Monday, March 7, 2011

Hiền tài là nguyên khí quốc gia

Hiền tài là nguyên khí quốc gia
• Tư tưởng triết học
Nhà báo Hữu Thọ có kể một câu chuyện vừa vui, vừa buồn và rất đáng để suy nghĩ: Một người đã thành đạt nhưng không thể trở về đóng góp cho tỉnh nhà, anh ta than vãn với nhà báo: “Ở dưới đó: giàu thì ghét, đói rét thì khinh, thông minh thì diệt. Em vừa giàu, lại vừa thông minh nên đáng chết đến hai lần, vậy làm sao có thể làm ăn ở quê được”?.
Ngày nay có thể hiểu hiền tài không chỉ là trí thức, mà là tất cả những ai có năng lực, có tâm huyết và khát vọng cống hiến cho đất nước, cho dân tộc.
Cổ nhân đã dạy :”Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách” có nghĩa là ngay cả người tầm thường cũng phải chịu trách nhiệm trước sự hưng vong của đất nước. Trí thức lại càng phải có trách nhiệm hơn thế!. Ngày nay, tiếp tục truyền thống của cha ông, trí thức cần được rèn luyện để trở thành hiền tài có vai trò và trách nhiệm cống hiến tài năng vào tiến trình phát triển đất nước. Người khôn học kinh nghiệm lịch sử, kẻ dại học kinh nghiệm bản thân. Thời xưa, có những nhà vua anh minh đề ra chức “Gián quan” được miễn tội chém đầu để can ngăn những việc không đúng, không nên làm của Vua. Tri thức thời nay là tầng lớp tinh hoa của xã hội, sáng tạo ra các giá trị tinh thần, tôn trọng chân lý phải biết làm phản biện chính là hình ảnh của “gián quan” thời xưa nhưng được nâng lên tầm cao mới theo tư duy của xã hội dân chủ và phù hợp với thời đại toàn cầu hóa của nền kinh tế tri thức.
Chúng ta tin vào sức năng động tự thân của dân tộc, sự sáng tạo và bền bỉ của giới trí thức như ngọn lửa bùng lên để những người có trọng trách biết suy nghĩ, trọng dụng, quy tụ, sử dụng đội ngũ trí thức, nhất là các bậc trí thức lão thành, tâm huyết có kinh nghiệm, bản lãnh hiến kế cho tiến trình xây dựng đất nước. Các bậc trí thức hàng đầu của đất nước, theo quy luật của tạo hóa sẽ có lúc phải ngừng nghỉ, đó là khoảng trống mênh mông để lại.

Năm Hồng Đức thứ 15 (1484), Thân Nhân Trung cùng các quan bộ lễ khác tiến hành viết các bài văn bia để khắc vào các bia tiến sĩ đầu tiên của Việt Nam, các bia này hiện đặt tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, ghi lại mục đích lập mỗi khoa thi nho học, hoàn cảnh lịch sử các khoa thi được khắc bia, hoàn cảnh ra đời của văn bia, và nội dung quan trọng nhất là đề danh các tiến sĩ đỗ đại khoa trong khoa thi đó. Thân Nhân Trung được giao soạn bài văn bia cho bia tiến sĩ đầu tiên khoa Nhâm Tuất (1442). Khi viết về mục đích các khoa thi nho học, trong bài văn bia này, Thân Nhân Trung đã nêu bật được tầm quan trọng của giáo dục nhân tài đối với việc hưng thịnh của đất nước:
"...Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết..."
• cách đây 2 tuần

Hiền tài là nguyên khí quốc gia
Cập nhật: 07/01/2009 13:26
E-mail | Bản in | Lưu xem sau

Tại hội nghị TW7 đang họp, Đảng ta sẽ thảo luận và ra nghị quyết về thanh niên, nông dân và trí thức. Cùng với giai cấp công nhân, 3 bộ phận trên là lực lượng chính làm nên diện mạo của xã hội trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay.


Thời nào cũng vậy, trí thức luôn được tôn trọng. Xưa, tế tửu Quốc tử giám Thân Nhân Trung đã khắc vào bia đá Văn Miếu một câu nổi tiếng “ Hiền tài là nguyên khí quốc gia” đến nay còn được truyền tụng. Mới đây thôi, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu tấm gương sáng cho việc trọng dụng nhân tài. Không chỉ các vị cộng sự thân tín nhất trong Đảng cũng như trong Nhà nước của Người là các trí thức nổi danh mà Người còn giới thiệu tham gia Chính phủ đầu tiên của nước ta nhiều trí thức dù họ mới đến với cách mạng, nhiều người chưa phải đảng viên. Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Lân Dũng trong một bài báo đã thống kê được 10 vị trí thức không phải là đảng viên được Bác Hồ mời làm bộ trưởng trong Chính phủ đầu tiên là các vị Huỳnh Thúc Kháng,Nguyễn Văn Huyên, Trần Đăng Khoa, Hoàng Tích Trí, Vũ Đình Hoè, Ngô Tấn Nhơn, Chu Bá Phương, Nguyễn Văn Tố, Bồ Xuân Luật, Phan Kế Toại ( sau này là Phó Thủ tướng) và tập hợp nhiều trí thức khác như Trần Đại Nghĩa, Huỳnh Tấn Phát, Tôn Thất Tùng, Hồ Đắc Di, Trần Hữu Tước, Phạm Ngọc Thạch, Cù Huy Cận, Nguyễn Lân và rất nhiều người nữa tham gia cách mạng, có nhiều cống hiến to lớn cho dân, cho nước. Sau này, Đảng ta cũng đã có rất nhiều chủ trương, chính sách nhằm đào tạo, bồi dưỡng, phát huy năng lực của đội ngũ trí thức trong nước cũng như ở nước ngoài trong sự nghiệp giữ gìn độc lập và phát triển đất nước và đội ngũ trí thức nước ta đã đóng góp phần không nhỏ vào sự nghiệp đó.


Tuy vậy, nhìn lại những đóng góp của trí thức cũng như những việc đã làm để trí thức phát huy được tài năng và tâm huyết của mình, vẫn có nhiều điều còn băn khoăn, chưa hài lòng. Về số lượng, nước ta hiện có khoảng 2,6 triệu người có trình độ đại học trở lên trong đó có 18.000 thạc sĩ, 16.000 tiến sĩ, trên 6.000 giáo sư và phó giáo sư. Trên 70% trong số này được phân bố trong các cơ sở sự nghiệp, 22% trong các cơ sở hành chính bao gồm cả các cơ sở nghiên cứu khoa học. Tuy chưa đáp ứng được yêu cầu nhưng với một nước đang phát triển, những con số trên không phải là quá nhỏ. Nhìn vào công trạng, trí thức Việt Nam thông minh, sáng tạo, trọng nghĩa cả, sẵn sàng khước từ giàu sang, thậm chí hi sinh cả thân mình để dân tộc và đất nước có ngày nay. Nhưng trí thức nước ta nhìn chung còn thiếu và yếu, tài năng nổi bật còn ít, uy tín quốc tế chưa nhiều, khát vọng sáng tạo còn hạn chế, một số trí thức giảm sút ý chí.


Tình trạng trên có nhiều lý do, từ điều kiện làm việc thiếu thốn; việc làm không đúng sở trường; đời sống khó khăn; môi trường xã hội không thuận lợi… nhưng bao trùm lên là chúng ta đang thiếu một chiến lược đào tạo và phát huy tài nguyên chất xám của quốc gia dù tài nguyên đó đang ở trong nước hay ở ngoài nước; thiếu một cái nhìn khoa học, tiền tiến về trí thức; coi trọng kinh nghiệm, đề cao những giá trị thực dụng. Đã có thời điểm, những quan niệm như vậy chi phối cách nhìn nhận về trí thức, tạo ra sự thiếu tin cậy lẫn nhau, tác động tiêu cực tới một bộ phận không nhỏ trí thức ngay với những người có nguồn gốc xuất thân từ công nhân và nông dân.


Chưa thể đòi hỏi nhận thức xã hội sẽ thay đổi ngay, nhưng nghị quyết về trí thức của Đảng chắc chắn sẽ tạo ra một bước chuyển quan trọng trong việc xây dựng, nâng cao chất lượng và phát huy năng lực của tầng lớp lao động trí óc trong thời kỳ CNH,HĐH. Điều cần nhất hiện nay là có cho họ một môi trường sống, môi trường làm việc thuận lợi; tôn trọng và nhìn nhận đúng về họ; sử dụng có hiệu quả sản phẩm trí tuệ của họ và mở ra con đường để mọi người- trong đó có trí thức- được phát triển và đóng góp tài năng của mình cho đất nước.

Đọc bài: Hiền tài là nguyên khí quốc gia (Hội Nhà văn)



"Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và hưng thịnh. Nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp kém. Vì thế, các bậc thánh minh chẳng ai không coi việc kén chọn kẻ sĩ, bồi dưỡng nhân tài vun trồng nguyên khí là công việc cần kíp. Bởi vì, kẻ sĩ có quan hệ trọng đại với quốc gia như thế cho nên được quí chuộng không biết nhường nào." (Văn bia văn miếu Quốc tử giám Hà Nội - 1442)

[...]
1. Khái niệm nhân tài, tài năng ?

Tài năng là gì ? Nhân tài là gì ? Thiên tài là gì ?
Thiên tài thì hết sức hiếm nhưng nhân tài thì nhiều hơn. Người tài giỏi là người có tài, người tài năng. Tài năng là tổng hợp các phẩm chất ý chí, trí tuệ, cảm xúc, ý thức và hành động ở mức cao hơn nhiều so với trình độ trung bình xã hội, và đạt hiệu quả công tác cao, có ý nghĩa xã hội lâu dài. Người có tài năng như vậy là nhân tài.

Có thể phân biệt một cách đơn giản cho dễ hiểu như sau:

- Người giỏi là người thành thạo công việc đạt hiệu quả cao hơn người khác;

- Người tài là có phát hiện sáng tạo, mới, có sáng kiến lớn nhưng trong phạm vi của khuôn khổ xã hội đương thời đã đạt được, tức cao hơn người người giỏi, vì phải có năng khiếu cao, còn giỏi thì không nhất thiết có năng khiếu cao, từ đó được kết quả rất cao;

- Người gọi là thiên tài là có năng lực cực cao, siêu việt, đạt được thành tựu khác người, có tầm vượt thời đại, vạch ra khuynh hướng mới, đạt kết quả phi thường, vô song (trong lĩnh vực khoa học, nghệ thuật, chính trị, quân sự...)

Tài năng (talent), nhân tài như đã nói, là một thuật ngữ khoa học, đồng thời cũng là ngôn ngữ được dùng trong đời thường. Trong cuộc sống hàng ngày, một người được coi là có tài khi họ hoàn thành công việc một cách tốt đẹp, nhanh chóng, hoàn hảo hơn người, nhưng lại nhẹ nhàng, ít tốn sức lực, trí não và tiền bạc hơn. Như vậy, trong cuộc sống, tài năng được nhận ra khi hoạt động đã hoàn thành, đã có kết quả hay sản phẩm. Nói cách khác, xã hội xác nhận tài năng của một người căn cứ vào kết quả hoạt động đã đạt được của người đó.

Tài năng là năng lực ở mức độ cao, biểu thị ở sự hoàn thành một cách sáng tạo ở những hoạt động nào đó. Tài năng đó là sự kết hợp hoàn thiện nhất các loại tố chất, năng lực giúp cho con người hoàn thành một cách sáng tạo và thuận lợi cho hoạt động. Người có tài năng là nhân tài.

Cố nhiên trong từng nấc thang ấy cũng có nhiều mức độ nhưng về cơ bản thì quy chiếu vào ba loại ấy.

Nhân tài hay người có tài năng, nhất là thiên tài - những người có năng lực xuất chúng (những bậc hiền tài là nguyên khí quốc gia) trong lĩnh vực của mình, có những phẩm chất tốt đẹp theo những tiêu chuẩn trí tuệ, đạo đức và thẩm mỹ cao được toàn xã hội công nhận, tất nhiên là có tính lịch sử... 1 Chính vì thê tự nó cũng đã có những thứ bậc và phân loại theo những tiêu chí nghiêm ngặt riêng, nhưng theo chúng tôi có lẽ tiêu chí lớn và cao nhất chính là tính chất phụng sự xã hội của nó. Khó có thể công nhận một tài năng nếu như chủ nhân của nó tức là nhân tài mà lại không hề phục vụ gì cho cộng đồng, cho quốc gia dân tộc mình- nơi đã nuôi dưỡng và sinh thành tài năng đó. Và chỉ phục vụ cho nhân dân, tài năng đó mới được tỏa sáng và tôn vinh trong lòng dân tộc và ở đây cũng cần hiểu dân tộc không theo nghĩa hẹp của chủ nghĩa dân tộc cực đoan.

Tài năng hay nhân tài, trong lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng tỏ rằng tương lai của mỗi dân tộc đều phụ thuộc phần lớn vào trí tuệ xuất chúng của những bậc thiên tài, có làm cho lịch sử có những bước nhảy vọt về chất hay không chính là khi những thiên tài đó được phát lộ...

Cho nên, khi xem xét vấn đề nhân tài phải đặt trong tổng thể, từ khía cạnh sinh học, yếu tố di truyền, yếu tố địa lý nhân văn, xã hội học cũng như chính trị xã hội, mỹ học văn hóa, giáo dục đào tạo...mới có cách nhìn đầy đủ và khoa học.


Ngày nay, theo quan điểm chính thống, trí thức là những người lao động trí óc. Thái độ của trí thức là thước đo sự tiến triển của chế độ. Gs Cao Huy Thuần đại học Picardie (Pháp) định nghĩa :“Ai đánh thức không cho xã hội ngủ, người ấy là trí thức bất kỳ họ là ai”. J.P.Sartre, triết gia lừng danh người Pháp đã nói “Nếu ai đó chế tạo ra quả bom nguyên tử, thì người đó là bác học, chỉ khi nào ông bác học ý thức được cái khí giới giết ngươi ghê gớm ấy, đứng lên hô hào chống bom nguyên tử, lúc đó ông ta là trí thức”.

Lịch sử nhân loại, việc dùng người mỗi thời khác nhau tùy theo hoàn cảnh lịch sử, thời thế và vai trò, nhiệm vụ. Đông-Tây, kim-cổ người có thực tài và là người trí thức chân chính đều có “mẫu số chung” trong cách ứng xử với xã hội và tầng lớp cầm quyền. Người chân chính có thực tài thật là hiếm hoi, cần phải biết tìm, biết trân trọng. Thời Tam quốc, Lưu Bị được lên làm vua cai trị nước Thục nhờ sáng suốt biết thu phục nhân tâm và trọng dụng người tài. Điển hình là ông đã 3 lần thực tâm lặn lội (tam cố thảo lư) đến mời Gia Cát Lượng về hợp tác với mình. Tần Thủy Hoàng vị Hoàng đế Trung Hoa đầu tiên có công thống nhất đất nước nhưng cai trị đất nước bằng bạo quyền, đốt sách, phỉ báng trí thức cho nên chỉ được thời gian ngắn nhà Tần đã suy vong.

Đất nước ta, từ xưa đến nay lúc nào cũng nhiều người hiền tài, tuy nhiên từng thời kỳ, từng lúc mà nguồn hiền tài đó được khơi ra như thế nào. Có nghĩa là khi được quan tâm, trọng dụng thì hiền tài sẽ có, tri thức sẽ nhiều. Người có học vấn thường có khả năng phán đoán và nhận định tình hình sáng suốt hơn người thường. Thời phong kiến, ở nước ta đã có biết bao bài học khi biết trọng dụng trí thức thì công cuộc bảo vệ tổ quốc, chống ngoại xâm và xây dựng đất nước phát triển rất hiệu quả nhờ tầng lớp trí thức lãnh đạo biết khơi dạy, hòa đồng cùng với nhân dân xả thân vì nghiệp lớn. Bài “Hịch tướng sĩ” của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, bài thơ bất hủ của Lý Thường Kiệt xác định chủ quyền của đất nước “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” hay bản hùng văn lịch sử của Nguyễn Trãi :”Bình Ngô đại cáo” là minh chứng cho sự sáng suốt của các tiền nhân biết coi trọng và sử dụng trí thức là các nhà quân sự, nhà tư tưởng chiến lược của thời đại.

Mặc dù chế độ phong kiến chỉ cho phép sĩ phu tiến thân trong chốn quan trường nhưng các bậc trí thức hiền tài khi thấy ý kiến của mình không được Vua tôn trọng, đã sẵn sàng rũ áo, từ quan về ở ẩn. Ông Chu Văn An nổi tiếng là bậc Thánh hiền, ngay khi đỗ Thái học sinh, ông từ chối làm quan, không màng danh lợi về quê mở trường dạy học có nhiều môn sinh. Vua Trần Minh Tông biết tài của Chu Văn An mời ông vào triều dạy học cho thái tử và các con đại thần. Đến đời vua Trần Dụ Tông thấy nhiều đại thần xung quanh Vua là nịnh thần, tham quan, nhà giáo Chu Văn An đã dũng cảm dâng sớ, hạch tội và xin chém 7 kẻ tội thần. Vua không nghe, ông liền treo ấn, từ quan về ở ẩn. “Thất trảm sớ” nổi tiếng của nhà giáo Chu Văn An vẫn còn được truyền tụng mãi đến muôn đời sau. Thời Vua Quang Trung là bậc minh quân biết sử dụng người tài nhưng tiếc thay lại đoản thọ nên nghiệp lớn vẫn còn dở dang.

Thời kỳ cách mạng còn trong “trứng nước” Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh với tư duy, tầm nhìn sáng suốt và uy tín to lớn đã cảm hóa, thuyết phục được nhiều nhân sĩ, trí thức tiêu biểu tham gia khối đại đoàn kết dân tộc, sẵn sàng từ bỏ cuộc sống “nhung lụa”, bất chấp hiểm nguy đi theo cách mạng, hy sinh cho nghiệp lớn. Khi thành lập Chính phủ kháng chiến, một trong những bức công văn quan trọng đầu tiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đi là bài báo “Tìm người tài đức” đăng công khai. Trong đó Người bày tỏ sự quan ngại “không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những người tài đức không thể xuất thân”.

Cũng chính Hồ Chủ Tịch đã biết cách khơi dậy nguồn nguyên khí dồi dào của đất nước, đó là đội ngũ trí thức – cán bộ Cách mạng. Người dạy “Muốn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém.” Tuy thế, trong công tác phát hiện, bồi dưỡng và tuyển chọn hiền tài ở nước ta có thời kỳ vẫn còn thể hiện sự hẹp hòi, thiển cận về lý lịch, thành phần và chưa dám tin dùng những người có thực tài ngoài Đảng.Một số người có trách nhiệm trong công tác tổ chức cán bộ đã không thấm nhuần lời dạy của Hồ Chủ Tịch.

Nhà báo Hữu Thọ có kể một câu chuyện vừa vui, vừa buồn và rất đáng để suy nghĩ: Một người đã thành đạt nhưng không thể trở về đóng góp cho tỉnh nhà, anh ta than vãn với nhà báo: “Ở dưới đó: giàu thì ghét, đói rét thì khinh, thông minh thì diệt. Em vừa giàu, lại vừa thông minh nên đáng chết đến hai lần, vậy làm sao có thể làm ăn ở quê được”?.

No comments:

Post a Comment