuyến đầu lãi tới 3 lần, có tiền trả nợ chuyến trước và nhập chuyến sau, một phần nộp vào ngân sách. Mọi người yên tâm là nhập vàng có lãi lớn cho Ngân sách Trung ương và địa phương. Sau đó mở rộng ra cả nước nhưng chủ yếu vẫn là Thành phố Hồ Chí Minh và các công ti xuất nhập khẩu các tỉnh phía Nam. Còn các tỉnh phía Bắc chỉ có Hà Nội xin nhập 10 tấn. Nhưng thủ tục vay tiền, mở L/C cũng như giao dịch chậm trễ, phải hết 6 tháng mới nhập được 900 kg từ Hồng Kông, bằng tàu thuỷ về Hải Phòng. Đồng chí Vũ Ngọc Phương thực hiện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Trần Tấn, Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội. Khi chở vàng về Hà Nội, các đồng chí sợ đi đường số 5 bị cướp, các đồng chí phải cử công an áp tải đi qua Nam Định, qua đường số 1 về Hà Nội để đánh lạc hướng bọn trộm cướp dọc đường số 5. Về Hà Nội ban đêm, nên để tạm ở văn phòng UBND Thành phố một đêm, làm cho một số người tò mò, thắc mắc tại sao không đem gửi Ngân hàng ngay mà lại để ở văn phòng UBND Thành phố...

Khi tôi biết việc này, tôi bảo đồng chí Vũ Ngọc Phương: “Có gần một tấn vàng, cho vào cái xe U-oát chạy một mạch ban ngày về Hà Nội, rồi đem đến Ngân hàng gửi, làm gì phải đi đêm, qua Nam Định về Hà Nội, vòng vo tốn thì giờ, lại sinh thắc mắc cho một số người... Chú là người cảnh giác cao độ, thời bình mà cứ làm như thời chiến...”.

Các công ti xuất nhập khẩu miền Bắc cũng được thông báo, nhưng vì không kinh doanh quen, còn sợ mọi thứ, nên không dám nhập. Ngay Hải Phòng, tôi gọi báo mấy lần, nhưng cũng không dám nhập vàng. Riêng các tỉnh phía Nam chạy xô ra Bộ Ngoại thương xin quota nhập vàng. Để thuận tiện cho Thành phố Hồ Chí Minh, anh Sáu Dân kí uỷ nhiệm cho đồng chí Nhật Hồng, Giám đốc Vietcombank Sài Gòn, kí giấy phép nhập cho thành phố là 50 tấn. Còn tỉnh khác vẫn phải ra Bộ Ngoại thương xin quota. Tính đến tháng 4-1990, trước khi tôi thôi giữ chức Bộ Trưởng Bộ kinh tế đối ngoại, cả nước nhập được khoảng 160 tấn, tính ra USD Ngân sách Trung ương và các tỉnh, thành phố có nhập vàng lãi khoảng hơn 1 tỉ USD góp phần rất quan trọng vào chống lạm phát, từ 780% năm 1986, năm 1990 còn 67% giảm hơn 10 lần.

Xin từ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng

Sau 8 tháng thực hiện Nghị quyết 2 của Trung ương, tôi thấy xu hướng và thực hiện bước đầu có kết quả, tôi đề nghị Trung ương cần ra một Nghị quyết toàn diện chuyển kinh tế kế hoạch hoá sang kinh tế Thị trường định hướng XHCN.

Hội nghị liên tịch Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng định vào ngày 1 và 2-2-1988. Đồng chí Phạm Hùng giao cho tôi cùng 6 Bộ trưởng trong ngành và một số chuyên viên kinh tế chuẩn bị. Tôi đã chủ trì xây dựng một phương án, có mô hình để dễ chỉ đạo.

Mô hình này thể hiện chuyển dần từng bước, toàn diện của cả nền kinh tế sang kinh tế thị trường. Việc chuẩn bị rất công phu. Khi được quyết, bất cứ đồng chí uỷ viên Bộ Chính trị nào cũng có thể chỉ đạo theo mô hình đó được. Nó vừa đồng bộ, dễ nhìn thấy diễn biến tình hình qua ngày tháng cập nhật, các ngành các cấp không lúng túng. Thực sự tôi rất phấn khởi khi đưa ra Hội đồng Bộ trưởng tham gia. Các thành viên Chính phủ đều hoan nghênh, anh Phạm Hùng phân công tôi báo cáo dự thảo Nghị quyết 4 này trước hội nghị liên tịch (gọi là liên tịch nhưng thực chất là Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng).

Ngày 1-2-1988 tôi trình bày xong, Hội nghị có 14 uỷ viên Bộ Chính trị họp, 12 đồng chí phát biểu đồng tình, đồng chí Nguyễn Văn Linh sơ kết ý kiến của 12 đồng chí đã phát và phát biểu bổ sung, anh Linh cũng đồng tình với dự thảo Nghị quyết 4.

Đến cuối giờ chiều ngày 1-2-1988 anh Đỗ Mười phát biểu. Anh không đi vào đề án, anh phát biểu phê phán trực tiếp tôi, với những ý chính sau đây:

- Một Phó Thủ tướng và 5, 6 Bộ trưởng không chịu đi cơ sở, cứ ngồi ở bàn giấy nghiên cứu mô hình nọ, mô hình kia để làm gì? Vấn đề mới quá, tôi đề nghị gác lại đến tháng 9-1988 sẽ bàn.

Vân vân và vân vân, xoay quanh phê phán tôi.

Hội nghị nghỉ, hôm sau bàn tiếp. Tôi nghĩ vấn đề tôi và các Bộ trưởng trong khối đã tính toán bàn kĩ, được cả Hội đồng chính phủ thông qua. Dự thảo nghị quyết 4 mang tính lí luận cao và mô hình chuyển dịch nền kinh tế có cơ sở khoa học. Nghị quyết này tiếp nối Nghị quyết II rất có hệ thống. Nay đồng chí Thường trực Ban Bí thư đề nghị để tháng 9-1988 mới bàn, các đồng chí Bộ Chính trị cũng đồng ý, tôi thấy không còn cơ sở để làm việc có hiệu quả cho việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 6 đổi mới, có tầm sâu rộng, khắc phục nhanh khủng hoảng kinh tế, đưa kinh tế nhanh ổn định và phát triển. Tôi quyết định sẽ xin từ chức vào ngày hôm sau.

Tối hôm đó tôi trao đổi kĩ với nhà tôi và đồng chí Ngô Hải thư kí của tôi về thái độ của anh Đỗ Mười. Anh Đỗ Mười không thực hiện được ý định loại tôi khỏi Ban Chấp hành Trung ương khoá 6, tôi lại còn làm Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, như vậy sẽ cản bước tiến của anh Mười. Nếu tôi từ chức vừa thoả lòng anh Mười và giữ được đoàn kết nội bộ, vừa cũng là tấm gương chung: Khi không còn điều kiện để thực thi nhiệm vụ thì nên rút lui cho người khác thay thế, mình làm việc khác, nếu hết việc thì về nghỉ, vì lúc này tôi đã 59 tuổi. Nhà tôi và chú Ngô Hải hiểu ý tôi và lòng anh Mười nên cũng đồng tình với tôi.

Tôi viết đơn xin từ chức để đọc vào chiều mai 2.2.1988. Tôi dự kiến phát biểu bổ sung, sau đó sẽ đọc đơn xin từ chức.

Sáng 2-2-1988 thế nào tôi cũng phải báo cáo đồng chí Tổng Bí thư và Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng trước, để bảo đảm ý thức tổ chức, kỉ luật...

Sáng hôm sau vào giờ giải lao, tôi báo cáo với anh Linh việc tôi xin từ chức để giữ gìn đoàn kết nội bộ. Anh Linh bảo tôi cần suy nghĩ thêm. Tôi nói đã suy nghĩ kĩ rồi. Anh Linh không nói gì thêm. Khi tôi báo cáo anh Hai Hùng, anh Hùng nói: “Không nên, để bàn thêm”. Tôi báo cáo rằng đã suy nghĩ kĩ rồi. Tôi không thể làm việc tốt được nếu anh Mười còn cản trở. Tôi đề nghị anh cho phép tôi từ chức, anh Hùng hơi cười vui: “Để xem xem...”.

Khi tôi đọc đơn từ chức, hai anh mới cho là thật. Các anh cứ tưởng tôi bực tức với anh Mười nên nói vậy thôi. Anh Hùng còn bảo: “Tôi tưởng anh nói đùa”. Vì khi đề nghị xin từ chức, thái độ tôi vẫn vui vẻ bình thường, không có thái độ tức giận gì cả, nên anh vẫn nghĩ tôi chỉ nói cho đỡ bực mình với anh Mười thôi.

Khi tôi đọc đơn xin từ chức Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, hội nghị có khoảng hơn 60 người, họp ở Hội trường T78, tại thành phố Hồ Chí Minh, mọi người đều lắng nghe với vẻ bất ngờ. Sau đó, anh Linh đứng lên luôn, phê bình anh Đỗ Mười một cách nghiêm khắc, với mấy ý chính sau đây:

-Ông Mười tưởng rằng Uỷ viên Bộ Chính trị là to lắm, muốn nói gì cũng được, muốn phê bình ai cũng được. Hồi tôi làm Bí thư Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh, mỗi lần vào Thành phố là ông Mười đòi gặp tôi. Nhiều lần tôi từ chối không gặp. Ông tưởng là Uỷ viên Bộ Chính trị muốn làm gì thì làm...

Khi anh Linh dứt lời, anh Mười nói:

-Tôi nói đó là tinh thần Bôn-xê-vích...

Tôi xuýt nữa bật cười to...

Tối hôm đó tôi sang chào anh Trường Chinh (Anh Trường Chinh đang nghỉ ở T78), đồng thời xin ý kiến anh về đôi câu đối, tôi định viết ở lăng cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc ở Cao Lãnh. Vì ngày hôm sau, 3-2 ngày thành lập Đảng, tôi xuống thắp hương tại nhà lưu niệm cụ Phó bảng và viết ngay tại đó cho có ý nghĩa. Nội dung:

“Thiên hồng địa tử đô Sinh Sắc
Giải phóng sơn hà hiển Chí Minh”

Đọc xong hai câu thơ và tôi nói thêm ý của nó, anh Trường Chinh nghe xong khen: “Hay lắm! hay lắm! Khí phách lắm! Khí phách lắm!” Tôi yên tâm. Anh Trường Chinh mà Đảng ta và nhân dân ta thường gọi anh là: “Anh Thận” vì anh rất cẩn thận trong từng lời nói và bài viết, đối nhân xử thế, việc gì cũng thận trọng, nên mới được nhân dân và cán bộ đặt cho anh chữ “Thận” làm tên gọi thân mật, nay anh đã khen thì tôi có thể yên tâm.

Câu đối này tôi cũng đưa cụ Minh, một nhà “uyên thâm túc Nho” xem trước. Cụ Minh góp ý với tôi thay chữ “giai” bằng chữ “đô”, chữ “rực” bằng chữ “hiển”. Cụ giải thích chữ “đô” đắt nghĩa hơn chữ “giai”, dù chúng đều có nghĩa là “đều”. Chữ “hiển” thay chữ “rực” để khỏi hiểu lầm đối với người ít biết chữ Hán. Vì trong câu đối viết chữ “rực” là bay lên; nhưng đọc mà không trông chữ viết thì nghĩ chữ “rực” là “rực rỡ”, hiểu sai ý, nên thay bằng chữ “hiển”. Tôi đồng ý với cụ Minh.

Năm 1987 mất mùa nên ảnh hưởng đến năm 1988. Lương thực lúc đó chỉ dựa vào sản xuất trong nước, tiền nhập lương thực không có, viện trợ của Liên Xô và các nước Đông Âu về lương thực không đáng kể.

Ảnh hưởng vụ mùa thất thu đã kéo dài đến năm 1988, nhất là những nơi mất mùa nặng như Thanh Hoá, Nghệ An. Tết âm lịch, đầu năm 1988, Thanh Hoá đã có hơn 100 người chết đói. Anh Phạm Hùng dự định về miền Năm ăn Tết, nhưng tình hình lương thực căng thẳng, anh ở lại Hà Nội ăn Tết, đến mùng 6 Tết mới vào Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày mùng 2 Tết anh đến thăm tôi. Vì không được báo trước, nên tôi về Hải Phòng. Sáng 4 Tết tôi đến chúc tết anh ở nhà riêng, anh bảo tôi: “Mấy hôm nay ở lại Hà Nội lo gạo, lương thực cho Thanh Hoá và những tỉnh thiếu đói nặng. Nay đã hòm hòm, mốt tôi vào Thành phố.”. Tôi thấy anh vất vả quá.

Mới làm Thủ tướng được hơn 6 tháng mà anh già hẳn đi. Hai anh em ngồi nói chuyện gần hết buổi sáng, hết chuyện nước, đến chuyện nhà, rồi lại đến chuyện tù Côn Đảo... Tôi thấy anh dáng vẻ mệt mỏi và buồn, đôi khi nói đến tình hình đói ở Thanh Hoá anh lại rơi nước mắt. Rồi anh nhắc lại chuyện tôi xin từ chức tuần trước. Tôi động viên anh rằng tôi vẫn ra sức làm việc, không vì xin từ chức mà nản việc. Anh bảo tôi: “Tôi mừng vì anh vẫn giữ được thái độ bình thường. Việc anh từ chức là độc nhất vô song”. Tôi nói: “Tôi xin từ chức là thực sự có lỗi với anh, vì anh mới làm Chủ tịch được hơn 6 tháng. Tôi từ chức có thể có người hiểu sai, mong anh thông cảm”. Anh nhắc lại một vài ý hôm họp và vài ý trách anh Mười. Rồi anh nói: “Tôi hoàn toàn thông cảm với anh. Trong điều kiện này rất khó làm việc với anh Mười...”.

Không ngờ ngày 6 Tết anh vào Thành phố Hồ Chí Minh ăn Tết với gia đình và thăm bà con bạn bè thân thiết, ngày mồng 8 Tết, một cơn đau tim đột ngột đã cướp đi người chiến sĩ cách mạng lão thành. Ngày xưa giặc Pháp kết án anh với án tử hình, sau giảm án đày ra Côn Đảo nhưng chúng không cướp được sinh mạng anh. Với sức khỏe tốt, được rèn võ, luyện “gồng trà kha”, nay anh đang say mê với công việc mới, đầy trọng trách, trong hoàn cảnh kinh tế đất nước đang gặp nhiều khó khăn, anh mất đi để lại bao thương tiếc cho nhân dân, cho Đảng. Tôi thực sự quý mến anh và anh cũng yêu mến tôi như những người ruột thịt thân thiết. (Tôi sẽ nói kĩ về anh ở chương “các đồng chí Bộ Chính trị với Hải Phòng”).

Anh Phạm Hùng qua đời, anh Võ Văn Kiệt làm quyền Thủ tướng, đến tháng 6-1988 Quốc hội họp bầu anh Đỗ Mười làm Thủ tướng.

Tháng 3-1988 Bộ Ngoại thương sáP nhập với Uỷ ban hợp tác Lào - Kampuchia, do anh Đặng Thí làm Chủ nhiệm, Uỷ ban Hợp tác đầu tư với nước ngoài do anh Võ Đông Giang làm Chủ nhiệm. Bộ mới ra đời có tên là Bộ kinh tế đối ngoại do tôi làm Bộ trưởng.

Còn tôi đến 2-5-1988 được chuẩn y miễn nhiệm cùng với hai đồng chí Nguyễn Ngọc Trìu, Nguyễn Văn Chính (Chín Cần), cũng không tuyên bố rõ lí do tôi xin từ chức, mà chỉ nói chung: cả ba người thôi giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng để nhận nhiệm vụ khác. Tôi thấy viết thế nào cũng được, miễn là mình được thôi chức vụ Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng.

Hôm đưa ba đồng chí Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng ra Quốc hội phê chuẩn, tôi thấy anh Nguyễn Ngọc Trìu, hai tay vắt sau, vừa đi vừa suy nghĩ trong giờ giải lao. Tôi mời anh Trìu vào uống cà phê và bảo: Suy nghĩ làm gì cho tổn thọ, “nhất đại vi quan, vạn đại vi dân”. Khi hai anh em ngồi uống cà phê, thấy có cảnh có tình, tôi làm 4 câu thơ tặng anh Trìu:
“Hai thằng miễn nhiệm uống cà phê,
Thế sự xem ra vẫn ê chề.
Dân đói, dân no còn lắm chuyện
Việc nhà, việc nước vẫn còn mê”.
Anh Trần Hoàn ngồi bàn bên cạnh, thấy tôi đọc thơ ngó sang bảo đọc to cho nghe. Tôi nói đùa: “Muốn kiểm duyệt phải không?”. Anh Trần Hoàn cười. Tôi đọc to cho anh Trần Hoàn nghe, anh Hoàn nói: “Hay đấy. Vẫn còn có hậu”. Tôi nói lại: “Bọn tớ làm cách mạng đến cùng, không bao giờ nản chí”.

Tôi làm Bộ trưởng Bộ Kinh tế, anh Mười làm Thủ tướng, tôi vẫn giữ thái độ bình thường. Anh Mười đối với tôi bề ngoài cũng thấy dễ chịu hơn, nhưng tôi nghĩ sẽ có ngày cũng phải chia tay. Chắc anh Mười cũng không muốn tôi làm lâu.

Đúng như vậy, khi tôi nhập vàng anh còn là Thường trực bên Đảng, nay sang làm Thủ tướng, hàng năm đi đâu anh cũng rêu rao: “Đoàn Duy Thành Bộ trưởng Kinh tế đối ngoại đấy, không nhập phân bón, nguyên liệu, đi nhập vàng...” Anh em các ngành, các địa phương thông tin cho tôi biết, tôi thấy chẳng có gì phải suy nghĩ, vì đó là tất yếu. Anh Mười không hiểu rằng lúc đó lấy tiền đâu mà nhập phân bón, nguyên liệu? Phải nhập vàng chịu, trả nhanh; vòng sau có lãi để nhập phân bón, nguyên liệu. Khi họp Hội đồng Bộ trưởng, anh tuyên bố: “Anh Thành nghỉ Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, nhưng tôi vẫn thực hiện bài của anh Thành”. Họp Thường vụ Hội đồng bộ trưởng anh cũng tuyên bố như vậy.

Nhưng sang năm 1989 tình hình khá hơn. Anh gặp tôi hai lần khi họp Hội đồng bộ trưởng, anh Mười nói: “Bài của cậu tính cũng sai”. Tôi nghiêm nét mặt nhưng không nói gì. Lần sau có mặt anh Đoàn Trọng Truyến, anh Mười lại nói: “Bài của cậu cũng tính sai...” Tôi hơi khó chịu, trả lời anh Mười: “Anh đã nói nhiều lần, anh thực hiện bài của tôi. Bài của tôi, tôi tính rất kĩ. Chỉ có thể do người thực hiện sai, còn tôi tính không sai”. Anh không nói gì và đi chỗ khác.
***
Tính tỉ suất lãi ngân hàng với đồng Việt Nam và tỉ giá giữa đồng Việt Nam với đồng đô-la Mỹ và ngoại tệ khác, là vấn đề khó trong quản lí kinh tế. Điều này lúc nào tôi cũng quan tâm suy nghĩ. Khi có lạm phát phi mã lại càng khó. Lúc đó Hội đồng bộ trưởng họp nhiều lần, có những đề xuất rất táo bạo, phi kinh tế, như đưa lãi suất đồng Việt Nam lên 20%/tháng của anh Nguyễn Cơ Thạch. Anh còn nói mạnh mẽ rằng phải đem bom đánh tan nhà máy in bạc đi, in quá nhiều để gây lạm phát. Tôi rất thích tính anh Thạch. Tuy là nhà ngoại giao có tài, nhưng anh rất quan tâm đến kinh tế, đặc biệt là công nghệ thông tin. Tôi nói với anh Thạch đưa lãi suất lên 20% tháng thì bán cả nước Việt Nam đi mà trả lãi. Anh tranh luận với tôi rất thoải mái. Anh luôn luôn giữ chữ “lên” với tôi. Cái gì hứa, làm đúng lời hứa. Anh Nguyễn Cơ Thạch và anh Mai Chí Thọ hay bảo tôi là có hai ông Thành. Ông Thành ở Hải Phòng thì thoáng, còn ông Thành lên Trung ương lại quá chặt chẽ. Tôi nghĩ các anh rất có tình cảm với tôi nhưng các anh ít nghiên cứu sâu về kinh tế. Trong lúc khủng hoảng kinh tế, sản xuất đình đốn, vay tiền của dân, cho ai vay lãi được 5%/tháng? Doanh nghiệp không ai dám vay vì làm sao ra lãi 5%/tháng để trả nợ ngân hàng? còn Nhà nước lấy tiền đâu bù chênh lệch khoảng 15%/tháng? Tôi nói vui với anh Thạch: “Nghe anh chỉ có đổ thóc giống ra mà ăn...” Anh cười vui vẻ, nhưng vẫn tranh luận tiếp.

Sau đó anh Mười quyết định lãi suất 12%/tháng. Hỏi ý kiến tôi, tôi bảo: “Chống lạm phát mà nâng lãi suất như thế này thì chỉ kéo dài được chu kì lạm phát”. Nhưng chu kì sau sẽ lạm phát cao hơn chu kì trước. Nếu nâng lãi suất đồng nội tệ lên quá cao để chống được lạm phát và kinh tế khủng hoảng thì thế giới họ đã làm từ lâu rồi, và không bao giờ có khủng hoảng kinh tế cả. Theo ý tôi trong trường họp đặc biệt này chỉ nên 4% một tháng là đã quá bạo tay rồi. Thử hỏi có xí nghiệp nào làm ra lãi 2% tháng không? Khi tôi làm Bí thư Thành uỷ Hải Phòng, năm 1985, Thành phố đã vay của nhân dân Hải Phòng 150 triệu với lãi suất 4%/tháng, được Ngân hàng Trung ương đồng ý. Chúng tôi dự kiến trong một tháng rưỡi vay đủ số tiền trên. Nhưng thật bất ngờ chỉ trong một tháng nhân dân đem đến cho vay tới 200 triệu. Chúng tôi phải kết thúc ngay. Sau tháng 9-1985 Thành phố phải trả hết cho nhân dân, vì sợ đồng tiền Việt Nam đang bị mất giá sau đổi tiền nhân dân sẽ thiệt thòi. Từ kinh nghiệm và thực tế lúc đó, tôi đề xuất lãi suất không nên quá 4%/tháng. Nhưng Hội đồng bộ trưởng vẫn quyết định 12%/tháng.

Có một số anh chị em quen thân đến hỏi tôi lãi suất gửi tiền tiết kiệm cao, có nên gửi không? Tôi trả lời anh chị em nên gửi, lãi lớn đấy.

Có anh chị em gửi chỉ hơn một năm đã lãi 2, 3 lần. Vì vàng bán lúc đó rất đắt, lấy tiền mặt gửi ngân hàng, khi rút ra mua vàng giá rẻ. Ngay đồng chí Quản Đức Khiêm, thư kí của tôi ở Hải Phòng, gửi tiết kiệm hơn một năm, khi rút ra cũng lãi gần 3 lần, được 10 lạng vàng.

Tôi làm Bộ trưởng Kinh tế công việc đang suôn sẻ, đưa doanh số xuất khẩu từ 600 triệu Rúp và đô la/năm, nay lên hơn 2 tỉ đô la và Rúp. Kinh tế đất nước đang đi vào thế ổn định, thì lại có kế hoạch sáp nhập các bộ, Bộ kinh tế đối ngoại sáp nhập với Bộ Nội thương và Bộ Vật tư thành Bộ Thương mại. Việc này đúng như tôi dự đoán, có sáp nhập mới có lí do để loại tôi ra khỏi thành viên Chính phủ.

Trong khi đang chuẩn bị, anh Hoàng Minh Thắng sang bàn với tôi, đề nghị tôi nhường cho anh làm Bộ trưởng Bộ Thương mại. Anh Thắng nói: “Anh làm việc gì cũng được, nhường tôi làm Bộ trưởng Bộ Thương mại. Tôi chỉ thích làm Bộ trưởng Bộ Thương mại...”. Tôi với anh Thắng là bạn với nhau, khi tôi làm Bí thư Hải Phòng, anh Thắng làm Bí thư Quảng Nam -Đà Nẵng, có quan hệ hợp tác với nhau rất chặt chẽ. Nhất là trong kháng chiến chống Mỹ, Hải Phòng kết nghĩa với Đà Nẵng quan hệ chúng tôi càng khăng khít hơn. Anh Thắng khi làm Bộ trưởng Bộ nội thương, tôi làm Phó chủ tịch phụ trách khối Lưu thông phân phối, Tài chính, Ngân hàng. Nay anh Thắng đã đề nghị, tôi đồng ý ngay. Vì anh đã là cấp dưới của tôi, nay có việc này tại sao tôi lại không nhường anh? Anh Thắng rất phấn khởi.

Nhưng công việc không phải bình thường như thế. Hôm họp Hội nghị Ban chấp hành Trung ương ở nhà “Con rùa” bên bờ Hồ Tây, anh Đỗ Mười gặp tôi trao đổi việc nhân sự. Qua trao đổi, anh Mười bảo tôi về chuẩn bị tổ chức, để tiếp tục làm Bộ trưởng Bộ Thương mại. Tôi rất phân vân, nhưng điều trước hết là tôi phải thông tin cho anh Hoàng Minh Thắng biết. Tôi gặp anh Thắng báo chuyện anh Đỗ Mười bảo tôi tiếp tục làm Bộ trưởng.

-Anh liệu mà chạy, kẻo lại thất vọng, rồi lại bảo tôi tranh nhau với anh cái chức Bộ trưởng Bộ Thương mại.

Chúng tôi vẫn nhắc lại chuyện này với nhau một cách đùa vui. Nhưng việc anh Mười bảo tôi làm tiếp Bộ trưởng Bộ Thương mại cũng chỉ là câu chuyện “làm quà” cho vui vẻ thôi. Vì trước và sau khi quyết định anh Thắng làm Bộ trưởng Bộ Thương mại, anh Mười không hề nói lại với tôi một lời. Đó cũng là điều dễ hiểu.

Trong 3 năm 8 tháng làm Bộ trưởng Bộ Ngoại thương rồi làm Bộ trưởng Bộ kinh tế đối ngoại, biết bao công việc phải làm.

Trước hết là ổn định tổ chức, xây dựng cơ sở vật chất của Bộ Ngoại thương quá cũ, xây dựng Nghị định 164 của Chính phủ về xuất nhập khẩu -đầu tư. Tôi đã cùng các đồng chí lãnh đạo Bộ lo toan công việc, rồi lo từ bữa ăn sáng, ăn trưa cho cán bộ công nhân, viên chức thuộc Văn phòng

Khi còn ở Hải Phòng, tôi nghĩ lên Bộ Ngoại thương chắc chắn sẽ có tiện nghi tốt hơn. Không ngờ lên đến Bộ cái gì cũng thiếu, tôi không thể tưởng tượng được. Ở Hải Phòng phòng làm việc của Bí thư, Chủ tịch Thành phố... đều có điều hoà. Lên Bộ chỉ mỗi phòng khách ngoại trên lầu 2 nhà 31 Tràng Tiền là có điều hoà nhiệt độ do Liên Xô sản xuất. Các phòng làm việc thì che chắn. Riêng phòng tròn ở nhà chính của Bộ, ngăn làm 2, một phòng dành cho Vụ xuất nhập khẩu, còn một nửa để nguyên liệu xây dựng xi măng, sắt thép...

Lối lên phòng khách ngoại trên lầu 2 có hai lối. Lối cho khách đi lên bằng cầu thang chính, vì là nhà “băng” cũ nên tầng rất cao. Có lần ông Thứ trưởng Bộ Ngoại thương Phi-líp-pin đến gặp tôi, khi đến phòng khách ông thở rất to và nói: “Tôi không cảm động đâu, nhưng cầu thang cao quá, tôi mệt”.

Còn một lối riêng cho Bộ trưởng đi lên tiếp khách, với một cầu thang phụ chật hẹp, phải đi qua cửa “hố xí” quá hẹp, phải đi nghiêng để quần áo chỉnh tề tiếp khách, không bị nhàu. Hôm anh Lê Khắc dẫn tôi đi xem lần đầu để bàn giao, tôi bật cười nghĩ lại chuyện bàn giao với đồng chí Nguyễn Quốc Hiếu, Giám đốc Sở Thương nghiệp Hải Phòng, cơ quan cũng phải có lối phụ lên phòng Giám đốc. Lần này có khác là lối phụ để lên tiếp khách nước ngoài...

Trong 44 tháng công tác tại Bộ, tôi đã vạch kế hoạch cho từng năm và ba năm làm những việc gì cho Bộ, cho đất nước.

Việc giải quyết bữa ăn trưa cho cán bộ công nhân, viên chức, là vấn đề bức xúc vì lúc đó đã bắt đầu làm thông giờ. Sáng nào anh chị em đến làm việc đều mang cạp lồng đựng bữa cơm trưa. Tất cả đều đi xe đạp, duy có một đồng chí đi cái xe máy “Babetta”, đó là đồng chí mạnh bạo nhất. Một số anh chị em đi nước ngoài cũng mua được xe máy Nhật, nhưng không dám đi, sợ cho là giàu có, cứ phải cho xe đắp chiếu để trong buồng. Có đồng chí mua được 2, 3 xe máy phải tháo rời ra để ở gầm giường, tôi đến chơi, thấy lủng củng đồ đạc dưới gầm giường, hoặc cất giấu vào góc nhà, lỉnh cà lỉnh kỉnh. Tôi bảo các đồng chí đem ra mà đi, hoặc bán đi gởi vào tiết kiệm, việc gì phải giấu như “thuốc phiện lậu” vậy. Tôi nói mãi, dần dần các đồng chí thấy quen, đem hết xe ra đi. Năm 1988 hầu hết không còn ai đi xe đạp đến Bộ làm việc, quần áo ăn mặc chỉnh tề hơn. Đồng chí Phối, Vụ trưởng Vụ II, đã làm Tham tán Thương mại ở Nhật Bản 2 khoá, một cán bộ gương mẫu giữ gìn, nhưng tiền lương tiết kiệm mua được xe máy cũ của Nhật rất rẻ cũng không dám mang ra đi công tác, quần áo chỉ có một bộ com-lê để ở trong tủ làm việc, khi tiếp khách mới mặc, còn đi làm chỉ mặc bộ quần áo “đại cán” sĩ quan ka ki, mùa hè mặc sơ-mi xanh, hoặc trắng, với quần ka-ki Trung Quốc. Các đồng chí khác cũng vậy. Tôi bảo anh Phối cứ mặc quần áo đàng hoàng, thắt “cravate” cẩn thận. Mình là cơ quan đối ngoại, việc gì phải kiêng kị? Sau đó ít lâu mới hình thành phong trào ăn mặc chỉnh tề hơn.

Còn ăn trưa, tôi bàn với xí nghiệp làm kinh tế, cải thiện đời sống của Công đoàn. Tôi bảo đồng chí Dương, giám đốc thôi nghề ép than và cán mì đi, tổ chức sản xuất thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Xí nghiệp khá lên, cung cấp bữa ăn trưa cho anh chị em 50đ/người, bỏ được cảnh mang theo cạp lồng cơm, đến trưa đem ra hâm nóng ăn trong phòng, vừa nhếch nhác vừa mất vệ sinh. Số tiền trên ra hiệu ăn bữa trưa còn dư, đem về bổ sung cho bữa ăn sáng và tối.

Còn trụ sở Bộ, tôi cho đập 3 nhà rất cổ, xây lâu năm, có nhà tường đã nứt, chỉ đợi chấn động nhẹ thì trần và nhà sụp đổ. Tôi quyết định cho xây nhà 3 tầng làm việc hiện nay, cải tạo nhà chính, nhà phụ làm việc, phá hầm phòng không, xây một tầng làm Hội trường hiện nay, có thể họp được 350 người. Nay các đồng chí trong Bộ ngăn làm nhiều phòng làm việc, bắc quạt và điều hoà cho các phòng, cải tạo phòng tròn làm nơi hội thảo ít người, xây thêm phòng khách ngoại ở tầng dưới, lấy hai ngà voi dài nhất nước từ Công ti Thủ công mỹ nghệ Sài Gòn về trưng bày ở phòng nhà tròn... tạo cảnh quan và bộ mặt, thật đàng hoàng đối với khách trong nước và nước ngoài. Trước khi đập 3 nhà cũ, tôi phải cho quay phim chụp ảnh. Kể cả khi nhờ xe xích của Bộ Nội vụ đến kéo đổ 3 nhà cũng quay phim hiện trạng, kẻo nếu có người không đồng tình với mình, khiếu nại, sẽ có bằng chứng giải trình. Trước khi xe xích kéo sụp 3 nhà, tôi cũng đứng xem. Xe mới hơi chuyển bánh, nhà đã đổ sụp, gạch vữa lả tả, nhiều thanh sắt làm cốt đã mục nát, trông rất sợ. Vì tôi làm cẩn thận nên sau xây dựng không có đơn kiện cáo về việc này.

Để giảm đầu mối và bớt độc quyền về ngoại thương, tôi bàn giao những Tổng công ti xuất nhập khẩu chuyên ngành cho các Bộ chuyên ngành, chỉ giữ lại những Tổng Ti tổng hợp xuất nhập khẩu, những công ti mà không có Bộ chuyên ngành nhận. Sau khi củng cố lại các công ti và thành lập những công ti cần thiết, như công ti Tổng hợp II miền Trung (Centrimex), tôi bàn với Bộ Ngoại giao nâng cấp các tùy viên Thương mại là cán bộ của Bộ Ngoại thương, sau này là Bộ kinh tế đối ngoại cử, lên chức Tham tán. Được anh Nguyễn Cơ Thạch cử anh Nguyễn Di Niên Thứ trưởng phụ trách tổ chức sang làm việc, đi tới thống nhất đề cử các đồng chí Tùy viên Thương mại làm Tham tán Thương mại. (Trước đó Bộ Ngoại thương chỉ có đồng chí Đinh Xuân Trâm Thứ trưởng làm Tham tán Thương mại tại Liên Xô). Thế là tôi giải quyết xong việc phân biệt đối xử giữa cán bộ ngoại giao và cán bộ ngoại thương trong nhiều năm.

Về tổ chức cán bộ, Bộ Ngoại thương đề bạt thêm 2 thứ trưởng là các đồng chí Đinh Phú Định và Lê Kim Lăng, đề bạt 113 cán bộ từ Trưởng phòng đến Vụ trưởng, Vụ phó, Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc các Tổng công ti và công ti, hầu hết là cán bộ trẻ có học vấn... Tiếp đó tôi xây dựng khu nhà cho cán bộ công nhân, viên chức ở Láng Hạ với phương thức Bộ xin đất, bỏ tiền một nửa ra xây dựng, cán bộ bỏ một nửa tiền đóng góp với Bộ. Chủ trương này cũng có người không tán thành và còn thách đố “ông Thành làm sao được...”. Nhưng khi có kết quả, thì những ý phản đối thành ý kiến ủng hộ. Hai khu nhà chung cư của Bộ kinh tế đối ngoại cũ hiện nay, trông vẫn khang trang (sau nhà Seaprodex Hà Nội).

Rồi khu nhà tập thể của Bộ ở Văn Chương cũng được nhanh chóng hoàn thiện đưa vào sử dụng. Riêng trụ sở của Bộ được thiết kế xây dựng 11 tầng, đã được Chính phủ duyệt, trích số tiền cấp phép cho nước ngoài lập cơ quan đại diện tại Việt Nam (mỗi giấy phép phải nộp 5.000 USD) do tôi đề xuất với Chính phủ và Bộ Tài chính. Số tiền này nộp ngân sách 20%. Còn lại dành cho Bộ xây dựng trụ sở, được khoảng 8 triệu USS.

Thiết kế đã được duyệt, khoan đất khảo sát để xây dựng đã làm. Đến khi chuẩn bị khởi công, tôi thôi làm Bộ trưởng, và đến nay đã 15 năm, trụ sở mới vẫn chưa được xây dựng!

Gần đây, nhiều báo chí nhắc đến chuyện nhập 160 tấn vàng. Có đồng chí phóng viên hỏi tôi: “Nhiều công ti nhập vàng lãi nhiều, có công ti nào biếu “quà” bác không?”. Tôi kể lại cho các đồng chí phóng viên nghe rằng lúc đó chỉ có công ti nhà nước được nhập vàng, lãi nộp ngân sách Trung ương hoặc địa phương, cuối năm trích phần thưởng theo chế độ. Nếu công ti nào có tấm lòng “phong bì” cho Bộ trưởng, tôi cũng không nhận. Ngay quota thời đó người ta cũng tung tin Bộ Ngoại thương nhận tiền cho xuất sắt thép phế phẩm, một vạn $US/một quota/một vạn tấn v.v... Tôi đề nghị Quốc hội cho kiểm tra.

Còn tôi và thứ trưởng của tôi không bao giờ làm như vậy. Nếu có đồng chí nào nhận tiền cấp quota, tôi là Bộ trưởng, tôi chịu trách nhiệm. Tôi đề nghị các vị không nên tự “tầm thường” mình rồi “tầm thường” luôn cả chúng tôi. Quốc hội lúc đó đã phân công đồng chí Trần Quyết, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, lập đoàn đi kiểm tra. Đoàn dự kiến kiểm tra 10 tỉnh, thành phố trọng điểm, sau kiểm tra toàn bộ 40 tỉnh, thành phố trong cả nước và đã có báo cáo trước Quốc hội về vấn đề này. Không tìm ra hiện tượng tiêu cực trong việc cấp quota xuất sắt thép phế phẩm, cũng như mặt hàng khác...

Đầu năm 1990 trong chuyến vào công tác ở các tỉnh phía Nam (lúc này tôi cũng sắp thôi làm Bộ trưởng), đồng chí Lạc, Tổng giám đốc CTI Pétechim đến thăm tôi ở nhà khách, khi về đồng chí có đưa cho tôi một phong bì, ngoài đề kính gửi Bộ trưởng Đoàn Duy Thành. Tôi nghĩ chắc là thư, vì từ khi về làm Bộ trưởng đến hôm đó, không có công ti nào biếu tôi tiền cả. Đến khi đồng chí Lạc về, tôi bóc thư ra xem trong thư có 300.000 đồng, và lá thư nhỏ: “Kính biếu đồng chí để mua quà cho các cháu”. Tôi nghĩ Cti Petechim là công ti kinh doanh khá, lại được giao nhập vàng sớm với khối lượng lớn, lãi cho ngân sách nhà nước nhiều, chắc đồng chí Lạc nghĩ Bộ trưởng sắp nghỉ, gửi quà cho Bộ trưởng. Tôi viết thư cảm ơn và trả lại số tiền trên cho đồng chí Lạc. Ngay lúc đó, có một đứa cháu gọi nhà tôi bằng bà cô ruột đến chơi, xin tôi một trăm nghìn để mua xe đạp, cháu chỉ thiếu có một trăm nghìn thôi. Nhân có tiền của đồng chí Lạc cho, tôi rút ra một trăm nghìn cho cháu. Còn hai trăm nghìn đồng, tôi bỏ vào phong bì dán kín cùng lá thư, nói rõ tôi lấy 100.000 đồng cho cháu mua xe đạp. “Tôi gửi lại đồng chí 200.000 đồng. Tôi đã có tiền mang theo để mua quà cho cháu khi về Hà Nội, xin cảm ơn đồng chí”. Đồng chí Lạc hiện nay mới về hưu và sinh sống ở Thành phố Hồ Chí Minh.

Để thúc đẩy sản xuất phái triển, mở rộng cho các doanh nghiệp tư nhân và hợp tác xã được trực tiếp xuất khẩu, xoá bỏ dần dần độc quyền ngoại thương, tôi đã kí thí điểm cho hợp tác xã sản xuất giày Bình Tiên (Biti's) xuất giày sang Liên Xô (cũ) và một số hợp tác xã, doanh nghiệp khác xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài, trước hết là xuất sang Liên Xô và các nước Đông Âu. Việc đó giúp cho các cơ sở sản xuất phát triển nhanh hơn. Đến nay, mọi tổ chức, thành phần cứ hội tụ đủ điều kiện qui định, đều được xuất nhập khẩu.

Đến 30-4-1990 tôi thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ kinh tế đối ngoại. Tôi xin nghỉ, nhưng anh Nguyễn Văn Linh, anh Nguyễn Thanh Bình, Thường trực Ban Bí thư, anh Nguyễn Đức Tâm, Trưởng ban Tổ chức Trung ương bảo tôi ở lại làm việc. Anh Đỗ Mười bảo tôi lại nhà chơi, anh bảo tôi làm một số việc nào là làm Bộ trưởng Bộ Tài chính thay anh Hoàng Quy, làm bí thư Thành uỷ Hà Nội... Tôi báo cáo anh Mười: “Chả lẽ tôi lại tranh việc của anh Hoàng Quy hay sao?”. Còn Bí thư Thành uỷ, tôi nghĩ lúc này anh Mười cũng nói cho vui thôi, không có tính khả thi, nên tôi xin phép anh Mười ra về. Anh Mười giữ ở lại bàn thêm, nhưng tôi cho là anh Mười chỉ động viên tôi thôi. Nếu anh có thiện chí thì tôi chẳng phải xin từ chức và “thất cơ lỡ vận” như hiện nay. Bởi vậy tôi đứng dậy ra về. Khi anh Qui chất chất anh Mười tại sao không xếp việc cho tôi, anh Mười bảo: “Mình giữ cậu ấy ở lại bàn nhưng cậu ấy giật tay mình bỏ về”.

Còn tôi đối với anh em trong khối lúc nào cũng có quan hệ tốt, cùng làm cùng chịu trách nhiệm, không ai đổ trách nhiệm cho ai. Có một lần họp Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng, đồng chí Hoàng Quy, Bộ trưởng, trình ra Thường vụ một việc bị đồng chí Chủ tịch Phạm Hùng phê phán gay gắt. Đồng chí Phạm Hùng quay sang hỏi tôi: “Bộ Tài chính đã xin ý kiến anh Thành chưa?”. Thực ra Bộ chưa hỏi ý kiến tôi, nhưng tôi đứng ngay dậy: “Báo cáo anh Phạm Hùng, Bộ Tài chính đã xin ý kiến tôi rồi, và hôm nay xin ý kiến Thường vụ. Chúng tôi sẽ viết lại theo ý kiến Chủ tịch kết luận”. Anh Phạm Hùng vui vẻ ngay, bảo về làm lại trình Thường vụ và Hội đồng Bộ trưởng vào thảo luận sau... Câu chuyện này anh em Bộ Tài chính và đồng chí Ngô Hải khi gặp tôi thường hay nhắc lại câu chuyện “đỡ đòn” hôm ấy.

Tôi thường nghĩ, mình là cấp trên thì không bao giờ tranh công cấp dưới. Phải thương anh em và che chắn cho anh em. Nếu anh em sai, có khi còn phải nhận khuyết điểm về mình, vì anh em “thấp cổ bé họng” hơn mình, dễ bị thiệt thòi. Làm điều này tất nhiên phải nhận phần thiệt về mình, có khi còn mang tiếng “anh hùng rơm”, có khi mang vạ vào thân.

Từ tháng 5-1990 tôi xin nghỉ, các đồng chí không giải quyết, nhưng xếp việc rõ rệt cũng không, chỉ giao những việc vặt, kiểm tra nơi này nơi khác về báo cáo. Tôi chắc các đồng chí khó xếp việc cho tôi, tôi bèn đến chào tạm biệt đồng chí Nguyễn Văn Linh ở nhà khách Hồ Tây. Đồng chí Nguyễn Văn Linh ôm tôi khóc, và nói: “Tôi không bảo vệ được anh...”. Tôi cảm ơn anh, đề nghị anh ủng hộ tôi về nghỉ. Tôi có làm gì sai đâu mà anh phải bảo vệ? Anh lại khóc thực sự. Tôi vừa buồn, vừa thương anh và tự hỏi: “Sao thế này nhỉ? Làm cách mạng là sự tự nguyện, nay cách mạng thành công rồi thì phân công nhau mà làm. Nay hết công việc nguy hiểm rồi, hoà bình rồi, ai làm cũng được...”.

Tôi nhớ lại khi tôi làm Bộ trưởng Kinh tế đối ngoại, luật đầu tư nước ngoài đã được thông qua Quốc hội cuối năm 1987. Chẳng ai triển khai. Đến khi thành lập Bộ kinh tế đối ngoại, lại giao tôi phụ trách. Khi có luật đầu tư nước ngoài, các nhà doanh nghiệp nước ngoài nộp hồ sơ hàng đống chờ đợi, chẳng ai giải quyết, đùn đẩy nhau. Tôi phải đứng ra làm. Tập hợp một số cán bộ, trời nóng bức, không có điều hoà, cởi trần ra làm hơn 2 tháng trời mới chọn được 25 doanh nghiệp. Tôi kí giấy phép cho 25 doanh nghiệp đầu tiên vào đầu tư ở Việt Nam. Giấy phép số 1 là Công ti Wicarent Hồng kông đầu tư ở Vũng Tàu... Khi đã đi vào nề nếp, Vụ Đầu tư của Bộ kinh tế đối ngoại lo công việc này rất chu đáo. Nhưng chưa được bao lâu thì có quyết định lập Bộ Đầu tư đối ngoại tách ra khỏi Bộ kinh tế đối ngoại (nhập vào Bộ kinh tế đối ngoại chưa đầy một năm lại tách ra?). Tôi nghĩ đây là một ý định không tốt đẹp gì với tôi. Nhưng không sao cả, mình không vụ lợi, vì đất nước, vì nhân dân mà làm chả việc gì phải bực. Nhưng ngầm nghĩ cũng thấy người đời lắm “mưu mẹo” mà quá đơn giản, không có chiều sâu. Đến cán bộ bình thường ở Bộ tôi lúc đó cũng nhìn thấy bước đi của các đồng chí cấp trên muốn gì ở Bộ trưởng của mình. Các đồng chí hỏi tôi, tôi bảo: “Các đồng chí nhìn thấy vấn đề rồi còn hỏi tôi làm gì nữa...”.

Đến tháng 9-1990, đồng chí Nguyễn Đức Tâm gặp tôi, bảo tôi về làm Viện trưởng Nghiên cứu Kinh tế Trung ương thay anh Nguyễn Văn Trân về hưu. Tôi bảo để tôi suy nghĩ đã, anh cứ đi tìm đồng chí khác, tôi còn xem anh em ở Viện có muốn tôi về hay không? Nếu cất nhắc anh em tại chỗ lên được thì tốt. Anh Tâm bảo tôi: “Đã tìm tại chỗ và nơi khác không có. Anh suy nghĩ kĩ và phản ứng tích cực nhé!”. Sau khi đi chuyến tàu hoả vào miền Nam họp, tôi lại gặp anh Nguyễn Đức Tâm. Anh Tâm gặp tôi lần trước đã hơn 2 tháng rồi. Anh lại hỏi: “Anh đồng ý về Viện cho nhé”. Tôi bảo: “Nếu tổ chức không tìm được ai và anh em ở Viện đồng ý tôi về, tôi sẽ nhận”. Sau một tuần, tôi nhận được quyết định của Thủ tướng Đỗ Mười kí cử tôi về làm Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lí Trung ương.

Tôi đến họp Hội đồng bộ trưởng trở lại. Anh Mười tuyên bố: “Anh Thành sẽ làm Bộ trưởng - Viện trưởng để làm việc trong Hội đồng Bộ trưởng cho thuận lợi”. Rồi Văn phòng chuẩn bị đề nghị với Hội đồng Nhà nước bổ nhiệm tôi làm Bộ trưởng - Viện trưởng. Khi đưa ra Hội đồng Nhà nước phê chuẩn, có ý kiến của đồng chí Nguyễn Việt Dũng đưa vấn đề đồng chí Tô Duy ra yêu cầu cần phải xác minh, nên Hội đồng Nhà nước do dự, đề nghị làm rõ. Anh Mười về phổ biến lại với tôi và nói: “Chính phủ đã đề nghị nhưng Hội đồng Nhà nước không duyệt...” Tôi đứng dậy nói với anh Mười một câu: “Là âm mưu của chúng nó cả”, rồi tôi đi chỗ khác (chuyện này xảy ra trong giờ giải lao của cuộc họp Hội đồng Bộ trưởng).

Đi sứ Trung Quốc

Tháng 1-1991 tôi và anh Vũ Oanh được cử sang Trung Quốc nghiên cứu tình hình kinh tế Trung quốc do Trung ương Đảng và Chính phủ Trung Quốc mời. Đồng chí Vũ Oanh làm trưởng đoàn, tôi làm phó đoàn. Đoàn còn có đồng chí Vũ Quang, đồng chí Lê Quý An và một phiên dịch cấp vụ trưởng của Ban Đối ngoại trung ương Đảng.

Đoàn chúng tôi sang Trung Quốc trong tình hình hai nước chưa bình thường quan hệ ngoại giao, mới có cuộc gặp gỡ Trùng Khánh giữa các đồng chí Nguyễn Văn Linh, cố vấn Phạm Văn Đồng, Thủ tướng Đỗ Mười với các đồng chí Giang Trạch Dân, Lí Bằng của Trung Quốc. Trong chuyến đi này còn có đồng chí Đinh Nho Liêm, Thứ trưởng bộ Ngoại giao cùng đi. Khi về, đồng chí Đinh Nho Liêm có chép lại 2 câu thơ trong bữa tiệc tiếp Đoàn Việt Nam, do đồng chí Giang Trạch Dân đọc, đó là:
Độ tận khiếp ba huynh đệ tại,
Tương phùng nhất tiểu dẫn ân cừu
Nghĩa là: Đò qua hết sóng dữ anh em vẫn là anh em. Gặp nhau cười một tiếng là trôi hết hận.

Tôi nghĩ hai câu thơ đó hay. Nếu đồng chí Tổng bí thư Giang Trạch Dân, trong bữa tiệc thân tình đã ứng tác làm 2 câu thơ đó thì thật là tuyệt. Nhưng tôi tra cứu thì 2 câu thơ đó của một nhà thơ đời Thanh, không rõ tên. (Thanh mạt thi nhân, khuyết danh) gồm 4 câu:
Nhân tình vong liệm vô kiêm ái,
Thế đạo không hoài mạc cộng ưu
Độ tận khiếp ba huynh đệ tại
Tương phùng nhất tiễu dẫn ân cừu.
Đồng chí Giang Trạch Dân đem thơ của cổ nhân đọc để nói hộ tấm lòng mình đối với các đồng chí Việt Nam, thể hiện tình cảm thân thiết nghĩa tình, vừa là đồng chí, vừa là anh em.

Nhưng hãy kể đường đi sang Trung Quốc trước đã. Chúng tôi đi ô tô đến Hữu nghị quan, các đồng chí Trung Quốc phải rỡ rào dây thép gai, cho xe đón chúng tôi về Nam Ninh, thủ phủ Quảng Tây. Từ đây chúng tôi đi máy bay đến Bắc Kinh.

Đoàn chúng tôi được đón tiếp thân tình, trọng thị, ở tại nhà khách Điếu ngư đài một tuần, nghiên cứu và nghe các chuyên gia đầu ngành và cán bộ cao cấp giới thiệu kinh nghiệm cải cách, mở cửa của Trung Quốc. Đồng chí Trần Cẩm Hoa, nguyên Chủ tịch thành phố Thượng Hải, làm Chủ nhiệm Uỷ ban cải cách toàn Trung Quốc, đón tiếp và trao đổi với chúng tôi rất tận tình. Chúng tôi đi thăm và làm việc với một số ngành như ngân hàng, Uỷ ban Kế hoạch, Bộ Ngoại giao. v.v. Chúng tôi đi thăm Vạn Lí trường thành, Cố cung và một số nơi danh lam thắng cảnh ở Bắc Kinh.

Có một câu chuyện đáng nhớ, lúc chúng tôi đến thăm Cố cung (Thiên An Môn), khi đến cung Tiền, nơi vua chuẩn bị ra ngự triều, các Hoàng hậu, Hoàng phi, con cháu ra chúc tụng vua buổi sáng, chúng tôi thấy sau ghế vua ngồi, có một đại tự viết hai chữ “Vô vi” nghĩa là “không làm gì”. Cùng đi có Đại sứ Đặng Nghiêm Hoành và một số cán bộ đại sứ quán. Phía Trung Quốc lúc đó có các đồng chí Lí Gia Trung, Tề Kiến Quốc (sau này đều là Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam) và một số đồng chí Trung Quốc khác.

Vì biết tôi có học chữ “hán”, một số đồng chí hỏi tại sao sau ghế vua ngồi lại viết chữ “Vô vi”. Tôi bảo các đồng chí Việt Nam hỏi các đồng chí Trung Quốc. Hai đồng chí Lí và Tề bảo hỏi đồng chí Thành. Tôi nói các đồng chí cứ thử đoán xem các vua Trung Quốc tại sao lại viết chữ “Vô vi”. Các đồng chí Việt Nam nhanh nhảu nói: “Vô vi” chắc là của Lão Tử. Rồi các đồng chí bảo tôi “giảng” cho nghe. Tôi bảo các đồng chí cứ suy nghĩ kĩ đi, ta đi thăm xong Cố cung khi quay lại “Cung tiến”, tôi sẽ nói cho các đồng chí nghe.

Tôi cũng định lờ đi, không giải thích, nhưng khi quay lại “Cung tiền” các đồng chí Việt Nam cũng như Trung Quốc vẫn nhắc tôi giải thích cho nghe hai chữ “Vô vi”. Tôi mới nói chữ “Vô vi” là của Khổng Tử, ca ngợi đạo đức của vua Nghiêu, vua Thuấn đời nhà Hạ, thường gọi là Đế Nghiêu, Đế Thuấn. Điểm nổi bật là hai ông đã dùng nhân nghĩa quản lí đất nước, được nhân dân Trung Quốc thời đó ca ngợi là bậc “Thánh quân”. Các ông chọn người “hiền tài” trong thiên hạ để kế nghiệp, không truyền ngôi cho con... Cho nên Khổng Tử đã dùng một câu nói để khen cả Vua Nghiêu và vua Thuấn, câu đó trong sách Luận ngữ: “Vô vi nhi trị giả kì Thuấn giả dư!” nghĩa là: “Không làm việc gì lớn trong thiên hạ mà trị vì được thiên hạ, chỉ có vua Thuấn mà thôi”. Khi vua Nghiêu chọn vua Thuấn thay mình, vua Thuấn chỉ là người quản lí một trang trại, có cha là Cổ Tẩu mắc tội giết người, có em là Tượng, một tên lưu manh. Thế mà vua Nghiêu thấy được tài đức của vua Thuấn; gả hai con gái cho rồi truyền ngôi cho làm Hoàng đế. Vua Thuấn đã cai trị đất nước rất giỏi, nổi tiếng Trung Quốc. Mãi mãi sau này nhân dân Trung Quốc ca ngợi công đức của hai vua. Cho nên Khổng Tử chỉ nói vua Thuấn, nhưng hàm ý vua Nghiêu có tài mới chọn được vua Thuấn, con nhà thường dân, và mặc dù Cổ Tẩu bố vua Thuấn: “Phụ tiện nhi hành ác” nghĩa là loại ti tiện và làm điều ác.

Còn nói “Vô vi” là của đạo Lão, sẽ không phù hợp với thực tế Trung Quốc. Xây dựng cố cung từ thời nhà Tống, nhà Minh tiếp tục hoàn thiện. Nhà Tống và nhà Minh lấy đạo Khổng làm quốc đạo, coi Lão Tử là kẻ chống lại đạo Khổng. Do đó không thể có việc vua các nhà Tống - Minh rồi đến nhà Thanh lại viết “vô vi” của đạo Lão để trên đầu mình. Các đồng chí Trung Quốc và Việt Nam đều đồng ý.

Người ta hay nói “thâm nho” chẳng qua học chữ Nho (hoặc có người gọi là học chữ Hán), khi học một câu nói của Khổng Tử, Mạnh Tử, Tăng Tử, Tử Tư.v.v... dưới câu nói đó có lời bàn của các triết gia, các nhà lí luận đời sau giải thích ý nghĩa, để cho người học hiểu được câu nói ngắn gọn của “Thánh hiền”. Nghĩa là muốn hiểu được các câu nói của Thánh hiền, người ta phải học kĩ các bài bàn, mới hiểu được toàn diện và sâu sắc. Nói: “Thâm nho” khi có ý chê ghét. nên người ta phải dùng chữ “uyên thâm túc Nho” nghiêm túc hơn.

Trong dịp đi thăm này, đồng chí Lí Bằng, Thủ tướng Chính phủ Trung Quốc có buổi tiếp và làm việc với đồng chí Vũ Oanh, Uỷ viên Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong câu chuyện rất thân tình giữa hai đồng chí, đồng chí Vũ Oanh trình bày rất nhiều vấn đề, nhất là vấn đề bình thường quan hệ mọi mặt giữa hai nước cần làm sớm, để nhân dân hai nước có điều kiện làm ăn buôn bán thông thương. Đồng chí Vũ Oanh kể lại những câu chuyện rất buồn ở biên giới giữa hai nước. Nhân dân đi buôn bán, phải gánh gồng, đội vác qua núi non hiểm trở, đã có người ngã lăn xuống suối chết. Đồng chí Lí Bằng rất cảm động nhưng nói:

- Bây giờ hết giờ, mai sẽ làm tiếp... Đồng chí Thư kí của đồng chí Lí Bằng bảo:

- Mai Thủ tướng đã có lịch làm việc rồi. Đồng chí Lí Bằng suy nghĩ một lát và nói:

- Việc bình thường hoá quan hệ mọi mặt giữa hai nước cần có một thời gian chuẩn bị. Trong thời gian chuẩn bị làm việc lớn, chúng ta hãy làm những việc nhỏ. Việc buôn bán làm ăn ở biên giới, mai tôi sẽ cử đồng chí Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao đến làm việc với đồng chí ở Điếu Ngư Đài.

Tôi liền nảy ra ý nghĩ làm bài thơ tứ tuyệt tặng hai đồng chí, Lí Bằng và Vũ Oanh và để hưởng ứng bài thơ của đồng chí Giang Trạch Dân đọc hồi tháng 9-1990 ở Trùng Khánh mừng Đoàn cấp cao của ta sang Trung Quốc. Nội dung bài thơ của tôi:

Song điểu Tề phi

Hoàng Oanh phi đáo Bắc Kinh đô,
Hội ngộ kim Bằng diệc lạc hồ!
Đại sự vị thành hành tiểu sự,
Song điểu tề phi chí thiện đỗ.
Tạm dịch:
Hai con chim cùng bay

Hoàng Oanth bay đến Bắc kinh đô,
Gặp gỡ chim Bằng thoả ước tình,
Việc lớn chưa thành, làm việc nhỏ
Vỗ cánh cùng bay đến điểm lành.
Hai đồng chí đều có tên theo âm Hán là 2 loài chim đẹp, nên tôi dùng đầu đề bài thơ là: “Song điểu Tề phi”4.

Sau khi rời Bắc Kinh, các đồng chí đưa đoàn chúng tôi thăm Thẩm Quyến, Khu kinh tế tự do thuộc tỉnh Quảng Đông, đối diện với Hồng Kông. Chúng tôi ở đây nghiên cứu 3 ngày rồi đi ô tô về thăm Quảng Châu, thăm khu công nghệ mới và nhiều nhà máy lớn ở Quảng Châu cũng như Khu kinh tế Chu Hải... Sau đó chúng tôi đi ô tô về Nam Ninh, thăm Nam Ninh một ngày, rồi đi xe trở về Lạng Sơn, Hữu Nghị Quan. Các đồng chí Trung Quốc đưa tiễn chúng tôi về đến tận địa phận Việt Nam. Các đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ Lạng Sơn cùng các đồng chí lãnh đạo khác của tỉnh, các phóng viên đến đón chúng tôi tại cửa khẩu. Thế là chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ chuyến đi “sứ” nghiên cứu kinh tế một nước XHCN, qua một thời gian gián đoạn quan hệ, nay bắt đầu khôi phục.

Trong những ngày “trăng mật” chúng tôi được đón tiếp chân tình, trọng thị, nước bạn tạo mọi điều kiện cho chúng tôi làm việc có kết quả. Về đến nhà đã là 27 tết âm lịch. Anh Vũ Oanh bảo tôi viết nhanh báo cáo để vào thành phố Hồ Chí Minh báo cáo với anh Linh, Tổng Bí thư. Anh Vũ Oanh bảo tôi cùng đi. Tôi xin ở lại. Ngày 29 tết anh Oanh vào báo cáo với anh Linh và ngày 30 Tết về Hà Nội. Một cuộc đi vất vả nhưng có nhiều kết quả, nhiều suy nghĩ.

Mồng hai tết anh Oanh đến chúc tết tôi, phàn nàn rằng: “Hôm tôi đến báo cáo anh Đỗ Mười, trước khi vào báo cáo anh Linh, anh Mười tỏ ý không vui và bảo tôi vào báo cáo anh Linh, nói anh ấy ở lại làm khoá nữa. Tôi suy nghĩ tại sao anh Mười lại có thái độ như vậy? Khi đến gặp anh Linh mới biết các ông ở nhà đã bàn, anh Linh nghỉ, anh Mười thay làm Tổng bí thư. Tôi nghĩ anh Mười sợ tôi vào khuyên anh Linh ở lại làm khoá nữa, có nghĩa anh Mười sợ mất chân Tổng bí thư. Thế đấy anh Thành ạ!”. Tôi chỉ cười không bình luận gì.

Tôi về làm việc ở Viện Quản lí Trung ương được 19 tháng 20 ngày. Tôi cố gắng thu xếp cách nghiên cứu và lề lối làm việc. Trong điều kiện Viện có 115 cán bộ công nhân viên, hầu hết là đại học, phó tiến sĩ và tiến sĩ nhưng đời sống rất khó khăn, lương bình quân có 42.000 đ/tháng. Viện có một công ti xuất nhập khẩu, hàng năm chỉ kiếm thêm được triệu đồng để cải thiện cho anh em, bằng cách xin chặt củi ở Phú Thọ lấy củi xuất khẩu, mặt khác cho anh em đi mua dừa, chuối. về gửi các nhà hàng ăn uống giải khát để lấy lãi Có khi không bán được, nhà hàng trả lại, đem về phân phối nội bộ ăn cho hết. Tôi thấy việc làm rẻ rúng quá, lại không đúng ngành nghề. Tôi đề nghị giải tán công ti xuất nhập khẩu chuyên làm kinh tế của Viện. Các đồng chí đều đồng ý. Tôi tổ chức cho anh em nghiên cứu các đề án, như xây dựng khu kinh tế mở cho Móng Cái, Quảng Ninh, tỉnh Quảng Ninh trả cho 3,5 triệu/tháng, xây dựng đề án cải tiến quản lí cho công ti OSC Vũng Tàu được trả cho 4 triệu tháng, xây dựng cải tiến cho Công ti Tradico, cho Tổng cục Bưu điện tách ra khỏi Bộ Giao thông vận tải, trực thuộc Chính phủ... mỗi đề án cũng được trả hàng triệu đồng.

Tết âm lịch sắp đến, tôi hỏi anh em có tiền ăn tết không? Anh em bảo quĩ không có. Quĩ Công đoàn có 20 triệu đồng, vừa qua đã phân phối cho anh em hết rồi. Tôi hỏi anh em có cần tiến ăn tết không? Đồng chí nào cũng nói rất cần nhưng không tìm đâu ra tiền. Tôi đã tính toán trước, tôi bảo anh em hiện nay chưa có tiền trong quĩ, tôi tạm vay ở Công ti Tổng hợp I Bộ Thương mại 15 triệu đồng phân phối cho anh em tiêu Tết. Sau Tết thu được tiền các dự án sẽ trả. Thế là anh chị em có tiền ăn tết.

Tháng 3-1991 thu tiền các nơi gửi về trả xong nợ, mọi người phấn khởi. Từ tháng 51991 liền ăn trưa cho anh chị em cơ quan đài thọ mỗi tháng 150.000 đồng/tháng (Hiện nay tôi đã rời khỏi viện hơn 10 năm, mức ăn trưa vẫn giữ nguyên không thay đổi). Tôi hỏi đồng chí Doanh, Viện trưởng sao không nâng thêm cho anh chị em. Đồng chí bảo tôi: “Quĩ phúc lợi anh xây dựng, tổ chức kỉ niệm 20 năm thành lập Viện, chi gần hết rồi”. Còn từ hồi đồng chí An về làm viện trưởng tôi chưa có dịp hỏi lại. Tôi đã xếp sắp bộ máy và đề bạt 27 cán bộ vào các chức vụ như vụ trưởng, vụ phó, chánh phó văn phòng. Đồng chí Vũ Tiến Lộc từ cán bộ của Viện Quản lí kinh tế Trung ương, tôi sử dụng làm thư kí và đào lạo nay trở thành Chủ tịch VCCI.

Trong những tháng đầu năm 1991, chuẩn bị Đại hội 7 những người có ý định xấu với tôi lại tung ra những dư luận xuyên tạc để loại tôi khỏi Trung ương khoá 7. Tôi đã tiên liệu trước tình hình này nhưng không ngờ các đồng chí đó dùng đủ mọi hành động không tốt đẹp đến thế đối với tôi. Đến Đại hội Hải Phòng, anh Mười và tôi cùng một số đồng chí khác về ứng cử đại biểu đi dự Đại hội toàn quốc.

Ngày khai mạc, anh Đạt, đại tá, đứng lên tố tôi khai man lí lịch và một vài việc lặt vặt khác. Đại hội phải cho thẩm tra, lấy bản kết luận của đồng chí Võ Chí Công ra đọc và đồng chí Trưởng ban kiểm tra tư cách đại biểu khẳng định việc tố cáo của anh Đạt là không đúng. Nhưng khi bầu cử tôi cũng bị mất hơn một trăm phiếu. Còn ở Trung ương, Bộ Chính trị không giới thiệu tôi vào danh sách Trung ương khoá 7. Đồng chí Nguyễn Thanh Bình và đồng chí Nguyễn Đức Tâm gặp tôi để đả thông tư tưởng. Anh Bình nói:

- Lá thư anh gửi cho các giám đốc công ti trực thuộc về việc thôi làm Bộ trưởng là có ảnh hưởng không tốt.

Tôi nói lại:

- Thư của tôi chẳng có gì làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng cả, chỉ có một câu: Trong 44 tháng tòng chính ở Thủ đô Hà Nội, tôi mới hiểu thế nào là nhân tình thế thái. Chỉ có thế thôi. Lúc này một số dư luận không tốt về tôi, xuyên tạc Hội nghị tổng kết của Bộ tại Hội trường Thống nhất Thành phố Hồ Chí Minh, các anh chẳng ai bảo vệ tôi, tôi phải viết thư nói rõ việc đó.

Hai anh Bình và Tâm không nói gì. Hôm đó có cả anh Văn Phác, cũng là người được làm tư tưởng để thôi Trung ương khoá 7. Tôi hiểu đây chỉ là cuộc gặp mang tính thủ tục, tôi không nói gì thêm, vì việc đã “an bài” ở chỗ khác rồi. Thế là kết thúc cuộc gặp giữa anh Nguyễn Thanh Bình, anh Nguyễn Đức Tâm với tôi và anh Văn Phác.

Ngay trong cuộc họp Trung ương để chuẩn bị Đại hội, anh Linh gọi tôi bảo:

- Tôi vẫn giới thiệu anh vào Trung ương khoá 7, nhưng anh Đỗ Mười bảo để Ban Cán sự Chính phủ bàn thêm. Hai lần tôi nhắc, bên Chính phủ đều đề nghị anh thôi không ứng cử khoá 7.

Tôi cảm ơn anh Linh, và nói:

- Tôi biết rõ ý định của các đồng chí đó lâu rồi. Anh đừng bận tâm đến việc của tôi, ảnh hưởng đến công việc của anh.

Anh Linh lại khóc.

Một sức ép khác, là căn nhà của tôi ở Hải Phòng, tôi đã trả thành phố. Còn căn nhà số 4 Nguyễn Khắc Cần tôi mượn ở tạm, khi Nhà nước chưa xếp nhà cho tôi theo tiêu chuẩn. Mà cái nhà số 4 Nguyễn Khắc Cần do tôi xây dựng bằng số tiền đền của công ti Du lịch vì xây nhà làm ảnh hưởng đến nhà tôi đang ở, cộng thêm 10 triệu kinh phí của Bộ, xây dựng làm chỗ làm việc cho Bộ trưởng. Nhưng lúc đó không hiểu sao Uỷ ban Kiểm tra Trung ương cử cán bộ đến thúc giục tôi phải di chuyển ngay vì Đại hội đến nơi rồi... Tôi biên thư trả lời, đại ý nói: “Khi việc tày đình đối với tôi là chuyện vu khống bỉ ổi việc tôi bị bắt, bị tù... sao các đồng chí không giải quyết? Còn cái nhà nó sù sù ra đấy, không cho tôi ở, tôi sẽ đi nơi khác. Nay chưa có nhà, tôi ra đường đứng hay sao? Các đồng chí không nên giục tôi. Tôi là người “Tri sỉ”, không táng tận lương tâm cướp nhà của Nhà nước đâu. Mà cướp cũng không được với các đồng chí”.

Thế mới yên. Cho đến khi có công văn chính thức của Bộ Thương mại giải quyết cho tôi xây nhà, tôi đi ngay, không chần chừ một ngày. Nghĩ lại cái khẩu hiệu “Mình vì mọi người, mọi người vì mình” tôi thấy nó “rỗng”, ngay cả giữa đồng chí với nhau.

Nhưng nhà tôi, cô Phí Thị Tâm không giữ được bình tĩnh, đã đem đốt hết Huân chương, bằng khen của cả hai vợ chồng, một bó to bằng bắp đùi. Khi tôi biết chuyện liền trách nhà tôi: “Sao em vội vàng thế? Làm thế có ích gì. Có khi người ta lại hiểu lầm...” Nhà tôi to tiếng: “Sắp ra đứng đường còn nhà đâu mà treo huân chương, huy chương, bằng khen. Em đốt đi để dọn nhà cho nhanh gọn”. Rồi nhà tôi khóc. Tôi bảo: “Khóc là không có bản lĩnh. Họ đối với mình như vậy, mình bình tĩnh xử lí, chân lí sẽ thuộc về mình. Nếu mình làm khác thì mình cũng như họ thôi. Em nên bình bĩnh. Còn anh Mười đối với anh, anh đã bảo em là “Nhân dục vô nhai”, anh ở địa vị anh Mười có khi anh cũng làm như anh Mười”. Nhà tôi lại to tiếng với tôi: “Anh đừng lấy anh ra để an ủi em. Em ở với anh gần 50 năm, đã có 4 mặt con, em hiểu anh không bao giờ làm những điều thất đức như các anh khác đâu. Anh đúng lấy việc đó ra nói với em, để em bớt giận. Anh hi sinh cho đất nước thế nào, dám chết, dám bỏ chức vụ nhường quyền cho người khác, không hề tranh chấp với bất cứ ai về quyền lợi, em biết rõ chứ. Sao anh tự hạ thấp anh xuống, ví anh cũng như họ là thế nào? Mai em sẽ đến chất vấn ông Nguyễn Văn Linh về việc này”. Tôi nói: “Anh Linh quý anh lắm em đừng làm phiền anh Linh và làm ồn ào sự việc. Chẳng hay ho gì cho Đảng, cho các anh ấy khi đang lãnh đạo đất nước...”.

Từ đó nhà tôi phát bệnh. Hết bệnh này đến bệnh khác. Đến 3-5-1999 (tức 18-3 Quý Mão) nhà tôi qua đời, chưa được đến ở ngôi nhà mới 216 Đội Cấn mà cách mạng đem lại hạnh phúc cho chúng tôi.

Trong những tháng nhà tôi ốm đau, không rõ đồng chí Lê Đăng Doanh báo cáo với anh Mười thế nào, một hôm đồng chí Lê Đăng Doanh bảo tôi: “Chiều hôm nay khoảng 5 giờ, anh Mười đến thăm chị Tâm. Anh ở nhà đón ông ấy một tí” Tôi trả lời: “Tất nhiên tôi ở nhà đón anh Mười”. Tới đợi gần 6 giờ, anh Mười không thấy đến. Tôi nghĩ chắc lại có việc đột xuất. Lúc đó tôi có điện thoại của ông lang Chấn, ở Hoàng Hoa Thám gọi đến lấy thuốc. Tôi đi đến nhà ông lang Chấn lấy thuốc xong về ngay. Về đến nhà thì anh Mười đến thăm nhà tôi vừa về. Tôi hỏi qua nhà tôi, nhà tôi bảo: “Em không dậy được, chỉ ngồi nói chuyện với anh Mười một vài câu, rồi anh Mười về”. Tôi vội đi xe lại nhà anh Mười để cảm ơn và nói rõ sự vắng mặt, kẻo anh hiểu lầm. Anh bảo tôi sang ngay anh Trần Vỹ, nguyên Chủ tịch UBND Hà Nội hỏi về chữa bệnh “tiểu đường”. Anh Mười lại gọi điện cho anh Trần Vỹ để tôi đến đỡ bất ngờ. Tôi cảm ơn anh Mười đã đến thăm nhà tôi, rồi tôi vội đi ngay đến nhà anh Trần Vỹ. Anh Vỹ hướng dẫn tôi chữa bệnh “tiểu đường” bằng cách uống nước chè tươi. Giã chè tươi, pha với nước sôi để nguội rồi uống ngày 3 lần. Tôi ngồi nói chuyện với anh Trần Vỹ khoảng 15 phút, rồi về làm theo sự chỉ dẫn của anh Trần Vỹ ngay tối hôm đó.

Khi nhà tôi qua đời, anh Đỗ Mười công tác tại thành phố Hồ Chí Minh, cũng gửi điện chia buồn với gia đình tôi.

Khi Đại hội 7 họp, một số đoàn vẫn giới thiệu tôi ứng cử vào ban chấp hành. Tôi nghĩ Trung ương khoá 6 không giới thiệu tôi, nên tôi gặp báo cáo với anh Nguyễn Văn Linh xin rút khỏi danh sách ứng cử cho đúng ý thức kỉ luật. Anh Linh bảo tôi: “Cứ để vậy, đừng rút”. Khi bầu tôi được hơn 260 phiếu đạt hơn 25% số đại biểu đi dự Đại hội. Các đồng chí ứng cử tự do không ai trúng cử. Hai đồng chí được Trung ương giới thiệu cũng không trúng.

Trước khi họp Đại hội 7 vấn đề tiểu sử của anh Văn cũng lại được đem ra thảo luận, có thêm một vài việc mới, thiếu cứ liệu. Có một hôm anh Văn họp Trung ương khoá 6, anh Văn phải đứng lên thanh minh cho mình và nói: “Một vị tướng cầm quân đánh thắng ở Điện Biên Phủ mà còn bị nghi ngờ thân Pháp...” Giọng nói của anh vừa rung động vừa chân thành. Tôi thực sự không cầm được nước mắt. Tôi nghĩ nội bộ với nhau, cứ thắng thắn bảo nhau, ai làm thì làm, ai nghỉ thì nghỉ, giữ sao cho được tình cảm chân thành là chính, chả thế một nhà thơ đã viết:
Tất cả trên đời đều trôi nổi,
Còn lại non sông một chữ tình...
Với tinh thần đó, trong khoá 6 đã hai lần tôi phát biểu tại phiên họp toàn thể của Trung ương là: “Khi cần, đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh cứ gọi điện cho tôi, là tôi nghỉ ngay, không cần phải giải thích vì sao.”

(còn tiếp)
Đoàn Duy Thành

No comments:

Post a Comment