Sunday, March 6, 2011

Không gian sông nước trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư

Thụy Khuê
Không gian sông nước trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư


Nguyễn Ngọc Tư nổi tiếng về những truyện ngắn khá hay viết theo lối truyền thống. Chị thường kể lại những nỗi u hoài trầm lặng, sự nhẫn nại chịu đựng cam phận trong tâm hồn người dân quê miền Nam, mà đời sống gắn bó với con kinh, con rạch. Giọng văn và tinh thần sông nước của chị như một truyền thống nối dài từ Bình Nguyên Lộc, người đã gắn liền hai yếu tố đất và nước, thành ý nghiã thiêng liêng của hai chữ đất nước. Tư tưởng này, truyền qua Sơn Nam, đến Nguyễn Ngọc Tư, là thế hệ thứ ba, tuy đã bớt đậm đặc đi, nhưng vẫn đem lại cho người đọc, nhất là người đọc khác miền, những cảm xúc mới. Lối viết hiện thực thô lậu của Bình Nguyên Lộc đã ảnh hưởng sâu sắc đến những cây bút cùng thời với ông như Võ Phiến, Thanh Tâm Tuyền, Nhật Tiến, Sơn Nam...
Nghệ thuật thô lậu là gì? Là ghi lại đời sống bằng giọng thô lậu, bằng ý nghĩ thô lậu của nhân vật, của động vật, đồ vật và quang cảnh xung quanh, chứ không bằng văn chương và ý nghĩ chủ quan của tác giả. Trong cách viết hiện thực thông thường, nhà văn đứng ngoài, dùng một giọng neutre, giọng vô thanh, vô hình, vô ngã để thuật truyện; chỉ khi chuyển sang đối thoại, người viết mới tìm cách làm lộ địa vị xã hội, gốc gác, bản tính, cách suy nghĩ của các nhân vật qua lời ăn tiếng nói của họ. Trong hiện thực thô lậu, tất cả những yếu tố kể trên, không cần đợi tới đối thoại mới bật ra mà chúng nằm ngay trong giọng kể, tàng trữ trong giọng kể. Giọng kể ở đây không vô thanh, vô hình, vô ngã, mà có âm, có hình, đa ngã. Thí dụ Bình Nguyên Lộc viết:
- "Gió bấc lướt trên ngọn cây, té vào giếng ấy như nước chảy vào chỗ trũng, và vì không có lối ra gió quay cuồng, càng vặn thêm lòng người vốn đã lạnh"
- "Ba cái thây sống nầy lại càng giống nhau ở chỗ nó cụt ngủn và xẵng như dùi dục chấm mắm nêm, hay là không nói gì hết, tối ngày.
- "Thằng nhỏ trên chõng chậm chạp tuột xuống, rê cái bụng binh rỉnh chằng chịt những gân xanh lại gần chị Chín". (trích truyện Thèm người của Bình Nguyên Lộc trong tập Nhốt gió).

Hai chữ: té, vặn, trong trích đoạn đầu, làm cho giọng kể mặm mòi hơn, có âm lên, có chuyển động lên, và xác định không gian miền Nam, cá tính miền Nam. Một nhà văn Bắc sẽ viết: "Gió bấc lướt trên ngọn cây, xoáy vào giếng ấy...", và ta thấy ngay tác dụng khác nhau giữa chữ té và chữ xoáy: xoáy văn chương hơn, té bình dân hơn; xoáy vô thanh, vô ngã, trong khi té có âm thanh, hình ảnh và chủ thể.
Trích đoạn thứ nhì lộ thêm một khiá cạnh khác trong nghệ thuật thô lậu: Tả vợ, chồng, con, nhà người ta mà Bình Nguyên Lộc bảo là ba cái thây sống, cụt ngủn, xẵng như dùi đục chấm mắm nêm, thêm hai chữ tối ngày đi đoạn hậu như cái nhẩy cẫng: tối ngày khác hẵn suốt ngày mà những người viết văn hay dùng. Bình Nguyện Lộc chuyên xử dụng hình ảnh và âm thanh, mà âm thanh của ông là thứ âm gồ, thanh lạ, ảnh của ông là những ảnh sốc: thây sống, rê cái bụng binh rỉnh... Những nhà văn Bắc như Thanh Tâm Tuyền, Nhật Tiến, Viên Linh... sống trong Nam, cũng bắt chước Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc viết tiếng Nam, nhưng họ chỉ viết được đối thoại, còn về giọng kể, vẫn không thể kể hay như Bình Nguyên Lộc.
Sự khác biệt sâu xa giữa văn lối Bắc và văn lối Nam là người Bắc viết văn, còn người Nam kể truyện. Nhưng phải kể một cách nào đó mới thành tác phẩm.
Hiện thực thô lậu dựa trên sườn chính là giọng kể, kể phải làm sao cho bắt giọng, nghiã là phải có cái giọng tự nhiên thành thật, ăn khớp với tâm tình và bối cảnh mình kể; nếu thành công, sẽ tạo ra một bối cảnh sâu sắc hơn lối viết hiện thực thông thường. Bình Nguyên Lộc có thể hoà đồng giọng đất, giọng nước, giọng cái xa quay, giọng ma, với giọng người.

Văn Nguyễn Ngọc Tư, có nhiều chỗ cũng tạo được cái mạch xuyên suốt, nghiã là giọng người kể, tâm lý nhân vật và đối thoại chập lại thành một: "Con Thủy nói nó không lấy chồng, nó ở vậy đi bán với ba, nó nói mà giọng hơi buồn. Ông Chín nghe rồi như gió ùa về, lòng tự dưng nghe đau xót. Rồi khi hai đứa con gái ông sinh ra những đứa con, chúng lại phải sống cuộc đời lênh đênh như má chúng, ông nghĩ, vậy đâu có được". (Trích Nhớ sông, trong tập Giao thừa).
Trong trích đoạn trên đây, có vẻ như chỉ có một giọng kể, nhưng thực ra là nhiều giọng chập lại: khi giọng chị, khi giọng người kể, khi giọng cô em, khi giọng ông bố. Lối kể như vậy, tự nó đã tạo mối liên hệ nội tại giữa người kể và các nhân vật, giữa các nhân vật với nhau, khiến cho câu chuyện (mới chỉ qua giọng kể không thôi) đã trở thành một luồng giao tiếp nối nội tại giữa không gian và thời gian, giữa nhân vật và bối cảnh bên ngoài.
Là hậu duệ của một truyền thống văn nói xướng lên từ miệt sông nước, Nguyễn Ngọc Tư đã kể và kể rất hay về những mẩu đời của người dân miệt vườn, về cuộc sống bám với chiếc ghe, con nước của những con người hiền lành cam phận, những tình cảm chân thật, nối liền đất nước với con người.
Nhớ sông có giọng kể giao hoà tâm lý nhân vật với bối cảnh xung quanh:
"Mỗi lần qua sông Cái Lớn, Giang lại nghĩ, chắc tời già, tới chết, mình sẽ chẳng bao giờ rời chiếc ghe nhỏ này đâu. Cũng khúc sông nầy, năm Giang mười tuổi, má Giang chết. Hôm đó trời mưa nhỏ nhưng gió nhiều, gió tạt tay chèo liêu xiêu, nước từ vàm sông cuồn cuộn đổ ra. Chiếc ghe bạt nước tấp vô xà lan chở cát. Ông Chín, ba Giang chống đằng mũi, má Giang chống đằng lái. Giang ngồi trong mui ghe, ôm con Thủy vào lòng. Giang thấy rõ ràng, lúc cây sào trong tay má đang chỏi vào thành xà lan trượt hướt lên, má ngã xuống, đầu má đập vào cái gờ sắt, đôi chân còn bíu vào ghe. Rồi má cong lại như chiếc võng, hụp vào sông. Giang khóc điếng, bồng con Thủy lồm cồm bò về đằng sau lái, Giang còn kịp nhìn thấy mái tóc má trôi xùm xoà phiêu phiêu trong làn nước, rồi mất hút". (Nhớ sông)
Cả một dĩ vãng đau thương gợi lại trong giọng kể quê mùa chất phác như tiếng than ơ hờ chẳng ra than, kể mà như khóc không thành tiếng. Sau khi ngưòi mẹ chết đuối, một thứ hạnh phúc bất diệt gắn bó ba cha con, vợ với chồng, người với đất, người với nước, người sống với người chết: "Sau nầy, khi vợ chết, không hoàn toàn vì miếng ăn mà cả nhà ông Chín trôi dạt hết dòng sông này đến con kinh kia. Ở đáy con sông nào đó, còn là nơi gởi gắm xương thịt của người đàn bà xấu số - má Giang" Ông Chín ở vậy nuôi con. Đơn thương loay hoay một mình, khi có "vấn đề", ông vẫn tiếp tục "vấn kế" vợ, hỏi vợ, bàn với vợ, tâm sự với vợ, xin lỗi vợ: "Tui biết tính sao bây giờ, bà ơi. Tui tính lầm một lần này rồi". "Bà đã thành nước, thành đất, thành cỏ thành cây, cha con tui ở đâu, xin bà theo đó."
Đời trong Nhớ sông là đời "thuở trước", con người còn nhân nghiã. Một giọng thủy chung. Người cha chung thủy với vợ, người con gái cả chung thủy với sông, nước; người con gái út chung thủy với đất, bờ. Nhớ sông toát ra một bầu không khí thủy chung như nhất trong tình đất tình người.
Thủy chung lại xuất hiện trong truyện "Cái nhìn khắc khoải", chung thủy trong tình bạn tri kỷ giữa con vịt Xiêm, tên Cộc, với ông lão chăn vịt:
" ... ông nói như chỉ nói với mình:
- Mai mốt mình đi nữa hen Cộc?
Con vịt cạp mắt cá chân ông, đi thì đi chớ gì.
- Mày đi hoài, mầy mệt không?
Nó há mỏm đốm đen cạp ngón cái chân ông, thì mệt chớ.
Tao đốn tràm, làm nhà lại, ở luôn nghen". (trích Cái nhìn khắc khoải trong tập Giao thừa).
Hai cô đơn đúc thành một khối: đối thoại câm giữa ông già và con Vịt Xịt Xiêm.
Ông già rước người phụ nữ bị phụ bạc ngồi khóc bên sông cho nàng quá giang, ông "thương" người đàn bà lỡ vận. Người miền Nam không dùng chữ Yêu mà dùng chữ Thương. Thương rộng hơn và sang hơn yêu: Thương gói ghém cả yêu lẫn thương. Yêu tỏ được nói được, diễn tả được. Thương không nói được, nhưng cảm được. Nếu nói ra, thương sẽ biến đi. Thương con, thương chồng, không nói. Nói ra là vô nghĩa. Ngọc Tư đã diễn tả được những âm thầm, nín lặng ấy, bằng cử chỉ, bằng hơi thở, bằng ánh mắt, bằng những điều không nói trong những truyện ngắn hay của chị. Ngọc Tư đã viết về những mảnh đời lam lũ chân thật với giọng đặc biệt miệt vườn của mình, đã đưa ra được những sâu lắng, những chân thật, những chung thủy, đơn chiếc, trong lòng người dân quê miền Nam, đôn hậu, và gắn bó với sông nước.
*

Trong Cánh đồng bất tận Nguyễn Ngọc Tư đã tìm một lối viết khác, như để đoạn tuyệt với lối cũ:
Chủ đề đã chuyển từ chung thuỷ sang ngoại tình, từ yêu thương sang tàn nhẫn, từ một xã hội nhân bản sang một xã hội dã man, hung bạo. Sự thay đổi chủ đề chứng tỏ Ngọc Tư can đảm, dám đi vào xã hội hiện tại, dám viết về bộ mặt tiêu cực của nó, và đó là lý do chính khiến cho truyện của chị bị kiểm thảo, bị lên án gắt gao, bởi Ngọc Tư là một ngòi bút Nam, gốc "ngụy".
Về mặt bút pháp, trong những trang đầu, chị đã bỏ giọng kể đặc biệt theo lối Nam, đây cũng là một cố gắng khác của chị, nhưng cố gắng này có đôi điều cần bàn lại, vì nó gây thương hại đến nghệ thuật của tác phẩm.
Tuy giọng kể là giọng người chị, nhưng đã chuyển sang một "ton neutre", vô sắc, vô cảm, không phải là giọng quê mùa của người con gái thất học từ bé đến lớn sống trên sông nước nữa:
"Con kinh nhỏ nằm vắt qua một cánh đồng rộng. Và khi chúng tôi quyết định dừng lại, mùa hạn hung hãn dường như cũng gom hết nắng đổ xuống nơi này. Những cây lúa chết non trên đồng, thân đã khô cong như tàn nhang chưa rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn. Cha tôi tháo cái khung tre chắn dưới sàn ghe, bầy vịt lúc nhúc chen ra, cuống quýt, nháo nhào quẫy ngụp xuống mặt nước váng phèn. Một lớp phèn mới, vàng sẫm quánh lại trên bộ lông của những con vịt đói, nhớp nháp bám lên vai Điền khi nó trầm mình bơi đi cặm cọc, giăng lưới rào bầy vịt lại. Tôi bưng cái cà ràng lên bờ, nhóm củi"
Một giọng "chuẩn", rất văn chương, mà lại là giọng tả cảnh "lối Bắc" của một người khá sành sỏi, có chất thành thị (nhiều chỗ dùng những từ thời thượng như trầm nghịch, ảo giác, miên viễn, hoang dã...). Nếu không có hai chữ cà ràng, thì không thể biết cảnh này ở đâu: giọng văn mới này đã xoá cái "không khí" sông lạch, miệt vườn. Nhưng cái "không khí" đó chính là cái mà Bakhtine gọi là Thời không gian (Chronotope) trong tiểu thuyết. Thời không gian trong tiểu thuyết của Flaubert là tỉnh lỵ; thời không gian trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh là Hà Nội, Yên Tử, thời Trần mạt. Thời không gian trong Cánh đồng bất tận là vùng lục tỉnh ngày nay. Khi Ngọc Tư biến giọng kể của một cô gái miệt vườn thành một giọng lơ lớ thành thị, lơ lớ Bắc, thì chị đã làm nhạt không khí truyện, khiến người đọc bị lạc. Một mất mát đáng tiếc, có thể tránh được.
Tại sao giọng kể của Ngọc Tư lại biến đổi? Vì chị muốn "Bắc hoá" giọng văn của mình chăng? Vì chị muốn dùng chữ cho "chuẩn" chăng? Nếu quả như vậy, thì sự "thống nhất ngôn ngữ" đang đi trong chiều đáng ngại: nó đẩy nhà văn đến chỗ chối bỏ bản ngã của mình. Trái ngược với thời điểm sau 1954, các nhà văn Bắc di cư vào Nam, ngoài giọng văn Bắc, họ còn tập viết đối thoại tiếng Nam và họ đã làm giầu thêm ngôn ngữ của họ: văn chương luôn luôn cộng vào, khi trừ là mất đi.
Nhưng oái oăm là với cái giọng mới này, Ngọc Tư chinh phục được nhiều độc giả Bắc, phần đông thích đọc giọng chuẩn hơn giọng miền, và đó là lý do khiến cho Cánh đồng bất tận trở thành tác phẩm được đọc, được mến mộ nhất trong năm qua.

Ngoài sự đổi giọng đáng trách ở những trang đầu, dần dần, Ngọc Tư tìm lại được không gian trăng nước cũ và Cánh đồng bất tận trở nên lôi cuốn hơn, xứng đáng được yêu chuộng, bởi đây là một tác phẩm hay. Trái ngưọc với Giao thừa, nhẹ nhàng viết về thời trước, Cánh đồng bất tận phũ phàng đi vào thực tại xã hội hôm nay, trình bày những nhân vật thui, chột, đui, mù cả thể xác lẫn tâm hồn, những con người đã bị những bi kịch trong quá khứ làm cho tê liệt, không còn khả năng yêu thương, xúc cảm.
Một người đàn bà làm điếm bị hành hung một cách dã man. Người đàn bà vượt thoát, chạy xuống chiếc ghe của ba cha con sống trên thuyền, làm nghề chăn vịt, đang đỗ trên bến. Sự tàn ác trong màn đầu thực ra chỉ để mở màn cho những bi kịch khác, sâu hơn, tiềm ẩn trong gia đình ba cha con: bi kịch của người đàn ông bị vợ phụ bạc, tìm cách trả thù tàn nhẫn trên những người đàn bà khác.
Đi vào bối cảnh đời sống xã hội hiện tại, Ngọc Tư dường như còn đang bỡ ngỡ: thảm kịch của người phụ nữ làm điếm bị "làng" xử: đổ keo dán sắt vào cửa mình hơi gượng ép, tựa như một thảm kịch thời phong kiến, khó tượng tượng ở thời nay (mặc dù có thể đã xẩy ra). Chính cái vụng về của tác giả đã làm cho người ta có cớ trù ép tác phẩm; nhưng một mặt nó lại gây háo hức trong lòng một quần chúng đọc đang cần một cái gì mạnh mẽ, một tác phẩm kịch liệt lên án xã hội, bởi những tác phẩm như thế đang quá hiếm trong văn học (được chính thức in ấn) ở Việt nam.
Cái hay của tác phẩm chìm lắng và thâm trầm hơn: Mầm chính của bi kịch là hận thù. Người cha trong truyện là một phóng ảnh của hận thù mù quáng, hận thù khôn nguôi, hận thù tàn phá hạnh phúc và lẽ sống của con người. Từ việc vợ bỏ nhà theo trai, ông xây dựng cuộc đời còn lại trên sự trả thù: ông tàn phá tất cả những người đàn bà khác đến sau người vợ. Đóng kín trong lãnh cảm, ông quay mặt với các con, không thèm biết tuổi thơ của chúng, biến chúng thành những chòi măng thui chột, bệnh hoạn.
Hai chị em bị bỏ bê, như thuyền không lái, rịt lấy nhau trong một thứ trực giác hoang dại: tự mày mò chống lại những yếu kém tinh thần, tự dạy dỗ nhau, tự bảo vệ nhau, tự trấn những dồn nén, đòi hỏi của cơ thể. Hai chị em như những đứa trẻ bị bỏ hoang trên bãi chiến trường nguyên thủy, chúng chơi với những hố bom già, em hỏi chị: "người ta thương mẹ ra làm sao?", chúng phải tưởng tượng ra tình yêu, chúng phải sáng tác ra da thịt, chúng thiếp đi trong những cơn mộng mị "nằm co quắp, hai tay kẹp giữa đùi".
Người đàm bà điếm, với sức sống mãnh liệt, với tấm lòng trắc ẩn sâu xa, là nhân tố duy nhất có thể đem lại cân bình cho cuộc sống ba cha con, nhưng chị đã thất bại: hận thù vẫn ngự trị trong trái tim khô héo của người cha, không cách gì tẩy được.
Qua phông nền ấy, con đò Ngọc Tư xuôi vào đời sống hiện tại mà những giá trị đạo đức đã bị đảo ngược, để khuấy lên bộ mặt chìm của một xã hội mà hận thù, sau hơn ba mươi năm chiến tranh chấm dứt, vẫn còn làm chủ; mà sự tàn nhẫn, không nhân nhượng trở thành nội dung cuộc sống hàng ngày, mà môi trường sa ngã trong dịch cúm, dịch tham nhũng; với những tâm hồn không thông cảm nhau, cha con đứt đoạn như những kẻ xa lạ, với những con người bán trôn nuôi miệng bị xã hội hành hung, với những hạnh phúc chưa kịp nẩy sinh đã bị tiêu diệt.

Thụy Khuê
Paris, tháng 11/2006
Phong cách truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư nhìn từ
phương diện quan niệm nghệ thuật về con người

Nguyễn Trọng Bình

Nếu hiểu một cách nôm na, quan niệm nghệ thuật về con người là “mô hình về con người”[1] trong cái nhìn chủ quan của nhà văn, thì qua truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư người đọc sẽ nhận ra một “mô hình” về con người rất độc đáo trong cái nhìn của riêng chị. “Mô hình” ấy vừa có sự kế thừa vừa có sự sáng tạo mang phong cách riêng của Nguyễn Ngọc Tư.
1. “Mô hình” con người hướng thiện – kiểu tư duy nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư
Cũng là sự nhìn nhận và khám phá con người từ phương diện con người cá nhân, con người với cuộc sống “đời thường” thế nhưng có một điểm rất riêng ở Nguyễn Ngọc Tư là trong truyện ngắn của chị không có những con người bịp bợm, cơ hội kiểu như Xuân Tóc Đỏ của Vũ Trọng Phụng; không có những con người “tha hóa” trở thành “quỹ dữ” như Chí Phèo của Nam Cao; không có những con người muôn mặt, thủ đoạn, gian xảo, “đốn mạt”, “không ra gì” kiểu như các nhân vật trong hàng loạt sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp ở thập niên 80 của thế kỷ XX; hay những con người với lối sống hưởng thụ, gấp gáp và đầy dục vọng… trong những trang viết của những nhà văn cùng thế hệ với chị như: Phong Điệp, Nguyễn Đình Tú, Đỗ Hoàng Diệu… Qua khảo sát truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi nhận thấy, ngoài nhân vật Út Vũ trong truyện ngắn Cánh đồng bất tận là nhân vật có biểu hiện của sự “tha hóa” (chúng tôi tạm gọi như thế), thì hầu hết các nhân vật còn lại đều là những con người chân chất, hiền lành, không mưu mô, không thủ đoạn... Có thể nói, một trong những điều làm người đọc có cảm tình với truyện của Nguyễn Ngọc Tư là vì chị đã tái hiện được những nét tính cách “Nam bộ rặt” trong khi xây dựng hình tượng con người. Nổi bật nhất là những con người chân chất với lối suy nghĩ (cũng có thể gọi là triết lý sống) đơn giản mà sâu sắc: “sống trên đời thấy phải thì làm”[2]. Bên cạnh đó, người đọc cũng bắt gặp trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư những con người luôn sống “thành thật với con tim”[3].
Và chúng tôi gọi đây là hai mặt cấu thành “mô hình” con người hướng thiện trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.
1.1 Con người sống trên đời “thấy phải thì làm” - mặt thứ nhất trong “mô hình” con người hướng thiện của Nguyễn Ngọc Tư
Về vấn đề này, qua tìm hiểu của chúng tôi, điểm nổi bật nhất trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là chị đã thành công trong việc xây dựng hình tượng những con người luôn sống hết mình vì người khác với một tấm lòng bao dung, độ lượng.
Trước hết, về vấn đề sống hết mình vì người khác, người đọc không khó để nhận ra điều này ở những truyện ngắn viết về đề tài tình yêu dang dở của Nguyễn Ngọc Tư. Hầu hết trong những truyện ngắn này, người đọc sẽ bắt gặp khi thì nhân vật nữ, khi thì nhân vật nam có cách ứng xử rất cao thượng, sẵn sàng hi sinh hạnh phúc bản thân mình để vun đắp cho tương lai và hạnh phúc của người mình yêu. Thật khó mà tìm thấy trong văn học Việt Nam hiện đại một người con trai hiền lành, chân chất, cao thượng và đầy nghĩa khí như anh chàng Phi trong truyện ngắn Lý con sáo sang sông. Yêu nhau rất mãnh liệt, thắm thiết nhưng vì hạnh phúc của người mình yêu Phi sẵn sàng vun vén hết lòng. Biết nhà mình nghèo khó có thể lo lắng cho người mình yêu một cuộc sống hạnh phúc nếu như hai người lấy nhau, anh đã chống xuồng đi tận xuống nhà chồng tương lai của người yêu để tìm hiểu xem gia cảnh lai lịch người đó như thế nào, sau đó về bảo người yêu mình “em lấy chồng đi”.
“Lần đó, bên chồng em qua hỏi, ba má em hẹn ba ngày trả lời. Trước đó, em đã từ chối bốn mối rồi. Một mình em chạy máy đi lòng vòng kiếm anh Phi. Cực khổ lắm. Kiếm được rồi hỏi ảnh tính sao? Ảnh kêu em về xong ảnh chạy tắt qua Rau Dừa, dò hỏi kĩ bên chồng em. Hỏi từ ông già, bà già cho tới đứa con nít, xong ảnh kêu em ra nói một câu: em lấy chồng đi!”.
Ngoài truyện ngắn trên, thì hàng loạt những truyện ngắn khác như: Cuối mùa nhan sắc (nhân vật ông Chín) Cái nhìn khắc khoải (nhân vật ông Hai), Bởi yêu thương (nhân vật Sáu Tâm), Hiu hiu gió bấc (nhân vật Hết), Giao thừa (nhân vật Quý), Bến đò xóm Miễu (nhân vật Lương), Duyên phận so le (nhân vật Xuyến)… cũng thể hiện rất rõ quan niệm trên của Nguyễn Ngọc Tư.
Trong cuộc sống, vì tình yêu người nọ hi sinh cho người kia suy cho cùng chỉ là cách ứng xử giữa cá nhân với cá nhân, ở truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư vấn đề sống hết mình vì người khác còn được thể hiện qua cách ứng xử giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng. Tiêu biểu cho vấn đề này là những truyện ngắn như: Qua cầu nhớ người, Ngọn đèn không tắt, Mối tình năm cũ, Ngày đã qua, Làm mẹ, Một dòng xuôi mải miết, Đau gì như thể, Lỡ mùa…
Trong Qua cầu nhớ người, Nguyễn Ngọc Tư đã xây dựng nhân vật Hai Nhớ rất đúng với bản chất của một anh “Hai lúa” Nam bộ. Hai Nhớ tuy sống ở thôn quê, nghèo khó, ít học nhưng rất trọng tình nghĩa; chung thủy “trước sau như một”, đã thương ai là “thương lấy thương được, lúc bỏ thì bỏ không đành”. Đặc biệt trong quan hệ với xóm làng, Hai Nhớ là một người “dám nghĩ dám làm”, lúc nào cũng sống hết mình vì người khác. Tuy bản thân học hành không tới đâu, cũng “không có tài năng nào đặc biệt” nhưng Hai Nhớ đã không ngại ngần “cầm cố hết đất, vườn” của mình để có tiền bắt cây cầu cho bà con trong xã Đội Đỏ đi lại dễ dàng.
“Mười tám tuổi, anh Hai đã nổi tiếng dám nghĩ dám làm. Quen chị Nhiễm biết chị thích tân cổ, anh đi đào đất mướn, sắm cái loa sắt mắc lên ngọn tràm bông vàng, chiều chiều mở casett cho Minh Vương, Lệ Thủy ca bài “Duyên kiếp” lồng lộng trời Đội Đỏ. Cưới nhau rồi, anh đổi hai chục giạ lúa lấy cây đàn để gảy từng tưng cho chị nghe chơi. Rồi anh đổi năm công ruộng để lấy chiếc máy suốt, đổi những ngày êm đềm bên người vợ trẻ để lang thang giữa đồng khơi, những mong cuộc sống sẽ khá lên…Lần này làm cầu, anh Hai biết mình sẽ phải hi sinh, sẽ phải đánh đổi nhiều thứ lắm. Anh về nhà thưa với má đừng buồn, anh sẽ đứng ra bắc cây cầu qua Đội Đỏ…”
Nếu ở Qua cầu nhớ người, sự hi sinh của một cá nhân mang lại lợi ích cho cộng đồng được giới hạn trong phạm vi hẹp là một xã, thì ở truyện Ngọn đèn không tắt hay Mối tình năm cũ… phạm vi được mở rộng ra cho cả dân tộc. Có thể thấy, trong Ngọn đèn không tắt đó là tấm lòng của từng con người qua từng thế hệ trong gia đình ông Hai Tương (Tư Lai, Tươi) dành cho những anh hùng liệt sĩ – những người đã ngã xuống vì độc lập tự do cho quê hương xứ sở. Công việc hàng năm đi kể chuyện lịch sử quê hương của gia đình ông Hai Tương là việc làm tuy nhỏ nhưng mang một ý nghĩa vô cùng lớn lao là: quyết giữ mãi ngọn lửa truyền thống đấu tranh giữ nước của cha ông; để “ngọn đèn” lịch sử của dân tộc, của cha ông cháy mãi, sáng mãi trong tâm hồn của thế hệ mai sau.
Như đã nói, quan niệm “làm người thấy phải thì làm” trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư không chỉ sống hết mình vì người khác mà còn rất bao dung và độ lượng.
Trước hết, với Nguyễn Ngọc Tư con người bao dung, độ lượng là phải biết trải rộng lòng mình ra để sống với những người quanh mình; sống và nhìn mọi người không chỉ bằng đôi mắt mà còn bằng tấm lòng nhân hậu và nhất là phải biết tha thứ cho những lỗi lầm của người khác. Nói như nhà văn Hữu Thỉnh là: “Thông điệp của Tư ở đây là con người sống phải biết khoan dung và tha thứ. Chỉ có lấy ân báo oán thì con người mới có thể nguôi ngoai được lòng thù hận và nỗi đau, nhờ đó, người sẽ người hơn, sẽ lớn lên. Ông bà mình đã dạy thế, và Tư đã chuyển tải thông điệp đó một cách tài tình, đau đớn”[4]. Tiêu biểu cho vấn đề này là hàng loạt các truyện ngắn như: Cỏ xanh, Nỗi buồn rất lạ, Làm má đâu có dễ, Làm mẹ, Một dòng xuôi mải miết, Chuyện của Điệp, Cải ơi, Giao thừa, Lương, Cuối mùa nhan sắc, Dòng nhớ, Một trái tim khô… và đặc biệt là ở Cánh đồng bất tận. Có thể thấy, mặc dù phải hứng chịu không biết bao nhiêu là nỗi nhọc nhằn, cay đắng thế nhưng qua những suy nghĩ của nhân vật Nương ở đoạn kết của Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư đã gởi đến tất cả mọi người một thông điệp làm người rất đáng để suy ngẫm, đó là: hãy yêu thương và tha thứ cho mọi người. Nguyễn Ngọc Tư viết: “Đứa con gái thoáng nghĩ, rớt nước mắt, trời ơi, có thể mình sẽ sinh con. Nhưng nó chấp nhận việc ấy, dù phũ phàng (với nó, chấp nhận cũng là một thói quen). Đứa bé đó, nhất định nó sẽ đặt tên là Thương, là Nhớ hay Dịu, Xuyến, Hương…Đứa bé không cha nhưng chắc chắn được đến trường, sẽ tươi tỉnh và vui vẻ sống đến hết đời, là trẻ con đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn.”
Một điểm độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư khi nói về tấm lòng bao dung, độ lượng của con người là hãy “buông” đi và đừng cố nắm giữ những gì không thuộc về mình, không phải của mình; phải biết “độ lượng” với chính mình để thanh thản hơn trong cuộc sống. Vấn đề này thể hiện rõ nhất là ở truyện Chuồn chuồn đạp nước và Sầu trên đỉnh Puvan.
Chuồn chuồn đạp nước kể về câu chuyện một người đàn ông (vốn là một nhà văn) trong một lần tư vấn cho đứa con gái tham gia một chương trình gameshow trên truyền hình nhưng lại tư vấn sai, sau đó đã tự dằn vặt mình một cách rất đau khổ và tức tối. Ông luôn cảm thấy xấu hổ và đau đớn mỗi khi nghĩ đến chuyện mọi người sẽ cười chê mình vì lẽ, là một nhà văn, học rộng hiểu nhiều nhưng lại không biết “chuồn chuồn đạp nước” có ý nghĩa gì. Người đàn ông trong câu chuyện rõ ràng không biết tha thứ cho bản thân mình; nếu như ông hiểu rằng trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ mà sự hiểu biết của con người là có giới hạn thì chắc chắn ông sẽ không đau khổ, dằn vặt và tức tối đến như vậy.
1.2 Con người sống “thành thật với con tim” – mặt thứ hai trong “mô hình” con người hướng thiện của Nguyễn Ngọc Tư
Sống “thành thật với con tim” trước hết, theo Nguyễn Ngọc Tư đó là con người ý thức rõ địa vị và thân phận của mình trong đời sống xã hội. Đây là sự kế thừa của Nguyễn Ngọc Tư về quan niệm con người tự nhận thức từ các nhà văn trước đó. Tuy nhiên, trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư con người tự nhận thức thường sống với tâm lý nhẫn nhịn và ít khi phản kháng. Trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, phần nhiều là hình ảnh những người nông dân sống ở nông thôn hay những người “nghệ sĩ” đã “cuối mùa nhan sắc” sống “rày đây mai đó” trong những gánh hát cải lương rất đặc trưng ở miền quê sông nước Nam bộ… Nhìn chung, những con người này nói về trình độ học vấn thì thấp, tuy nhiên nói về “trình độ” và quan hệ cư xử giữa người với người hay nói khác đi là cách “đối nhân xử thế” trong cuộc đời thì không thấp chút nào. Có thể nói, họ sống nhẫn nhịn và ít khi phản kháng là để mong một cuộc sống êm ấm, để không làm tổn thương người khác đồng thời cũng là cách để tâm hồn được thanh thản, tránh xa những ghanh đua, đố kỵ. Và đó cũng là cách để con người hướng về những điều thiện.
Ý thức được địa vị và thân phận mình nên những người nông dân như ông Ba Già (truyện ngắn Lỡ mùa) chỉ biết nhẫn nhịn và phản kháng một cách nhẹ nhàng chủ trương (dù là bất hợp lý) của địa phương đối với vùng đất Trảng Cò quê ông.
“Trảng Cò buồn như bị bỏ rơi, nghe nói, nhà nước đã chuyển quy hoạch sang Trảng Sáo rồi, lại thêm thay đổi nhiều lãnh đạo chủ chốt, xem ra người cũ chuyển đi chỗ khác, chắc quên mất tiêu luôn. Đâu đó ở Trảng Cò, người ta tự ý cày đất, đắp bờ. Ông Ba Già cự quá trời, ông nói làm vậy còn gì là phép tắc của nhà nước, của Đảng? Phải lên tỉnh một chuyến nữa mới được, để hỏi coi nhà nước mình có làm du lịch nữa không, nếu không, xin rút quyết định lại để cho bà con canh tác” (…).
Tương tư vậy, ý thức được thân phận mình nên hai chị em Điền và Nương trong Cánh đồng bất tận; cô bé Mỹ Ái trong Gió lẻ… đã nhẫn nhịn đến mức cam chịu để rồi phải nhận lấy không biết bao nhiêu những tủi hổ đắng cay. Sự nhẫn nhịn của những nhân vật trên xét đến cùng xuất phát từ suy nghĩ thà chấp nhận riêng mình đau khổ còn hơn là phản kháng để rồi làm tổn thương người khác. Chúng tôi cho đây là một trong những lối suy nghĩ độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư về cách đối nhân xử thế của con người; là đặc điểm quan trọng góp phần làm cho quan niệm con người hướng thiện của chị thêm phần sâu sắc và nhân văn hơn. Đây có thể xem là một trong những nét phong cách riêng góp phần tạo nên sức hấp dẫn và lôi cuốn độc giả đến với tác phẩm của chị trong thời gian qua.
Bên cạnh việc ý thức rõ địa vị và thân phận để sống “thành thật với con tim” thì con người trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư bao giờ cũng sống thành thật với chính mình và với mọi người. Người đọc thấy rất rõ vấn đề này ngay từ tập truyện đầu tay là Ngọn đèn không tắt cho đến tập truyện mới nhất (tính đến thời điểm này) là Gió lẻ và 9 câu chuyện khác. Đây là một kiểu tư duy nghệ thuật đặc trưng mang “thương hiệu” Nguyễn Ngọc Tư. Đặc trưng là vì nó khác với kiểu tư duy nghệ thuật về con người với những biểu hiện như: con người diễn trò và giả danh; con người cơ hội, bịp bợm; con người bị tha hóa… trong các sáng tác của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao… trước 1945; hay con người muôn mặt, thủ đoạn, thực dụng và toan tính chuyện lọc lừa… trong các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp sau này. Chúng ta sẽ thấy rõ hơn vấn đề này trong cái nhìn đối chiếu với cách thể hiện và miêu tả con người trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp - nhà văn vốn cũng có phong cách rất độc đáo trong quan niệm nghệ thuật về con người, đồng thời cũng có một khoảng cách thời đại khá gần với Nguyễn Ngọc Tư.
Có thể thấy “mô hình” về con người của Nguyễn Huy Thiệp trước hết cũng là con người cá nhân rất có ý thức về địa vị và thân phận của mình trong xã hội. Thế nhưng, điểm nổi bật và dễ thấy nhất trong “mô hình” về con người của Nguyễn Huy Thiệp là con người bản năng, lúc nào cũng hoài nghi tất cả những vấn đề trong cuộc sống kể cả hoài nghi chính bản thân mình. Con người bản năng - hoài nghi trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thậm chí có lúc còn ngờ vực và xổ toẹt cả những chuyện mà lâu nay người đời cho là thiêng liêng và cao quý. Chính quan niệm này đã chi phối cách xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp. Đọc truyện ngắn của ông người đọc sẽ bắt gặp hàng loạt những con người mà nói như giáo sư Hoàng Ngọc Hiến là “nhếch nhác, đốn mạc, hèn kém”…Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp vì thế, có khi cũng chính là “thế giới của ác quỷ, trong bản chất của ác quỷ không thể có chút gì là tốt lành”[5]; nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp tuy cũng là những con người lao động bình thường nhưng lại hay phá phách, chửi bới, văng tục; trong mối quan hệ và cư xử với người khác thì tính toán, so đo, vụ lợi… Vì thế, “trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, ta thấy đủ cả tâm lý chán chường, sự chối bỏ không thương tiếc mọi quá khứ và tâm lý phá phách, hạ bệ tất cả mọi thần tượng bấy lâu nay ngự trị trong trái tim con người. Ngòi bút của anh Thiệp đưa con người về điểm xuất phát của nó, con người hạ đẳng, con người nguyên thủy cùng với tiềm thức và bản ngã vốn có do trời sinh ra, những con người trần trụi lõa thể trong tư duy cũng như trong hình hài”[6].
Trong truyện ngắn Không vua của Nguyễn Huy Thiệp, nhân vật Đoài và Khảm là hai nhân vật tập trung tất cả sự “hèn kém, đốn mạc” và gian xảo của loại người làm việc gì cũng chỉ với suy nghĩ và mục đích vụ lợi cho mình mà bất chấp tất cả đạo lý. Đoài là người làm việc ở Bộ giáo dục, còn Khảm là sinh viên ở trường đại học, cả hai đều là những trí thức, thế nhưng những suy nghĩ và việc làm của họ chẳng khác gì những kẻ lưu manh:
“Khảm bảo:“Hai anh em mình mang tiếng là có học mà tết nhất đến, một bộ quần áo hẳn hoi cũng không có”. Đoài bảo: “Chỉ có con đường lấy vợ giàu thôi. Tối nay mày đưa tao đến nhà con ông Ánh sáng ban ngày đấy nhé.” Khảm bảo: “Được thôi. Nếu anh tán được thưởng em cái gì?”. Đoài bảo: “Thưởng cái đồng hồ”. Khảm bảo: “Được rồi. Anh ghi cho em mấy chữ làm bằng”. Đoài hỏi: “Không tin tao à?” Khảm bảo: “Không”. Đoài ghi vào giấy: “Ngủ được với Mỹ Trinh, thưởng một đồng hồ trị giá ba nghìn đồng. Lấy Mỹ Trinh, thưởng 5% của hồi môn. Ngày… tháng… năm…Nguyễn Sĩ Đoài.” Khảm cười cất mảnh giấy vào túi rồi nói: “Cảm ơn”.”
Không giống như con người trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, con người trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư luôn thành thật với bản thân mình và với mọi người. Nếu như Đoài và Khảm trong truyện ngắn Không có vua của Nguyễn Huy Thiệp trong cuộc sống lúc nào cũng toan tính và vụ lợi thì nhân vật Diệp và thầy Nhiên trong Nước chảy mây trôi của Nguyễn Ngọc Tư hoàn toàn ngược lại. Cũng là những trí thức, cũng sống trong trong điều kiện khó khăn, thế nhưng Diệp – cô sinh viên sư phạm vừa tốt nghiệp ra trường và thầy Nhiên (vốn là một giáo viên vì người mình yêu mà bị sa thải một cách vô lý) vẫn giữ được cốt cách và lòng tự trọng của một con người sống nghèo nhưng không hèn. Vì không muốn thầy Nhiên – vừa là thầy vừa là chồng sau của mẹ bị “vẩn đục”, Diệp đã quyết định cùng thầy Nhiên ôm mớ khô cá sặc rằn trở về nhà dù rằng lúc ấy hai người đang ở cách nhà thầy Vẹn một bờ rào cùng với dự định nhờ thầy Vẹn phân công một chỗ dạy thuận lợi cho Diệp (thầy Vẹn là bạn cũ của thầy Nhiên đang làm Phó giám đốc Sở giáo dục).
“Diệp biết thầy Nhiên đang nghĩ lung lắm, nhưng nó không nói gì, nó chỉ lẳng lặng ngồi nhìn mớ tóc cứng như rễ tre đã chớm bạc trên đầu thầy…” “Thầy hỏi, hay là hai cậu cháu mình chạy qua gặp thầy Vẹn một chút. Diệp lắc đầu, thôi cậu. Diệp không đành lòng cùng thầy cầm gói khô bước qua cửa nhà thầy Vẹn. Muốn hay không khi quay trở lại, trong lòng Diệp sẽ không tròn vẹn như bây giờ. Mất mát đó có thể rất mỏng manh, nhẹ như hơi thở, có thể chỉ là cảm giác vậy thôi. Thầy trông sẽ hèn hèn đi một chút, ngượng ngập một chút, vẩn đục một chút. Diệp muốn giữ vẹn trong lòng mình một hình ảnh đẹp, một người đàn ông lúc nào cũng đầm ấm, đỉnh đạc, thư thái, đầy khí phách và thành thật với con tim.”
Từ những quan niệm về con người như vậy nên có thể nói, nếu như trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, ông thường tái hiện “quá trình” hư hỏng của con người bằng sự giả dối cùng những mưu mô, thủ đoạn để lừa lọc người khác, thì ngược lại, trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, chị thường tái hiện “quá trình” con người phải hứng chịu những hậu quả từ sự giả dối, lừa lọc do kẻ khác gây ra.
Một vấn đề nữa, nếu quan sát kỹ, chúng ta thấy quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Huy Thiệp là sự nối tiếp và phát triển một cách vừa tổng hợp vừa cụ thể quan niệm con người phức hợp của các nhà văn theo khuynh hướng hiện thực phê phán trước 1945 như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao… Đây cũng là một điểm độc đáo của Nguyễn Huy Thiệp. Nhân vật Đoài trong truyện ngắn Không có vua là một ví dụ tiêu biểu và sinh động cho vấn đề này.
Đoài vốn là một trí thức, công tác ở Bộ Giáo dục nhưng chẳng khác gì một gã lưu manh. Đây phải chăng là sự tiếp nối và phát triển của Nguyễn Huy Thiệp về quan niệm “con người giả danh và diễn trò” trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan. Hình ảnh những người con trong Báo hiếu trả nghĩa cha, Báo hiếu trả nghĩa mẹ… của Nguyễn Công Hoan chính là những “con người giả danh và diễn trò”. Qua những tác phẩm này, Nguyễn Công Hoan muốn vạch trần bọn người vốn là những đứa con đại bất hiếu nhưng lại khoát lên mình tấm áo đạo đức nhằm che mắt thế gian. Tương tự như vậy, Đoài trong Không có vua là hạng người“lưu manh giả danh trí thức, quỷ đội lốt người” mà Nguyễn Huy Thiệp muốn lột trần và phơi bày ra trước bàn dân thiên hạ.
“Đoài nằm trong giường nói vọng ra: “Ở đâu không biết chứ ở nhà này “lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống” là chuyện thường tình”. Lão Kiền chửi: “Mẹ cha mày, mày ăn nói với bố thế à”? Tao không hiểu thế nào người ta lại cho mày làm việc ở Bộ Giáo dục?”. Đoài cười: “Họ xét lý lịch, họ thấy nhà mình truyền thống ba đời trong sạch như gương”.
Và Đoài là một con người sống thực dụng, thủ đoạn, đó là sự tiếp nối và phát triển quan niệm “con người bịp bợm, cơ hội” của Vũ Trọng Phụng trong Số đỏ, Giông tố…
“Cấn bảo“Anh Đoài vào lễ đi”. Đoài đang chặt thịt gà, tay đầy mỡ, cứ để thế không rửa tay, chạy lại bàn thờ vái lia lịa. Đoài bảo:“Lạy mẹ, mẹ phù hộ cho con đi học nước ngoài, kiếm cái xe Cub”. Ông Vỹ cười: “Cháu đi nước ngoài nào?”. Đoài bảo: “Cái đấy còn phụ thuộc cái ông để ria mép, mặc áo ca rô kia kìa”. Anh Minh nghe thấy bảo: “Đi hay không sao lại phụ thuộc vào tôi”. Đoài bảo: “Gì thì gì, anh là sếp trực tiếp, anh quay lưng lại là em rồi đời”.
Cuối cùng, Đoài là một con người suy đồi, đó là sự tiếp nối và phát triển quan niệm “con người tha hóa, biến chất” của Nam Cao trong Chí Phèo, Đôi móng giò, Trẻ con không được ăn thịt chó, Đòn chồng...
“Đoài hỏi: “Sinh biết nhà này tương lai thuộc về ai không? Sinh bảo:“Không”. Đoài cười:“Về tôi”. Sinh hỏi:“Sao thế?”. Đoài bảo:“Bố già bố chết. Thằng Khiêm trước sau cũng vào tù. Thằng Khảm ra trường không đi Tây Bắc cũng đi Tây Nguyên. Thằng Tốn không nói làm gì, vô tích sự”. Sinh hỏi:“Thế còn anh Cấn?”. Đoài bảo: “Phụ thuộc vào Sinh. Nếu Sinh yêu tôi, tôi sẽ gây sự tống cổ ổng ra đường”. Sinh bảo: “Dễ thế?” Đoài bảo: “Sinh còn quyến luyến cái gì? Lão Cấn vừa ngu, vừa hèn, lại yếu, bác sĩ bảo bị lãnh tinh, lấy Sinh hai năm mà có con cái gì đâu”. Sinh ngồi yên, nồi bánh chưng sôi sùng sục. Đoài bảo: “Tối nay tôi vào buồng Sinh nhé!”.
Ngoài nhân vật Đoài, chúng ta còn thấy hàng loạt những nhân vật khác như: Thủy (Tướng về hưu), Phạm Ngọc Phong (Giọt máu), Bường (Những người thợ xẻ), Diệu (Cún)… thể hiện rất rõ quan niệm trên của Nguyễn Huy Thiệp.
Trong cái nhìn so sánh tương tự, chúng ta thấy quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Ngọc Tư cũng chính là sự nối tiếp và phát triển một cách vừa tổng hợp vừa cụ thể quan niệm con người phức hợp với những biểu hiện như: “con người đạo nghĩa” trong các sáng tác của Hồ Biểu Chánh những năm đầu thế kỷ XX; “con người phẩm hạnh” trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố (nhân vật chị Dậu); “con người nghèo mà không hèn” trong Lão Hạc, Dì Hảo của Nam Cao… Hàng loạt những nhân vật như ông Hai (Cái nhìn khắc khoải), ông Chín (Cuối mùa nhan sắc), Lương (Bến đò xóm miễu), Nương (Cánh đồng bất tận), Mỹ Ái (Gió lẻ)… đã thể hiện rất rõ vấn đề này.
Từ những phân tích trên, có thể thấy trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, con người sống thành thật với chính mình và với mọi người là một thước đo quan trọng để khẳng định sự hướng thiện của họ. Chính vì thế, đọc truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, người đọc hiếm khi bắt gặp những con người mưu mô, xảo quyệt; tha hóa, biến chất; những con người vụ lợi và toan tính hại người như trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp. Nếu như con người trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp làm chuyện gì cũng chỉ với suy nghĩ và mục đích có lợi hay không có lợi cho bản thân mình thì con người trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư làm chuyện gì cũng đắn đo suy nghĩ và cân nhắc xem chuyện ấy là tốt hay xấu, là đúng hay sai, có gây tổn hại đến người khác hay không để từ đó quyết định nên làm hay không nên làm. Đây chính là những biểu hiện của một “cái nhìn”, một cách “lí giải” về con người – một kiểu tư duy nghệ thuật độc đáo của hai nhà văn trong sự kế thừa và phát triển từ những thế hệ đi trước. Nói khác đi, đây chính là phong cách riêng của Nguyễn Huy Thiệp và Nguyễn Ngọc Tư ở bình diện quan niệm nghệ thuật về con người.
2. Thay lời kết
Có thể nói, kế thừa truyền thống về quan niệm nghệ thuật về con người của các thế hệ đi trước, bằng sự trải nghiệm và sự sáng tạo của bản thân, Nguyễn Ngọc Tư đã đưa ra một “cái nhìn”, một cách “lí giải” về con người rất mới mẻ và độc đáo, đem đến cho người đọc một sự thích thú và ngày một yêu mến truyện ngắn của chị hơn. Đây chính là dấu ấn riêng góp phần làm nên phong cách truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Có thể hình dung quan niệm nghệ thuật về con người hay nói khác đi đó là “mô hình về con người” – một kiểu tư duy nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư qua sơ đồ sau:



-----------------------------------------------
MỘT SỐ TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

1. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi - Từ điển thuật ngữ văn học. Nhà xuất bản Giáo dục, 2007
2. Trần Đình Sử - Một số vấn đề về thi pháp học hiện đại. Bộ Giáo dục và đào tạo, Vụ giáo viên, 1993
3. Trần Đình Sử - Giáo trình dẫn luận thi pháp học. Bộ Giáo dục và đào tạo, Đại học Huế, 2001
4. Lê Ngọc Trà - Lý luận và văn học. Nhà xuất bản Trẻ, 2005
5. Nhiều tác giả - Lý luận văn học. Nhà xuất bản Giáo dục, 1986
6. Website http://www.viet-studies.info/NNTu/ (chuyên trang về Nguyễn Ngọc Tư do Trần Hữu Dũng thiết kế và quản lý).
______________________________



________________________________________
[1] Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) – Từ điển thuật ngữ văn học. Nxb Giáo dục, 1992
[2] Chữ dùng trong truyện ngắn Chuyện của Điệp của Nguyễn Ngọc Tư
[3] Chữ dùng trong truyện ngắn Nước chảy mây trôi của Nguyễn Ngọc Tư
[4] Website http://www.viet-studies.info/NNTu/ (chuyên trang về Nguyễn Ngọc Tư do Trần Hữu Dũng thiết kế và quản lý).
[5] Hoàng Ngọc Hiến – Văn học gần và xa. Nxb Giáo dục, 2009
[6] Mai Ngữ - Cái tâm và cái tài của người viết (in trong Nguyễn Huy Thiệp, tác phẩm và dư luận). Nxb Trẻ, 1989
Giọng điệu chủ yếu trong truyện ngắn
của Nguyễn Ngọc Tư

Nguyễn Trọng Bình


Giọng điệu là một yếu tố quan trọng trong việc xác định phong cách của một tác giả. Một nhà văn muốn có phong cách riêng nhất thiết phải có một “giọng điệu” riêng. Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” [1] thì“Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của tác giả, có vai trò rất lớn tạo nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc.” Giáo sư Trần Đình Sử trong “Một số vấn đề về thi pháp học hiện đại” [2] cũng cho rằng: “Phân tích tác phẩm mà bỏ qua giọng điệu tức là tước đi cái phần quan trọng tạo nên bản sắc độc đáo của nhà văn”.
Qua khảo sát truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi nhận thấy nếu xem giọng điệu như một yếu tố nhằm thể hiện nội dung và chủ đề của tác phẩm thì giọng điệu chủ yếu trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là giọng buồn nhưng không chán chường, ủ dột. Còn như xem giọng điệu từ góc nhìn nhằm thể hiện thái độ, quan điểm của tác giả trong quá trình trần thuật, thì giọng điệu chủ yếu trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là giọng điềm nhiên, trầm tĩnh. Tất cả những vấn đề này, ở góc độ nào đó chính là những nét riêng, độc đáo góp phần tạo nên phong cách của Nguyễn Ngọc Tư ở thể loại truyện ngắn.

1. Giọng buồn nhưng không chán chường

Có thể nói, ngay từ tập truyện đầu tay là Ngọn đèn không tắt, người đọc đã nhận ra cái giọng buồn này của chị. Chị buồn cho ông Hai Tương (Ngọn đèn không tắt) – ông già năm nào cũng đi kể chuyện lịch sử địa phương vì sợ thế hệ sau này không còn ai nhớ về các anh hùng đã ngã xuống vì quê hương xứ sở nhưng khi ông mất chẳng người nào nhớ; đồng thời chị cũng buồn vì sự hời hợt của những người “có trách nhiệm” về việc làm qua loa và hình thức của họ nhân dịp kỷ niệm ngày khởi nghĩa hàng năm của xã nhà:
“Người ta gởi tới nhà Tư Lai một lá thơ. Thơ đề “kính gởi ông Hai Tương”. Cả nhà bối rối không ít. Ông Hai Tương đã ra người thiên cổ lâu rồi, thấy có người nhắc lại chồng, bà cụ Hai Tương nhớ quá, ứa nước mắt. Khui lá thơ ra thì ra là thơ mời nói chuyện khởi nghĩa.”
Hay trong Nỗi buồn rất lạ người đọc cũng bắt gặp cái giọng buồn tênh của Nguyễn Ngọc Tư khi phải chứng kiến lối sống hờ hửng, “dửng dưng và tạnh quẽ với cuộc đời”… của lớp thanh niên trai trẻ trước những bất trắc của người khác:
“Thôi buồn quá. Tôi thấy mình thà chết còn sướng hơn, chứ còn trai trẻ mà sống làm chi dửng dưng, tạnh quẽ với cuộc đời như thế này.”
Có thể thấy, xuyên suốt tập truyện này là giọng buồn “mênh mang, sâu rứt” như vậy. Và càng về sau cái giọng buồn “mênh mang, sâu rứt” ấy càng lan tỏa khắp các tập truyện khác của chị. Buồn vì cái nghèo vẫn không chịu buông tha những người nông dân quanh năm “bán mặt cho đất bán lưng cho trời” trên những cánh đồng bất tận:
“Suốt những tháng năm sống tù đọng trên đồng, tôi có biết ai ngoài những người đàn ông quê mùa cũ kỹ. Tôi biết lấy ai trong số đó? Lấy một người cắm mặt xuống đất, mệt nhừ với vườn ruộng để mỗi khi giáp hạt, tôi nghe tiếng cạo cơm cháy của con, tiếng muổng dừa vét gạo dưới đáy thạp mà rát bỏng trong lòng? Hay tôi sẽ chọn một người chăn vịt, mê mỏi với những chuyến đi xa, sống cuộc sống hờ hửng tạm bợ, thấp thởm với rủi ro…?” (Cánh đồng bất tận)
Và buồn vì những mặt trái của đô thị hóa nông thôn làm nảy sinh nhiều vấn nạn tiêu cực:
“Mùa nắng quay trở lại, ngã ba Sương mọc thêm chừng chục quán nhậu nữa, muốn hay không cánh công an phòng chống tệ nạn xã hội cũng phải để ý cái chòm lu bu nầy. Phía báo đài đang dòm ngó. Một bữa, họ ập vào, quay phim chụp hình búa la xua. Đám tiếp viên che mặt, ôm đầu, chỉ có Diễm Thương là điềm nhiên trơ mắt ngó” (Cải ơi)
Như vậy, buồn trước hết chính là giọng điệu, là âm hưởng chung chi phối cả hệ thống truyện ngắn của chị góp phần làm nên một “cái nhìn khắc khoải” về thân phận con người, về những nỗi đau, những dâu bể trong cuộc đời người dân thôn quê vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, nếu quan sát kỹ chúng ta sẽ thấy buồn “mênh mang sâu rứt” chỉ là một khía cạnh trong cái âm hưởng và giọng điệu chung của toàn bộ hệ thống truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta thấy con người tuy phải hứng chịu nhiều bất hạnh, oan trái nhưng trong từng lời nói và trong sâu thẳm suy nghĩ của họ vẫn luôn ánh lên một niềm tin: những khó khăn, vất vả cùng những đau khổ nhất định rồi sẽ qua đi. Người đọc không khó để nhận ra âm hưởng này trong rất nhiều truyện như: Ngày đã qua, Ngổn ngang, Cải ơi, Cuối mùa nhan sắc, Làm má đâu có dễ, Biển người mênh mông, Đau gì như thể, Bến đò xóm Miễu, Thương quá rau răm, Nhà cổ, Một dòng xuôi mải miết, Cánh đồng bất tận… Nói cách khác, một cách đầy đủ hơn, giọng điệu trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư tuy là buồn nhưng không chán chường. Vấn đề này nói như Trần Hữu Dũng là: “Giọng buồn của Nguyễn Ngọc Tư không là tiếng than vãn thì thầm của một người lớn tuổi, nhưng là một lời thốt, lửng lơ, đứt ngang nhưng rất đủ của một người trẻ bỗng nhiên phát giác bất hạnh của cuộc đời, mà vẫn hi vọng”. Xin đơn cử ra đây vài trường hợp tiêu biểu như sau:
Biển người mênh mông là truyện nói về ông Sáu Đèo phải ngược xuôi tìm vợ suốt bốn mươi năm trải qua không biết bao nhiêu là cơ cực khó khăn. Trên hành trình ấy ông tình cờ gặp được Phi – một anh thanh niên sống rất có tình nghĩa và họ xem nhau như những người tri âm, tri kỷ. Có thể thấy, âm hưởng và giọng điệu chung trong truyện ngắn này là nỗi buồn của hai con người một già một trẻ tình cờ gặp nhau giữa “biển người mênh mông”. Cuộc đời của họ nhìn chung đều trải qua những niềm đau nên trong lòng cả hai đều chất chứa trong lòng những nỗi niềm và kỷ niệm riêng mà hai người đã lâu lắm rồi mới có dịp chia sẻ với người khác. Tuy rất buồn nhưng qua cách nói năng, giao tiếp của họ người đọc cảm nhận được một sự tin yêu cuộc sống và con người. Đây là lời của ông già Sáu Đèo tâm sự với Phi qua lời kể của Nguyễn Ngọc Tư:
“Ông biểu, “Sống một mình thì buồn lắm, chú em nên nuôi con gì đó, con… vợ thì tốt nhất, nếu chưa tính chuyện đó thì nuôi chó, mèo, chim chóc. Đừng nuôi sáo, nuôi sáo kết cuộc rồi cũng chia ly hà, nó hay sổ lồng, chết yểu. Kiếm thứ dân dã mà nuôi, để nhớ quê, nhớ gốc rễ mình, để đi đâu cũng muốn về nhà. Như qua, phò con bìm bịp này như phò bà già vợ vậy mà vui” .
Hay: “Ông Sáu cười,“Cha để coi, chỗ nào chưa đi thì đi, còn sống là còn tìm. Qua nhờ chú em một chuyện, chú em nuôi dùm qua con quỷ sứ nầy. Qua yếu rồi, sợ có lúc giữa đường lăn ra chết, để con “trời vật” nầy lại không ai lo. Qua tin tưởng chú em nhiều, đừng phụ lòng qua nghe” .
Có thể nói, trước những dâu bể thăng trầm của cuộc đời, con người không thể không buồn nhưng quan trọng hơn trước những dâu bể thăng trầm ấy, con người ta biết chấp nhận nó để có thể sống tốt hơn, để hiểu mình và hiểu đời hơn… Giọng buồn nhưng không chán chường trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư đã góp phần thể hiện cái nhìn của tác giả về những con người luôn hiểu và ý thức được vị trí và thân phận mình trong cuộc đời. Những truyện ngắn như: Ngày đã qua, Ngày đùa, Cánh đồng bất tận, Gió lẻ, Núi lở, Sầu trên đỉnh Puvan… là những trường hợp tiêu biểu cho vấn đề này.
Tóm lại, trong cái nhìn về hiện thực cuộc sống, Nguyễn Ngọc Tư thường hướng cái nhìn xót xa và thông cảm đến những phận người không may trong cuộc đời. Điều này đã tạo nên một giọng buồn trong truyện ngắn của chị. Tuy vậy, Nguyễn Ngọc Tư không chỉ xót xa và thông cảm, chị còn tin yêu và luôn mong mỏi cho những phận người không may ấy có được cuộc sống hạnh phúc dù là những hạnh phúc bình dị và nhỏ nhoi nhất để bù đắp cho sự độ lượng, vị tha và nghĩa khí của họ trong cuộc sống. Đây cũng chính là cái nhìn mang đầy tính nhân văn của nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư.

2. Giọng điềm nhiên, trầm tĩnh

Trước hết, có thể thấy giọng điềm nhiên, trầm tĩnh trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư được thể hiện qua nhịp điệu kể chuyện rất từ tốn, chậm rải của nhân vật người kể chuyện. Mở đầu truyện ngắn Cải ơi, người đọc bắt gặp nhịp kể chậm rải, từ tốn của người kể dù đang thuật lại tình cảnh khó khăn bi đát của các nhân vật – một nhịp kể thể hiện sự tỉnh táo và điềm nhiên của tác giả trong quá trình phản ánh sự khốn khó của con người trong cuộc sống:
“Đoàn ca múa nhạc giải tán, thằng Quách Phú Thàn dẫn ông già Năm Nhỏ về ngã ba Sương, Thàn có nhỏ bồ quen bán quán ở đó. Con nhỏ tên Diễm Thương, nghe hay, mà khuôn mặt cũng hay, không đẹp nhưng bình thản lạnh trơ, vui buồn không ra, đố ai biết nó nghĩ gì. Nó hất mái tóc nhuộm vàng hoe chơm chởm như rễ tre, nhìn hai người cười héo hắt. “Ăn bám mà kéo theo cả bầy”. Thàn cười hề hề, bảo “Ông Năm, bạn anh. Dễ thương lắm.” (Cải ơi)
Tương tự vậy, trong Gió lẻ, người đọc lại bắt gặp sự chậm rải và từ tốn quen thuộc của người kể thuật lại cái chết của mẹ nhân vật Mỹ Ái:
“Hồi sáu tuổi, có lần em lén lấy dao cạo râu của cha để tỉa lông cho con chó Lu Lu, không ngờ vì chuyện đó mà cha mẹ cãi nhau, cha chỉ vào em, hỏi mẹ, từng từ khít như máu rỉ qua kẻ răng, “cô lấy thằng nào mà đẻ ra cái thứ này?”. Mẹ em không trả lời, lẳng lặng vào phòng, khóa cửa trong. Ba giờ sau cha tìm thấy mẹ treo mình đung đưa trên xà nhà. Lưỡi trả lại cho cuộc đời, bởi người ta không chấp nhận sự vô dụng của nó, nói mà chẳng ai nghe.
Một điểm quan trọng nữa giúp nhận ra giọng điệu điềm nhiên, trầm tĩnh của Nguyễn Ngọc Tư là lối kể chuyện bình thản, “có sao nói vậy người ơi” có phần dửng dưng của chị. Những lúc như vậy, người đọc bắt gặp nhân vật người kể chuyện có khi đứng ngoài xưng “tôi”, có khi nhập vào nhân vật chính để kể lại những sự việc xảy ra một cách rất thản nhiên đôi khi có phần dửng dưng, lạnh lùng nhưng thực chất trong lòng rất đau đớn, xót xa,... Trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư vấn đề này thể hiện rõ nhất là ở những câu văn mà tác giả cố tình (để cho nhân vật kể chuyện trong quá trình trần thuật) mở ngoặt đơn để “giải thích”, “chú thích” thêm một vấn đề gì đó. Hoặc không thì “nói thêm vào”, “nói cho rõ hơn” trong lúc trần thuật. Ví dụ như:
- “Diễm Thương biết có chạy qua không hay là bận khách, bận cười cợt (mà lòng não nề) biểu uống với em chút nữa đi anh”. (Cải ơi)
- “Quẹo qua quẹo lai, nói đất nói trời (chỉ thiếu nói lời thương yêu), cuối cùng hai đứa ra bãi đào khoai”. (Thương quá rau răm)
- “Hậu chỉ biết tê tái hỏi một câu, “sao anh đành đoạn giết em?”, (trời đất ơi, chắc là hết chuyện nói rồi.)” (Một trái tim khô)
- “Đáng lẽ phải nói như vầy, em thấy yêu mến, gắn bó mảnh đất này quá đi, anh à (nói theo kiểu thanh niên tình nguyện trả lời phỏng vấn trên truyền hình)”. (Duyên phận so le)

Chúng tôi thử làm một thống kê nhỏ về những “dấu ngoặt đơn” trong ngôn ngữ trần thuật ở tập truyện Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư và thu về kết quả như sau:

STT Tên truyện ngắn Số lần xuất hiện dấu ngoặt đơn
1 Cải ơi 5
2 Thương quá rau răm 11
3 Hiu hiu gió bấc 0
4 Huệ lấy chồng 1
5 Cái nhìn khắc khoải 3
6 Nhà cổ 3
7 Mối tình năm cũ 5
8 Biển người mênh mông 1
9 Cuối mùa nhan sắc 3
10 Nhớ sông 0
11 Dòng nhớ 0
12 Duyên phận so le 16
13 Một trái tim khô 8
14 Cánh đồng bất tận 59


Có thể nói, đây là nét sáng tạo trong cách trần thuật của Nguyễn Ngọc Tư, góp phần làm nên giọng điệu điềm nhiên, trầm tĩnh rất độc đáo của chị. Chính sự xuất hiện của những dấu ngoặt đơn làm nhiệm vụ “giải thích, chú thích thêm” hay “nói cho rõ hơn” một vấn đề bào đó đã làm cho câu chuyện mà Nguyễn Ngọc Tư kể với người đọc thêm phần khách quan và sinh động hơn.
Bên cạnh lối kể chuyện với nhịp điệu chậm rải, từ tốn; lối trần thuật bình thản đôi khi lạnh lùng; người đọc còn nhận ra giọng điệu điềm nhiên, trầm tĩnh của Nguyễn Ngọc Tư ở sự cân nhắc trong việc sử dụng ngôn từ mềm mại và đầy “nữ tính”. Đây là một điểm rất khác của Nguyễn Ngọc Tư so với khá nhiều những nhà văn như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao trước 1945, hay Nguyễn Huy Thiệp những năm tám mươi của thế kỷ XX. Cũng là hợp lý thôi vì Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn nữ vì thế, so với các nhà văn vừa kể, ngôn ngữ và giọng điệu của Nguyễn Ngọc Tư mềm mỏng và nhẹ nhàng hơn; Nguyễn Ngọc Tư không chửi rủa, không mạt sát, không văng tục, không thóa mạ, không tỏ ra cay cú… khi đề cập đến những vấn đề tiêu cực trong cuộc sống. Chúng ta thấy rõ vấn đề này ở những những truyện ngắn trong tập Gió lẻ và chín câu chuyện khác cùng một số truyện như: Ngọn đèn không tắt, Cánh đồng bất tận, Lỡ mùa, Đau gì như thể,… Đây là những truyện ngắn mà Nguyễn Ngọc Tư muốn góp tiếng nói phê phán những vấn đề tiêu cực trong cuộc sống nhưng giọng điệu của chị vẫn rất nhẹ nhàng, trầm tĩnh. Nguyễn Ngọc Tư tuy có bất bình, có không hài lòng về những điều bất công, giả dối của con người trong cuộc sống nhưng chị không lên giọng quát tháo, không văng tục như chúng ta thường thấy ở Nguyễn Huy Thiệp. Ở Nguyễn Huy Thiệp khi không hài lòng một vấn đề gì là ngay lập tức giọng điệu của ông thay đổi một cách rất quyết liệt, mạnh mẽ nhiều khi mất bình tĩnh và trở nên cực đoan. Dưới đây là một trong những đoạn văn tiêu biểu cho giọng điệu mất bình tĩnh đến mức cực đoan của Nguyễn Huy Thiệp:
“Anh Bường bảo: “Tao nói cho mày biết, mày bỏ cái trò lưu manh ấy đi. Mày dụ thằng Biền chơi giả để hạ nó thật. Lối vật của mày là lối vật của quân trí thức, mày bịp con Quy thì được chứ không bịp được tao đâu”. Tôi cười: “Anh biết không người cách mạng chỉ chú tâm vào mục đích cuối cùng mà thôi”. Anh Bường bảo: “Đừng có bẩy tao vào chính trị tư tưởng, mày đểu lắm…” Bản chất của mày là một thằng trí thức lưu manh chính trị. Tởm lắm! Cút mẹ mày đi!” Tôi bảo: “Anh là một thằng tù hình sự, một tên lưu manh “gin” tại sao anh không chịu nổi tôi?” (Những người thợ xẻ)
Không giống như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư thường chọn cách nói nhẹ nhàng và ít khi phát biểu hay bày tỏ thái độ bằng những ngôn từ gân guốc, đầy góc cạnh thậm chí có lúc rất bạo liệt. Đây là ngôn từ nhẹ nhàng, mềm mại của Nguyễn Ngọc Tư thuật về tình cảnh đáng thương của Sương – cô gái giang hồ sau một đêm đi “thương lượng” với những “người có trách nhiệm” của địa phương (về việc đàn vịt của gia đình Út Vũ bị nhiễm bệnh) trong truyện ngắn Cánh đồng bất tận:
“Một người nuốt nước miếng, ánh nhìn ham muốn như mũi kim thò ra khỏi bọc, lơ láo. Mắt ông ta lột trần chị, và toan tính một thoáng. Người còn lại có vẻ thú vị, háo hức như sắp xem được một vở cải lương hay. Chị thấu hiểu đàn ông đến nỗi, ngay lập tức chị ngó về phía chúng tôi, ngầm báo, cuộc thương lượng (về một sự đổi chác) đã kết thúc rồi… Chị trở về khi trăng rạng rỡ trên đầu (mãi sau nầy, tôi vẫn còn ghê sợ cái màu trăng ấy). Ống quần quệt vào cỏ ướt đẫm sương. Hơi rượu quyện với mùi thuốc lá làm tôi chạo chực. Nhác thấy hai chị em tôi ngồi thù lù, chị kêu lên, trời đất, hai cưng chờ chị chi vậy.“Chị làm đĩ quen rồi, mấy chuyện nầy nhằm bà gì mà mấy cưng buồn?”
Còn đây là cách Nguyễn Ngọc Tư kể lại cảnh ông Tám Nhơn Đạo hãm hiếp cô bé Mỹ Ái trong truyện ngắn Gió lẻ - một giọng kể thản được trình bày qua lối văn nhẹ nhàng nhưng lột tả trọn vẹn nỗi nỗi đau, thất vọng của tác giả trước sự đểu giả của con người trong cuộc sống:
“Lâu ngày em không còn giật mình vì tiếng người nữa. Nên cái bữa ông Tám Nhơn Đạo ra chòi, em không hay. Bỗng dưng thấy mình bị ép chặt xuống tấm ván mối ăn lấm tấm, và một bàn tay lần vào áo em, thì em giật mình. Em gào lên, nhưng giọng tắt trong bàn tay khẳm mùi rượu, thịt và nước tiểu… Giờ một người đàn ông xa lạ đang lúi húi trên em, như con Cò thường lè lưỡi liếm để gọi em than thở chuyện đời nó.”
Có thể thấy, tuy không dùng những lời lẽ đao to búa lớn, không quát tháo, không thóa mạ… nhưng người đọc vẫn cảm nhận được cái nhìn phê phán của Nguyễn Ngọc Tư trước những vấn đề tiêu cực của cuộc sống. Đồng thời cũng cảm nhận được nỗi xót xa và thương cảm, đau đớn của nhà văn dành cho số phận không may trong cuộc đời. Đây là thành công của Nguyễn Ngọc Tư trong việc sử dụng ngôn ngữ mềm dẽo, nhẹ nhàng, đầy nữ tính để tạo nên một giọng điệu điềm nhiên, trầm tĩnh nhằm lột tả bản chất của những sự việc mà chị phản ánh. Vấn đề này, nói như nhà văn Dạ Ngân là Nguyễn Ngọc Tư có giọng “điềm đạm mà thấu đáo”. Hay Kiệt Tấn trong “Sông nước Hậu Giang và Nguyễn Ngọc Tư” thì Nguyễn Ngọc Tư có giọng văn “…thành thật hiền hòa, không xốc táp ngang ngược; không có những kiểu nói om sòm mà rỗng tuếch. ”

3. Thay lời kết

Tóm lại, về vấn đề giọng điệu chủ yếu trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư có thể khái quát lại như sau:
Bên cạnh âm hưởng và giọng buồn nhưng không chán chường ủ dột, thì sự điềm nhiên và trầm tĩnh là giọng điệu chủ yếu góp phần làm nên một trong những nét phong cách của nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư. Nếu như giọng buồn nhưng không chán chường ủ dột thể hiện cái nhìn cảm thông, chia sẻ và tin tưởng của nhà văn với những số phận bất hạnh trong cuộc đời sống thì giọng điềm nhiên, trầm tĩnh nói lên sự chấp nhận đối mặt với những bất trắc trong cuộc sống của con người. Tất cả vấn đề trên đều góp phần cụ thể hóa vấn đề “cái nhìn khắc khoải” về thân phận con người cũng như quan niệm “con người hướng thiện” trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.

_________________________________________

MỘT SỐ TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

1. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi - Từ điển thuật ngữ văn học. Nhà xuất bản Giáo dục, 2007
2. Trần Đình Sử - Một số vấn đề về thi pháp học hiện đại. Bộ Giáo dục và đào tạo, Vụ giáo viên, 1993
3. Trần Đình Sử - Giáo trình dẫn luận thi pháp học. Bộ Giáo dục và đào tạo, Đại học Huế, 2001
4. Lê Ngọc Trà - Lý luận và văn học. Nhà xuất bản Trẻ, 2005
5. Nhiều tác giả - Lý luận văn học. Nhà xuất bản Giáo dục, 1986
6. Website http://www.viet-studies.info/NNTu/ (chuyên trang về Nguyễn Ngọc Tư do Trần Hữu Dũng thiết kế và quản lý).
Đặc trưng ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

Nguyễn Trọng Bình

1. Hệ thống từ địa phương Nam bộ

Có thể nói ấn tượng đầu tiên và dễ thấy nhất trong ngôn ngữ truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư chính là khả năng khai thác và vận dụng nhuần nhị và có hiệu quả vốn hệ thống từ địa phương Nam bộ để phản ánh và làm bật nổi những nét văn hóa về vùng đất và con người vùng sông nước miền Tây Nam bộ. Vấn đề này cũng có khá nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu và bạn đọc xa gần đã đề cập. Trần Hữu Dũng trong bài viết “Nguyễn Ngọc Tư, đặc sản miền Nam”, cho rằng: “Nguyễn Ngọc Tư, ngòi bút trẻ ấy, rõ ràng đã tạo được một chỗ đứng khu biệt cho mình… Cái đầu tiên làm người đọc choáng váng (một cách thích thú) là phương ngữ miền Nam trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư” [1]. Hay Nguyễn Văn trong “Giao thừa của Nguyễn Ngọc Tư”, cũng cho rằng: “Nguyễn Ngọc Tư có một lối viết văn tự nhiên, không màu mè, không gượng ép, không làm dáng như những người hay quen thói khoe chữ theo khuynh hướng gọi là “hiện đại” để tỏ ra mình “tinh tế”. Văn của Nguyễn Ngọc Tư dùng phương ngữ Nam bộ tối đa” [1]. Những nhận xét trên là không sai nhưng phần nhiều vẫn còn rất chung chung, vì thế chúng tôi thấy cần phải nói cho rõ hơn như sau:

***
Trước hết, người đọc không khó để bắt gặp trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư một hệ thống từ địa phương thể hiện cách xưng hô khi giao tiếp rất đặc trưng của người dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tùy vào hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư có những lớp từ riêng biệt.
Dễ thấy nhất trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là lớp từ chỉ cách gọi tên người trong quá trình giao tiếp rất đặc trưng của người miền Tây Nam bộ theo kiểu gọi tên theo thứ tự sinh ra trong gia đình như: “Anh Hai”, “Anh Năm”, “Ông Tư”, “Thiếm Sáu”… Hoặc không thì gọi kèm tên thật với thứ tự sinh như: Hai Nhớ, Tư Bụng, Tư Đờ, Chín Vũ, Út Vũ, Út Thà,…
Trong xưng hô với người trong gia đình, Nguyễn Ngọc Tư rất thường hay sử dụng lớp từ: “má”, “tía”, “chế”,“má sắp nhỏ”, “má con tao”,“má nó”, “ba thằng …”, “ba nó”, “bà nó”, “mầy”, “tao”, “bây”, “tụi bây”, “tụi nó” “mấy đứa nhỏ”, “sắp nhỏ”,…
- “Tao thương Thầy quá. Nhớ Thầy quá. Tao thèm gặp Thầy, gặp anh em.” (Ngọn đèn không tắt.)
- “Thằng Tứ Hải, đem mấy đứa nhỏ qua ngủ với má con tao nì. Để không ngói rớt trúng đầu, tội nghiệp tụi nó lắm nghen.” (Nhà cổ)
Khi xưng hô với những người ngoài xã hội, Nguyễn Ngọc Tư có các lớp từ như: “tui”, “qua”, “nhỏ”, “ông già…”, “người ta”, “thằng chả”, “mấy ông”, “mấy ổng”,… Có thể thấy, lớp từ xưng hô này ít nhiều thể hiện được nét cởi mở, phóng khoáng và không khách khí của người Nam bộ trong giao tiếp dù là với người quen hay lạ.
- “Lần này cậu Tư Nhớ đổ quạo, vặc lại: - Bộ tui trâu bò sao mà không biết nhớ”. (Chiều vắng)
- “Ông già Chín, đi theo gánh chè của đào Hồng qua ba con đường.” (Cuối mùa nhan sắc)
- “Trời ơi, ngồi với thằng chả, mỏi lưng quá, má coi, yêu đương chi cho mệt vậy không biết…” (Nhà cổ)
- “Chậc, mấy con vịt chết gió, mấy ông nhà nước nói cho quá…” (Cánh đồng bất tận)
Nói về việc sử dụng từ địa phương trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư không thể không đề cập đến hệ thống từ thể sắc thái biểu cảm của người nói đặt ở cuối những câu cảm hay câu nghi vấn. Đây cũng là lớp từ rất đặc trưng trong ngôn ngữ giao tiếp của người miền Tây Nam bộ như: “á”, “à”, “hen”, “hôn”, “phải hôn”, “vậy”, “nghe”, “nghen”, “vậy nghen”,“chớ”, “chớ bộ, “mà”, “lận”, “quá chừng”, “quá trời”, “vậy à”, “vậy cà”, ‘bộ”, “hả”, “ha”…
- “Mà, bây coi ém mùng cho kỹ, để muỗi cắn thằng nhỏ làm ghẻ à?” (Đau gì như thể)
- “Hổng ấy, cho con Tươi đi, chịu hôn?” (Ngọn đèn không tắt)
- “Mai mốt, mình đi nữa hen, Cộc?” (Cái nhìn khắc khoải)
- “Mà anh nhớ đối xử với người ta tốt như đối xử với tôi vậy nghen!” (Huệ lấy chồng)
- “Ủa, cô có tham gia hả?” (Ngọn đèn không tắt)
- “Ông già, nổi quạu đùng đùng, “thiên hạ phải để tôi sống đàng hoàng như một con người chớ!” (Đau gì như thể)
- “Mấy đứa con nít khen dì giống cô Tấm trong truyện cổ tích quá trời”! (Chiều vắng)
- “Ừ, lạnh quá, Điềm ha!” (Huệ lấy chồng)
Ngoài ra, đọc truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư người đọc dễ dàng nhận ra một hệ thống từ biến âm thể hiện rõ đặc trưng ngôn ngữ của người dân vùng sông nước Đồng bằng sông Cửu Long so với người dân ở các vùng miền khác như: ổng (ông ấy), bả (bà ấy), ảnh (anh ấy), ch (chị ấy)ỉ, biểu (bảo), bịnh (bệnh), sanh (sinh), gở (gửi)i, kinh (kênh), ác nhơn (ác nhân),… Bước đầu chúng tôi cũng thống kê được khoảng trên dưới 40 biến âm trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư như thế. Hệ thống từ biến âm này được lặp lại khá thường xuyên trong ý thức sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Ngọc Tư góp phần làm cho ngôn ngữ truyện ngắn của chị “thuần chất Nam bộ”.

2. Lớp từ gợi ấn tượng về “văn hóa sông nước”

Bên cạnh hệ thống từ địa phương được sử dụng với tần số dày đặt, chúng tôi còn nhận thấy ở truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư một hệ thống từ thể hiện rất rõ đặc trưng địa hình và văn hóa của vùng Đồng bằng sông Cửu Long như: kinh, rạch, vàm, xẻo, chợ nổi, ghe, xuồng, vỏ lãi, nước rong, nước kém, vịt chạy đồng, khô cá chạch, mắm, sú, đước, ô rô, dừa nước, cóc kèn,… . Chúng tôi tạm gọi đây là những lớp từ gợi ấn tượng về “văn hóa sông nước” trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Qua khảo sát, chúng tôi tạm thống kê và phân thành ba lớp từ gợi ấn tượng về “văn hóa sông nước” như sau: lớp từ chỉ địa danh và phương tiện đi lại, lớp từ chỉ địa hình, lớp từ chỉ đồ vật, sản vật và văn hóa tinh thần.

S
T
T Lớp từ chỉ địa danh và phương tiện đi lại S
T
T Lớp từ chỉ địa hình S
T
T Lớp từ chỉ đồ vật, sản vật và văn hóa tinh thần
1 Sông Dài 1 Sông 1 Rừng mắm
2 Cù lao Mút Cà Tha 2 Kinh 2 Ô môi
3 Mũi So Le 3 Rạch 3 Sú
4 Cánh đồng 4 Ruộng 4 Vẹt
5 Kinh Mười Hai 5 Rẫy 5 Đước
6 Xóm Xẻo Mê 6 Cánh đồng 6 Cóc kèn
7 Xóm Kinh Cụt 7 Cù Lao 7 Ô rô
8 Xóm Rạch 8 Xẻo 8 Lục bình
9 Xóm Rạch Ruộng 9 Bãi bồi 9 Bần
10 Xóm Chẹt 10 Nhánh sông 10 Tràm
11 Xóm Gò Mả 11 Vịnh 11 Quao
12 Rạch Ráng 12 Vàm 12 Cây còng
13 Rạch Ô môi 13 Rốn nước 13 Cây tra
14 Gò Cây Quao 14 Gò 14 Bình bát
15 Kinh Cỏ Chát 15 Hòn 15 Bông súng
16 Sông Cái Lớn 16 Bờ 16 Đủng đỉnh
17 Chợ nổi Cà Mau 17 Đập 17 Mồng gà
18 Chợ Ba Bảy Chín 18 Lung 18 Trâm bầu
19 Vịnh Dừa 19 Bàu 19 Bìm bịp
20 Bàu Sen 20 Đầm 20 Bông súng
21 Vườn Xóm Lung 21 Ao 21 Kho quẹt
22 Sông Gành Hào 22 Bờ mẫu 22 Mắm kho
23 Bến đò xóm Miễu 23 Liếp 23 Cá sặc/khô cá sặc rằn
24 Rạch Giồng 24 Mương 24 Cá rô
25 Đập Sậy 25 Mũi 25 Cá chốt
26 Lung Dừa 26 Giồng 26 Tép đất
27 Đập Bàu Mốt 27 Khô cá chạch
28 Đất Cháy 28 Dừa nước
29 Ghe 29 Vọng cổ/cải lương
30 Xuồng 30 Gánh hát
31 Sào 31 Đèn hột vịt
32 Đò 32 Đèn chong
33 Máy đuôi tôm 33 Áo bà ba
34 Vỏ lãi 34 Mẻ ung
35 Xà lan 35 Cà ràng
36 Tam bản 36 Vịt chạy đồng


Bảng thống kê bước đầu những lớp từ gợi ấn tượng về “văn hóa sông nước” vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư:

Có thể nói, với việc thường xuyên sử dụng những lớp từ “gợi ấn tượng về văn hóa sông nước” ở trên đã góp phần làm cho bức tranh hiện thực đời sống và con người trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư thêm phần chân thật và sống động; giúp người đọc hiểu hơn về những đặc trưng về địa hình sông ngòi, kênh rạch chằng chịt – ở góc độ nào đó còn là nét văn hóa rất đặc trưng và độc đáo của vùng đồng bằng sông Cửu Long so với các vùng miền khác của cả nước.

3. Sáng tạo và biến ngôn ngữ “đời thường” của người bình dân thành ngôn ngữ văn học

Bên cạnh việc sử dụng nhuần nhị hiệu quả vốn từ địa phương và lớp từ mang ấn tượng văn hóa sông nước, một điều cũng rất ấn tượng và độc đáo trong ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư cho thấy khả năng vận dụng một cách sáng tạo nhằm biến ngôn ngữ “đời thường” của người bình dân thành ngôn ngữ văn học rất độc đáo.
Vấn đề này, theo chúng tôi, trước hết cần phải nói rằng, ngôn ngữ trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư (từ ngôn ngữ người trần thuật đến ngôn ngữ của nhân vật) phần nhiều là “ngôn ngữ” của người dân sinh sống ở thôn quê, ruộng vườn chứ không phải là “ngôn ngữ” của người dân sinh sống ở thành thị. Có thể thấy, đa phần đối tượng mà Nguyễn Ngọc Tư phản ánh trong truyện ngắn của mình đều là những người dân sống ở thôn quê. Chính vì thế, khi đi vào tìm hiểu ngôn ngữ trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư chúng tôi nhận thấy, cách diễn đạt, cách hành văn của chị nhiều khi nôm na, mộc mạc, hóm hĩnh nên cũng rất dễ đọc, dễ hiểu và dễ cảm. Đây cũng là một bằng chứng khẳng định sự ảnh hưởng của môi trường và văn hóa vùng đất Nam bộ đến nhận thức cũng như tư duy nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư. Dưới đây là một vài trường hợp tiêu biểu mà chúng tôi đã khảo sát:
Để diễn tả nỗi buồn, Nguyễn Ngọc Tư có những cách nói rất “bình dân” như: “buồn ác chiến”; (…Nhờ giữa hai bài hát có mục nhắn tìm con buồn ác chiến – Cải ơi); “buồn vô địch cấp huyện” (Mấy chuyện này may mà Xuyến giấu trong lòng, phải kể ra là buồn vô địch cấp huyện chứ sá gì cái mũi So Le nhỏ nhoi này - Duyên phận So Le); “buồn như sắp đâm đầu xuống sông mà chết” (Dưới ghe ngó lên, mặt người phụ nữ buồn so, buồn như sắp đâm đầu xuống sông mà chết – Cái nhìn khắc khoải), buồn chao chát trong lòng (Tự dưng tôi nghe nỗi buồn chao chát trong lòng…- Một mối tình)…
Để tả cảnh hành động bỏ chạy của ai đó, Nguyễn Ngọc Tư có những cách nói lạ như: “chạy xịt khói”, “chạy xà quần” , “chạy xấc bấc xang bang”, …
- “Thàn bùi ngùi, người ta Quách Phú Thành nổi tiếng Hồng Kông, tui thiếu có chữ h, lẹt đẹt bên hông Chợ Lớn. Nhiều bữa ế ngoi ngóp nằm nghe mưa dầm, nhiều bữa đứng soát vé bị đám du đãng địa phương rượt chạy xịt khói. (Cải ơi)
Ngoài ra, người đọc còn bắt gặp rất nhiều những cách nói rất ngộ nghĩnh và bất ngờ khác như: “già câng, già cấc”, “già cóc thùng thiết, “đẹp dữ dằn”, “rầu thúi ruột”, “lạnh teo dái”, “ngồi vểnh phau câu”, “tính tình hịch hạc”, “cả đám cà xình, cà xang”, “ngày trăm lượt chèo nát mặt sông”, “lội tới lội lui thiếu điều sạt bờ dừa nhà ông già vợ”, “bảnh thiệt”, “cà lơ phất phơ”, “cá chốt rỉa”, “chành miệng”, “chợ ba bảy chín”, “coi giò coi cẳng”, “đã thiệt”, “đánh lô tô”, “điệu này”, “mát trời ông địa”, “mắc mớ”, “mần chi”, “miệng cá sặc”, “mùi rụng rún”, “mừng húm”,…
Một nét độc đáo nữa cho thấy khả năng sáng tạo nhằm biến ngôn ngữ “đời thường” của người bình dân thành ngôn ngữ văn trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là chị rất hay sử dụng cấu trúc so sánh: “A như B” trong quá trình hành văn của mình.
Đây là cách nói “vừa quen vừa lạ” rất sinh động và ngộ nghĩnh của nữ nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư. Điều này cho thấy ở chị một một ý thức lao động nghệ thuật rất nghiêm túc và có trách nhiệm. Không khó để chúng ta bắt gặp hàng loạt cách nói so sánh này trong truyện của chị như:“chị ốm, mỏng như cốm dẹp”; “một giọng nói mềm như lá lụa non”; “ý nghĩ ấy đầy như nước tròm trèm lên mặt đập”; “tuồng thì giễu nhau ong óng như gà kêu đẻ”; “ngón tay cái bấm trầu đã mòn khuyết như trăng mùng tám”; “tán cây còng bị tỉa nhánh chỏng chơ như bàn tay cụt”; “cái giọng rao chè như hát, từ đôi môi đã héo queo cất lên, cong vút, ngọt ngào mà nghe mịn màng từng âm từng chữ”; “ai cũng nghe đau đau xót xót như ai lấy cật tre cứa tới cứa lui trong lòng”; “giọng chú ngày càng khàn, nghe khen khét như nồi cơm quá lửa”; “chiếc áo người vợ hiền hay vậy mà hát lụm cụm như chiếc áo bà già”,“tóc đã rụng để lại cái trán rộng như sân bay Trà Nóc”;“Hiên nhìn thấy má như một ga xép hiện rõ dần lên trong đêm tối”; “quyền lực đối với tôi càng giống như cục mỡ rệu trong veo trong nồi thịt kho tàu ngày Tết”;“tiếng cười nghe xao động như quầy dừa rụng xuống hào ranh giữa buổi trưa vắng”;“cái nhìn ông lạnh như cái ao sâu phủ kín lục bình”; hiền như ngụm nước mưa”, “tủi cực trào lên như người ta nhận cái thùng vô lu nước đầy” ; “mặt mũi đầu tóc Đậm lúc nào cũng nham nhám như hột me rang cát”…
Có thể nói, chính thói quen sử dụng từ ngữ như trên làm cho ngôn ngữ trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư gần với ngôn ngữ hàng ngày của người dân nông thôn vùng Đồng bằng sông Cửu Long, điều này góp phần tạo nên một văn phong trong sáng, giản dị, không cầu kì và có phần nào đó nôm na, mộc mạc, chân chất nhưng vẫn tạo được một hiệu quả cảm xúc và thẫm mỹ rất cao; giúp người đọc dễ dàng nhận ra Nguyễn Ngọc Tư với những cây bút đương thời với chị. Chúng ta cùng đọc một vài đoạn dưới đây của Nguyễn Ngọc Tư để thấy rõ hơn vấn đề này:
“Con Ái tệ quá, nó bỏ chồng, nó theo người ta rồi. Biết nó hư thân vậy, má thà sanh cái hột gà, hột vịt còn hơn. Thôi, hết rồi, coi như đời này má không coi nó là con má nữa. Rồi má hỉ mũi cái rột: “con coi kỹ, có phải cái nhà thằng Trọng chỉ có đàn ông là sống được”. (Một mối tình )
Hay: “Ông dừng lại chỗ mấy cây tra, lấy tay rờ rẫm, săm soi từng cái lá, cái bông như tay bắt mặt mừng thằng bạn lâu năm mới gặp. Rồi ông lần ra tới đầu bến, đứng dưới hàng mắm già ngày xưa ông trồng để giữ đất khỏi lở, để mặc cho mấy cái hoa nắng vàng xơ rơ đậu xuống cái đầu húi cua, bạc trắng của mình”. (Dòng nhớ)

***

Tóm lại, qua tìm hiểu ngôn ngữ truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi nhận thấy có những vấn đề như sau:
Thứ nhất, điểm nổi bật và gây ấn tượng trước hết trong ngôn ngữ truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là ý thức khai thác và sử dụng hiệu quả vốn từ địa phương Nam bộ cũng như lớp từ ngữ gợi ấn tượng về “văn hóa sông nước” mang đậm chất Nam bộ.
Thứ hai, bên cạnh việc khai thác tối đa và sử dụng hiệu quả vốn từ địa phương Nam bộ, Nguyễn Ngọc Tư còn cho thấy khả năng vận dụng sáng tạo lời ăn tiếng nói hàng ngày (giàu hình ảnh và sắc thái biểu cảm) của người dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long một cách rất độc đáo. Có thể nói, tất cả những điều trên góp phần tạo nên giọng văn bình dị, chân chất, mộc mạc; một lối diễn đạt và hành văn trong sáng, không cầu kì nhưng duyên dáng, đậm đà và thật đáng yêu. Nói như nhà văn Nguyễn Quang Sáng khi ông nhận xét về ngôn ngữ truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, là: “Thoại trong văn Tư không hề bị lai, rặt Nam bộ mà người ta đọc vẫn hiểu và cảm thấu trọn vẹn. Cái lớn nhất mà Tư làm được ở chỗ cổ có công nâng ngôn ngữ bình dân của người miền Tây thành ngôn ngữ văn học”.[1]
Cuối cùng, nếu nói ngôn ngữ là tấm gương phản chiếu tư duy của con người thì ngôn ngữ trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư đã thể hiện rõ tư duy nghệ thuật của chị về cách tiếp cận hiện thực đời sống từ góc nhìn văn hóa. Nói một cách cụ thể hơn, qua cách sử dụng ngôn ngữ trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư chúng tôi nhận thấy ngôn ngữ truyện ngắn của chị thể hiện rất rõ những phẩm chất về văn hóa, xã hội và con người vùng Đồng bằng sông Cửu Long một cách cụ thể và sinh động. Đặc điểm này ở góc độ nào đó cũng có thể xem như “cảm hứng về nguồn” rất mãnh liệt trong cái nhìn và tiếp cận hiện thực đời sống từ góc nhìn văn hóa – một phong cách riêng độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư.

Phong cách truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
nhìn từ phương diện nội dung tự sự

Nguyễn Trọng Bình

Theo Từ điển thuật ngữ văn học (do lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên) thì:“Nội dung tác phẩm là hiện thực cuộc sống được phản ánh trong sự cảm nhận, suy ngẫm và đánh giá của nhà văn. Đó là một hệ thống gồm nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan xuyên thấm vào nhau [1]. Giáo sư Lê Ngọc Trà trong Lý luận và văn học cũng cho rằng: “Văn học không phải không phản ánh, mô tả hiện thực, nhưng đừng nên xem đây là nhiệm vụ hàng đầu và bao trùm của nó. Nội dung của tác phẩm văn học vì vậy cũng chứa đựng trước hết không phải hiện thực được phản ánh, mà là tư tưởng, tình cảm của nhà văn” [8]. Đồng tình với những quan điểm trên, trong quá trình đi vào tìm hiểu phong cách trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư ở bình diện nội dung tự sự, chúng tôi nhận thấy nổi bật và thường lặp đi lặp lại trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư những vấn đề sau:

I
Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư – “cái nhìn khắc khoải” về thân phận người dân quê

Có thể nói, truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư “đập” vào mắt người đọc trước hết là những câu chuyện rất đỗi “đời thường” về những người dân thôn quê lam lũ, nghèo khổ vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Đây cũng chính là một trong những “không gian”, “vùng thẩm mỹ” riêng của Nguyễn Ngọc Tư. Tuy nhiên, như chúng tôi đã trình bày, nội dung tác phẩm văn học “không phải là ghi chép, mô tả hiện thực mà là hành động tự nhận thức của nhà văn, nhờ đó tác phẩm nghệ thuật trở thành mảnh đất nuôi dưỡng tình cảm con người, thành khu vườn nơi tâm hồn con người đến đơm hoa kết trái…” [8]. Vì thế, theo chúng tôi, nội dung truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư quan trọng hơn cả chính là tấm lòng và thái độ trân trọng, yêu thương, cảm thông đối với những người dân thôn quê đúng như những gì chị đã từng nói: “Tôi thường thấy quanh mình những đứa trẻ khát khao tình thương, những phụ nữ khát khao cuộc sống yên bình, được che chở. Nếu chú ý một chút, người ta sẽ nhận ra ai cũng có nhu cầu được ấm áp thương yêu, ngay cả những kẻ mạnh mẽ tàn nhẫn nhất cũng mong muốn có một ngày được hoàn lương”[9].
Hay như có lần chị tâm sự, chị viết văn “vì thương quê, thương cái nghèo khó, cái mộc mạc, chân sơ của nơi mình sinh ra, lớn lên, nơi mình hứng ngụm nước mưa trong lành ở cái lu đầu ngõ, nơi mình hâm nồi cơm nguội buổi chiều, nướng con khô cá lóc, nhấp chén rượu cay mà thương quê đến nao lòng” [9]
Tuy vậy, chúng ta đang đi tìm phong cách của Nguyễn Ngọc Tư, vậy thì đâu là cái riêng, cái độc đáo của chị so với những nhà văn khác? (khi cũng đề cập đến vấn đề cái nghèo, cái khổ của những người dân quê)

1.1 “Bức tranh” về những phận người nghèo khổ

Đây là mảng nội dung quan trọng và cũng là mảng hiện thực mà Nguyễn Ngọc Tư rất hay đề cập trong hầu hết các truyện ngắn của mình. Có thể nói, truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là “bức tranh” sống động về cuộc sống của một bộ phận người dân (nhất là ở thôn quê) vùng Đồng bằng sông Cửu Long mà cái nghèo, cái khổ cứ bám riết lấy họ.
Nguyễn Ngọc Tư vốn sinh ra và lớn lên ở vùng quê nông thôn vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Và chị cũng không xa lạ gì với những chuyện người dân quê hàng ngày phải lặn lội bươn chải kiếm sống trên những dòng sông, cánh đồng… Vì thế, cũng giống như bao nhà văn khác, khi viết văn chị thường lấy những thực tế mà mình đã trải và chứng kiến làm đề tài cho những sáng tác của mình. Nguyễn Ngọc Tư thường hay tái hiện những tình cảnh nghèo khó, khốn cùng của người dân quê thông qua những câu chuyện mà trong đó hầu hết những nhân vật chính đều có một điểm chung là cái nghèo cứ bám riết và không chịu “buông tha” dù rằng tất cả họ đều cật lực làm lụng.
Trước hết, người đọc sẽ bắt gặp trong khá nhiều truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư hình ảnh những người nông dân phải lênh đênh vất vả tìm kế sinh nhai trên những “cánh đồng bất tận”. Trong đó, dễ thấy nhất là hình ảnh những những nông dân với nghề “nuôi vịt chạy đồng”. Những ai từng sống bằng nghề nông ở Đồng bằng sông Cửu Long hẳn đều biết và hiểu về nỗi nhọc nhằn vất vả của nghề này. Cuộc sống của họ quanh năm gần như chỉ ngược xuôi, rày đây mai đó trên những cánh đồng cùng bầy vịt vô cùng cơ cực. Trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư đó là trường hợp của ông Hai trong Cái nhìn khắc khoải, của Sáng trong Một dòng xuôi mải miết, của gia đình Út Vũ trong Cánh đồng bất tận... Đây là tình cảnh vất vả của ông Hai trong Cái nhìn khắc khoải được Nguyễn Ngọc Tư ghi lại một cách chân thật:
“Ông làm nghề nuôi vịt đẻ chạy đồng. Hôm nay ở đồng rạch Mũi, ngày mai ở nhà Phấn Ngọn, xa nữa lại dạt đến Cái Bát không chừng. Ông đậu ghe, dựng lều, lùa vịt lên những cánh đồng vừa mới gặt xong, ngó chừng chừng qua những cánh đồng lúa mới vừa chín tới và suy nghĩ về một vạt đồng khác lúa vừa no đòng đòng. Đời của ông là một cuộc đời lang bạt. Một cuộc sống trên đồng khơi. Chòi cắm ở đâu cũng được, miễn có chỗ khô ráo cho ông nằm.”
Tương tự vậy, trong Cánh đồng bất tận là tình cảnh khốn khó của ba cha con anh nông dân Út Vũ. Họ phải lang bạt trên khắp những cánh đồng cùng bầy vịt để mưu sinh. Tuy nhiên, so với hoàn cảnh của ông Hai trong Cái nhìn khắc khoải, ba cha con Út Vũ có hoàn cảnh bi đát hơn vì toàn bộ bầy vịt – tài sản lớn nhất của gia đình gặp phải đại dịch nên cả gia đình trong phút chốc đã trắng tay. Chưa hết, trong Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư còn cho thấy vì nghèo khổ mà con người ta tìm mọi cách để tồn tại. Họ sẵn sàng giành giựt, cướp bóc, thậm chí là hãm hại nhau:
“Bọn người này cướp vịt ở các bầy khác (trong đó có của chúng tôi) bằng cách lén phết sơn đen lên đầu những con vịt và phơ phởn đến nhận chúng là của mình, hiển nhiên mang đi. Bắt đầu xảy ra vài cuộc xô xát trên đồng, người ta đem hết bản năng hoang dã của mình ra để giành lại miếng ăn…rốt cuộc bầy vịt của chúng tôi mất một nửa. Chúng tôi ra về. Cha tha thểu đằng trước với một thân xác nhừ bùn sau cuộc đánh nhau.”
Bên cạnh hình ảnh những người nông dân phải vất vả mưu sinh trên ruộng đồng, người đọc còn bắt gặp trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư rất nhiều những “nghệ sĩ cuối mùa nhan sắc” đang “vật lộn” với cái nghèo bằng đủ thứ nghề khác nhau.
Đời như ý là câu chuyện đau lòng về hàng loạt những số phận hẩm hiu trong một gia đình bất hạnh. Chú Đời là một hành khất mù cùng với gia đình bé nhỏ của mình phải lang thang rong ruổi khắp các nẻo đường để tìm miếng ăn. Gia đình của chú Đời gồm bốn thành viên: chú Đời mù lòa, người vợ nửa điên nửa tỉnh và hai con gái là bé Như và bé Ý. Cuộc đời của chú Đời được Nguyễn Ngọc Tư miêu tả còn khổ hơn cả “đời Cô Lựu” trong một vở tuồng cải lương nổi tiếng.
“Không ai biết chú khổ còn hơn… cô Lựu. Chú Đời dẫn cả nhà rời chợ Cũ, Cầu Nhum lang thang lúc con Ý mới bồng nách. Gồng gánh như một gánh hát, chú ca cải lương, bán vé số kiến thiết. Vợ chú nửa điên nửa tỉnh, không biết có phải vui trong bụng lắm không mà suốt ngày cười ngẩn ngơ”.
Nếu cuộc đời của chú Đời trong Đời như ý khổ hơn cả đời Cô Lựu trong một vở tuồng cải lương, thì cuộc đời của Đào Hồng, Đào Phỉ… trong Cuối mùa nhan sắc không khác gì sự thăng trầm và tuột dốc rất thê thảm của bộ môn nghệ thuật này. Có ai ngờ những cô đào nổi tiếng với giọng ca và nhan sắc từng làm mê đắm biết bao trái tim của người hâm mộ đến những năm cuối đời phải sống lay lắt trong “căn chòi lá rách te tua cất trên ao bèo cuối hẻm”? Có ai ngờ những cô đào lừng danh một thời giờ đây phải vất vả mưu sinh bên gánh chè, những tờ vé số cùng chút ít lòng hảo tâm của người đời…?
“Nhà “Buổi chiều” nằm ở tận cuối hẻm Cây Còng. Hẻm cụt. Nhà toàn người già, là chỗ trú ngụ cho những nghệ sĩ cải lương, nghệ sỹ hát bội một thời vang bóng…Nhà “Buổi chiều” nghèo, chi phí dựa vào chi phí từ trên quận, từ lòng hảo tâm của bà con gần xa, cơm bữa nhiều ơi là nhiều rau mà ít xịt thịt. Vậy mà ai nấy đều vui, bởi cuộc sống trước đây của họ còn nghèo hơn, nghèo không thể tả, nghèo rớt mồng tơi, người ở chùa, người bán vé số, người ngủ công viên, người hát rong, ít ai có nhà để về.”
Đó là cuộc sống và tình cảnh vất vả của những người dân sống trên bờ, trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư người đọc còn bắt gặp không ít cuộc sống và tình cảnh của những con người đang mưu sinh trên những chiếc ghe – “ngôi nhà” của những kiếp thương hồ, hay trên những con đò đưa khách qua sông ngày đêm “cày nát mặt sông”.
Anh chàng Lương “khùng” trong Bến đò xóm Miễu là một trường hợp tiêu biểu cho nỗi cơ cực này. Lương vốn “không cha, má chết sớm”, bắt đầu chèo đò mướn khi còn là một cậu bé mười hai tuổi đến năm ba mươi hai tuổi nhưng vẫn không thoát khỏi cái nghèo. Nguyễn Ngọc Tư tả:
“Lương chèo đò mướn năm mười hai tuổi. Nhà Lương nghèo, chỉ là cái chòi rách tả tơi, từ ngày theo đò. Lương ăn ngủ trên bến đò nên nhà đã bỏ hoang hẳn. Suốt ngày quần quật trên sông mà bộ mình đã khẳng khiu chỉ độc cái quần tà lỏn dính đầy nhựa trong của thời làm sai vặt ở các trại xuồng. Lương không cha, má chết sớm nên cái quần dăn giây thun không ai may lại, nó tuột luốt mỗi lần Lương thót bụng rướn người trên đôi chèo… Bây giờ Lương ba mươi hai tuổi. Anh đã chèo hết thảy chín xác đò. Bến đò Đậu Đỏ qua xóm Miễu sang đi nhượng lại qua bốn người chủ. Mà Lương vẫn còn nghèo.”
Và cũng không riêng gì Lương, những người sống kiếp thương hồ rày đây mai đó trên sông nước cũng có chung tình cảnh nghèo khó vất vả như vậy. Đây là tình cảnh của Hai Giang trong Dòng nhớ, sống bằng nghề buôn bán hàng tạp hóa nhỏ lẻ trên sông, tất cả gợi trước mắt người đọc sự nhỏ nhoi của kiếp người nghèo khổ.
“Một ánh đèn nhỏ nhoi thôi cũng hắt sáng vài xâu cốm gạo treo trên vách, mấy hủ kẹo, bánh ngọt, tiêu tỏi để bên này, trái cây như khóm, bí rợ, khoai lang thì chất thành hàng bên kia...”
“Bức tranh” về thực trạng nghèo khổ của một bộ phận người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư vẫn chưa dừng lại ở đó. Đọc truyện ngắn của chị, người đọc còn bắt gặp khá nhiều số phận và tình cảnh đáng thương hơn. Đó là tình cảnh những cô gái, những người phụ nữ phải chấp nhận và đánh đổi thân xác mình để tồn tại (Diễm Thương – Cải ơi, Xuyến – Duyên phận so le, Sương – Cánh đồng bất tận, Bông – Bến đò xóm Miễu, Dịu – Sầu trên đỉnh Puvan, Lành – Làm mẹ…); những đứa trẻ sớm phải lăn lộn vào đời tìm kế mưu sinh (Như, Ý – Đời như ý, Nương, Điền – Cánh đồng bất tận, San – Bởi yêu thương, Củi – Sầu trên đỉnh Puvan, Mỹ Ái, Dự – Gió lẻ…). Đây là một thực trạng đau lòng và xót xa mà nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đã rất dũng cảm nhìn nhận và phản ánh (chúng tôi sẽ trình bày kỹ hơn vấn đề này ở những phần sau).
***
Tóm lại, có thể khái quát, vấn đề “bức tranh” về cuộc sống nghèo khó của một bộ phận người dân thôn quê vùng đồng bằng sông Cửu Long trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư như sau:
Phần nhiều truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư chủ yếu xoay quanh phản ánh tình cảnh nghèo khổ của ba đối tượng người dân ở vùng quê đồng bằng sông Cửu Long (cũng có thể xem là ba “mô típ” thường gặp trong truyện ngắn của chị) là:
Thứ nhất, tình cảnh những người nông dân quanh năm vất vả mưu sinh trên những “cánh đồng bất tận” (Cái nhìn khắc khoải, Một dòng xuôi mải miết, Cánh đồng bất tận, Lỡ mùa…); hay tình cảnh của những người dân sống kiếp thương hồ trên những dòng sông, con đò…(Nhớ sông, Biển người mênh mông, Bến đò xóm Miễu, Dòng nhớ…)
Thứ hai, tình cảnh những “nghệ sĩ” đã “cuối mùa nhan sắc” phải mưu sinh và sống lay lắt nơi đầu đường cuối chợ (Đời như ý, Cải ơi, Cuối mùa nhan sắc, Chuyện của Điệp, Làm má đâu có dễ, Bởi yêu thương…).
Cuối cùng, tình cảnh những người phụ nữ phải đánh đổi thân xác để kiếm sống và những đứa trẻ tuổi thơ bị đánh cắp phải sớm bươn chải, lăn lộn tìm kế sinh nhai (Làm mẹ, Cánh đồng bất tận, Bến đò xóm miễu, Bởi yêu thương, Duyên phận so le, Gió lẻ, Sầu trên đỉnh Puvan,...).
Xâu chuỗi tất cả những vấn đề này lại, chúng tôi thấy rằng đây là một nỗi ám ảnh khôn nguôi của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư trong cái nhìn về hiện thực cuộc sống của những người dân nghèo ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Dĩ nhiên, chúng ta cần phải hiểu rằng, những vấn đề trên không phải là toàn cảnh cuộc sống của người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện nay mà chỉ là một góc nhìn riêng của Nguyễn Ngọc Tư về một “góc khuất” trong cuộc sống xã hội mà thôi. Đồng bằng sông Cửu Long vốn được mệnh danh là “vựa lúa, vựa lương thực lớn nhất của cả nước”; thế nhưng ở đâu đó trên xứ sở phù sa màu mỡ, ruộng vườn cây trái sum xuê này vẫn còn một bộ phận những người dân đang hàng ngày, hàng giờ “vật lộn” với cái nghèo. Đây là một thực tế mà Nguyễn Ngọc Tư – một nhà văn vốn sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này đã nhìn thấy, đã cám cảnh và đã rất dũng cảm phơi bày lên trang viết của mình để người đọc hiểu, thông cảm và chia sẻ.

1.2 Nỗi trăn trở trước tình cảnh con người đối mặt với cái nghèo

Về vấn đề này, chúng tôi cho rằng, nếu so với hiện thực về cái nghèo của con người trong các tác phẩm của các nhà văn thuộc trào lưu văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930-1945 như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao… thì cái nghèo của con người trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư chưa đến mức trầm trọng cả về mức độ lẫn sắc thái. Điều này cũng là lẽ hiển nhiên vì hoàn cảnh xã hội mà Nguyễn Ngọc Tư đang sống hiện nay là rất khác so với thời của Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nam Cao… Vì thế, trong hầu hết truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, cuộc sống của con người tuy cũng nghèo khó nhưng không đến nỗi bần cùng như chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, anh Pha của trong Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan; không đến nỗi túng quẩn như Chí Phèo, Lão Hạc trong những tác phẩm cùng tên của Nam Cao ...
Như chúng ta đã biết đối với các nhà văn vừa kể trên, thì mảng hiện thực về cái nghèo, cái đói là một trong những vấn đề chính, quan trọng, có tính “thường trực” trong sáng tác của họ. Thông qua đó, các nhà văn muốn “cải tạo xã hội” bằng cách vạch trần và lên án bản chất của xã hội thực dân phong kiến chà đạp lên cuộc sống của con người. Mặt khác, với các nhà văn hiện thực phê phán 1930 -1945, hiện thực về cái nghèo, cái đói của con người còn là “một sự thật ở đời” mà họ thấy cần thiết phải đưa vào tác phẩm nhằm phản đối xu hướng lãng mạn hóa hiện thực đời sống của những nhà văn theo khuynh hướng lãng mạn lúc bấy giờ. Vũ Trọng Phụng từng cho rằng đối với ông “tiểu thuyết phải là sự thực ở đời” và Nam Cao cũng khẳng định rất mạnh mẽ: “nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là những tiếng đau kêu đau khổ thoát ra từ những kiếp lầm than”. Từ những quan niệm như vậy nên cái nghèo, cái đói của con người được các nhà văn lúc bấy giờ đi sâu phản ánh một cách rất cụ thể và chân thực đến từng chi tiết nhỏ.
Với Nguyễn Ngọc Tư, có thể thấy chị rất ít khi đi vào miêu tả, tái hiện những chi tiết cụ thể về “quá trình” con người lâm vào cảnh nghèo đói, bần cùng kiểu như Nguyễn Công Hoan (Bước đường cùng), Ngô Tất Tố (Tắt đèn), Nam Cao (Chí Phèo)… mà chủ yếu đi vào khai thác cách con người ta đối diện, đối phó và ứng xử trước cái nghèo như thế nào. Đây mới thực sự là vấn đề quan trọng và cốt lõi truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Nhìn ở điểm này chúng ta thấy Nguyễn Ngọc Tư gần với Nam Cao trong một số tác phẩm như Lão Hạc, Đời thừa, Trăng sáng, Sống mòn…(đây cũng là điểm độc đáo của Nam Cao so với các nhà văn cùng thời). Trong các sáng tác của mình, bên cạnh việc lí giải cuộc sống nghèo khổ, đói khát của con người trước Cách mạng tháng Tám là do sự bóc lột của bọn cường hào ác bá, Nam Cao còn đi vào miêu tả những suy tư, trăn trở, day dứt khôn nguôi của con người trước hoàn cảnh cái nghèo, cái đói. Vì thế, đọc Nam Cao người đọc thường hay bắt gặp những con người mang đầy tâm trạng, sống hướng nội, hay tự vấn, tự dằn vặt bản thân mình. Đối diện với cái nghèo, con người trong truyện ngắn Nam Cao thiên về việc tự nhìn nhận và đấu tranh với bản thân mình trước. Vừa giống nhưng cũng vừa khác với Nam Cao, truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư cũng chủ yếu đi vào miêu tả cách con người ta ứng xử và đối xử với nhau như thế nào trước cái nghèo. Tuy vậy, đọc Nguyễn Ngọc Tư chúng ta rất ít khi bắt gặp những con người mang đầy tâm trạng hay những trăn trở và tự dằn vặt bản thân. Nói cách khác, trước cái nghèo, nếu như con người trong truyện ngắn Nam Cao thường nhìn lại chính mình để tự điều chỉnh hành vi của bản thân thì ngược lại, con người trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư thường nhìn sang những người xung quanh để tự điều chỉnh mình. Đây có thể nói là điểm độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư trong quá trình phản ánh hiện thực về cái nghèo của người dân quê trong cuộc sống đời thường.
Vì thế, đọc Nguyễn Ngọc Tư có thể nói rằng, truyện ngắn của chị còn là những bài học về cách ứng xử của con người trong hoàn cảnh khốn khó.
Có thể thấy trong truyện ngắn của mình, Nguyễn Ngọc Tư rất ít khi đề cập đến những người nghèo thuộc thành phần trí thức trong xã hội mà hầu hết đều là những người dân quê có trình độ học vấn không cao (không qua đào tạo trường lớp). Điều này khác với truyện ngắn của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám hay Nguyễn Huy Thiệp sau này. Với hai nhà văn trên thì những con người thuộc thành trí thức trong xã hội phải vật lộn trước cái nghèo cũng là một đề tài quan trọng trong cái nhìn phản ánh hiện thực của họ. Với Nam Cao đó là những Hộ (Đời thừa), Điền (Giăng sáng), Thứ (Sống mòn)…; Nguyễn Huy Thiệp là Đoài, Khảm (Không có vua), Thủy (Tướng về hưu), Doanh (Những người muôn năm cũ)…
Vì nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư phần nhiều là những người dân quê mùa ít học (không qua đào tạo trường lớp), không phải là thành phần trí thức nên có thể thấy cách ứng xử của họ có gì đó rất “bình dân”. Hầu hết, những nhân vật này đều có một điểm chung là trước cái nghèo, cái khổ họ đều “quay sang” những người cùng cảnh ngộ mà nương tựa và đùm bọc nhau để sống. Những con người“dù nghèo kiết xác nhưng lại chơi hết mình và yêu hết cỡ, thậm chí sẵn sàng hy sinh bản thân để giúp nhau trong hoạn nạn” [9] trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư phần nhiều lại là những người dân quê học hành không tới đâu và cũng không bằng ai. Có thể nói, cách ứng xử mộc mạc, chân tình này của họ là những bài học đáng để cho tất cả chúng ta học hỏi. Họ sống bằng suy nghĩ chân thật, mộc mạc của những người dân quê ít học nhưng rất “hiểu chuyện”. Chúng ta thấy trong cách ứng xử của họ tuyệt nhiên không có một sự nghi kị hay lợi dụng kiểu “giậu đổ bìm leo” mà rất đỗi chân thành như thể “moi cả gan ruột mình ra” để hiểu và sống với nhau cho hết kiếp này. Đây chính là sắc thái riêng, là một trong những “cái nhìn khắc khoải” của Nguyễn Ngọc Tư về thân phận người dân quê.
Trong truyện ngắn Làm mẹ, tuy lấy đề tài về vấn đề mang tính thời sự là “đẻ mướn” nhưng qua cách ứng xử của các nhân vật, người đọc hoàn toàn bất ngờ về sự chân thành, mộc mạc rất đáng thương của họ. Trong truyện, dì Diệu không sinh con được nên đã thuê chị Lành – người phụ nữ làm nghề gánh nước thuê sinh dùm. Vì nghèo chị Lành đã đồng ý. Hai người cũng tiến hành làm giấy tờ giao kèo và ký kết hợp đồng hẳn hoi. Thế nhưng sau đó, chị Lành bỏ đi vì nghĩ đến cảnh phải giao đứa con mình rứt ruột sinh ra cho người ta. Đến đây, người đọc cứ nghĩ là sẽ diễn ra một cuộc tranh cãi, tranh giành giữa hai người phụ nữ, thế nhưng Nguyễn Ngọc Tư đã có một kết thúc rất bất ngờ nhưng cũng rất phù hợp với tâm lý và suy nghĩ chân chất rất đáng thương của những người dân quê, nghèo khó nhưng trọng tình nghĩa:
“Dì Diệu bỏ sạp vải tối ngày chạy xe long rong ngoài đường để may ra tìm được bóng người. Khi đã không trông chờ gì, một ngày, khi mở cửa, dì Diệu nhìn thấy chị Lành đang ngồi hàng ba và khóc. Những người có tình có nghĩa dễ gì bỏ được nhau. Dì Diệu cắn môi đỏ đỏ dấu răng, dì ôm chị Lành vào lòng rất chặt. Dì cảm nhận được từ trái tim bàn chân bé bỏng của đứa bé đang lòi chòi. Nó háo hức nằm giữa hai tấm lòng của hai bà mẹ. Dì Diệu đi lấy tờ hợp đồng ra và đốt cháy thành một tờ tro mỏng…”
Tương tự vây, trong Bến đò xóm Miễu, người đọc lại bắt gặp cách hành xử của anh chàng Lương tuy nghèo xơ xác nhưng rất cao thượng và nghĩa khí. Trong truyện, Lương là anh con trai nghèo, xấu xí, thất học, làm nghề chèo đò yêu tha thiết cô bé tên Bông xinh đẹp, bỏ học giữa chừng để đi bán “bia ôm” ở bên kia sông. Sở dĩ về sau Bông chấp nhận làm vợ Lương vì cô đã bị một tai nạn và liệt nửa thân dưới phải ngồi một chỗ, không đi được. Tuy vậy, người đọc vẫn thấy có một lý do quan trọng hơn là Bông đã nhìn thấy trong sâu thẳm tâm hồn anh chàng Lương chèo đò xấu xí một tấm chân tình, một sự rộng lượng, một cách hành xử và ứng xử của một người đàn ông đầy nghĩa khí; tuy thô kệch, quê mùa nhưng rất chân thật và đáng yêu.
“Lần đầu tiên, Bông gọi Lương theo đúng tên của anh chứ không kêu “khùng”, kêu “đò” nữa. Lương sướng tê người đi. Bông ngồi chỏi tay ra ngoài sau, ngẩng mặt lên nhìn Lương như chị Hai nhìn thằng Út, như con chó Vá nhìn đống thóc… Lương cười. Khuya đó về, sông vắng…Bông bảo Lương có thương Bông thì lại ngồi gần Bông đi. Hai đứa ngồi một bên be xuồng, nó nghiêng nghiêng lơ lửng. Bông biểu Lương nắm tay nó đi, Lương không dám, hai đứa cách nhau bốn gang rưỡi… Lương mà khùng à? Lương chỉ không muốn mình giống như bao thằng đàn ông khác, nhìn Bông như nhìn một món đồ chơi. Bông là Bông, là con gái, là người.”
Chúng ta cũng dễ dàng nhận ra cách ứng xử của những con người nghèo khổ như thế này qua hầu hết nhân vật trong truyện ngắn khác của Nguyễn Ngọc Tư như: Phi (Lý con sáo sang sông), Hết (Hiu hiu gió bấc), ông Hai (Cái nhìn khắc khoải), Quý (Giao thừa) Hai Nhớ (Qua cầu nhớ người), ông già Năm Nhỏ (Cải ơi), Sáu Đèo (Biển người mênh mông), Nương (Cánh đồng bất tận)…
Từ những vấn đề trên chúng tôi cho rằng, mỗi truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là một lời trần tình, một thông điệp chân thành mà nhà văn muốn gửi đến độc giả, đó là: nếu ai đó khổ hãy nhìn sang những người xung quanh để thấy có khi họ còn khổ hơn mình; nếu chúng ta biết thông cảm với cái khổ của người khác sẽ thấy cuộc đời mình bớt khổ vì vẫn còn may mắn hơn họ. Đây cũng là một quan niệm rất độc đáo mang đầy tính nhân văn của nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư.
Nỗi trăn trở của nhà văn trước tình cảnh con người đối mặt với cái nghèo trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư còn được thể hiện qua vấn đề để tồn tại con người phải đưa ra cách chọn lựa, phải đánh đổi và trả giá cho những việc làm của chính họ.
Đọc truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta thấy khi đối mặt với cái nghèo phần nhiều những người dân quê bao giờ cũng nương tựa vào nhau và cố gắng vươn lên để sống bằng sự cần cù chịu thương chịu khó rất đáng trân trọng. Tuy vậy, nếu quan sát kỹ chúng ta cũng sẽ thấy đây đó trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư bắt đầu có những con người có xu hướng “buông xuôi” tất cả và mặc cho số phận đưa đẩy; đã có những con người trượt chân và sa ngã và đánh mất mình thật sự (Cánh đồng bất tận, Ngổn ngang, Một trái tim khô, Bến đò xóm Miễu, Duyên phận so le, Gió lẻ, Núi lở, Sầu trên đỉnh Puvan…). Chúng tôi cho rằng, những điều này đã góp phần làm cho hiện thực nông thôn vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói chung trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư thêm phần chân thực và sinh động hơn. “Bức tranh” hiện thực nông thôn trong truyện ngắn của chị giờ đây bên cạnh những gam màu sáng (con người sống nghèo khó nhưng chân chất, nghĩa tình) bắt đầu xuất hiện những gam màu xám. Và nổi bật hơn cả trong những gam màu xám ấy là thực trạng một bộ phận những người phụ nữ vì cuộc sống nghèo khó đã chấp nhận đánh đổi thân xác mình để tồn tại. Đó là trường hợp của Diễm Thương (Cải ơi), Xuyến (Duyên phận so le), Lành (Làm mẹ), Bông (Bến đò xóm Miễu), Sương (Cánh đồng bất tận,) Dịu (Sầu trên đỉnh Puvan)…. Bên cạnh đó, là tình cảnh bất hạnh của những đứa trẻ sinh ra trong những gia đình nghèo hoặc là nạn nhân trong những gia đình bị cuộc sống đô thị làm cho rạn nứt, đổ vỡ như: Như, Ý (Đời như ý), San (Bởi yêu thương), Sói (Ấu thơ tươi đẹp), Bông (Bến đò xóm Miễu), Củi (Sầu trên đỉnh Puvan), Nương, Điền (Cánh đồng bất tận), Mỹ Ái (Gió lẻ),…
Trước cuộc sống nghèo khó, những người phụ nữ đôi lúc không còn sự lựa chọn nào khác là phải chấp nhận đánh đổi thân xác mình để tồn tại. Ai mà không nhói lòng khi đọc những đoạn văn miêu tả tình cảnh chẳng đặng đừng của những người phụ nữ thôn quê nghèo khó như những đoạn văn dưới đây:
- “Chúng tôi đã gặp nhiều, rất nhiều người phụ nữ giống chị. Cứ mỗi mùa gặt, họ lại dập dìu trên đê, lượn lờ quanh lều của những thợ gặt, những người đàn ông giữ lúa và bọn nuôi vịt chạy đồng. Họ cố làm ra vẻ trẻ trung, tươi tắn nhưng mặt và cổ đã nhão ra, nhìn kỹ phát ứa nước mắt.”
- “Chị làm đĩ quen rồi. Mấy chuyện này mà nhằm bà gì! Mấy cưng đừng lo.” (Cánh đồng bất tận)
-“Mũi So Le ngỡ ngàng dụi mắt đón những du khách cười nói bạo liệt, đạp mũi ca nô lên bến. Họ ở lại lâu, nhậu lâu, ca hát tưng bừng. Nhưng đời đám nhân viên phục vụ bỗng buồn hiu. Khách đến, khách say, tán tỉnh, hôn hít họ rồi về (thì ca hay, phục vụ chu đáo thì khách thưởng chơi vậy mà). Người ở lại chua chát nghĩ, điệu này rồi sẽ khó lấy chồng, đáng ra đôi má này, đôi tay này phải để cho người mình yêu thương ôm ấp. Có ai yêu mình, tin mình, chịu cưới mình khi suốt ngày mình đưa mặt cho người ta hôn hít.” (Duyên phận so le)
Và đây là quãng đời tội nghiệp của cô bé San trong Bởi yêu thương:
“Sáu tuổi nó đã è ạch cái rổ khoai lang luộc, xách cái thùng mía rảo chân khắp làng trên xóm dưới. Mười hai tuổi nó xin chạy bàn, rửa chén ở quán Mây Lang Thang, mười tám tuổi nó lấy chồng. Phải lấy chồng mới có tiền lễ để ba nó đổi chiếc xích lô lấy cái Honda”.
Từ những vấn đề như thế, có thể nói nỗi trăn trở trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư ở góc độ nào đó cũng chính là lời cảnh báo, là khả năng dự cảm của nhà văn về một trong những thực trạng có tính bức thiết của xã hội, của đất nước đang trên đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những con người nghèo khổ ở vùng quê nông thôn nhất là những người trẻ vốn không được học hành, không được trang bị những kiến thức, tri thức cần thiết sẽ trôi dạt về đâu khi “đất dưới chân” họ đang bị “thu hẹp dần”? Đây phải chăng mới thực sự là “vấn đề” mà nhà văn Nguyễn Ngọc Tư muốn gửi gắm và “đặt ra” trong tác phẩm của mình khi đề cập đến cuộc sống khốn khó của người dân quê vùng Đồng bằng sông Cửu Long – một “cái nhìn khắc khoải” của một nhà văn có trách nhiệm?
***
Nói tóm lại, về vấn đề thân phận con người (trong văn học) nhất là những con người “bé nhỏ”, những con người nghèo khổ hay gặp phải những tai ương và bất trắc trong cuộc sống là vấn đề không mới và đã được rất nhiều nhà văn tập trung thể hiện. Có thể nói, từ xưa đến nay (và cũng không riêng gì ở nước ta), những nhà văn có tâm và có tài bao giờ trong các tác phẩm của họ cũng đều thể hiện những vấn đề ấy. Nói cách khác, đó chính là “những điều trông thấy” và nỗi “đau đớn lòng” của những nhà văn có tài và có trách nhiệm, biết lấy nỗi đau chung của nhân loại làm nỗi đau riêng của chính mình. Mỗi nhà văn trong mỗi thời đại tùy vào “vị trí”, “chỗ đứng” và cách nhìn riêng sẽ có cách tái hiện và phản ánh những điều họ đã từng “trông thấy” và qua đó bày tỏ nỗi “đau đớn lòng” của họ vào trong tác phẩm. Trong ý nghĩa này, nhìn lại truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, có thể chị vẫn chưa thể sánh ngang với những Vũ Trọng Phụng, Nam Cao hay xa hơn là với Nguyễn Du… trong lịch sử văn học dân tộc, nhưng qua những vấn đề mà chị đã đề cập, chúng tôi cho rằng chị là một nhà văn có tâm và có tài thật sự. Nghiền ngẫm truyện ngắn của chị, qua những gì đã phân tích ở trên, chúng tôi nhận thấy ở Nguyễn Ngọc Tư ít nhiều đã bộc lộ được những tư tưởng đáng quý của một nhà văn biết sống, biết nghĩ, biết quan tâm, biết trăn trở và đau đớn trước những số phận hẩm hiu mà chị đã từng gặp đâu đó trong cuộc sống quanh mình. Đây cũng chính là giá trị nhân văn trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.

II
Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư - những câu chuyện tình dang dở và những miền ký ức buồn

Nếu nói văn học là những “buồn vui đời người, là sự chiêm nghiệm về những gì được mất, là hồi ức về quá khứ, sự không thỏa mãn với hiện tại và dự cảm về tương lai, là trầm tư về lẽ tồn vong của con người trong mối quan hệ với xã hội, tự nhiên và vũ trụ” [8] thì trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư bên cạnh “cái nhìn khắc khoải” về thân phận những người dân quê; người đọc còn bắt gặp khá nhiều những câu chuyện tình dang dở và những miền ký ức buồn của những con người lam lũ nơi đây. Có thể nói đây là một trong những mảng nội dung tự sự rất quan trọng trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.

2.1 Những câu chuyện tình dang dở

Có khá nhiều những câu chuyện tình yêu của các chàng trai cô gái trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Dĩ nhiên đây là đề tài không mới, tuy vậy, có thể thấy đọc truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư người đọc vẫn thấy có nhiều vấn đề hấp dẫn và lôi cuốn lạ thường.
Trước hết, có thể nói, điểm lôi cuốn và hấp dẫn của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư là những câu chuyện tình yêu đều gắn với không gian làng quê sông nước ruộng vườn Đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh đó, hầu hết những người dệt nên những câu chuyện tình trong truyện ngắn của chị đều là những chàng trai cô gái ở vùng nông thôn chân chất, thật thà. Nói cách khác, viết về tình yêu Nguyễn Ngọc Tư hiếm khi đề cập đến tình yêu của những chàng trai cô gái ở thành thị. Theo thống kê của chúng tôi, trong tất cả những truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư viết về tình yêu nam nữ thì chỉ duy nhất truyện ngắn Tình thầm in trong tập Gió lẻ và chín câu chuyện khác là đề cập đến tình yêu “nhuốm màu thành thị”. Người đọc dễ dàng nhận ra, tình yêu trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là tình yêu thủy chung của những con người “chân lắm tay bùn” chứ không phải tình yêu “tốc hành” của những “cậu ấm cô chiêu” ở chốn thị thành mà chúng ta không khó nhận ra trong khá nhiều trang viết của những cây bút trẻ khác. Đặc biệt, trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư có rất nhiều câu chuyện tình dang dở tồn tại trong ký ức và tâm khảm không bao giờ phai nhòa của những con người vùng ruộng đồng sông nước miền Tây Nam bộ (chúng tôi sẽ trình bày vấn đề này kỹ hơn ở phần sau). Tất cả những điều này, nói lên ở Nguyễn Ngọc Tư một quan niệm, một ý thức thẩm mỹ cũng như thiên hướng đi tìm những vẻ đẹp của cuộc sống trong sự chân chất, mộc mạc; một ý thức tìm về với văn hóa truyền thống của cha ông. Trong suy nghĩ của Nguyễn Ngọc Tư dường như chỉ có những câu chuyện tình yêu nơi miền quê thôn dã mới thật sự là những câu chuyện tình đẹp và “ám ảnh” chị. Với chị, người dân vùng quê sông nước Đồng bằng sông Cửu Long khi yêu cũng rất sôi nổi, mãnh liệt đồng thời cũng rất chân thành, đằm thắm… có gì đó giống với những câu chuyện tình được lưu truyền trong những câu ca dao quen thuộc ở xứ sở này:

“Anh về em nắm vạt áo la làng
Anh phải bỏ chữ thương, chữ nhớ giữa đàng cho em.”
Hay:
“Dao phay kề cổ máu đổ tui không màng
Chết tui, tui chịu, chứ buông nàng tui hổng buông.”

Vì thế, người đọc thường bắt gặp trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư những mối tình quê chân chất, mộc mạc, son sắt, thủy chung… Tiêu biểu cho những trường hợp này là Phi trong Lý con sáo sang sông, Hết trong Hiu hiu gió bấc, ông già Chín Vũ trong Cuối mùa nhan sắc, Lương trong Bến đò xóm Miễu, Quý trong Giao thừa, Trọng trong Một mối tình, Tư Nhớ trong Chiều vắng, Hai Nhớ trong Qua cầu nhớ người… Những câu chuyện tình yêu trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư tuy còn chút gì đó quê mùa, thô kệch nhưng đó là những câu chuyện tình còn lưu giữ được những điều thiêng liêng và cao quý bao đời của cha ông. Trong Cuối mùa nhan sắc, Nguyễn Ngọc Tư đã gián tiếp nói về vấn đề này thông qua tâm sự của nhân vật ông già Chín Vũ như sau:
“Ông nói với tôi rằng bỏ cả đời đi theo đoàn hát cũng không uổng, bởi vì đời ông thật có ý nghĩa. Lần đầu tiên ông được đóng vai chính, người ta hỏi vai gì, ông bảo vai con của đào Hồng, phút lâm chung người đàn bà ông yêu thương, ông gọi “Má ơi” và thấy bà mỉm cười. Chỉ vậy thôi à. Ừ, chỉ vậy thôi. Nhưng tụi trẻ bây giờ thì biết gì chuyện tình cảm của người lớn” .[68;46]
Một vấn đề nữa, xưa nay hầu như những câu chuyện tình đẹp trong văn học bao giờ cũng gắn với sự dang dở. Các nhà văn xưa nay khi nói đến vấn đề này cũng rất hay đi tìm và đề cập đến những nguyên nhân đã gây nên sự dang dở ấy. Mối tình Kim Trọng - Thúy Kiều nổi tiếng trong văn học Việt Nam được đại thi hào Nguyễn Du lý giải trước hết, là do bọn quan lại phong kiến thối nát lúc bấy giờ gây nên:

Một ngày lạ thói sai nha
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Hàng loạt mối tình của những “anh chàng” và “cô nàng” trong tiểu thuyết của các nhà văn thuộc tổ chức Tự lực văn đoàn những năm trước 1945 như: Mai – Lộc (Nửa chừng xuân – Khái Hưng), Loan – Dũng (Đoạn tuyệt – Nhất Linh)… cũng được các nhà văn lý giải là do phong tục và lễ giáo phong kiến lạc hậu, cụ thể là các vấn đề: giàu nghèo, “môn đăng hộ đối”, quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”…
Hay tình yêu giữa Chí Phèo – Thị Nở được Nam Cao lý giải một phần là do quan niệm ích kỷ hẹp hòi của dân làng Vũ Đại (mà đại diện là bà cô của Thị Nở) đã ngăn cản không cho thị Nở đến với Chí Phèo (qua đó đã gián tiếp không cho Chí Phèo - kẻ lầm đường lạc lối con đường quay về nẻo chính)…
Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư cũng thế, hầu hết đều là những câu chuyện tình dang dở. Tuy vậy, không giống như các nhà văn tiền bối, Nguyễn Ngọc Tư có cách lý giải nguyên nhân tình yêu dang dở rất đặc biệt và rất độc đáo. Nếu như các nhà văn khác thường đi tìm những nguyên nhân khách quan (nguyên nhân có tính xã hội) để lý giải cho sự dang dở của những câu chuyện tình thì ngược lại Nguyễn Ngọc Tư lý giải điều ấy do chính bản thân những người trong cuộc quyết định. Đặc biệt và độc đáo hơn, Nguyễn Ngọc Tư rất hay đề cập tới một nguyên nhân dẫn đến tình yêu dang dở là do một trong hai người yêu nhau đã nhường nhịn và hi sinh hạnh phúc của mình cho người họ yêu. Đây là lý do thoạt nhìn có vẻ hơi khó tin (mang màu sắc cải lương) nhưng đó lại là những điều có thật ở các câu chuyện tình yêu trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Những chàng trai cô gái trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư khi yêu bao giờ cũng rất cao thượng và nghĩa khí. Vì hạnh phúc của người mình yêu họ sẵn sàng nhường nhịn, chấp nhận rút lui và cũng sẵn sàng vun vén tạo mọi điều kiện để người yêu được sống hạnh phúc. Người đọc không bao giờ bắt gặp những mối tình “tay ba” cùng những ghen tuông, giành giật như trong khá nhiều câu chuyện tình yêu của các nhà văn khác. Điều này ít nhiều cũng giải thích vì sao truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư có khá nhiều mối tình đơn phương gây xúc động lòng người? Tiêu biểu cho vấn đề này là ở những truyện Cái nhìn khắc khoải, Mối tình năm cũ, Chiều vắng, Một mối tình, Bởi yêu thương, Bến đò xóm Miễu…
Trong Lý con sáo sang sông, vì biết người yêu hi sinh cho mình được hạnh phúc trước khi xuất giá theo chồng, nhân vật Út Thà đã chống xuồng qua sông ngồi uống rượu với người yêu mình và nói:
“Xét cho cùng, em cũng có lỗi, em không chắc lòng, chắc dạ với anh Phi…nghĩ lại em không xứng đáng với cái tình của anh Phi. Tụi em thương nhau, không lấy được nhau thì không có thù hằn đâm chém đâu anh Kiên à. Khổ cái, đám em ảnh trốn không qua coi như không tha thứ cho em rồi.” [69;82]
Trong Một mối tình Nguyễn Ngọc Tư đã dựng nên một tình cảnh éo le và trớ trêu cho cả hai nhân vật chính là Trọng và Út (nhân vật xưng “tôi”). Út đúng ra là em vợ của Trọng, (vợ Trọng đã bỏ di theo tình yêu khác đã lâu nhưng Trọng vẫn thuỷ chung chờ đợi có ngày vợ sẽ quay về với mình), vì thương cảnh “gà trống một mình nuôi con” và sự chung tình của người anh rể, Út đã dành trọn một tình yêu của đời con gái cho anh trong sự âm thầm, hi sinh và chia sẻ. Có nhiều lúc Út muốn nói thẳng ra với Trọng – người anh rể của mình rằng: “Thử thương tôi đi, tôi sẽ giúp thằng Bầu nấu cơm, vá áo, giúp anh lau ống khói, châm dầu cái đèn chong nhỏ, giữ cho ngọn lửa suốt đêm ngày le lói đỏ như vạn truyền thống nhà mình đã trăm năm nay. Sau này, chị Hai có về, tôi sẽ trao lại anh, như ngày xưa vậy, tôi cũng làm được lắm mà”. Nhưng đó rốt cuộc chỉ là những lời Út giấu kín trong lòng, không thốt ra được: “Mà, trời ơi, Trọng ác với tôi chi vậy, sao bắt tôi phải kìm lòng không được để nói ra, nhìn tôi mà không hiểu à?”.
Đề cập đến những câu chuyện tình dang dở trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, có một vấn đề không thể không bàn đến đó là cái nhìn cảm thông và rất độ lượng của nhà văn dành cho các nhân vật là những người đàn ông.
Từ xa xưa, ở xã hội Việt Nam do chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo nên trong chuyện tình yêu, về mặt tinh thần người nữ thường chịu nhiều thiệt thòi nhiều hơn người nam nếu không may tình yêu vì lý do nào đó mà dang dở. Trong cuộc sống cũng như trong văn học, để cất lên tiếng nói cảm thông và bênh vực cho người phụ nữ, người ta cũng thường hay lên án và phê phán những gã đàn ông lừa gạt, phụ bạc khi yêu. Trong truyện ngắn của mình, Nguyễn Ngọc Tư thỉnh thoảng cũng có đề cập đến vấn đề này (Đậm trong Giao thừa, Xuyến trong Duyên phận so le, đào Hồng trong Cái nhìn khắc khoải, Nga trong Đau gì như thể…), tuy vậy, phần nhiều đó chỉ là những chi tiết thoáng qua và không phải là chủ đề chính trong những câu chuyện tình yêu dang dở của Nguyễn Ngọc Tư. Từ góc nhìn riêng của mình, Nguyễn Ngọc Tư thường hay bênh vực cho những người con trai, những người đàn ông khi yêu. Đọc truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư viết về đề tài tình yêu dang dở chúng tôi nhận thấy ở chị một suy nghĩ, một quan niệm mang đậm tính nhân văn là: nếu không may một mối tình nào đó bị đổ vỡ thì người đàn ông cũng đau khổ không kém gì người phụ nữ. Nguyễn Ngọc Tư cho rằng, trong cuộc sống, trong tình yêu cũng có không ít người phụ nữ phụ bạc, và chính họ cũng là nguyên nhân gây nên bi kịch tình yêu hoặc gia đình tan vỡ chứ không phải riêng gì người đàn ông. Vì thế, trong rất nhiều truyện ngắn, Nguyễn Ngọc Tư đã tỏ thái độ không đồng tình với những người phụ nữ như thế và qua đó cất lên tiếng nói cảm thông và chia sẻ với những người đàn ông sâu sắc, một lòng một dạ, khi yêu. Rộng hơn nữa, Nguyễn Ngọc Tư luôn dành sự trân trọng cho những người đàn ông sống có nghĩa khí, giàu lòng vị tha, sẵn sàng đùm bọc, cưu mang, chia sẻ và nhận lấy trách nhiệm nuôi những đứa con riêng của những người phụ nữ không may bị phụ tình... Bảng thống kê và thuyết minh của chúng tôi về các nhân vật là những người đàn ông trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn nhận định trên:

STT Tên tác phẩm Tên nhân vật nam chính Nội dung việc làm của nhân vật nam
1 Cuối mùa nhan sắc Ông chín Vũ Đứng ra nhận lấy trách nhiệm là cha đẻ của con đào Hồng với kép Trường Khanh khi đào Hồng bị phụ bạc; yêu thương bảo bạc đao Hồng đến cuối đời.
2 Lý con sáo sang sông Phi Biết mình nghèo, khó mang lại hạnh phúc cho người mình yêu là Út Thà, Phi đã đi dò la tin tức, tìm hiểu gia cảnh của chồng sắp cưới người yêu sau đó về khuyên người yêu yên tâm đi lấy chồng.
3 Qua cầu nhớ người Hai Nhớ Bán hết ruộng vườn để lấy tiền bắc cầu cho người dân trong ấp Đội Đỏ đi lại dễ dàng; đồng thời cũng mong nối lại tình phu thê với người vợ phụ bạc đã ôm đứa con chung của hai người về bên kia sông.
4 Cái nhìn khắc khoải Ông Hai Cưu mang người đàn bà bị chồng bỏ rơi; xuôi ngược dò la tin tức để tìm chồng cho chị ta.
5 Cải ơi Ông Năm Nhỏ, Quách Phú Thàn Ông Năm Nhỏ, bôn ba đi tìm đứa con riêng của vợ suốt 12 năm trời; Quách Phú Thàn đùm bọc cưu mang cô gái làm “tiếp viên” quán bia, mồ côi cha mẹ từ nhỏ tên Diễm Thương.
6 Chiều vắng Tư nhớ Chung thủy chờ đợi vợ đến trọn đời dù biết rằng vợ đã theo chồng xuất ngoại (do sự chia rẻ của mẹ vợ).
7 Mối tình năm cũ Ông Mười Cưu mang con riêng của vợ; không muốn vợ đau khổ vì mỗi lần nhắc đến quá khứ với người chồng trước là liệt sĩ Nguyễn Thọ (cũng là người bạn, người đồng chí) mà chịu tiếng oan là ích kỷ, hẹp hòi và ghen với quá khứ của vợ .
8 Nước chảy mây trôi Thầy Nhiên Sống ngay thẳng, trung thực, trách nhiệm với công việc; yêu và cưu mang vợ và con riêng của vợ đến nỗi bị đuổi ra khỏi ngành giáo dục.
9 Giao thừa Quý Hiểu, yêu, chia sẻ và sẵn sàng chấp nhận Đậm – cô gái bị người yêu phụ bạc có một đứa con riêng
10 Bến đò xóm miễu Lương Cưu mang, đùm bọc Bông – cô gái là “tiếp viên” quán nhậu Đêm Sầu sau khi cô bị tai nạn dẫn đến liệt nửa thân dưới và không còn khả năng làm mẹ.
11 Bởi yêu thương Sáu Tâm Vì cứu cô đào chung đoàn hát là Điệp (cũng là vợ anh sau này) khi sàn diễn sân khấu bị sụp đổ phải tháo khớp đôi chân nên phải từ bỏ ước mơ làm nghệ sĩ.
12 Chuyện vui điện ảnh Chú Sa Vì muốn có tiền để phụ giúp gia đình người yêu (có một đứa con riêng) chú Sa nhận lời đóng phim vào vai phản diện (một tên ác ôn) nên bị mọi người trong khu phố xa lánh.
13 Đời như ý Chú Đời Người đàn ông hát rong bị mù đôi mắt phải cưu mang hai đứa con và người vợ nửa điên nửa tỉnh cuối cùng đã chết trong sự đói khát, bệnh tật.
14 Hiu hiu gió bấc Hết Hiếu thảo với cha, nghĩa tình với hàng xóm, hi sinh tình yêu rất đẹp của mình cho người yêu đi lấy chồng.
15 Biển người mênh mông Sáu Đèo Vợ bỏ đi vì trong một lần hai vợ chồng cãi nhau nên phải rong ruổi, lặn lội đi tìm vợ suốt 40 năm để nói lời xin lỗi và mong được sự tha thứ.
16 Nhớ sông Ông Chín Vợ mất vì một tai nạn trên sông, một mình ở vậy nuôi con (hai con gái).
17 Đau gì như thể Tư Nhớ Vợ bỏ đi, bị tiếng oan là loạn luân với con gái nên đã bị chính quyền bắt giam sáu ngày đêm và hàng xóm chê cười, xa lánh.
18 Người năm cũ Nhân vật người đàn ông Chung thủy nghĩa tình với người yêu dù hai người không đến được với nhau
19 Một dòng xuôi mải miết Sáng Giữ lời hứa với mẹ, lặng lẽ hi sinh và vun bồi hạnh phúc cho đứa em gái.
20 Thương quá rau răm Ông Tư Mốt Tận tụy, hết lòng hết dạ tạo mọi điều kiện tốt nhất mong giữ chân một bác sĩ trẻ ở lại chăm sóc cho người dân ở cù lao Mút Cà Tha.
21 Ngày đã qua Nguyên Hết lòng, hết dạ với bạn bè và dù đang mang trong mình căn bệnh ung thư phổi quái ác.
22 Nhà cổ Tứ Hải, Tứ Phương Hai anh em sống nghĩa tình với xóm giềng; lúc nào cũng yêu thương và đùm bọc nhau.


Qua nội dung bảng thống kê cho chúng ta thấy, Nguyễn Ngọc Tư rất có ý thức trong việc đề cao cũng như ca ngợi và dành nhiều tình cảm ưu ái cho những người đàn ông trong cuộc sống nói chung và trong tình yêu nói riêng. Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến khi nhận xét về truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp những năm đầu thập niên tám mươi của thế kỷ XX cho rằng, truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp có thiên hướng ca ngợi và đi tìm vẻ đẹp ở những nhân vật là những người phụ nữ. Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến gọi đó là “thiên tính nữ” trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp. Ông nói: “…Trong các nhân vật nữ, có những con người ưu tú, nhiều người đáng gọi là liệt nữ. Nó là hiện thân của nguyên tắc tính nữ hoặc thiên tính nữ. Đó là nàng Bua, nàng Sinh, là chị Thắm và con gái thủy thần, là Xuân Hương và Bé Thu, là chị Sinh và người thiếu phụ chèo đò về bến Tầm Xuân…Thiên tính nữ trước hết là tinh thần của cái đẹp và tất cả những nhân vật nữ này đều đẹp, mỗi người một vẻ.”[3]
Ở đây, chúng tôi không có ý đi sâu bàn luận về nhận định trên của giáo sư Hoàng Ngọc Hiến. Chúng tôi chỉ muốn qua đây làm một sự so sánh, nếu như truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, nhà văn có thiên hướng đi tìm vẻ đẹp của cuộc sống và con người thông qua hình tượng những nhân vật nữ thì ngược lại, truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, chị có thiên hướng đi tìm vẻ đẹp của cuộc sống và con người thông qua hình tượng những nhân vật nam. Lẽ thường, trong cuộc sống, khi nói đến tình yêu dang dở người ta rất hay lên án và kết tội cho người nam như thể là nguyên nhân của sự đổ vỡ và chỉ có người nữ mới chịu nhiều đau khổ. Thế nhưng, truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, cho thấy ở chị một cái nhìn độ lượng và công bằng hơn đối với những người đàn ông. Trong nhiều trường hợp, nhân vật người đàn ông trong truyện ngắn của chị là những con người rất cao thượng và nghĩa khí. Điều này đã góp phần làm cho truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư thêm phần nhân ái và nhân văn hơn.
Qua những gì đã phân tích, chúng ta thấy tư duy nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư thể hiện một cái nhìn mang tính phản biện xã hội khá sâu sắc - một cái nhìn đa chiều đầy sáng tạo và mang đậm chất nhân văn. Chúng tôi cho rằng đây là một trong những nét riêng rất độc đáo của ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư trong quá trình phản ánh những vấn đề của hiện thực đời sống.

***

Tóm lại, ai đã đọc truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư sẽ không bao giờ quên những mối tình dang dở mà chị đã đề cập và phản ánh. Tuy sống trong xã hội hiện đại nhưng khi viết về đề tài tình yêu Nguyễn Ngọc Tư có nét gì đó rất truyền thống. Việc tái hiện những câu chuyện tình yêu ở vùng thôn quê Đồng bằng sông Cửu Long ở góc độ nào đó đã nói lên cách tiếp cận hiện thực cuộc sống và con người từ góc nhìn văn hóa đồng thời cùng chính là “hành trình” tìm về cội nguồn của nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư. Đọc truyện ngắn của chị viết về những mối tình dang dở làm người đọc nhớ đến những câu chuyện tình yêu – cũng là một nét phong cách riêng trong thơ của Nguyễn Bính trước 1945. Cũng viết về tình yêu của những chàng trai cô gái ở thôn quê; cũng là những mối tình dang dở nhưng tất cả đều rất đẹp và đáng yêu bởi rất trong sáng, cao thượng và đặc biệt là rất “chân quê”:
“Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn
Hai người sống giữa cô đơn
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi
Giá đừng có giậu mồng tơi
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng…”
(Nguyễn Bính - Người hàng xóm)
Bên cạnh đó, khi đề cập đến vấn đề dang dở trong tình yêu Nguyễn Ngọc Tư lại có một cái nhìn rất sáng tạo, đó là luôn lên tiếng bênh vực, ca ngợi cũng như dành sự trân trọng đối với các nhân vật là những người đàn ông chân thành, thủy chung, son sắt khi yêu.

2.2 Những miền ký ức buồn

Đây là một trong những mảng nội dung tự sự quan trọng trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Người đọc sẽ bắt gặp trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư hình ảnh những con người thuộc mọi thành phần, mọi lứa tuổi lúc nào sống trong nỗi nhớ niềm thương về những nơi mà họ đi qua; về những kỷ niệm với những người họ từng gặp gỡ và thương yêu trên bước đường mưu sinh; hoặc những biến cố trong cuộc đời của chính họ hay của những người thân quen...
Đọc Nguyễn Ngọc Tư ngay ở cách đặt tên truyện thôi cũng đã gợi lên cho người đọc một cảm giác về những cái gì đó thuộc về tiềm thức, thuộc về kỷ niệm như: Ngày đã qua, Dòng nhớ, Nhớ sông, Qua cầu nhớ người, Hiu hiu gió bấc, Chuyện của Điệp, Nhà cổ, Ấu thơ tươi đẹp, Một chuyện hẹn hò, Của ngày đã mất, Mối tình năm cũ, Thương quá rau răm, Người năm cũ,… Bên cạnh đó là hàng loạt những từ mở đầu những đoạn văn mang ý nghĩa hồi tưởng về những chuyện xảy ra trong quá khứ, trong tiềm thức như: “hồi”, “hồi đó”, “hồi nhỏ”, “hồi còn”, “hồi mới vô...”, “hồi xưa”, “cái hồi”, “cái lần’, “cái bữa”, “ngày xưa”, “lúc đó”, “lúc nhỏ’, “năm đó”, “dạo trước”, “một bữa”, “bữa nọ”, “năm ... tuổi”, “sau nầy”, “có lần”, “ngay từ lúc ấy”, “suốt những năm tháng…”, “bây giờ”, “…năm trước”, …
Ngoài ra, người đọc sẽ dễ dàng bắt gặp khá nhiều những bức tranh thiên nhiên cũng như không khí cuộc sống của vùng Đồng bằng sông Cửu Long qua lời kể của các nhân vật mà chỉ những ai từng sống ở xứ sở này, từng trải qua những công việc tương tự mới hiểu, mới yêu, mới nhớ. Dễ thấy nhất là hình ảnh thiên nhiên, sông nước, xuồng ghe tấp nập và những con người lênh đênh xuôi ngược kiếp thương hồ.
Bên cạnh đó là ký ức về các bầu, đoàn gánh hát; các nghệ sĩ cải lương một thời rong ruổi khắp các nẻo đường phục vụ người dân vùng sông nước miền Tây Nam bộ.
- “Hồi đó, đoàn Mây Mùa Thu về hát ở đình Tân Thuận. Hôm ấy đoàn hát vở “Đời cô Lựu” thiệt khuya… Lúc xả giàn là tới đoạn Luân quỳ xuống ngang gối, ôm cô Lựu ngẩng mặt lên, kêu mẹ. Trời ơi, San bưng rổ khoai ế đứng nhìn mà rưng rưng nước mắt…” (Bởi yêu thương)
- “Hồi còn ở đoàn cải lương Bông Tràm thì vui, đóng vai quân sĩ cũng vui, rồi đoàn giải thể, phía bên ca múa nhạc nhận Phi về, mùa nắng thì đi nông thôn, mưa ở lại thị xã, bạn đồng nghiệp rủ Phi đi hát rong ở các quán nhậu, nhà hàng, chạy “sô” đám tang, đám cưới.” (Biển người mênh mông)
Đi vào những trường hợp cụ thể, dễ thấy nhất trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư là những “dòng nhớ”, những dòng ký ức của những ông già Nam bộ về một thời tuổi trẻ như: ký ức về một thời chiến đấu bảo vệ quê hương làng mạc (Ngọn đèn không tắt, Mối tình năm cũ, Nỗi buồn rất lạ, Vết chim trời…); ký ức về một lỗi lầm nào đó mà chính họ đã vô tình gây ra (Cải ơi, Biển người mênh mông, Cánh đồng bất tận, Làm má đâu có dễ) và đặc biệt nhất là ký ức về mối tình dang dở thời trai trẻ (Dòng nhớ, Chiều vắng, Cái nhìn khắc khoải, Đau gì như thể, Cuối mùa nhan sắc, Người năm cũ)…
Trong Ngọn đèn không tắt, người đọc bắt gặp hình ảnh một ông già Nam bộ (ông Hai Tương) luôn giữ trong tâm khảm hình ảnh người anh hùng dân tộc ở địa phương mình mà ông gọi là “Thầy”. Ông Hai Tương hàng năm đều lấy câu chuyện ấy làm chủ đề chính để kể lại lịch sử khởi nghĩa của người dân Xóm Rạch Ròi quê ông với một niềm tự hào vô bờ bến. Đặc biệt hơn, những miền ký ức, những kỷ niệm đẹp và đầy tự hào của ông Hai Tương về Thầy đã được ông truyền lại cho đứa cháu gái của mình là Tươi như để nhắc nhở thế hệ cháu con phải biết ghi nhớ và giữ gìn truyền thống đấu tranh của cha ông.
“Ông nội nó ngộ lắm. Ông nói cho nó biết sở dĩ bùn xứ nó mặn là vì có rất nhiều xương máu của chú bác cô dì đã đổ xuống, trong đó đương nhiên là có máu của Thầy, của mấy anh em khởi nghĩa. Ông nói cho nó biết sống làm sao như cây đước thẳng thuột ưỡn ngực giữa sình lầy và còn nhóc chuyện nữa. Tươi cảm thấy mình phải có nhiệm vụ là ghi nhớ những gì mà ông nội nó nói.”
Nếu như trong Ngọn đèn không tắt là hình ảnh ông già Nam bộ luôn sống với những kỷ niệm của một thời chiến đấu thì trong Biển người mênh mông, người đọc lại bắt gặp hình ảnh một ông già Nam bộ khác, cả đời không sao quên được những tháng ngày hạnh phúc với người vợ cũ. Truyện là hình ảnh ông già Sáu Đèo lúc nào cũng mang theo bên mình một con bìm bịp với hành trình đi tìm người vợ năm xưa suốt bốn mươi năm ròng. Ông Sáu Đèo vốn là dân thương hồ, sống trên sông nước, hình ảnh con bìm bịp ông mang theo bên mình chính là một kỷ vật sống nhắc nhở ông về một thời gắn bó với sông nước quê nhà - nơi ông từng có một cuộc sống nghèo nhưng hạnh phúc với người vợ trên chiếc ghe xuôi ngược:
“Có đêm, con bìm bịp kêu suốt, những tiếng bịp bịp ngắn ngủn buồn thiu thỉu, ông bảo với Phi, nó nhớ sông đó. “Lúc nào qua thấy nhớ sông nó đều kêu như vậy”. Ông kể, hồi trẻ, ông toàn sống trên sông, ông có chiếc ghe, hai vợ chồng lang thang xứ này xứ nọ. Gặp mùa lúa thì gặt mướn, gặp mùa vịt đổi đồng thì chở thuê, gặp rẫy bí, rẫy khóm thì mua về bán chợ nổi Cà Mau, nước ngược cắm sào đậu lại thổi cơm, bìm bịp kêu, nước bò ra bãi, ông cho ghe ra bến. Cuộc sống nghèo vậy mà vui lắm.”
Hay trong Cái nhìn khắc khoải người đọc lại bắt gặp hình ảnh ông Hai – một ông già Nam bộ làm nghề nuôi vịt chạy đồng lúc nào cũng giữ mãi hình bóng người vợ một thời đầu ắp tay gối với mình trong một căn nhà nhỏ. Đây là miền ký ức của riêng ông Hai về người vợ xấu số năm nào:
“Ở căn nhà lá cũ mèm này, ông có nhiều kỷ niệm. Mỗi khi trở về nó trở thành những dòng dịu ngọt trong ông, nó chảy khẽ giữa những mạch máu. Những ngày thơ ông có ba má, những ngày trẻ ông có người chăn gối cùng. Có cây lụa bên nhà làm chứng, mỗi lần đổ bánh xèo, vợ ông ra hái đọt lụa đứng tần ngần, “phải ảnh có nhà để ăn”. Chiến tranh ông đi biền biệt. Ngày về chỉ còn đứa con trai. Nó khóc, kể, “bữa đó cúng đình có hát cải lương, má rủ con đi. Tuồng Thoại Khanh Châu Tuấn đó ba. Hát chưa xong đoạn lúc Thoại Khanh ngồi đờn cho công chúa Châu Tuấn nghe, thì pháo đằng đồn Chẹt bắn lại, má con chết luôn”. Mùa đó, lụa ra lá từng chùm trắng xanh, non nhuốt. Ông bắt thèm ứa nước mắt”
Tương tự như vậy, trong Người năm cũ, người đọc cũng bắt gặp hình ảnh một người đàn ông mang trong mình một mối tình sâu đậm và cất nó trong một góc riêng của tâm hồn đến cuối cuộc đời. Nguyễn Ngọc Tư không nhắc đến tên ông, chỉ biết lúc trẻ ông theo cách mạng, yêu một người con gái nhưng tình yêu ấy không thành vì người ông yêu là con của tên xã trưởng khét tiếng ác ôn. Yêu nhau thắm thiết nhưng không đến được với nhau, ông mong đến ngày hoà bình để có thể gặp lại người xưa. Ngày đó rồi cũng đến nhưng người con gái năm xưa đã có chồng, có con nhưng chồng bỏ đi vượt biên, ông muốn tiến tới nhưng người ấy sợ ảnh hưởng đến tương lai của ông nên đã từ chối. Điều đáng nói là cho đến tận những năm cuối đời, người đàn ông ấy vẫn không thể nào quên mối tình đầu cũng như người con gái ông yêu. Đặc biệt nhất là trong ký ức ông vẫn luôn là hình ảnh người xưa với bàn tay “ốp trầu chắc nụi”:
“Tôi thương cổ từ ốp trầu cổ bó. Ốp trầu chắc nụi, hai đầu cong cong như mái đình làng. Những lá trầu xanh đằm lên nhau khăng khít không chen lẫn một lá úa nào. Tôi thương cổ từ ngón tay cái bấm trầu đã mòn khuyết như trăng mùng tám”.
Không chỉ đề cập đến những miền ký ức của những bậc cao niên, truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư còn ghi lại những dòng ký ức của những thanh niên, trai trẻ. Đây là trường hợp của Tươi trong Ngọn đèn không tắt, của Kiên trong Cỏ xanh, của Dịu trong Sầu trên đỉnh Puvan, của Xuyến trong Duyên phận so le, của nhân vật xưng “tôi trong Một dòng xuôi mải miết…
Trong Nhớ sông, người đọc bắt gặp hình ảnh Giang – cô gái dù đã có chồng và theo chồng lên đất liền sống rồi nhưng lòng lúc nào cũng cồn cào một nỗi “nhớ sông”, nhớ chiếc ghe mà cô cùng gia đình một thời sinh sống. Truy tìm nguyên nhân nỗi “nhớ sông” đến kì lạ của cô người đọc chợt nhận ra, cô không chỉ nhớ sông, nhớ ghe vì đó là mái ấm một thời của cô mà sâu xa hơn đó còn là ký ức về một nỗi đau, nỗi buồn khôn nguôi về người mẹ đã vĩnh viễn gửi xương thịt mình trên sông nước trong một tai nạn bất ngờ. Mở đầu truyện ngắn, người đọc đã bắt gặp dòng hồi ức này của cô:
“Mỗi lần qua sông Cái Lớn, Giang lại nghĩ, chắc tới già, tới chết mình sẽ chẳng bao giờ rời chiếc ghe nhỏ này đâu. Cũng khúc sông này, năm giang mười tuổi, má Giang chết. Hôm đó trời mưa nhỏ, nhưng gió nhiều, gió tạt tay chèo liêu xiêu. Nước từ vàm sông cuồn cuộn đổ ra. Chiếc ghe bạt nước tấp vô xà lan chở cát. Ông Chín, ba Giang chống đằng mui ghe, má Giang chống đằng lái. Giang ngồi trong mui ghe ôm con Thủy vào lòng. Giang thấy rõ ràng, lúc cây sào trong tay má chỏi vào thành xà lan trượt hướt lên, má ngã xuống đầu đập vào cái gờ sắt, đôi chân còn bíu vào ghe. Rồi má cong lại như chiếc võng, hụp vào sông. Giang khóc điếng, bồng con Thủy, lồm cồm bò về đằng sau lái, Giang còn kịp nhìn thấy tóc má trôi xùm xòa phiêu phiêu trong dòng nước, rồi mất hút”.
Không giống như Giang, ký ức cuộc đời là một kỷ niệm đau buồn vì tận mắt chứng kiến cái chết của người mẹ, ký ức của Phi trong Biển người mênh mông là hình ảnh bà ngoại lúc nào cũng yêu thương lo lắng và nhất là bao giờ cũng nhắc nhở anh phải nhớ cắt tóc khi nó đã ra dài.
“Phi không nói gì hết, lòng anh lặng đi, nghe nhói ran cả ngực mà không biết niềm nhớ nó đang cựa quậy chỗ nào. Lâu lắm rồi mới có người nhắc anh chuyện tóc tai. Hồi ngoại anh còn sống, thấy tóc anh ra hơi liếm ót bà đã cằn nhằn:“Cái thằng tóc tai gì mà xấp xãi, hệt du côn”. Phi cười, “con làm nghệ sĩ, tóc phải dài chút đỉnh, chớ ngoại”. Ngoại nạt, “Người ta nhìn nghệ sĩ là nhìn tài, nhìn tánh chứ nhìn mái tóc sao?”. Phi không cãi nữa, cầm mấy ngàn chạy đi, lát sau đem cái đầu tóc mới về.”
Cuối cùng, nói về những miền ký ức trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư, có lẽ buồn và xót xa hơn cả là những miền ký ức của những đứa trẻ thơ. Đây là một điểm nhấn khá quan trọng trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Sở dĩ chúng nói như vậy là vì trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, hình ảnh những đứa trẻ thơ, nhất là những đứa trẻ có hoàn cảnh bất hạnh là một trong những vấn đề rất được chị quan tâm. Đó là trường hợp của San, Điệp, Phi lúc nhỏ trong Bởi yêu thương, Chuyện của Điệp, Biển người mênh mông; của Nương và Điền trong Cánh đồng bất tận; của thằng Sói và Nhiên (nhân vật kể chuyện xưng “tôi”) trong Ấu thơ tươi đẹp; của thằng Củi trong Sầu trên đỉnh Puvan; của Mỹ Ái trong Gió lẻ… Có thể nói, hầu hết trong những miền ký ức của những đứa trẻ này đều giống nhau một điểm đó là nỗi hụt hẩng vì bị người thân (cha hoặc mẹ) bỏ rơi.
Trong Cánh đồng bất tận, hình ảnh người mẹ trẻ đẹp một thời lúc nào cũng in đậm trong cuộc sống du mục bên bầy vịt cùng với người cha lạnh lùng của hai chị em Nương và Điền. Đặc biệt là với Nương, cô bé không chỉ nhớ mẹ qua những cử chỉ vỗ về yêu thương mà còn là nỗi đau vô bờ bến khi trong một lần phải vô tình chứng kiến cảnh mẹ mình ngoại tình với người đàn ông có chiếc ghe bầu bán tạp hóa ngay tại nhà.
“Đứa mười tuổi quay lưng lại, đứa chín tuổi úp mặt vô áo chị nó, nhưng cả hai vẫn như thấy rõ ràng, trên chiếc giường tre quen thuộc, má oằn uốn người dưới tấm lưng chơm chởm những nốt ruồi… Suốt nhiều năm sau đó tôi không dám nhớ má, bởi ngay vừa khi nghĩ đến má, lập tức hình ảnh ấy hiện ra. Theo đó là rực rỡ trên da thịt màu vải má tôi vừa đổi được (không phải bằng tiền hay lúa). Mà đáng lẽ phải nhớ tới khúc má nằm võng hát đưa mình ngủ ấy, hay đoạn má ngồi giặt áo bên hè, hay má cúi đầu giữa vầng khói mơ màng, thổi lửa bếp đun…”
Cũng là cảm giác hụt hẫng khi bị bỏ rơi, trong Ấu thơ tươi đẹp, người đọc lại bắt gặp những miền ký ức của hai đứa trẻ cùng cảnh ngộ: Cha mẹ ly dị, mỗi người đều có cuộc sống riêng, mỗi dịp hè đến chúng được người này đưa về ở với người kia. Ký ức tuổi thơ của hai đứa trẻ không có gì ngoài những chuyến đi và mỗi lần về bên cha hoặc bên mẹ và phải chứng kiến những điều mà lẽ ra ở tuổi của chúng không nên chứng kiến.
“Thằng nhỏ Sói này giống hệt em hồi trước. Dù nhà của cha em không có chó nhưng mỗi lần về là thêm một người phụ nữ bước lại vuốt tóc em hỏi, “Nhiên phải không nè? Nhiên năm nay bao nhiêu tuổi?”…Em ở lại với cha suốt mùa hè. Khi còn một tuần nữa tựu trường cha lại đưa em đi…”
Có thể thấy, tái hiện những miền ký ức buồn của những đứa trẻ, trước hết Nguyễn Ngọc Tư muốn bày tỏ sự chia sẻ cảm thông với những đứa trẻ có hoàn cảnh bất hạnh, không được may mắn trong cuộc đời. Đồng thời qua đó lên tiếng cảnh báo xã hội nhất là những bậc làm cha mẹ cần phải có trách nhiệm hơn nữa với những đứa trẻ do mình sinh ra. Tại sao với những đứa trẻ thơ không phải là những miền ký ức vui? Ai đã đánh cắp “ấu thơ tươi đẹp” của các em? Đó cũng là những câu hỏi được đặt ra để các bậc làm cha mẹ nghiêm túc tự vấn lại mình.

***

Tóm lại, với việc thường xuyên tái hiện những miền ký ức buồn của con người trong truyện ngắn của mình, ở góc độ nào đó cũng có thể xem là “hành trình về nguồn” của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư trong bối cảnh xã hội ngày một phát triển theo hướng “giao lưu”, “hội nhập” và những giá trị văn hóa truyền thống (văn hóa ứng xử) của cha ông đang có nguy cơ mất dần đi. Vì bị cuốn vào guồng máy sôi động, cuồng nhiệt và đầy biến động của cuộc sống hiện đại nên con người ta rất hiếm khi có thời gian ngồi ngẫm và tự vấn lại những gì đã xảy đến với bản thân mình cũng như với bạn bè và người thân. Qua những truyện ngắn của mình, Nguyễn Ngọc Tư muốn nói rằng con người sống và tồn tại trên đời không đơn giản chỉ là làm sao có cơm ngày hai bữa mà một phần còn nhờ những kỉ niệm, những miền ký ức mà họ giấu kín ở một góc khuất nào đó trong sâu thẳm tâm hồn. Những miền ký ức tuy buồn nhưng lại là nơi nuôi dưỡng tâm hồn những con người thật thà chân chất, giúp họ có thêm nghị lực trong hành trình gian nan và đầy bất trắc của kiếp người. Vấn đề này nhìn rộng ra có thể xem như một cảm hứng mãnh liệt nhằm thể hiện một cách lựa chọn và tiếp cận hiện thực đời sống từ góc nhìn văn hóa của Nguyễn Ngọc Tư. Có thể nói, Nguyễn Ngọc Tư đã làm sống lại những giá trị văn hóa truyền thống bao đời của người Việt Nam: con người sống có trước có sau giống như “cây có cội, nước có nguồn” và luôn lấy chữ tình, chữ nghĩa làm trọng.
Từ những vấn đề trên, có thể nói, đây cũng là một cái nhìn độc đáo góp phần làm nên thành công và sức hấp dẫn của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.

III
Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư – thái độ phê phán nhẹ nhàng, kín đáo những mặt trái của hiện thực cuộc sống

Như chúng tôi đã từng đề cập, trước những vấn đề của hiện thực đời sống, nhà văn khi phản ảnh vào tác phẩm bao giờ cũng thông qua đó gởi gắm, thể hiện một thái độ tình cảm, có khi là tán thành, ngợi ca cũng có khi là mỉa mai, phê phán, phủ nhận… Nói cách khác, đó chính là cảm hứng tư tưởng của tác phẩm - một phương diện không thể không đề cập đến khi tìm hiểu phong cách của một nhà văn ở phương diện nội dung tự sự. Bởi vì “Cảm hứng chính là năng lượng tình cảm của tác phẩm được tập trung nén lại, chỉ chờ độc giả để bùng cháy lên”; “Nội dung của cảm hứng tư tưởng trong tác phẩm bao giờ cũng là một tình cảm xã hội đã được ý thức. Đó có thể là những tình cảm đã được ngợi ca, vui sướng, biết ơn, tin tưởng yêu thương, đau xót, thương tiếc… Đó có thể là những tình cảm phủ định các hiện tượng tiêu cực xấu xa như tố cáo, căm thù, phẫn nộ, châm biếm, chế giễu, mỉa mai…Các tình cảm đó gợi lên bởi các hiện tượng xã hội được phản ánh trong tác phẩm tạo thành nội dung cảm hứng của tác phẩm.”; “Cảm hứng tư tưởng là một tình cảm mạnh mẽ, mang tư tưởng, là một ham muốn tích cực đưa đến hành động. Điều quan trọng là cần nhận ra cảm hứng như một lớp nội dung đặc thù của tác phẩm văn học.” [6]
Tìm hiểu nội dung truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư chúng tôi nhận thấy ẩn sau những câu chuyện, những vấn đề về hiện thực đời sống là một thái độ tình cảm rất rõ ràng của chị. Đó là thái độ phê phán những vấn đề thuộc về mặt trái, mặt tiêu cực của cuộc sống. Vấn đề này có thể nói được lặp đi lặp lại một cách có hệ thống chi phối toàn bộ quá trình sáng tác truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Có thể thấy, nổi bật lên trong nội dung phê phán của truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là hai vấn đề:
Thứ nhất, phê phán lối sống hời hợt, dửng dưng thiếu tình nghĩa, thiếu trách nhiệm của con người trong cuộc sống. Đây là vấn đề nổi bật và dễ thấy nhất trong phần lớn sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư. Ngọn đèn không tắt, Cải ơi, Nỗi buồn rất lạ, Ngỗn ngang, Lỡ mùa, Đau gì như thể, Chuyện của Điệp, Làm má đau có dễ, Qua cầu nhớ người, …
Thứ hai, phê phán những mặt trái, mặt tiêu cực của vấn đề đô thị hóa nông thôn trong xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tiêu biểu cho nội dung này là các truyện ngắn như: Giao thừa, Bến đò xóm Miễu, Duyên phận so le, Cánh đồng bất tận, Gió lẻ, Sầu trên đỉnh Puvan, Tình thầm, Thổ sầu, Ấu thơ tươi đẹp, Chuồn chuồn đạp nước…
Tuy nhiên, nếu nói như thế nhiều người sẽ cho rằng trong lịch sử văn học Việt Nam có rất nhiều nhà văn khi sáng tác cũng bộc lộ thái độ phê phán, vậy thì đâu là nét riêng làm nên phong cách của Nguyễn Ngọc Tư? Chúng tôi cho rằng để tìm ra nét riêng của Nguyễn Ngọc Tư ở điểm này cũng không phải là khó lắm bởi vì trong truyện ngắn của chị, thái độ phê phán được thể hiện một cách nhẹ nhàng và kín đáo chứ không gay gắt, báng bổ như trong cách thể hiện của khá nhiều nhà văn khác.

3.1 Phê phán lối sống hời hợt, thiếu tình nghĩa, thiếu trách nhiệm của con người trong cuộc sống.

Vấn đề này, ngay từ tập truyện đầu tay Ngọn đèn không tắt, Nguyễn Ngọc Tư đã bày tỏ thái độ không đồng tình với khá nhiều vấn đề của xã hội, đặc biệt là cách đối nhân xử thế của người với người trong cuộc sống hàng ngày. Điển hình là truyện Ngọn đèn không tắt. Đây là câu chuyện xúc động về một con người (ông hai Tương năm nào cũng đi kể chuyện khởi nghĩa) lúc nào cũng canh cánh bên lòng những kỉ niệm về đồng đội và lớp người đi trước đã ngã xuống vì độc lập tự do cho quê hương xứ sở. Thế nhưng, ẩn sau câu chuyện đầy ắp tình nghĩa về bài học đạo lý “uống nước nhớ nguồn” ấy là một thái độ phê phán rất kín đáo của tác giả. Lịch sử về những anh hùng ở địa phương đã hi sinh thân mình đổi lấy tự do cho quê hương thế nhưng chẳng còn mấy ai nhớ ngoài con bé Tươi là cháu ngoại ông. Điều đáng nói là những chuyện ấy năm nào cũng được ông Hai Tương kể đi kể lại không biết bao nhiêu lần. Thêm nữa, mỗi năm người của tỉnh đều đến mời ông đi nói chuyện vậy mà khi ông mất chẳng ai hay biết. Chuyện lịch sử và anh hùng dân tộc tuy hàng năm chính quyền địa phương đều tổ chức lễ kỉ niệm thế nhưng họ chỉ chú ý hình thức còn “nội dung” thì rất chiếu lệ. Nguyễn Ngọc Tư kín đáo phê phán như sau: “Năm rồi ông tư Lai đi thay, năm nay thơ tới trễ ông Tư đi biển ngày họp không về kịp. Cán bộ xã đút mũi xuồng lại rước. Bà cụ Hai rầu rĩ như mình đã ruồng rẫy, phụ phàng ai vậy, chép miệng than:
Thiệt rầu hết sức, nhà tui tưởng còn ai đi kể chuyện khởi nghĩa. Hổng ấy cho con Tươi đi chịu hôn?
- Nó nhỏ xíu hà, biết không?
- Nó tuổi con gà, hai chục rồi, nó lanh lắm.
- Thôi kệ, đi đại đi.
“…Đó là câu chuyện của cô, của ông nội cô, của những người xóm rạch. Họ kể chuyện đó bao nhiêu lần rồi? Các nhà viết sử nghe bao nhiêu lần rồi?”
Ngoài Ngọn đèn không tắt, các truyện còn lại như : Cỏ xanh, Nỗi buồn rất lạ, Ngỗn ngang… người đọc có thể thấy ẩn sau những con chữ và giọng kể buồn tênh của nhà văn là thái độ phê phán nhẹ nhàng kín đáo về những hờ hững dửng dưng của con người trong các mối quan hệ bạn bè, tình yêu, gia đình… Trong truyện ngắn Ngổn ngang, nhân vật Viên đã dứt khoát cắt đứt mối quan hệ yêu đương với Bảo - người mà cô rất yêu và định kết nghĩa vợ chồng, không chỉ vì Bảo đã phản bội cô mà chính là do sự “lầm lạc” và “không ra gì” của Bảo.
“Tôi biết nhiều chuyện hơn Bảo tưởng, hỏi Bảo tại sao hồ trộn không đủ chất lượng, toàn là cát làm sao đủ kết dính để đến nỗi tường đổ. Số xi măng lẽ ra được ngào hồ đã đi đâu? Bảo không trả lời. Bảo im lặng. Tôi nghĩ với cương vị giám sát công trình anh phải biết và đã biết. Hồi lâu, Bảo lên tiếng: “Dù sao anh đền cho chị ta mười triệu là xứng đáng rồi, chỉ đâu có bảo hiểm gì…”. Tôi tát Bảo thật mạnh. Da Bảo trắng quá nên in rành rạnh năm ngón tay tôi. Bảo bỏ đi…Tôi bật khóc vì yêu, Bảo đi vào con đường tội lỗi ấy khi nào?”
Đến những tập truyện tiếp theo như Biển người mênh mông, Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, Giao thừa, Cánh đồng bất tận, Gió lẻ và 9 câu chuyện khác… một lần nữa thái độ phê phán của Nguyễn Ngọc Tư ngày càng quyết liệt và sâu sắc hơn. Bên cạnh, việc ca ngợi những con người dám nghĩ dám làm, biết hi sinh lợi ích bản thân vì lợi ích của tập thể, Nguyễn Ngọc Tư cũng bộc lộ thái độ không chấp nhận về những việc làm sai trái, thiếu trách nhiệm của người nào đó đã gây ra những tổn hại và mất mát cho những người xung quanh. Trong đó nổi bật hơn hết là vấn đề những bậc làm cha làm mẹ thiếu sự quan tâm và trách nhiệm đối với những đứa con do chính mình sinh ra. Đây cũng là lý do giải thích vì sao trong tuyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư có khá nhiều nhân vật vốn là những đứa trẻ thơ sống trong nỗi thiếu thốn tình thương của cha mẹ; hoặc phải sớm lăn lộn mưu sinh để tìm miếng ăn, đặc biệt là có những đứa trẻ phải rơi vào những bi kịch cuộc đời rất đáng thương. Có thể thấy, Nguyễn Ngọc Tư đã tỏ thái độ khá quyết liệt khi phê phán vấn đề này qua hàng loạt những truyện ngắn như: Chuyện của Điệp, Làm má đâu có dễ, Biển người mênh mông, Bến đò xóm Miễu,… nhưng đặc biệt nhất có lẽ là ở Cánh đồng bất tận, Ấu thơ tươi đẹp và Gió lẻ.
Nhận xét về Cánh đồng bất tận, nhà văn Hữu Thỉnh cho rằng : “Một thông điệp nữa của Tư là lời cảnh báo về vấn đề gia đình, vấn đề trẻ em trong toàn xã hội: muốn xây dựng một môi trường đạo đức xã hội lành mạnh thì trước hết phải xây dựng môi trường đạo đức ngay trong gia đình mình. Gia đình trong “cánh đồng...” là một gia đình tan vỡ vì cả cha lẫn mẹ đã quay lưng lại với con cái. Theo tôi, Tư đã nêu lên một vấn đề bức xúc và cấp bách nhất hiện nay”. [8]
Có thể nói, một trong những nguyên nhân gây nên bi kịch đau lòng cho cuộc đời của hai chị em Nương và Điền chính là do những bậc làm cha mẹ sống ích kỷ và thiếu trách nhiệm với con cái. Qua bi kịch này phải chăng Nguyễn Ngọc Tư muốn nói rằng chính vì những việc làm ích kỉ và không suy tính của “người lớn” (dù cố ý ‎‎‎hay vô tình) đã để lại một hậu quả khủng khiếp - ở đây có thể nói đã gây nên một chấn thương tình cảm rất trầm trọng trong tâm hồn của hai đứa trẻ.
“Nên mỗi lần cha nhìn đăm đăm và mỉm cười với một người đàn bà mới, chúng tôi lại thắt thẻo… “Cha đẩy chúng tôi trượt dài vào nỗi thiếu thốn triền miên. Mỗi lần rời khỏi một nơi nào đó, thật khó để phân biệt chúng tôi bỏ đi hay chạy trốn. Chúng tôi đánh mất cái quyền được đưa tiễn, được xao xuyến nhìn những cái vẫy tay…”
Tương tự như ở Cánh đồng bất tận, ở những truyện ngắn Ấu thơ tươi đẹp, Nguyễn Ngọc Tư cũng tỏ thái độ không đồng tình với những bậc làm cha làm mẹ - những người chỉ vì cuộc sống bản thân đã vô tình đẩy con cái rơi vào nỗi “thiếu thốn triền miên” những tình cảm của gia đình:
“Thằng Sói đã ngủ, nằm co như dấu hỏi, như con tôm luộc chơ vơ trên cái đĩa lớn. Cô độc… Giữa bữa sáng, người cha nói, “tại chiêm bao thấy con đi lạc nên mới quýnh”. Thằng Sói ngoái mấy sợi mì quấn vòng quanh chiếc đũa, nó gật gù,“cha để lạc thì con mới lạc.”
Với Gió lẻ, có khá nhiều vấn đề quan trọng nữa mà Nguyễn Ngọc Tư muốn lên tiếng phê phán trong tác phẩm này (chúng tôi sẽ trình bày kỹ hơn phần sau). Tuy vậy, một lần nữa Nguyễn Ngọc Tư cho thấy thái độ không đồng tình của chị trước sự thiếu trách nhiệm của những bậc làm cha mẹ đối với con cái - những người lẽ ra phải có trách nhiệm nuôi nấng dưỡng dục đồng thời còn phải là tấm gương sáng để những đứa trẻ noi theo.
Nguyễn Ngọc Tư không chỉ phê phán lối sống hờ hửng thiếu trách nhiệm của những người lớn – những bậc làm cha mẹ đối với những đứa trẻ thơ mà còn phê phán sự quan liêu và thiếu trách nhiệm của những người lãnh đạo địa phương trước những khó khăn, những oan trái của những người dân lương thiện.
Lỡ mùa là truyện ngắn nói về sự quan liêu và thiếu trách nhiệm của những người lãnh đạo về vấn đề “quy hoạch treo” – một vấn đề có tính thời sự trong xu thế đô thị hóa nông thôn hiện nay ở nước ta. Hình ảnh ông Ba Già cùng những người nông dân lam lũ, khắc khổ phải lặn lội từ quê lên phố tìm gặp Chủ tịch tỉnh để hỏi vì sao đất Trảng Cò quê mình bị quy hoạch treo đã nhiều năm trời, trong khi bà con đang rất cần đất để canh tác làm người đọc không khỏi chạnh lòng và xót xa:
“Ông ba Già viết cái đơn văn phong chân chất y như ông cho tám mươi sáu hộ dân trong xóm ký, lặn lội lên tỉnh, nhưng lãnh đạo bận đi họp ở trung ương, chờ không được ông quay về. Bây giờ trời bắt đầu chuyển sang mưa, lại mùa mới nữa Trảng Cò buồn như bị bỏ rơi, nghe nói nhà nước đã chuyển quy hoạch sang Trảng Sáo rồi, lại thêm thay đổi nhiều lãnh đạo chủ chốt, xem ra người cũ đã chuyển đi chỗ khác, chắc quên mất tiêu luôn.”
Tương tự vậy, cũng là sự quan liêu và thiếu trách nhiệm của chính quyền địa phương đối với người dân, trong truyện ngắn Đau gì như thể, Nguyễn Ngọc Tư nói về trường hợp ông Tư Nhớ bị chính quyền xã bắt giam một cách oan ức vì cho rằng ông đã loạn luân với con gái mình. Thế nhưng, sau khi mọi chuyện sáng tỏ rồi ông Tư Nhớ làm đơn yêu cầu chính quyền xin lỗi và minh oan cho ông nhưng chẳng ai đoái hoài tới. Nỗi oan ức đầy cay đắng cũng như danh dự của một con người chân chất, nhân hậu bị người ta xúc phạm nghiêm trọng nhưng cuối cùng cả một hệ thống chính quyền địa phương chẳng một ai thèm quan tâm:
“Ông ra xã, công an xã cười khà khà, như đang nói về vụ bắt nhằm con cá lóc, hay con vịt con gà, “biết chú bị oan là tụi tui thả liền, chú còn đòi gì nữa?”. Ông cãi, tui đâu có đòi gì, nhưng cậu ra thanh minh với bà con Xẻo Mê dùm vài tiếng được không. Công an chạy qua hỏi chủ tịch, chủ tịch cười “chuyện của chú coi vậy mà căng lắm, hồi trước tới giờ chính quyền chưa xin lỗi trước dân lần nào, tôi đâu có dám phá lệ, hay chú lên huyện thử coi…” Rồi huyện chỉ lên tỉnh, tỉnh hứa để từ từ coi lại…”
***
Tóm lại, tỏ thái độ không đồng tình và phê phán lối sống dửng dưng hờ hửng, thiếu trách nhiệm của con người là một trong những nét cảm hứng nhằm thể hiện quan niệm và cái nhìn độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư về con người hướng thiện và sống hết mình vì người khác.

3.2 Phê phán những mặt trái của vấn đề đô thị hóa nông thôn

Về vấn đề này, tìm hiểu truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi nhận thấy, bên cạnh tình cảm trân trọng, ngợi ca dành cho những con người với những đức tính, những cách ứng xử cao đẹp trong cuộc sống; bên cạnh việc tái hiện những bức tranh thiên nhiên thanh bình, êm ả mang đặc trưng văn hóa ruộng vườn sông nước Cửu Long, Nguyễn Ngọc Tư cũng quyết liệt nhưng rất kín đáo bày tỏ sự không đồng tình của mình trước khá nhiều vấn đề có thể gọi là tiêu cực của xã hội trong hoàn cảnh đô thị hóa nông thôn.
Nhìn “bề ngoài” truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là bức tranh tái hiện cuộc sống và sinh hoạt của người dân nghèo vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Tuy vậy, nếu quan sát kỹ hơn chúng ta sẽ thấy, trong bức tranh sinh hoạt ấy, bắt đầu có sự vận động, biến chuyển theo hướng từ thôn quê ra thành thị; từ ruộng đồng, sông nước ra những khu đô thị, những khu công nghiệp đang trên đà đô thị hóa. Và đặc biệt hơn là đằng sau những những vấn đề hiện thực ấy là tiếng thở dài chua xót của nhà văn trước những va chạm, những rạn nứt và đổ vỡ những giá trị văn hóa truyền thống của làng quê nông thôn như một điều tất yếu không cách nào tránh khỏi. Nói khác đi, đây cũng chính là thái độ không đồng tình của Nguyễn Ngọc Tư về những mặt trái của đô thị hóa với nguy cơ tàn phá cấu trúc văn hóa làng quê nông thôn cả về vật chất lẫn tinh thần.
Trước hết, có thể thấy sự tác động của đô thị hóa đã làm cho cuộc sống của người dân quê ít nhiều bị xáo trộn. Sự êm ả, thanh bình vốn có của không gian làng xã bắt đầu có sự thay đổi. Làng quê nông thôn trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư giờ đây đã xuất hiện thêm những “dịch vụ” vốn là được xem là những sản phẩm và tệ nạn ở vùng đô thị.
Trong truyện ngắn Cải ơi, người đọc bắt gặp hình ảnh ông già Năm Nhỏ đang di chuyển từ ruộng đồng ra thành thị để tìm được đứa con nuôi thất lạc của mình; anh chàng Quách Phú Thàn và cô nàng Diễm Thương (tiếp viên quán “bia ôm”) vốn là những người từ thôn quê trôi dạt ra phố thị để mưu sinh.
Hay người đọc cũng bắt gặp cô Bông trong Bến đò xóm Miễu bị cuộc sống “nửa chợ nửa quê” làm cho “ô uế” khi từ một cô bé còn đang độ tuổi cắp sách đến trường chỉ trong một ngày đã “lột xác” thành cô tiếp viên ở quán “bia ôm” “Đêm sầu” bên kia sông:
“Con Bông giờ đã khác. Buổi sáng, Bông bận áo rách qua chợ, buổi chiều Bông về. Trên mình là chiếc váy ngắn, áo yếm, vai quàng hửng hờ hai cái dây nhỏ xíu có cũng vậy mà không có cũng vậy, vịn hờ cái áo khỏi tuột xuống… Người xóm qua đò xầm xì Bông đi bán bia ôm bên sông, quán “Đêm sầu”. Bốn giờ chiều Lương đưa Bông qua chợ. Bông nói giờ đó chưa có khách đâu, nhưng con mẹ chủ bắt phải mặc quần lửng ngồi ngoài băng đá đằng trước quán. Một bầy con gái ra đó giả đò ngắm mây trôi, coi xe cộ qua lại chơi nhưng thật ra là để chào hàng. Bông trở về lúc hai ba giờ sáng, quần áo xốc xếch, tóc mai dính bết vào khuôn mặt đậm đà son phấn. Đôi mắt dại đi vì say, vì mất ngủ…”
Hay thậm chí những vấn đề có tính thời sự rất nóng bỏng như \đẻ mướn, tình yêu đồng giới vốn không xa lạ gì trong quan hệ đời sống của những con người thành thị bắt đầu len lỏi xuống tận vùng sâu, vùng xa cũng được Nguyễn Ngọc Tư “cập nhật” và phản ánh rất kịp thời trong Làm mẹ, Tình thầm … Tuy vậy, có lẽ nghiêm trọng hơn cả là ở truyện ngắn Cánh đồng bất tận và sau này là ở tập Gió lẻ và 9 câu chuyện khác. Điều này cho chúng ta thấy đang có một sự xâm lăng rất táo tợn của mặt trái đời sống đô thị đối với những giá trị văn hóa làng quê nông thôn.
Với truyện ngắn Cánh đồng bất tận, có một vài ý kiến phản đối và cho rằng Nguyễn Ngọc Tư đã cố tình “bôi đen hiện thực” vì trong tác phẩm đề cập đến quá nhiều cái xấu. Chúng tôi cho rằng, những nhận định như thế là máy móc và thiếu tính chiều sâu trong nhận thức và thẩm định văn chương nghệ thuật. Có thể nói, những bi kịch của con người mà Nguyễn Ngọc Tư đã phản ánh trong tác phẩm có thể làm nhiều người đau đớn và khó chấp nhận nhưng cũng không thể dựa vào đó để nói rằng Nguyễn Ngọc Tư đã cố tình “bôi đen” hiện thực. Cần phải hiểu Cánh đồng bất tận là một tác phẩm nghệ thuật, mà một tác phẩm nghệ thuật không đơn giản chỉ là sự “sao chép hiện thực một cách thô thiển” theo như ý muốn của một số người. Có thể nói, ở góc độ nào đó, Cánh đồng bất tận là những dự cảm, dự báo của Nguyễn Ngọc Tư về những mặt trái của nền kinh tế thị trường, của đô thị hóa nông thôn. Những Cánh đồng bất tận rồi đây sẽ được thay bằng những khu công nghiệp, những khu đô thị hào nhoáng. Thế nhưng, liệu sự hào nhoáng bề ngoài có thật sự mang đến hạnh phúc cho con người? Và người ta sẽ làm gì trước mối quan hệ lỏng lẻo, xa lạ giữa người với người? Phải hiểu Cánh đồng bất tận trong chiều sâu như thế mới thấy hết giá trị đích thực của tác phẩm này. Có lẽ, trong tương lai cùng với quá trình đô thị hóa, những cánh đồng bao la (vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và cả nước nói chung) sẽ bị “thu hẹp dần”. Chúng ta rồi có lúc sẽ bị ngả nghiêng, chao đảo vì thế, phải cảm ơn Nguyễn Ngọc Tư bởi Cánh đồng bất tận đã cho mỗi chúng ta có cơ hội tự vấn lại chính mình.
“Những cánh đồng trở thành đô thị, những cánh đồng ngoa ngoắt thay đổi vị của nước, từ ngọt sang mặn chát; những cánh đồng vắng bóng người, và lúa rày mọc hoang nhớ đau nhớ đớn bàn chân xưa nghẽn trong bùn quánh giờ đang vất vơ kiếm sống ở thị thành. Những cánh đồng đó, đã hắt hủi cây lúa (và gián tiếp từ chối đàn vịt). Đất dưới chân chúng tôi bị thu hẹp dần. Nhưng ngay từ đầu, chúng tôi đã tự làm quẩn chân mình, vì không thể quay lại những cánh đồng cũ (với người quen cũ). Tôi đã từng trở ngược về những nơi đó theo cách của tôi, bằng mường tượng. Tôi gặp nhiều đứa trẻ tên Hận, tên Thù…Những đứa trẻ nhàu úa, cộc cằn, cắm cẳn, chỉ tiếng chửi thề là tươi rói, nhảy ra xoi xói ở đầu môi”.
Nói đến thái độ phê phán của Nguyễn Ngọc Tư về những mặt trái của đô thị hóa nông thôn, không thể không bàn đến vấn đề con người ở làng quê nông thôn đang đứng trước nguy cơ đánh mất đi những phẩm chất thật thà chân chất vốn có của mình bởi những tác động và ảnh hưởng từ những cơn “gió lẻ” độc hại từ thành thị thổi về. Đây là vấn đề được Nguyễn Ngọc Tư thể hiện khá xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống truyện ngắn của mình mà đặc biệt nhất là ở tập truyện Gió lẻ và 9 câu chuyện khác. Trong Gió lẻ, người đọc bắt gặp hình ảnh của cô bé Mỹ Ái, gã tài xế và anh chàng Dự - lơ xe đang chấp chới giữa ranh giới là những con đường giao nhau giữa nông thôn và thành thị. Tất cả họ đều đang vật lộn với cuộc sống khó khăn, nhưng nguy hiểm hơn là đang bị tác động và chịu sự ảnh hưởng nghiêm trọng của lối sống, cách ứng xử chốn đô thị có phần gì đó ích kỷ và rất xa lạ so với ở nông thôn.
Có ý kiến cho rằng tập truyện này là một “tiếng nói” khác có phần “lạc điệu” so với các tập truyện trước đó trong hệ thống truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Chúng tôi cho rằng, nhận xét trên là chưa thỏa đáng. Nếu chúng ta quan sát kỹ, sẽ thấy đây là tập truyện thể hiện sự phát triển liên tục và ngày một sâu sắc hơn vấn đề lối sống giả dối, thiếu trung thực đến mức trở thành thói quen rất đáng sợ của con người trong cuộc sống hiện nay trong toàn bộ hệ thống truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Và đây cũng chính là mạch truyện quan trọng trong hệ thống truyện ngắn của chị góp phần làm sáng tỏ cho quan niệm “con người hướng thiện” mà chúng tôi đã có lần đề cập. Có khá nhiều truyện ngắn có thể xem là những cột mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển của mạch tư tưởng này trong hệ thống truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư như: Ngổn ngang (tập Ngọn đèn không tắt), Qua cầu nhớ người (tập Nước chảy mây trôi), Nửa mùa (tập Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư); Ngày đùa (tập Giao thừa), Cánh đồng bất tận, Một trái tim khô (tập Cánh đồng bất tận), Gió lẻ, Tình thầm (tập Gió lẻ và 9 câu chuyện khác).
Trong truyện ngắn Ngày đùa, Nguyễn Ngọc Tư kể lại nguyên nhân cái chết đau lòng của San chỉ vì những lời nói dối của bạn bè trong ngày ngày quốc tế nói dối 1.4. San tin lời bạn bè rằng người yêu trước đây của cô là Phương đã chết để rồi chính cô mới là người chết thật vì một tai nạn giao thông khi cô chạy xe từ dưới quê lên thành phố để gặp mặt người yêu lần cuối. Qua truyện ngắn này, Nguyễn Ngọc Tư muốn nói rằng, nhiều người vốn rất hay nói dối trong ngày 1.4 để trêu đùa nhau, tuy nhiên, chính thói quen nói dối của không ít người trong ngày này đã vô tình gây nên những hậu quả rất nghiêm trọng mà người ta không thể lường trước được. Nguyễn Ngọc Tư đã gián tiếp phản đối cách con người ta sống giả dối, thiếu trung thực dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Đến Cánh đồng bất tận, có thể nói bi kịch về thân phận của người nông dân trong tác phẩm này không đơn giản chỉ là cuộc sống nghèo khổ đói khát về vật chất, về miếng cơm manh áo, thông qua tác phẩm này, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư còn cho chúng ta thấy một bi kịch khác của con người, đó là sự “đói khát”, sự cằn cỏi, sự chai sạn về mặt tình cảm, về mặt tinh thần của con người. Và đây mới thật sự là giá trị nhân đạo, giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm này.
Trong tác phẩm, bi kịch của hai chị em Điền và Nương không đơn giản chỉ là vấn đề “miếng cơm manh áo” mà chính là sự đói khát về tình cảm của cha mẹ, của con người với con người trong cuộc sống. Trong tiềm thức của hai chị em Nương luôn là hình ảnh người mẹ trẻ đẹp một thời nhưng tất cả đều là mầm mống và dấu diệu báo trước một sự chia lìa, xa cách do sự thiếu chung thủy của người mẹ ấy.
“Má ngó chúng tôi, hỏi: “Gì mà nhìn trân trân vậy hai đứa?”. Tôi nói,“Má lạ quá hà, nhìn không ra”. Má mừng quýnh, “Thiệt hả?”. Tôi muốn khóc quá chừng, má con xa lạ với nhau sao lại mừng?”
Và đúng như thế, mẹ của chúng cuối cùng do không chống lại nổi sự cám dỗ của người đàn ông có chiếc ghe bán đủ thứ đồ thực phẩm đã nhẫn tâm bỏ đi. Còn lại người cha, cứ ngỡ ông sẽ dành tất cả tình cảm của mình cho hai đứa con yêu thương để bù đắp sự trống vắng của người mẹ thì trái lại ông cư xử với chúng như những người dưng xa lạ. Vì thế, tuy sống với cha nhưng hai chị em Nương và Điền hầu như chỉ biết “giao tiếp” với… đàn vịt mà chúng chăn thả trên những Cánh đồng bất tận. Chúng thèm quay quắt một ánh nhìn trìu mến của cha mà lẽ ra đương nhiên chúng được quyền hưởng. Chúng thèm được nghe ông sai đi mua rượu, sai nướng vài con khô để ông vui thú với bạn bè. Thậm chí chúng còn thèm được nghe ông la hét, đánh mắng dù họ chẳng lầm lỗi gì. Nói tóm lại, họ khao khát được giao cảm, được trò chuyện giống như bầy vịt chăn thả trên đồng cần có lúa để ăn mà đẻ trứng. Họ thèm được “đối thoại” với cha mình dù đó là những lời nạt nộ, xa lạ như với người dưng nước lả. Những đoạn văn sau cho chúng ta thấy bi kịch trên của chị em Nương và Điền:
- “Trời ơi, trừ chị em tôi ra không ai thấy được đằng sau khuôn mặt chữ điền ngời ngợi đó là một hố sâu đen thẳm, bến bờ mờ mịt, chơi vơi, dễ hụt chân”.
- “Có lần, khi đi trên sông, thằng Điền giả đò té chìm nghỉm mất tăm, tôi giả đò kêu la chói lói, cha hơi giật mình hoảng hốt, dợm lao xuống nước, nhưng rồi cha điềm nhiên ngồi lại, tiếp tục gọt đẽo, chắc là nhớ thằng Điền đã lặn lội nước sông từ năm bốn tuổi, sức mấy mà chết trôi.”
- “Có lần, đi qua xóm, trong một buổi chiều, chúng tôi gặp những ông già ngồi chơi với cháu, thằng Điền đứng tần ngần bên hàng rào dâm bụt, bảo, “ phải chi ông nầy là ông nội mình hé Hai?” Nghe câu đó tôi bỗng thấy mình nghèo rơi nghèo rớt đến nỗi không có… ông nội để thương, thèm muốn bên đường.”
Trong tác phẩm còn một chi tiết làm cho người đọc không khỏi bất ngờ và bàng hoàng. Đó là chi tiết cô bé Nương hay tìm đến con vịt mù trong đàn để trút hết những nỗi niềm tâm sự, mong tìm được sự cảm thông chia sẻ. Đây là một chi tiết đắt giá làm người đọc phải giật mình về mối quan hệ lỏng lẻo, xa lạ giữa người với người trong cuộc sống. Chúng ta thử nghĩ xem vì sao trong cuộc sống hiện đại con người ta lại cô đơn, bơ vơ và lạc lỏng đến như vậy? Đến đây có thể nói cái nghèo cái đói về vật chất, về miếng cơm manh áo đối với người nông dân bây giờ là chuyện rất… bình thường. Nói hình ảnh một chút là dù sao họ cũng đã quen với cách “sống chung với lũ”. Chỉ có cái nghèo, cái đói về mặt tình cảm, nỗi thiếu thốn về chữ tình, chữ nghĩa, sự giả dối trong đối xử giữa người với người mới là điều quá sức tưởng tượng của họ.
Đến Gió lẻ, đây là truyện ngắn đã thể hiện và phát triển một cách hoàn chỉnh, trọn vẹn những vấn đề mà Nguyễn Ngọc Tư đã đề cập qua từng tập truyện trước đó. Thông qua cuộc đời đầy bất trắc của cô bé Mỹ Ái, Nguyễn Ngọc Tư đã phê phán lối sống giả dối đến tự nhiên và không biết ngượng của con người trong cuộc sống hàng ngày. Quá trình lưu lạc của cô bé có nguyên nhân trước hết là do những lời nói và việc làm giả dối của người cha trước mặt con gái mình về cái chết của vợ ông mà ông là nguyên nhân chính.
“Hồi sáu tuổi, có lần em lén lấy dao cạo râu của cha để tỉa lông cho con chó Lu Lu, không ngờ vì chuyện đó mà cha mẹ cãi nhau, cha chỉ vào em, hỏi mẹ, từng từ khít như máu rỉ qua kẻ răng, “cô lấy thằng nào mà đẻ ra cái thứ này?”. Mẹ em không trả lời, lẳng lặng vào phòng, khóa cửa trong. Ba giờ sau cha tìm thấy mẹ treo mình đung đưa trên xà nhà… Suốt hai ngày lễ tang của người đàn bà tuyệt vọng vì phát hiện mình bị ung thư dạ dày, như cha em buồn bã kể, em ngồi dựa vách chỗ đặt quan tài của mẹ, lặng thinh đốt giấy vàng mã… Cha quay lại nhìn em, thoáng nhẹ nhõm. Sự câm lặng cần thiết cho những bí mật.”
Kế đến, trong quá trình lưu lạc cô bé đã trở nên câm lặng đến nỗi quên luôn cả tiếng người được xác định là do ông Tám Nhân Đạo ở rẫy bắp Mai Lâm – người đàn ông (ai cũng nghĩ là nhân đạo và tốt bụng) mà Mỹ Ái đã “lặng lẽ làm đám tang” cho ông ngay lúc ông khi còn sống:
“Em lặng lẽ làm đám tang cho ông Tám Nhân Đạo. Những gì em giữ cho ông đều biến mất, vụt tắt, nắm xôi ông trao em ở góc chợ Mai Lâm, tấm vải ông xé áo mình để bó tay em hôm bị dao cắt…Giờ một người đàn ông xa lạ đang lúi húi trên em, như con Cò thường lè lưỡi liếm chân em để gọi em than thở chuyện đời của nó… Đó là lần đầu tiên em phát hiện ra, vài thứ ở đây tên gọi đều không đúng với bản chất…”
Cuối cùng cái chết của cô bé được xác định là từ suy nghĩ và việc làm giả dối để hại bạn của gã lơ xe tên Dự (trước đó vốn rất hiền lành):
“Dự bỗng nghĩ, nếu mình cho xe lao vào anh ta, nếu mình lao vào như một tai nạn trong lúc mình không kiểm soát, trong lúc sương mù rình rập, trong cái lạnh cóng tay. Mình chỉ cần trôi nhanh hơn, và anh ta thì nằm xuống mãi mãi với những con đường…”
Có thể nói, ở Gió lẻ, những con người lang bạt trên khắp các nẻo đường của cuộc sống đô thị đang có nguy cơ đánh mất những giá trị của chính mình vốn là hành trang duy nhất mà họ đã mang theo lúc còn ở nông thôn. Trong truyện ngắn này, có một chi tiết thể hiện khá rõ dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư đó là chi tiết cô bé Mỹ Ái lâu ngày không nói chuyện nên quên mất cả tiếng người, mất cả ngôn ngữ và đặc biệt là cô thường nôn ói khi nghe phải một lời giả dối của ai đó. Qua chi tiết được lặp đi lặp lại khá nhiều lần này, Nguyễn Ngọc Tư muốn phê phán sự thiếu trung thực và giả dối của con người trong cuộc sống hiện đại thật sự đã trở thành một thói quen rất đáng sợ. Con người ta nói dối mọi lúc mọi nơi, từ việc nhỏ đến việc lớn; từ ông chủ tịch đến gã lơ xe, từ kẻ trí thức đến người thất học, từ già đến trẻ ai ai cũng không thật lòng, ai ai cũng giả dối trong lời nói và việc làm… Sở dĩ cô bé Mỹ Ái không muốn mở miệng giao tiếp với mọi người xung quanh là vì cô sợ mình mở miệng ra sẽ nói lên những sự thật mà chính cô là người trong cuộc hoặc đã từng chứng kiến. Vì thế, cô đành chấp nhận im lặng như một người câm vì nếu có nói lên sự thật thì chắc gì mọi người xung quanh đã nghe và tin cô bởi họ vốn đã quen với việc nói dối. Qua truyện ngắn này, Nguyễn Ngọc Tư muốn nói rằng cuộc sống của con người ta sẽ ra sao khi chung quanh họ toàn là những điều giả dối? Phải chăng mọi bi kịch của con người trên cuộc đời này đều có nguyên nhân từ sự thiếu trung thực và giả dối của chính họ mà ra? Và phải chăng trong cuộc sống vốn ngắn ngủi của kiếp người có bi kịch nào tàn nhẫn và xót xa hơn bi kịch con người ta sống nhưng không được quyền nói lên những sự thật mà họ đã tận mắt chứng kiến?
***
Tóm lại, từ những vấn đề trên cho chúng ta thấy, Nguyễn Ngọc Tư đã kín đáo và gián tiếp nói rằng nền kinh tế thị trường cùng với cuộc sống hiện đại tạo ra biết bao điều mới lạ hấp dẫn đối với con người nhưng cũng chính cuộc sống ấy đã tạo ra không ít những dâu bể, thăng trầm. Khi người ta ồ ạt kéo nhau về phía thành thị chừng nào thì sau lưng họ, vùng trời nông thôn lại lộ ra từng mảng lở loét, gập ghềnh, chông chênh… chừng ấy. Ở nơi đó, trên những “cánh đồng bất tận” có những người dân quê do không theo kịp vì không có tri thức nên phải tìm mọi cách để sinh tồn mà bất chấp hậu quả. Và điều nguy hiểm hơn hết là, chính cuộc sống ấy đã và đang hình thành nên lối sống giả dối và thiếu trung thực đến mức tinh vi và không biết xấu hổ của con người. Đau đớn và chua xót hơn là điều ấy đang dần trở thành một thói quen rất đáng sợ trong suy nghĩ của không ít người đủ mọi thành phần và lứa tuổi.

3.3 Thái độ phê phán nhẹ nhàng kín đáo trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư trong cái nhìn so sánh với một số nhà văn khác.

Nếu nhìn lại lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, nói về thái độ phê phán của các nhà văn trước những vấn đề thuộc về mặt trái của cuộc sống, trước hết phải kể đến những nhà văn thuộc trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945 như: Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao… Có thể thấy, các nhà văn này trong khi phản ánh hiện thực bao giờ họ cũng thể hiện một tấm lòng, một cái nhìn cảm thông đối với quần chúng nhân dân lao động. Các nhà văn luôn đứng về phía những “người bé nhỏ”, dưới đáy xã hội để lên tiếng bênh vực và chia sẻ. Bên cạnh đó, để thể hiện những tinh thần ấy, các nhà văn trong giai đoạn này thường tỏ rõ thái độ phê phán một cách quyết liệt và mạnh mẽ nhằm lên án, tố cáo, những thế lực thống trị đã chà đạp con người; vạch trần những bộ mặt nhám nhúa, những bọn người đểu giả, lừa lọc, bịp bợm... làm băng hoại đạo đức xã hội. Thái độ ấy bộc lộ qua từng con chữ, từng câu văn… mà người đọc rất dễ dàng nhận ra. Tiêu biểu cho sự quyết liệt này là Vũ Trọng Phụng khi ông công khai cho rằng văn chương của ông phải là “sự thực ở đời”. Và chúng ta hẵn đã biết “sự thực ở đời” trong văn chương của Vũ Trọng Phụng đó là việc nhà văn đã không ngần ngại “lột trần” bản chất xấu xa, bần tiện, thái độ bịp bợm, lừa lọc… của bọn người “đểu cáng”, cơ hội trong xã hội thời ấy. Các tác phẩm bất hủ của ông như Số đỏ, Giông tố, Trúng số độc đắc…là những minh chứng rõ ràng nhất cho thái độ phê phán quyết liệt, thẳng thắn và trực diện này của Vũ Trọng Phụng. Người đọc có thể dễ dàng bắt gặp rất nhiều đoạn văn trong tiểu thuyết Số đỏ thể hiện thái độ phê phán trực diện của nhà văn về hai hạng người bịp bợm, cơ hội (Xuân Tóc Đỏ) và dâm đãng, đạo đức giả (bà phó Đoan) trong xã hội Việt Nam những năm 1930-1945. Bằng giọng văn trào lộng chua cay, Vũ Trọng Phụng đã tỏ rõ thái độ phê phán, châm biếm không khoan nhượng:
“Đã đến lúc nhọc mệt vì sự mơn trớn nạ giòng ấy, Xuân Tóc Đỏ đẩy cái mặt bự phấn ấy ra nhăn nhó kêu lên:
- Gớm chưa!
Thái độ ấy làm cho vị quả phụ thủ tiết tức thì nổi trận lôi đình! Thật thế, ai mà không phải tức, khi lòng tự ái bị thương! Bà Phó Đoan làm một hồi trầm trập:
- À! Đồ khốn nạn! Đồ Sở Khanh! Đồ bạc tình lang! Làm hại cả một đời người ta rồi bây giờ giở mặt phỏng? Này, con này chẳng phải vừa đâu! Liệu thần xác!
Xuân Tóc Đỏ đứng phắt lên, xua tay một cách chán nản:
- Thôi, tôi xin bà. Thế là tử tế lắm rồi ! Bụng dạ bà tốt lắm! Tôi đã làm hại cả một đời bà ấy à ? Cái đó cũng có lẽ, cũng có thể. Nhưng mà vâng lời bà, tôi đã tìm cách cứu chữa rồi. Tôi đã đi mời cho bà một ông đốc tờ cẩn thận chứ đây không thèm gọi bọn lang băm.” (Số đỏ - Vũ Trọng Phụng).

Đến thời kì đổi mới văn học (từ sau đại hội VI năm 1986), thái độ phê phán của các nhà văn một lần nữa được bộc lộ một cách mãnh liệt trực diện không kém gì những giai đoạn trước. Tinh thần và thái độ phê phán trong văn học giai đoạn này được các nhà văn nhìn nhận với một thái độ “nhìn thẳng”, “nhìn thật”, quyết không tránh né nhằm vạch trần và phơi bày ra ánh sáng những mảng tối, những u nhọt mà trong giai đoạn trước đó vì những lí do khách quan của lịch sử đất nước các nhà văn không có điều kiện đề cập đến. Vấn đề này thể hiện rất rõ qua hàng loạt tác phẩm của những tác giả như: Dương Hướng với Bến không chồng ; Nguyễn Khắc Trường với Mảnh đất lắm người nhiều ma ; Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh và đặc biệt là Nguyễn Huy Thiệp với hàng loạt tác phẩm như: Tướng về hưu, Kiếm sắc, Những người thợ xẻ, Không có vua, Những người muôn năm cũ…
Khác với các nhà văn kể trên, ở Nguyễn Ngọc Tư thái độ phê phán được chị thể hiện một cách rất nhẹ nhàng, kín đáo chứ không báng bổ và gay gắt. Người đọc không bao giờ thấy ở Nguyễn Ngọc Tư những hành động và thái độ ném vào bộ mặt xã hội tất cả những uất nghẹn và căm phẫn như Vũ Trọng Phụng trong Giông tố, Số đỏ... Hay cũng không bao giờ tìm thấy ở Nguyễn Ngọc Tư sự “văng tục” rất bạo miệng, và thái độ“coi đời là vô nghĩa, là trò đùa, luôn luôn có giọng ỡm ờ, bỡn cợt, nhìn đời nhìn người chỉ thấy mặt bỉ ổi, thú vật” kiểu như Nguyễn Huy Thiệp. Đại loại như:
- “Bà Lâm bảo: “Ăn đi con ạ. Đàn ông nó chẳng thương mình đâu. Rượu thì nó ngồi mâm trên. Ngủ thì nó đè lên mình”. Bố Lâm gắt :“Bà lão hay nhỉ!”. Bà Lâm lẩm bẩm: “Hay cái con mẹ mày! Tao tám mươi tuổi mà nói sai à?” (Những bài học nông thôn)
Hay:
- “Doanh nói: -Tôi là một giáo viên bị kỷ luật nên mới bị đày lên đây. Còn cậu, nghiệp chướng gì mà cậu cũng rúc vào xó này ?... Hiểu rồi! Doanh cười – Cậu đã nuốt trọn gói thuốc đắng của nền giáo dục nhà trường. Thanh niên là vậy! Răng các cậu rất khỏe, các cậu có thể nhai vỡ cả sỏi. - Tôi hỏi Doanh xem anh bị kỷ luật gì, Doanh nói: Chẳng qua là chuyện“sướng con cu mù con mắt”…“Doanh bảo: Học vấn có điều nguy là khiến người ta có ảo tưởng thay đổi bản thân và hoàn cảnh là điều vốn dĩ không bao giờ làm được. Trên thực tế người ta chỉ dịch chuyển từ một hoàn cảnh thối tha này sang một hoàn cảnh thối tha khác mà thôi. Ở yên một nơi thì ít bi kịch đau khổ.” (Những người muôn năm cũ)
Với Nguyễn Ngọc Tư, thái độ phê phán trong tác phẩm của chị gần như là không biểu lộ ra ngoài câu văn và con chữ, nghĩa là người đọc chỉ có thể cảm nhận được thái độ phê phán ấy sau khi đã đọc trọn vẹn tác phẩm, thông qua cuộc đời và thân phận các nhân vật mà chị đã xây dựng trong tác phẩm. Đó là trường hợp ở Ngọn đèn không tắt, Cải ơi, Ngổn ngang, Nỗi buồn rất lạ, Qua cầu nhớ người, Lỡ mùa, Đau gì như thể, Một trái tim khô, Bến đò xóm Miễu…
Bên cạnh đó, thái độ phê phán trong các tác phẩm cũng được Nguyễn Ngọc Tư kín đáo “che” lại bằng một giọng điệu buồn và khá trầm tĩnh nên người đọc phải quan sát kỹ thì mới có thể nhận ra. Trường hợp truyện ngắn Cánh đồng bất tận, cùng những truyện ngắn trong tập Gió lẻ và 9 câu chuyện khác là những trường hợp tiêu biểu nhất cho vấn đề này.
Đây là giọng điềm nhiên, trầm tĩnh của Nguyễn Ngọc Tư thuật về tình cảnh đáng thương của Sương – cô gái giang hồ sau một đêm đi “thương lượng” với những “người có trách nhiệm” của địa phương (về việc đàn vịt của gia đình Út Vũ bị nhiễm bệnh) trong truyện ngắn Cánh đồng bất tận:
“Một người nuốt nước miếng, ánh nhìn ham muốn như mũi kim thò ra khỏi bọc, lơ láo. Mắt ông ta lột trần chị, và toan tính một thoáng. Người còn lại có vẻ thú vị, háo hức như sắp xem được một vở cải lương hay. Chị thấu hiểu đàn ông đến nỗi, ngay lập tức chị ngó về phía chúng tôi, ngầm báo, cuộc thương lượng (về một sự đổi chác) đã kết thúc rồi… Chị trở về khi trăng rạng rỡ trên đầu (mãi sau nầy, tôi vẫn còn ghê sợ cái màu trăng ấy). Ống quần quệt vào cỏ ướt đẫm sương. Hơi rượu quyện với mùi thuốc lá làm tôi chạo chực. Nhác thấy hai chị em tôi ngồi thù lù, chị kêu lên, trời đất, hai cưng chờ chị chi vậy.“Chị làm đĩ quen rồi, mấy chuyện nầy nhằm bà gì mà mấy cưng buồn?”
Và đây là giọng điệu của Nguyễn Ngọc Tư thuật lại cảnh ông Tám Nhơn Đạo hãm hiếp cô bé Mỹ Ái trong truyện ngắn Gió lẻ - một giọng kể điềm nhiên được trình bày qua lối văn nhẹ nhàng nhưng lột tả trọn vẹn nỗi nỗi đau, thất vọng của tác giả trước sự đểu giả của con người trong cuộc sống:
“Lâu ngày em không còn giật mình vì tiếng người nữa. Nên cái bữa ông Tám Nhơn Đạo ra chòi, em không hay. Bỗng dưng thấy mình bị ép chặt xuống tấm ván mối ăn lấm tấm, và một bàn tay lần vào áo em, thì em giật mình. Em gào lên, nhưng giọng tắt trong bàn tay khẳm mùi rượu, thịt và nước tiểu… Giờ một người đàn ông xa lạ đang lúi húi trên em, như con Cò thường lè lưỡi liếm để gọi em than thở chuyện đời nó.”

***

Nói tóm lại, cái nhìn phê phán trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư ở góc độ nào đó chính là những câu hỏi phản biện mà tác giả đặt ra đối với mỗi chúng ta (nhất là với những người “có trách nhiệm”). Và những vấn đề trên được Nguyễn Ngọc Tư trình bày bằng một thái độ nhẹ nhàng kín đáo chứ không gay gắt báng bổ thông qua những câu chuyện xúc động lòng người. Thái độ phê phán nhẹ nhàng kín đáo, ở góc độ nào đó đã nói lên cái nhìn hướng thiện và bao dung rộng lượng vị tha đối với con người của Nguyễn Ngọc Tư. Đây cũng là một trong những nét riêng góp phần làm nên phong cách độc đáo của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.



MỘT SỐ TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

1. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi - Từ điển thuật ngữ văn học. Nhà xuất bản Giáo dục, 2007
2. Nguyễn Văn Hạnh - Văn hóa như là nguồn lạch sáng tạo và khám phá văn chương. Tạp chí văn học, số 1, năm 2007
3. Hoàng Ngọc Hiến - Văn học gần và xa. Nhà xuất bản Giáo dục, 2006
4. Nguyễn Đăng Mạnh - Nhà văn Việt Nam hiện đại - Chân dung và phong cách. Nhà xuất bản Trẻ, 2000
5. Nguyễn Đăng Mạnh - Nhà văn tư tưởng và phong cách. Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 2001
6. Nhiều tác giả - Lý luận văn học. Nhà xuất bản Giáo dục, 1986
7. Trần Đình Sử - Một số vấn đề về thi pháp học hiện đại. Bộ giáo dục và đào tạo, Vụ giáo viên, 1993
8. Lê Ngọc Trà - Lý luận và văn học. Nhà xuất bản Trẻ, 2005
9. Website http://www.viet-studies.info/NNTu/ (chuyên trang về Nguyễn Ngọc Tư do Trần Hữu Dũng thiết kế và quản lý).
Những dạng tình huống thường gặp
trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư

Nguyễn Trọng Bình

Trong một truyện ngắn, việc tạo ra tình huống như thế nào cho độc đáo là một yếu tố rất quan trọng góp phần khẳng định tài năng và phong cách riêng của một nhà văn. Nói như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh thì: “quan trọng nhất của truyện ngắn là tạo ra tình huống nào đấy, từ tình huống ấy bật nổi một bản chất tính cách nhân vật hoặc bộc lộ một tâm trạng” [4]. Ngoài ra, việc xây dựng và tổ chức tình huống trong một truyện ngắn không chỉ làm “bật nổi một bản chất tính cách nhân vật hoặc bộc lộ một tâm trạng” mà còn cho thấy một quan niệm, một tư tưởng nào đó của nhà văn trong cái nhìn phản ánh hiện thực đời sống. Khảo sát truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư chúng tôi nhận thấy việc xây dựng và tổ chức những tình huống trong truyện ngắn của chị đã thể hiện rõ vấn đề này. Và nhìn chung truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư chủ yếu xoay quanh các dạng tình huống (chúng tôi tạm gọi tên) như sau:

1. Tình huống một sự cố, một biến cố bất ngờ (xảy đến với nhân vật chính)

Đây là dạng tình huống phổ biến và chiếm tỉ lệ nhiều nhất trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư so với các dạng tình huống còn lại; là dạng tình huống mà nhân vật chính trong các truyện ngắn thường gặp và bị tác động, bị ảnh hưởng bởi một sự cố, một biến cố bất ngờ xảy đến với cuộc đời họ. Dạng tình huống này ít nhiều đã chuyển tải nội dung “cái nhìn khắc khoải” của nhà văn về thân phận con người (nhất là những người dân nghèo). Chính những sự cố hay những bất trắc ấy là nguyên nhân đưa đến những dâu bể thăng trầm trong cuộc đời của các nhân vật về sau. Có thể dẫn ra đây vài trường hợp tiêu biểu như:
Trong Cải ơi, có thể thấy, cuộc đời lưu lạc thăng trầm nơi xứ lạ quê người của ông Năm Nhỏ là do đứa con gái riêng của vợ ông bất ngờ bỏ nhà ra đi. Chính biến cố bỏ nhà ra đi của đứa trẻ này làm ông Năm Nhỏ phải ân hận và khổ sở suốt đời vì nỗi oan“giết chết con riêng” của vợ. và để giải nỗi oan ấy ông phải bôn ba mười mấy năm trời để đi tìm con bé.
Tương tự vậy, vì sự cố bỏ nhà ra đi rất bất ngờ của người mẹ trong gia đình vốn êm ấm và việc đốt rụi căn nhà của người cha chính là hai biến cố cũng là nguyên nhân đưa đến cuộc đời đầy sóng gió và bi kịch của hai chị em Nương và Điền sau này. Trong truyện ngắn này, người đọc còn bắt gặp khá nhiều tình huống bất ngờ khác, tất cả làm nên một xâu chuỗi đưa đến bi kịch cho nhân vật Nương ở cuối tác phẩm như hai chị em bất ngờ cứu cô gái điếm tên Sương bị đánh ghen phải chạy trốn trên chiếc ghe của mình; hay về sau Điền đã bất ngờ và đột ngột bỏ nhà đi tìm Sương – cô gái điếm. Cũng vì Điền bỏ đi nên không còn ai che chở cho Nương vì cha của cô là Út Vũ vốn từ lâu chẳng thèm quan tâm gì đến đời sống tình cảm của con mình.
Nhìn chung, hầu hết các truyện ngắn hay và tiêu biểu nhất của Nguyễn Ngọc Tư đều xoay quanh dạng tình huống này như: Cánh đồng bất tận, Gió lẻ, Cải ơi… Dưới đây là bảng thống kê và thuyết minh của chúng tôi về dạng tình huống này trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư:

STT Tên truyện ngắn Thuyết minh nội dung tình huống
1 Cánh đồng bất tận Mẹ của Nương và Điền ngoại tình với một người đàn ông, sau đó bỏ nhà ra đi; cha của Nương và Điền tức giận đốt nhà và bắt đầu cuộc sống “du mục” rày đây mai đó trên những “cánh đồng bất tận”. Bi kịch về sau của Nương cũng bắt đầu từ đó.
2 Ngọn đèn không tắt Ông Hai Tương đã chết nhưng chính quyền xã vẫn gởi thơ mời ông đi kể chuyện lịch sử địa phương. Không còn cách nào khác, cháu nội gái của ông là Tươi đành phải đi thay.
3 Cải ơi Đứa con gái riêng của vợ bỏ nhà ra đi nên ông Năm Nhỏ phải bỏ nhà đi tìm suốt mười hai năm ròng.
4 Nhớ sông Tai nạn bất ngờ xảy đến với mẹ nhân vật chính trong một lần mưa bão trên sông
5 Đời như ý Cái chết bất ngờ của chú Đời mù lòa bỏ lại hai đứa con gái và người vợ nửa điên nửa tỉnh.
6 Một trái tim khô Hậu bị chính người chồng thuê người sát hại mình tại ngã ba Bún Bò; người được thuê ấy sau này lại đem lòng yêu thương Hậu.
7 Nỗi buồn rất lạ Ba của nhân vật xưng “tôi” bất ngờ từ dưới quê lên hỏi thăm chuyện ông Tư Đờ - bạn ông thời chiến đấu bị bắt giam, trong khi nhân vật “tôi” lại hửng hờ không quan tâm mấy vì cho đó là chuyện bình thường.
8 Đau gì như thể Ông Tư Nhớ bị chính quyền địa phương nghi ngờ loạn luân với con gái mình nên đã bị bắt tạm giam.
9 Lỡ mùa Sau nhiều ngày cùng các lão nông lặn lội lên tỉnh để gặp chủ tịch thắc mắc về vùng đất Trảng Cò quê mình bị quy hoạch treo đã nhiều năm ông Ba Già đã òa khóc ngay tại Ủy ban tỉnh vì nguyện vọng không thành (chủ tịch tỉnh bận họp không tiếp)
10 Thương quá rau răm Văn – một bác sĩ trẻ mà ông Tư Mốt và con gái ông cứ ngỡ sẽ gắn bó lâu dài với cù lao Mút Cà Tha nghèo và buồn nhưng cuối cùng cũng đã bỏ ra đi không lời từ biệt.
11 Chuyện vui điện ảnh Chú Sa bị mọi người trong khu phố xa lánh chỉ vì chú đã vào vai một tên ác ôn trong một bộ phim
12 Ngày đùa Chỉ vì lời nói đùa của bạn bè trong ngày “cá tháng tư” đã gây ra cái chết thương tâm cho nhân vật San
13 Vết chim trời Bà nội của nhân vật “tôi” sau một giấc ngủ trưa đã bất ngờ khóc lóc và nói rằng cha của nhân vật “tôi” đã bắn chết em trai mình trong chiến tranh.
14 Chuồn chuồn đạp nước Người đàn ông đã tư vấn sai cho con gái mình câu hỏi “chuồn chuồn đạp nước” có ý nghĩa gì trong một gameshow trên truyền hình mà tự dằn vặt mình và những người thân trong gia đình
15 Tình thầm Hai cô gái bệnh đồng giới chính là nguyên nhân thất bại của chàng trai giàu có nổi tiếng khi anh ta ra sức chinh phục họ.
16 Gió lẻ Mẹ của Mỹ Ái treo cổ tự vẫn sau một lần bị cha cô bé chửi mắng thậm tệ; Mỹ Ái bỏ nhà ra đi và từ đó cô không thèm mở lời trò chuyện cùng ai đến nỗi mọi người tưởng cô đã bị “quên mất tiếng người”; Mỹ ái sau đó còn bị ông Tám Nhơn Đạo hãm hiếp…
17 Núi lở “Núi lở” là tựa đề kịch bản phim làm đề tài tốt nghiệp khóa học của Vĩnh, nhưng anh nói không thể thực hiện được vì không tìm được diễn viên nào nhằm “lột tả tâm trạng của kẻ đang rú lên mừng thoát nạn mà - đã - chết - rồi”.
18 Thổ Sầu Thổ Sầu là xứ nghèo, chính quyền địa phương muốn người dân phát triển du lịch bằng cách lấy chính cái nghèo và sự hoang sơ của con người và vùng đất nơi đây để “tiếp thị” nhằm thu hút du khách. Đây cũng là lý do người dân Thổ Sầu cảm thấy rất buồn vì bị xúc phạm (tiêu biểu là người đàn ông - ba của nhân vật xưng “tôi”)
19 Của ngày đã mất Cô gái hai mươi tuổi và ông già sáu mươi chín tuổi phải lòng nhau trong một chuyến đi sưu tầm văn học dân gian ở Thổ Sầu chỉ vì cô gái thấy ông già kia “giống ông Ba” của cô trước đây.
20 Làm má đâu có dễ Chị Diệu – mẹ nhân vật San bỏ con mình để đi theo đoàn hát về sau san không bao giờ gọi chị bằng má (San gọi mẹ là chế).
21 Duyên phận so le Xuyến vì bị người tình phụ bạc, đến nỗi phải bỏ đứa con mình rứt ruột sinh ra bên một gốc cây ven đường; về sau Xuyến phải đi làm “tiếp viên” ở mũi So Le.
22 Một dòng xuôi mải miết Nhân vật xưng “tôi” vì hiểu lầm Sáng nên đã dùng thuốc sâu thuốc chết cả bầy vịt của Sáng.

2. Tình huống cảm thông, chia sẻ
Đây là dạng tình huống cũng rất phổ biến trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Dạng tình huống mà ở đó các nhân vật đã trải lòng mình ra để hiểu, để chia sẻ và cảm thông với những bất trắc và khổ đau của những người quanh mình. Dạng tình huống này thể hiện rất rõ tư tưởng và quan niệm nghệ thuật về “con người hướng thiện” với tấm lòng bao dung rộng lượng, vị tha trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Qua đó, cũng nói lên cái nhìn thương cảm, nỗi xót xa… của nhà văn về những phận người bất hạnh và kém may mắn trong cuộc đời. Đồng thời đó còn là niềm tin của tác giả: cuộc đời này vẫn còn rất nhiều người tốt sẵn sàng chia sẻ và giúp đỡ ta trong cuộc sống. Dưới đây là bảng thống kê và thuyết minh của chúng tôi về dạng tình huống này:

STT Tên truyện ngắn Thuyết minh nội dung tình huống
1 Cuối mùa nhan sắc Ông Chín Vũ – người đàn ông suốt cuộc đời cam tâm tình nguyện đi theo và chăm sóc người mình yêu là đào Hồng; (trước đó khi còn trẻ ông từng đứng ra nhận là cha của đứa bé – con đào Hồng với kép Trường Khanh để cứu lấy danh dự cho bà)
2 Bến đò xóm miễu Anh chàng chèo đò Lương “khùng” thông cảm và chia sẻ với cuộc đời bất trắc của cô bé Bông từng làm tiếp viên quán “bia ôm”, sau này bị tai nạn dẫn đến liệt nửa thân dưới và không còn khả năng làm mẹ
3 Làm mẹ Chị Lành nhận “đẻ thuê” cho dì Diệu đã bỏ đi nhưng sau đó bất ngờ trở về, cả hai người đàn bà ôm nhau khóc vì hiểu nỗi khát khao được làm mẹ của người phụ nữ, dì Diệu đã đốt tờ hợp đồng giao kèo.
4 Chuyện của Điệp Điệp - cô đào hát từ nhỏ đã bị cha mẹ bỏ rơi, vì thế, cô rất hiểu và cảm thông cho những đứa bé có hoàn cảnh như mình. Điệp đã nhận lấy trách nhiệm nuôi đứa bé của một nghệ sĩ trong đoàn hát bỏ lại.
5 Cái nhìn khắc khoải Ông Hai nuôi vịt chạy đồng cưu mang và chia sẻ với người phụ nữ bị chồng bỏ rơi (vì trốn nợ); ông còn dò la tin tức để tìm chồng dùm cho chị ta.
6 Giao thừa Quý, chàng trai hiền lành rất cảm thông và đem lòng yêu Đậm – cô gái bị người yêu phụ bạc có một đứa con riêng
7 Nhà cổ Tình cảm anh em mặn nồng keo sơn của hai anh em Tứ Hải, Tứ Phương cùng sự cảm thông và chia sẻ rất chân thành của Út Nhỏ - cô bạn láng giềng.
8 Nước chảy mây trôi Thầy Nhiên - vừa là thầy vừa là cha dượng của Diệp đã yêu thương đùm bọc và xem Diệp như con ruột của mình.
9 Biển người mênh mông Ông Sáu Đèo trong hành trình đi tìm vợ đã gặp Phi – anh thanh niên lãng tử, thuở nhỏ sống với bà ngoại nên thiếu thốn tình cảm của cha mẹ. Hai người xa lạ, một già một trẻ nhưng lại xem nhau như “tri âm tri kỷ” trong cái “biển người mênh mông” của cuộc đời.
10 Ấu thơ tươi đẹp Nhân vật xưng “tôi” kể lại câu chuyện trốn đi của thằng bé tên Sói đang trên đường về với mẹ của nó trong một chuyến tàu hỏa. Nhân vật “tôi” hiểu và đồng cảm với nỗi đau của Sói vì cả hai có chung hoàn cảnh là cha mẹ ly dị nhau.
11 Bởi yêu thương Sáu Tâm, đào Điệp và San, cả ba con người đều gặp phải những tai ương và bất trắc trong cuộc đời nên rất yêu thương nhau.
12 Ngày đã qua Cả nhóm bạn gồm năm người (Thi, Nguyên, Hòa, Chi, Tiệp) chơi chung từ thời còn sinh viên hiểu và yêu thương nhau nhất là khi biết Nguyên đang mang trong mình căn bệnh ung thư.
13 Mối tình năm cũ Ông Mười hết lòng hết dạ yêu thương vợ và không muốn vợ mình tham gia bộ phim tài liệu nói về người chồng cũ (liệt sĩ Nguyễn Thọ) vì sợ chị thêm đau lòng mỗi khi nhắc lại những kỉ niệm xưa.

3. Tình huống yêu đương trắc trở

Đây là dạng tình huống thể hiện cái nhìn của Nguyễn Ngọc Tư về những mối tình dang dở và những miền ký ức buồn - một mảng nội dung khá quan trọng trong truyện ngắn của chị. Bảng thống kê và thuyết minh về nội dung của những tình huống này của chúng tôi dưới đây sẽ nói rõ hơn vấn đề trên:

STT Tên truyện ngắn Thuyết minh nội dung tình huống
1 Chiều vắng Tình yêu dang dở của Tư Nhớ và vợ; sau này là tình yêu đơn phương của dì Út Thu Lý (cũng là em vợ của Tư Nhớ)
2 Dòng nhớ Mối tình dang dở của ba nhân vật xưng “tôi” và Hai Giang.
3 Hiu hiu gió bất Tình yêu dang dở giữa Hết và Hoài, về sau là tình yêu đơn phương của Hảo dành cho Hết
4 Lý con sáo sang sông Tình yêu dang dở của Phi và Út Thà
5 Huệ lấy chồng Tình yêu dang dở của Huệ và Thi
6 Một mối tình Mối tình đơn phương của nhân vật xưng tôi dành cho anh rể của mình là Trọng (trước đó vợ Trọng là Ái đã bỏ anh theo người đàn ông khác)
7 Người năm cũ Tình yêu dang dở của “người đàn ông” với mẹ của Hiên - nhân vật người kể chuyện.
8 Nửa mùa Tình yêu dang dở giữa Tiên và Sĩ
9 Qua cầu nhớ người Vợ của Hai Nhớ bỏ Hai Nhớ và chuẩn bị lấy chồng khác.
10 Ngổn ngang Tình yêu dang dở giữa Viên và Bảo

***
Trên đây là những dạng tình huống thường gặp trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Dĩ nhiên sự phân loại và “gọi tên” những dạng tình huống ở trên chỉ có tính chất tương đối. Sở dĩ chúng tôi nói như thế là vì vẫn còn một số ít truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư không nằm trong các dạng tình huống trên. Ngoài ra, ở góc nhìn nào đó có một vài truyện ngắn, nếu chúng ta xếp vào dạng tình huống này hoặc dạng tình huống kia đều có thể chấp nhận được. Ví dụ, trường hợp truyện Cuối mùa nhan sắc, chúng tôi xếp vào dạng tình huống cảm thông chia sẻ, nhưng nếu ai đó xếp truyện ngắn này vào dạng tình huống yêu đương trắc trở cũng không phải là không có cơ sở…
Tuy vậy, nhìn chung có thể thấy, các dạng tình huống trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư có một điểm chung rất quan trọng đó là đã nói lên được tính chất cam chịu và sẵn sàng hi sinh của những con người nghèo khổ trước những trái ngang của cuộc đời; những con người thà chấp nhận và dành lấy phần khổ đau về phía mình chứ không muốn phản kháng để rồi gây thêm đau khổ cho người khác. Điều này cũng góp phần làm sáng tỏ thêm quan niệm con người hướng thiện cũng như chuyển tải và làm bật nổi những mảng nội dung tự sự rất thường thấy trong truyện của chị như: “cái nhìn khắc khoải” về thân phận người dân quê nghèo khó; nỗi niềm về những câu chuyện tình yêu dang dở và những miền ký ức buồn; thái độ phê phán nhẹ nhàng kín đáo những mặt trái của cuộc sống… (mà chúng tôi đã có lần trình bày). Và quan trọng hơn, những dạng tình huống trên chính là sự đảm bảo chất lượng cho một “thương hiệu”, một phong cách truyện ngắn độc đáo – phong cách Nguyễn Ngọc Tư.
-----------------------------

MỘT SỐ TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

1. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi - Từ điển thuật ngữ văn học. Nhà xuất bản Giáo dục, 2007
2. Nguyễn Văn Hạnh - Văn hóa như là nguồn lạch sáng tạo và khám phá văn chương. Tạp chí văn học, số 1, năm 2007
3. Hoàng Ngọc Hiến - Văn học gần và xa. Nhà xuất bản Giáo dục, 2006
4. Nguyễn Đăng Mạnh - Truyện ngắn hôm nay. Báo Văn nghệ, số 48, 30/11/1991
5. Nguyễn Đăng Mạnh - Nhà văn Việt Nam hiện đại - Chân dung và phong cách. Nhà xuất bản Trẻ, 2000
6. Nguyễn Đăng Mạnh - Nhà văn tư tưởng và phong cách. Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 2001
7. Nhiều tác giả - Lý luận văn học. Nhà xuất bản Giáo dục, 1986
8. Trần Đình Sử - Một số vấn đề về thi pháp học hiện đại. Bộ giáo dục và đào tạo, Vụ giáo viên, 1993
9. Lê Ngọc Trà - Lý luận và văn học. Nhà xuất bản Trẻ, 2005
10. Website http://www.viet-studies.info/NNTu/ (chuyên trang về Nguyễn Ngọc Tư do Trần Hữu Dũng thiết kế và quản lý).

TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA

Nguyễn Trọng Bình

Xuất hiện trên văn đàn lần đầu tiên vào năm 2000 (với truyện ngắn Ngọn đèn không tắt – giải nhất cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi 20 lần II) đến nay Nguyễn Ngọc Tư là một trong số ít nhà văn trẻ được độc giả nhắc đến nhiều nhất. Với sở trường là những truyện ngắn viết về con người và vùng đất nơi miền cực Nam của Tổ quốc, Nguyễn Ngọc Tư đã dần chinh phục được tình cảm của đông đảo bạn đọc không chỉ trong nước mà còn ở nước ngoài. Có thể nói, một trong những điều đọng lại trong lòng độc giả khi đọc Nguyễn Ngọc Tư chính là nhờ chị biết thổi vào tác phẩm của mình những giá trị văn hóa của cha ông, cụ thể là những đặc trưng văn hóa vùng đồng bằng sông Cửu Long! Qua những sáng tác của chị, độc giả không những được thưởng thức câu chuyện thắm đượm tinh thần nhân văn mà còn được cung cấp thêm những cứ liệu văn hóa về vùng quê sông nước đồng bằng sông Cửu Long rất bổ ích.

1. Văn hóa và làng quê Nam bộ - tiền đề hình thành quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư

Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo ở Cà Mau – vùng đất phương Nam cuối cùng của tổ quốc; vì thế, một trong những tiền đề quan trọng góp phần hình thành nên quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư có nguồn gốc và cơ sở sâu xa là những yếu tố văn hóa mang đặc trưng riêng của vùng đất và con người nơi đây.
So với Trung bộ và Bắc bộ thì Nam bộ là vùng đất còn rất “trẻ” cả về vị trí địa lí lẫn lịch sử văn hoá (ở đây chúng tôi nhìn nhận ở góc độ tương quan giữa ba miền trên toàn vẹn lãnh thổ từ khi bắt đầu có cư dân người Việt sinh sống). Tuy nhiên, với khoảng trên 300 năm hình thành và phát triển, Nam bộ đã dần tạo nên một hình ảnh đẹp cả về đời sống xã hội lẫn đời sống văn hoá.
Trước hết, nói về tính cách cũng như cách đối nhân xử thế của con người, có thể thấy điểm nổi trội nhất của người Nam bộ là cách suy nghĩ bộc trực, phóng khoáng; lối sống “xả láng sáng về sớm” và luôn “chơi hết mình” vì người khác. (Thật ra về những những nét tính cách này của người Nam bộ, không phải người Việt Nam sống trên các vùng, miền khác không có. Tuy nhiên, ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh đến những nét nổi trội và ưu thế nhất góp phần làm nên cá tính riêng của con người ở mỗi vùng, miền…trên lãnh thổ ta mà thôi). Bên cạnh đó, người Nam bộ trong suy nghĩ và lời nói cũng thể hiện một cái gì đó rất bộc trực và thẳng thắng. Nói như nhà văn Sơn Nam đó là “tinh thần phóng khoáng thực tế, ghét những lí luận quanh co. Cứ nói thẳng để xem chuyện đó ra sao. Muốn gì thì nói phứt nó ra. Họ ghét những cuộc tranh luận về lí thuyết chính trị hoặc lí thuyết siêu hình, và có thành kiến cho rằng kẻ dùng quá nhiều lí luận là “lẻo mép”, gian xảo. Họ thích nói chuyện vui, chuyện có đầu có đuôi, những giai thoại khôi hài. Nói “lí luận” là “buồn ngủ”. Nói chuyện quanh co là kém thành thật” [4]. Người Nam bộ, vì thế, trong giao tiếp ứng xử có người cho rằng họ nói chuyện có khi “bụm miệng không kịp” vì chuyện gì cũng “huỵt tẹt” cũng “bốp chát”, “rổn rảng”, “có sao nói vậy”… điều này đã góp phần hình thành nên một thứ ngôn ngữ rất đặc trưng trong giao tiếp, nói năng của người Nam bộ. Ngôn ngữ ca dao dân ca Nam bộ thể hiện rất rõ điều này:
- Gió đưa bụi chuối tùm lum
Má dữ như hùm ai dám làm dâu.
- Dao phai kề cổ, máu đổ tui không màng
Chết tui, tui chịu chứ buông nàng tui hổng buông!
- Anh về em nắm vạt áo la làng
Anh phải bỏ chữ thương, chữ nhớ giữa đàng cho em!
- Má ơi con má hư rồi
Má lo trang điểm phấn dồi nó cũng hư.
- Nước ròng trong ngọn chảy ra
Nghe chồng em chết anh bôn ba qua liền!
Ngoài ra, đọc truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu chúng ta sẽ thấy những nét đẹp và đặc trưng của người Nam bộ cũng được nhà thơ miêu tả rất sâu sắc qua hàng loạt nhân vật đầy dũng khí và đầy nghĩa tình như: Lục Vân Tiên, Hớn Minh, Vương Tử Trực… Có thể thấy, người Nam bộ trong sinh hoạt còn có chút “quê mùa”, “thô kệch” tuy nhiên họ cũng rất biết thế nào là “kiến nghĩa bất vi vô dõng dã, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng.” Phải chăng vì thế, mỗi khi nhắc đến người dân Nam bộ, có một điều rất thú vị là không biết tự lúc nào người ta lại ưu ái và trìu mến gọi đó là người “rất Nam bộ” hay “Nam bộ rặt” rất ngộ nghĩnh và đáng yêu.
Về mặt tự nhiên, Nam bộ là vùng đất với những sông ngòi chằng chịt, những ao hồ và ruộng đồng mênh mông… Do cấu tạo tự nhiên có tính đặc thù như thế nên có thể thấy trong sinh hoạt đi lại của người dân người Nam bộ, nhất là ở những vùng quê nông thôn chủ yếu là ghe, xuồng, vỏ lãi, tắc ráng… Những yếu tố này đã tác động trực tiếp đến cách xây dựng và miêu tả hiện thực và con người trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Người đọc dễ dàng bắt gặp trong cách thể hiện của chị mọi sinh hoạt và đời sống của con người đều mang dấu ấn của vùng đất phù sa sông nước như: ruộng đồng, kinh rạch, dòng sông, con đò, ghe xuồng, chợ nổi…
Một vấn đề nữa, nói đến Nam bộ cũng là nói đến cái nôi của bộ môn nghệ thuật cải lương. Người Nam bộ vốn rất mê cải lương, rất hay hát những bài vọng cổ cũng như rất quý trọng những người nghệ sĩ ở những đoàn, gánh hát đã đem lời ca tiếng hát của mình để phục vụ bà con sau một ngày lao động vất vả. Cuộc sống sinh hoạt của họ thường gắn liền với những cuộc hát hò vui chơi mà họ gọi là “đờn ca tài tử” thắm đượm tình làng nghĩa xóm… Có thể nói, tất cả những yếu tố trên là kho cứ liệu văn hóa dồi dào, là nguồn cảm hứng mãnh liệt giúp Nguyễn Ngọc Tư xây dựng và khắc họa hình tượng con người Nam bộ mang đậm chất văn hóa Nam bộ: mê đờn ca tài tử, thích hát vọng cổ và đặc biệt là rất thích trở thành nghệ sĩ cải lương…
Cuối cùng, hiện nay, khi đất nước đã thật sự bước vào quỹ đạo chung của xu thế hội nhập và toàn cầu hóa; nhắc đến vùng đất Nam bộ đặc biệt là các tỉnh thuộc miền Tây Nam bộ (trong đó có Cà Mau) có một sự thật làm mọi người phải xót xa, đó là: tuy vùng đất này là vựa lúa, vựa lương thực lớn nhất nước nhưng về mặt bằng dân trí và trình độ học vấn của người dân thì lại thấp nhất nước. Theo đánh giá của các cơ quan quản lý về giáo dục và văn hóa thì đồng bằng sông Cửu Long là “vùng trũng” về giáo dục của cả nước. Đây có thể nói là một thực trạng đau lòng. Chính thực trạng đau lòng này làm nảy sinh nhiều vấn nạn, gây ra nhiều bi kịch của con người nơi đây. Và đó cũng là một trong những đặc điểm quan trọng góp phần tạo nên cách nhìn và thể hiện con người với những ước mơ và khát vọng đời thường, nhỏ nhoi trong hàng loạt truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Những con người vì thất học nên cái nghèo, cái đói nghèo cứ mãi đeo đuổi. Để sinh tồn họ phải lăn lộn, phải bươn chải quanh năm trên ruộng đồng, sông nước thậm chí phải đánh đổi cả thân xác…
Như vậy, có thể nói do được sống và lớn lên trên mảnh đất Nam bộ, những nét tính cách trong văn hóa ứng xử cũng như ngôn ngữ của cha ông đã ăn sâu vào tiềm thức của Nguyễn Ngọc Tư. Vì thế, khi sáng tác, những nét văn hóa “rặt Nam Bộ” ấy đã đi vào trang viết của chị một cách tự nhiên như một điều tất yếu không thể nào khác được.

2. Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư – ý thức trân trọng, giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc

Bao trùm các sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư là hiện thực cuộc sống con người trên mảnh đất Nam bộ với cánh đồng lúa mênh mông, những con sông uốn lượn hay những bờ kinh, con mương và vô số những đầm, đìa, rạch, xẻo...; những chợ nổi với ghe xuồng, sóng nước tấp nập…; những câu hò, điệu hát lên xuống theo từng con nước lớn, ròng; hay những bài vọng cổ buồn được cất lên từ những đoàn ca múa cải lương đang len lỏi mưu sinh tận trong những chợ quê nghèo… Sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư bao giờ cũng được triển khai trên cái nền của “bức tranh” sinh hoạt văn hóa ở làng quê Nam bộ độc đáo ấy, nói như nhà văn Nguyên Ngọc đó chính là “không gian… của Nguyễn Ngọc Tư”. Ở phương diện nào đó, đây là những lời quãng bá và “tiếp thị” bằng văn chương rất độc đáo Nguyễn Ngọc Tư về những nét đẹp của văn hóa làng quê đồng bằng sông Cửu Long. Điều này đã lí giải vì sao những ai đọc văn Nguyễn Ngọc Tư cảm thấy rất thích thú, yêu mến và xúc động khi đọc đến những dòng, những câu chị miêu tả về cảnh sinh hoạt “đời thường” của người dân quê ở xứ sở ruộng đồng, sông nước miền Tây Nam bộ. Đọc truyện của chị, như tác giả Huỳnh Công Tín đã nhận xét thì: “người đọc sẽ cảm nhận được chất Nam Bộ thể hiện khái quát ở nhiều phương diện của tác phẩm… Trong tác phẩm của chị có một không gian Nam Bộ với những loại cây, tên gọi nghe quen, dân dã: “mắm, đước, sú, vẹt, bần, tra, tràm, choại, quao, ô rô, dừa nước...”, với những vàm, kinh, rạch, xẻo, tắt chằng chịt, mà tên gọi cũng gợi trí tò mò, tìm hiểu ở người đọc: “vàm Cỏ Xước, Vàm Mắm, kinh Cỏ Chác, kinh Mười Hai, kinh Thợ Rèn, Rạch Mũi, Rạch Ráng, Rạch Ruộng, Xẻo Mê, Xẻo Rô, Lung Lớn, Gò Cây Quao...”, hay những tên ấp, tên làng, tên chợ nhiều chất Nam Bộ: “xóm Xẻo, xóm Rạch, xóm Kinh Cụt, xóm Miễu, chợ Ba Bảy Chín, Cái Nước, Trảng Cò, Đất Cháy, Mút Cà Tha …” [6].
Vì vậy có thể nói, ý thức trân trọng, giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư trước hết được thể hiện ở sự khẳng định và niềm tự hào của nhà văn về những phẩm chất và giá trị văn hóa vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đọc truyện Nguyễn Ngọc Tư vì thế người đọc không những được thưởng thức những câu chuyện thắm đượm tình người mà còn được cung cấp cấp thêm nhiều cứ liệu văn hóa rất bổ ích về vùng đất cực Nam của Tổ quốc. Ví như người đọc sẽ hiểu thêm về chợ nổi ở Nam bộ; hay hiểu thêm về những gia đình, những con người cả đời phải bươn chảy, mưu sinh trên những chiếc ghe theo từng con nước lớn, ròng được chị tái hiện rất chân thật, sinh động nhưng cũng không kém phần mượt mà và duyên dáng.
“Giang nói không có con kinh con rạch nào mà ghe chưa đi qua, không có đường ngang ngõ tắt nào mà ông Chín không biết. Xuôi dòng, ngược dòng, con nước kém, con nước rong… Lúc đó con Thủy còn mềm xèo nhỏ xíu như con mèo mướp. Hệt như Giang, nó lớn lên trên ghe. Lúc buôn bán, lúc nấu cơm, ông Chín không bồng được, Giang buộc sợi dây dù vô chân nó, đầu kia Giang buộc vô mui ghe. Con Thủy bò chán bò chê rồi nằm ngửa ra, ngó những trái cà, trái khóm, trái bí, bầu ông Chín treo lúc lỉu trên nhánh chà đằng mui ghe.” (Nhớ sông)
Hay đọc Nguyễn Ngọc Tư người đọc phần nào sẽ hiểu thêm về nghề “nuôi vịt chạy đồng” trên những cánh đồng mênh mông, bạt ngàn, “cò bay thẳng cánh” rất đặc trưng ở vùng sông nước Nam bộ:
“Mùa gặt năm nào anh cũng xuôi ghe chở bầy vịt chạy đồng về xóm gạch giồng này. Rồi cất cái chòi bằng lá chuối, quây lưới cầm vịt trên khúc đê trồng so đũa. Từ chỗ này, mỗi ngày anh lang thang lùa vịt đi ăn khắp cả vạt đồng, qua tới vườn xóm lung. Tới khi người ta bừa đất chuẩn bị sạ vụ mới, Sáng lại ra đi…” (Một dòng xuôi mải miết)
Người đọc cũng sẽ bắt gặp trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư những cứ liệu văn hóa về vùng đất Nam Bộ với “cái nôi” của môn nghệ thuật cải lương; hay về những người dân quê Nam bộ vì mê hát cải lương, mê ca vọng cổ đã không ngần ngại bỏ cửa, bỏ nhà, bỏ giàu sang vinh hiển để đi theo những đoàn gánh hát cho thỏa niềm đam mê ca hát:
“Hôm sau khi gánh hát Kim Tiêu trở lại Sài Gòn, có công tử bỏ nhà bỏ phú quí đi theo”. (Cuối mùa nhan sắc)
Ngoài ra, Nam bộ trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư đôi khi chỉ hiện lên một cách giản dị, dân dã qua một món ăn “canh chua bông súng và cá sặc kho khô” rất quen thuộc trong mâm cơm của người dân quê nghèo khó, lam lũ. Món ăn tuy dân dã, bình dị nhưng chứa đựng cả một giá trị lịch sử và văn hóa khẩn hoang của cha ông thời trước được dân gian lưu truyền qua câu ca dao quen thuộc:
Muốn ăn bông súng cá (mắm ) kho
Thì vô Đồng Tháp ăn cho đã thèm
(Ca dao Nam bộ)
Ý thức trân trọng và giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư còn thể hiện ở điểm nhìn tiếp cận hiện thực đời sống với thái độ ngợi ca và trân trọng những giá trị văn hóa đã ăn sâu vào tiềm thức qua bao thế hệ của người dân thôn quê. Điều này nếu so với các nhà văn cùng thời và cùng trang lứa hiện nay như Nguyễn Đình Tú, Phong Điệp, Đỗ Hoàng Diệu,… thì đây chính là cái nhìn thể hiện cá tính sáng tạo rất độc đáo của Nguyễn Ngọc Tư. Có thể thấy, hiện thực trong tác phẩm của các nhà văn vừa kể trên chủ yếu được nhìn từ điểm nhìn và chỗ đứng của những con người thành thị đang cố chống chọi với cuộc sống công nghiệp hóa, hiện đại hóa rất sôi động và nóng bỏng. Đây là cái nhìn của Phong Điệp trong truyện ngắn “Thế là vừa hết một đêm”:
“Hai thằng héo hon tính đã đến hơn chục năm để bon chen chốn thị thành. Cuối cùng một thằng khá hơn, cũng mua được căn nhà xa tít tắp, ở cạnh sông, nước quanh năm đen quánh như mực. Trời hơi dậy nắng là mùi thum thủm từ sông dội lên. Rồi giống như tên kẻ trộm tinh ranh và lành nghề, cái mùi thum thủm ấy, thoắt cái đã chui tọt vào nhà rồi trốn vào một ngóc ngách nào đó mà gia chủ không hề hay biết. Chỉ đến khi nó ăn cắp hết bầu không khí trong lành ở khắp các gian phòng thì chủ nhà mới té ngửa. Nhưng chả làm sao khác được. Coi như cùng chung sống, có chăng cẩn thận hơn bằng việc ra vào khép cửa. Nước lau nhà Sunday hương nắng mới gì gì đó cũng chịu chết, chả tẩy uế được cái mùi thum thủm, nhức cả đầu ấy. “Tên kẻ trộm” đã quyết tâm bám riết lấy “nơi trú ngụ” mới”.
Còn với Đỗ Hoàng Diệu, hiện thực trong tác phẩm của chị thậm chí có lúc còn được nhìn với một thái độ phủ nhận, báng bổ rất quyết liệt những vấn đề liên quan đến làng quê, thôn xóm. Bóng đè là tác phẩm tiêu biểu cho cách nhìn này của Đỗ Hoàng Diệu khi chị nhìn về làng quê và những nếp sinh hoạt của người dân quê (Bắc bộ). Đó là một thái độ lạnh nhạt, được nhìn với ánh mắt “đẩy đưa” của một “tiểu thư” thành thị cảm thấy rất khổ sở mỗi khi phải theo chồng về thăm quê:
“Quê Thụ cách thành phố khoảng ba giờ tàu hỏa. Tôi không ngờ đồng quê khác biệt đến thế… Lần về trước bận bịu khách tôi đã chẳng có thời gian đẩy đưa con mắt.”
Hay: “Tưởng tượng ra viễn cảnh mỗi năm phải còng lưng làm cơm cúng mười bảy đám giỗ cho đến ngày Thụ qua đời, tôi không khỏi ngao ngán”.
Hay: “Vợ tôi thoát nạn nhà quê rồi, tiểu thư thôi không nằm phản mồ hôi nhễ nhại như đêm qua! Sướng nhé!”
Không giống như những nhà văn trên, hiện thực trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư chủ yếu được nhìn từ chỗ đứng thể hiện niềm tự hào của những người dân quê. Tự hào vì trong “bức tranh” hiện thực ấy là những giá trị văn hóa bao đời của cha ông. Với Nguyễn Ngọc Tư làng quê nông thôn tuy nghèo khó nhưng rất thân tình và ấm áp. Trong lời đề từ cho truyện ngắn Nhớ sông, Nguyễn Ngọc Tư tái hiện cảnh sinh hoạt của chợ nổi - một nét văn hóa rất đặc trưng của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, rất hay như sau:
“Tôi thường đứng trên cầu Gành Hào, nhìn về chợ nổi, ở đó có thể trông thấy một dãy ghe rập rờn xao động cả mặt sóng, những cái chân vịt gác chỏng lên loang loáng dưới mặt trời. Mỗi chiếc ghe là một ngôi nhà nhỏ, ngang hai mét, dài năm bảy mét. Nhỏ bé, chật hẹp. Nhưng có một cái gì đó thật khác thường, thế giới đó hẹp đến nỗi chỉ vừa xoay lưng, để nằm co, để cúi người…mà cũng dài cũng rộng vô phương bởi cuộc sống rày đây mai đó, lênh đênh cuối bãi đầu ghềnh. Những chiều tà chợ nổi đìu hiu bập bềnh đâu hết một vạt áo nắng vàng hoe hoe, đỏ hoe hoe. Những người đàn bà cúi đầu chăm chăm xới nồi cơm dào dạt khói, những người đàn ông xếp bằng trên mui ghe vấn những điếu thuốc to đùng bằng đầu ngón chân cái, phì phà nhả khói lên trời. Những đứa trẻ con ngồi tênh hênh trên mũi ghe câu cá chốt, cá mè. Những cô gái sau một ngày bán hàng mệt mỏi soi mình xuống sông, chải tóc.”
Còn đây là nét sinh hoạt chuẩn bị cho một đám cưới quê cũng rất đặc trưng ở vùng sông nước Cửu Long:
“Vẫn còn tiếng lụp cụp rộn ràng của mấy cây dao chặt vào mặt thớt mù u. Vẫn tiếng nói cười xao động từng chòm nhóm của các chị các dì trong nhà bếp. Tiếng máy đèn chạy tạch rè. Đằng trước rạp, nhóm ca cải lương dạo đàn lửng ta lửng tửng rồi ai đó vô câu vọng cổ ngọt xớt. Không biết vô tình hay cố ý, anh chàng nọ kê micrô gần miệng mà uống rượu nghe đánh cái chóc giòn thiệt giòn rồi khà ra tuồng như cay đắng lắm, chua xót lắm, bắt thèm. (Huệ lấy chồng)
Hay trong truyện ngắn Nhà cổ, Nguyễn Ngọc Tư nói rất chân thành và xúc động về nguyên nhân hai anh em nhân vật Tứ Hải không chịu bán căn nhà cổ xiêu quẹo, mục nát:
“Nhân Phủ” của anh cách nhà tôi một hàng rào cặm bằng cây bình bát, đó là ngôi nhà cũ kỹ, già nua nhất làng cổ Phương Điền. Nghe kể, ông tổ nhà anh Tứ Hải đã đứng dưới cây dông nem trước nhà, bảo tốp thợ ông muốn làm một ngôi nhà đẹp nhất, rộng nhất xứ này, một ngôi nhà thật lớn cho tất cả con cháu ông khi sinh ra đều có chỗ cho mình. Ròng rã hơn ba mươi năm, những người thợ xứ Quãng đã làm nên một kiệt tác nhà rường Nam bộ nghiêm cẩn, công phu chạm trổ từng chi tiết nhỏ, từ cây cột cái tới ngạch cửa, từ cánh cửa tới mấy cái bậc tam cấp lối vào… Nghe kể, khi làm “Nhân Phủ”, người ta đã cúng đủ mười lễ, nên nó điềm nhiên đi qua hai cuộc chiến tranh mà không có một vết tích nào”.
Tương tự vậy, trong truyện Một mối tình, người đọc cũng bắt gặp một không gian kỉ niệm mang đậm chất văn hóa truyền thống của cha ông. Nhân vật Trọng trong truyện - một thanh niên còn trẻ nhưng rất có ý thức trong việc nâng niu, gìn giữ nếp văn hóa bao đời của gia đình mình qua bao thế hệ:
“Nhà Trọng có một cái lạ nữa là trên bàn thờ lúc nào cũng chong đèn, ngày tháng này qua ngày tháng khác, năm này qua năm khác, ngọn đèn truyền từ đời cố Trọng, nội rồi tới Trọng, không bao giờ được phép tắt. Chiều nào chị em tôi đi ngang qua cũng thấy Trọng lọ mọ ngồi lau cái bóng đèn hột vịt ám khói, châm dầu bằng cái vẻ thành kính, nâng niu.”
Những vấn đề trên một lần nữa cho thấy tác giả là một người am tường và gắn bó sâu đậm với những giá trị văn hóa của cha ông. Trong thời buổi công nghiệp hóa, hiện đại hóa, một nhà văn với tuổi đời còn khá trẻ như Nguyễn Ngọc Tư nhưng biết, hiểu và quan tâm đến “cái bóng đèn hột vịt ám khói” – có thể nói là một kỷ niệm, một kỷ vật chứng nhân cho một thời, một giai đoạn phát triển của lịch sử dân tộc - là rất đáng trân trọng. Phải là người gắn bó sâu nặng và có ý thức giữ gìn những giá trị truyền thống của cha ông mới có thể viết hay và thiết tha như vậy.
Tóm lại, có thể nói, từ những sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư cho thấy ở chị một điểm nhìn, một cái nhìn, một cách tiếp cận hiện thực đời sống thể hiện sự hiểu biết khá sâu sắc về văn hóa và con người Nam bộ. Tất cả những vấn đề trên cho thấy ở Nguyễn Ngọc Tư cái tâm thế luôn tìm về với những giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống của cha ông. Đây phải chăng cũng là quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư – quan niệm: khẳng định vẻ đẹp và ý nghĩa của cuộc sống con người không thể tách rời tâm thức và cội nguồn văn hóa dân tộc; là cách Nguyễn Ngọc Tư tiếp cận hiện thực đời sống xã hội - một sự kế thừa và tiếp nối về một khuynh hướng tiếp cận hiện thực từ góc nhìn văn hóa trong sáng tạo văn chương nghệ thuật từ các thế hệ cha ông?

4. Thay lời kết

Có thể nói, việc tái hiện đồng thời khẳng định những giá trị văn hóa của cha ông vào trong tác phẩm là một việc làm có chủ ý của Nguyễn Ngọc Tư trong quá trình phản ánh hiện thực cuộc sống. Sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư đã chuyển tải được những giá trị văn hóa độc đáo của cha ông đến với người đọc bằng một sự cảm nhận rất “đời thường”. Đây có thể xem là khuynh hướng thẩm mỹ trong sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư - khuynh hướng thổi vào tác phẩm những phẩm chất và giá trị văn hóa của dân tộc, của quê hương (cụ thể ở đây là những nét đẹp văn hóa nơi vùng đất cực Nam của tổ quốc). Điều này cũng góp phần lý giải vì sao sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư nói chung luôn được đông đảo bạn đọc ủng hộ; được các nghệ sĩ, sân khấu và điện ảnh tìm đến với một sự đồng cảm sâu sắc với mong muốn được chuyển tải lại bằng ngôn ngữ nghệ thuật của riêng họ (các tác phẩm Cánh đồng bất tận, Dòng nhớ, Chiều vắng… của Nguyễn Ngọc Tư được các nghệ sĩ sân khấu và điện ảnh mua bản quyền chuyển thành kịch bản sân khấu và kịch bản điện ảnh). Thành công của Nguyễn Ngọc Tư một lần nữa cho thấy bản lĩnh của Nguyễn Ngọc Tư khi đã dũng cảm chọn cho mình một hướng đi riêng đó là: không “chạy theo đám đông”, không chạy theo xu hướng “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” cả trong cách nghĩ và cách sống (nhiều khi rất tầm thường và “lệch chuẩn”) mà khá nhiều nhà văn trẻ hiện nay đang xem là “mốt” thời thượng khi sáng tác. Tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư vì thế, thoạt nhìn bề ngoài có gì đó rất “xù xì”, “thô mộc” nhưng khi ngắm kĩ, nhìn kĩ lại thì lại sẽ thấy rất thùy mỵ, rất dịu dàng và “nết na” phản ánh đúng cái chất truyền thống - cái tâm hồn Việt Nam nghìn đời. Đọc Nguyễn Ngọc Tư vì vậy, nếu là người đang sống trên mảnh đất này sẽ cảm thấy rất tự hào vì quê hương Nam bộ khi đi vào trang viết của Nguyễn Ngọc Tư sao mà đáng yêu, đáng quý đến thế. Nếu là người có một thời sống ở mảnh đất này nhưng vì cuộc sống phải tha hương cầu thực thì những trang viết của Nguyễn Ngọc Tư không chỉ cho họ thêm niềm tự hào mà còn gợi lên trong lòng một cảm giác cồn cào nhớ quê đến quay quắt cháy bỏng, thầm mong một ngày nào đó được trở về. Còn nếu là người chưa một lần đặt chân đến đây, những trang viết của Nguyễn Ngọc Tư chính là lời giới thiệu giúp họ hiểu thêm về con người và vùng đất mang đậm dấu ấn văn hóa sông nước rất đáng yêu và đáng tự hào của tổ quốc.




MỘT SỐ TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

1. Nguyễn Văn Hạnh - Văn hóa như là nguồn lạch sáng tạo và khám phá văn chương. Tạp chí văn học, số 1, năm 2007
2. Hoàng Ngọc Hiến - Văn học gần và xa. Nhà xuất bản Giáo dục, 2006
3. Nguyễn Đăng Mạnh - Nhà văn tư tưởng và phong cách. Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 2001
4. Sơn Nam - Đồng bằng sông Cửu Long nét sinh hoạt xưa và văn minh miệt vườn. Nhà xuất bản Trẻ, 2004
5. Lê Ngọc Trà - Lý luận và văn học. Nhà xuất bản Trẻ, 2005
6. Website http://www.viet-studies.info/NNTu/ (chuyên trang về Nguyễn Ngọc Tư do Trần Hữu Dũng thiết kế và quản lý).

Giữa bầy đàn…

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư


Quán chị cheo leo trên sườn núi, cạnh lối đi lên động Tiên Sơn. Nhưng nhà chị xa ngoài bến thuyền, nơi du khách bắt đầu cuộc hành trình vào Phong Nha. Từ mờ sáng chị quá giang thuyền lên núi, tàn chiều quay về nhà. Hôm nào đông du khách, chị kiếm được chừng ba mươi ngàn, nhưng có ngày vắng người, khách ngại leo núi, chị về tay không.

Chị đẹp, và khuôn mặt phúc hậu hiền từ đến mức người trong đoàn tôi phải thốt lên, “thấy thương đến nỗi không nỡ chọc ghẹo”. Chị hay cười, lúc cười còn hiền hơn. Tôi than đói, chị chia một cái bánh mì nhỏ teo và giở nắp nồi mời tôi, trời ơi, mớ khoai luộc còn nghi ngút khói, củ khoai cũng nhỏ, ngọt lừ, chị nói khoai này không bán, ăn với chị cho vui, có vẻ như chị đã san sớt cho đám người mệt nhừ, đói khát chúng tôi ít thức ăn của buổi trưa rồi. Không biết cảm động vì điều đó, hay vì cái cười thuần khiết, vì giọng nói dịu dàng, vì sự thẹn thùng, sượng trân mỗi khi gã táo tợn nào gọi, “bán thêm chai nước, mình ơi”… mà tôi bỗng nghĩ, trời ơi, mình đã gặp được người đẹp nhất Quảng Bình. Lúc ra về, một anh bảo, hẹn mai mốt gặp. Chị cười, “biết còn quay lại nữa không mà hẹn?!!”. Nghe ngậm ngùi, nghe buồn buồn, như chúng tôi vừa lỡ lời.

Sau mỗi bậc thang, quán chị khuất dần. Tôi bỗng nghĩ về những con người cô đơn tôi đã gặp suốt dọc đường. Như chị, lũ lượt một ngày bao nhiêu là du khách lên ngọn núi này, ai là kẻ tri âm? Dừng chân một chút, uống ly nước, ăn quả trứng, mua món hàng lưu niệm, ai chia sẻ với chị những vui buồn? Ai lo lắng cho chị nếu bất ngờ chị lên cơn sốt vì sương lam chướng khí? Lũ lượt ngang qua chị biết bao người phải chăng là bao nhiêu sự trơ trọi, cô đơn?

Như người thu phí cầu Mỹ Thuận, chị nhân viên tiếp tân khách sạn, anh bảo vệ trong lăng Tự Đức… tôi luôn đọc được sự lạc lỏng đơn độc của họ với cuộc đời. Chúng tôi càng đông đúc, càng vui vẻ, càng phô trương và thoả mãn với những gì mình có càng đẩy họ ra xa mình. Đứng giữa dòng người, nhưng họ bị chìm khuất và quên lãng đi, vì chúng tôi tiếp xúc với họ chỉ bằng tấm lưng chứ không bằng khuôn mặt. Chúng tôi đi qua đi lại, cười cười nói nói, chọn những cảnh đẹp nhất để chụp tấm hình đem về khoe khoang, và chúng tôi đã bỏ họ lại phía sau, vì những bộ quần áo sang trọng lượt là, những món hàng lưu niệm xa xỉ. Vì sau đó, chúng tôi sẽ về nhà, sẽ quên lãng họ.

Họ thì vẫn ở đó, vật lộn với cuộc mưu sinh. Có lần, tôi tấm tắc khen với một người Quảng Bình, Phong Nha đẹp quá, đẹp nhất nước đó, chị à. Chị chèo thuyền cười, tui cũng không biết nữa, hồi nào giờ tui chỉ biết bến thuyền, với một khúc sông Son, có đi khỏi đây đâu mà biết chỗ nào đẹp hơn chỗ nào”. Tôi định khen lấy lòng, để xem người phụ nữ nghèo khó này hạnh phúc tự hào như thế nào, không ngờ… Mất ba mươi năm tôi mới tới Phong Nha, cứ nghĩ quá dài, cứ xấu hổ với bạn bè về sự ngơ ngác, quê mùa của mình, còn chị gần năm mươi rồi, thị xã Đồng Hới vẫn là một nơi xa xôi, lạ lẫm.

Và người phụ nữ này vẫn vài ba ngày lại đưa rước khách vào thế giới hang động nổi tiếng thế giới, ghi tên mình vào bộ tộc những người cô độc, cười nói với người đời mà thui thủi ở một bến bờ xa xôi, nơi có bảy đứa trẻ trong ngôi nhà nhỏ bên sông Son đang hau háu đợi thuyền mẹ về. Không phải ai cũng biết điều đó, người ta nhiều khi tưởng chỉ một mình lủi thủi nơi thâm sơn cùng cốc, xa làng xa chợ mới gọi là cô đơn.

Nhưng sống giữa bầy đàn đông đúc mà không ai hiểu được mình, không ai chia sẻ với mình, không ai trìu mến với mình, đâu thử lên núi cao xem có đỡ đau hơn không?

1 comment: