Sunday, March 6, 2011

Nguyễn Ngọc Tư 2

Nỗi buồn rất lạ
Nguyễn Ngọc Tư

Vậy là ông Tư Đờ, giám đốc công ty xuất nhập khẩu bị bắt rồi.
Tôi có biết ông, ông từng giàu có, từng hào phóng, từng nổi tiếng là chịu làm và làm mạnh, táo bạo. Tôi làm báo, có tới công ty ông vài lần, chính xác thì bao nhiêu lần thì không nhớ, khi thì đến tìm hiểu về công đoàn, khi thì về một mặt hàng mới… Viết xong cũng đãi đằng, nhậu nhẹt. Bây giờ nghĩ lại thấy kinh lắm, cho tới bây giờ tôi đã từng ngồi chung một bàn tiệc hình như nhiều, rất nhiều người trong cái tỉnh nhỏ này. Ở đời, người ta đôi lúc có thể làm bạn với nhau bằng một ly rượu trắng cưa đôi, tôi vào nghề báo sáu năm, lên lương ba lần, giao du nhiều, be bét gần hết một tuổi trẻ, uống ngàn ly rồi, bạn được mấy ai? Như ông Tư Đờ này vậy, bây giờ chỉ còn nhớ rõ nhất là cái lần ông vỗ đầu tôi:
- Ba khỏe không mậy?
Tôi biết, chắc ông có quen với ba tôi, chắc từ hồi kháng chiến, những mối quan hệ không còn giá trị, nhắc cũng được mà không nhắc cũng được, vậy thôi.
Vậy mà nghe tin này, ba tôi lặn lội từ Xóm Xẻo lên gặp tôi. Ông lột dép xách tay từ ngoài chân thềm, tay kia cầm cái giỏ bang chuối vơi rau, một con vịt trắng thò cổ ra thoi thóp. Ông ngó thấy mặt tôi đã hỏi:
- Thằng Tư Đờ sao mậy, tao nghe đài nói như búa bổ, nó bị bắt phải không?
Tôi bật cười:
- Ba làm gì mà dữ vậy, không kịp thở. Ổng bị bắt, ba à.
- Mày nói làm sao chớ, thằng Tư Đờ đâu có tệ hệ vậy, tao biết nó mấy chục năm trời…
Tôi mời ba tôi ngồi, đi súc bình trà đóng mốc từ mấy tháng trước rồi hốt một nhúm trà, châm nước mới. Nghĩ buồn cười, sao mấy cụ già này cứ đinh ninh là nước chảy một dòng. Bao nhiêu năm? Bao nhiêu mùa? Mười, hai mươi, ba mươi… Cái đầm Bà Tương đằng trước Xóm Xẻo quê mình hồi xưa sâu biết bao nhiêu giờ đã cạn, xuồng lớn men theo lạch mới chạy được. Mớ đước già nua ven Đầm đã không còn nữa dù chỉ một bóng cây, ngày xưa xinh đẹp bao nhiêu giờ đã cỏi cằn. Trời đất thay đổi, huống chi con người.
- Uống nước đi ba. Chuyện hồi xưa khác, bây giờ khác. Biết bao nhiêu năm rồi, ba quen ổng từ hồi nào? Sao ít nhắc quá vậy?
- Hồi chiến tranh. Hồi đó, cỡ tuổi mày bây giờ, nó là một tay du kích nổi tiếng lì. Tụi ngụy ngoài chợ Rạch Ráng nghe nói tên Tư Đờ là thiếu điều té đái. Biết bao nhiêu lần tụi giặc càn vô vùng căn cứ Xóm Xẻo, tụi tao đánh giạt hết. Tao nè, Tư Đờ nè, bác Mười Mực của mày nè… Bây giờ đứa còn, đứa chết. Nếu thiệt vậy thì thằng Tư Đờ coi vậy như chết rồi, nhưng mà chết kiểu đó, tao không đang tâm.
- Làm kinh tế mà ba, đâu có liên quan gì tới chuyện đánh giặc. Sẩy chân là chuyện thường.
Ba tôi xửng vửng:
- Bộ có nhiều đứa giống như nó lắm sao?
- Nhiều, lớn thuyền thì lớn sóng.
Ba tôi thẫn thờ. Con vịt trong giỏ để góc nhà thò đầu kêu cạc cạc. Lâu lắm ông mới lên tiếng:
- Hồi xưa, nó là thằng tốt nhất, lâu nay không gặp, ngờ đâu nó ra nông nỗi này…
- Không biết thế nào, công ty ông ta thâm hụt mấy tỉ mà ổng thì một ngày một giàu. Chìm xuống mà không hay. Cuối cùng thì kết cuộc như vậy thôi, làm lớn mà…
Ba tôi nhướng đôi chân mày đã nhuốm bạc lên,cự:
- Bây nói vậy, chứ làm lớn ai cũng hư hết sao? Tao coi ti vi, coi tụi bây hết, hễ làm giám đốc là phải có bồ, phải tham lam tiền bạc, phải ăn chơi. Tao hỏng chịu. Má mày sanh ra mày, tao cũng muốn mày làm lớn, ông này ông nọ. Nói kiểu này, tao mơ ước vậy làm chi. Nhớ thằng Tư Đờ hồi đó dám cho đồ vợ rồi mà chưa dám nắm tay con gái người ta…
- Có tiền, giàu có, có quyền lực thì dễ hư hơn mà ba.
Ba bất giác nhìn tôi trân trân:
- Con đã gặp nhiều người như vậy lắm hả con?
Trong giọng của ông dường như tội nghiệp tôi ghê lắm. Vâng tôi là một đứa con tội nghiệp. Giá tôi có thể ở lại Xóm Xéo, sống một đời nông dân như ba tôi. Chiều đi ruộng về nằm võng nghe đài Hậu Giang ca cải lương, tối ra Đầm đặt lú. Trời thanh, mây tạnh. Chuyện “vĩ mô” có người có “vĩ mô” lo. Đằng này tôi ra đời. Gặp biết bao nhiêu người, gặp bao nhiêu chuyện như chuyện của ông Tư Đờ bạn ba tôi đây. Lúc đầu thì sửng sốt lắm. Một người đã từng vào sinh ra tử trong chiến tranh sao để gục ngã vậy? Thế rồi từ từ thấy quen đi (choa, chuyện này người ta cũng quen được sao?). Tôi thấy mình không còn ngây thơ nữa. Nhớ những ngày chân ướt chân ráo vô nghề, làm ở Phòng thời sự, đi họp hành đưa tin nhiều, gặp mấy chú lãnh đạo, mấy chú vò đầu, vuốt tóc, khen trẻ mà giỏi, ráng lên để thay mấy chú chớ con. Ngay ngất lắm, về nhà không muốn gội đầu, sợ dấu phai đi. Tất cả là phù phiếm. Người ta không còn yêu mặt trăng nữa thì biết trên ấy chỉ còn sỏi đá, không sự sống. Tôi cứ khinh khỉnh nhìn mấy tên phóng viên mới vô nghề, gặp ở quán cà phê nào cũng thì thầm với nhau, ông Bảy tiêu rồi, ông Chín cũng tiêu… bằng một nỗi đau đớn mà tôi cho là khờ dại.
Ba tôi ở lại với tôi một ngày. Buổi tối, tôi rủ ba tôi nhậu. Hai ba con thôi. Ở đây hay về quê cũng vậy, hai ba con tôi thường ngồi lại vơi nhau. Để coi, lần tôi về quê cũng lâu lắm rồi, đợt đó xóm kéo điện về. Cái xóm nhỏ oai hùng, cái xóm nhỏ nghèo quê tôi hai mưới sáu năm giải phóng người ta thấy được ánh điện đầu tiên trong đời. Người già Xóm Xẻo uống trà quạu thức sáng đêm nhìn bóng đèn cho đã con mắt. Con trai con gái xóm rủ nhau chèo thuyền ra ngoài đầm nhìn vô xóm sáng choang, coi giống ngoài thị xã không, rồi chèo trở lại, thương nhau lâu lắm mà bây giờ mới dám nói. Cái ánh sáng làm cho người ta tự tin lên. Còn tụi con nít bị đánh quắn đít tưởng đâu vẫn còn ban ngày. Ba tôi ngồi nhăm nhi với tôi, mồi là niềm vui khôn tả, nên uống hoài không thấy say.
Tối nay lại khác, trông ông buồn rũ. Nói qua nói lại một hồi quay về ngay ông Tư Đờ.
- Tao nhớ coi, hồi Tết năm nào nè, Tư Đờ có về nhà mình.
- Vậy sao ba?
- Ừ, nó nói cha sống như vậy mà khỏe hơn tui. Chưa bao giờ tui sống một ngày yên bình. Giặc bây giờ nằm tứ phía. Tụi nó giết mình ngọt ngào mà mình không hay. Bây giờ tụi nó bắn tôi băng đạn đường không hà. Ngấm đạn rồi mới hay. Đau lắm. Cực lắm.
- Ổng nói vậy cho mát lòng ba chứ cực nổi gì. Ổng đi nước ngoài như cơm bửa. Ở nhà máy lạnh, ra đường đi xe máy lạnh, đi nhậu cũng nhà hàng máy lạnh. Ai như ba, đầu tắt mặt tối, mưa nắng dẫu dài, nghèo vẫn hoàn nghèo. Thôi bỏ chuyện đó, vô cái này đi ba.
Ông lặng lẽ uống, không nhăn mặt khè khè như mọi khi ngậm rồi nhọc nhằn nuốt. Bữa rượu buồn quá. Buồn vì cái ông Tư Đờ của thời xa xôi nào đó tự nhiên hồn vía bay về. Chợt ba tôi trầm ngâm:
- Coi chừng sống trong cuộc sống toàn máy lạnh làm cho máu người ta lạnh đi. Còn mày, mày lạnh được bao nhiêu phần rồi? Nói chuyện tao nghe không được…
- Tôi không biết mình nói chuyện gì mà ba tôi buồn “nghe không được”. Tôi suy nghĩ mãi, suy nghĩ hoài. Đến đi ngủ, tôi tấn mùng cho ba, ông bảo: “Về dưới gặt xong tao trở lên, mày coi có cách nào cho tao vô thăm thằng Tư Đờ, tao cần gặp nó, có chuyện tao muốn nói chuyện với nó… Sao tao tức mình quá…” Tôi nói thôi ba ngủ đi, chuyện thiên hạ mà.
*
* *
Tôi đưa ba tôi ra bến đò về quê. Ông nhằn “Đi chuyến này cốt là hỏi coi chuyện thằng Tư Đờ ra làm sao, về dưới bà con có hỏi con biết đường nói, mà cũng không đâu vô đâu hết, tốn công…”. Tôi cười, vỗ vỗ lưng ông an ủi. “Thì ba biết rồi con cái gì, báo nói, đài nói, người ta đồn đãi, không trúng mười thì trúng một, hai”. Ông gạt ngang: “Nhưng tao muốn nghe thằng Tư nó nói, nói thẳng thắn, thật thà, nó phải nói với tao sao mà tới nông nổi như vậy, nó phải trả lời bà con Xóm Xẻo, chổ bà con cưu mang nó mười mấy năm trời. Làm lớn cũng khổ tâm lắm…”. Câu nói cuối cùng của ông buông xuống, nhẹ như một tiếng thở dài. Khi chiếc tầu chạy tuyến Cái Nước xa rồi, sao tự nhiên tôi buồn, buồn quá. Nỗi buồn này nặng hơn, trong suốt và nhiều gai nhọn hơn nổi buồn của ba tôi.
Ui chao! Vậy là ông Tư Đờ bị bắt rồi. Ông Tư Đờ bạn của ba tôi, từng là bạn nhậu của tôi, đã từng vỗ đầu tôi và hỏi: “Ông già khỏe hôn mậy?” và hình như có một lần, một lần nào đó, khuya, rất khuya, tôi đã đưa ông Tư Đờ về nhà, ông say lắm, rất say. Hình như ông tựa hẳn vào tôi. Mà sao bây giờ tôi bỏ ông vậy? Tôi quên ông vậy? Tôi có già đâu?
Thôi, buồn quá. Tôi thấy mình thà chết còn sướng hơn, chứ con trẻ trai mà sống làm chi dửng dưng, tạnh quẽ với cuộc đời như thế này.
Lên mạng này ngày 23-8-05
(sửa: 9-10-05)
Đôi bờ thương nhớ
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư


Bạn biết tôi thương bạn nhiều mà bạn làm khổ tôi chi vậy.
Như thường lệ, bạn vẫn viết thư cho tôi. Thư nhận chiều qua, bạn viết : “Mình sẽ cố thu xếp trở về cố hương. Có xa xôi gì mà mất mười hai năm ly xứ...” Rồi bạn kể ra một dọc những cảnh moi từ ký ức cũ, nào là những tàng cây trứng cá đằng góc sân, hàng điệp đỏ de mình ra mé nước che cái bến, mấy chiếc xuồng ba lá buộc dập dềnh vào chân cầu. Con đường đất đỏ pha nâu dẫn vào căn nhà cất theo kiểu cổ, hàng lơn nước trước hàng ba ngoại úp cái gáo thâm màu đất...
Tôi luôn nhớ về bạn nhiều nhất trong đám bạn cũ. Với tôi, những người xa xứ, lìa quê luôn luôn tội nghiệp. Bây giờ, tôi lại càng thương bạn hơn bởi những gì bạn nhắc, bạn nhớ đã không còn nữa.
Xóm của K., cái xóm Hòa Trung nằm bên bờ con kinh xáng Đội Cường đã không còn nữa. Mà, có riêng gì cái xóm cũ của bạn tôi, nhiều làng xóm dọc theo những triền sông lớn, những tuyến giao thông chính ở vùng đất rặt sông nước nầy đã mất dần dấu tích theo con sóng tạt ào ào vào bờ đất. Và đất theo sóng ra đi.
Có người nói ở Tân Châu (An Giang) ngủ một đêm sáng dậy thấy nhà mình trôi lềnh bềnh trong dòng nước vậy mà sướng, vậy mà “ngon” hơn ở ven các con sông Cà Mau, khỏi phải mỗi ngày nhìn thấy mảnh đất được gầy dựng từ thời ông cố, ông sơ mình từ từ, cứ từ từ chìm vào dòng nước mà không cách gì giữ lại. Đứt ruột.
Nhà cũ của bạn tôi nằm đâu ? Cái xóm nhỏ nhìn ra sông, đón nắng từ sông, uống gió từ sông đó bây giờ đâu ? Thở dài. Những ngôi nhà trống huơ, hoang tàn, trơ trơ gạch ngói, cái còn cái đã ngụp một nửa dưới nước, những cái nền gạch còn lưu dấu một chiếc ngạch cửa, một cái lan can thấp (nơi ngày xưa bạn ngồi đó bưng tô cơm, vừa ăn vừa coi trời, coi đất chơi !?). Trên nền nhà cũ, lần theo các khe nứt do đất sụp cỏ giồng trầu, cỏ nước mặn, lức dại đua nhau mọc xanh rì. Một cái sàn cây nước lộ ra cái ống sét nghẹt khi nước bắt đầu ròng. Những cây dừa, cây mấm nằm xoãi dài ra mép nước, đám rễ tuyệt vọng níu lấy chút đất cuối cùng. Đâu đó nhiều quãng hiện ra một nhà máy chà gạo, nhà máy đường, ống khói gảy gập lại, nửa nằm ngoài bãi, nữa nghiêng ngửa . Con thằn lằn lạc tắc lưỡi kêu hoài làm như tiếc rẻ cái gì. Tôi tự hỏi, nhà của bạn tôi đâu, cái ngôi nhà ký ức ấy. Nhà xưa của bạn nằm thấp thoáng sau bờ đất kinh xáng múc, cây cỏ quanh nhà rất xanh, bên gốc gừa có cái miểu ông Tà ngó xéo ra sông ... Tất cả giờ ở đâu ?
Mới đó mà chỉ hơn mười năm. Ngày bạn đi, chắc sông không rộng như bây giờ.
Bác Sáu Bé, một người già của xóm Hòa Trung cũng bảo như vậy, ông nhớ như in hàng mấm chồm ra mé nước, kế đó, trên bờ là một hàng dừa, sân rộng minh mông, trồng thiệt nhiều me, nhiều cây me già, cao thiệt cao. Ông thường trèo lên đó nghe ngóng tình hình giặc, “hễ thấy tụi nó qua Mương Điều lò dò càn vô hướng mình thì mình rút”, ông kể, “mà, hồi đó, kinh Đội Cường lớn lắm cũng bằng nửa công đất mình. Bữa nào cánh giao liên tụi tui có thơ, tui ra mé sông, kêu mấy chú mấy anh bên cơ quan ra, tui buộc cục đất vô thơ, chọi qua bển một cái gọn hơ hà. Bây giờ ông nội tui chọi còn không qua nữa chớ nói gì già cả như tui...” (Có phải ngày đó, người bên sông đã gửi sang cho bạn lời thương nhớ cũng bằng cách nầy để cho bạn nhớ thương tới bây giờ ? Tôi nghi lắm nghen !). Tôi ngồi với bác bên bờ sông, nước bắt đầu ròng, nửa cái khung của ngôi nhà cũ đã bị chồm hụp hửi vào dòng nước bắt đầu lộ ra hàng ba, bên dưới lan can là hai bồn hoa nhỏ. Bác chống xuồng ra sông, chỉ tay vào dòng nước đang chảy cuồn cuộn chỗ ngày xưa có hàng me, hàng mấm, dễ chừng có ra đến gần một nữa sông. Ở đó nhìn vào bờ, cảnh buồn như trăng lặn. Tôi hỏi bác có buồn không, bác chỉ im lặng và đốt thuốc, lâu lắm bác mới nói : “Buồn chớ, đất nầy, ông bà mấy đời để lại cho mình mà. Hồi đó, bom đạn vậy mà có ai bỏ nhà, bỏ xóm mà đi đâu...”
Nhưng bây giờ đã thực sự là một cuộc chia ly. Những hàng mấm, vẹt, đước, những rặng dừa nước vốn mang sứ mạng giữ đất đã bị bứt lìa trước tiên. Không có bộ rễ kiên cường nào có thể chịu được sức mạnh của sóng từ những con tàu. Đất bắt đầu vạt, vỡ ra, trôi đi từng ngày. Cho tới khi, mép nước đã le liếm sát thềm nhà, người ra đi. Không ai để ý chiều đó có một căn nhà không còn ở bên sông nữa, người ta có biết bao nhiêu chuyện để lo, chỉ thấy giật mình thảng thốt chiều nay ngồi tàu nhìn hai bên bờ sông, vườn thôi rộng, sân thôi sâu và xóm vắng.
Chưa có cái gì làm cho người Cà Mau vốn chịu thương chịu khó sáng tạo, cần cù lại bó tay như nạn lỡ bờ. Họ đã từng chiến đấu cật lực để giữ đất, họ cũng đã từng xây đi đắp lại hết bờ kè nầy tới bờ kè khác, đã từng hy vọng và rồi một ngày rứt ruột bỏ xóm, bỏ nhà. Làm một bờ kè bằng ráng, bụp dừa nước sẽ chịu được khoảng nửa năm. Bờ kè đổ bê tông kiên cố hơn giữ được khoảng ba bốn năm, nhưng để xây được một bờ kè như thế người dân mất khá nhiều tiền, nên những người nghèo đã phải ra đi trước tiên. Một hai căn nhà còn bên bờ sông trong cái xóm đã tiêu điều như một ốc đảo nằm thoi loi một mình, “dòm cảnh buồn muốn dọn nhà đi luôn cho rồi”.
Từ những ngôi nhà đơn sơ có, kiên cố có, nhiều hộ gia đình phải gầy dựng lại tổ ấm trên nền đất mới. Từ đơn sơ họ lại càng đơn sơ hơn, từ kiên cố bây giờ họ sống trong căn nhà cột cây, vách lá. Nhà chị Phỉ dời ra sau đê, ở đậu trên đất anh rể, góc đất nhỏ, nhà coi tum húm to hó. Nhìn qua đám dừa thưa rỉnh thưa rảng vẫn thấy sông, vẫn thấy cái nhà tường cũ, nơi chị sinh ra và lớn lên, đã sụp một phần nền. Mớ ngói Tây cũ rong rêu chị chất sát vách nhà mới, “chờ coi có cơ hội nào xây lại cái nhà không, mà, chắc làm hổng nổi nữa rồi”, chị than. Nhưng chị vẫn còn may mắn hơn nhiều hộ gia đình khác, có người đã phải bỏ xóm làng định cư nơi khác vì không có đất, có nhiều nhà đất đã lỡ tới chân cột cái rồi mà chưa có tiền để dọn đi, nước tràn vô tới bếp tự nhiên như người thân quen lắm vô lục nồi.
Ngồi ở trạm kiểm soát Hòa Trung, nơi hai tuyến đường chính đi Ngọc Hiển và Đầm Dơi chia ra đi rồi lại gặp nhau để theo sông Gành Hào về thành phố Cà Mau, cứ năm phút có một chiếc canô, tàu khách, tàu vận tải cỡ lớn đi qua. Nhiều tàu đặt cả hai máy rùng rùng chạy, sóng ràn rạt. Ước tính mỗi năm có hàng trăm ha đất dọc các bờ sông trôi đi. Sức tàn phá từ sóng tàu với bờ bãi như vậy, mới hiểu tại sao bà con ở dọc những triền sông quê mình chịu bó tay. Chờ đợi một ngày đất đã thôi không còn lỡ dữ dội do lòng sông đã có độ dốc thấp đi, thì bà con không còn gì để mất nữa rồi. Biết kêu ai, bắt thường ai, mất mát như bị thiên tai vậy mà.
Trách ai bây giờ ?
Trách anh Nha nông dân nào cải tiến gắn cái máy xe ô tô vô tàu chạy, tội nghiệp ảnh, ảnh làm là để cho đời, không có ảnh làm sao tránh cảnh đò giang cách trở, làm sao đi đứng thuận tiện, mau mắn như bây giờ. Mình biết ơn ảnh không hết đó chớ.
Trách sao nhiều tàu bè tội nghiệp người ta, trên miền đất xỏ dép vô chân, bước ra gặp sông nước nầy, không có họ, không cho họ phát triển, mình đi về huyện, về quê, đi công tác, đi chơi bằng phương tiện gì bây giờ ?
Chỉ tiếc một chút quê mình ít đường giao thông bộ để chia sẽ bớt gánh nặng cho sông. Mình tiếc quê mình thiệt thòi quá, mất hai mươi lăm năm sau chiến tranh, đất quê mình mới có được những con đường lớn nhưng còn đơn sơ về năm huyện. Nhưng sau từng ấy năm, bên sông, người xưa, cảnh cũ đã không còn.
Bạn biết tôi thương bạn nhiều, tôi sợ bạn buồn, bạn ác với tôi chi vậy ?
Hỏng lẽ bây giờ tôi đi trồng lại hàng điệp đỏ, trồng lại cây trứng cá lá mềm và mịn rụng xuống sân nhà, hỏng lẽ tôi cất lại y chang ngôi nhà cũ, hỏng lẽ tôi lùa được gió sông man mác vào cái hàng ba đã không được nhìn ra sông nữa, và tôi dựng lại được cảnh những chiếc xuồng ba lá nhỏ với mấy cái lá dừa nước làm buồm trôi lơ thơ, êm ả trong nắng chiều, trời chiều. Tỉ dụ như tôi làm được những điều phi thường ấy thì bạn của tôi ơi, cái hồn quê, hồn đất năm xưa đã không còn. Mà tánh bạn cũng như tôi, khăng khăng hoài : “Hoa nào đẹp bằng hoa tuổi thơ. Ổi nào ngon bằng ổi năm xưa”(*). Kỷ niệm của những ngày tươi trẻ vô giá.
Nhưng rốt cùng tôi vẫn mong bạn trở về, dẫu đau cảnh mất người xa nhưng còn cô bác bà con, tản mác ở đâu thì tình nghĩa cũng đầy như nước dưới sông vậy, còn y chang tôi của ngày xưa. Tôi thương bạn nhiều thiệt nhiều. Tôi sẽ an ủi bạn, rằng, đi dưới sông lỡ đất tiếc một, đi trên bờ giờ như Kinh Kha qua sông Dịch, tai nạn hỏng biết đâu mà tránh, hao người còn thương tiếc nhiều hơn.
Nói vậy cũng đỡ buồn chớ.

Ngày đùa
Nguyễn Ngọc Tư
San có điện thoại . Chẳng sung sướng gì khi phải chạy cồng cộc qua hai mươi tư bậc thang lên tầng hai , mở cánh cửa kiếng mới vào được văn phòng nhà văn hoá huyện. Giọng bên kia máy hơi đứt quãng, nhừa nhựa :
- San ơi !
San thở cái phào:
- Chuyện gì đó, Phương ?
- Anh nhớ em.
- Ừ!
- Nhớ thiệt. Anh thương em thiệt là thương.
San nhăn mặt :
- Đang tập thoại đoạn kịch nào vậy ? Nói cứ y như thiệt.
San nghe Phương thở ngắn, rồi lặng đi, rồi thở dài:
- San nhớ uống thuốc nghen !
- Trời đất, bệnh gì mà uống?
- Dặn trước, mai mốt bịnh thì uống. Mai mốt bịnh, anh không dặn nữa.
- Trời đất – San bật cười - Không còn nữa em thôi nghen.
- Ừ … thôi. Vĩnh biệt. Anh từ giã em, anh chết. Anh thương em nhiều lắm thiệt mà, San.
San nhún vai, gác máy. Chị quay ra. Sao vậy ta ? Phải mười năm trước, nghe được câu này của Phương, thể nào San cũng cảm động phát ứa nước mắt luôn cho mà coi. Bây giờ nghe buồn cười không chịu được. San nghĩ, tay Phương nầy hôm nay chắc rảnh rang, đem cả chuyện chết chóc ra đùa.
San nhận dựng một vở kịch cho nhà văn hoá huyện để đưa đi dự liên hoan văn hoá quần chúng toàn thành. Chị đã bỏ nhiều sô diễn ở thành phố. Không hiểu vì sao mình làm vậy. Có thể vì trả cái nghĩa ngày xưa, từ nơi nầy chị đi lên hoặc có thể chị muốn thay đổi không khí. Vì vậy mà chị bỏ cả máy di động ở nhà.
San và đám diễn viên đã tập đến đoạn kết. San làm việc cật lực, giọng khàn đi. Chị không có trong tay những diễn viên nổi tiếng, hiểu nghề, điều đó làm cho công việc của chị càng khó khăn hơn. Nhưng họ truyền cho chị niềm hứng thú từ cách diễn chân chất, mộc mạc, từ sự lăn xả bất chấp nhọc nhằn. Nhìn họ, chị nhìn thấy mình mười năm trước, đầy đam mê, khát vọng nhưng khờ dại, ngây thơ.
Mười năm trước, San gặp Phương cũng ở đây. Phương nổi tiếng và tập tễnh làm đạo diễn. San gọi Phương là thầy. San ngưỡng mộ Phương thiếu điều chiêm bao cũng thấy. Con người Phương hết thảy đều phiêu lãng, phong trần. Tóc dày lấp loáng bạc, hơi dài, mái trước vuốt ngược ra đằng sau. Thành ra đám tóc đó không bám vào đâu được, nó nằm bồng bềnh. Mắt Phương sâu róm (San tin rằng người nuôi tóc dài, móng tay dài sẽ yêu một tình yêu lâu dài). Miệng Phương cười khinh bạc. Nón quay ngược ra đằng sau. Quần áo bụi bậm. Móng tay dài. San hồi đó hay cười, hay nói líu lô. Hồn hậu, trẻ con. San trầm trồ :
- Làm nghệ sĩ nổi tiếng chắc sướng lắm hen, thầy ?
Phương cười :
- Không , họ tội nghiệp lắm. À không, Phương đính chính lại, có một vài người tội nghiệp, như tôi.
San cười khì, “em không tin đâu, thầy sướng thấy mồ”. Phương bảo, khi nào San trở thành người nổi tiếng rồi San sẽ tin. Có lẽ, Phương là người đầu tiên nhìn thấy tài năng nghệ thuật tiềm ẩn trong San. Ba năm sau, San khẳng định mình trên sân khấu thành phố.
Rồi y như lời của Phương, San bắt đầu thấy tội nghiệp mình. San sống rất mệt mỏi vì không phân biệt nổi đâu là sàn diễn, đâu là cuộc đời. San thương Phương nhiều, nhiều lắm. Phương thì lúc nóng, lúc lạnh, lúc xa, lúc gần. Âu yếm nhau trên sân khấu, bước xuống hậu trường Phương than mà giọng chao chát nghe khẽ như hơi thở, “ước gì tôi nắm được tay em”. San chìa tay ra, cười, thì có ai cản đâu. Phương nhăn mặt, ” Tôi mà chạm vào người em thể nào tôi cũng lạc lòng.” San cười mà lòng nghe xót xót, như chừng Phương khao khát yêu mà không dám yêu, khao khát sống mà không dám sống. Phương trả lời phỏng vấn báo Sân khấu rằng : ” Tôi thèm hạnh phúc nhưng không cho phép mình hạnh phúc. Một tâm hồn đầy đủ sẽ không thể diễn được một tâm tư giằng xé. Vì nghệ thuật, tôi hy sinh cả cuộc đời mình.” San biết rằng đó là lời anh dành cho San. Nó cực đoan một chút. Có nhiều người hạnh phúc vẫn diễn rất hay. Nhưng diễn như ma ám, như điên, như say như Phương thì chưa một người nào làm được. Ở bất cứ vai nào, anh cũng diễn bằng sự giằng xé, bằng sự khao khát bị kìm nén. San vẫn còn nhớ tháng hai năm chín mốt, sân khấu thành phố dựng vở “Đèn không hắt bóng”, khi xua đuổi người yêu – San, viên bác sỹ cao ngạo, tội nghiệp của Phương đã lặng người quay đi, rơi nước mắt. Giới phê bình đánh giá khoảnh khắc xuất thần đó của Phương bằng hai từ “quái kiệt”. Lâu lâu, linh cảm hỏi San, có phải những giọt nước mắt ngày xưa ấy phải chăng dành cho mình.
San bắt đầu tập quên có Phương trong cuộc đời. Đó là lúc tự dưng San thấy mình kiệt sức. Cứ chịu đựng một vài lần như San đi rồi biết. Diễn xong Phương rủ San đi ăn cháo gà, San rối rít tẩy son phấn, ùa ra cửa, Phương đã về rồi. Phương hẹn lại nhà San chơi, San thắp đèn ngoài cổng ánh ỏi chờ cả ngày, Phương không tới. Gọi tìm Phương, Phương hỏi “Ủa, tôi có hứa sao?”. Từ Phương, San rút ra kinh nghiệm, thay vì phải ngồi nghĩ ngợi điên cái đầu, lời nào thật lời nào giả, tách bạch rõ ràng ra, mệt lắm, thôi đừng tin nhiều, hy vọng nhiều đỡ thấy thất vọng, mất mát.
San sống như vậy riết rồi quen. Không tâm huyết, kỳ vọng vào cái gì, không mơ một xa vời, không rút ruột ra tin ai, yêu ai. San thấy mình không vịn vào ai để sống và cũng không sống vì ai. San sắm sửa được cái vẻ lạnh lùng, khinh ngạo. Không còn nghe đau xót khi ngửi thấy mùi rượu , mùi thuốc lá phả ra nồng nàn từ Phương, không buồn khi Phương cà rỡn, âu yếm với cô gái khác, không nhớ khi một tuần chẳng gặp nhau. Thực lòng, chị nghĩ, Phương vẫn còn đó chớ mất mát đi đâu. Chỉ có lần, tim San thót lên nhói một cái khi thấy Phương ôm một nam diễn viên trong bóng tối. Ánh đèn sân khấu đã tắt. Có lẽ Phương thấy cô đơn lắm. Thương chút đó rồi thôi. Khi quên mất tiêu con San ngày xưa, về đây, chị bỗng gặp lại mình.
Buổi tập sáng San cho diễn viên nghỉ sớm, bụng San hơi cồn cào, San đổ thừa tại mình đói. Giờ nghỉ trưa, San không ngủ được, bồn chồn chờ đến đầu giờ chiều. Chị muốn lao vào làm việc ngay để quên một chuyện mơ hồ nào đó.
San lại có điện thoại.
San nhấm nhẳn nghỉ trong lòng , “ Đâu có bao nhiêu người biết mình đang ở đây ?”. Nhấc máy, giọng Ngạn, ” San ơi, đang ở đâu vậy ?”. San cười : ” Gọi tới đây rồi mà không biết à? – San lấy giọng nghiêm khắc – Mình đang ở “ngoài vùng phủ sóng”. Giọng Ngạn hơi run rẩy, “San à, Phương chết rồi ”. San cười ngằn ngặt.” Ừ”. “Thiệt mà”. ”Ừ”. “San về ngay nghen”. San dập máy.
Xuống sàn tập, San dựng cảnh cuối của vở. Trúc, cô diễn viên đóng chính đang cố khóc để diễn cảnh cô con gái hư hỏng thương tiếc người cha vừa qua đời. San không nói khái niệm, định nghĩa gì hết, chị bảo :
- Em phải xuống nước mắt thật mềm, không có loại nước mắt nào dịu mềm bằng nước mắt chảy ra từ lòng hối hận.
Trúc khóc lại lần thứ hai thì San lại có điện thoại. Bên kia máy là Mai, ngườI gọi có khác nhưng nội dung không khác. Mai bảo, Phương chết rồi. San vẫn ừ hử nhưng đã thôi cười. Vì bực mà thôi cười.
San tự hỏi, bữa nay là ngày gì vậy nè. Đám học trò diễn ồ lên, ” Bữa nay là ngày Cá Tháng Tư, người ta được quyền nói dối thoải mái mà chị”. San bật cười. Xem lại ngày hiển thị trên đồng hồ, ngày Một Tháng Tư. Cha mẹ ơi!.
Ngày này, năm ngoái, cũng đám Ngạn, Mai báo Phương chết. San thiếu điều lộn ngược ruột gan chạy lại nhà Phương, nhìn thấy Phương đang sân sẩn ngồi Karaoke, San tức không há miệng nói được tiếng nào. Phương biết chuyện, Phương nhìn San lâu lắm.”Tôi vẫn còn ở trong trái tim em sao?”. San bật cười, gờn gợn hỏi lại mình câu ấy. Nhìn Phương cười cười, chắc Phương lại nói chơi. Bởi vì, San và Phương ai lại không diễn một vai trong cuộc đời này.
Nhớ chuyện năm ngoái, San đinh ninh, năm nay mình sẽ không bị lừa nữa đâu. Nhưng chỉ lát sau, San có điện thoại. Lại cồng cộc chạy lên hai mươi bốn bậc thang, San nói trước “Đừng giỡn nữa mà”. Nhưng bên kia máy là đạo diễn Lưu, San giật mình hỏi lại.”Có chuyện gì không thầy?”. Thầy Lưu bảo, Phương chết rồi. San biết thầy mình không bao giờ đùa. San đứng sững trong văn phòng nhà văn hoá. Một nhân viên trong phòng gọi San rất to, San tuyệt vọng đẩy cửa, nhưng cánh cửa vẫn im lìm. Có tiếng người nhắc, hãy kéo cửa về phía sau. San chen ra.
Trúc dẫn xe máy đưa San ra cổng. Trúc dặn chị chạy phải thiệt cẩn thận, đường đây về thành phố thì xa, đẩy trổ ra ngã tư là quốc lộ, xe cộ nhiều ghê lắm. San chạy đến ngã tư. Chị không biết ngả nào về thành phố. Chị chống chân xuống đường giữ cho chiếc xe được thăng bằng. Một nỗi gì đó chợt ứ đầy trong chị, muốn khóc mà không khóc được. Bao nhiêu nước mắt đã dành cho vai diễn, cho công chúng hết rồi, chị không còn giọt nào cho mình. Chị hiểu rằng vậy là vai diễn cuộc đời mình vừa hoàn tất. Bình sinh, không lúc nào chị hít thở, chị hoá thân mà trong chị không có một tình yêu cũ, không có Phương. Nó chìm lặng giữa muôn ngàn nỗi đau, nỗi thương tổn yêu thương chẳng được đền đáp bởi yêu thương. Lòng chị dửng dưng bởi Phương bao giờ cũng còn ở đó. Nhưng bây giờ Phương mất rồi, mất thật rồi. Sẽ không còn được thấy Phương phong trần, mệt mỏi, không nhìn thấy Phương cười, nghe Phương nói… Sẽ không được ôm Phương trong vòng tay dù chỉ là vai diễn. Chị dấn ga cho xe vọt lên và nấc nhọc nhằn. Đã có nước mắt. Chị thấy trước mặt mình nhoà đi, kiệt sức, chị gúc xuống giữa đường. Con đường Trúc dặn, xe cộ nhiều lắm.
Ở nhà Phương, bọn Ngạn, Lưu tụ lại đã rất đông, họ đang chờ đoạn cao điểm nhất của một ngày vui. Nhà Phương dọn dẹp sạch sẽ, trang hoàng lại. Không còn vỏ bia lon lổn nhổn, tàn thuốc lá bết vào bàn chân. Phương ngồi trên băng đá trước nhà, chỗ nầy khi San về, anh sẽ thấy San trước tiên khi chị vòng qua nhà ông già dân phố ở góc đường và rẽ vào đây. Anh sẽ tặng một bó hồng đẹp nhất cho San và nói với San rằng, mười năm, anh hy sinh San cho nghệ thuật là một điều không công bằng, rất không công bằng. Bởi San là tất cả cuộc sống của anh. Lẽ ra anh không nên đùa như thế nhưng trò đùa mới có ý nghĩa làm sao rằng một người đã sống lại vì tình yêu một người.
Nhưng San đã không bao giờ về nữa.
Hôm ấy là ngày một tháng Tư. Ngày nầy, người đời hay đùa lắm.
Một trái tim khô
Nguyễn Ngọc Tư

Năm Hậu ba mươi chín tuổi, Hậu gặp một chuyện ly kỳ, chạng vạng trên đường về nhà, qua cua Bún Bò, Hậu bị đâm.
Thằng cha này giết người mà nhát hít, nhắm mắt đâm hai nhát nhưng chỉ ngoáy trúng bả vai. Thấy Hậu đổ gục, người này còn sám hối một câu, xong quăng dao xuống mương cống chạy mất. Sau câu nói ấy Hậu mới thấy mình chết ngắc.
Vết thương lành nhưng Hậu mắc chứng trầm uất, hoang tưởng, rối loạn tâm thần. Hẳn cái cú sốc chết đi sống lại ấy khủng khiếp lắm. Hậu đã khóc suốt tháng đầu nằm viện, uống thuốc vào thì ngủ thiếp, thức dậy đã thấy nước mắt chảy thành hàng (như thể Hậu đã khóc sẵn trong mơ). Tháng thứ hai Hậu vật vờ, nín thinh nín thít, nằm không muốn dậy (mà đã dậy thì chẳng muốn nằm), đang ăn rớt đũa Hậu thà lấy tay bốc chứ không thèm lượm lên. Rồi bỗng một ngày Hậu tỉnh queo, xin bác sĩ cho xuống bếp bệnh viện nấu cháo từ thiện với chị em, "Chớ rảnh quá biết làm gì bây giờ". Giỏi giắn, tươi tắn, đến nỗi không ai tin Hậu còn bệnh (bác sĩ nhiều khi còn không dám tin), nhưng mãi Hậu vẫn không nhận ra chồng. Thường nhiều lần lại thăm, Hậu ngó lơ, Thường nắm tay, Hậu quạu quọ, mặt nhăn như khỉ ăn gừng, bảo, tui có chồng rồi nghen, cha nội. Chồng tui tử tế đàng hoàng chứ đâu có cà chớn như ông. Thường buồn quá, tha thểu ra về.
Hôm mới giải phẫu xong, cảnh đời mới buồn ác liệt. Khi tỉnh dậy, Hậu chỉ biết tê tái hỏi một câu, "Sao anh đành đoạn giết em?" (trời đất ơi, chắc là hết chuyện nói rồi). Ba đêm Thường thức trắng, con mắt trỏm lơ, người căng như sợi dây đàn, lặng người theo mỗi tiếng Hậu rên, hớt hải khi Hậu trở mình, nhưng đến khi Hậu hỏi câu ấy, Thường mới quỵ xuống, rối rít gọi em ơi, em à, em sao vậy, thấy đau ở chỗ nào. Anh đây mà, chồng em đây, không nhận ra anh sao...
Hậu chỉ nhếch một nụ cười tê dại, thấy mình quên thật rồi, điên thật rồi. Cái người đàn ông đang đứng trước mặt mình đây, là chồng, vậy mà bây giờ nhìn mặt thấy xa lạ, ghê tởm, thấy mình nẫu lòng ra, muốn chết quách đi cho rồi. May, sau này Thường không đến nữa, vì bận túi bụi thay Hậu tiếp nhận chức Tổng giám đốc công ty Mặt Trời, nghiễm nhiên là Chủ tịch Hiệp hội đồ chơi (những gì Hậu để lại nặng nề hết sức). Thường than với nhỏ Thỏ, "Gặp mẹ con lòng ba đau quá". Mà, không đau sao được, kỷ niệm tươi rói như mới hôm qua, hai người cùng nhau nấu bữa cơm chiều, cùng nhau sơn lại đôi cánh cửa, sửa hàng rào, cụm nụm trồng hành quanh chậu ớt. Buổi sớm chung xe đến công ty, vào đấy thì mỗi người một phòng nhưng ngang qua lần nào cũng búng vô cửa kính chóc chóc, để ngẩng lên ngó nhau cười. Hậu đi kiểm tra công việc ở chi nhánh miền Tây, Thường gọi điện thoại theo, ngập ngừng hỏi chỗ ấy mưa nhiều không?
Lúc đó, Hậu đang căng thẳng vì phát hiện ra một vụ bê bối tài chính động trời nên trả lời nhát gừng, lạnh ngắt. Phải biết đấy là cuộc trò chuyện cuối cùng, thể nào Hậu cũng nói thêm vài câu em nhớ anh em yêu anh lắm, thể nào cũng nhắc chuyện tình xưa xanh mướt màu rau muống luộc chấm tương kho, chuyện Thường đạp xe chở Hậu đi dưới pháo hoa những giao thừa... Mối tình đẹp nhưng cũng nhiều trắc trở, mấy bận Thường tránh đi vì dư luận đồn đãi Thường lợi dụng con gái nhà giàu, là mấy lần Hậu tất tả giữ người yêu lại, " Người ta nói gì kệ họ, em tin anh".
Vậy mà bây giờ lạnh lẽo, tan hoang như đồng sau bão, đến nỗi hay tin Thường lấy vợ, Hậu dửng dừng dưng, tỉnh bơ ba khía. Lòng chỉ se đau khi thấy nhỏ Thỏ mặt xìu co, tủi buồn ngồi thút thít, nó chờ Hậu khóc quá trời, chỉ có nước mắt rơi là hy vọng một trí nhớ, một tình yêu, một mái ấm về lại... Hậu biết nó nghĩ gì nên ôm lấy đôi vai nhỏ, bảo "Chừng con lấy chồng, mẹ khóc cho con coi ". Thỏ mếu máo cười, ai mà thèm... Rồi mẹ với con nhìn buổi sáng đã lên cao, nghe mùi gió chướng ngọt ngào, thấy chỗ u ám như bệnh viện mà trời xanh, trời đẹp như vầy, chắc ở ngoài kia nắng nhuộm đời tươi rực rỡ. Hậu bảo con, sẵn bữa nay mẹ xuất viện cho rồi. Thỏ phì cười.
Tưởng nói chơi, nhưng Hậu ra viện cũng đơn giản như trả phòng khách sạn. Đã mướn sẵn một căn nhà nhỏ như hộp diêm quẹt nằm trong con đường cũng nhỏ, Hậu dọn ngay vào đó. Hàng xóm gầy gò ra xe đỡ ít đồ đạc còm nhom. Buổi chiều, Thỏ chở sách vở, quần áo, búp bê... lại, kêu Hậu ngồi nó chải tóc cho, bảo thiếu con mẹ bê bối cho coi. Mà, mẹ ơi, con nghỉ chơi với ba rồi...
Hậu trở lại bệnh viện, xin việc. Người ta dành cho Hậu một chỗ làm ở khoa ngoại thần kinh. Công việc đơn giản chỉ quét dọn và săn sóc bệnh, nhưng những người trước bỏ việc vì sợ. Hậu thì thấy chỗ này dễ thương. Đi qua căn phòng cũ, nắng vẫn chênh vênh đeo ngoài cửa sổ, nghĩ tức cười, sao mình có thể ở đây từng ấy tháng trời vậy cà. Để kết bạn với đám người buồn cười, một cậu nhóc múa may vèo vèo, kêu Chỉ Nhược nàng ui, nhoẻn miệng cười khi Hậu gọi lại bằng Vô Kỵ. Một phụ nữ trạc ba mươi, chín năm trời giắt hoa lá trên đầu thi hoa hậu, rớt ngay phần ứng xử : Trước hết, em xin cảm ơn các đấng sinh thành, sau đó cảm tạ cha mẹ đã đẻ ra em... Một anh chàng làm thơ không hiểu nổi, nhiều lúc giảng thơ cho Hoa Hậu nghe, tự mình ngất ngư cười, câu này tui hổng biết viết về cái gì. Một ông đẹp người, hiền hậu, lên cơn thương nhớ vợ mới xé áo quần. Có lần ông lẻn ra ngoài, trèo lên lan can tầng bốn ngó xuống sân gọi vợ hời hời, Hậu dịu dàng kêu: "Xuống đây với em, mình ơi", ông trở xuống, ở truồng tồng ngồng, ôm Hậu vào lòng, ông khóc. Hậu cũng khóc, trong vòng tay ấm mà nghe mình lạnh ngắt, khóc cho một trái tim đã chết ngoẻo cù nèo.
Chết ngay ở cua Bún Bò, ngay sau khi thằng cha giết mướn run rẩy bảo, "Đừng oán tôi nghen, có oán hận thì oán chồng bà". Trong một thoáng Hậu xâu chuỗi các sự kiện lại. Chồng mình. Khoản tiền thất thoát. Cô kế toán trưởng chi nhánh miền Tây. Những lời đồn đại (mà trước giờ Hậu chẳng tin)... Hậu nghe tim mình vỡ bục ra, giãy đành đạch rồi nín luôn. Sau coi phim thấy cảnh hiếp đáp éo le cũng không thương khóc nữa (hoàn cảnh ấy thì sức mấy mà đau bằng mình). Có lần đi chợ gặp Thường, Hậu ung dung chào, hỏi. Xong đứng nấn ná ở đấy trông tim nó lồm cồm ngồi dậy nhói chơi, nhưng không ăn thua, nó lặng như tờ.
Trái tim đã mắc chứng vậy nên tội mấy ông đi qua đi lại tán tỉnh tòm tem, nói thương em quá chừng. Hậu cười, thương thiệt hông à, lúc trước tui bị điên đó nghen. Ai nghe nói cũng sửng sốt, chạy dài, dù có tiếc hùi hụi, chắc lưỡi, than, "Đẹp vậy mà điên, uổng thiệt". Nhưng tưởng tượng thử coi, hai người đang ngủ bỗng dưng vợ bật dậy lấy dao kề cổ ta, cười khà khà khà, quá ớn.
Chỉ Nhâm còn lại, Nhâm cười, ai cũng một thời điên, vì quá sung sướng, quá khổ đau, vì danh vọng... Nói tới đây, Nhâm thảng thốt cúi đầu, tôi đã có lần điên vì tiền, lúc đó, con gái tôi đau nặng lắm... Hậu gật đầu miệng ờ ờ (như đã chứng kiến cảnh ấy rồi, đã biết tỏng rồi), nhưng chưa thôi dọa thêm, "Nhâm không sợ thiệt sao? Tôi điên là quên chồng tuốt luốt". Nhâm cười, "Tôi sẽ làm cho cô Hậu nhớ tôi hoài". Mà có vẻ như Nhâm chẳng làm gì thì Hậu cũng nhớ, cũng hay nghiêng ngó người ta. Nhâm ở kế bên, hai nhà chung vách, mới đầu Hậu không thấy mặt, chỉ nghe tiếng cơm sôi, tiếng đập muỗi. Và những cái thở dài xao xác như lá rụng hoa rơi. Thằng cha nào mà coi bộ đời cũng buồn, Hậu nghĩ, đến nỗi không nghe tiếng con nít cười, tiếng đàn bà càu nhàu chạy gạo. Một bữa Hậu mở cửa ra, đá nhằm Nhâm nhậu say nằm ngủ đại dưới thềm. Kỳ cục thiệt, không hiểu sao Hậu thảng thốt, nghe tim nhót lên một cái, chết cha, mình với thằng cha này có duyên gì mà gặp ở đây.
Nhâm thì tin là có duyên phận, bởi nhìn Hậu, Nhâm thấy thương như gặp ở kiếp nào, hồi nào... Mỗi chiều về, thấy mẹ con Hậu ngồi trước cửa nhổ tóc sâu, Nhâm thấy lòng êm đềm như cỏ. Cứ muốn ngồi gần đấy cho đủ một chòm hạnh phúc, để bình yên nhả khói thuốc lên trời. Nhâm thương cả nhỏ Thỏ, một lần nó bước qua khi Nhâm mới vừa ngủ dậy, thảng thốt, bàng hoàng, Nhâm kêu lên hai tiếng con ơi. Để rồi bẽ bàng nhìn nhỏ Thỏ cười.
Nụ cười đó, con gái Nhâm không bao giờ có. Thương Nhâm, nó chỉ thiu thỉu gượng nhếch môi mỗi khi chuẩn bị vào phẫu thuật. Rồi tới một ngày nó thôi không cười được nữa, dù là một cái cười thiêm thiếp, xanh leo lét, như mộng mị, chiêm bao...
Nó đi rồi, Nhâm nhậu suốt tháng sau, định là sẽ nhậu hết nửa đời còn lại. Đỡ hết biết, một ngày kia mẹ con Hậu đến, chui vào cái hộp kế bên, cười giòn, họ còn kéo ra sàn nước, chỗ tắm giặt chung, con xối nước cho mẹ gội đầu. Hình ảnh ngọt ngào vô phương.
Nhâm phụ hồ ngoài công trường, mong ngày qua mau, chạy về nhà, có khi chỉ để coi Hậu ngồi giặt áo. Nhỏ Thỏ cười, kéo Hậu lại thông báo tin... buồn, ông đó mê mẹ quá trời. Ờ, mà ổng coi bộ hiền hén, tại đời cũng buồn quá. Hậu gật gù. Đẹp trai. Mũi cao. Nhưng để râu tóc quá dài, dọn lên sẽ đỡ hì hợm. Hơi bê bối, Thỏ nói, bằng chứng là bạ đâu ngủ đó. Con người có vẻ phức tạp, vì chơi với mấy người cũng có vẻ... phức tạp. Cái thẹo dưới cằm quá ấn tượng, gặp một lần chắc là khó quên, Hậu nói với vẻ như đã biết rành, nhưng cái tâm lương thiện. Con thấy sao? Mẹ thấy sao? Hai mẹ con bình luận như đang đứng trước máy giặt sắp mua về.
Sau đó là một mùa mưa dài, chuyện của Nhâm với Hậu không có biến động gì lớn. Cũng đi qua đi lại, cũng bịn rịn trong lòng, cũng giả đò kiếm chuyện nói chơi, nhưng thay vì trong bối cảnh nắng ngột cả người bây giờ hai người nhìn mưa rơi. Nhìn nước bò lên ngập đám cỏ đằng trước, mấy con cá nhỏ đủng đỉnh lội tới lội lui, thò lỏ nhướng con mắt coi lũ người ta chẳng ra gì. Nước tràn vô nhà ngập nửa ống chân, bèo hoa dâu trôi bồng bềnh chân giường, đi làm về Nhâm qua nhà, hì hụi tát. Bữa sau nước lại chảy vào, không thấy Nhâm than, biểu Hậu cứ ngồi trên giường, bôi thuốc lên mấy chỗ nước ăn. Có đám trẻ lội bủm xủm đi qua hát rằng "Ước gì mình đừng ngăn cách, ước gì nhà mình chung vách, anh... khoét tường... hú hí với em". Hậu lắc đầu, "Con nít nhà ai mới tí tuổi đầu mà quỷ quái", Nhâm cười, sẵn nói luôn, "Tôi tháo vách thiệt à, cô Hậu".
Câu này, Hậu coi như là lời tỏ tình, thì đã là lần thứ năm. Tính luôn một bữa đòi góp gạo nấu cơm, một bữa đòi trả tiếp tiền nhà, một bữa nhỏ Thỏ bị đứt chân mà mắc cỡ không cho Nhâm cõng, Nhâm gắt, thì cháu cứ coi tôi như cha, một bữa gió buồn thiệt buồn, Nhâm nói phải chúng ta ở chung nhà chắc là vui lắm...
Vui gì, chuyện tình này chắc bỏ lửng lơ như vậy thôi. Hậu vẫn nói cái câu, "Nhâm đâu có hiểu nhiều về tôi..." để thay lời từ chối. Bởi Hậu gật đầu, hẳn nhiên hai người sẽ lấy nhau. Sau bữa tiệc nho nhỏ sẽ là đêm động phòng (chớ còn gì nữa), Nhâm sẽ phát hiện Hậu có một cái thẹo lớn trên vai. Thể nào Nhâm cũng hỏi tại sao, mà Hậu không nghĩ ra được câu chuyện gì để nói. Kể sự thật rằng một bữa đi qua cua Bún Bò, Hậu bị đâm, sợ Nhâm sẽ đau. Tuần trăng mật chưa bắt đầu đã lịm buồn, dở cười dở mếu...
Nhiều khi không thể tin được, làm gì có chuyện trùng hợp lạ lùng vầy. Nghĩ đời thiệt mắc cười, sao biết nhau ở đây, để thương nhau đến mức này, để rồi nhận ra lúc trước đã gặp gỡ một lần, ở cua Bún Bò, trong một tối đèn thì u ám vàng vọt mà cái vệt sắc lạnh của con dao lại lóe lên...
Tản mạn quanh... cái cổng
Nguyễn Ngọc Tư

Sớm mai chạy bộ đã thấy dăm ba người ngồi tum húm ở đó, giỏ xách quai bị lỏng chỏng, còn anh chàng cảnh vệ thì đang lóng ngóng đứng ngồi với vẻ mặt cảnh giác cao độ, tôi nghĩ trong bụng, chắc sáng này có chuyện đây. Mà thật, lúc vòng xe qua tượng đài để đến cơ quan, thấy cổng ủy ban đang nhốn nháo. Nhiều người hiếu kỳ dừng xe lại coi, mấy anh cảnh sát trật tự thổi còi biểu đi đi, có gì lạ đâu mà coi. Ừ, có gì lạ đâu...
Cảnh này diễn ra hà rầm, thành ra cánh cổng ủy ban quá quen với việc kiện cáo vượt cấp thời mở cửa. Dân mình cũng ngộ, thấy ấm ức, thấy không hài lòng, thấy bực bội… vậy là kéo lại ủy ban, đòi gặp chủ tịch tỉnh chơi. Mà phải chủ tịch chứ không phải ai khác à. Tưởng tượng như đây là phủ Khai Phong, mà chủ tịch là Bao Công (vì ông quan này xử đủ thứ án, cả hôn nhân gia đình, cả giang hồ hiệp khách, cả âm mưu soán chúa đoạt vua…), nên bà con đòi nhiều chuyện khó động trời. Có vụ việc đã xử ở tòa án tối cao rồi nhưng bà con vẫn nằng nặc đòi chủ tịch coi lại (?!). Có vụ việc đề nghị chuyển qua ban tiếp dân nhưng dân lắc đầu nguầy nguậy, nói với giọng dứt khoát: “Đâu được, quyết định đó là chủ tịch ký mà, chủ tịch mới biết chuyện để nói với tụi tui chớ”.
Rốt cuộc thì chủ tịch đâu lo xiết mấy chuyện lặt vặt này, ông còn phải lo họp hành, hoạch định chính sách để đưa tỉnh thoát nghèo (nhức óc lắm, bởi đã suy nghĩ biết bao lâu rồi chưa tìm ra con đường nào khả thi). Rốt cuộc cánh cổng đóng im ỉm mỗi khi dân lại “hỏi thăm”. Cán bộ ra nói chuyện phải quấy với dân phải đi bằng cửa phụ (và được ngụy trang tuềnh toàng, cực kỳ bí mật), nhân viên ủy ban có đói bụng cũng uống cà phê sữa đá cầm chừng, chứ ra ăn bên ngoài nhiều quá dân phát hiện cái cửa nhỏ xíu đó, kéo lại bao vây nữa thì phiền.
Trước đây, khu vực ủy ban, tỉnh ủy và các ban tuyên giáo, ban kinh tế liên thông với nhau, đi vào bất cứ một cổng nào rồi vòng vèo, luồn lách qua mấy con đường nhỏ xanh xanh cây cỏ được tỉa tót kỹ càng là đến được các cơ quan còn lại. Tôi rất khoái, vì nó vắng vẻ, nên thơ, mà có qua ủy ban, tỉnh ủy đưa thư, tặng báo tôi không phải ớn xương sống vì vẻ mặt lạnh tanh của anh bảo vệ, bằng cái vẻ cảnh giác (chắc vì tướng tôi cù lần, da lại đen, mặt lúc nào cũng đăm đăm suy nghĩ như mang oan khuất trong lòng) anh hỏi những câu chả sử dụng chủ ngữ: đi đâu đây, vô trỏng làm gì, gặp ai, có hẹn trước không? Rủi cái là bà con cũng biết con đường này, nhiều lần xộc vô tới văn phòng, hỏi, chủ tịch đâu cho tôi gặp chút. Chắc có người sực nhớ ra, ủa, ở đây là ủy ban, tỉnh ủy mà, sao có thể để dân vô ra như đi chợ được. Rồi những bức tường được dựng lên ngăn các cơ quan thành những khu riêng biệt. Cái cổng chính trở nên quan trọng, tất nhiên, một khi đã ý thức được điều đó, nó bỗng làm ra vẻ đạo mạo, thâm nghiêm, xa cách (người ta cũng vậy thôi). Đến nỗi cỏ mọc xanh rì theo các viền gạch vỉa hè (vì cả đi bộ người ta cũng không dám đi gần tường rào).
Nên ai lảng vảng ở đó thì chỉ có một mục đích duy nhất: gặp chủ tịch. Để kêu oan quá chủ tịch ơi, để hỏi sao ký quyết định thu hồi đất của tui, để méc là thằng kia giết con tui, sao tòa xử nhẹ hều… Xứ có hơn một triệu dân, bao nhiêu là bức xúc. Nhiều sự việc đã giải quyết nhão nhừ ở xã, ở huyện nhưng bà con ngờ vực có bao che, thiên vị, có “ăn” ở trỏng (thấy chưa, làm dân mất lòng tin bây giờ khổ vậy đó, có công tâm, thật lòng cũng chẳng ai chịu nghe). Có người bị giết hôm trước, hôm sau thân nhân đến (cổng) ủy ban, gào khóc kêu chủ tịch tỉnh cho xin tí công lý, vì thủ phạm là cháu của bí thư phường, con bên sui của trưởng công an thành phố, nên tới bữa nay vẫn chưa bị bắt, vẫn nhơn nhơn ngoài đường. Kỳ họp hội đồng nhân dân nào cũng gai gai người khi thấy một chị bưng tấm ảnh thờ của chồng lại để ở cổng. Hỏi kỹ cũng là chuyện tranh chấp đất cũ mèm, chị nói đất đó là của chị (mà tôi cũng tin nó là của chị, mới uất đến nỗi bưng ảnh chồng đi lêu lêu ngoài nắng như vầy) nhưng tuyệt không có lấy một miếng giấy gì chứng minh (vậy thì lý đâu để chị thắng kiện). Nên có xử thế nào, đã đạt lý thế nào chị cũng cảm thấy ấm ức, buồn lòng nên lại cổng ủy ban ngồi, chờ đợi một cái gì không rõ ràng, và ngày càng tuyệt vọng. Có đoàn (chắc là ở huyện lên) còn nhóm lửa nấu cơm ngay đằng trước chốt gác, “chờ chừng nào gặp được chủ tịch mới về”.
Thấy cổng cơ quan bị “sức ép” quá, tỉnh cử phó chủ tịch tiếp dân vào thứ bảy hàng tuần. Nhưng phó chủ tịch thì không phải là… chủ tịch, nên bà con chưa thỏa mãn mấy. Mà một tháng có bốn buổi tiếp dân thì thấm tháp gì, chưa kể nhiều khi phó chủ tịch bận đi công tác, đi dự hội nghị hay… bệnh, chưa kể nhiều vụ việc quá phức tạp, phải hỏi lại các cơ quan có liên quan. Vậy là người ta tiếp tục chở nỗi đau, nỗi buồn, nỗi oan khiên, mất mát… về cổng ủy ban tỉnh.
Hệ lụy là những nhân viên nho nhỏ như tôi (cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, tức là chưa có cái vẻ đường bệ nhìn vô là biết cán bộ nhà nước mà cũng chưa xuất hiện trên báo, trên ti vi, cái mặt lạ khù), vô ủy ban liên hệ làm việc, vừa tới cổng đã mất lửa ngay (do cái mặt anh bảo vệ quá lạnh). Hệ lụy là những má, những chị ở quê, một bữa nhớ quá những đồng chí đã cùng nằm gai nếm mật hồi kháng chiến, sẵn đi chợ nên ghé thăm. Nhưng thật khó để vào, nghe xin vô để gặp chủ tịch, bí thư là anh bảo vệ nghi rồi, mà lý do vô gặp cũng không rõ ràng, không được hẹn trước… (cũng có mấy người nói là bạn bè chiến đấu xưa, nhưng vô gặp được chủ tịch thì đưa đơn thưa, báo hại bảo vệ bị rầy, nên bây giờ phải cảnh giác). Khách đành ngậm ngùi dừng ở đó, quay về.
Đến lúc người xa khuất mất tiêu, anh bảo vệ mới tin là họ chẳng kiện thưa gì, vì họ tủi hờn đi mau. Đó là chỗ phân biệt, người ấm ức thì sẽ nấn ná, kêu gào, sẽ chờ mòn mỏi thật lâu. Bởi tới đây là người ta đã hết đường “đi”, đã không tin tưởng bất cứ cơ quan công quyền nào khác, không nghĩ ở đâu giải quyết mau lẹ, công tâm bằng chỗ này.
Nhưng đến đây rồi, chưa chắc đã gặp nhau. Cổng thì quá cao…
Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn
28-4-05
Bùa yêu và con nhỏ thất tình
Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư

Cuối cùng thì thiệp cưới cũng đã đến tay, thằng bạn mà mấy lâu con nhỏ thương thầm sắp lấy một cô giáo nông thôn lạ hoắc. Con nhỏ buồn muốn chết. Buổi sáng nó còn tỉnh táo ăn cơm với cả nhà, nở mấy nụ cười méo xệch, chứ hiu hiu chiều là chực khóc. Trời ơi, sao mà nhớ, mà thương cái thằng đó quá chừng. Thấy cây cúp móng con nhỏ nhớ bạn mình có tật thích để móng tay dài. Nhìn tóc cũng nhớ tóc bạn dài. Nhớ chằng nhớ chịt. Đến nỗi coi sư tử Châu Phi trong ti vi cũng thương tiếc cồn cào, thì lần trước có dịp ngồi với nhau xem chương trình “thế giới động vật”, thằng nọ bảo trong nhóm bạn mình, con gái đứa nào cũng dữ như sư tử, chỉ có con nhỏ là hiền, hiền thấy mà thương (vậy mà không chịu cưới người ta dùm cái).
Má thấy xót con quá, chạy đi than thở hàng xóm. Hàng xóm mách nước có ông thầy bùa Chà trong hẻm Tèm Lem hay lắm. Ổng cho một tấm bùa, kéo thằng kia quay lại, mấy hồi.
Con nhỏ nghe má nói lại, con nhỏ cười, “Thí dụ như bùa linh nghiệm thì ảnh sống bên con cũng đâu phải của con”. Ừ ha. Nói phải à. Sẽ khổ sở rất dài khi mắt ta thấy những cử chỉ thương yêu, tai ta nghe những lời nói ngọt ngào mà trong bụng ta biết tỏng tòng tong tất cả đều không thật. Lúc đó ta sẽ chết dần mòn vì đau tủi, chắc còn vất vả hơn giai đoạn thất tình bây giờ, khi cứ canh cánh trong lòng: thằng cha này tình tứ với mình là nhờ… tấm bùa chứ chẳng xuất phát từ tình yêu gì đâu. Và cái cười dịu dàng kia, ánh mắt ấm áp kia, nụ hôn ngọt ngào kia, vòng tay nồng nàn kia… thấy vậy mà không phải vậy. Ta nhìn cuộc đời thấy lệnh lạc, mất mát ít nhiều. Đó là chưa kể phải thoi thóp lo âu, sợ tự dưng một ngày bùa thiêng hết tác dụng, thằng bạn rùng mình một cái, ngơ ngác hỏi ủa, sao hai đứa mình nằm chung giường vậy, xin lổi nghen, chắc tại hồi hôm tui xỉn quá nên chui ẩu vô mùng bà. Rồi thằng bạn nhìn vẻ mặt đau đớn của ta, kinh hoàng: “Trời đất ơi, bộ tui đã làm gì bậy bạ sao ?”. Tất cả sẽ chấm dứt ở đó, thằng nọ phủi sạch những ngày tháng mạn nồng cái rột, bỏ lại ta một mình chìm dưới đống kỷ niệm thương yêu. Với ký ức trống trơn, thằng nọ phơi phới ra đi, còn ta thì nhớ hoài, đau hoài…
Rốt cuộc, con nhỏ thất tình kết luận, “má ơi, vụ bùa yêu con thấy không bền, Tình cảm xuất phát từ tấm lòng mới quý. Níu kéo làm chi những cái không phải của mình…”.
Ui chao. Giật mình. Hết hồn hết vía. Những chức tước, bổng lộc… mà người ta đang chạy rần rần để tranh giành, chiếm đoạt, để xin… một tí coi kỹ thấy giống bùa yêu lắm nghen. Nó sẽ làm cho tâm hồn người ta không yên ổn, mất mát và nơm nớp dai dẳng.
Con nhỏ thất tình quyết định không chơi bùa. Nhưng sẽ còn nhiều, nhiều người sẽ hỏi đường vô hẻm Tèm Lem để kiếm ông thầy. Nghĩ mà hồi hộp quá trời…
Hư ảo rồi tan...
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư
Cuối cùng, mình đã biết mình có nhiều chỗ không giống... người ta. Như sớm nay, thấy người bưng thúng củ kiệu qua nhà, đáng lẽ, phải nghĩ ngay tới món dưa kiệu chua hay kiệu xào tép mình lại chớm nghẹn ngào. Ui chao, tội ông Táo nhà mình, Tết này lên trời biết nói gì về gia chủ ?
Kể chuyện mình chuẩn bị một bài phỏng vấn cho báo Tết từ hồi... đầu năm ư? Bài phỏng vấn mà mình mường tượng trước là sẽ hay lắm, gay go lắm, trò chuyện tay đôi một quan chức gần đầu tỉnh chứ giỡn à. Mình sẽ hỏi những chuyện thường thôi, những chuyện mà phóng viên khác không thèm hỏi, chẳng hạn như ông có mệt mỏi không với những cuộc tiếp khách triền miên, có khi nào ông nhớ một bữa cơm gia đình, ông thường chơi môn thể thao nào, thí dụ như ông trả lời là chơi tennis (như giới quan chức vẫn thường yêu thích), mình (tưởng tượng) sẽ “bẻ” ngay, “sao ông không chạy bộ lúc sớm mai (trời ơi, chạy bộ sẽ biết được nhiều thông tin, sẽ hiểu nhiều nỗi lòng của dân lắm nghen). Mình đọc tham khảo cả một cuốn sách dày “Sáu lần gặp PUTIN” chỉ để rút ra câu hỏi hơi... cà chớn, “Tại sao có nhiều người chức càng cao bụng càng to ?”. Mình sẽ hỏi về những trăn trở, âu lo, những buồn vui vô cớ, mối tình đã qua, rung động đầu đời...mấy cái này coi bình thường vậy mà ăn khách lắm, mới mẻ lắm, đồng nghiệp chưa làm (thì giở báo ra họ toàn hỏi ông kết quả thực hiện nghị quyết, phương hướng sắp tới ra làm sao, chỉ tiêu đặt ra như vậy có gì khó khăn không. Ông này cũng trả lời cực kỳ hành chánh, nào là nhìn chung khả quan, tổng thể khách quan, cũng còn hạn chế, có ưu điểm nhưng cũng tồn tại khuyết điểm..). Lâu nay, báo chí xứ nhà ít viết về chân dung các nhà lãnh đạo, một chân dung gần gủi, đời thường như bác nông dân, như chị bán khô khoai, khô mực... Nên nghĩ tới bài phỏng vấn mình thấy sướng rơn lên, thậm chí nhắc tới tên ông, tim có chút đỉnh xao xuyến (chết thật, tại nhập tâm quá ấy mà)
Nhưng cuối cùng mình có làm được bài phỏng vấn mơ ước ấy đâu. Chưa kịp viết gì, ông lãnh đạo nọ đã ra đi khỏi trái tim mình, bằng vài chuyện sai lầm mà… ông Táo không hiểu nổi. Mình thấy lòng toang hoác, bẽ bàng (lặng lẽ vẫn tay chào thần tượng vừa rụng như sương, vừa chết ngắc bên đường mà mình chẳng dám tin, tưởng đâu…).
Báo hại, ông Táo không thể tâu với Ngọc Hoàng về câu chuyện dỡ dang này của mình (mặc dù đáng kể nhất trong năm). Nhưng ông Táo sẽ ấm ức lắm, ông tự hỏi sao nhỏ gia chủ không lăn lộn vào cuộc sống nông thôn mà viết, như năm ngoái năm kia, ông đã tự hào với Ngọc Hoàng biết bao nhiêu khi nó nói lên được cái cực nhọc, cái đói nghèo của người nông dân đang bời bời đi qua những cơn bão rớt. Sao nó không viết một mùa lúa “ngã về không”, một mùa trắng tay vì hạn sớm của bà con Cái Nước, Phú Tân, Trần Văn Thời… Những nỗi niềm trần ai, những nỗi đau đắng đót của người oan khuất. Sao con nhỏ gia chủ không viết về bà con nông dân cho chắc ăn, hay nó nghĩ đề tài đó không sang trọng, nó thay đổi rồi.
Ông Táo nghĩ vậy chẳng oan chút nào, mình cũng thấy không giống chính mình, lúc trước. Đám giỗ nhà má, mình đủng đỉnh nhón món này, nếm món kia, mà không biết keo đường, hủ muối nằm đâu khi có bà con hỏi (góc bếp đó ngày xưa mình gắn bó biết chừng nào). Bỗng thấy mình là con mà như khách, như người dưng, như kẻ qua đường... Mình mất hết bạn bè vì tính lợt lạt, dửng dưng và tuỳ hứng. Chớ chuyện như vầy thì sao hàn gắn được, ba năm tụi mình mới có dịp gặp nhau tưng bừng, vậy mà tối đó mình bỏ đi ngủ (nghĩ còn mai, còn mốt), nhưng sáng mở mắt ra bạn đã đi rồi, chẳng uống được chén rượu tiễn đưa, để say ngà ngà, thảng thốt đọc câu thơ “sao lại chia tay ngỡ ngàng như dễ...”. Như nước chảy qua cầu, mãi mãi không trở về được, có dựng lại khung cảnh ấy với những người ta yêu mến ấy cũng lạt nhách cảm tình.
Đã thấy thời gian ghê gớm vậy rồi mà mình có tỉnh ra đâu (nên ông Táo mới tức cành hông). Mình bỏ mặc bụi đóng lớp trong nhà, bỏ ông Táo dơ dáy, xo cò trong gian bếp lạnh, tối ngày chổng mông vô xấp Tạp chí về nhà đẹp, vườn đẹp, phòng đẹp để… tham khảo. Nhà mình ấy à, sẽ là một ngôi nhà mặt trước ấn tượng với những mảng màu, phòng ngủ ở tầng trên cùng, giường, tủ giống hệt như trong phim Hàn Quốc, tầng lửng đặt ti vi màn hình phẳng và dàn âm thanh hi-end, phòng khách trang trí sang trọng với bộ bàn ghế màu mỡ gà, có hòn non bộ, nước chảy róc ranh dưới chân cầu thang. Và còn một căn bếp sáng choang với hàng hàng tủ kệ, ông Táo tha hồ ăn sung mặc sướng ( Nhưng ông chỉ lắc đầu, sao không làm ơn quét bụi, dọn dẹp nhà cửa, móc rác dưới tủ chén ra dùm tui, lo chăm chút chi ngôi nhà mơ ước còn thăm thẳm trên… trời). Mình háo hức dạo cửa hàng, đi shop chỉ để ngắm quần xanh áo đỏ (cho thoả mãn nỗi thèm thuồng chớ tiền đâu mà mua), tội chồng con ở nhà ăn mặc nhếch nhác, nhăn nheo. Áo chồng đứt chỉ, áo con đứt nút mình quấn xà nùi để đó, chúi đầu vô coi những bộ phim mà chỉ cần giới thiệu diễn viên là đã biết tỏng tòng tong tình tiết, cốt truyện, biết luôn đoạn kết ra làm sao.
Rốt cuộc, mình không làm gì coi cho được (dù chút xíu thôi, để làm thuốc).
Chắc ông Táo không đành lòng nhìn gia chủ chìm lút trong hư ảo. Ông khiến chuyện này chuyện nọ để cảnh tỉnh con nhỏ đang sợ sống… Ông cho mình gặp Chị, cho mình than, ui, thời gian trôi thiệt là mau. Và Chị cười, đâu phải vậy nà. Bốn mươi tám tuổi, Chị chưa chồng, mùa cưới năm nào cũng đùa cợt dẳng dai. Quẩn quanh bên giường bệnh của má, Chị thấy một năm qua lâu thật lâu, bằng những khắc khoải, lo âu khi má nói má đau, khi má ho khan lúc trời trở gió. Mới rồi má về với đất, Chị đùm bọc đám em khờ, và năm tới của Chị sẽ qua thật lâu vì nhớ má. Thời gian chẳng là gì cả, khi người ta sống hết mình.
Như người bán vé số đã đi đến tận cùng ngày, mang chút tiền lời mua gạo nuôi con.
Như người nông dân nhọc nhằn đến cuối mùa, mong thay lá mới cho căn nhà đã dột.
Như…
Chắc ông Táo xui gió Chướng rập rờn qua cửa, xui người rinh thúng củ kiệu đi qua để cho mình đắng đót buồn, mai tới rồi, đã hết hôm nay mà mình chưa kịp sống.
Ơi Cải về đâu

Truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tư

Mỗi lần nghe câu hát "Gió đưa cây cải về trời. Rau răm ở lại...",
tôi hơi quạu, ông bà mình quá hiền lành đi, thí dụ có bị phụ phàng,
thì cũng có chanh chua, hằn học một tí, "Gió đưa thằng quỷ sứ về thành.
Để tui ở lại chành ành... đắng cay". Đau, tức vậy mà trách cứ nhẹ hều...
Dường như người ta vẫn yêu, đến mức không thể giận dổi, nặng lời.
Và mình thì chưa bao giở yêu ai đến như vậy?!!!


Đoàn ca múa nhạc giải tán, thằng Quách Phú Thàn dẫn ông già Năm Nhỏ về ngã ba Sương, Thàn có nhỏ bồ mới quen bán quán ở đó. Con nhỏ tên Diễm Thương, nghe hay, mà khuôn mặt cũng ngộ, không đẹp nhưng bình thản, lạnh trơ, không ra vui, buồn, đố ai biết nó nghĩ gì. Nó hất mái tóc nhuộm vàng hoe chơm chởm như rễ tre, nhìn hai người, cười héo hắt, “Ăn bám mà kéo theo cả bầy”. Thàn cười hề hề, bảo “Ông Năm, bạn anh. Dễ thương lắm”.

Đêm đó ông già không ngủ được, thằng Thàn đi chơi nửa đêm mới mò về, thấy ông ngồi khọm rọm ngồi ngoài vách mùng, điếu thuốc cháy lập lòe soi bộ râu xơ xác. Thàn mở dây giày, hỏi, “Nhớ đoàn quá, ngủ không được hả tía?”. Ông già lắc đầu, thở dài, nghe buồn xa xắc như lá rụng hoa rơi, bần thần, điệu này hỏng biết cách nào tìm cho ra con Cải.

Ông đã đi tìm con nhỏ gần mười hai năm. Lúc Cải mười ba tuổi, một bữa mê chơi làm mất đôi trâu, sợ đòn, nó trốn nhà. Cả nhà tong tả đi tìm nhưng mãi con nhỏ không quay lại. Vợ ông ôm cái áo con Cải khóc, bảo chắc là ông để bụng chuyện nó là con của chồng trước nên ngược đãi, hà khắc, đuổi xua. Ông đau mà không nói được một lời, ông đã nâng niu nó khi mới thôi nôi, đã vui khi có người bảo con nhỏ giống ông in hệt (dù biết họ khen khơi khơi, khen bổng trên trời), đã sướng rơn khi nó gọi tiếng ba ơi, con Cải đi rồi, ông đã xuống nước mắt khi đi qua chiếc giường trước kia nó ngủ. Có bữa, ông hì hụi ém mùng, rồi ngồi một góc, nhìn chiếu gối thênh thang, lòng chết điếng vì nỗi nhớ con, vì lo nó lưu lạc giữa đời. Như thế mà ông không thương nó sao ? Như thế mà là không thương à? Nhà buồn u buồn ám, vì đã ít người rồi bây giờ lại chẳng nhìn, chẳng cười nói với nhau. Sau, người ta còn đồn đãi ông giết con nhỏ rồi lấp ở một chỗ đất nào, họ kìn kìn lại coi (ai mà giàu tưởng tượng vậy không biết). Ông khăn gói bỏ xứ ra đi, bụng dạ đinh ninh dứt khoát tìm được con Cải về.

Ai dè, biển người mênh mông. Mỏi chân, ông xin làm sai vặt trong đoàn ca múa nhạc, để trước giờ diễn, ông mượn cái micro nói vài câu “Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè con...”. Bữa nào thằng Thàn nhớ nhà, nghe câu ấy nó cũng rướm nước mắt, bảo “con thương ông già con quá, tía ơi”. Hôm đi ba Thàn còn cầm khúc bình bát bằng cổ tay rượt nó chạy ngời ngời, nhảy xuống đò, nó ngoái lại nói để con làm ca sỹ nổi tiếng cho ba coi, thấy ông dứ cây lên trời. Hai năm, ông già đã chỏng đầu cây xuống đất, tựa vào đó để bước đi, tên tuổi Thàn mờ mịt. Thàn bùi ngùi, người ta Quách Phú Thành nổi tiếng Hồng Kông, tui thiếu có chữ h, lẹt đẹt bên hông Chợ Lớn. Nhiều bữa hát ế ngoi ngóp nằm nghe mưa dầm, nhiều bữa đứng soát vé bị bọn du đảng địa phương rượt chạy xịt khói, Thàn muốn về nhà nhưng xấu hổ, sợ ông già cười khơ khơ khơ, hỏi “Con ơi, mầy nổi tiếng chưa mà trồi đầu về đây rồi?”

Y hệt, ông già Năm Nhỏ cũng có nhà mà không về được. Đã đau quá trời đất rồi, cái cảnh bà con hàng xóm xầm xì, chỉ trỏ, người ở xa dập dìu thuê đò dọc lại nhà ngó ngiêng, đâu, thằng cha giết con đâu ? Đâu, con nhỏ bị chôn chỗ nào? Ở gần thấy đông đúc nên bưng bánh dừa, trà đá đến bán. Đã quá chừng đau, khi ông nhìn sâu trong ánh mắt của vợ mình thấy không còn lấp lánh thương yêu, chỉ tối tăm những ngờ vực, hoài nghi, và bữa ông đi, bà đứng giữa nắng trưa, cuốc đất. Chỗ đất còn mới tinh ông vừa lên liếp, chỗ người thiên hạ ngó nhau, con Cải bị vùi dưới đó… biết đâu…

Nên ông Năm Nhỏ trụ lại ngã ba Sương, tiếp tục cuộc kiếm tìm. Ông mướn một cái nhà thấp, nhỏ như ổ mối, vừa đủ hai người còm nhom chui ra chui vào. Ông vét túi trên túi dưới sắm một chiếc xe kẹo kéo có dàn nhạc xập xình, kéo thằng Thàn theo. Ngày chạy ra bán ở chợ rau chợ cá, tối ghé vài quán nhậu, khuya về đậu ở ngã ba, xe kẹo kéo của ông nổi tiếng nhờ giọng ca nhừa nhựa của thằng Thàn, nhờ giữa hai bài hát có mục “nhắn tìm con” buồn ác chiến.

Ngã ba Sương nhiều đêm thổn thức trong tiếng “Cải ơi !!!…”, nghe ngắc ngoải như tiếng chim kêu giữa lưng trời. Con Diễm Thương cằn nhằn, quán ế, buồn thấy mẹ rồi mà còn kêu Cải vơi vơi. Một bữa Diễm Thương bước ra, thảng thốt gọi “Ba !”. Ông già đứng im sững, ngơ ngác giây lát, môi run lập bập hỏi Cải phải hôn con. Diễm Thương gật đầu. Thiệt con là Cải hả ? Diễm Thương níu tay ông rưng rưng gọi thêm một tiếng ba tha thiết. Ông già nắn đầu, nắn vai nó với một nỗi vui chảy tràn, trời đất, ba nhìn không ra, bây lớn dữ dằn vầy. Ông đi vài bước, ông day lại nhìn Diễm Thương (cho chắc là nó đang đứng đây, và có thiệt trên đời), ngước về phía trời sao, rồi ngó thằng Thàn, ông cười, để miệng muốn méo sao thì méo, “Tía kiếm có con Cải rồi, dễ ợt hà mầy ơi”. Nghe giọng là cuộc hành trình ròng rãi mười hai năm của ông (và những oan khuất, buồn đau ) khép lại ở đây rồi. Ngày mai ông dẫn Diễm Thương về Cỏ Cháy, ngay trên chuyến tàu đầu. Chắc vợ ông ra cửa che tay khum khum trên trán, hỏi ai vậy cà, ông sẽ nói con Cải chớ ai, bà sẽ mừng hết lớn, phải còn trẻ thể nào bà cũng nhảy cà tưng. Ông sẽ đưa nó đi dài xóm, khoe “Con Cải tui về đây nè, bà con coi, nó lớn quá chừng hen”, vẻ mặt không giấu được hả hê (vậy mà mấy người nói tui giết nó).

Nghĩ đến đó, nước mắt ông tuôn dài. Diễm Thương cười, đứng dậy khoan khoái phủi tay, nói “Không ngờ mình diễn quá hay”, rồi nó khom người, nhìn sâu vô đôi mắt ràn rụa của ông già, mặt tỉnh bơ ba khía, mỉa mai, “tui giởn đó, ông làm ba kiểu gì mà không nhớ mặt con gái mình ?”.

Và cơn mơ hết. Diễm Thương đi gom tiền thắng độ, đám tiếp viên léo nhéo nhằn ông già sao mà dễ tin, làm họ mất mấy chục ngàn. Diễm Thương lạnh lẽo cười, cái mặt nó tỉnh hết biết, kiếm tiền dễ ợt mà chẳng gợn lên chút đắc ý nào. Ông Năm bẽ bàng ngồi đó, bẽ bàng lau nước mắt, cười héo queo héo quắt, “Con nhỏ giỡn có duyên hết hồn” mà trên khuôn mặt vẫn còn đầy ứ những thương yêu. Thằng Thàn ứa lòng nhìn ông Năm già đi khủng khiếp nó giận muốn bóp cổ nhận nước Diễm Thương cho rồi, khi con nhỏ nhơn nhơn trở qua, giơ nắm tiền, rủ đi ăn hủ tiếu.

Trò diễn kết thúc, ông già nằm rũ, đúng hai ngày lời nhắn tìm con Cải lại thắc thỏm ở ngã ba Sương. Con Diễm Thương bực lắm, nó gặp Thàn là đá ghế quăng ly, nó nói “ổng đừng mắc công tìm, con Cải chắc chết ngắc rồi. Sao tui thù con nhỏ đó quá trời, có nhà mà bỏ, có cha có mẹ mà không thèm... Cái thứ người đó, cho nó chết bờ chết bụi cũng đáng”. Rồi nó nghẹn ngào, “Còn tui, người ta đã quăng ở đây mười tám năm, tui chờ hoài mà có ai tìm đâu...” Thàn mới hay đời con nhỏ cũng buồn, hai đứa ngồi sát lại gần nhau, thở dài nghe cả vành tai tê tái.

Tối đó, Thàn nằm gác tay lên trán, nói “Mai mốt con dẫn nhỏ Diễm Thương về lạy ông già con à, tía Năm. Tính thương chơi thôi nhưng bây giờ thành thiệt rồi”. Ông Năm phấn khởi, vậy hả, vậy à, phải làm đám cưới tử tế cho con nhỏ đỡ tủi, để tao làm ba nó, đại diện cho đàng gái làm sui chơi.

Lựng khựng rồi mùa nắng quay trở lại, người ta dọn sạch cả một bờ sậy, bông đang vào mùa bạc ở ngã ba Sương, cất thêm chừng chục quán nhậu ôm nữa. Cánh phòng chống tệ nạn xã hội bắt đầu để ý cái chòm lu bu này. Phía báo đài cũng dòm ngó. Một bữa, họ ập vào, quay phim, chụp hình búa la xua. Đám tiếp viên che mặt, ôm đầu, chỉ có Diễm Thương là điềm nhiên trơ mắt ngó.

Phóng sự phát lên ti vi, cái nhìn đó như dấu hỏi nao lòng, tôi đây nè mà ba má ở đâu ? Có nhận ra tôi không ? Có nghe đau lòng ? Thằng Thàn thấy cảnh người yêu tỉnh bơ ngồi trên đùi ông khách, buồn quá, bỏ đi uống rượu. Sáng sau, ông Năm dúi vô tay Thàn ít tiền biểu “đưa con nhỏ về nhà”. Thằng Thàn nói :

- Con không đành để tía ở lại một mình.

- Vậy bây nỡ nhìn con nhỏ sống vầy hoài sao ?

Một sớm, hai đứa dắt nhau đi, ông già nhìn theo cho đến khi bóng chúng chìm giữa mịt mù. Lòng ông đã chuẩn bị rồi một cái vẫy tay, tiễn hai đứa ra khỏi những con đường sương gió. Nhưng mờ chiều, đám trẻ trở lại, mặt con Diễm Thương vẫn thản nhiên nhưng thằng Thàn buồn tê tái. Cả nhà Thàn hết hồn vía dồn lại ngó nhau, nhận ra đứa con gái nầy lên ti vi hôm trước, coi bộ làm nghề hỏng được đàng hoàng, coi bộ thằng Thàn bị nhỏ này dụ dỗ. Diễm Thương chỉ cười, gật đầu chào rồi bước xuống bến đón tàu ra thị xã.

Lại về ngã ba Sương, chỗ của những người không còn đường trở lại nhà. Diễm Thương nói tui mắc cười quá ông Năm à, tui lên ti vi để cha mẹ nhìn mà họ không biết tui là ai, còn người dưng liếc ngang là nhớ liền.

Ông già Năm Nhỏ lặng người đi, tự hỏi, bây giờ ông lên ti vi, con Cải có nhận ra mình không. Người đã dắt Cải đi hái xoài chín trong vườn hoang, đã chặt chuối làm bè dạy cho nó lội, thả trâu, chơi diều… Đã cõng nó đi tắt mấy vạt đồng đến chỗ ông bác sỹ già, mỗi khi nó nhức đầu, sổ mũi. Cây kẹp nhỏ, mớ dây thun khoanh, mấy cục kẹo dừa vung vinh trong túi áo mỗi khi ông đi chợ về... Tất cả những thứ đó, ông nhớ mồn một thì nhỏ Cải chắc chưa quên. Ông già muốn lên ti vi để nhắn đứa trẻ bỏ nhà rằng, về đi con ơi, đôi trâu có xá gì…

Đăng tin trên truyền hình đắt đỏ, mà lần nào lại phòng quãng cáo ông cũng phải đôi co, đòi phải đọc theo ý mình, trong đó có đoạn, “con không về ba nhớ đã đành, má con còn giận ba, không nhìn mặt”. Người ta cười, trên đài chứ có phải chợ trời đâu mà muốn nói gì cũng được. Ông giận, quày quả về nhà, nghĩ cách tự mình lên ti vi. Có lần, ông đậu xe kẹo đầu chợ, thấy người ta làm phim vụ lấn chiếm lòng lề đường, người hốt thúng mủng cá rau bỏ chạy, ông sướng rơn lăng xăng chạy tọt chỗ này ló mặt đằng kia, mấp máy câu “Cải ơi...” (mà vô phim người ta đã xóa mất tiếng còn đâu). Chỉ mong được thấy mình trên ti vi, một khuôn mặt teo héo xạm đen dưới những sợi tóc ngã màu trắng xóa, một thân hình gầy guộc, lưng đã chớm còng.. “Mình thèm lên ti vi muốn chết giấc mà không được, còn mấy ông cán bộ ngồi chình ình trong đó hoài, thấy mắc ngán, ông già Năm Nhỏ than thở với thằng Thàn, nói sao tao muốn làm bí thơ tỉnh quá”. Thàn kêu, trời ơi, chi vậy tía. Ông cười, lên ti vi chớ chi, lúc đó tao đường hoàng nói chuyện với con Cải, tao nói từ từ, nhắc chuyện xưa cho nó nghe. Thằng Thàn cũng cười, tưởng tía làm lớn để lo cho dân, ai dè cũng bo bo cho mình.

Họ ngồi đụt mưa dưới một hàng ba trường tiểu học. Nước đổ trắng trời. Mùa còn ướt lạnh dài dài. Thằng Thàn lo ở nhà mưa dột ướt đầu giường, về không có gối để nằm, không mền để đắp. Diễm Thương biết có chạy qua không hay là bận khách, bận cười cợt (mà lòng não nề) biểu uống với em chút nữa đi anh. Thàn chép miệng, buồn quá tía ơi. Mê văn nghệ văn gừng nên chừng này tuổi đầu rồi mà nghèo quá chừng, đến nỗi không lo được cho nhỏ Thương. Ông già Năm Nhỏ thấy thằng Thàn xuống nước mắt. Ừ tối nay, ông cũng thấy mình hoang mang buồn bã rã rời, như sắp đến cuối đường rồi, mà không biết chắc có nhà mình phía đó. Ông thở dài ứ hự, chống tay liêu xiêu đứng lên, bảo, mưa chắc còn dài, thôi dầm mình về, nhỏ.

Đêm đó, thằng Thàn ôm ông già Năm ngủ, nó kêu lên, tía ốm dữ dằn thiệt, xương tía cấn con đau quá chừng. Ông già cười, ờ, chê mai mốt không có mà ôm nghen con. Thằng Thàn hỏi ông nói vậy là có ý gì, ông hỏi ngược lại, chớ bộ mầy tính cưới vợ rồi mà còn chun qua ngủ với tao? Thàn cười, ờ há ờ hen. Mắc cười, ông còn rù rì tính chuyện nấu mâm cơm cúng trời đất để xáp nhập nhỏ Diễm Thương về nhà bên này, sắm cái tủ thuốc lá nhỏ để cho nó buôn bán vặt thì thằng Thàn đã ngáy o o. Nửa đêm, Thàn giật mình tỉnh giấc, không thấy ông già, nó ngật ngừ ngồi dậy, trên bụng rớt xuống một gói tiền. Xe kẹo kéo vẫn còn nguyên, Thàn kéo cửa bước ra ngoài. Ngã ba Sương đã tắt đèn, những con đường hun hút mù mịt dưới mưa, như không cần biết đến từ đâu, chỉ biết gặp ở đây, phút này. Thằng Thàn làu bàu, hỏng biết ông già chừng này mà đi đâu vậy cà.

Ông Năm đi ăn trộm chớ đâu. Ông lội bộ gần năm cây số trong mưa sụt sùi vô trong xóm, ghé chỗ lò mổ, dắt đôi trâu đem đi. Ông làm gọn gàng như với đôi trâu ở nhà. Sáng ra ông trở lại, ghé đúng ngôi nhà có hàng so đũa cặp mé lộ, ông thấy một đám người đang tao tác đứng ngồi, ông hỏi, mua trâu hôn, tui kẹt tiền đem bán đây nè. Chủ nhà chạy ra la lên, trời ơi, bắt ổng lại, ổng ăn trộm của tôi. Ông Năm giả đò hết hồn, nhưng trong bụng thấy trúng ý, bảo, từ từ, tui có chạy đâu mà sợ. Người ta đưa ông lên ấp, ấp giải lên xã, ông luôn miệng nhắc, mấy chú nhớ kêu đài truyền hình xuống nghen, phải quay tui để dân người ta cảnh giác. May, đài tỉnh xuống thật, phóng viên một tờ báo cũng chạy theo, dọc đường hăm hở rút sẵn tít “Đạo tặc đãng trí” (thì ai cũng tưởng vậy). Cái cách đời nhảy xổ vào lỗi lầm của người khác thiệt là tưng bừng. Họ phỏng vấn ông chủ lò mổ, phỏng vấn trưởng công an xã, cuối cùng, ông Năm xin được nói đôi lời, còn dặn, mấy chú làm ơn đừng cắt bỏ tiếng tui, rằng “Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè, nhà mình ở Cỏ Cháy đó, nhớ không? Về nhà đi con, tội má con vò võ có một mình. Con là trọng, chứ đôi trâu cộ nhằm nhò gì… Về nghen con, ơi Cải…”.

Nghe đâu, hôm đó, nhiều người rơi nước mắt, vì vậy mà vụ trộm trâu không được lên ti vi, sống giữa cái rẻo đất nhân hậu này nhiều khi cũng hơi phiền.
Nghe đâu, hôm đó đài truyền hình có đưa tin nhưng chỉ thấy ông già nhép miệng một cách t
Làm má đâu có dễ
-----
NGUYỄN NGỌC TƯ

Chị Diệu về quê khi đoàn cải lương Mưa Bình Minh đang giữa mùa lưu diễn. Nhớ nhà quá, không có cái gì làm cho bớt nhớ. Tàu ghé đập Bàu Mốp, chị lội một đỗi, gặp má chị đi đám giỗ về, má chị kêu: "Trời đất, con Diệu, sao đi về vào lúc này? ". Chị nghe muốn khóc.
Chị, con gái của má, rời nhà từ năm mười bảy tuổi, bây giờ đã bốn mươi. Chưa khi nào gió chướng mang cái ngọn ráo khô bay qua rạch Bàu Mốp mà chị về nhà, kêu má ra cửa sau, chỗ thơm bựng hương cau, nhổ tóc sâu, bảo sẽ ở lại nhà lâu, lâu lắm. Nên má cứ nhìn hồ nghi, có chuyện gì sao con. Chị cười cười không nói gì, hỏi con San đâu. Má chị bảo nó đi đón ghe khóm từ rẫy Thới Bình qua, mua về rồi chèo xuồng dài dài xóm bán lại. Chị nuốt ực nỗi cay đắng vào lòng, " Sao má để nó đi, con nuôi hai người nổi mà! ". Bà già bảy mươi ba tuổi nhìn đứa con gái đầu bạc của mình, xót xa: " Bà cháu tao có cần tiền của bây đâu. Tao cũng cản hoài mà nó có nghe đâu. Tánh nó cũng cứng đầu cứng cổ hệt bây, bây biết ".
Chị biết, bởi có lần về, con San mang trả những gói tiền chị đã gửi. Những gói tiền còn nguyên vẹn như còn dính mồ hôi tay chị, nó bảo: “Em cảm ơn, em với ngoại nuôi nhau được, chế đừng lo, chế có tuổi rồi, để tiền hờ khi bệnh hoạn” nghe khách sáo như người dưng nói chuyện với người dưng.
Chị sinh con San cũng ngay mùa này, gió này. Gọi là San, là vì khi Hoàng Bảo từ thành phố tăng cường xuống " Mưa Bình Minh ", chị Diệu với anh hát chung tuồng San Hậu. Chị yêu anh lắm, không ai còn có thể nghệ sỹ hơn thế, tất cả con người anh toát lên cái gì đó phong trần, phiêu lãng, thương không chịu được. Chị đặt tên cho đứa con đầu lòng là San vì tin rằng sẽ đẻ cho anh thêm thằng Hậu, nhưng thằng Hậu mãi mãi không bao giờ có. San vừa tròn bảy tháng, để nó lại cho má, chị đi. Hôm đó nó đã bú cho thật no rồi, chị ép cho no nữa. Nó ngậm vú chị ngủ ngon lành. Đặt con xuống giường, chị còn thấy cái miệng nhỏ xíu của nó mút mút. Rồi từ đó chị không dám nhìn thêm lần nào nữa, sợ mãi mãi mình không thể nhấc chân đi. Mà chị thì không thể từ bỏ ước mơ của mình, trở thành cô đào hát nổi tiếng. Làm sao từ chối vai diễn đã từng chờ đợi, nàng Trưng Trắc oai hùng trong "Tiếng Trống Mê Linh".
Chị yêu vai Trưng Trắc này biết bao nhiêu, người phụ nữ cũng có lúc dao động, mềm lòng khi chồng của mình đang nằm trong tay giặc. Nhưng rồi Trưng Trắc vẫn mạnh mẽ đánh trống xuất quân, nước mắt bi hùng nhỏ xuống mặt trống vang lời ly biệt. Mấy hôm đầu, có lúc sữa xuống nặng, chị Diệu nhớ con quay quắt, chị muốn bỏ hết, về nhà vùi mặt mình vào làn da thơm tho của nó, nhưng nghĩ đến vai diễn của mình, chị ghì lòng lại. Đâu nè, Trưng Trắc đâu có nữ nhi thường tình vậy.
Vở được đoàn đem đi dự hội diễn toàn quốc, năm đó chị nhận huy chương vàng, bắt đầu có một chút danh tiếng. Chị nguôi dần nỗi nhớ nhà, nhớ con. Chị bận lu bù với hàng chục, hàng trăm vở mới. Hồi đầu chỉ mùa mưa chị mới ờ nhà lâu, giữ con cho má đương thúng, tưới trầu. Sau này trời mưa chị cũng phải đi học bồi dưỡng nghiệp vụ, chánh trị. Chỉ về khi trên đường đi lưu diễn, tiện đường ghé lại, nhiều khi con Phèn còn chạy te te ra sủa. Có lúc thấy cái áo phơi ngoài sào, chị hỏi áo ai, má bảo, áo của con San chớ ai, chị cười, trời đất, nó lớn dữ vậy hả? Mà không biết mình đang hồn nhiên đứng bên đời, nhìn nó lớn...
San chưa bao giờ kêu chị Diệu một tiếng má. Khi nó biết nói nó bắt chước mấy dì, gọi chị bằng chế, xưng em. Dạy nó, nó lắc đầu nguầy nguậy, "Hỏng phải, chế Diệu hong phải má. Con Thắm mới là má ". Nghe lạ, hỏi lại, thì ra chơi nhà chòi, con Thắm đóng vai má con San. Tưởng lớn lên nó sẽ đổi nhưng có những tết gần giao thừa, chị gọi nó lại, biểu kêu má đi. Con San nhìn chị trân trân, tay vò vò vạt áo, nín thinh. Chị rút tiền ra biểu kêu má đi rồi cho tiền. Nó vẫn lặng lẽ đứng nhìn, hồi lâu, nó bảo, "em không biết xài tiền" rồi bỏ ra ngoài trước coi người ta đốt pháo.
Năm đó, nó tám tuổi. Giao thừa đang rộn rã ngoài kia, chị Diệu vô buồng ôm lưng má khóc. Má chị biểu "thôi nín đi, rồi từ từ má dạy. Mà, cũng tại mầy...". Nghe người ta hát câu "Con chim se sẻ nó đẻ cột đình. Bà ngoại đẻ má, má đẻ tụi mình..." tim chị quặn thắt. Dường như con San đang đòi món nợ tình thương mà ngày trước chị nợ má.
Chị Diệu bỏ nhà theo đoàn hát từ năm mười bảy tuổi, không cách chi mà giữ lại được, không cách chi chị quên giấc mơ xướng ca xiêm áo. Má bắt chị thề "Không thương người cùng giới nghệ sỹ. Không lấy chồng khi chưa qua tuổi hai mươi lăm". Nhưng năm hai mươi, chị về nhà dập đầu lạy má, thưa rằng vì yêu, vì muốn giữ bên mình người chị yêu, chị đã mang đứa con trong mình.
Má giận quá, nói hồi đó phải tao sanh ra hột gà hột vịt còn có nghĩa hơn sanh ra con gái như mầy. Giận vậy, nhưng thấy con mình khổ không cầm lòng được biểu "Thôi con, đừng thèm khóc, người ta hay hát, "Ví dầu tình có dở dang. Tự ên thiếp chống đò ngang thiếp về ", con người ta nhấc lên được thì bỏ xuống được". Rồi lụm cụm đi trồng thật nhiều sả, chăm chút những cây chanh, cây bưởi quanh nhà cho tốt lá, lột vỏ tỏi để dành xông cho chị sau khi sinh. Lòng má đau con mình dại dột, nó làm vậy là đẩy người ta có cái cớ ra đi chớ có níu được, ràng buộc được người ta đâu, nghệ sỹ mà, ít ai coi trọng chuyện gia đình.
Nhưng con San đâu có già được như má, đâu có trải lòng ra để tha thứ như má. Chừng mười, mười hai tuổi, nó nói với má chị "Má ơi, con không đổi chế Diệu để lấy tiền. Chế Diệu có cho má đừng lấy ". Mà chị chỉ biết ôm nó vào lòng, thở dài rồi rầy, "ngoại già rồi, con kêu ngoại bằng má hoài người ta cười bà già khú đế mà còn có con muộn". San thôi kêu ngoại bằng má nhưng tiếng má nó cất mãi trong lòng.
Nó lớn lên giống Hoàng Bảo như đúc, cũng gương mặt xương xương, cái mũi cao, đôi mắt to, hơi xếch, đôi môi mỏng, đỏ thắm. Nhìn nó, lúc chị Diệu nửa thèm ôm chầm vào lòng, nửa muốn xô ra. Nghĩ thương nghĩ giận người cũ, chị chỉ dám ngồi nhìn nó xa xa. Nên chị không hay nó lạ lùng hơn hết thảy con cái người ta. Nó ít nói, nhưng nói câu nào đáng câu đó. Có lần coi chị Diệu diễn Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài trên tivi, nó ngồi nghễu nghện trên mấy bao lúa chất giữa nhà, nghe mấy đứa bạn reo lên, má con San kìa. Nó nhếch mép cười. Tới đoạn Sơn Bá gặp Anh Đài ở nhà Chúc viên ngoại, biết rõ thân phận nhau, hai người âu yếm ôm nhau đính ước. Con San nói tỉnh bơ: " Ừ, ôm đi, ngoại à, vài bữa người ta đem một đứa nữa về cho ngoại nuôi cho mà coi ". Rồi tuột xuống cái độp đi te te vô buồng, biểu: " Con đi ngủ ". Nhưng ngoại san biết nó vô đó nằm khóc, vòng tay trìu mến đó, có bao giờ chị Diệu dành cho nó?
Câu chuyện làm chị Diệu đau lòng. Chị Diệu sợ con mình cũng như người đời, đánh đồng vai diễn với diễn viên, hễ ai đóng vai ác thì ngoài đời cũng ác, tình tứ với bạn diễn nghĩ ngoài đời chắc họ cũng yêu nhau. Chị chọn những vai đào võ, rồi nổi tiếng với những nhân vật nữ tướng, tinh tế trong cái nhìn khinh bạt, ngạo nghễ trước kẻ thù và cái chết, oai vũ trong từng động tác đá giáo, lăn tròn theo nhịp roi, đi gối...Ai cũng nói nếu con người ta có số sẵn (như giày dép vậy ) thì số chị Diệu sinh ra là để sắm những vai nữ tướng.
Riết rồi những vai đào thương, chị Diệu không diễn được. Có những lần giỗ Tổ, đoàn giao cho chị đóng vai Tô Ánh Nguyệt trong trích đoạn gặp lại thằng Tâm, lúc con trai mình mắng mỏ một hồi rồi bỏ đi, Nguyệt kêu, " Tâm, con đuổi má sao con? ", Lệ Thủy diễn xé lòng xé dạ người ta là vậy, nhưng với chị, chỉ câu nói đó thôi sao mà khó khăn quá chừng, tiếng má, nửa đời người chị chưa được con gái mình kêu.
Nên trả lời phỏng vấn báo chí, chị hay tự trào là mình nghệ sĩ nửa mùa. Khi đi qua mùa nhan sắc của một cô đào hát, chị xin đoàn cho mình đóng vai hề mụ, chị bảo, "tôi hát nhiều năm, khóc hết nước mắt rồi, bây giờ chỉ đóng được vai hài ". Và chỉ như thế chị mới không phải sắm vai những bà mẹ, không phải nghe bạn diễn với mình gọi là má à má ơi mà lòng như cắt như đau.
Hôm rồi, đoàn về hát vở "Cơn Mê " ở chợ Ông Trang, chị đóng vai bà già bán ve chai. Vai nhỏ, chỉ cần quấn khăn lên đầu tất tả gánh cái gánh đi ra, gặp cảnh một tên đầu gấu bức hiếp một cô gái nhà quê, bất bình bà già ra tay nghĩa hiệp. Đơn giản thôi. Vậy mà lúc diễn, nghe cô đào trẻ Thu Mỹ trong vai cô gái nhà quê núp sau lưng chị thét lên: " Cứu con với, má ơi!" bà ve chai bỗng đứng khựng lại, buông vai, sững sờ, khóc. Thu Mỹ cũng gục đầu, nức nở. Khán giả không hiểu gì hết, Đầu Gấu thấy vậy cương mấy câu. Màn kéo lại, ông phó đoàn kiêm đạo diễn quát văng nước miếng, "Tôi không sao tin nỗi. Một người lúc nào cũng muốn thành diễn viên nỗi tiếng, một người mấy chục năm trong nghề rồi mà ai cũng diễn như một đứa con nít ba tuổi ". Hai chị em buồn quá, hỏi Thu Mỹ sao cương câu đó kỳ vậy, cô khóc, " hồi còn ở nhà mỗi lần ba em say rượu, ổng nghe lời má sau, đánh em dữ lắm, không ai bênh, em chỉ biết kêu má, riết rồi quen ". Trời ơi, bọn nghệ sỹ mình, gạt bỏ đời đau, sống trọn lòng trên sân khấu, được mấy người?
Tan hát rồi, chị Diệu với Thu Mỹ ngồi mãi ngoài bến tàu bên bờ sông Ông Trang. Gió lạnh thổi hiu hút. Thu Mỹ thắc mắc: " Mỗi lần bị đòn đau, mỗi lần gặp chuyện gì buồn, em đều nghĩ đến má trước tiên, sao ngộ vậy chị? ".
Chị ngẫn người ra, con San của chị cũng có khi gặp chuyện gì buồn, thế nào nó cũng nhớ tới chị mà chị thì xa cách nó ngàn phương. Vậy đâu có được. Đáng lẽ mình phải ở nhà, nghe nó thủ thỉ chuyện một cậu con trai nào đó hôm qua còn trêu chọc nó, biểu để lòng thương nó, hôm nay đã sắm cau trầu đi hỏi vợ khác rồi (Con gái mười tám tuổi hay nghĩ chuyện đó là chuyện buồn).
Sáng sau, chị lại xin phép trưởng đoàn, ông vừa đánh cờ vừa ờ, hờ hững. Chị đi từ giã hết thảy mọi người, ai cũng nghĩ rồi chị sẽ trở lại. Chị yêu sân khấu đến thế kia mà.
Chỉ Thu Mỹ biết chị sẽ không bao giờ quay trở lại. Đêm qua, chị ôm cô ngủ, chị nói, chị thương Thu Mỹ lắm, thương từ lúc cô mới vô đoàn, mười sáu tuổi đầu mà khuôn mặt đã già đi, dày dạn như con San của chị. Chị thương Thu Mỹ vì thấy cô giống hệt chị hồi đó, nồng nhiệt, tự tin, với tấm lòng trong trẻo tưởng rằng có thể thâu tóm được đất rộng, trời cao. Lúc nào cũng khao khát vinh quang nhưng không biết rủ bỏ nỗi đau riêng để hết mình trên thánh đường sân khấu. Chị nói chắc chị thôi nghề hát, về nhà làm con của má, làm má của con. Mặc dầu làm má khó hơn nữ vương, nữ tướng nhiều.
Nhất là với con San của chị, mười tám năm rồi mà vẫn dạ sắt lòng đinh. Vừa về tới, dựng cặp chèo ngoaì hàng ba, nó cười, nói cái câu người dưng hay nói với người dưng:
- Ủa, chế mới về hả? Hồi sáng này em nấu nước, nghe lửa cười, biết thế nào cũng có khách, hỏng dè là chế.
Chị nghe niềm vui như ngọn đèn vửa bị thổi chao ngọn, San ơi, má là khách sao, má là khách à, con?
Chị chụp đứng dậy, bảo để chị đi nấu cơm chiều. Chị trầy trật nhen lửa, làm cho cả gian bếp ngoi ngóp khói. Bốn mươi tuổi đầu, chị phải tập làm đứa con hiếu thảo, làm một bà má giỏi giang bằng nồi canh chua bông súng, mẻ cá rô tôm tích kho quẹt này đây.

Làm mẹ


Nguyễn Ngọc Tư

Bây giờ chưa hết tháng ba nhưng mỗi tối từ chợ về, dì Diệu đã tranh thủ ngồi may đồ cho em bé. Đã biết là con gái nên bộ nào dì cũng dún bèo cổ, bèo tay, bèo lai áo . . . coi rất dễ thương ngộ mắt. Ban ngày, dì ra sạp vải, lúc nào có khách thì lo buôn bán, đo đắt, lúc nào rảnh dì ngồi đơm nút, vắt khuy. Tay dì tẩn mẩn xỏ từng đường kim tí xíu. Dì vừa làm vừa mủm mỉm cười một mình, rồi vui quá xá là vui, một mình vui không hết, dì Diệu khoe :
- Tui sắp có con gái rồi nghen.
Một người dòm lom com vô cái eo thon thả của dì rồi cười :
- Nói chơi hoài, có thấy bầu bì gì đâu ?
Dì Diệu cười ngặt nghẽo, cười đến khi cái mũi thon thon xinh xẻo của dì ửng đỏ lên :
- Bốn mươi mấy tuổi rồi, bầu bì gì nữa. Tui xin con nuôi.
Mấy bà bạn bàn ra bàn vô, nói chuyện tò vò nuôi con nhện, chuyện con quạ nuôi tu hú nhằm lung lạc dì, nhưng dì Diệu vẫn khăng khăng chắc lòng chắc dạ, làm như dì đã thấy ràng ràng một tương lai chắc chắn rồi vậy. Thấy dì Diệu cười cười hoài, kiểu “chuyện của tui, chị em sao biết được”, thấy tức chết.
Đó thật sự là một bí mật của dì Diệu. Đứa bé sắp sinh ra là máu thịt của chú Đức, chồng dì Diệu. Chú Đức làm giám đốc văn phòng đại diện một công ty điện tử ở Cần Thơ. Chú làm việc xa nhà nhưng chưa bao giờ chú làm chuyện có lỗi với dì Diệu. Là vì chú Đức hiền hậu, chừng mực, mà cũng vì dì Diệu cực kỳ đáng yêu. Dì là loại người ít lo nghĩ, lúc nào cũng trẻ con, non nả. Dì ít giận ai mà có giận cũng mau quên. Chú Đức hay lấy tay ngoáy tóc dì, cười bảo:
- Em như con nít.. Tới chừng anh lụ khụ rồi em vẫn chưa già.
Suốt nữa đời, dì chỉ buồn là không còn được có con. Năm chú cưới dì, dì khám bịnh phát hiện ra mình có một khối u nhỏ ở buồng trứng. Dì vốn không lo mấy, không biết ngày nó càng lớn lên. Đến lúc sực nhớ trong bụng mình có bịnh thì là lúc đã đau quặn lên rồi. Đi bệnh viện, bác sĩ bảo cắt, dì nhoẻn cười, thì phải cắt, cắt để sống với chồng chớ. Rồi dì lạc quan lên bàn mổ. Không ai nói cho dì biết trước là sau ca mổ vĩnh viễn dì không thể có con được nữa. Dì nằm trong phòng hồi sức, nước mắt chảy về hai phía đuôi mắt ròng ròng, len vào tóc, ướt gối. Hồi nhỏ, em dì đông, tuổi thơ cơ cực, dì Diệu bồng em chai hông, có lần dì ra ngoài đình, dì than, dì ghét con nít lắm. Có phải vì vậy mà trời phạt gì không hỏng biết. Dì Diệu buồn như ai rứt ruột, dì khóc, biểu chú Đức thôi dì đi, sống chung mà không có con chỉ buồn thêm thôi. Chú Đức tỏ ra cứng lòng cứng dạ, cười xoà, chú sẽ ở bên dì suốt đời cho dù vợ chồng có con hay không có con. “Tìm đâu trên đời nầy một người vợ non nhuốt và trong trẻo như em để cho anh chở che mà em biểu bỏ nhau”, chú Đức nói vậy. Rồi từ từ dì Diệu cũng nguôi đi. Dì lại cười lại nói. Nhưng lạ cái, chuyện gì dì cũng mau quên, nhưng chuyện nầy rõ ràng quên không được. Trẻ con đi qua cửa lòng dì quặn lại, rối nùi, rát như muối xát vào vết thương đang mở miệng. Chú Đức an ủi dì bằng cách mỗi lần về tặng cho dì một món quà. Có lần chú đem về cho dì một con sáo, nó ẽo ẹt:
- Má ơi, nhà có khách.
Mèn ơi, dì Diệu nghe tiếng má mà nghe lịm ngọt trong lòng. Dì bảo dì không cần món quà nào khác ngoài một đứa con. Chú Đức tưởng dì nói chơi, cười sùi sụt:
- Trời đất, sao có được?
Dì Diệu tỉnh rụi:
- Mướn đẻ. Em đọc báo thấy người ta mướn đẻ nhiều lắm.
- Rồi làm sao anh còn dám nhìn mặt em nữa ? – Nhìn vẻ mặt chú Đức rối rắm, dì Diệu cười :
- Em thương anh hoài. Anh đâu có làm gì có lỗi với em. Kỹ thuật mới mà.
Rồi dì te tái xách mấy tờ báo cho chú Đức coi, dì nói thiệt dứt khoát:
- Lần này mà anh không chịu, em thôi thiệt. Anh thì công tác xa, em ở nhà có một mình, nghĩ tới con nít buồn đứt ruột.
Đó là mở đầu một câu chuyện được bàn bạc rất lâu, dài, căng thẳng. Chú Đức mất bốn ngày nghĩ ngợi, năm đêm thức trắng. Lần đầu tiên chú chiều vợ vượt quá sức mình. Chú tin là dì Diệu sẽ thu xếp chuyện sau nầy thật chu đáo, nhưng trong lòng cắn rứt vì nghĩ mình đã làm một chuyện trái lương tâm. Dì Diệu nằm kê đầu lên tay chú thở đều, ngủ ngọt lịm. Thì dì có gì nữa đâu, người mà dì muốn mướn cũng đã có sẵn rồi: Chị Lành.
Chị Lành lỡ thời, mập mạp, hịch hạc. Chị sống trong khu nhà dì Diệu cất cho sinh viên thuê, nhưng chị không phải sinh viên, chị gánh nước mướn. Hai bên vai chị thâm xám, vai gồ lên. Một ngày chị gánh non trăm đôi nước. Chị gánh dẻo như múa, đường dài, hẻm nhỏ mà không chao một giọt nước ra ngoài. Dì Diệu chọn chị Lành bởi vì chị hiền. Dì tin rằng người mẹ hiền sẽ đẻ con hiền. Mà, chị Lành cũng rất cần tiền để gởi về xứ. Má chị biên thư xuống bảo nhà chị bây giờ mối ăn gần sụm bà chè rồi, lúc này mưa, nước dội ngay bàn thờ ba, rầu thúi ruột. Má nói làm sao bắt thằng em út chị Lành viết y chang như vậy.Chị Lành đắn đo hoài. Chị cần tiền nhưng sợ chuyện sau này, sợ những mối thâm tình ràng buột mình không tròn lời hứa với dì Diệu. Lại nữa sợ bà con người ta dị nghị, không chồng mà lại có con, bởi chuyện nầy , ai cũng muốn giấu cho thật sâu kín. Chị coi chuyện mình cần tiền với một đứa con như hai cánh tay. Cánh tay nào cũng quan trọng, biết chọn làm sao bây giờ. Nhưng khi chị nhìn thấy những giọt nước mắt rớt lộp độp xuống áo dì Diệu, chị cầm lòng không đậu, chị gật đầu. Hồi nào giờ có bà chủ nhà nào tốt với chị như Dì Diệu đâu.
Cuối cùng thì chị Lành cũng đã trở thành người nhà dì Diệu. Dì thương chị như em gái ruột của mình. Mà, không thương sao được, nghe xóm giềng xầm xì chuyện chị Lành không chồng mà lại có con, lòng dì Diệu đau lắm, dì nghĩ, vậy là tai tiếng, khổ sở cả một đời con gái người ta. Không thương sao được, khi chị Lành thay dì chịu hết cơ cực khi có con. Mới hai tháng, khắp mình chị đã nổi sẩy sần như giề cơm cháy. Hai bên gò má da bắt đầu nám xạm đi. Chị không ăn được gì nhưng lại thèm đủ thứ. Dì Diệu biểu chị muốn ăn cái gì dì Diệu sẽ mua cho. Chị thèm thịt trâu luộc cơm mẻ, dì Diệu mới đem về tằng lăng tíu líu trong bếp, chị Lành đã bắt mùi cơm mẻ ói sấp ói ngửa. Dì Diệu thương tới rơi nước mắt. Tận đáy lòng chị Lành biết rằng dì Diệu thương chị thiệt tình như một con người với một con người chứ không phải vì đứa bé chị mang trong bụng. Dì Diệu bắt đầu chuẩn bị cho một đứa con ra đời. Dì mua mấy tấm hình em bé về dán trong căn nhà chị Lành. Đứa nào đứa nấy ú na ú nần, thấy cưng không chịu được. Dì biểu chị Lành phải siêng nhìn để sinh con ra nó sẽ xinh đẹp như thế. Chị Lành thắc mắc:
- Giống trong hình làm chi, giống ba giống má nó là được rồi.
Dì Diệu ngẩn người, ờ , dì bắt đầu nghĩ, đứa bé sinh ra sẽ giống ai, giống chú Đức đẹp người, giống dì trong trẻo, trẻ trung hay giống … ?
- Nó sẽ giống cả ba người.
Dì chắc chắn như vậy.
Chị Lành thường lén trốn dì Diệu đi gánh nước. Hồi chưa có bầu thì gánh đầy, bây giờ gánh lưng thùng. Chị muốn gởi về cho má nguyên số tiền đó mà không mẻ một đồng nào. Bây giờ, có con, chị thương má nhiều thiệt nhiều. Dì Diệu có hôm dọn hàng về sớm, thấy chị Lành vắt vẻo đôi thùng trên đường mà lòng xót xa:
- Con của chị em mình giờ là cục máu mỏng manh lắm, em làm vậy không được đâu.
Chị Lành rân rấn nước mắt cái câu “con của chị em mình”. Dì Diệu dỗ, “em mà khóc hoài, em bé sinh ra mặt sẽ buồn cho mà coi”. Rất nhẹ và dịu dàng, lòng hai người đàn bà tự dưng chỉ nghĩ về chỗ đứa con.
Dì Diệu bắt đầu mua sắm, từ cái núm vú da cầm tay tới bình ủ sữa, chiếu manh, nệm trẻ con, mùng chụp. Rảnh rỗi, dì ngồi mơn man mấy món đồ tưởng như đã thấy được đứa bé con ngo ngoe hai bàn chân nhỏ trên cái trường kỷ nhà dì. Chú Đức mỗi lần về lại thấy một mớ đồ trẻ con chất ngồn ngộn ở trong phòng. Chú đọc trong mắt dì Diệu một niềm khát khao hườm chín. Chú thấy mình vơi đi mối bận tâm trong lòng, đôi lúc chú cũng thèm muốn chết một đôi chân lẫm đẫm của trẻ con. Chỉ mỗi một chuyện, chú ngại gặp chị Lành. Chị cũng mắc cỡ khi gặp chú. Cho dù không đụng chạm gì nhau để có con nhưng suy tận cùng, cái quý giá, kín đáo của chú Đức đã nằm trong bụng chị. Trời đất ơi, mặt mũi nào mà nhìn người ta. Chị Lành vần còn nguyên con gái đó chớ.
Và khi tháng Ba đi qua, đứa bé bắt đầu báo hiệu sự sống. Chị Lành khoe:
- Nó đạp rồi, chị Diệu, nó đạp đây nè.
Dì Diệu hớn hở vén bụng chị Lành lên, dưới làn da căng mẫn, đứa bé con chòi đạp rối rít. Chị Lành cười giòn:
- Nó mạnh quá chị ha ?.
Dì Diệu cười, rồi làm như một cơn gió từ đâu xộc tới, tim dì riết lại một nỗi đau. Dì thèm biết bao nhiêu cái cảm giác che chở cho một sinh linh sống trong mình, để được thèm tới cùng, tới chảy nước dãi món ngọt, món chua, để có thể cảm nhận từ trái tim chứ không phải bằng bàn tay đôi bàn chân bé bỏng quẩy đạp bụng mình thon thót. Đó là những thứ cảm giác thiêng liêng không vay mượn, thuê mướn được : cảm giác làm mẹ. Dì bắt đầu lo lắng, mình đã làm một việc đúng không.
Chỉ còn một tháng hai mươi ngày nữa, đứa bé sẽ ra đời. Dì Diệu tính từng ngày, từng bữa. Chị Lành tính từng ngày từng bữa. Người trông cho mau, người trông đừng bao giờ đến. Dì Diệu cố quên cái vẻ mặt buồn bã, van nài của chị Lành. Chị biết, khi đứa bé khóc ngoe ngoe cất tiếng khóc chào đời, là chị với nó sẽ phải chia lìa. Hợp đồng đã ghi rõ ràng như vậy. Chị thấy thương mình, thương con và thương dì Diệu. Chị rối rít ăn, rối rít ngủ vì biết rằng mai nầy rồi chẳng còn nhau . . .
Một sáng, chị Lành biến mất.
Dì Diệu kêu chú Đức về, nước mắt ròng ròng khi thấy bóng chồng qua cửa. Chú đau lòng bảo thôi bỏ đi, dì Diệu cãi, “em bỏ không đành, anh à”. Chú cũng thấy rằng bỏ không được. Máu mủ ruột ràng mình mà bỏ sao được. Hai người đi tìm xơ bơ xấc bấc. Không có, không gặp. Dì Diệu về quê, bà mẹ già chị Lành tay run bẩn, vừa đau vừa xót.
- Vậy ra nó không nói gì với cô sao ? Tui hay tin nó hư hỏng , tôi từ nó rồi, tui tính bỏ nó luôn, nhưng thiệt tình tui thương nó lắm, phải nó về, tui cũng nuôi.
Dì Diệu lau nước mắt cho mẹ chị Lành, lòng nghĩ, làm sao mình lại để ra nông nỗi nầy. Dì không tiếc tiền của, sông sức, dì cũng không tiếc tình thương dồn đắp cho chị Lành, dì chỉ cảm thấy xót xa cho mình “làm người thì ai lại đi giành con với người ta”, dì luôn dằn vặt vậy.
Dì Diệu bỏ sạp vải tối ngày chạy xe long rong ngoài đường để may ra tìm được bóng người …
Khi đã không trông chờ gì, một ngày, khi mở cửa, dì Diệu nhìn thấy chị Lành đang ngồi ngoài hàng ba và khóc.
Những người có tình có nghĩa, dễ gì bỏ được nhau.
Dì Diệu cắn cho môi vằn đỏ dấu răng, dì ôm chị Lành vào lòng rất chặt. Dì cảm nhận được từ trái tim bàn chân bé bỏng của đứa bé đang lòi chòi. Nó háo hức nằm giữa hai tấm lòng của hai bà mẹ.
Dì Diệu đi lấy tờ hợp đồng ra và đốt cháy thành một tờ tro mỏng. Đôi khi người ta hay bày chuyện nầy chuyện nọ để làm xao động cuộc đời đang hết sức yên bình, lãng nhách vậy đó ...
Chợ của má

Nguyễn Ngọc Tư

Tôi gọi những cái chợ ruộng dân dã này là chợ của má. Bởi nó hiền lành, lam lũ như má, bởi chợ nhỏ nhoi, khiêm tốn như má, nhưng nó mang một cái hồn sâu, mênh mông lắm nên người ta nhắc nhớ hoài, thương hoài như thương... má vậy.
Bất cứ khu chợ thực phẩm nào ở thành phố Cà Mau cũng có một góc nhỏ dành cho người chợ ruộng. Chợ bắt đầu từ tiếng xe lam chở hàng lặc lè, ậm ì trong buổi sớm, bằng tiếng trò chuyện êm đềm, bằng đôi tay oằn, đôi chân mỏi. Chợ bắt đầu bằng những cái bao ni-lông trải ra nền đất. bàn tay nào bày ra đó mấy trái dừa khô, mấy nải chuối vàng, con vịt lạc cạc bên rổ trứng. Trên thúng, trên nia lún phún nhô lên những ngọn rau uống sương cong cong.
Hầu như tất cả rau trái ở quê mình có, ở chợ ruộng có. Từ rau muống, rau lang, mồng tơi, bù ngót đến lá chuối xanh, lá dứa, bó sả, nhúm ớt... Rồi cá, rồi gà, vịt, chuột đồng... Ngày rằm, ngày ba mươi, chợ trang điểm bằng bông trang được cột thành khóm đỏ tươi bán cho những người cúng bàn thờ Phật. Mồng hai, mười sáu, chợ lúc nhúc những chú gà non tơ. Trời hạn, chợ bày thúng rau đắng đất run rẩy xanh cho ta thèm một nồi cháo tống. Bữa nắng chiều, chợ có rễ tranh, mía lau... Mưa xập xoài, chợ lổn nhổn ốc lát bán kèm lá ổi, lá sả. Những con ốc lát vừa cựa mình trở dậy từ đất, thịt cứ ngọt lừ. Cũng cử này, người ta bán xổi rau muống đồng, loại rau muống bị chìm trong nước nhú lên những cái đọt non mềm, cỡ một gang tay, trắng nõn, tưởng như có thể bẻ bằng mắt một cái "bụp" ngon ơ. Mùa nào thức ấy. Nhưng có hôm ta thèm thứ trái mùa lại gặp ở đây thứ trái mùa. Vô tình, chính con người nón rách áo túi cùng những món hàng đã khoác lên cho chợ ruộng một cái áo bình dị, một linh hồn hiền hậu mà rất đỗi thiêng liêng. Thêm vào đó một chút thâm trầm dân dã. Thì có gì dân dã bằng nắm rau càng cua mọc từ chái hè, mấy trái bình bát chín hườm mọc từ hào ranh, rổ đọt lúa hái từ sân trước.....
Chỉ có vậy mà những nội trợ đảm đang mê đắm mê đuối chợ này. Họ mua được nhiều rau tươi, cá tươi, giá lại rẻ do gần như người bán chỉ lấy công làm lời. Họ mua được đầy ắp lòng tin từ bàn tay cần cù của những tấm lòng nông dân chân chất. Và những người xa quê đỡ nhớ quê nhà.
Những người ra chợ Cà Mau đều từ ngoại thành, từ những địa danh như Bà Bèo, Đàn Âm, Nhà Phấn, Tân Thành, An Xuyên vốn có truyền thống trồng rau, đi chợ.. Lọn rau muống giá 150 đồng, nhúm đọt chùm ruột giá 500 đồng, xấp lá chuối 1000 đồng... học cũng tích cóp tháng ngày. Thật ra, nhà nào cũng có một vài công ruộng nhưng "ngồi không ăn lúa kho cũng hết, nên đi bán kiếm ít đỉnh tiền". Khuya sớm gánh gồng đi chợ, chợ tan, các mẹ, các chị về nhà, lua vội vài chén cơm, lại tần tảo quẩy giỏ, cầm dao ra vườn lo buổi chợ mai. Cắt, lặt, rửa, bó lọn... loay hoay cũng đến tận chiều. Bàn tay thấm nước, nhăn nheo, bàn tay tái nhợt. Vậy mà buồn (chắc là nông dân ai cũng buồn kiểu này), họ không định đoạt được giá cả món hàng. Nó có thể rẻ, rất rẻ (mồ hôi có rẻ vậy bao giờ).
Đội rau đi chợ trở thành một công việc đẹp của người nông dân tự đời nào không biết. Tìm được một người đi chợ lâu năm không khó, chỗ này, đằng kia đều có mặt những người dì "tính từ hồi đó đến giờ tui đi đứt cỡ 50 đôi dép Lào". Họ là những người gắn bó máu thịt với cảnh chợ quê này không chỉ vì mưu sinh mà là mối gắn bó thiêng liêng. Không có rau, không đi chợ, đâm... buồn.. Có người lặn lội đi bán từng trái bình bát chín, không đủ tiền đi xe thì đi bộ, "miễn sao đỡ ghiền chợ. Ở nhà buồn tay buồn chân, đi bán, một trăm đồng cũng đỡ một trăm". Những đồng tiền nhỏ nhoi nhưng đầy niềm vui bởi nó được làm ra từ giọt mồ hôi mặn, từ tấm lòng lương thiện, thẳng ngay.
Những chuyến hàng lại ra chợ vào buổi sớm mai.
Nên sáng nay con đứng nhìn và con nhớ má. Ngày xưa, có phải má con mình ngồi đằng kia, trong góc đó? Và con ngồi chồm hổm, mắt ngó về ông già bán kẹo mà tay chắt chiu rổ trứng gà con con. Ôi! Nhớ hồi xưa quá, má há?

NGUYỄN NGỌC TƯ

Bây giờ không biết đã mấy mùa tôm rồi tôi trở thành một đứa - con - hàng - xóm. Bao lâu rồi con không còn lẽo đẽo theo gót má để chia chút dãi dầu, hả má ơi? Bao lâu rồi má không còn dịp để dạy con hiểu được ý nghĩa của giọt mồ hôi rơi xuống…
Má tôi là nông dân, suốt quãng thời gian cầm bút, mỗi khi tôi viết về người nông dân tôi lại nghĩ tới má. Trong tôi hiện lên đôi bàn chân ngắn, bè ra vững chãi, những cái móng chân khắng phèn, dày, đầy xơ. Một khuôn mặt sạm đen nữa đêm thao thức, nghe gió về lo lúa đang trổ ngoài đồng bị lem lép hạt. Một mái tóc bạc trắng, những sợi tóc sâu loăn quăn mọc trên đỉnh đầu, đám con cháu hăm he nhổ hoài mà chưa có ngày nào má thảnh thơi. Một dáng người chắc đậm tong tả đội rau đi chợ trong sương sớm. Một đôi tay cục mịch với những đốt xương thô mà sàng gạo như múa trong trưa vắng. Một bóng người sương khói ngồi tan nồi đất, cái mùi cám khét ngọt, nghe nỗi nhớ quê dậy động trong lòng.
Không có gì khác đâu, cũng như mọi bà má quê khác, má tôi cũng hiền lành, tháo vát, giỏi giang... má tôi cũng có những đứa con không bao giờ nhớ tuổi má, không bao giờ nhớ thời thanh xuân của má. Nhưng má không buồn, chỉ buồn khi tôi về, ngồi than bên bậc cửa, làm cái nghề viết văn cô độc, cực khổ quá má ơi, má tôi lặng lẽ buồn hiu. Buồn vì không hiểu văn chương, không thể dìu dắt, nâng đỡ tôi trên con đường nhọc nhằn đó, nhưng má không hay rằng má giúp tôi nhiều lắm.
Bảy tuổi, má dạy tôi trồng rau, tưới rẫy. Tôi lon ton đi chặt cây, kiếm sậy về cho má làm giàn cho dưa leo, mướp, đậu rồng. Những buổi chiều còn nắng, má xới đất, lên giồng, tôi lấy dao phay băm cho đất tơi ra để kịp lúc ba đi làm về gieo hạt cải. Ba má quẩy tưới thùng to, tôi nơ thùng nhỏ, nước sánh ra ướt đầm đìa. Tôi biết chổng mông ngồi rửa rau cần, ngò gai ở cầu ao cho má bó từng lọn nhỏ, tay tôi mới bợt bạt một chút má đã xót xa, kẽ tay má đầy những mảng nước ăn, đau nhức tới từng đốt xương sao má không than hả má. Nửa khuya ra chợ, tôi xách cái giỏ nhỏ chỉ đựng ghế ngồi với mấy cái bao trãi để bày hàng, má đội thúng ngò, má cứ hỏi có lạnh lắm hôn con, gió bấc thì cứ hiu hắt cắt da, nước từ cái thúng đội đầu cứ nhỏ long tong xuống đôi vai má. Khi đó tôi không hề biết hỏi, má ơi má có lạnh không, mà, chỉ câu nói của tôi, má ấm lòng biết chừng nào.
Năm tôi mười tuổi, cả xóm rủ nhau làm nấm mèo. Má cũng cố làm thêm lúc nông nhàn để tăng thu nhập.. Sau mỗi buổi học, mấy anh em tôi với má bơi xuồng đi hàng năm ba cây số mua so đũa. Anh tôi đốn, róc cành xong, hai má con tôi vác xuống xuồng, sợ phía tôi nặng, má gánh tới nữa thân cây, tôi chỉ te tái vịn hờ một đầu còn lại mà tưởng mình mạnh giỏi, cái cây bự chảng vầy sao mà vác nhẹ hẩng nhẹ hơ. Đường về nhà phải qua con đập, thường là quăng cây lên để kéo xuồng qua, những lúc mưa nhiều, đập xã, nước từ trong kinh tràn ra như thác, nước cứ lăm lăm nhấn chìm chiếc xuồng khẳm lừ tìm cách đi ngược vào. Má chống chỏi đằng lái, tôi nhảy ào xuống nước nắm mũi xuống kéo đi, qua đập, ướt như con chuột, má khen tôi giỏi mà sao nước mắt má rươm rướm vậy.
Làm nấm mèo cực nhất là lúc vô mùa, phải cưa cây thành khúc, đóng lổ, vô meo… cũng không lâu nhưng đủ để vai má tôi cấn hằn những cái rảnh sâu sần như vỏ cây so đũa, đủ để mấy đầu ngón tay ám mủ và bàn tay cầm búa chai rộp lên…
Coi lại, hồi nào tới giờ, nhà tôi làm nghề gì cũng cực thấu trời thấu đất, làm gì cũng nặng nhọc, cũng có thể đong mồ hôi bằng khạp, bằng lu. Mà, dù có làm gì thì má tôi cũng là người gánh chịu nhọc nhằn hơn hết thảy, ba tôi chỉ hụ hợ chút việc mỗi khi tan sở, má không buồn, má nói, ổng đi làm cách mạng mà. Tôi mười bảy tuổi, thôi học, theo má bán gạo, cám. Ngày nào má cũng bơi một hai xuồng gạo từ máy chà chở len lỏi theo dòng kinh dày những cây cầu khỉ để mang gạo bán tận nhà người ta. Tôi ngồi đằng mũi, qua cầu cao thì lấy trớn đẩy cho xuồng đi nhanh, cầu thấp lè tè không quá mũi xuồng, không đi được tôi giở cầu cho má bơi. Tôi học từ má, rằng gạo Một Bụi dài, thon, óng ả, gạo Tiên Lùn hạt ngắn, đục như nếp, bầu bĩnh, gạo Nàng Gáo tròn vo, cụt lủn, no căng… Gạo càng trong càng cứng, khô cơm, gạo đục, có ngòi là cơm mềm cơm dẻo… Lăn lóc với bụi cám, tôi nghiện luôn cái mùi thơm nồng nàn đó. Má nói rằng, mùi gạo đầu mùa khác mùi gạo cuối mùa, mùi gạo trắng khác với mùi gạo lức, và cho tới bây giờ, mỗi khi bưng chén cơm, tôi lại nhớ cái vị béo ngầy ngậy, ngọt ngào tinh khiết của gạo sống.
Bán gạo cũng có cái cực trần ai khoai củ của nghề bán gạo nhưng má tôi gắn bó với nghề rất lâu, chắc vì nó gần gủi với hạt lúa, cánh đồng, nơi cả đời nông dân má tôi dầm dãi. Tôi còn nhớ như in những mùa hạn, nước dưới kinh rút, chiếc xuồng không còn không thể chống trên lòng lạch cạn teo, má nghĩ ra cách tải gạo, cám bằng xe đạp (Ôi ! cái thuở sao nghèo quá là nghèo). Bao gạo để dài theo sườn xe, má ngồi yên sau chồm hai tay cầm lái, xoạt chân ra phía trước để đạp. Má con tôi suốt ngày dưới nắng cồng cồng đạp xe trên con đường lởm chởm đá. Sau này, tôi còn có thể một tay vịn bao gạo đặt ở yên sau, chân đạp cuống cuồng, tay kia cố kềm giữ tay lái đang lắc lia lắc lịa, cái bánh xe trước lúc nào cũng muốn chỏng lên trời. Ai khen tôi giỏi lòng má tôi cũng đau, vì đã để tôi dang dỡ con đường học tập. Lúc đó tôi chưa biết nói, "chừng nào nhà mình khá giả rồi con đi học lại, má lo gì", chỉ một câu thôi sẽ an ủi lòng má biết bao nhiêu.
Những câu đáng nói thì vì vô tâm, khờ dại nên không nói, những câu không đáng nói thì cũng vì vô tâm, dại khờ nên đã nói rồi, không lấy lại được. Vẫn còn những ngày dài phía trước, mai tôi sẽ về thưa với má, dù tôi nói câu này dù hơi trễ tràng nhưng có còn hơn không, rằng chưa có bao giờ má dạy tôi viết văn, nhưng những gì tôi viết ra đều mang hơi thở cuộc sống mà má trao tặng.
Bây giờ không biết là đã mấy mùa tôm rồi má với ba tôi xa nhà cất cái chòi giữa đồng vắng xoay xở, vật lộn với con tôm trên những cái đầm chang chang nắng. Cũng từng ấy thời gian, ngày hai buổi sáng, chiều tôi quanh quẩn bên bàn giấy, sớm uống cà phê tối ngồi quán nhậu. Những con chữ bỏ đi xa, những câu văn trốn bặt. Mai mốt đây viết tặng má còn không xứng thì viết cho ai nữa bây giờ.
Nguồn: Văn Nghệ Sông Cửu Long
Chờ đợi những mùa tôm
-----
NGUYỄN NGỌC TƯ
Cứ mỗi lần gặp, bác lại nhắc ba, hỏi thăm ông bạn già ra đi từ mùa chuyển dịch. Ba bỏ phố về đồng, đào vuông, nuôi tôm. Con thưa, Ba con khỏe, nhưng ốm nhom, đen thui thùi lùi, cằn cỗi người đi. Như cây dừa Xiêm đầu liếp, khi nước bắt đầu thấm vào thớ đất mặn mòi, con người cũng khác.
Khi nào rảnh, con mời bác về thăm ba con chơi.
Chỗ ba con ở không xa nhà mấy, qua cây cầu có con đường nhỏ dẫn xuống mé sông, qua chuyến đò ngang, men theo cái bờ đã lở như cá chốt rỉa sẽ đến đập Bộ Phát. Lần theo mé kinh nhỏ, bác sẽ gặp ba con. Không biết bây giờ ba con đang làm gì. Nắng này, chắc ba con đi trồng cỏ nước mặn cho cỏ bò che phủ mặt nước, để nước đừng nóng lên. Chắc ba đang đóng lại cái cống tháo nước bằng gỗ. Chắc ba đang hì hụp xúc sình bồi lên cái bờ vuông vừa lở chiều qua… Mà có thể, bây giờ ba con đang ngồi uống trà, má con nấu bữa cơm chiều, con cá phi kho khô tỏa mùi mặn nồng trên bếp, má kể sáng này thấy được con tôm rồi, nó bằng ngón tay cái vầy nè. Hai ông bà cười, mơ về những giấc mơ xa xôi lắm.
Con tin rằng, bác sẽ giật mình khi nhìn thấy ba má con như chính con giật mình khi nửa tháng, mười bữa mới gặp. Ông bà già đi nhanh, cái già tranh thủ từng ngày, từng giờ, mót máy từng khoảnh khắc của cuộc đời. Chỉ mới một mùa tôm thôi, bác à, nhưng đó là mùa tôm người nông dân vùng chuyển dịch vắt kiệt mình ra trước bao nỗi cực nhọc, buồn vui.
Con vẫn tin rằng, làm vuông nuôi tôm làm cho người ta sống cùng, sống tận với cảm xúc của mình nhất.
Vui thôi là vui cái hồi bắt đầu cất căn chòi nhỏ. Mỗi chuyến đi về, ba má con xách theo nào nồi niêu xoong chảo, nào là mùng mền chiếu gối. Ba con nói vui "cảnh nầy y chang tui với bà vừa mới cưới, được ra riêng". Một mái ấm dựng lên trên góc đất, nằm cặp mé kinh. Một chiếc xuồng nho nhỏ buộc đằng trước nhà. Dưới ruộng, đất đang cắt, đang đào, bờ bao ngạn lờ mờ hiện ra trong làn nước. Dọc theo xóm, nhà nào, người nào cũng hồ hởi. Nửa đêm, gió thổi hiu hút, trở mình nhớ nhà, nhớ đám con cháu ở nhà, tụi nó lúc nào cũng cười giỡn, cãi vả eo xèo, cãi cũng vui thiệt là vui. Rồi ba hỏi má, mình bỏ nhà, lặn lội vô đây để làm cái gì bà ha ? Má không nói vì cái gì, má chỉ an ủi, cùng lắm hai mùa tôm, có chút vốn kha khá rồi mình sẽ về. Cái hồi đó sao mà hy vọng tràn đầy, hy vọng lênh láng.
Phải chăng vì niềm hy vọng khao khát vươn lên nên khổ cực tới đâu ba má con cũng chịu. Một đêm vài ba lần, ba má con thức dậy, đi rảo một vòng vuông, canh con nước ... Mức nước ngoài sông không cao, kinh cạn, đón con nước nửa đêm, hai ông bà ì ạch khiêng máy ra tát vô đầm nuôi. Chập chờn một chút, má choàng thức, rủ ba hì hụi đem máy vô chòi. Bác cũng biết, chuyện tiếp nước cho tôm từ cơ sở hạ tầng trồng lúa cũ đang là một trong nhiều khó khăn của chương trình chuyển dịch ở tỉnh mình. Nên chuyện nước ra nước vào ở chỗ ba con như một tiểu tiết, một chấm nhỏ mờ mịt trong 200ha chuyển từ đất trồng lúa sang nuôi tôm trong tỉnh. Không ai bảo ai, bà con ở xóm kinh tự lo, tự xoay xở riêng mình như hồi nào giờ vậy, nhà nước lo được bao thì hay bấy nhiêu. Có tủi thân, tủi phận thì lủi thủi than thở với nhau chơi, vậy thôi. Nhà nước còn phải lo tỉ tỉ chuyện lớn, chuyện mất còn khác.
Những đêm mưa, sợ nước dâng ngập bờ, dầm mình đi tháo nước, những ngày nắng, lặn lội xúc từng gàu sình từ đáy đầm lên… Ba má con an ủi nhau, hồi trước giờ có khi nào nhà mình hỏng cực. Nào là trồng cải, trồng ngò đội đi chợ, nào là mua so đũa về làm nấm rơm, nào là đi mua lúa hàng xáo, rồi làm hai ba vụ lúa… Có làm gì mà không cực khổ, dậy sớm thức khuya.
Nhưng không làm nghề gì khắc nghiệt như nuôi tôm, y như trên chiến trường, "thắng làm vua, thua làm giặc", mà là giặc nghèo, giặc đói mới chết. Ba tháng nhọc nhằn, ba tháng rót vào lòng đầy hy vọng, tôm chết. Lúc đầu còn chết từng vuông, từng chòm, sau chết cả vạt đồng, cả xóm, cả vùng. Tôm chết như người ta trở một bàn tay. Lẹ ghê, ngủ một đêm sáng dậy thấy tôm lụi vô bờ, nằm dại khờ trên gờ đất, ngọn cỏ, ngọn rong. Vớt từng con tôm nhỏ bằng ngón tay út lên lòng rưng rức, đứt ruột. Tở phở hỏi nhau làm sao mà tôm nó chết vậy kìa ? Có ai làm gì nó đâu mà nó chết, mình quý nó còn hơn mạng mình nữa mà? Tôm chết rồi làm sao cứu đây ? Cho nó uống thuốc gì, chích thuốc gì ? Ý trời, Anh là cán bộ ngoài tỉnh vô làm vuông, bộ không biết sao ? Làm sao biết được. Bụng xót như xát muối, te tái chạy đầu trên đầu dưới hỏi nhau những câu ngớ ngẩn mắc cười.
Tôm chết rồi, cũng hệt như bà con ở xứ mình, ba má con mới biết mình hỏng nặng về kỷ thuật. Lăn lộn cuộc đời nông dân ngót năm mươi năm không có chút kinh nghiệm nào có thể đem vào chuyện này, má con nằm gác tay trên trán, thở dài, rút ra kết luận. Má tá hỏa khi biết hầu hết tôm giống trên thị trường không hề được kiểm dịch, đúng quy trình phải quăng cả trăm ký vôi bột mà mình xài có hai ba chục ký… Báo chí than bà con mình thiếu thông tin, thiếu hiểu biết rầm trời, các chú "ở trên" nhằn, bà con mình nóng vội quá. Nhưng bà con họ chờ bao lâu rồi hở bác, lâu quá là lâu rồi, từ đời cày cấy này qua đời trồng tỉa khác, họ kỳ vọng cái ngày vươn lên. Tôm chết, giống như một luồng nước lạnh tạt vào ngọn lửa trong lòng của mỗi người. Nhưng ngọn lửa ấy không tàn lụi, nó vẫn rạo rực cao ngọn từ tro ướt. Đã tắt hy vọng đổi đời từ cây lúa, người ta chờ đợi những mùa tôm.
Ba má con chắc là bị "sốc", bác cũng biết, gì thì má con làm ruộng cũng giỏi có tiếng tăm mà. Bà cảm thấy buồn lắm. Hai ông bà gầy rộc, sọp người đi. Ba con thôi làm thơ. Con không biết tại sao. Con vẫn thầm mong ba làm thơ lại. Trời đất ơi, bây giờ ba mà làm thơ được chắc là hay lắm. Những bài thơ không chỉ có tình yêu nam nữ, không chỉ có bức bách đời thường, mà nó còn mang nặng những niềm vui nỗi buồn lớn lao, đông đúc của người nông dân.
Ba con kể chuyện vui. Ba nói có chú nào ở đầu kinh dưới hồi thả tôm tới giờ không thấy nó nổi lên chơi chơi như bầy cá mẹ ròng ròng hay cá chép, cá mè, dượng vái đất nước ông bà cho chú thấy bầy tôm, cúng gì chú cũng chịu. Ai dè, bầy tôm nổi thiệt, nhưng mà lúc nó nổi lên tức là đã nhiễm bệnh rồi, và tôm chết đỏ đầm. Chú mới vái lại, ông bà phò hộ dùm con, khỏi thấy cũng được. Ông bà nào phò hộ nổi hả bác ? Trước những hiểu biết mịt mờ về con tôm, người nông dân cũng biết mếu máo cười mình.
Ba con nói chuyện vui. Ba nói nuôi tôm trước sau gì cũng giàu, hỏng giàu cái nầy mình giàu cái khác. Chẳng hạn như không có tôm thì mình múc nước dưới đầm lên nấu lại thành muối, muối bây giờ bán cũng có tiền lắm chớ, giỡn sao. Nghe cứ buồn cười không chịu được, đau lòng không chịu được.
Tôm lại thử lòng chịu đựng của nông dân, tụi nó mở đợt chết thêm vài ba đợt nữa. Đó là lý do tại sao lúc bác hỏi ba con giờ giàu chưa, con phì cười. Đợt tôm đầu, bán lai rai lấy lại được chút vốn mua con giống, ba má con đã là quán quân xóm kinh rồi. Má con bắt tép bạc lấy tiền mua đồ ăn mắm muối. Má nói, làm gì làm cũng đừng đụng vô mớ tiền bán tôm, đó là tiền gối đầu cho vụ sau, mùa sau. Bác cũng biết tài tháo vát của má con hồi chiến tranh, bây giờ cũng vậy. Má định ra kế hoạch sản xuất, má đi học hỏi kinh nghiệm của những người nuôi tôm đi trước. Má luôn luôn vực cả nhà khỏi chán nản, tuyệt vọng. Má con có nhiều "bài" lắm, má nói tổ tiên họ Mạc của má linh thiêng lắm, hỏng lẽ nào ông bà để mình khổ hoài, má nói, một ký tép bạc, tép đất cũng ăn đứt giạ lúa theo giá bây giờ. Với ba, để thắp hy vọng như ngọn đèn không tắt, má nói về tụi con.
Con bắt đầu biết vì lẽ gì mà ông bà dầm dãi. Không có cái gì riêng cho ba má con đâu, bác à, như bác, như hàng vạn người cha, người mẹ khác vậy thôi một lòng lo cho đám con. Nên có hai người già trên đồng trống hốc, gió giật mái chòi. Nắng đỏ ngầu. Mưa trắng xóa. Bà tóc bạc như nhuộm ở tuổi 50, sáng sáng xách nhúm tép đất ra đầu kinh xáng bán rồi về ngoài nhà, bơi vài xuồng gạo bỏ mối có, bán lẻ có. Chiều vô vuông đặt lú, nấu cơm. Ông già gầy gò, đen đúa mỗi tháng một lần về họp chi bộ, sẵn thăm nhà luôn. Thời gian còn lại lặn ngụp dưới ao đầm, vớt rong, trồng cỏ, vét bùn, đắp bờ. Sáng sáng, chiều chiều, đi xách nước ngọt bên kinh, hai tay lặc lè hai thùng qua cầu khỉ. Không ti vi, không sách báo, chỉ cái đài con con. Có họp hành gì người ta mời ba, má đốc ba đi, ba nói "Chân tui đóng phèn quá bà à", má năn nỉ, "ông mà chịu đi tui cạo bớt cho". Đêm, người canh chòi trên, người chèo queo chòi dưới. May mà còn những giấc ngủ nhọc nhằn sau khi đã trằn trọc thỏa thuê. "Thượng đế ban cho chúng ta hy vọng và giấc ngủ để đền bù cho những nỗi lo lắng của cuộc đời".
Mà, bác đừng nghe con kể lể rồi thương xót ba con, rồi nghĩ "tội nghiệp, cái thằng hồi đó làm cán bộ oanh liệt vậy mà bây giờ sống khổ quá (nói cho văn vẻ chớ có oanh liệt khỉ khô gì)". Nếu có thương xin bác thương nhiều bà con khác, họ nghèo, chan chát chỉ chờ có con tôm, tôm càng chết nhiều, họ càng khổ. Má con còn ở nhà mảnh ruộng lúa đang xanh, còn cái quán nhỏ bán buôn cám gạo sống cũng được. Ba con thì giàu lắm, giàu gió giàu trăng, giàu bạn bè. Cái chòi lá của ba con vô cửa phải cúi người vậy mà không lúc nào ngớt khách. Bà con ở xóm kinh đi qua ghé uống ly trà, đi lại ghé ăn miếng bánh. Không có thông tin báo chí ba thôi buồn lòng vì vụ tham nhũng này, vụ tiêu cực kia, thôi buồn vì nhìn thấy cảnh gay mắt, chướng tai. Đôi lúc người ta thèm sống một cuộc sống như thế. Thèm sống với những lo lắng, ước mơ rất thường tình. Thèm ngồi trong một căn chòi thấp sũng nhưng đầy gió, vây quanh ly trà đượm khói, những người nông dân áo phèn, nước rõ long tong từ ống quần đầy bùn đất, nghe trên đài tiếng nói Việt Nam đang tường thuật trực tiếp trận bóng đá chung kết cúp quốc gia mà tức mình, "vụ tôm này mà suôn sẻ, thu hoạch xong, tui chạy ra chợ rinh liền cái ti vi tổ chảng về xúm lại coi cho đã". Nhắc tôm là rôm rả chuyện con tôm, chuyện kỷ thuật mới, chuyện con nước, con giống, chuyện sáng nay giá tôm sụt mất năm ngàn đồng một ký. Má con góp chuyện "Chỉ sợ tôm nhiều, giá cả đi vô con đường rẻ bèo như giá lúa, lúa ế mình còn để ăn được, chớ mấy ông "ở trển" lo không nổi đầu ra cho tôm, để dồn đống đó ăn ngán chịu gì thấu".
Má và con tin rằng, dù lần lữa rồi thì những mùa tôm sẽ tới, bác à. Nó sẽ tới để thay đổi số phận, cuộc đời mỗi người, nó tới để đỉnh đạc báo rằng, chủ trương của nhà nước mình là đúng đắn, rằng cổ tích ngày xưa là có thật. Những con người lam lũ cực nhọc cả đời xứng đáng được trả công.
Hồi nhỏ tới giờ con được dạy là phải biết hy vọng, lạc quan nhìn cuộc đời, bác à.
Chuyện của Điệp

NGUYỄN NGỌC TƯ
Vóc dáng Điệp vốn nhỏ nhắn, đi hát cải lương từ năm mười sáu tuổi đến năm hai mươi hai tuổi chỉ chuyên đóng vai đào con. Điệp coi kiếng tự nhận xét : "Tại tướng em nhỏ chớ cái mặt em già". Lên sân khấu với giọng ca lảnh lót, trong suốt, lại thấy Điệp non tơ.
Hồi mới vô đoàn, đạo diễn kiêm trưởng đoàn coi giò coi cẳng Điệp xong giao cho vai Nghi Xuân trong tuồng Phạm Công Cúc Hoa, lúc đó kép Linh Long thủ vai Tấn Lực. Sáu năm rồi, mấy vai diễn của Linh Long bây giờ Điệp toàn kêu bằng Cha! Cha ! Thấy buồn lắm.
Điệp về nhà ở Vàm Cỏ Xước nằm đong đưa trên võng, than : "Chắc con bỏ nghề quá, diễn vai con nít hoài chán lắm, ngoại à". Ông ngoại Điệp già, bà ngoại cũng già. Ông ngoại nói : "Diễn con nít thì cũng hay, con coi, thiếu vai Nghi Xuân bị dì ghẻ đánh đập, bị bắt đi chăn vịt, tụi con nít đâu còn thấy vui. Vai trẻ nít thì mình hát dành cho trẻ nít...". Ngoại định nói nữa thì đã thấy Điệp ngoẹo đầu ngủ say trên võng. Bà ngoại chổng mông thổi cái mẻ ung phù phù, quạt khói bay mù căn nhà nhỏ.
Điệp sống với ngoại ngay từ lúc lọt lòng. Mười tuổi, cha Điệp đi không thấy quay về. Bên nội Điệp cũng nhiều khi bắn tin qua chuyện của cha, Điệp làm lơ không thèm biết. Điệp mười hai tuổi, má Điệp cũng bỏ đi làm ăn, nghe nói là buôn chuyến trên tàu đò Khánh Hội, rồi má lấy chồng. Điệp đi học. Lớp một, thầy Nam dạy ở trường, về nhà ngoại gò tay cho Điệp viết chữ a,b. Có bữa, Điệp nghe mồ hôi từ ngực ngoại ướt đẫm lưng mình. Vậy là Điệp nghe thương ngoại. Bà ngoại không dạy Điệp học chữ nhưng dạy nhiều thứ khác ở đời, biết Điệp thích ăn tép, bao nhiêu tép bạc, tép đất đặt đó ở dưới sông đều dành cho Điệp. Ngoại bồi dưỡng dữ lắm nhưng Điệp không lớn nổi. Da thịt cứ nóng hôi hổi làm sao mà lớn. Có lần ngoại hỏi :
- Nhớ má hôn con ?
Điệp hồn nhiên :
- Hỏng nhớ ngoại à, má thương chồng má hơn thương ngoại, thương con.
Điệp thấy ngoại rớt nước mắt. Từ đó về sau Điệp luôn nói nhớ má, nhớ má quá. Má lâu lâu mới về một lần. Có khi về có bầu, có khi về ẳm em bé. Điệp đi đoàn, ít gặp má. Thôi không nhắc má nữa. Điệp thờ ơ, coi như đó là một cách hành hạ má. Nghĩ cũng lạ, ở đời tưởng đâu người ta chửi mắng, xâu xé nhau là mất tình. Lợt lạt nhau cũng có tình gì đâu.
Sống với ngoại, Điệp có thói quen thức sớm uống trà. Diễn khuya cỡ nào, nghe gà gáy te te là Điệp thức, nấu sôi ấm nước, ngồi thu lu ở một góc nào đó, có gió, pha trà uống chơi. Trà Điệp uống đừng ai dại dột nếm thử, trời ơi nó đắng le lưỡi luôn. Điệp giải thích cái mặt Điệp già cũng tại uống trà. Vừa uống vừa suy nghĩ. Mười tuổi, thức theo ông ngoại hít hà ly trà nóng. Điệp học ông cái nết trầm ngâm, uống trà không phải ực một hơi mà nhấm nháp từng ngụm. Thời gian chờ trời sáng, Điệp suy nghĩ về mười năm đời mình, rồi mười lăm năm đời mình, bây giờ là hai mươi hai năm.
Điệp mê hát, đi hát. Ngoại không cản. Ngoại dạy : "Con muốn diễn hay thì phải sống nhân ngãi trước đã. Mình sống có tình đóng vai nào cũng dễ, con à". Ngoại già nên ngoại nói câu này thấm thía quá. Điệp lon ton đi đoàn, một đoàn cải lương tỉnh lẻ. Đào chính của đoàn thay đổi hoài, vậy mà vai con nít của Điệp không ai thèm bon chen. Tuồng bây giờ, ông soạn giả hay khai thác lỡ lầm, tan tác rồi sum họp, đoàn viên nên nhiều vai con nít. Coi như bèo mây họp lại có sẵn một đứa con nít cũng hạnh phúc lắm. Thêm nữa giải quyết chuyện mẹ chồng nàng dâu không gì bằng một con bé dễ thương kêu nội nội. Điệp tính sau này không còn diễn được đào con, Điệp về nhà, lấy chồng, hát đưa con ngủ. Mà, sợ dứt không ra cái nghiệp cầm ca này.
Có một bữa đoàn hát ở kinh Thợ May, Điệp theo thói quen ngồi nhâm nhi ly trà nóng ngẫm về mười bảy năm cuộc đời mình thì gặp một người con gái xanh xao ẵm một đứa nhỏ vào rạp. Cô ta sờ từng tấm màn nhung, từng tấm ván ghép làm sàn diễn, khóc rấm rứt. Đó là cô đào Hồng Lý đã bỏ đi hơn một năm. Lý ngồi bệt cạnh Điệp, thản nhiên uống trà. Lý uống ngon lành như thể đắng cay của cuộc đời quen rồi. Lý không nói, chỉ cười, rồi không cười, chỉ khóc. Rồi không khóc, chỉ nói : "Điệp cho chị gởi thằng nhỏ, chị đi tiệm mua cho nó hộp sữa". Lý đi nhanh quá, Điệp quên nói chừng này tiệm có mở cửa đâu mà mua. Điệp uống hết ba ấm trà, chờ hoài không thấy Lý quay lại. Đứa nhỏ khóc ngặt ngoẹo. Cả đoàn thức dậy, kết luận vậy là Hồng Lý bỏ con rồi. Bỏ cho ai ? Sao mà bỏ kỳ quá vậy ? Đám đàn ông không ai dám nhận nuôi sợ người ta đồn đại là con rơi của mình. Đám phụ nữ cũng không nuôi bởi nuôi làm sao phát triển nghề nghiệp được, khán giả mà biết con nhỏ đóng vai Dương Quí Phi này hồi chiều bồng nèo nẹo đứa nhỏ thì chết, diễn ai thèm coi. Điệp ôm đứa bé mềm xèo trong tay, kêu lên :
- Thôi để em nuôi.
Điệp làm má bé Bơ, má mười bảy tuổi, cái tướng còn nhỏ hơn cái tuổi. Điệp tính sau này có chồng làm khai sinh lại, nói ông ngoại nghĩ ra cái tên hay hay, vui vui để đặt lại cho nó chứ để cái tên Bơ nghĩa là bơ vơ nghe buồn lắm. Điệp đem nó về nhờ bà ngoại nuôi tiếp, ông bà ngoại không la rầy mà còn vui. Bé Bơ hơi lớn, Điệp có khi dắt theo đoàn. Bơ lớn nhanh, chắc nịch, mạnh cùi cụi. Điệp bồng Bơ như con mèo tha con chuột. Ngại nhất là lúc bé Bơ tập nói, thấy ai đi ngang cũng kêu ba, làm nhiều anh mắc cỡ muốn chết. Nghe nói Hồng Lý trở thành ngôi sao trên sân khấu thành phố với cái tên là Thục Quyên. Thục Quyên gửi thư cho Điệp than, vì theo đuổi nghiệp ca hát nên phải nhờ Điệp vất vả nuôi con giùm, hứa sau này thành công sẽ về đền đáp. Điệp đâu có mong gì cái chuyện đó, mà thấy buồn quá. Điệp tính đâu làm nghệ thuật là giống như xây cái nhà lầu, sức mình bao nhiêu thì xây bấy nhiêu, để thành công mà đánh đổi nhiều như vậy thì tội nghiệp cho nghệ sĩ biết bao. Vì vậy mà ở đời, chưa ai ngả giá mua danh bán tiết với Điệp, Điệp cũng không ra giá với ai. Dáng Điệp con con, cái chân nhỏ, khuôn mặt tròn dình như cái tô múc cá kho, cao chưa đầy một mét năm mươi, lúc đứng chỉ bằng ngực bạn diễn ... Tất cả người Điệp toát ra cái vẻ trẻ con không chịu được. Chính vì cái vẻ trẻ con đó mà Điệp biết có đánh đổi cả đời mình cũng không diễn được vai oai nghi lẫm lẫm như vai thái hậu Dương Vân Nga chẳng hạn ... Ngoại dạy, cái gì của mình trước sau gì cũng của mình, cái gì không phải của mình đừng giành giật uổng công.
Cho nên, cho tới một ngày, Điệp dù thương lắm cũng không giành lại bé Bơ. Sự nghiệp Thục Quyên sụp đổ, lại là Hồng Lý như xưa. Cô tìm Điệp, xin lại bé Bơ, "nó là chỗ dựa cuối cùng của chị đó, Điệp à". Điệp ngồi lặng lẽ, không cười, không nói, không khóc. Điệp mà khóc kể lể, người ta nói Điệp diễn, chớ con nít như Điệp biết gì về làm mẹ mà tiếc thương. Cái ranh giới sàn diễn với cuộc đời xa đó mà gần đó. Khuôn mặt nhỏ vốn bị già vì uống nước trà bây giờ có vẻ già thêm vì một nỗi niềm nào nữa.
Đoàn "Mưa mùa thu" về hát ở xã hai đêm, đêm đầu diễn tuồng xã hội nên Điệp có vai, đêm sau hát "Đêm lạnh chùa hoang", tuồng này toàn đánh kiếm, yêu nhau, thù hận lại thêm chữ "Chùa" nên không có vai con nít, Điệp tự dưng muốn đi kiếm má coi má khi xa Điệp có buồn như mặt Điệp khi chia lìa bé Bơ không. Điệp đi Rạch Giồng Ông tìm má.
Má lấy chồng khác về đây đã hai năm. Điệp thì mới tới lần đầu, hỏi bà Bảy Tho người ta không biết, tả hình dáng má : cao vầy, hơi ốm, tóc dài, bới củ tỏi (mà có khi bây giờ má cắt tóc rồi)... người ta cũng không biết, Điệp suy nghĩ hoài mới nhớ tới tên chồng má, một chị bán quán cóc chỉ nhà. Điệp hỏi gần đây không, chị ta đáp : "Đi chút xíu là tới hà".
Vậy mà Điệp phải đi qua mấy cái bờ dừa, ba cây cầu, một con đập nữa mới tới nhà má. Lúc đó trời vừa chạng vạng. Cái nhà nhỏ chom hom phía sau một gờ đất lổn nhổn do xáng múc, đi tới mòn đất mà chưa ai ban ra cho bằng. Điệp đứng dựa vô cây tra bông vàng nhìn nhà má, muốn trở ra về hết biết. Đúng lúc đó thì chó sủa, một con chó vằn vện ốm nhom, xương xẩu chạy nồ ra, sau nó là một đứa con nít, một người đàn bà cũng ốm nhom, xương xẩu :
- Vện, vô nhà !
Con chó dớn dác sủa thêm vài tiếng nữa rồi cụp đuôi chạy vô. Điệp kêu :
- Má !
Thì người đàn bà này là má Điệp chớ ai. Bà lại gần Điệp, rất gần rồi cách chừng một thước, bà dừng lại:
- Điệp ! Phải con hôn ? Trời ơi, vô nhà, vô nhà.
Bà chựng lại ở đó, thảng thốt. Nhỏ em Điệp tên Giàu lại kéo chị nó vô nhà. Đốt đèn lên. Cái đèn hụt dầu lụn tim mới vừa làm căn nhà bừng lên thì đã hiu hiu muốn tắt. Má kêu con Giàu đi châm dầu. Má đi tới đi lui, rồi ngồi chỗ đầu bộ ngựa, lại đứng dậy đi tới đi lui. Điệp hỏi : "Chồng má đâu ?", má nói chồng má đi biển rồi. Điệp nhìn cái bụng má lùm lùm sau áo hỏi má chừng nào sanh em bé, má ngượng ngùng : "Chưa, mới có ba tháng mấy..." Con Giàu lên tiếng : "Má thèm chua quá trời, ăn me non ngọt xớt...". Má nạt con Giàu, biểu thôi nói. Điệp ngó Giàu cười buồn, má ngó Điệp cười còn buồn hơn.
Tối Điệp ngủ lại nhà má. Con Giàu ra xã coi gánh hát. Vé Điệp cho. Ở nhà, hai người nằm hai cái võng. Điệp vốn không có nhiều chuyện để nói với má, lượng sượng thở dài. Má hỏi Điệp chuyện tình duyên. Điệp kể trong đoàn có một anh tên Phụng Hoàng thương. Phụng Hoàng đóng toàn vai phụ, hễ diễn vai ác là cái mặt ngu ngu hoặc vả diễn cho hùng hùng hổ hổ. Điệp chỉ : "Anh diễn như vậy khán giả không sợ mà còn cười. Đâu phải người ta ác là cái mặt như vậy. Có nhiều người ác ở ngoài đời mà cái mặt tươi rói, anh thấy không ?". Hoàng nghe theo, về sau diễn khác, ai cũng khen là có tiến bộ, nhập vai có chiều sâu. Hoàng biết ơn Điệp lắm, thêm một chút nể trọng, từ từ ngõ lời thương. Bữa đó Điệp kêu : "Nếu anh thương tui thiệt lòng, tối nay diễn xong, lúc khán giả chưa kịp về, chưa hạ màn, anh nói rõ ràng là anh thương tui nghen". Điệp cắc cớ chọc chơi, chớ ai đứng giữa chỗ đông người mà nói tiếng yêu leo lẻo nhưng Hoàng hứa cái rụp. Tối đó, kép chánh Linh Long đi thăm người yêu đón đò về không kịp, Phụng Hoàng diễn thay đóng vai cũng tên Hoàng, Hoàng diễn mùi hơn cả Linh Long, khán giả mê quá, vỗ tay rần rần. Điệp hát vai con của Hoàng. Đêm ấy hát tuồng "Tình yêu đâu phải trò chơi", Hoàng không nói được cái câu thề hẹn, Điệp cũng biết trước vậy nên không buồn.
- Ngoại dạy con phải biết tha thứ hết thảy mọi người, má à !
Điệp kể xong, kết luận. Chờ tới con Giàu về, Điệp mới đi ngủ. Giàu rủ : "Chế Hai ngủ chung với em một đêm nghen". Ngủ chung với con Giàu tức là ngủ chung với má. Giàu nằm giữa, Điệp với má nằm hai bên. Giàu hỏi : "Bữa hổm em nghe trên đài Hậu Giang ca bài "Đêm qua em mơ gặp Bác Hồ", hay dễ sợ, phải chế ca hôn ?". Điệp cười, lắc đầu, giới nghệ sỹ nhiều người tên Điệp lắm, Hồng Điệp nè, Trúc Điệp nè... nói tóm lại là đâu phải chế. Nó lại nói : "Hồi hôm này chế đóng vai gì ?" Điệp trả lời, vai con nít, Giàu à ra như tìm thấy chân lý trong cái mùng nhỏ này, "Hèn chi em nhìn hỏng ra chế, chế nhỏ xíu hà, mà công nhận con nhỏ trong tuồng thấy thương thiệt". Má kêu Giàu ngủ. Rồi má cũng làm như ngủ. Điệp biết, người ta ngủ là xoãi tay chân thư thả, má thức mà trân mình khổ vậy làm chi má ? Không biết tự hồi nào hai má con Điệp luôn luôn có những khoảng cách như vậy, má ngồi đầu bộ ngựa này, Điệp ngồi đầu kia, má ra đằng trước Điệp chạy ra ngoài sau. Làm như không ruột ràng duyên dẻ nhau trong đời. Ngoại nói, ngoại cũng dạy má biết tha thứ cho hết thảy nhưng má không dễ dạy như Điệp (thì ngoại tưởng vậy) nên mới ra hoàn cảnh như bây giờ. Má giận ba, nên thấy ai hơi giống ba là má cưới, cưới mà không yêu thương gì người ta. Vì vậy mà từ bấy đến nay má đã chắp vá ba người chồng. Vì vậy mà má thấy Điệp là má khổ sở như nhìn lại bóng người phụ bạc xưa. Má tránh Điệp riết rồi Điệp cũng lợt lạt với má. Điệp vẹt tóc mình ra làm hai bên miết đầu vào gối, trăn trở hoài.
Không chờ tới gà gáy, Điệp lò mò dậy ra sau bếp bắc ấm nước, pha trà. Má cũng thức, má ngồi bới lại mớ tóc. Đuôi tóc má chỉ còn vài sợi mỏng manh, thưa thớt nên má phải xài đầu tóc mượn. Điệp nhớ hồi nhỏ cứ thấy cái đầu tóc mượn là chết khiếp. Đi hát nhìn riết cũng quen, đi hát là phải vay mượn nhiều thứ để trọn vẹn được vai diễn. Điệp mời má ra bộ vạc cau ngoài trước, uống trà.
Từ chỗ này ngó ra sông, nếu không vướng cái bờ đất Điệp có thể thấy những chiếc xuồng đi chợ sớm trảy qua. Bây giờ chỉ nghe gió từ ngoài kinh rần rần rượt đuổi nhau qua đám dừa nước thốc vào mái lá phần phật. Điệp lên tiếng :
- Má à, năm nay má bao nhiêu rồi ?
- À, má già rồi.
- Má già rồi, má ráng thương chồng má đi.
Má lặng lẽ cười. Cười buồn bã. Má thở dài, thở dài. Tựa như có điều gì muốn nói.
- Con trả bé Bơ lại cho người ta rồi má à. Bây giờ con buồn biết bao nhiêu. Hồi má quyết định bỏ con lại cho ngoại, má có buồn như con bây giờ không ?
Đáp lại Điệp chỉ là những tiếng thở dài. Hồi lâu má hỏi :
- Ngoại dạy con tha thứ cho người ta mà con có tha thứ cho má hôn ?
Điệp im lặng. Có những chuyện chắc má biết, tại má hỏi vậy thôi, chớ Điệp lặn lội vô đây đâu phải để nói với má vài câu lỉnh lảng như nước đìa, đâu phải để nói chuyện bé Bơ, mà là Điệp tự dưng nhớ má, thương má. Hằn học với má là khi bắt đầu nghĩ tới má. Điệp ngồi thù lù ở đó, nhìn thinh không, đêm giống như một bà cụ còm cõi chống gậy chậm rãi đi qua, nghĩ ngoại biết Điệp tới gặp má như vầy, ngoại vui biết bao nhiêu. Điệp kêu :
- Má à, sáng này má kêu con Giàu theo con ra đoàn, mấy bộ đồ của bé Bơ còn nguyên một giỏ y thinh, con gởi nó đem về cho má, mai mốt má sanh cho em bé mặc, nghen má.
Nguồn: Văn Nghệ Sông Cửu Long
Huệ lấy chồng
-----
NGUYỄN NGỌC TƯ

Vẫn còn tiếng lụp cụp rộn ràng của mấy cây dao chặt vào mặt thớt mù u. Vẫn tiếng nói cười xao động từng chòm nhóm của các chị, các dì trong nhà bếp. Tiếng máy đèn chạy tạch tè. Đằng trước rạp, nhóm ca cải lương dạo đờn lửng ta lửng tửng rồi ai đó vô câu vọng cổ ngọt xớt. Không biết vô tình hay cố ý, anh chàng nọ kê micro gần miệng mà uống rượu. Nghe đánh cái chóc giòn thiệt giòn rồi khà ra tuồng như cay đắng lắm, chua xót lắm, bắt thèm.
Huệ với Điềm ngồi xếp quần áo trong buồng. Điềm bò lại cửa sổ mở chốt, đẩy hai cánh cửa lá sách sơn xanh ra, trời khuya sâu hun hút, nó la lên :
- Trời, gió mát ghê hen.
Huệ gật đầu, ừ, mát, gió chạy nghe thông thống trong lòng. Nghe rõ ràng mùi xoài cát trái mùa chín son ngoài song cửa. Tự dưng Huệ thấy nhớ nhà ghê lắm. Ngồi ngay ở nhà mà cũng nhớ thiếu điều rớt nước mắt cái độp xuống mặt chiếu bông. Lúc nảy, ăn cháo khuya xong, ba Huệ biểu cả nhà ra đằng trước, ông đốt nhang khấn trước bàn thờ làm lễ xuất giá cho con gái út. Chưa đủ lễ thì má Huệ đã khóc òa. Mấy chế, mấy dì ở nhà dưới chạy lên, bắt khóc theo, nước mắt nước mũi lòng thòng. Thành ra ai cũng xúm lại khóc nên không có màn dặn dò như mấy những lễ xuất giá khác. Huệ nghĩ vậy mà tốt, nó đỡ buồn tủi. Điềm dặn, "Bây giờ mầy khóc cho đã đi, để mai lúc rước dâu thì ráng nhịn, cô dâu mà khóc, son phấn trôi tèm lem, thấy rầu lắm". Trời đất, buồn thương ở trong lòng, lúc nào tràn đầy thì phải khóc cho vơi chứ có phải rót nước ra từ cái ấm, lúc nào muốn rót thì rót, lúc nào không muốn thì thôi. Con gái lấy chồng, hỏi ai không tủi ?
- Hồi sáng này, lúc đi chợ mua đồ về tao thấy ông Thi đi ngang nhà mình.
Điềm rũ cái áo bà ba hường làm cái đèn chao ngọn, nó lên tiếng. Huệ ra bộ dửng dưng :
- Ừ !
- Thấy cái mặt ổng buồn, đứt ruột lắm.
- Ừ !
Điềm trở giọng quạo quọ :
- Ừ, ừ hoài. Phải chuyện mầy với ổng mà thành, đám nầy vui biết bao nhiêu không.
Huệ cười, biểu Điềm nói nho nhỏ thôi rồi cái giọng lại nửa dửng dưng nửa phân trần :
- Thành gì mà thành, người ta đã nói là không có tiền sắm trầu cau.
- Sạo, trầu cau rẻ rề, mà, sao lại có tiền đi cưới người khác.
Huệ cười, người ta vậy, mầy còn nhắc làm chi. Mà, sao bữa nay gió lạnh quá chừng, gió te tái đưa tới một tiếng gà đang gáy, nghe từng giọt, từng tiếng buồn thỉu. Cái vali da mới màu vôi đã đầy quần áo. Đồ của Huệ không có bao nhiêu, cũ hết rồi, đồ bên chồng cho mới nhiều, tới mười hai bộ. Điềm nhắc :
- Còn tập chép bài ca, mầy đem theo không ?
- Ừ, đem theo, chút nữa tao quên rồi.
Mà, đem theo chắc cũng không làm gì hết. Về bên nhà chồng không biết còn rảnh rổi vừa đưa võng vừa ngêu ngao hát. Nhà Thuấn vườn rộng, ruộng cũng nhiều, công chuyện chắc vô số. Thuấn kể, chỉ tính bẹ dừa khô rụng xuống, má Thuấn đã đi chặt mãn một năm còn chưa giáp vườn. "Nhưng em đừng sợ, về bển, ba má với anh không cho em làm gì nặng nề đâu", Thuấn nói thêm. Huệ cười, cực khổ nó không sợ, chỉ sợ không được vui. Nghĩ lại, có chồng vừa hiền vừa giỏi như Thuấn, lại thương mình như vậy làm gì mà không vui.
Huệ lại chỗ đầu nằm, giở gối lên, nâng niu ấp trong tay tập chép bài ca đã cũ. Nhắm mắt, nó vẫn lật ra ngay cái trang có nét chữ nắn nót của Thi, dưới bài hát "Nhẫn cỏ", Thi ghi thêm hai câu thơ "Trăm năm ai chớ bỏ ai. Chỉ thêu nên gấm, sắt mài nên kim". Con Điềm thường bảo, người ta lấy thơ để thay lời thề hẹn đó.
- Tao tội nghiệp ông Thi quá, mà tao cũng tội nghiệp mầy nữa. - Điềm vừa nằm xuống, vừa thở dài cái thượt. Huệ kêu Điềm ngủ đi rồi lụi hụi xuống giường, nó nói nó còn quên sợi dây nịt. Điềm xì một cái, "mầy có tật tiếc đồ cũ". Huệ gắt, "Kệ tao. Ngủ đi". Huệ bò lại chỗ cửa sổ và ngồi đó, đưa mắt nhìn xa thẳm màu đêm. Huệ ngồi đó thật lâu, đến má ghé vô buồng biểu Huệ nhắm mắt một chút đi, ngày mai rước dâu mệt lắm. Huệ dạ, thổi phù cho tắt đèn. Con Điềm vốn mê ngủ, đặt lưng xuống chưa bao lâu đã thở sâu. Huệ lại thắp đèn coi bây giờ là mấy giờ rồi giở vali ra, nói thầm trong bụng : "Không biết mình có quên gì không ta ?"
Nó làm như lỡ quên món gì sau này không có dịp về lấy nữa. Mà, từ Đất Cháy qua nhà Thuấn có bao xa, chạy xuồng băng tắt qua Đầm, rẽ theo kinh Thợ Rèn chừng mười lăm phút là tới. Nhưng với đứa con gái theo chồng, quãng đường đó cũng chở thương, chở nhớ. Chế Lê, chế thứ ba của Huệ lấy chồng sát bên nhà, chỉ cách một hào ranh mà còn khóc lu bù. Hồi đó, Huệ cười, chế cú cái cóc lên đầu nó," Sau này có chồng rồi biết, cưng ". Huệ không tin, nó biết mình rắn rỏi lắm, sức mấy mới khóc. Té ra không phải vậy, nó cũng là một đứa lạc lòng. Sáng mai thôi nó sẽ xuống võ rồi về ở miết nhà người ta. Nhớ cái cối xây bột dựa hàng kệ đựng tiêu tỏi, dầu ăn, nước mắm... Con mèo ngủ thiu thiu trên đầu bộ ngựa, mấy cái võng giăng quây quần quanh bồ lúa. Lối vô nhà trải đất đỏ, người đi ra đi vô đã mòn mấy hòn tròn tròn trọc lóc. Lối này đổ ra con đường xóm xáng múc hôn hang chạy dài tới Vịnh Dừa. Đi chút nữa là tới đám trâm bầu, chỗ con đập vào xóm Kinh Cụt, bẹ dừa kéo xuồng nằm vảnh cổ, có bẹ đã khô quắt, có bẹ còn tươi thơm. Xóm kinh ăn sâu vô đồng. từ vườn nhà Huệ dòm xéo về phía tây, bỏ cánh đồng lúa lơ thơ gốc rạ là một vệt xanh rờn của dừa, của chuối.
Và nhà Thi ở đó. Huệ với Thi quen nhau hồi nhỏ. Thi có tật khoái đi tắt đường đồng đâm thẳng vô vườn nhà Huệ để đến trường. Tan học về, nó có thể nhẩn nha, lang thang đồng khơi thả diều cho tới chạng vạng. Có bữa tan trường, Thi về cùng Huệ, Thi hỏi, "tao thấy con gà mái nhà mầy đẻ bậy đống rơm sau hè, sao mầy không làm ổ ?" Huệ xụ mặt xuống, môi trề ra "Gà nhà tao, kệ tao." Thi mất hứng, càu nhàu :"Con gái gì... vô duyên".
Đó là chuyện hồi nhỏ, chớ khi hai đứa lớn lên, Thi nhận ra Huệ có duyên, đã có duyên mà còn đẹp nữa. Thi học lớp trung cấp sư phạm xong về dạy trường cấp II Ấp Chín. Thi dạy lớp sáu, ngay lớp con bé Mén con anh Hai Mận học. Huệ đi họp phụ huynh hoài. Vô đó, không phát biểu gì, thẹn thò ngồi cuối dãy bàn, cũng không để ý coi Thi nói gì, chỉ nhìn Thi cười. Trời đất quỹ thần ơi, người gì cười hiền thấy thương quá. Hồi xưa, lúc còn con nít đứa nào cũng hôi nắng, cũng lùi bùn sình, đâu phải như bây giờ. Ở chợ hay ở quê gì rồi người ta cũng lớn lên.
Ở xóm này, người biết tụi nó thương nhau đầu tiên là con Điềm, nhỏ bạn thân nhất của Huệ, người thứ nhì, thứ ba biết là chú thím Mười Ba. Chú Mười Ba bán quán cà phê cặp bờ kinh xáng. Quán chú buổi sáng toàn đàn ông, buổi trưa của mấy thím đàn bà, ôm đứa con nẹo một bên vú nói chuyện làng trên xóm dưới. Buổi chiều, tụi con nít tụ lại quán chạy lòng vòng trong sân chơi. Riêng buổi tối, quán chạy máy đèn chiếu phim bộ Hồng Kông phục vụ cho đám thanh niên. Có lần coi bộ phim kiếm hiệp "Thiên Long Bát Bộ", tới đoạn A Châu chết, con Huệ nước mắt rịn rịn, chắc lưỡi như nói với con Điềm: "Ước gì trên đời này có ai thương tao như ông Kiều Phong thương A Châu, chắc tao sướng tới chết luôn quá". Con Điềm cười, ngó ra sau lưng, nói xa xôi, "Có chớ, sao mà không?". Thi ở đằng sau, kế dãy ghế Huệ ngồi, hít đầm đìa hương tóc thơm của cô bạn gái, mỉm cười. Ra về, Thi thả chầm chậm theo tới chỗ quẹo vô nhà Huệ, Thi mới níu tay Huệ lại, Thi nói rằng:"Ông Kiều Phong đó mà nhằm gì, có người còn thương Huệ hơn..." Tay Huệ ấp vào giữa tay Thi líu ríu. Sáng ra Bà Hai, má Huệ nói với thím Mười Ba :" Làm gì hồi đầu hôm nầy mấy con chó nhà tôi sủa ong ỏng hoài vậy không biết ?" Thím cười, chó sủa chuyện vui.
Rồi con Điềm làm nhân chứng cho mối tình của Huệ. Gặp Thi ở đâu, Thi nói cái gì Huệ đều kể cho Điềm nghe. Nhiều lúc Điềm phải nạt, " Trời ơi, mầy kể cho tao nghe hoài, tao phát ghen luôn đây nè". Mai mốt đây, hai đứa phải lấy chồng (con gái ở quê nuôi lớn không để lấy chồng thì làm gì ?), Điềm ước gì mình gặp được một người tử tế, hiền hậu, có học thức như Thi, lấy được người chồng mà tự mình tìm hiểu, yêu thương như Huệ. Huệ cười, chưa gì hết mà chồng chồng vợ vợ, nghe kỳ. Nói vậy, nhưng lòng Huệ nghe ấm ran, nó mơ tới một mái nhà sớm chiều khói tỏa, buổi sáng nó rang cơm cho Thi lót lòng đi dạy, trưa đón Thi về chăm chút nồi canh chua bông súng ăn với cá sặc kho khô.
Thương thì thương vậy, nhưng nhắc chuyện cưới, thấy không gấp gáp được. Nhà Thi đã nghèo mà anh em lại đông. Má Thi giao, đứa nào nấy làm để cưới vợ riêng. Lương Thi thì ít lắm, dư dả bao nhiêu. Vì vậy mà Thi xin đổi ra Rạch Ráng dạy trường huyện. Thi tính, ra ngoài đó Thi dạy thêm giờ, chắc lương lên được hai trăm mấy, để dành không bao lâu nữa đủ tiền lễ để cưới Huệ rồi. Huệ cười, cưới vợ chớ đâu phải mua vợ đâu mà phải tốn nhiều tiền. Thi bảo, không cần rình rang nhưng cũng phải có năm sáu bộ đồ, đôi bông, sợi dây chuyền cho Huệ không phải tủi chứ. Những lúc nhớ Thi, Huệ ngồi mơ về đám cưới, bữa đó, chắc là vui lắm. Hết học kỳ đầu, tự nhiên bặt cả tháng Thi không về, có về cũng chui nhủi trong nhà, ốm như ma đói. Huệ hỏi hoài, nhưng Thi cúi đầu, tìm được ánh mắt Thi đã khó, mong gì Thi nói ra.
Chuyện Thi thế là thôi rồi, mấy thím buổi trưa ngồi quán chú Mười Ba cong miệng nói với nhau, nghe phong thanh Thi đi lại với con gái trưởng phòng giáo dục huyện, cô nọ mang thai, chuẩn bị cưới. Đâu nè, thầy Thi đâu có tệ như vậy. Ừ, nhưng nghe nói thầy Thi bị "gài" như trong Lan và Điệp. Tội nghiệp. Tội nghiệp ai?
Thì Thi chớ ai, ở đời ngược ngạo vậy đó. Thi cưới vợ xong rồi nhưng vẫn thường tha thểu về ở lì trong này. Huệ gặp Thi giữa đường muốn cười nhưng Thi lầm lũi cúi mặt. Huệ lấy chồng. Thím Mười Ba chép miệng, giọng không biết khen hay chê:"Con Huệ nó dứt tình lẹ quá ha, dứt cái "rụp". Huệ cười, thấy đâu có chê Thuấn được cái gì, Thuấn biết Huệ từng thương Thi mà anh cũng bước tới. Huệ bây giờ, còn chờ ai nữa ?
Huệ chuẩn bị cho đám gã mình từ mấy tháng trước. Suốt ngày nó cặm cụi ngoài vườn. Lá dừa khô bó láng vo, tề đầu tề đít chất đầy giàn bếp, dựng qua tới bồ lúa. Củi phơi từ lúc chớm hết mưa, lổn nhổn ngoài sân. Mớ cọng dừa đã róc lá dựng ngoài giàn, chưa khô hẳn thì đám bìm bìm đã leo xanh rờn, nó cũng dỡ xuống, chặt phơi. Chuyện gì nó cũng giành làm một mình, làm từ sáng sớm tới chạng vạng, không đi coi phim nữa mà tối tối nằm nhà nghe cải lương hoặc đưa võng cò kẹt, hát "Thương nhớ nhớ mãi không thôi. Chàng mới ra về chị em tôi thương nhớ...". Điềm tới chơi thường, như giữ Huệ, sợ Huệ vì Thi mà làm chuyện dại. Sợ vậy thôi, chớ Huệ vẫn roi rói, người ta thấy nó không thèm rớt một giọt nước mắt nào như nó với Thi chưa từng có duyên dẻ gì nhau. Điềm hỏi "Sao tao không thấy mầy buồn gì hết ?". Huệ cười, "Tao quên ông Thi mất tiêu rồi, tệ quá, nhớ làm chi ?" Hồi đám cưới Thi, Huệ chép miệng tiếc, phải chi Thi mời... Không được mời nên mới nằm nhà, gió đưa tiếng hát ngang qua đồng lúc gần. lúc xa thăm thẳm.
Hôm gần đám, Thuấn chạy xuồng qua chở Huệ đi chợ. Hai đứa mua nhiều thứ, cuối cùng dắt nhau tới tiệm tạp hóa lựa bốn trái tim bằng giấy đỏ lớn bằng cái thúng để Huệ dán bên nhà hai trái, buồng cưới nhà Thuấn hai trái. Lúc Huệ giở mấy trái tim coi kỷ coi có thủng lổ không thì thấy Thi đằng cuối chợ đứng nhìn. Huệ cười ráo hoảnh. Tưởng Huệ không thấy, Thuấn quay qua, nhắc nhỏ, "Thi kìa, em ! ". Huệ cười, ừ, Thi đó, Thi chớ ai, rồi biểu người bán hàng lựa thêm cho hai chữ Song Hỷ mới lại gần chào, Huệ biểu, "Thi đừng có nhìn tui trân trối vậy, tui cũng phải lấy chồng chớ, phải hôn. Mà anh nhớ đối xử với người ta tốt như đối xử với tui vậy nghen". Thi gượng gạo cười rồi cắn môi quay đi. Thuấn nhìn theo, nắm tay Huệ, nắm rất chặt, nửa như để an ủi, nửa lại giống như rịt lấy, như sợ Huệ bỏ chạy đi mất. Huệ mắc cười, đó là lần đầu tiên từ lúc xuống mối, tới ăn trầu uống rượu rồi chuẩn bị cưới Thuấn mới nắm tay cô. Thì phải vậy thôi, mai mốt là vợ chồng rồi...
... Huệ ngồi chỗ cửa sổ cho tới lúc gà gáy rộ. Bà Hai lủi thủi đốt cây đèn cóc ngồi lột tỏi, không biết có phải tỏi nồng hay không mà mũi bà sụt sịt, nước mắt kèm nhèm. Bà con cô bác cũng trở dậy râm ran. Thức ăn đãi buổi mai đã làm sẵn từ hôm qua một mớ nhưng thịt kho tàu vẫn chưa thấm lắm, lớp mỡ chưa trong. Than bắt lửa cháy lép bép. Huệ kêu Điềm dậy, sửa soạn ra chợ xã đánh tóc, làm mặt. Điềm ngồi dậy, tay lò mò kiếm cây kẹp tóc, giọng tỉnh queo nhưng hơi bàng hoàng :
- Trời ! Sáng rồi sao ? Mau vậy ?
Đám thanh niên đằng trước quét qua nền rạp, xếp bàn ghế ra. Nhóm ca cải lương đã mỏi mòn ngoẹo vào nhau ngủ mê mệt, thay vô đó là băng nhạc đám cưới xập xình "Ô vui quá xá là vui..."
Xuống xuồng, Huệ giành lái máy. Điềm ngồi co ro đằng trước mũi, than lạnh quá chừng đi. Gió này mà không lạnh sao được. Một tháng mười ba ngày nữa là Tết rồi còn gì. Và sau tết nầy, mấy thím ngồi quán trưa bảo nhau, "Vợ chồng con Huệ có về". Trong tiếng máy Koler 4 nổ lùng bùng, tự dưng Huệ bảo :
- Ừ, lạnh quá, Điềm ha ?
Xuồng từ từ chạy tới đập nhỏ đầu xóm Kinh Cụt. Đám trâm bầu đứng im lặng, xơ rơ. Huệ bất ngờ xuống máy chạy chậm, chiếc xuồng khật khừng. Nó ngơ ngẩn ngó lên bờ, trong lòng chao chát một nỗi thèm muốn. Nó muốn chạy vô xóm, tới nhà Thi, gặp anh và nói cho anh hay rằng nó hết thương Thi rồi, nó quên anh, quên thiệt.
Nhưng nói để làm gì, ta ?
Lương

(cũng là "Bến đò xóm Miễu")
Nguyễn Ngọc Tư

Lương chèo đò mướn năm mười hai tuổi. Nhà Lương nghèo, chỉ là cái chòi rách tả tơi, từ ngày đi theo đò. Lương ăn, ngủ trên bến đò, nên nhà đã bỏ hoang hẳn. Suốt ngày quần quật trên sông mà bộ mình đã khẳng khiu chỉ độc cái quần tà lỏn dính đầy nhựa trong của thời làm sai vặt ở các trại xuồng. Lương không cha, má chết sớm nên cái quần dãn dây thun không ai may lại, nó tuột luốt mỗi lần Lương thót bụng rướn người trên đôi chèo.
Bây giờ cũng còn vài người nhớ dai nhắc hoài cái tướng Lương hồi đó. Bây giờ Lương ba mươi hai tuổi. Anh đã chèo hết thảy chín xác đò. Bến đò Đậu Đỏ qua xóm Miễu sang đi nhượng lại qua tay bốn người chủ. Mà, Lương vẫn còn nghèo. Lương khoe, nghèo, cực nhưng vui lắm. Ngày trăm lượt chèo nát mặt sông từ bến xóm Miễu qua bến chợ, anh chứng kiến biết bao nhiêu thay đổi cuộc đời, người xóm Miễu già đi, những thằng con trai, đứa con gái lấy nhau sinh ra nhiều thiệt nhiều đứa trẻ. Và những đứa trẻ lớn lên…
Chỉ Lương là già câng già cấc, già cóc thùng thiếc rồi mà chưa lấy vợ. Hỏi Lương, Lương cười hì hịch: “Tui xấu muốn chết, ai mà thèm ưng…”. Lương xấu trai thiệt. Tướng Lương nhỏ xíu, teo héo. Đầu to, tóc dày, cứng, cháy nắng. Một bên mắt lé xẹ. Ai cũng cười: “Cái thằng, mầy chèo mà không ngó đằng trước, ngó đâu trật lất vậy?”. Lương không giận tựa như không biết giận. Cái thân nhỏ mồ côi mồ cút, nghèo xác xơ mà bày đặt giận cuộc đời thì làm sao sống nổi. Suốt ngày Lương hệch miệng ra cười, làm như vui, làm như không, khó nắm bắt. Trong Lương như một người trí não chậm phát triển. Lương khoái cặp mắt mất đoàn kết của mình lắm, người ta nhìn anh biết, chứ anh mà nhìn lại, người ta tưởng anh ngó đâu đâu.
Bông cũng bị Lương nhìn như vậy. Nhà Bông cũng ở bên xóm Miễu, gần chòm mả Tiều. Lương biết Bông từ hồi Bông còn đi học. Bông mê đi đò, lần nào nó cũng năn nỉ Lương lén bà chủ bến cho nó ăn gian thêm mấy bận nữa. Nó ngồi đằng mũi xuồng, thò chân xuống nước quậy quậy chơi. Lương bảo dưới sông nhóc cá sấu, Bông tin liền. Sao mà Bông dễ tin vậy. Ngày nào, Bông cũng mặc chỉ một cái áo trắng bằng vải soa lông vịt, chiếc áo hơi ố vàng, rộng thùng thình. Tan học, Bông cùng một bầy em lít chít đi mót cây vụn ở các trại xuồng về nấu cơm. Má nó có một chiếc xuồng cũ, hai bên be bể như cá chốt rỉa, vớt bọc dưới sông. Ba nó đi nhậu, nhậu xong về đánh má con nó. Lớn lên, mỗi lần qua đò, Bông thôi vọc nước nhưng đăm đăm nhìn ra xa. Con sông Thủ đến ngã ba Vàm bỗng cuồn cuộn quặn đau khi hoà sông Gành Hào ra biển.
Bông lớn mau lắm. Chuyện đó không biết có mắc mớ gì mà tự nhiên Lương khoái soi mình xuống sông, những khi vắng khách, Lương ngồi mằn mằn lấy cồi mấy hột mụn trên mặt. Lương than với bà Tư, chủ bến “Lúc này dì thấy tui đen không?” Bà Tư cười,” Chà, hỏi kiểu này chắc biết làm điệu rồi. Muốn vợ hả? Mầy ráng dành dụm tiền, mai mốt có vợ rồi tao sang lại bến đò cho mà làm ăn”. Con mắt lé thờ ơ nhìn chỗ khác, nhưng con mắt còn lại thắp lửa lên. Mắc mớ gì Lương nghĩ tới Bông.
Bông thôi học. Bữa cuối tan trường, qua tới bờ xóm Miễu, Bông không chịu lên, nó biểu Lương cho nó đi thêm bận nữa, từ mai nó đã thôi học rồi. Từ mai, nó vẫn qua đò, nhưng nó đã khác, con Bông đã khác.
Con Bông đã khác. Buổi sáng, Bông mặc áo rách qua chợ, buổi chiều về. Trên mình là váy ngắn, áo yếm, vai quàng hờ hững hai cái dây nhỏ xíu có cũng vậy mà không có cũng vậy, vịn hờ cái áo khỏi tuột xuống. Bông hỏi Lương: “Thấy tui đẹp hôn?” Lương hệch miệng ra cười: “Đẹp dữ dằn luôn”. Bông lườm một cái rồi hất mặt đi, “Đẹp khỉ khô gì, tui đâu có ham”. Bông bước lên bờ, đạp đạp mũi đò ra.
Đám em Bông mặc áo mới tới trường. Má Bông sắm được chiếc xe đẩy bán bánh mì thịt dài dài qua các hẻm. Ba Bông đi nhậu về, đã ngủ rất say.
Người xóm qua đò xầm xì Bông đi bán bia bên cầu, quán “Đêm sầu”. Bốn giờ chiều, Lương đưa Bông qua chợ. Bông nói giờ đó quán chưa có khách đâu, nhưng con mẹ chủ bắt phải mặc quần lửng ngồi ngoài băng đá đằng trước quán. Một bầy con gái ra đó giả đò ngắm mây trôi, coi xe cộ qua lại chơi nhưng thật ra là để chào hàng. Bông trở về lúc hai ba giờ sáng, quần áo xốc xếch, tóc mai dính bết vào khuôn mặt đậm đà son phấn. Đôi mắt dại đi vì say, vì mất ngủ, người sềnh sệch mùi bia, đến nỗi Bông ngồi gần, Lương hít hơi men muốn xỉu luôn.
Lương ăn trên sông, ngủ trên sông nên không biết ở phía bờ, người ta đưa đẩy cuộc đời Bông như thế nào. Nhưng thế nào thì Bông chắc cũng giãy giụa, quặn đau như nước ở ngã ba Vàm vậy. Bởi vì Lương tin Bông, Lương hiểu Bông mà.
Dăm bữa, Bông rút trong áo ra một nắm tiền, xoè ra tròn như chiếc quạt, phơ phất mát mặt Lương, Bông cười,”tui giàu rồi”. Lương lắc đầu, Bông biểu Lương chèo đi, chèo hết đêm nay. Lương chèo trong những ánh đèn hắt ra từ hai bên bờ xóm chợ. Bông nhìn ra sông, cái nhìn vẫn buồn như lúc trước nhưng nó đã đanh đi, chai lì đi. Lương nhìn mà Bông đâu có hay. Lương hỏi Bông bộ tính làm như vầy hoài sao. Bông cười, chừng nào có người cưới tui. Lương hỏi, “Xấu xấu Bông chịu không?”. Bông cười, “Thân tui gì còn kén chọn nữa, khùng?”.
Lương mà khùng ? Hỏng dám đâu. Lương ngồi gãy tay, gãi đầu hỏi bà Tư coi bà còn nhớ lời hứa hồi trước không, bà cười,”Nhớ, nhớ chớ sao không? Tiền mày gởi tao, dư sức qua cầu rồi”. Nhưng bà không biết đâu, Lương còn nhiều dự tính nữa, anh muốn cất lại căn nhà đã bỏ hoang lâu rồi. Lương muốn đóng một chiếc đò mới, cẩn vỏ xe quanh be, lấp dầu trong, cho từng sớ gỗ đỏ au au.
Lương đi xin cây vụn về để sẵn dưới sạp, rảnh rảnh, anh lấy ra, cưa đẽo đóng một cái hộp đựng tiền nho nhỏ, nhiều ngăn. Ngăn đựng giấy bạc hai trăm, năm trăm, ngăn đựng giấy bạc một ngàn. Lương mua giấy nhám về đánh cho nó bóng lên, rờ tay cho mát rượi. Lương giấu nó đi để khỏi ai trông thấy, sợ người ta hỏi tới hoài. Lương nói thiệt, người ta cười, bảo Lương cầu cao … Mắc cỡ lắm. Mà, anh còn chưa nói với Bông.
Nhưng Bông đã nói trước, Bông khoe, “Chắc tui bỏ nghề, tui lấy chồng”. Lương rà mái chèo cho đò cặp bến, Lương hỏi Bông lấy ai? Bông cười: “Cái ông hồi nãy đưa tui về”. Lương muốn sụm bộ giò, lặng người mà miệng vẫn cười hịch hạc, “Sướng nghen”.
Ông già vẫn thường đưa Bông về xóm Miễu. Người ta nói, con Bông ham giàu nên ráng kêu ông ngoại đó bằng anh. Bông giẫm cái cười của cuộc đời lên đôi giày cao hai tấc, đường kính gót một phân. Bông chờ ngày lấy chồng.
Nhưng bà già, vợ ông già không chịu, bà lùa bầy con qua nhà, rọc nham nhở mái tóc dài của Bông, xé quần áo, lột sạch những món đồ trang sức Bông đang đeo. Chuyến về, đám người đó qua sông. Lương trừ trừ chờ canô chạy qua rồi nương theo sóng lớn nhận chìm đò luôn. Bà già suýt chết đuối, may nhờ Lương ngoi ngóp kéo lên bờ. Bà vừa níu Lương vừa chửi: “Đồ không có văn hoá, đồ thất học”. Lương cười hề hề, sao bà chửi câu nào trúng câu đó vậy.
Bông biết chuyện, Bông nói trong ngân ngấn nước mắt “Làm chuyện đó chi vậy, Lương? Của người ta thì trả lại cho người ta đi. Sao mà tui dễ tin người quá vậy không biết”. Lần đầu tiên, Bông gọi Lương theo đúng tên của anh chứ không kêu “khùng”, kêu “đò” nữa. Lương sướng tê người đi. Bông ngồi chỏi tay ra ngoài sau, ngẩng mặt lên nhìn Lương như chị Hai nhìn thằng Út, như con chó Vá nhìn đống thóc.
- Tui biết anh thương tui mà, Lương.
Lương cười. Khuya đó về, sông vắng. Lâu lâu mới có một chiếc xe chở cát, chở dầu tạch tạch đi qua, ánh đèn đỏ lòm xa xa như ánh nến. Bông biểu có thương Bông thì ngồi lại gần Bông đi. Nước đứng rồi, đò có trôi đi đâu mà sợ. Hai đứa ngồi một bên be xuồng, nó nghiêng nghiêng lơ lửng. Bông biểu Lương nắm tay nó đi, Lương không dám, hai đứa cách nhau chừng bốn gang rưỡi. Lương nín khe hồi lâu rồi thở ra:
- Gió mát thiệt, hen?
- Lương!
- Gì?
- Ôm tui đi.
- Ý trời, người ta dòm.
- Thây kệ họ. Ôm tui đi
- Thôi
Bất thần, Bông xô Lương té ngửa xuống nước. Đợi Lương vẹt đám rác trôi lều bều, trồi đầu lên, Bông hét:
- Chê thân tui dơ dáy, nhơ nhớp nên không dám động vô tui chớ gì. Vậy mà thương tui sao ? Đồ xấu xí, đồ khùng.
Lương vịn một tay vô be xuồng, một tay vuốt nước trên mặt. Trong lòng anh nghĩ rất nhiều mà không nói được lời nào. Anh khờ khạo không có năng khiếu nói, lâu rày anh chỉ biết cười. Lương mà khùng? Lương chỉ không muốn mình giống như bao thằng đàn ông khác, nhìn Bông như nhìn một món đồ chơi. Bông là Bông, là con gái, là người.
Sau nầy, Bông dửng dưng qua đò như chưa hề có cái đêm hôm đó. Bông đi với một thằng con trai mới. Thằng nầy để tóc năm năm nên Lương kêu nó bằng “Năm-năm”. “Năm-năm”trẻ măng, quần áo thơm, đầu tóc thơm, chiếc xe phân khối lớn nổ tè tè ra đám khói cũng thơm. Bốn giờ, “Năm-năm” đón Bông ở đầu bến đò. Nó hất mặt hỏi Lương có biết Hồng không? Lương nói Lương chỉ biết Bông thôi. Lòng anh nghĩ, dù là Hồng, là Mai, là Cúc thì vẫn là Bông. “Năm-năm” cười sùi sụt: “Ông nội này cù lần thiệt”. Bông qua sông đi rồi. Mấy bà già đi chợ về nguýt muốn rách đuôi con mắt:
- Con gái con đứa gì mà ngồi vểnh phao câu, thấy ghét.
Lương lặng lẽ cười. Anh đưa Bông đi rồi chở Bông về. Kỳ cục, Lương không biết rằng mỗi lần thấy Lương dại miệng kéo răng ra cười là lòng Bông quặn đau. Bông muốn nhìn thấy anh buồn, thấy trong mắt anh lộ ra một cái nhìn ghen tức. Nhưng Lương không được thông minh lắm, Lương không hiểu. Lương khùng.
Lương không ngờ. Chiều đó anh đưa Bông tươi hồng qua sông, sáng hôm sau má Bông với đám em qua đò, mếu máo:
- Con Bông nó bị tai nạn.
Nghe nói Bông bị thương trong lúc đua xe cùng “Năm-năm”.
Nghe nói cột sống Bông bị tổn thương nặng. Một nửa chi dưới đã bất toại.
Lương chỉ nghe người xóm Miễu qua đò nói lại. Lương không bỏ đi đâu được đôi chèo. Lương không rành cái gì ngoài cái bến, dòng sông, đất đai xóm Miễu. Lương ngồi tưởng tượng ở trong bệnh viện chắc Bông buồn lắm. Lương chờ Bông về.
Bến đò xóm Miễu thay đổi chủ. Lương vẫn mãi miết chèo qua chèo lại, càn lên dòng chảy, lên sóng nước mà đi. Bông ngồi trên bến thu tiền. Nó vuốt phẳng phiu từng tờ giấy bạc lẻ nhàu vào từng ô của chiếc hộp Lương đóng ngày xưa. Người không biết qua bến nhìn Bông xinh đẹp tươi hồng rồi nhìn vẻ mặt già háp của Lương mà lòng tiếc hùi hụi, tiếc đôi đũa mốc với cái mâm son, tiếc bông lài trắng với bãi cứt trâu xanh. Người biết chuyện cười Lương khùng, cưu mang một đứa con gái lỡ lầm còn thêm chuyện không còn khả năng làm vợ.
Nên bên kia chợ người ta gọi bến này là bến Đậu Đỏ, bên này bờ xóm Miễu, người ta kêu bến “Lương khùng”.
Nguồn: Giao Thừa, NXB Trẻ, tái bản lần 2, 5/2004
Bởi Yêu Thương
Nguyễn Ngọc Tư

Bao giờ qua cửa Sáu Tâm cũng cằn nhằn. Bao giờ qua cửa anh cũng thấy Điệp lúi húi dọn dẹp, nấu nướng gì đó, “Mấy chuyện lặt vặt, để tôi làm, sao không chịu nằm nghỉ không biết”. Bữa nay thì tới lượt chị nhằn, Sáu Tâm về nhà với đôi đầu gối bê bết máu :
- Tâm lại té à. Đi đường phải cẩn thận chớ.
- Không - Anh bảo - Hôm nay dạy con San nó đi gối .
- Tuồng gì ?.
- Phàn Lê Huê.
Chị bắt anh ngồi xuống gường, khẽ khàng vén ống quần lên, tháo cái chân giả ra, băng bó lại đầu gối cụt chỏng chơ vẫn còn tươm máu. Sáu Tâm nghe một giọt nước mặn nhỏ xuống làm rát bỏng chỗ vết thương, anh càm ràm ( như tía chị ); “Khóc cái gì. Chút xíu vậy cũng khóc “.
Hồi trưa này, San cũng ôm đầu gối anh mà khóc.
San là học trò của anh, nó làm tiếp viên ở quán Mây Lang Thang. Trưa nào, anh kéo cái bội khăn đi ngang cũng thấy nó ngồi băng đá đằng trước sân ngó cuộc đời. Son tô, phấn trát đậm như mấy người lên đồng. Có bữa anh dừng lại chỗ gốc bàng, đứng rao : “ Mười ngàn năm cái khăn. Khăn Mỹ … Tho có ho như thầy Minh cũng không rách. Mua khăn cô nhỏ. Khăn mới lau tủ cũ, cũ lau xe …”, anh thấy nó cười. Một bữa nó hỏi, có phải ngày xưa Sáu Tâm từng làm kép hát không ? Sáu Tâm tự trào, tôi mặt rổ như “ ga-mo-qua-xa-ky “( gà mổ quá xá kỹ) , đầu tóc bù xù, xi cà que, mình mẩy lúc nào cũng hôi mồ hôi mà là kép chánh sao? Nói chơi hoài.
Nhưng San tin. Hồi đó đoàn Mây Mùa Thu về hát ở đình Tân Thuận. Hôm ấy, đoàn hát vở “Đời cô Lựu” thiệt khuya. Ông bán khăn này còn trẻ lắm, ông đóng vai Luân, mặc bộ đồ bà ba vá chằng vá đụp, quần thì xăn ống thấp ống cao. Lúc xả giàn (* ) là tới đoạn Luân quỳ xuống ngang gối, ôm cô Lựu ngẩng mặt lên, kêu mẹ. Trời ơi, San bưng rổ khoai ế đứng nhìn mà rưng rưng nước mắt, sao mà cô Lựu ôm Luân gọn gàng trìu mến đến như vậy, sao Luân hạnh phúc và sung sướng đến như vậy.
Đó là lúc San ước mơ sau này lớn lên sẽ trở thành đào hát. Ừ, trở thành đào hát, không cần phải đóng vai chánh, nổi tiếng làm gì, hát phụ cũng được, đóng vai ác, vai hầu gái, cung nữ, bà già cũng được… Nhưng San mê vai có má nhất. Dù người mẹ nghèo bị hắt hủi cỡ nào, người mẹ giàu tàn nhẫn cỡ nào để chia cắt duyên con (như mấy tuồng cải lương bây giờ hay hát), nhưng có làm gì thì hết thảy đều vì quá thương con mình.
San hai mươi bốn tuổi, hai mươi bốn năm má mất. Bà chết vì sinh khó. Cha San thường sau rượu, lúc say phà cái mùi hèm khăm khẳm vô mặt San, “ Tại cái con vô dụng này nên tao mới khổ sở như vầy, vợ cũng chết, tiền cũng hết”.
San cố sống để khỏi phải là đứa vô dụng. Áo cha rách, San khâu. Cha kêu buồn ói, San chạy lấy thau lại hứng, dấp khăn nóng cho người. Sáu tuổi nó đã è ạch nách cái rổ khoai lang luộc, xách thùng mía lạnh rảo chân khắp làng trên xóm dưới. Mười hai tuổi nó xin chạy bàn, rửa chén ở quán “ Mây Lang Thang”, mười tám tuổi nó lấy chồng. Phải lấy chồng mới có tiền lễ để cha nó đổi chiếc xích lô lấy cái Honda. Mà, đời kỳ thiệt, San lấy ngay cái thằng hồi nhỏ nó ghét cay ghét đắng. Nó nhớ như in những lần na cái thùng mía lạnh ngang qua nhà, thằng chồng nó lúc đó chừng mười, mười hai tuổi chuyên chặn nó lại, giật mía mà ăn. Có bữa San cự, thằng nọ vạch quần ra đái tỏn tỏn vô thùng mía, vừa đái vừa cười ha hả. Hôm đó, San về nhà mà trong tay không có tiền. Dì nắm tóc nó mà đánh, San có nói gì thì dì cũng không tin. Bây giờ lại lấy nhau, mỗi lần thấy chồng tuột quần, lòng San dậy lên một nỗi căm thù. Được hai tuần, San thôi, lại bỏ về quán Mây Lang Thang, nhưng không còn rửa chén mà ngồi trong mấy cái buồng vuông vuông nhỏ nhỏ để tiếp khách.
Ước mơ xưa chưa bao giờ trở thành hiện thực. Những khi quán vắng, San cố ngủ cho nhiều, ngủ là khỏi thấy lòng buồn, má hy sanh cho cái phận bọt bèo này làm chi không biết. Ngủ để coi có mơ thấy mình trở thành đào hát không. Ngủ vì không thích tụm lại với chị em để đánh bài, bàn số đề, giũa móng tay, nặn mụn hay đi mua sắm áo dây, váy ngắn.
Mất gần một tháng Sáu Tâm mới nghe hết câu chuyện đời của nó. Mỗi bữa ngồi đụt nắng dưới gốc cây còng trước quán, San kể anh nghe một đoạn. Nhưng anh kép cũ không nhắc gì đến vầng hào quang cũ, chỉ San ngồi nhắc hoài, nó kêu anh dạy nghề. Sáu Tâm bảo, “ Nghề hát bạc lắm “. San bảo, nghề của em còn bạc hơn, bạc tại chỗ, những thằng mằn nắn mình, kêu mình bà xã ơi, cưng ơi, toàn là tụi coi khinh mình như rác. Dứt khoát, em phải trở thành đào hát, như đào Điệp ở đoàn chú vậy .
San nhớ, cô đào thiệt hiền, dân dã, tan buổi diễn để nguyên bộ áo dài nâu, cái đầu bới ngồi ăn cháo vịt. Thấy San cứ tần ngần nhìn, cô hỏi San đói không. San gật đầu, không đói nhưng vẫn gật đầu. Cô gọi thêm một tô cháo, biểu San ăn đi, ngồi kế cô mà ăn. San ngồi trước tô cháo nhưng cứ nhìn cô, chỉ mong được nép vô lòng kêu tiếng má. Đào Điệp hỏi, con bán khoai hả, sao tan hát rồi mà không về? Khoai còn hết? Cô mua cho. Ăn xong, con mau về đi, tan hát rồi, đường tối lắm.
San nhớ hoài cái khuôn mặt dịu dàng đó, bao giờ nó cũng nghĩ, má mình còn sống dứt khoát giống cố ấy. Nó kết luận, chỉ gặp một lần thôi mà em thương cổ suốt đời.
Câu chuyện làm cho Sáu Tâm xúc động, gương mặt đen đúa trầm lặng như tượng gỗ bỗng mềm lại. Anh bảo anh sẽ dạy. Ở đâu ư? Tại cái sân dưới gốc cây bàng này. Sân chật đầy lá rụng có bữa bỗng dưng biến thành sân triều. Sáu Tâm gọi, “Cung nữ !”, San dạ, te te đi ra tay dâng chén rượu ngang mày. Người đời qua lại, có cười.
Đám khách nhậu trong quán biết Sáu Tâm là anh kép hết thời, cứ đòi nghe cho được. Mấy lần bà chủ quán ra biểu anh, “ hát vài câu đi rồi có tiền” (như bà mẹ biểu đứa con nít ăn cơm đi rồi cho kẹo), lần nào Sáu Tâm cũng lắc đầu. Bà phật lòng, nghèo còn sĩ diện, nghèo mà không biết nghe lời người có tiền. San hỏi, anh bảo :
- Có làm gì, đi đâu, chưa bao giờ tôi quên mình là nghệ sỹ, nghệ sỹ là người của công chúng, người ta yêu mình bởi họ thấy mình cao quý hơn họ, tôi không thể vì tiền mà sống hèn được. Cô nhỏ, sau này có trở thành đào hát, cô nhớ lời tôi nghen.
Mỗi ngày, Sáu Tâm ghé chỗ San chừng mười mười lăm phút. Thời gian còn lại anh kéo cái bội đan bằng nan tre có gắn mấy cái bánh xe đi bán khăn, áo dạo. Anh cần tiền, nhiều tiền. Nhưng anh cũng muốn về nhà. Nên lúc nào trong lòng anh cũng như lửa đốt.
Nhà Sáu Tâm ở xóm Gò Mả. Xóm nhỏ tụm lại trên nền nghĩa địa cũ. Những ngôi nhà cửa trước luôn mở về phía nội ô như bị người ta lấn tới nên giật lùi đến đây. Nhà anh cất kề chòm mả lạng, anh không sợ, ma cũng như người, mình tử tế với họ thì họ cũng tử tế với mình. Chỉ ngại, những lúc anh không ở nhà, chị thế nào cũng mở cửa ra, nhìn những chòm cỏ xa xanh kia và nghĩ về cái chết.
Điệp càng ngày càng yếu. Chị ốm, mỏng như hột cốm dẹp. Tóc đã rụng đến nỗi ở xa chừng mười bước có thể đếm được từng sợi, từng sợi còn sót lại . Chị thôi xót xa rồi. Thôi từ cái bữa Sáu Tâm đã làm vỡ gương, chị nhắc hoài anh chưa mua lại. Thôi từ cái bữa mơ màng thấy anh nhặt tóc chị rụng trên gường đem đi giấu ở cái thùng đạn hồi trước đựng đồ nghề vá xe. Chị níu lấy anh, vùi nước mắt vô ngực anh mà ướt :
- Tâm ơi ! Tâm khổ vì tôi chi vậy ?.
Đâu mà biết nà. Tại duyên nợ. Điệp lớn hơn Tâm tròn con giáp. Lúc anh mới vô đoàn hát, anh gọi Điệp bằng chị, xưng em. Điệp toàn hát vai má anh, ráng lắm thì cũng vai em trai, loại em chuyên đi đưa thơ cho người yêu chị gái mình. Vậy mà yêu, yêu tréo cẳng ngỗng, cũng không biết để lòng thương lúc nào, ghê lắm cái lối thương thầm, thấy đầm đầm vậy chứ rứt không ra. Lúc đầu thì Điệp thấy buồn cười lắm, chị cứ theo chọc anh hoài, thí dụ tụi mình làm vợ chồng, phải gọi làm sao, Tâm ha ?.
Cho tới cái bữa về hát Vàm Lẽo, nữa đêm trải chiếu nằm ngủ dưới khán đài, sàn diễn đổ sập xuống, Sáu Tâm đẩy Điệp ra, chỉ anh là còn kẹt lại trong đống đổ nát. Xương ống quyển bị dập. Đau lắm, nằm một chỗ, không xoay mình được. Ông bầu cũng nghèo, tiếc tiền, cứ bảo, trặc chân chút đỉnh rồi sai người đi hái thuốc về bó, đắp thuốc tới khúc chân bị hoại, lầy lụa, người ta mới đưa anh đến bệnh viện. Tháo khớp. Nỗi đau không nói được bằng lời, lìa khúc chân là mãi mãi đứt lìa sân khấu.
Đó là những năm sân khấu cải lương lâm vào cảnh khó khăn. Đoàn hát phải biễu diễn khắp cùng quê xó, phải trưng dụng những dụng cụ phụ diễn đã bị nắng mưa làm mục nát. “ Mưa Mùa Thu” rã gánh, ông bầu bảo, còn ai hát hò gì nữa, tới Hồng Điệp cũng phải bỏ nghề rồi, trông mong gì. Điệp cùng Sáu Tâm dìu dắt nhau đến cái xóm Gò Mả này. Chị không hối tiếc, cuộc đời người ta ngoài ăn với ngủ, thời gian còn lại là đi tìm một nữa của chính mình. Chị thì có anh.
Hai người, hai đôi tay hồi nào giờ chỉ quen múa gươm, lẫy roi, sảy ngựa với ba cái chân để kiếm sống. Cực khổ nhọc nhằn nhưng không nguôi thương nhớ nghề xưa. Điệp xin từ ông bầu rất nhiều món đồ diễn, đem về cất kỹ, thỉnh thoảng, chị mặc áo đính kim sa hát Mạnh Lệ Quân với anh. Lúc đó Điệp vẩn chưa phát bệnh.
Bây giờ chị không còn sống bao lâu nữa. Khối u ở cổ đã đi vào não. Gương mặt xinh đẹp của chị biến đổi, nhiều bữa ngủ thức dậy, đôi mắt sưng húp, mũi chảy máu ròng ròng. Tai bắt đầu ù ù không nghe rõ. Nếu không phải trang trãi tiền thuốc cho chị, Sáu Tâm đã không lang thang ngoài đường. Anh muốn được ở nhà, ở bên chị, nắm nuối từng giây từng phút, để lúc chị đau anh giúp cho ly nước, vốc thuốc, cái khăn ướt lau mặt, để ôm ghì chị vào lòng mỗi khi lên cơn vật vã. Nhiều bữa mưa dầm đụt ở mái hiên nhà nào đó, Sáu Tâm thèm được khóc. Anh nhìn mãi đôi tay mình. Đôi tay từng đi làm mướn, đi bốc mả, vá xe, đôi tay từng bưng bê ở nhà hàng này, quán nhậu nọ sao lại bất lực không thể níu giữ người mình thương.
Nhưng bao giờ anh cũng về nhà với khuôn mặt tươi cười. Cười không phải vì vui. Anh nghĩ, may mình là nghệ sỹ, nếu không, sao có thể cười giòn khi đang tan nát lòng đau. Nhiều khi, về tới đầu xóm, Sáu Tâm phải dừng lại, đốt điếu thuốc để lắng cảm xúc của mình lại.
Anh sợ cả lúc bước vào nhà thấy chị đang nằm ngủ, Điệp biết hết. Nên mệt mỏi thế nào chị cũng làm cái gì đó để đợi anh về. Chị thương anh quá.
May mà có San. Câu chuyện của nó làm cho cả hai người nhận ra họ đã sống một đời nghệ sỹ đầy ý nghĩa. Như San, họ chưa thay đổi được cuộc đời bất hạnh của nó nhưng đã an ủi nó nhiều. Điệp bảo :
- Em không tiếc gì đâu. Tâm đừng buồn cho em nữa, nghen.
Chị dặn, đừng nói cho San biết chị sống với anh, lại bệnh hoạn như vầy, “ nó đã giữ trong lòng một hình ảnh đẹp để ước mơ, mình đừng phá hư đi “. Nhưng rồi một đêm chị không ngủ mà nằm nghe trái tim anh đập từng nhịp gấp rãi, anh đang sống, chị nói với lòng, cái cơ thể này đang sống, mình nỡ nào để anh tạnh nguội theo mình. Vô tình, chị nghĩ đến San.
Bất ngờ, một buổi trưa, San tới. Hôm đó Sáu Tâm không đi bán mà ở nhà lợp lại cái mái che đằng trước, lúc này trời trở gió, mưa cứ tạt vô nhà. Anh còn kịp chạy lại lấy cái khăn vắt đầu gường đội lên đầu cho chị như vẫn thường làm khi khách đến nhà. San hơi khựng lại, nhưng nó nhận ra cô đào Điệp năm nào. Vẫn còn đó một đôi mắt hiền, hơi ướt, dịu dàng :
- San phải không ?.
Và còn đó một giọng nói mềm như lá lụa non.
Đó là một ngày trời oi nắng, mây đứng trân trên trời. Đó là ngày San nhận ra, trước người đàn bà đau ốm này đây, mình vô tình gây nên tội, tội đẹp. Và tim nó thắt lại một cái đau nhói, vậy ra, người đàn ông bán khăn áo dạo không ở một mình. Không biết làm gì, San lại mở cửa sổ ra, nhìn những chòm cỏ xa xanh,nó kêu lên, “trời ơi, ở đây bảnh thiệt, em thích một căn nhà như vầy lắm”, lòng vừa đau vừa thẹn thùa cười cái cọc đi kiếm con trâu.
Sau này, mỗi khi rảnh, dù Sáu Tâm có kéo cái bội khăn lang thang trên đường phố, San cũng lại nhà. Căn nhà mà hồi mới thấy xa xa, nó tưởng là nhà của mình. Bây giờ, lại đó, San quét nhà, nấu cơm, đợi Điệp ngủ San kéo mềm tới cằm cho chị rồi lượm những sợi tóc buồn xơ xác như những chiếc lá lìa cành đem đi giấu. Bữa trưa đầy gió, chị biểu San đem lược lại chị chải tóc cho. Nó có mái tóc hệt chị ngày còn trẻ. “Tụi mình có nhiều cái giống nhau nghen. Chị cũng không có má, lớn lên trong trại mồ côi. Chị đến với sân khấu để vay mượn những thâm tình mà mình chưa hề có. Hồi nhỏ chị cũng cực lắm, nhưng không đến nỗi sa chân như San. Chị em mình còn một chuyện giống nhau nữa, đố San biết, tụi mình cùng thương anh Sáu, thương lắm, phải không ?”.
San ngơ ngác hết mấy giây rồi lắc đầu. Chị bảo đừng giấu chị. “ Ừ, nếu không chê Tâm tàn tật thì bao giờ chị đi cho chị gởi lại. Em làm lại cuộc đời đi, Tâm rộng lòng lắm, không chấp nhứt chuyện này nọ đâu. Tâm dễ tánh. Mặc gì cũng được, ăn gì cũng xong. Con người đàng hoàng, nghệ sỹ mà đàng hoàng, không phù phiếm, buông thả. Kiếm người tin được không phải dễ đâu, San”.
San không trả lời, không thể nói dối lòng rằng ” Thôi! ”, nhưng cũng không thể gật đầu cái rụp. Có phải là trao trái chanh trái bưởi cho nhau đâu mà một người đàn bà trao người mình thương yêu nhất cho một người đàn bà.
Sáu Tâm không biết chuyện này. Tối lại nằm gối đầu lên tay anh, chị bảo, “ San nó thương anh lắm”. Anh cười, “Tôi bây giờ đã thành ông già, còn cô nhỏ đó …” Chị cũng cười, “Có sao, như Tâm với em”. Sáu Tâm biểu, “ Ngủ à nghe”. Nhưng chị biết anh vẫn thức bởi những ý nghĩ mới mẻ trong lòng. Chị thì ngủ, giấc cuối cùng, sâu thiệt là sâu. Đắp cỏ muôn đời.
…. San bỏ quán Mây Lang Thang, chiều chiều ngồi bán chuối, khoai lang nướng mỡ hành bán ngoài cổng nhà văn hoá. Hỏi về giấc mơ trở thành đào hát. Nó cười đã bỏ lâu rồi. Đi hát lỡ nổi tiếng, thí dụ thôi nghen, người ta biết lúc trước tôi từng làm tiếp viên quán bia thì nhơ danh cả một giới nghệ sỹ, làm người ta mất cảm tình với cải lương, vậy khác nào hại cả nền sân khấu nước nhà.
Cũng giống như phim tình cảm, đôi khi người ta vì yêu mà rứt ruột lìa xa người mình yêu. Biết làm sao, hoàn cảnh vậy mà .

Sông dài con cá lội đâu

Truyện ngắn

NGUYỄN NGỌC TƯ
Lần nào về, bông súng cũng trổ hoa đầm đìa xóm Phố. Bông nở xòe kín mặt nước hố bom, ao làng, mé kinh. Dì Diệu nắm tay con Quỳnh, con gái nhỏ của dì Đào, đứng bên đường tim đau rưng rức, có phải tại mấy cái bông súng kia mà mình nhớ xóm Phố đau thương này không. Hay là tại hết thảy cây cỏ lá hoa, mái nhà nhang khói tỏa, lối xóm đầy bông dâm bụt đỏ, hết thảy hình ảnh đó đều cứa xót lòng dì.
Xóm Phố giỗ hội vào ngày mười chín tháng bảy ta, ngày mà ba mươi bốn năm trước, B52 của giặc bỏ bom rải thảm xuống cái xóm chưa đầy năm mươi nóc gia này. Chỉ có những người tản cư ra chợ, đám thanh niên vô du kích ém trong đám lá bạt ngàn là còn sống sót. Ở xóm Phố bây giờ toàn là một lứa tuổi với dì Diệu. Gặp nhau khum khum bàn tay che nắng cho đỡ chói hỏi coi phải anh Năm, anh Bảy không, sao mà già quá vậy nè. Họ mới hỏi lại :
- Vậy chớ cô Diệu có còn trẻ đâu.
Ừ, có còn trẻ đâu, dì Diệu năm nay đã sáu mươi chín tuổi rồi, tóc đã ngã màu khô quánh của đất mà tóc vẫn dài, mỏng tanh bới gọn như củ tỏi. Dì Diệu rời xóm Phố lên giúp việc nhà dì Đào đã ba mươi bảy năm, chính vì vậy mà dì còn sống sót. Nhớ quê thì hơn hết thảy người ta, ngày nào cũng nhớ nhưng mỗi năm dì chỉ về một lần, là lần đám giỗ cả nhà dì cũng là giỗ hội xóm Phố, còn đám giỗ ba dì, dì Đào cho phép làm ở nhà, bữa giỗ đơn sơ, dì Diệu ngồi khóc lặng. Đám trẻ nhà dì Đào vẫn thường nghĩ, tại sao tụi nó cũng mất cha mà không đau đớn, ray rứt như dì Diệu. Dì Diệu không có chồng, đám trẻ cũng không nghe nói là đã thương ai. Coi lại cái tướng nhỏ thó quắt queo khô héo của dì chắc là chưa bao giờ dì yêu, vì tình yêu nuôi sống người ta mãnh liệt lắm. Năm nào cũng vậy, giao mùa dì Diệu là người hay trước nhất, khi cả nhà thức dậy, dì Húa bảo gió bấc về rồi, về lúc dì quét lá ngoài sân. Gió về là mùa Tết về, mùa cưới về. Dì Đào chép miệng, năm nào má cũng hứng nước mưa đầy mấy cái mái để coi có xài đám gã con chị con em không mà chờ hoài không thấy. Quỳnh là đứa cắc cớ, "Tụi con thì chắc còn lâu, hay là năm nay gã chồng cho dì Diệu nghen, má, chớ để gió này, dì Diệu lạnh chịu gì thấu".
Hồi còn trẻ, chọc ghẹo là do thành ý, nhưng chọc hoài mà dì Diệu vẫn chưa lấy chồng, mỗi lần nhắc, miệng dì cười mà mắt dì rờn rợn một nỗi đau nào đó, dì Đào mới nạt mấy đứa con gái, biểu thôi đi. Quỳnh chắc chắn là ngày xưa dì Diệu có hứa hẹn ai với ở xóm Phố rồi, chỉ lạ là không nghe ai kể, nên về giỗ hội lần nào, Quỳnh cũng để ý coi hồi trẻ dì yêu ai trong đám đàn ông đen đúa, rụng răng này.
Năm nay giỗ hội lớn vì trúng mùa, vì những người đi xa xiêu lạc hẹn nhau về, nhưng coi bộ không có ai là người yêu cũ của dì Diệu. Không ai nhắc chuyện tình yêu gì hết dù là lời nói vô tình. Nấu nướng xong, dọn lên cúng, mọi người rảnh tay, ngồi lại uống nước trà, ăn trầu, bánh mới nhắc chuyện con Tư thằng Tám, đứa đi xa, đứa hy sinh, hy sinh thì coi như vẫn còn ở đất này, đi xa thì về rồi, coi như đã đông đủ rồi. Ủa, nói đông đủ đâu có được, còn vắng mặt một người nghen. Không hiểu sao con Quỳnh thấy dì Diệu cúi đầu.
Quỳnh muốn nghe thêm nhưng không ai nhắc gì về người đó nữa. Người trong xóm quay ra nói chuyện mùa lúa năm nay, mùa dưa, mùa trầu năm tới. Cậu Năm tổng kết lại, năm nay xóm Phố có nhiều cái mới nghen, một cây cầu bắc qua kinh Thầy Ký, cái đình thành hoàng được dựng lại trên nền đất cũ, mai mốt cúng đình mời hát bội về hát chơi. Thằng Bầu con cậu Năm bị ép uống chừng lóng tay rượu trong cốc, mặt đỏ sậm như xôi nếp cẩm thôi nhìn lén con Quỳnh vọt miệng, có cái mới nữa, xóm mình có một người điên. Sạo hoài mày. Tui nói thiệt mà, tui gặp ngoài chợ, ông đó điên rồi mà biết xóm Phố mình ngày xưa có một cái đình.
Mọi người lặng thinh, họ nhìn nhau ngơ ngác. Thằng Bầu ngồi xếp bằng trên bộ ngựa, nó thẳng người lên, kể với tất cả niềm hứng khởi về phát hiện động trời của mình, rằng xóm Phố cũng có một người điên xiêu lạc.
Thằng Bầu kể, thứ bảy rồi nó chở trầu đi chợ Cà Mau. Bữa đó dội chợ, trầu ế thấy thương luôn. Nó bưng mấy cà vung trầu lên ngồi bên mé chợ Công Chánh ngồi từ sáng sớm tới trưa mà không thấy ai mua, tức mình nó mới rao: "Ai mua trầu xóm Phố hôn. Trầu xóm Phố chịu khổ rồi nên vừa nồng vừa ngọt đây". Bài nầy là tự thằng Bầu sáng tác ra. Nó rao chừng vài quận thì ông già đó xuất hiện. Mới nhìn, Bầu không biết là ông điên, không phải như mấy người đứng trên đám hoa kiểng ngoài bùng binh, hát vang giữa trời nắng lửa, lại không giống như mấy ông trong chợ, miệng lẩm bẩm chửi chó mắng mèo bâng quơ. Tóc ông già dài, thưa thớt bờm xờm phủ xuống vai. Đôi tròng mắt trẻ thơ ngầu đục dấu dưới vũng ghèn tẹp nhẹp chảy hai bên sóng mũi thành dòng đùng đục, mái tóc nửa đen nửa bạc xác xơ, da đen ngầu, cái màu không phải giòn giòn như những cô gái miền biển mà lem nhem vì lâu ngày không rửa, vì gió bụi. Tay ông cầm xấp vé số quăn cả góc, bèo nhèo. Không biết ông uống cà phê hồi nào mà cái thứ nước đen đen thơm thơm đó chảy ròng ròng trên bộ râu lởm chởm, rối nùi. Nước chảy tới đâu ông già liếm tới đó, mắt nhắm nghiền, đôi môi héo queo chắp chắp ra bộ ngon lắm, vừa chép miệng ông già vừa nghiêng đầu hỏi :
- Trầu xóm Phố ? Thiệt ?
Thằng Bầu tả rằng ông già nói nhanh và tỉnh như chẳng hề mấp máy môi, như giọng nói phát ra từ cổ họng hệt mấy con cu gáy ở nhà nó. Thằng Bầu trả lời :
- Thiệt.
- Sạo. Trầu xóm Phố xanh ơi là xanh, lá bự vầy nè, ông già xòe cả hai bàn tay ra.
Thằng Bầu cãi :
- Nhưng bây giờ đất cằn rồi, trầu đâu có tốt nữa.
- Vậy ? Giọng ông như thảng thốt, rồi ông nhón một lá trầu thành kính đưa vô miệng nhá một miếng, một miếng nữa rồi ngốn ngấu cả lá, mặt ông già rúm lại, nước mắt trào ra. Ông thè đầu lưỡi đỏ hỏn ra hít hà, ừ trầu xóm Phố thiệt rồi. Tin rằng đây đúng là trầu xóm Phố, ông già lại nghiêng đầu nhìn chằm chằm vào thằng Bầu :
- Biết xóm Phố hả ?
Thằng Bầu cười híc hác, nghĩ, ông này hỏi khờ quá :
- Nhà tui ở đó chớ đâu mà không biết.
- Thiệt ? - Ông già nói bằng cái giọng ngơ ngẩn xa xôi, ở xóm Phố cũng có đình, có hát bội, ừ hát bội Phàn Lê Huê. Còn xôi nữa, xôi ngon thì thôi đi chớ, nhưng tụi bây là con nít, đợi cúng xong mới được ăn nghen, ông già chỉ tay vô trán thằng Bầu, bảo, rồi ông mơ màng, có chim làm tổ trên ngọn cây dương, chim bay vầy nè, (ông già giang đôi tay ra, quạt quạt nhịp nhàng, có lúc ông nghiêng người như lúc cánh chim chao lượn), có lấy xuống rồi, em Chín biểu đem lên cây để lại, em Chín nói, tổ là nhà của chim, mình cũng có nhà, ai lấy nhà mình mình khổ lắm. Nhưng trả nhà lại rồi mà tụi nó hỏng thèm quay lại ở…
Thằng Bầu ngạc nhiên, khi nó lớn lên, ngôi đình ấy đã không còn, ngay gần trường học, đình chỉ còn là đống đổ nát, bìm bịp leo dày bịt, xanh rờn. Mới đây thôi, chú Bảy trưởng ấp vận động đám thanh niên trong xóm dọn cỏ sân đình chuẩn bị xây lại. Bầu nghĩ chắc ông già này đi khỏi xóm Phố lâu rồi nên nhớ toàn là những chuyện năm nẳm nào không hà. Ông già chợt im lặng, dúi đầu cúi xuống xấp vé số cũ mèm, đếm lẩm nhẩm, đếm đi đếm lại cũng cỡ năm lượt, lại ngẩng lên như tính toán, suy nghĩ ghê lắm. Ngồi trong cái cảnh ế chợ, thằng Bầu cũng buồn, nó bắt chuyện với ông già chơi :
- Cái đình cũ mất tiêu rồi…
- Tổ chim mất rồi - ông già nối lời - Nhà em Chín cũng mất tiêu rồi. Sao cái gì cũng mất hết, tôi cũng mất luôn. Biết ai lấy không, ông già thì thào ra bộ bí hiểm, thằng Ngầu xã trưởng với thằng Mĩ, thằng Mĩ lông lá chớ ai. Bất chợt ông già òa khóc, không, hỏng phải tui đâu, tui có cầm súng bắn cháy tổ chim, cháy đình nhưng tôi hỏng bắn vô nhà em Chín, tôi hỏng có bắn ba em Chín, tôi không đốt nhà em Chín, không phải tôi à nghen, tôi đâu có làm được, tôi là thằng khùng mà, mấy người không thấy sao ?
Ông già ngồi khóc như trẻ con, vừa khóc vừa nấc tức tưởi. Nước mắt rửa gương mặt ông già sáng sủa trở lại, ràn rụa trên đó những nếp nhăn sâu hoắm như ai lấy dao rạch nát. Thằng Bầu chút xíu nữa đã khóc theo vì thương, thì ra không phân biệt ai điên ai tỉnh, những giọt nước mắt lương thiện luôn xa xót lòng người. Mấy người buôn gánh bán bưng ngồi gần đó đều quay nhìn chăm chắm vào ông già, có người chép miệng, "tội nghiệp ổng, cái thằng bán trầu, người ta khùng muốn chết luôn mà chọc ghẹo ổng chi mậy ?". Thằng Bầu thấy bất nhẫn :
- Thôi, đừng có khóc nữa, khóc thấy rầu thấy mẹ. Đình cũ mất nhưng mai mốt xây lại, mắc mớ gì mà khóc.
Bất chợt ông già nín bặt, ông dè dặt hỏi :
- Vậy … nhà mới có thề được hông ?
- Ủa, thề vụ gì ?
- Thề như vầy nè, "Sau nầy con mà phụ em Chín, quên em Chín, xin Thành Hoàng phạt con cho con sống dỡ chết dở đi".
- Bây giờ người ta thương nhau đâu có ai thề nữa.
- Vậy ?
Ông già xửng vửng, rồi quên mau, ông lại ngẩng lên, trên môi đã sẵn nụ cười tí toác :
- Có gặp em Chín không, sao… tự nhiên nhớ quá hà.
- Nhớ cỡ nào ?
- Còn chút xíu nữa chết.
Bầu thích cái câu "chút xíu nữa là chết", câu đó rõ ràng là có duyên thì thôi đi. Nó cười, hỏi :
- Em Chín đẹp lắm à ?
- Đẹp chút xíu nữa là chết. Đẹp lắm, như… ông già ngừng lại, ngó lom lom vô mặt Bầu như để so sánh, rồi ông già thận trọng lắc đầu, hỏng giống, em Chín tóc dài, đẹp như Phàn Lê Huê.
Bầu ngẫm nghĩ, ở xóm Phố không có ai tên Chín, đặt tên theo thứ chỉ có dì Bé Mười. Năm nay nó mười bảy tuổi rồi, người trong xóm nó rành sáu câu, không còn ai tên là Chín nữa. Nhưng nó không muốn ông già tắt hy vọng, nó cũng muốn giỡn cho vui
- Em Chín của ông điên rồi.
- Trời, thiệt hả, tội nghiệp quá.
- Ừ, tội lắm, em Chín hay ra ngoài bờ sông ngồi hát rồi khóc, bả hát vầy nè, "Sông dài cá lội biệt tăm. Phải duyên chồng vợ trăm năm cũng về". Bả mặc đồ gì hả, áo đỏ, quần xanh, đầu gắn bông lồng đèn.
- Trời ơi ? Ông già chồm lên, mắt mũi ông bắt đầu đỏ rựng, Bầu sợ ông lại khóc - Em Chín làm cô dâu đó, trời ơi, hồi nhỏ tôi hứa mà, khi nào hai đứa cưới tôi hái bông lồng đèn tặng em, tội quá, em điên còn chút xíu nữa chết mà em còn nhớ tới tôi, thiệt tình.
Sao mình giởn kỳ vậy ta ? Bầu tự hỏi. Ông già mếu máo hỏi :
- Em Chín của tui đâu rồi ?
- Ở xóm Phố.
- Sạo, xóm Phố không còn, em Chín không còn, tôi không còn.
- Còn mà.
- Thiệt hông ? Thề đi.
- Thề, nói dóc sẽ trúng số độc đắc.
- Vậy em Chín đâu rồi ?
- Trốn rồi.
- Vậy ? Ông thốt lên chưng hửng rồi lẩm bẩm, chắc vậy quá, chắc là chui vô kẹt bồ lúa rồi ngủ quên luôn trong đó. Em sợ tui sao ? Sao em sợ tui vậy ? Tui đi kiếm hoài mà không gặp, tôi nhớ lắm, em Chín ơi.
Ba tiếng "Em Chín ơi" ông già hờ lên ai oán, thảm thương, như đã từng thương nhớ rất sâu, đã từng sầu thương vằng vặc. Bầu không biết diễn tả như mấy đứa học trò ngoài chợ (khi nói tới câu này, thằng Bầu liếc con Quỳnh một cái) nhưng lúc đó nó nhận ra trong cái ông già khùng khịu này có một cái gì đó bình thường quá, (Quỳnh vọt miệng, rất người), ừ, thằng Bầu gật gù kết luận, rất người.Thằng Bầu lại nhìn Quỳnh, "ước gì trên đời này tui gặp được người tui thương, sau này có điên tui nhớ cho đỡ buồn". Người trong đám giỗ bực quá gắt lên, cái thằng, toàn nói bậy, trở lại chuyện ông già đi, có phải ổng tên Lạc không, ổng có nói ổng tên Lạc không?
- Không. Lạc là ai vậy ? Trời ơi… - Thằng Bầu nhảy dựng lên, có phải cái ông lính đồn Chệt bắn chết ba dì Diệu đó hôn ? Nhưng dì Diệu tên Diệu chớ đâu có phải em Chín gì đó. Hỏng phải, chắc hỏng phải, mà, hoàn cảnh cũng giống, con có hỏi sao mà bác không về xóm Phố tìm em Chín, ổng tội nghiệp lắm, ổng rút người lại, lấy tay bưng mặt, đôi bàn tay ông đầy ghẻ chóc, bông như da cắc kè, qua kẻ tay, ông già chỉ chừa ra một đôi mắt hấp háy, đầu lắc lia lịa :
- Hỏng biết đường đi. Xóm Phố không còn, đình không còn, em Chín không còn, tôi không còn. Mà, tôi không dám gặp em Chín, tôi … tôi bắn vô ba em Chín vầy nè… - Ông già chừa một bàn tay che mặt, bàn tay kia hướng thẳng về phía trước, co ba ngón lại, mắt dại đanh đi, miệng ông hô "Pằng ! Pằng" rồi ông già ngẩn người ra như để nhớ lại và suy nghĩ, ba em Chín chết, em Chín đứng đó, em Chín la lên, trời ơi, đồ giết người, chắc là sợ con không hiểu, ông già giải thích thêm, cổ nói tôi là đồ giết người đó chớ hỏng có nói ai đâu, cổ nghỉ chơi, đâu thèm kêu tôi bằng anh nữa, nhưng… ông mếu máo, tôi không bắn thì thằng Ngầu xã trưởng giết cổ chết, tôi… tôi đâu có đành, rồi cái… ông già lại trầm ngâm, bảo, ba em Chín nằm vầy nè, con không kịp nắm tay ông già lại, ông nằm lăn ra nền chợ vương vãi rau dưa thối úa, chân ông co lại, tay cũng co, miệng há ra, bọt mép sủi tăm tăm rồi chảy ròng ròng hai bên khóe miệng. Ông già diễn lại một cái chết bạo liệt nhất mà từ khi lớn lên tới giờ con mới được thấy. Bà già bán muối nhìn con, lắc đầu, miệng làu bàu, Nữa, chọc ổng nữa rồi, cái thằng coi hỏng được". Con tính cãi, con có chọc gì đâu, nhưng thôi, con lại gần đỡ ổng dậy, nhưng lắc hoài ổng vẫn cứng đờ. Con giật mình thảng thốt áp tai lên bộ ngực ốm tong thoi thóp mấy nhánh be sườn của ổng. Con nghe ổng biểu nhỏ : "Không nhúc nhích được, chết là không nhúc nhích".
- Không, con cười, vỗ về, bác còn sống, bác ngồi dậy đi.
- Thiệt sao ?
- Thiệt mà.
- Vậy sao ba em Chín nằm như vầy rồi không dậy nữa ?
Ông già lại khóc rưng rức. Con thở ra nhìn mọi người cầu cứu, có ai không ? có ai biết làm sao ông già ra tới nông nỗi này không chớ con không biết, con có biết gì đâu, mới mười bảy tuổi mà, học hành hỏng tới đâu, chăn trâu tưới trầu là giỏi thôi, làm sao mà con biết được những bi kịch, những mất mát xé lòng của cuộc chiến tranh ngày trước chớ. Mấy cậu coi phải không ? May mà con đỡ ổng ngồi dậy được, mới đó mà đã hệch miệng ra cười lơ láo rồi, trên gương mặt còn chảy tràn nước mắt. Ông phủi đít phẹp một cái, từ giã trống không, thôi, đi nghen. Có người hỏi, đi đâu vậy ông già, ông cười, đâu có biết. Con tự dưng nói vói theo, "Bác ơi về xóm Phố đi, em Chín đang chờ bác đó". Đó là cái câu tử tế nhất mà hồi nào giờ con mới nói được.
Thằng Bầu kết luận. Cũng là kết thúc câu chuyện vui rằng xóm Phố có một người điên.
Mọi người im lặng, mà không, chỉ người lớn im lặng, bởi vì họ vừa hiểu ra tại sao mấy chục năm rồi có một người không về xóm Phố, còn bọn trẻ thì bàn tán xôn xao, vậy là ông già đó vì bắn ngay trân ông già vợ cho nên phát điên chớ gì, phải hông mậy, hay là ổng bị Thành Hoàng phạt, nếu bị phạt là phạt oan rồi, ổng điên mà ổng nhớ chớ có quên đâu. Thằng Bầu lắc đầu, rảnh ra chợ hỏi ổng, tao đâu có biết, suy nghĩ lại, ông già thấy thương thiệt, coi vậy, điên mà đàng hoàng, chung tình, ở xóm mình chỉ còn mình dì Diệu chưa lấy chồng, dì Diệu à, con mà đưa dì lại với ổng con nói dì là em Chín, biết đâu ổng lành bịnh rồi sao, dì Diệu ơi, dì Diệu…".
Nhưng dì Diệu không còn ngồi trong góc ván nữa, mọi người túa đi tìm, con Quỳnh thấy dì đang ngồi vịn lu nước ngoài sàn lãn, lưng dì cong oằn lại, vai dì run. Quỳnh giật mình, đỡ dì dậy, mặt dì đầm đìa nước, Quỳnh lấy khăn lau mặt dì rồi mà gương mặt già nua nhăn nheo vẫn ràn rụa. Thằng Bầu đứng đực ra kêu lên :
- Ý, trời ơi, dì Diệu khóc. Dì đừng khóc, dì ơi, con giỡn thôi mà, đời nào con gã dì cho ông khùng đó, tụi con thương dì mà.
Cậu Năm, dì Bé Mười nạt, mấy đứa nhỏ im đi, rồi chạy lại mỗi người một bên ôm chầm lấy dì Diệu, Dì Bé Mười biểu, đừng khóc nữa, chị Chín ơi, thôi đừng khóc nữa, chuyện ngày xưa đã qua rồi. Có tha thứ được thì tha thứ đi, cho lòng nó thanh thản. Dì Diệu nức nở, tui đâu biết là ra nông nổi vậy…
Quỳnh không hiểu gì hết, hỏi Bầu hiểu không, Bầu cũng không, vậy mà nói rành người trong xóm như rành sáu câu vọng cổ. Í, đâu có nói vậy được, thế hệ mình với thế hệ ông già bà cả này thiệt xa nhau quá.
Sáng sau, thằng Bầu lại chỗ dì Diệu bảo, lúc này cũng chưa vô vụ, chưa có gì làm, để nó theo dì ra thành phố tìm người. Con Quỳnh ngạc nhiên, tìm ai ? Ông già điên đó chớ ai. Trời đất, kiếm ổng làm gì ? Làm "đàng trai". Trong thành phố nhỏ, hai đứa Bầu, Quỳnh gặp biết bao nhiêu người điên dại, cũng có nhiều người điên biết khóc, nhưng người trăm năm của dì Diệu vẫn biền biệt bóng chim tăm cá. Có một hôm thằng Bầu chiêm bao thấy lưng một người cầm áo lội qua sông Thầy Ký, bên kia bờ, là xóm Phố, ngôi đình xóm Phố mái cong cong, chim về đậu mờ mờ trên nóc, dưới gốc dương là bóng người con gái tóc dài, tỉnh dậy không biết có phải ông già điên không, chắc là ổng rồi, chớ người bình thường thể nào cũng qua xóm bằng cầu hay qua đò chứ ai lại lội sông.
Xa xóm mũi

NGUYỄN NGỌC TƯ
Có nhiều thứ thằng Đức biết mình không thể mang theo. Tiếng ghe cào đi đêm ra biển ầm ì, tiếng cơm sôi ì ạch trong bếp, tiếng nước xối ào ngoài mái đặt trên sàn lãn làm bằng cây đước. Ngọn khói sớm chiều êm ả cuộn, êm ả tan. Rồi cả cái xóm Mũi này nữa, không thể gói vào trong giỏ để lâu lâu hé ra nhìn cho đỡ tủi.
Thằng Đức thức dậy từ sớm. Con gà đậu trên cây mắm cụt đầu gáy te te, con Bé Em mớ quẫy đạp ầm ầm trên bộ ngựa gỗ, đâu đây những hơi thở của ngoại, của má lào khào. Thằng Đức bỗng thấy thương quá, thương hết thảy. Thương nhất là ông ngoại. Hôm qua ngoại xốc nó chở ra biển. Ngoại nói :
- Ngoại cho con coi lại biển xứ mình, mai mốt đi xa, con phải nhớ.
Bầu trời rộng chan chứa. Biển mênh mông day dứt. Ngồi trên xuồng thả bập bềnh trên sóng, thằng Đức dựa vô ngực ông ngoại ngước mắt nhìn ra xa. Ngoại ôm nó thả xuống bãi bùn. Ngaọi biểu nó chơi cho thỏa thích. Thằng Đức ngâm mình trong nước, thấy mình vững chải hẳn lên, nước biển che giấu đi đôi chân tội nghiệp, thằng Đức quên đi nỗi tật nguyền.
Thằng Đức được ông ngoại chỡ ra biển hoài nhưng chỉ hai lần nó nhớ nhất. Lần thứ nhất là năm nó tám tuổi, cơn bão lớn tàn phá qua xóm Mũi. Cha nó đi biển vĩnh viễn không về. Ông ngoại chở má, chở nó ra cửa biển, ngóng hoài, chờ hoài, vô vọng. Má không bao giờ khóc trước mặt nó, nhưng đêm về, thằng Đức nghe má nấc những tiếng lỡ làng.
Bà con xóm Mũi ai cũng nhìn nó vừa thương vừa tội, "tội nghiệp, mới tí tuổi đầu, đã có tật rồi mà còn mồ côi mồ cút". Nhưng thằng Đức tự ái trong lòng, nhất là với những ánh mắt nhìn nó - một kẻ tật nguyền. Nó cố tỏ vẻ mạnh mẽ lên, để cho ông ngoại với má vững lòng, nó sẽ thay ba làm trụ cột trong nhà. Ông ngoại biết ý nó, ông thương nó rứt ruột.
Những buổi chiều, đám con nít trong xóm tụm lại chơi chạy rượt trốn kiếm trước sân, ông ngoại hay nhìn thấy thằng Đức ngồi bệt xuống sàn nhà, dựa lưng vào cây cột đã bóng nước nhìn các bạn một cách thèm thuồng, ông ngoại kiềm nén nỗi đau rưng rức trong lòng, xoa đầu nó, an ủi. Ông ngoại hay nhắc lại, vì sao cơn sốt bại liệt đến với nó hồi nó mới bồng nách đã cướp đi đôi chân rắn rỏi để chạy nhảy với cuộc đời. Nghe xong, nó bảo, "mai mốt con học thiệt giỏi cho ngoại coi". Hỏi nó học giỏi để làm gì, mặt nó đăm đăm lại, giọng nghiêm túc ghê lắm, "Làm bác sỹ, con dứt khoát sẽ làm bác sỹ. Con sẽ về xóm mình, để chích cho con nít bịnh". Cả nhà biết, nó không quên câu chuyện buồn hồi ấy, xã chưa có bác sỹ, tốc lên chở thằng Đức về tới bệnh viện huyện mất sáu giờ đồng hồ, với bấy nhiêu thời gian thì đã trễ tràng.
Biết mình không thể ra biển vật lộn cùng tấm lưới cây câu, với đôi chân đã quẹo quặt, teo ngắt, thằng Đức học giỏi thiệt là giỏi, giỏi nhất xóm Mũi, rồi giỏi nhất xã. Không đi lại được nhiều, nó có nhiều thời gian ngồi học. Những đêm thứ bảy, bà con kéo tới nhà coi vô tuyến, chưa tới chương trình cải lương thể nào cũng biểu thằng Đức vặn đèn thiệt tỏ đọc báo cho bà con nghe. Ai cũng tấm tắc khen nó sáng dạ rồi day qua đám con nít đang cãi vả om trời, "còn cái tụi này, tối ngày dang nắng khét ngẹt có thấy lo học hành gì đâu. Dốt quá cho đi chăn trâu". Mọi người cười, ở đây có trâu đâu mà chăn, ờ không có trâu để chăn thì đi biển. Tụi bạn thằng Đức cũng thôi hét váng lên mỗi trưa qua cửa, "Đi học, Đức "què" ơi", trong lòng tụi nó nể lắm.
Ở trường xã dạy tới lớp năm, không có thầy cô giáo về nên thôi dạy nữa. Thằng Đức buồn lắm, suốt ngày chống nạng đi lòng vòng trong nhà, bó hó băn hăn. Ông ngoại bàn với má nó chuyện gì đó, mà toàn là nói nho nhỏ với nhau. Rồi ông ngoại đi huyện, thằng Đức hỏi ông đi đâu, ông bảo đi thăm cậu Hai. Cậu Hai nó buôn bán ngoài đó. Lúc ông ngoại về, ông ngoại cười hơn hớn, ông nâng thằng Đức ốm nhom lên bằng đôi tay da đã nhăn nheo nhưng đỏ au rắn rỏi :
- Năm tới ra ngoài huyện học, chịu hôn con ?
Nó cũng cười, câu lấy hai vai ông ngoại lắc lấy lắc để :
- Thiệt hả ngoại, thiệt sao ?
Rồi tự nhiên đang vui nó xịu mặt xuống :
- Nhưng nhớ nhà lắm, con không đi đâu.
Ông ngoại nghiêm nét mặt lại :
- Vậy con hỏng muốn làm bác sỹ để giúp cho bà con mình sao ? Muốn à ? Muốn thì phải học, không học sao làm bác sỹ được, cái thằng… Đàn ông con trai gì mà yếu xìu, khó coi quá.
Ông ngoại nói vậy chớ, làm sao mà không nhớ được phải hông ? Hồi đó tới giờ có khi nào nó xa nhà, xa ông ngoại, xa má đâu. Ông ngoại đi giăng lưới, sạt sò ngoài bãi cũng mang nó theo. Má đi vá lưới đằng hàng xóm một chút xíu thôi đã chạy về thăm lom nó. Bây giờ tự nhiên ra chợ huyện ở với cậu Hai sao mà không buồn. Thằng Đức nó suy nghĩ ghê lắm, nhưng rồi nhìn xuống đôi chân nhỏ nhoi của mình, nó bậm môi quyết định, nó phải làm bác sỹ, để sau này nhiều em bé xóm Mũi sẽ không tủi không buồn vì tật nguyền như nó.
Nhưng càng đến ngày tựu trường, lòng nó càng bồn chồn, buồn buồn làm sao đâu á. Thương ông ngoại với má dành dụm hồi trước giờ đều lo quần áo, sách vở cho nó. Ông ngoại đã lén bán chiếc xuồng be mười để góp tiền với cậu Hai mua cho nó một chiếc xe lăn tay bóng loáng. Ông ngoại nói từ nhà cậu lại trường xa lắm, không chống nạng đi học được. Tội nghiệp, chiếc xuồng đã cùng ông ngoại, đi giăng lưới, mò tôm… Bây giờ bán đi, cũng buồn, ông ngoại ra ngoài sàn lãn ngồi, mặt ngó ra rừng, hút thuốc. Thằng Đức thấy hết, nó cảm động trong lòng lắm, càng cảm động càng tự nhủ, mình phải cố học để không phụ lòng ông ngoại, không phụ lòng má và bà con xóm Mũi này.
Nhưng chút nữa sáng, nó phải rời xóm Mũi thật rồi. Gió phăng phăng thổi qua nóc nhà lá nghe phần phật. Thằng Đức nghe má nó múc nước vô cái ấm nhôm rồi thổi lửa phù phù trên bếp. Ông ngoại chắc ngồi gần đâu đó, thằng Đức nghe má nói nhỏ :
- Chắc con nhớ nó lắm, ba à.
- Ừ, ông ngoại trả lời, nó giống thằng chồng bây in hệt.
- Con nhìn thằng Đức là như con thấy ảnh vậy. Ảnh cũng mất, bây giờ nó cũng đi xa.
- Bây… - Ông ngoại chắc lưỡi - …Bây làm sao đâu… Phải lo tương lai cho nó. Sinh nó ra mà không lo cho con cái học hành là tội lắm, bây à.
Thằng Đức cựa mình lò mò tìm hai cái nạng. Bây giờ cũng còn sớm, nhưng nó muốn thức dậy, ngồi bên má, bên ông ngoại, bên khói của nhà mình cho hả hê, chút nữa đã xa mất tiêu rồi.
Trời sáng trắng, mấy đứa bạn cùng đi ra huyện học đã chờ sẵn dưới bến, mấy đứa ở lại cũng chân trần, quần cụt chạy ra tiễn. Bà con xúm lại đông thiệt đông. Sương vẫn còn giăng trắng ngầu ngầu chỗ rặng đước sau dãy nhà sàn san sát bên kia kinh. Ông ngoại mặc bộ đồ bà ba nâu mới nhất mượn xuồng máy của chú Tư đưa bầy con nít ra huyện. Máy nổ giòn tan, chân vịt đặt bủm xuống nước, chiếc xuồng từ từ ra khỏi bến. Ông ngoại chạy chậm thiệt chậm để còn thời gian cho thằng Đức rướn cần cổ lên, kêu :
- Má đừng buồn nghe, mai mốt con về.
Ngoại cười :
- Cái thằng, thì mai mốt ngoại với má mầy cũng ra thăm. Í, mắc mớ gì mà con khóc. Thiệt tình… cái thằng… đàn ông con trai gì mà tệ quá.
Thằng Đức quệt nước mắt ngượng ngùng cười, cuối cùng, nó không quên ngó về cửa sông thầm làm một cái vẫy chào ba nó.
Phía có ba là biển.

Nhớ đất

Tạp bút
NGUYỄN NGỌC TƯ
Nửa đời xiêu lạc, thím về. Hỏi thím đã đi đâu, thím đi nhiều lắm, tới biển, tới rừng, qua biết bao con sông, nhìn biết bao là cảnh đẹp… Nhưng sao lại về ? Nhớ đất. Trời, đất mà nhớ gì, ai để ý đâu mà nhớ.
Vậy thì con Tư mầy có bao giờ lênh đênh trên chợ nổi quê mình chưa? Những buổi chiều tà, chợ nổi đìu hiu bập bềnh đậu hết một vạt áo nắng vàng hoe hoe, đỏ hoe hoe. Những người đàn bà cúi đầu ngó chăm chăm xới nồi cơm nghi ngút khói, những người đàn ông xếp bằng ngồi trên mui ghe vấn những điếu thuốc to đùng bằng đầu ngón chân cái, phì phà nhả khói lên trời. Những đứa trẻ con ngồi tênh hênh trên mũi ghe câu cá chốt, cá mè.
Con Tư mầy phải sống trên ghe thím vài năm mới được, sống trên chiếc ghe dài bảy thước ngang hai thước mới thấy buồn chân. Con Tư mầy phải coi mấy đứa con nít dưới ghe, mỗi lần ghé bến tụi nó lại chạy te te lên bờ, cuống quýt rượt đuổi nhau, những đôi chân trần trụi thoăn thoắt nhảy trên cái bến gồ ghề đất. Mầy phải biết cái cảnh trồng nụm nịu ít bụi hẹ, ít cây rau thơm, vài cây ớt ốm nhom trong cái khạp bễ mói hiểu thím nhớ đất cỡ nào.
Thím biết biển rồi, trời ơi, biển rộng hãi hùng luôn. Thím cũng biết rừng, đâu phải đám dừa nước có chút tẳn nầy đâu, rừng đước, rừng tràm kìa con ơi, ở trong đó có khỉ nè, có cọp nè, có chim về làm tổ sát dưới đất. Nhưng thím lại thèm nhiều thứ lắm, thèm cái hơi ấm khi đi ngang qua bồ lúa (cái thời thím nhỏ xíu, thím chuyên chui vô kẹt bồ lúa ngủ trốn đòn), thím thèm cái mùi nước đái của con kiến vàng mỗi lần ra mé ao hái chanh, hái tắc, rồi đám mùng tơi bò rợp trên mái lá lợp che hàng lơn nước, khoảng sân cá rô lóc láng lừ khi bắt đầu mùa mưa tới, bầy con nít nhà thím dọc sình lẫm đẫm đi bắt cá lên, và những hạt lúa còn sót lại hồi mùa trước âm ỉ nứt mầm, chen đất lên xanh nhuốt ? Con Tư mầy nói thím sướng là đứng núi nầy trông núi nọ, là mơ thấy đang chèo mũi trên một chiếc ghe đi trong đầm đìa sương sớm. Còn thím, hồi ở dưới ghe thím lúc nào cũng chiêm bao thấy lớn tồng ngồng rồi mà còn chạy xấp xãi trên cánh đồng tay kéo con diều lộng gió.
Con không biết sao, những ai sinh ra lớn lên, lấy vợ, lấy chồng trên ghe mới quen, mới không nhớ đất, chớ thím từ đất ra đi mà, thím không thèm, không nhớ sao được.
Nhưng sống trên chợ nổi lâu vậy lên bờ cũng nhớ, con người ta kỳ cục thiệt. Những âm thanh ồn ả buổi sớm, đìu hiu buổi chiều. Tiếng ti vi ghe nầy đờn "bông hoa nhỏ", trên chiếc ghe khác, ai đó dò cái đài khọt khẹt tìm chương trình ca cải lương. Vợ chồng cãi nhau, trẻ nít xúm lại đánh bài tiến lên, đứa ngồi đứa quỳ, mặt đầy lọ nghẹ. Gia đình này gia đình kia sao gần gủi như ở chung nhà vậy. Bên này ăn cơm với mắm chưng nghe rõ ràng ghe bên kia mùi cá chốt kho sả ớt, bữa cơm tự nhiên ngon kỳ cục. Đám đàn ông bên những bữa rượu sương sương tụm trên mui ghe ca vọng cổ. Gió đàn lời ca vừa buồn vừa mát, trong lao động có nghĩ ngơi, trong nỗi cơ cực cũng có khi vui sướng, nhưng không hiểu làm sao thím vẫn nghĩ về đất, con à.
Bây giờ thím lên bờ thiệt, thím làm gì hả, thím vét lục bình dưới mấy cái đìa để cho cá vô ở, thím vừa đào thêm mấy cái họng ao để mưa xập xoài vầy, cá từ ruộng lóc vô cho dễ. Thím xin rơm về trồng rau, đó, mấy luống bạc hà vừa bắt rễ, coi ngon lành hôn ? Bạc hà bắt phân rơm như thím bắt vô đất, tươi tốt bắt ham. Thím vừa ngâm giống xong, cha, hôm rồi nghe mưa đầu mùa gõ tinh tang xuống cái máng xối, thím không ngủ được, lòng nó bổi hổi làm sao đâu á, như hồi xưa, thím nằm tính coi khoảng mấy trận mưa nữa thì giúc giống cho kịp xuống đồng đất vừa chớm dẻo. Chỉ chừng năm bảy ngày nữa, ra sau vườn thím coi, lúa nó lên nhu nhú xanh cái màu đẹp dễ sợ luôn cho mà thấy. Rồi tự nhiên trong thím có lại cái cảm giác tim đập thậm thà thậm thịch mỗi lần nghe giá lúa lên xuống, vậy là dì quen được rồi, quen với đất được rồi. Thím còn tính lên giồng trồng đu đủ với gừng, tết tới sẵn của nhà thím chia cho hàng xóm ngào mứt dẻo ăn lấy thảo…
Coi con Tư bây kìa, sao thím nói cái gì con cũng nhăn nhó vậy.
Con nghe thím nói con ngán quá trời. Có đất cực thân thêm chớ sướng gì thím ?
Trời, nói tới cỡ đó mà con còn chưa hiểu, thím bịnh mà, bịnh "mê đất", hiểu hông? Không hiểu hả, vậy thì thím nói câu này cho gọn, cả đời thím chỉ thèm cái hồi nằm xuống, thím được nhắm mắt bình yên trong mảnh - đất - của - mình

Một dòng xuôi mải miết

Truyện ngắn
NGUYỄN NGỌC TƯ
Bữa nhậu gần tàn. Kim đã uống gần hết một lượt để từ giã ra về thì có anh thanh niên hào hển chạy lại hỏi thăm anh Kim nhà văn, còn dò đi hỏi lại có đúng là Kim viết mấy cái truyện về về những người chăn vịt mới được đọc trên đài. Kim gật đầu. Anh ta cười cái phào:
- Vậy thì may quá. Tôi tính xong mùa lúa này sẽ lên trển tìm cho được anh. Vợ tôi cứ biểu hoài...
Kim ngờ ngợ, không biết mình có dây dưa chuyện gì với vợ chồng anh chàng này đây. Anh hỏi, "Tôi giúp gì được cho anh ?". Anh chàng nọ ngần ngừ nhìn quanh rồi hỏi "Tôi có thể nói chuyện này cho một mình anh nghe được không?", Kim dại gì mà không gật đầu, ở lại, dễ gì rụp một cái có thể rời khỏi chiếu nhậu.
Vậy mà cũng xà quần cả buổi, chờ cho anh chàng nọ uống chào sân hết cả thảy chín ly rượu trắng mới đi được. Hai người xuống cái bến bùm xùm những lùm đậu cộ, Kim chờ tàu Khánh Hội lên .
- Anh viết mấy cái truyện chăn vịt hay thiệt, sành sỏi như người trong nghề, nghe bắt mê. Chắc anh đi nhiều chỗ, gặp nhiều người lắm. Tôi đang suốt lúa, nghe có nhà văn Trần Kim về Rạch Giồng để viết về vụ hè thu, tôi bỏ dãi chạy ra đây. Không biết anh nhà văn có biết người nuôi vịt chạy đồng nào tên Sáng, trạc ba sáu, ba bảy tuổi không ? Dà, vợ tôi nó trông gặp anh Sáng này tới mỏi con mắt nhưng trời đất mênh mông, tôi hỏi cùng khắp rồi, mà chưa thấy tăm hơi đâu hết. Chuyện của ba người chúng tôi cũng dài lắm anh à, anh biết, hai người với nhau thì dễ, thêm người thứ ba rắc rối lắm.
Tôi không biết quê Sáng ở đâu, mấy lần nghe loáng thoáng ở An Bình, Phước Long gì đó. Mùa gặt năm nào anh cũng xuôi ghe chở bầy vịt đổi đồng về xóm Rạch Giồng này. Rồi cất cái chòi lợp bằng lá chuối, quây lưới cầm vịt trên khúc đê trồng so đũa. Từ chỗ này, mỗi ngày anh lang thang lùa vịt đi ăn khắp cả vạt đồng, qua tới vườn xóm Lung. Tới khi người ta bừa đất chuẩn bị sạ vụ mới, Sáng lại ra đi.
Tôi thường trông Sáng mỗi khi mùa lúa mới về. Hai mươi hai tuổi, ông già tôi đã giao cho cái máy suốt Bình Thủy, hễ lúa chín là tôi tha thủi một mình ngủ giữ máy giữa đồng khơi. Anh nhà văn không biết chớ, ngủ trên đồng buồn thê thiết lắm. Gió thì hiu hút, gió thổi rơm rạ tả tơi, trời sao vằng vặc, đất mênh mông. Đang thèm hơi người nên gặp được ai là thương, là quý ngay người ấy. Vì vậy mà tôi quý Sáng. Những đi cho vịt đi ăn xa, chạng vạng không về kịp, Sáng cũng hay cầm vịt giữa đồng, hai đứa tôi ôm rơm tụm lại nhóm lửa, đánh bài tiến lên, uống ít ly cho ấm người. Xong rồi ca khơi khơi vài câu vọng cổ. Tôi hay hỏi Sáng chuyện đồng bãi mùa màng này nọ, về những nơi mà anh đã đi qua. Sáng lớn hơn tôi chừng năm tuổi nhưng anh già dặn, chững chạc trầm lặng hơn tôi, hơn cả tuổi của anh nhiều. Ban ngày, anh hay lội lại, khi thì xoắn tay xách lúa tiếp, lúc cho máy ăn để chúng tôi lua vội bữa trưa, có khi giúp vác cái thùng suốt lội ròng rã mươi công đất gò. Tôi ngại lắm, nhưng Sáng chỉ cười, "Một mình cũng buồn, tôi phải kiếm một việc gì đó để làm để khỏi phải mơ biến thành vịt".
Ai sống một mình cũng buồn hết, anh nhà văn à. Nhưng Sáng ngon hơn tôi nhiều, anh kể đã nuôi vịt chạy đồng bảy năm. Tính ra thì cỡ mười lăm, mười sáu tuổi anh đã dầu dãi giang hồ. Tôi ngẩn ngơ, "Sao ông hay vậy ? Sống một mình ? Tôi mà lúc cúc một mình trên đồng khơi thể nào cũng điên". Sáng cười, nhiều người ở cạnh tôi lắm chớ. Ai đâu. Không có ở đây, nhưng tôi luôn nghĩ về họ. Tôi hỏi Sáng nghĩ tới ai. Sáng chỉ cười. Anh để ý coi, những người ít nói thì hay cười, không phải vì vui mà vì để khỏi trả lời. Rồi tự nhiên Sáng hỏi ngược lại rằng tôi đang nghĩ tới ai.
Tôi nói tôi nghĩ tới Xuyến, tên của vợ tôi bây giờ. Cùng xóm mà, thương lúc nào cũng không nhớ, có thể hồi mười bảy hay hai mươi hay chừng tám chín tuổi gì đó… Tôi nói thiệt, hồi thương cổ, tôi lội tới lội lui thiếu điều sạt bờ dừa nhà ông già vợ. Tới lúc chiêm bao cũng thấy Xuyến là đậm lắm rồi. Mà chiêm bao ngộ lắm, lặp đi lặp lại hoài cũng cái cảnh tôi nắm tay em Xuyến xuống bến, nhưng không có chiếc xuồng nào, chờ một hồi thấy có người bơi lại, không thấy rõ mặt (thường thì chiêm bao ít thấy rõ mặt người), chỉ thấy cái lưng hơi khom, vai bè bè… giống như Sáng vậy, tới đó rồi thôi, giấc mơ đứt đoạn. Tôi kể cho Sáng nghe, hơi hồ nghi "Sao trong câu chuyện của tôi và Xuyến lại có ông vậy ta ?". Sáng chỉ cười, cái cười làm tôi quên mau, chuyện chiêm bao mà.
Sáng cũng biết Xuyến, chỗ anh cầm vịt ngang với hậu vườn nhà Xuyến. Sáng hay qua nhà uống trà, nói chuyện mùa màng chơi với ông già vợ tôi. Có bữa anh nằm tâm sự, "Cứ mỗi lần cặp ghe vịt vô bến thấy thím Hai khum cái tay che nắng hỏi ai in thằng Sáng, thấy cô Xuyến chạy ra cửa nhoẻn cười thấy lòng vui như được trở về nhà". Cũng nghe nhiều người thắc mắc, thằng Sáng chắc có gì với con Xuyến, chớ không sao năm nào cũng cầm vịt ngay trân chỗ đó, năm nào cũng mua cho Xuyến khi thì khúc vải, lúc là cây dù… nhưng tôi ỷ y, cũng biết bao nhiêu người lui tới nhà Xuyến rồi, thấy tôi mài miết còn chịu hổng nổi dạt ra. Sáng thì một năm ở đây chừng ba mươi bữa, tôi đâu có ngán. Với lại tôi tin Sáng lắm, chính anh biểu tôi chỗ đó được, bước tới đi. Tôi bước tới.
Bữa nay, anh nhà văn về gấp quá, nếu không thì lại nhà tôi chơi, cho biết mặt vợ tôi. Cổ đẹp, giỏi mà hiền lắm. Hiền nhưng làm toàn chuyện động trời. Tôi bị một lần, bây giờ đang ngủ nhiều lúc còn bàng hoàng thức dậy, ngồi coi có đúng người nằm cạnh mình là Xuyến không.
Có lần, Xuyến băng đồng tìm tôi, cổ khóc, đã lỡ thương người khác rồi, nên không thể làm đám cưới, không thể lấy tôi làm chồng. Không có đám cưới nào vào rằm tháng Chạp này.
Anh nhà văn không biết cảnh này đâu. Tôi ngồi chết lặng. Cay đắng, bỡ ngỡ, đau đớn, bàng hoàng không sao tả được. Có gì bằng vợ sắp cưới của mình lại hồi hôn. Tôi cứ ngồi lặng, đầu thì tăm tăm cái câu hỏi, "Vậy là sao ?"
Đâu biết. Tôi hỏi Xuyến vậy chớ em đã thương ai. Xuyến trả lời, "Anh Sáng". Tôi thuận miệng hỏi bừa "Sáng nào ?", Xuyến nhìn tôi, "Anh biết mà…".
Sao lại là Sáng ?
Sao lại là cái người mà mới hôm qua thôi tôi còn rủ anh ở lại dự đám cưới, còn nhờ anh làm chú rễ phụ cho bữa đó tôi đỡ run. Sao anh lại nhận lời, rồi bây giờ… ?
Dưng không tôi mất đi hai con người mà mình thương yêu nhất, đau lòng vậy mà Xuyến còn thút thít, "Anh đừng giận anh Sáng mà hại ảnh, tại em hết, chớ ảnh có nói gì đâu". Dường như Xuyến đọc được trong mắt tôi những tia hằn học. Nhưng mà tôi đâu có tử tế, cao thượng dữ vậy, tôi không giận Xuyến, thương quá, không thể giận, nhưng Sáng thì khác…
Mà, anh nhà văn nè, theo anh thì con vịt nó có sinh mạng không ? Bà nội tôi nói cỏ cây cũng có sinh mạng vậy là đúng ? Anh biết không, có lần vì nóng giận mà tôi huỷ đi cả thảy một ngàn hai trăm mười bảy sinh mạng. Anh nhà văn sửng sốt hả, ghê quá phải hôn. Tôi lúc đó cũng vậy, cũng cảm giác như mình đang gây tội ác.
Tôi nhớ hoài cái cảnh mình đứng trong một buổi sáng đầy sương. Xung quanh tôi vịt nằm chết sắp lớp, không khí nồng nặc mùi thuốc trừ sâu. Tôi giở một con vịt lên, dưới đôi cánh nó là một quả trứng vỡ be bét, chắc nó đã từng giãy giụa, đau đớn lắm mới đập nát cả trứng của mình. Sáng đứng tần ngần trong quây lưới, hơi ngơ ngác, như trong lòng bị đổ vỡ cái gì đó quý giá lắm.
Nhưng không phải vì ngủ một đêm thức dậy đã trắng tay, cái cảnh người làm nghề nuôi vịt chạy đồng không lạ. Dường như Sáng xúc động, đau đớn vì những lời tôi nói, cái cây bị đốn thường không ngã về phía có ngàm búa, chắc Sáng cũng không ngờ rằng người bỏ thuốc vô mẻ lúa của bầy vịt là tôi, và vì Xuyến mà tôi làm việc đó.
- Nếu chuyện Xuyến thương tôi là thật, Sáng bảo, thì đó là chuyện buồn nhất đời tôi. Tôi không chờ đợi điều đó.
Tôi không tin. Có lẽ Sáng cũng biết tôi không tin, anh hỏi tôi có muốn nghe chuyện nhà anh không ? Tôi bảo không, anh nhà văn biết, hoàn cảnh đó mà ngồi nghe chuyện gì nữa, nhưng Sáng cứ kể.
Sáng mồ côi cha từ mười tuổi, má anh cũng mất đã ba năm. Đó là người đàn bà sống hết đời không được mấy ngày vui, mấy ngày nhàn nhã. Cái xóm Rạch Giồng bé nhỏ này cũng đã giữ lại niềm vui nửa đời còn lại của má anh.
Sáng còn một người em gái (hồi trước anh hay đùa là sẽ gã em cho tôi). Nhưng hai anh em không ở chung nhà, cả một quãng dài không gặp, anh quên cả khuôn mặt của nó. Hôm cúng giáp năm má anh, bày dĩa vịt luộc phay với nải chuối chín lên bàn, lòng Sáng bất chợt cồn cào. Sáng quyết định về Rạch Giồng. Vì nhớ má và vì muốn gặp em. Hôm gặp, em gái anh đi hái ổi cho một bầy em trai, em gái nhỏ. Nó giống má anh như tạc, giống từ vóc dáng đến cốt cách. Nhìn nó đứng chia ổi cho đám em mà thấy dịu dàng, nồng hậu biết bao.
Nhưng anh chỉ đứng xa xa nhìn. Như hồi còn mạnh giỏi, má Sáng hay xuôi ghe lại trước nhà, lén nhìn. Sáng hỏi sao không chạy lại nói cho nó biết. Má anh biểu, hồi xưa, má hứa là sẽ không trở lại. Sáng nói cần gì phải giữ lời. Má anh nghiêm mặt, "phải giữ chớ, làm người ai lại phản trắc". Rồi má anh bảo, má nhớ em con thì buồn chút vậy, nhưng còn có thể nhìn nó lớn lên, còn không nhờ người ta, con nhỏ đâu còn.
Đó là đứa em mà Sáng mắc một món nợ lớn. Cái hồi nghèo không đồng xu cạo gió, không cục đất chọi chim, ba anh lại trốn quân dịch nên cả nhà Sáng bồng bế nhau xuống ghe trôi nổi làm mướn khắp nơi. Sáng còn bồng nèo nẹo bên nách thì má anh sinh em bé. Hoàn cảnh khó khăn, Sáng hồi đó ốm đói quặt quẹo, hay đau, mũi lúc nào cũng chảy nước chèm nhẹp. Em nhỏ lại bị sài đẹn, khóc ngằn khóc ngặt, không bú được. Không thể cứu một lúc cả hai, má anh buộc phải cho người ta đứa em gái nhỏ.
Nghe Sáng kể lờ mờ tôi nhận ra một sự thật. Là Xuyến. Không thể tin được, bàng hoàng quá phải không anh nhà văn. Giống như cải lương, ừ tuồng gì mà Vũ Linh đau khổ tới lăn ra đất vừa giãy vừa khóc đó, Hòn Vọng Phu, ờ, hơi giống Hòn Vọng Phu.
Vợ tôi hồi đó cũng khờ quá. Thương thầm Sáng mà không chịu nói thẳng, cứ nói xa nói gần. Hỏi Sáng sao không lấy vợ, anh trả lời, chờ cô Xuyến lấy chồng cái đã. Hỏi sao cứ mỗi lần về Rạch Giồng lại mua quà cho chi vậy, Sáng trả lời, tôi chẳng còn ai, cô Xuyến là người thân nhất. Thân nhất rồi mai mốt em có chồng, anh Sáng có buồn không, Sáng trả lời, Chuyện vui của cô mà, tôi nói buồn coi sao được, nhưng nói thiệt, tôi buồn, cô nhỏ đi rồi, đâu còn gặp nữa, năm tới tôi xuống buồn cho mà coi. Sáng trả lời thật lòng, nhưng cũng thật thận trọng từng chữ để khỏi phải hớ hênh, Xuyến thì cứ tưởng Sáng gửi tình vào trong ấy. Rồi một bữa Xuyến đi gom củi ngoài hậu vườn, gặp Sáng, Sáng bảo, anh cầm vịt ở đây hết mùa nầy rồi chắc lâu lắm mới quay trở lại. Hết mùa gặt nầy, anh sẽ rã bầy để mua cái gì có giá trị một chút làm quà cưới cho Xuyến, anh hứa sẽ ở lại đưa dâu qua tới nhà trai.
Những lời nói đó là Xuyến mủi lòng khủng khiếp, cô quyết định không lấy tôi. Xuyến nói tôi buồn còn nhiều người an ủi, nhưng Sáng buồn chỉ có một mình, tụi vịt tối ngày lạc cạc có biết gì đâu ?
Nhưng sau cái hôm đàn vịt của Sáng lăn ra chết không còn một con, Sáng đã đi khỏi Rạch Giồng. Tôi đứng nhìn chiếc ghe khuất mất sau doi dừa nướclặng lẽ làm một cuộc tiễn đưa. Tối lại, Xuyến tuyệt vọng hỏi tôi sao Sáng đi mất tiêu mà không từ giã gì cổ hết ? Tôi bảo không biết. Cứ mỗi lần có chiếc ghe bầu nào đi ngang qua, Xuyến lại chạy chấp chới theo triền sông tới khi chiếc ghe khuất dạng mới thôi. Nhớ lại cái cảnh đó, tới bây giờ tôi còn thương.
Không giống như chuyện Mỵ Châu, Trọng Thủy, Sáng đã không còn con vịt nào để rứt lông để lại để tôi với Xuyến lần theo dấu. Vậy mới vất vả.
Anh nhà văn à, anh đi nhiều, nghe truyện, tôi chắc anh lăn lộn trong giới nuôi vịt chạy đồng dữ lắm. Nếu mai nầy anh còn tính đi tiếp, có gặp anh Sáng, nhắn dùm ảnh là vợ chồng tôi chờ ở Rạch Giồng. Hồi đó, Sáng đi là để cho vợ tôi nó khỏi đau đớn, bẽ bàng, để giữ lời hứa muôn năm với ông bà già vợ tôi. Nhưng bây giờ, hết thảy mọi người đều mong anh trở lại, thâm tình cũng như nước dưới sông, có chảy đi đâu, có chém vè ở đâu cũng hợp lại một dòng xuôi chảy mãi.
Trong tập truyện Giao Thừa, NXB Trẻ
Lỡ mùa

Truyện ngắn
NGUYỄN NGỌC TƯ

Mọi người đã đi ngủ. Thằng Đất Em cũng thiếp đi rồi. Con dế vẫn còn gáy te te, Đất Em quả quyết là nó ở ngay dưới cục gạch sát miệng cống nhưng rình hoài không bắt được, thằng nhỏ mòn mỏi vùi đầu vô cái giỏ bàng ngủ khò. Chỉ ông Ba Già thức, ông không ngủ được, ông ngồi dựa mé tường rào, coi tướng thao láo như con sói đang canh giữ cho bầy đàn yên giấc, điếu thuốc to bằng ngón tay cái cháy bập bùng. Gió nhiều, rất nhiều ngọn mồ côi, lẻ loi líu ríu chạy qua. Ông già ngồi canh chừng, cũng không biết canh chừng cái gì, có ai ra đường lúc giữa khuya này đâu.
Ông Ba Già mất ngủ từ lúc trời sập sận mưa mùa. Rồi người ốm sọm, con mắt trõm lơ. Cơm chiều nghe mưa, ông bỏ đũa. Nửa đêm nghe mưa, ông choàng dậy, ra đứng chái sau, ngó về phía đồng đất tối mịt. Ngoài ấy, đất bắt đầu mềm lại, từng thớ vỡ ra, tràn xuống chỗ nẻ. Cỏ bỏ lớp áo vàng cháy, mặc vào mình một màu xanh muốt, đã ba mùa không cày bừa, đất Trảng Cò thành miền cỏ hoang, thằng Đất Anh lùa vịt đi ăn bị cỏ cắt nát da, nó cằn nhằn, "Nội tính sao chớ mấy ổng để vầy hoài chắc ruộng mình thành rừng quá, nội."
Đồng Trảng Cò rộng gần hai mươi hecta, phía bắc giáp rừng tràm, phía nam giáp biển, xóm nằm bên con kinh ra Hòn Đá Mốc. Ba năm trước, tỉnh quyết định thu hồi và quy hoạch Trảng Cò làm khu du lịch văn hóa sinh thái lớn nhất nhì đồng bằng. Người Trảng Cò ngơ ngác một chút, rồi buồn, tiếc như ai đó dứt khúc ruột mình ra, nhưng tuyệt nhiên không cãi. Hết một mùa, mời họp dân mấy cuộc rồi, tính chuyện đền bù xong, dân Trảng Cò chưa thấy nhà nước bắt tay vô làm, ngó đất bỏ không, họ hơi nóng ruột. Qua mùa thứ hai, cỏ ống, năn, lác rủ nhau lại mọc cho xanh chơi. Ông Ba Già viết cái đơn văn phong chân chất y như ông cho tám mươi sáu hộ dân trong xóm ký, lặn lội lên tỉnh, nhưng lãnh đạo bận đi họp ở Trung ương, chờ không được, ông quay về. Bây giờ trời bắt đầu chuyển sang mưa, lại mùa mới nữa đến… Trảng Cò buồn như bị bỏ rơi, nghe nói, nhà nước đã chuyển quy hoạch sang Trảng Sáo rồi, lại thêm thay đổi nhiều lãnh đạo chủ chốt, xem ra người cũ chuyển đi chỗ khác, chắc quên mất tiêu luôn. Đâu đó ở Trảng Cò, người ta tự ý cày đất, đắp bờ. Ông Ba Già cự quá trời, ông nói làm vậy còn gì là phép tắc của nhà nước, của Đảng ? Phải lên tỉnh một chuyến nữa mới được, để hỏi coi nhà nước mình có làm du lịch nữa không, nếu không, xin rút quyết định lại để cho bà con canh tác.
Lần này, Trảng Cò đi thành một đoàn chín người, ngoài thằng Đất Em cháu nội ông Ba, còn lại là ông già, những người mạnh giỏi bận ở lại để đi làm muớn bên Trảng Vịt hay ra đồng săn chuột, bắt rắn bán lấy tiền mua gạo. Ông Ba Già được coi như trưởng đoàn, vì ông mạnh giỏi nhất, nói năng mạch lạc nhất, rành đường ngoài tỉnh nhất (thì năm trước đã ra đó một lần rồi). Ông Ba nhận trách nhiệm bằng một sự cảm kích vô hạn, đứng dưới bến, trước một đám đàn bà con nít đưa tiễn, ông dõng dạc tuyên bố "Chuyến này đi không gặp chủ tịch nhất quyết không về".
Trẻ nhất : Đất Em, bảy tuổi, láu táu chạy đằng trước; người già nhất : ông Mười Hưng, bảy mươi hai tuổi, cắn hột cơm không bể (vì rụng răng hết rồi) khật khừng chống gậy đi sau cùng, đoàn Trảng Cò phải đổi ba chặng tàu đò, lội bộ vòng qua bốn con đường đầy khói và bụi. Họ xếp thành một hàng dài, rì rầm đi dưới con nắng đỏ lòm, trên người đeo theo nhiều giỏ to giỏ nhỏ, thỉnh thoảng đoàn đùn lại vì thằng bé đi đầu mãi đứng coi mấy món đồ chơi chưng trong tủ kính, những lúc ấy, ông Ba Già chạy ra khỏi hàng, bợp vô đít thằng cháu nội, ngó trước ngó sau coi có ai lạc không, cái nón vải hất ra đằng ót, để cho nắng xói vào mặt.
Đến Uỷ ban thì trời đứng bóng, mấy cục mây xám đùn lên lừ đừ trôi trên đỉnh đầu. Ông già gom đám tùy tùng đang nhễ nhãi mồ hôi lại một chỗ, rồi đi gặp anh bảo vệ. anh này vốn quá quen với cảnh kiện cáo vượt cấp thời mở cửa nên cảnh giác cao độ, hết ngó ông già có bộ mặt teo héo như đít trái cau khô rồi ngó đám đông, anh hỏi ông có hẹn trước không, Ba Già ngẩn ra, đâu có hẹn gì, tụi tôi ở xa quá mà, chuyện gấp quá chú ơi. Anh bảo vệ gọi điện thoại vào văn phòng Uỷ ban, một chút thấy anh phó phòng hành chánh đi ra, anh bảo chủ tịch đi họp Hội đồng nhân dân rồi, chắc là hết buổi chiều nay mới xong. Mà, có chuyện gì không, chú ? Ông già hào hển thuật chuyện du lịch Trảng Cò. Anh phó phòng chỉ ông qua cơ quan tiếp dân, ông lắc đầu nguầy nguậy, nói với giọng dứt khoát, "Đâu được, chú. Họ đâu biết chuyện nầy. Quyết định đó là chủ tịch ký mà, chủ tịch mới nhớ chớ", Rồi ông cười, tiếng cười như tiếng người ta bật quẹt, và từ đôi mắt sáng quắt sinh ra hai đốm lửa nhỏ.
- Hỏng sao chú em, tụi tôi chờ. Ba năm đợi được, ít bữa sá gì. Chú em đừng lo, tụi tôi có quảy gạo theo, ông quay lại hỏi một ông già trán hói, bộn hả Tư Trực, cả chục ký hen ? Nồi niêu, cà ràng, củi lửa có sẵn hết, vác mệt vô phương, sắp nhỏ ở nhà chu đáo quá trời đất.
Phó phòng bối rối đi vào, lát sau người khác bước ra. Một ông già khác nhận xét, chắc chú em nầy chắc làm lớn hơn chú nọ. Hỏi dượng Sáu bói làm sao, ông nói thấy tướng bự hơn, bụng tròn hơn, thằng Đất Em suy ra, vậy chắc bụng chủ tịch còn lớn hơn nữa. Ở phía đó ông già Ba đang nói, nhìn đằng xa cũng biết đang nói chuyện Trảng Cò, chỉ khi nhắc tới đồng cỏ hoang đó vẻ mặt ông mới u uất, nhăn nhó như vậy, mới chắc nịch như vậy : "Tụi tôi chờ.". Người kia đi vô.
Họ cắm trại lại chỗ cái vỉa hè rợp bóng cây, cạnh hàng rào, cách cốt gác chừng hai mươi thước. Lá điệp rụng đầy nền gạch con sâu, cỏ mọc lún phún theo các khe viền. Ông Ba Già biểu mọi người trãi đệm ra nằm nghĩ đi để ông vô Uỷ ban xin nước nấu cơm, lát sau, ông chổng mông om lên một dòng khói tù mù. Khói bay quanh một đám người khô hốc, đen đúa, già nua ngồi quanh đó, mớ củi nầy chắc là chưa khô hẳn nên một đầu cháy, một đầu xì ra một mớ bong bóng nước vàng quạch và một đám khói. Lúc dọn cơm ra, ông Ba Già không ăn, ông chạy tới chạy lui, ngó nầy ngó nọ, lanh chanh dặn thằng Đất Em coi chừng mắc cổ, biểu nó tỏ con mắt gỡ xương cá dùm, khô chạch nướng lên cứng đơ, mấy ông già răng cỏ lung lay, mấp môi lâu lắm mới mềm, trệu trạo tới đèn đường sáng trưng thì xong bữa.
Bây giờ ngồi chờ sáng, ông Ba Già mới sực nhớ mình chưa ăn cơm, hèn chi cái bụng kêu rột rột, xót xa hoài. Ông không để ý, vì phải suy nghĩ, ông đang tính từng lời, từng tiếng để ngày mai trình bày với chủ tịch. Phải nói làm sao cho chủ tịch hiểu dân Trảng Cò một lòng với cách mạng, làm như vầy không phải là chống lại chủ trương, nhưng nhìn đất bỏ hoang, tiếc quá, nhà nước còn phải lo nhiều chuyện lớn, có thể bỏ sót chuyện du lịch Trảng Cò, nên nay lại nhắc vậy thôi. Mất gần bảy điếu thuốc ông mới sắp xếp đâu đó liền mạch. Lúc ngẩng lên mới hay sắp mưa.
Trời trên đầu nặng chịch, mây dày, đen thui như chó mực, gió nhiều, mang theo những ngọn ướt nhẹp, lạnh tanh. Rồi nghe tiếng u u ì ì ngày càng gần, ông vừa gọi mọi người dậy vừa hối hả đi gom đồ đạc lại một chỗ, lục tìm tấm cao su. Và mưa tới.
Họ, tất cả chín người lót dép ngồi, trùm chung một tấm cao su đã cũ, thủng lổ chổ. Đây là tấm nhựa dùng để làm lều phơi lúa, ông Ba Già đã xếp cất từ ba năm trước. Lâu lâu ông lại trèo lên gác mang xuống, ngồi nhìn, mong sẽ có một ngày dùng lại, sáng hôm qua, bà Ba ra đứng ngó trời rồi biểu ông phải mang theo. May mà bà nhớ… Một người ló đầu ra ngoài, lúc quay vào, nước nhiểu xuống từ mái đầu đã bạc, chép miệng, "Chết cha, mưa bong bóng, coi bộ dai nghen, vất vả à". Thằng Đất Em chộn rộn, nó cứ thập thò coi có cá lên không. Nó nói tằng lăng tíu líu, mưa đầu mùa năm ngoái, nó với Đất Anh bắt cả xô cá rô, con nào con nấy ốm nhằng, nhớt không hà. Không biết giờ nầy ở Trảng Cò anh nó có đi soi cá lên không, không biết ở đó có mưa không.
Ờ, không biết ở Trảng Cò có mưa không? Những người già thì im lặng, nghe mưa trên đầu, nghe nước chảy dưới chân. Ông già hói đầu chắc lưỡi, giọng nói có một chút lo lắng :
- Hỏng biết đợi tới mai có gặp được chủ tịch không hen ?
- Ờ, không biết nữa, mấy ổng công chuyện quá trời...
- Gặp mà, chắc chắn gặp - Ông Ba Già bảo. Ông mằn mằn lai áo, rồi lần ra mấy hạt lúa nằm trong đó, quen tật, ông đưa lên miệng cắn, lúa bở như bột, hăng hăng mùi bùn, nhưng ông để vậy, nhấm nháp. Hồi lâu, ông thở dài :
- Cha, đi chuyến nầy về không biết làm đất kịp hôn đây. Đất ướt quá, cày không được là khổ.
- Bên Bộ Kỉnh người ta sạ khô rồi đó, nghe thằng Tám Bỉnh đi làm cỏ mướn ở bên về nói.
- Vậy á ? Họ làm giống gì mà sạ sớm vậy ta ?
- RX gì đó, hồi đó mình cũng có làm mà, hột lúa dài, có đuôi...
Ờ, hồi đó, tháng nầy mình cũng sạ rồi, quăng giống đại ra đất, chờ sa mưa, lúa nứt mầm, lú chùm rễ trắng tươi như củ hủ dừa. Mà ngộ, thôi ra ruộng ba năm rồi, vậy mà cái gì cũng nhớ. Ông Mười Hưng cười khà khà, môi run lều phều trước hàm răng trống, "Quên sao được, mậy, đám mình biết làm ruộng từ hồi còn làm tá điền cho Hội đồng Chì, hồi chưa có cục đất chọi chim, thằng Ba Già lúc nào cũng ước có miếng đất bằng chiếc chiếu thôi cũng được, để cấy lúa chơi, để chết được chôn trên đất của mình, ai nghe cũng rớt nước mắt tủi cho thân nghèo. Lúc đó mầy cũng khóc phải hôn Ba Hớn ? Ông già tên Ba Hớn cao lòng khòng, đội tấm cao su lên như cây cột cái, cự, "Đâu nè, bữa đó tui sổ mũi, vậy mà người ta đồn tới bây giờ". Mấy ông già cười khớ khớ, nhắc lại, "Làm như tụi tao không nhớ, lúc đó mầy với thằng Ba chăn bầy trâu cho Xã Chọt, phơi nắng phơi mưa ngoài đồng, riết rồi mặt thằng Ba nhăn như ông già, nên mới kêu là Ba Già, chết danh luôn. Rồi giặc giã, chiến tranh hai lượt, bận cầm súng chống giặc, tính ra người Trảng Cò mình bỏ ruộng hoang chừng ba mùa chớ gì, bị dồn ra ấp chiến lược cũng lụi hụi trốn về gặt lúa. Nghe bên miệt Năm Chòi nuôi tôm, làm giàu, Trảng Cò cũng không chịu bỏ cây lúa, thấy nghèo vậy mà bền, đói ăn cơm mới no chớ ăn tôm ngày lại ngày chịu sao nổi, ngán thấu trời. Hồi đó, lúa còn xanh cả một vạt đồng Trảng Cò, những cái bờ đất nhỏ nhẩm dấu chân người, những chiếc ghe chở vịt chạy đồng đậu dọc theo kinh khi mùa gặt đến. Hồi đó, chưa thấy mấy anh thanh niên từ tỉnh xuống đo đo ngắm ngắm để làm đề án du lịch Trảng Cò, người ở đây chưa bỏ xóm đi ghe bạn ngoài khơi, chưa vô rừng làm lâm tặc ăn trộm tràm đem bán, chưa đi gặt mướn đồng khác, đám già ở lại trông con cháu về, hỏi bên đó lúa tốt không, giống gì năm nay trúng nhất, chắc gió bữa trước lúa đổ cũng bộn hả ? Đám trẻ đi làm đã mệt, lại còn phải trả lời nên đổ quạu, "Thây kệ người ta, dính dáng gì tới mình, ba". Bọn già mới chống gậy lủi thủi ra vườn, nhớ ruộng quá, hỏi bậy, con nó cũng rầy.
Bây giờ nhớ lại, tám ông già thở dài, thằng Đất Em nhận ra tiếng thở dài của nội mình, như ông khà lúc uống trà, tiếng khà dài, khàn, làn hơi run run, mà người biết ca kêu bằng "đổ hột". Nghe cũng buồn bã, nhỏ nhoi như hết thảy mọi người. Rồi tự nhiên ông cười nhỏ, nghĩ thầm, chà, mình làm trưởng đoàn mà, lãnh đạo mà có lúc yếu lòng, tư tưởng không vững, trùng trình đâu có được, phải cứng cỏi lên để lo người ta đến nơi đến chốn chớ. Ông ngước lên dòm mấy ông bạn già đen lù lù, đằng hắng, nuốt trọng nước miếng, lấy lại cái giọng khàn ấm, "Cha, cao su chỗ dượng Năm rách dữ hả, đầu cổ ướt nhẹp rồi, đổi qua chỗ tui nè (chắc lưỡi) đi chuyến nầy mà thành, chắc phải vô chợ Bách Hóa mua bộn thứ cho mùa mới, đồ cũ hư hết trọi".
Mưa tạnh lúc hừng đông. Thằng Đất Em tung tấm cao su ra nói với vẻ thất vọng ghê gớm, "Trời đất ơi, nội coi, ở thành phố tệ thiệt, mưa vầy mà hỏng có con cá lên nào, gặp ở dưới mình..." Trời vẫn trĩu đầy nước, tối âm u, ông Ba thấy núi mây đen thẩm dựng lên một mảng trời phía Trảng Cò, ông chắc lưỡi như xót xa lắm, điệu nầy dưới mình mưa lớn dữ, đất chắc chìm hết rồi, đồng chắc chỉ còn loi ngoi cỏ, muốn cày, bừa cũng khó lắm đây. Ông Ba Già nghe ruột mình nôn lên, từng khúc, từng khúc, nghẹn ứ đến mức ông không lên tiếng được. Ông Mười Hưng than thở : "Thèm trà quá mấy ông ha ?". "Ờ thèm, hai bữa rồi có hớp được ngụm nào đâu, hèn chi thấy bải hoải trong mình quá chừng, mở con mắt không lên". Chỉ ông Ba ngồi lặng, đốt thuốc, mắt ngó về phía cổng Uỷ ban, người căng ra như sắp đi đánh trận. Lát sau, anh cán bộ văn phòng hôm qua ra và ái ngại thưa :
- Kẹt quá chú ơi, sáng nay chủ tịch bữa nay phải dự triển khai chỉ thị gì đó, chú hẹn cuối giờ chiều. Chú chủ tịch dặn mời mấy chú vô Uỷ ban ngồi nghỉ đỡ.
Và Ba Già, trưởng đoàn Trảng Cò, ông già có gương mặt khắc khổ, nhăn nhó nhất, mạnh giỏi nhất, ăn nói văn vẻ trơn tru nhất bỗng dưng hức lên, khóc ngon lành :
- Vậy là đất Trảng Cò trễ thêm một mùa nữa rồi, mấy chú ơi.

Chơi một mình

Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư
Xe đứt sên cứng ngắc giữa dốc cầu, nắng ong óng trên đầu, điện thoại bảo cuộc họp đang chờ, mà bài đã xong chưa vậy bà ơi, báo sắp in rồi. Già tôi ngồi phịch xuống mặt đường nóng rẫy, tính coi còn gì nữa, trưa ăn cơm với khách, chiều làm báo cáo, đọc bản thảo, đón con về, nấu cơm, cho con nó ăn, xong đi đám tang một họ hàng, tối về lại cho con ăn, dỗ ngủ... Bỗng thấy đời ta mỏi nhừ, mỏi mê mãi, triền miên. Bỗng nhớ bộ phim Hàn Quốc có anh đẹp trai bị xe đâm, không rõ là trúng đâu, chân hay đầu, nhưng quên mất tiêu quá khứ, quên cả chị người yêu đẹp gái, nhà nghèo. Hấp dẫn là từ cái mặt buồn nhăn buồn nhó anh chuyển qua hớn hở rạng rỡ cười. Trời ơi, già kêu lên, sao mình không quên thử chút chơi.
Và mặc kệ chiều đang đợi (và mai và mốt chực hờ sẵn tự hồi nào), già gọi điện thoại cho mấy đứa bạn hồi đó thân (nhưng bây giờ chừng ba tháng mới gặp một lần), rủ đi ăn kem. Đứa nào cũng kêu trời, tao mắc công chuyện quá. Cuối cùng, chỉ bốn đứa, mà không, tụi nó cũng đã thành con già, chạy lại, hỏi, “Ủa, Tư, bữa nay sao hứng bất tử vậy, có gì hôn ?” (ý sâu xa là bị chạm dây thần kinh nào ?). Già tôi cười ngắc nga ngắc ngéo (thì mình đã thành người mới rồi, hỏng lẻ chơi cái mặt trầm tư hoài), “Trời nắng quá chừng, tự nhiên thèm ăn kem, như hồi đó...”. Rồi già kêu bốn ly kem, dặn mình thong thả thôi, không có gì gấp gáp, ngắm cảnh đi, nhìn trời nhìn đất xa xa ấy, đừng có coi người ta chen chúc trên đường. Già tôi ngó cây me keo trước quán cũ giờ đã cỗi (y chang mình), một chòm cuối cùng xanh trơ trụi (mình đi qua lại hằng ngày có phát hiện ra đâu), nghe bốn con bạn đang thở dài nhìn nhau, sao lúc này tóc bạc quá trời. Già tôi nhắc chuyện xưa, chuyện hồi mười tám, hai mươi, thuở hay cười, thuở nhẹ nhỏm rong chơi... Bốn đứa kia tươi tỉnh lên, bảo ừ, nhớ rồi, nhớ hồi còn đi học, tụi mình mê nhứt món chè ở đây, chiều nào cũng dụ dỗ mấy thằng con trai dẫn đi ăn, đến nỗi nghe tên quán Me Keo là tụi nó nghe... lạnh túi. Ừ, nhớ rồi, thằng Bay, thằng Bướm, hai đứa cũng đẹp trai hen, tội nghiệp, vì chiều chuộng mấy đứa mình mà tụi nó nhịn ăn sáng, mặt mày xanh dờn, thấy ớn. Một đứa chen vô, “hồi đó, chè, kem rẻ hơn bây giờ”.
Kỷ niệm như mảng tươi xanh bắt đầu lém vào những tâm hồn xám ngoét bỗng bị đá văng ra cái bụp. Ba đứa bạn than vãn một cách hào hứng, ừ, lúc này gạo cá gas lên giá thấy ghê. Ký nhận lương nhìn mớ tiền, muốn khóc. Đi chợ nhiều khi ngơ ngác như con điên, không biết mua gì, ăn gì... ông già bán nước mưa hôm qua bảo chuyến tới sẽ tăng giá hai ngàn một đôi, ổng nói tại vàng lên giá. Ua nước mưa trên trời rớt xuống mắc mớ gì tới vàng. Thì vậy mới kỳ... Và con gái sắp thi cuối cấp, má đau chân, chồng lơ là chuyện nhà, chắc là có bồ nhí ở ngoài... Già tôi thầm kêu lên hai tiếng trời ơi, mình đã như một sợi chỉ đứt rời, như ngọn cây bị cưa lìa, đã quên mà đám bạn bè vẫn bị đời trĩu nặng. Nên trông cái cách ăn kem cũng thấy tội. Đáng lẽ phải nhẩn nha múc từng miếng nhỏ, sướng rơn nghe cái lạnh dịu dàng buốt qua răng, ngọt ngào tan trên đầu lưỡi, bạn của già tôi nhai sồn sột (làm như đang nhai miếng thịt trâu luộc mẻ), nuốt trợn nuốt trạo, nuốt vội nuốt vàng.
Từng người, từng người một đã mắc bệnh thắc thỏm hết rồi, thắc thỏm nói thắc thỏm cười và thắc thỏm gánh đời lên đôi vai đã bắt đầu trĩu xuống. Tội nhất là Bé Tám, yêu vội, sớm chồng, con gái tật nguyền, mới xin được một chân quét dọn trong khách sạn, nhớ bạn mà không dám bỏ việc chạy lại chơi. Sao đời đau như thế mà chẳng muốn lìa, quên cho rồi, Tám cười trong điện thoại (mà giọng nghe như chớm nghẹn ngào), “Tao mà buông xụi con tao nó biết dựa vô ai…” Cả bốn đứa ngồi đây cũng vậy, chẳng ai quên chỗ đứng của mình (mà có vẻ không muốn quên), chưa kịp ăn thêm ly đá đậu, bốn đứa ào đứng lên về, bảo chiều nay quyết toán với tài chánh, bảo mắc may gấp cho khách cái áo dài, bảo tới giờ đi gom hụi...
Già tôi cũng nhấp nhổm, giờ này, đáng lẽ... nhưng rồi sực nhớ, ủa kỳ vậy, mình đang quên mừ. Vậy thì thong dong thôi, chơi cho đã đời. Mua về nửa ký hạt dưa, già tôi ngồi ở công viên cắn đến quá nửa trưa (và biết chắc chiều thể nào cũng chảy máu cam nhưng nhẩn nha như vầy sướng quá chừng, chẳng bù những lần tọng cả nắm vô miệng, nhai xong nhả xác). Xong già tôi chạy về nhà má, giăng cái võng ngoài vườn, nhìn mây trôi, gió trôi và nắng đang trôi về phía xế chiều. Ngoài đồng có đám trẻ thả diều, ngơ ngác nhìn chị kia hát vống lên một câu vọng cổ (đơn giản vậy, mà gần mười năm ra chợ, mình chẳng có dịp nào để làm)... Sẵn trớn mắc ca, già ta đi thuê một phòng Karaoke, vặn nhạc thật to, lắc lư gật gù cho đã đời, nhưng tới lúc tung tẩy ra về, ghé rạp chiếu phim, lòng bỗng se lại, thấy chơi một mình hơi... buồn. Sực nhớ cái anh chàng hồi xưa đã từng nói yêu mình, đã viết vô lưu bút mình hai câu thơ (sáo dễ sợ ) “Trăm tuổi không phai tình vụng dại. Ngàn năm thương nhớ mãi người xưa”...
Người tối tối hay leo lên tầng thượng của trường để ngắm trăng sao, chiều nghe chuông nhà thờ đổ, người biểu tôi nhắm mắt lại mới nghe hồn mình thấm đẫm âm thanh buồn bã và trong trẻo đó, tôi tưởng sau này người sẽ làm nhà thơ. Ai dè... Già tôi đứng trong nhà người, nóng la mày mặt, sững sờ ngó mái tóc xanh dày giờ chớm bạc, nhắc chàng - lãng - mạn xưa, mà như không tin được cái người đó bây giờ đang ngồi đây, đang cười nhấp nhổm, nhấp nhổm ờ ờ, vậy ha vậy hả. Chớ tâm trí đâu khi heo dưới chuồng đang đói, chúng la eng éc như ... kèn. Chàng nhấp nhổm biểu em ngồi chơi anh đi trộn cám cái đã. Vợ chàng đang đứng bếp nấu nồi cặn cơm, cứ tần ngần, ngại thiệt, lâu lâu chị lại chơi mà bầy heo quậy quá trời. Già tôi đứng giữa mù mịt khói, nhìn chàng đang hùng hục làm lụng, cám vương trắng tóc, tự nhiên nghe lòng buồn thê thiết, buồn không xiết, bảo thôi, về.
Ra cửa rồi không biết đi đâu, lòng rỗng không, vô vị, thấy mọi người nhọc nhằn đi tới còn mình ham chơi mà quay lại đằng sau, phía không có ai, phía một mình. Không có gì để làm, không sống cho ai, vì cái gì… để đi qua tháng ngày dài phía trước.
Bỗng nhớ quá cái gánh đời vừa thử cho rơi bên cỏ...

Duyên phận So Le

Truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư

Một bữa gió dầm dề, khách vắng teo, mười ba nhân viên khu du lịch văn hóa So Le tổ chức nhậu nhẹt, xong rồi thi coi ai có cuộc đời buồn nhất. Mới biết, dì Chín nấu bếp hồi nào giờ chưa từng biết yêu ai, con Mỵ nghèo, toàn mặc đồ cũ của chị Hai, mười tám tuổi mới vung vinh được bộ quần áo của chính mình, Hường thì yêu thầm nhớ trộm ông thầy dạy toán... Xuyến kể sau cùng, bằng cái giọng hết sức điềm nhiên, cô nói mười bảy tuổi có yêu một người, yêu đến nỗi bỏ cha mẹ theo tình. Mười tám tuổi thằng nọ phụ phàng, bỏ cù bơ cù bất giữa chợ. Lúc ấy đã không còn đường về nhà nữa...
Mọi người rưng rưng bảo thôi, khỏi kể thêm khúc sau mầy cũng xứng đáng là người có cuộc đời buồn nhất ở So Le này rồi. Rồi cả bọn lặng lẽ ngồi nghe gió thốc qua lòng, rúm ró nỗi cô đơn. Trời ơi, thêm một mùa gió Đông nữa mà chưa người nào lấy được chồng. Tuyệt vọng như dì Chín nấu bếp đã đành, còn Mỵ, còn Lam, còn Hường… và cả Xuyến kia nữa, cô sắp qua khỏi thời con gái mất rồi.
Mà ngộ, chỉ Xuyến là không xao động gì hết, lúc gió về. Kể chuyện mình xong, cô đứng dậy, đóng hết các cửa sổ, lau sàn nhà, trải khăn lên bàn, xếp ghế cho ngay ngắn. Ngang qua phòng anh Năm, Xuyến vào coi có quần áo dơ không rồi gom ra sàn nước ngồi giặt, cằn nhằn anh sao để cổ áo thâm kim. Dửng dưng, bởi không còn gì để trông đợi, bởi Khởi đã thật sự không quay lại nữa rồi ?
Hay bởi những mùa gió chẳng còn gì để lạ, Xuyến tới đây lúc khu du lịch mới hình thành, giám đốc Thuỵ hay bảo, Xuyến là bậc “khai quốc công thần” của So Le. Chân bước lên bờ, thấy vợ Thuỵ đang ẳm con ngơ ngác trước mênh mông hoang vắng, không sợ đã đành, đằng này, Xuyến mừng húm. Cụm nhà nghỉ lọt thỏm cuối bìa rừng. Biển đằng trước. Và gió lộng lồng trên đầu. Ở đây là cuối đất, xóm làng gần nhất cũng cách hai vạt rừng, sau lưng So Le chừng nửa giờ đồng hồ là trung tâm xã, thêm ba giờ để đến huyện, ra tỉnh mất nửa ngày. Tàu đò thường quăng lên khu du lịch những người khách xốc xếch, lử lả đường xa, họ cuống quýt ngắm rừng xanh ngời ngợi trên đầu, lýnh quýnh ngó những con thuyền dập dềnh thăm thẳm đằng phía biển. Nôn nả chạy ra mốc tọa độ chụp hình, hối nhà hàng dọn cơm ra. Vừa ăn vừa coi đồng hồ, tính xem thêm chén nữa thì có kịp chuyến đò trưa không. Vội vậy, nhưng vẻ thoả mãn hiện lên trên nét mặt, vì chụp được cái hình ngay chỗ panô vẻ chữ Mũi So Le tổ bố để về khoe với bạn bè, vì được móc cục đất khóc ồ ồ, ôi giời ơi, đất thiêng của ta ơi, đất thương đất nhớ ơi, sau đấy thì làm thơ.
Bọn Xuyến cố nín cười, thấy lòng vui, dù biết với những du khách này, chẳng thu lợi nhuận gì nhiều. Nhưng có họ cũng đỡ thèm người, đỡ thấy mình giống khỉ. Rồi khu du lịch được vực dậy, bắt đầu từ một nhà hàng thuỷ tạ ngoài bãi bồi, cụm pa nô tiểu cảnh, những con đường xi măng giả gỗ ngoằn ngoèo luồn sâu vào rừng… Mũi So Le ngỡ ngàng dụi mắt đón những du khách cười nói bạo liệt, đạp mũi ca nô lên bến. Họ ở lại lâu, nhậu lâu, ca hát tưng bừng…
Nhưng đời đám nhân viên phục vụ bỗng buồn hiu. Khách đến, khách say, tán tỉnh, hôn hít họ rồi về (thì ca hay, phục vụ chu đáo, nên khách thưởng chơi vậy mà). Người ở lại chua chát nghĩ, điệu này rồi sẽ khó lấy chồng, đáng ra đôi má này đôi tay này phải để cho người mình thương iu ấp. Có ai yêu mình, tin mình, chịu cưới mình khi suốt ngày mình đưa mặt cho người ta hôn hít (và cả đáp lại người ta, nếu có yêu cầu). Bà con ở đây cười cợt, dè bỉu đã đành, tệ như mấy anh chàng thợ xây nhà thuỷ tạ ốm tong teo, đen nhẻm vậy mà không thèm chọc ghẹo một lời. Không biết đã đành, thấu hiểu, yêu thương như Khởi một bữa còn đập đàn bỏ Xuyến mà đi.
Chuyện đó cũng đã lâu, nhắc lại, Xuyến cười, quên mất tiêu rồi (giọng như quên cái nón, cái khăn, cây bàn chải đánh răng…). Chiều chiều, nó hay ra cái bến trước quán cà phê nhỏ của vợ chồng giám đốc Thuỵ, ngó xa theo con rạch loằn ngoằn, vắng ngắt. Như chờ đợi, như mong ngóng, như hy vọng... Nhưng có chờ đến tối chỉ chiếc đò máy chở bé Bi, con gái Thuỵ tan trường về ghé lại. Xuyến lên nhà chơi với Bi (hú vía, may mà có con bé nhỏ teo xinh xẻo này). Xuyến nướng tôm cho Bi ăn, thắt mớ tóc xoăn mềm mại của Bi thành bím, Xuyến hỏi con bé bữa nay cô giáo dạy bài gì, rồi lớn nhỏ hai người vỗ tay hát ngêu ngao. Ai nhìn thấy cảnh ấy cũng cũng thương, Xuyến leo lẻo nói cười, thấy vậy mà không phải vậy.
Mọi người bảo nhau, lòng con nhỏ Xuyến vẫn còn đau. Một bữa thấy Xuyến vào phòng Khởi, thụp xuống vùi mặt vào chiếc áo anh bỏ lại. Một bữa nhìn trời mây nước mênh mông mà đôi mắt ráo hoảnh, trống trơ, nhìn mà không thấy gì hết. Một bữa thấy Xuyến tết tóc cho bé Bi, Xuyến rơi nước mắt.
Một bữa Xuyến bảo anh Năm Già đừng hát cái bài “Lòng dạ đàn bà”, “hồi đó anh Khởi hát hoài, em nghe mắc chán rồi”. Anh Năm vậy a, vậy à, mà trách mình vô ý dữ. Ba mươi chín tuổi, sớm lấm láp bụi đời nên mặt anh Năm khằng, đen đúa, lưng hơi khom. Hôm tới đây anh vẫn còn là nhân viên hậu đài của đoàn ca múa nhạc. Hết mùa lưu diễn, bữa đó cả đoàn được thưởng một bữa nhậu tại Mũi So Le. Ai cũng vui nên say quá chừng, say vùi dẫn cho đến khi một nhân viên của nhà hàng đập cây đàn vào bức tường trước mặt. Những sợi dây đứt bặt buốt nhức giữa tiếng gãy giòn, và trong những sững sờ, cồn cào một tiếng thở thảng thốt. Mắt mở trợn trạo, mặt đỏ bừng, Khởi lia tay vào bàn tiệc (như đang đếm gà, vịt), gằn giọng : “Cô nắm níu ở đây là vì thèm khát thứ người này sao, Xuyến ?”, xong quay lưng đi một nước. Xuyến tuyệt vọng ngó theo, rồi cô run rẩy mỉm cười, lẩy bẩy rót rượu cho khách, bảo uống đi mấy anh, không có chuyện gì đâu… Nhưng cuộc vui tới đó đã tàn mất. Khách xuống tàu, anh Năm Già còn đứng trên bến, anh bảo sau này chắc nhà hàng mình thiếu người, tôi ở lại để đàn cho cô hát nghen, cô Hai. Xuyến lắc đầu cười thê thiết, “Anh tính đền cho tôi à… có phải tại anh đâu mà…” nhưng anh Năm đã quả quyết xô mũi tàu ra.
Anh ở lại Mũi So Le, làm con khỉ thứ mười ba, những con khỉ khác cứ hỏi nhau sao chuyện đi ở thằng cha này coi nhẹ hều vậy cà. Anh được phân cho một căn phòng ngó ra hành lang phía sau có nhiều dây phơi, một bữa đang lui cui dọn giường nghe Xuyến mừng rỡ, ngỡ ngàng kêu “Anh Khởi!”. Anh quay lại, Xuyến thất vọng bưng mớ quần áo quay đi. Năm “Già” xin được chuyển phòng.
Mỗi chiều Xuyến ra bến chơi, anh cũng xách dao dọn cỏ, tỉa cây gần đó, anh nói láp giáp đủ chuyện dưới đất trên trời (Như thể mình mà im lặng Xuyến sẽ khóc mất). Anh nhằn gió trên trời, thổi chi cho tội, nhằn ai phơi khô cá thòi lòi không đặng nắng để bốc mùi thúi ủm. Nhằn cả chuyện độ rày gạo cá lên giá quá chừng… (ủa, chuyện này mắc mớ gì đàn ông lo)
Có khi Xuyến hụ hợ vài câu, có khi cô chỉ mỉm cười. Ngoài chỗ nói nhiều ra (mà toàn nói chuyện khơi khơi), sao mà anh Năm “Già” giống Khởi kỳ lạ. Giống cả cái yêu lặng lẽ, lầm lì (như ông trời trả lại y chang). Đóng cái móc áo trong phòng Xuyến, thay bóng đèn, sửa chốt cửa, nấu tô cháo nóng để đầu giường lúc Xuyến say. Ngày ngày, anh Năm bắc một cái ghế ngoài bàn tiệc, phục vụ việc hát hò cho khách, uống đỡ dùm Xuyến vài ly rượu khi khách mời. Anh còn lấy xuồng chở Xuyến với bé Bi chơi dài trong rạch, hái trái ô rô. Nhiều khi Bi ngọng ngịu nói cười, thấy thương không chịu được, Xuyến ôm ghì nó, bảo sao mà em mê con nít quá chừng à, anh Năm. Anh cười hỏi sao Xuyến không đi làm cô nuôi trẻ. Xuyến lặng người đi, vì vết thương cũ trong lòng nghe rịn máu.
Khởi cũng có lần hỏi Xuyến câu ấy. Đâu chỉ vậy, nhiều bữa nhìn Xuyến quằn quại vì bị mời rượu say mèm, anh lẳng lặng ra thị xã xin sẵn một chỗ làm rồi hỏi Xuyến có đi với anh không. Xuyến cười, trời đất, đi đâu, anh. Khởi bảo, đi làm cô nuôi trẻ, bỏ Mũi So Le. Xuyến bần thần một thoáng (những đứa trẻ ấy có một mụn thịt trong vành tay, có một nót ruồi son đỏ sau gáy, có cái rốn to nhăn nhúm buồn cười như cái mặt người, cái rốn hai mươi mốt ngày mới rụng… như Bi không ?. Tần ngần, Xuyến bảo, “Mai mốt nghen anh, bây giờ công chuyện đang rối… Mấy đứa Nga, Hường mới vô làm, công việc chưa rành, khờ ịt, chỗ mình còn xây dựng tùm lum, chẳng ai coi sóc… Đó, bé Bi con anh Thuỵ bệnh đang nằm ngoài trạm xá hỏng biết chừng nào về…”.
Nhớ lại, nhiều lúc Xuyến cười, mấy lý do đó trớt quớt, chẳng ăn nhập gì với mình, hèn chi Khởi cười gằn, bỏ đi. Đáng lẽ phải nói như vầy, em thấy yêu mến, gắn bó mảnh đất này quá đi, anh à (nói theo kiểu thanh niên tình nguyện trả lời phỏng vấn trên truyền hình). Ở đây ba năm rồi, bây giờ bỏ rừng, bỏ biển, bỏ cả những cơn gió Đông cồn cào mắc dịch này thiệt không đành… Còn nữa nghen, bạn bè ờ đây ai nấy đều tốt, vợ chồng giám đốc Thuỵ cũng thấy thương quá chừng, tóc sắp bạc màu mới kiếm được đứa con, chắc là hiếm muộn, chắc là chờ đợi, chắc là chữa trị rất tốn tiền. Em biết họ từ hồi họ còn ở chợ, trước nhà có một hàng điệp đỏ, mùa nắng lá rụng tả tơi, lá xếp dày, nằm lên đấy không sợ bụi đất…
Những lời hay ho đó, Xuyến học thuộc lòng, định nói vào cái ngày anh Năm mở lời biểu Xuyến theo anh. Một bữa hai người chơi thả tàu giấy dưới bãi với Bi, anh Năm nhìn Xuyến thật lâu, trìu mến nhìn chị em vung vinh thách nhau thuyền nào đi trước, cắn môi mấy cái, nhìn trước nhìn sau (như sắp truyền tin cho nhau giống trong phim “Biệt động Sài Gòn”), anh bảo, “Cô Xuyến mê con nít vậy, sinh cho tôi một đứa nghen”. Hôm đó trời đứng gió, Xuyến nghe con ong o e trên ngọn đước, nghe mình rỗng không, nghe tim nín thít, (và bần thần tự hỏi, đứa trẻ mình sẽ sinh với anh có cái ngón chân út quẹo đơ, có những sợi lông măng dày mịt che cả bớt đen sau cổ như con bé Bi xinh xẻo này không). Xuyến cười lạt nhách, lấy tay phát nước đẩy chiếc tàu giấy đi, Xuyến bảo, em chưa tính tới anh à. Anh Năm cũng cười, nhìn con tàu trắng trôi xa, từ từ mù mịt, bẽ bàng nghĩ, dường như Xuyến không quên được một người.
Sáng sau, anh Năm từ giã Mũi So Le. Mọi người kêu trời, sao cha nội này đi ở đơn giản vậy kìa. Tiễn anh vòng vèo qua những con đường nhỏ trong rừng, ai cũng nghe tiếc, nghe đau, nói dèm với nhau (cốt để anh Năm nghe thấy), khu du lịch mình bộ khai trương ngay ngày xấu, hồi đó tới giờ không tổ chức được một đám cưới nào. Xuyến đi sau cuối, chân bời rời bước, anh Năm tần ngần hỏi, “Cô Xuyến có chuyện gì nói với tôi không ?”. Xuyến ngơ ngác một lát rồi cười, dạ, anh đi mạnh giỏi.
Và tàu mang người đi, thăm thẳm như thể nó đã nuốt chửng anh rồi. Mọi người hỏi Xuyến có sao không, Xuyến bảo, mai mốt cũng quên (như quên đôi dép, đôi giày… Và như quên Khởi). Rồi Xuyến đi gom khăn trải bàn, cuốn tất cả các bức màn, đem giặt. Nhưng vừa rảnh tay, Xuyến đã nghe buồn anh cõng buồn em đi lê thê trong dạ, cô dựa lưng vào tường, những vuông vải phơi trên đầu cồn cào, oằn oại, tơi tả gió. Xuyến ngồi ở đó, ngó nắng, bỗng thèm có con bé Bi ở cạnh, để khóc với nó chơi, để đi qua niềm đau đang như bão bời bời.
Để thấy đời có buồn thêm chút đỉnh, cũng không sao. Như thế này thì nhằm nhò gì cái hồi Xuyến xin làm bồi bàn cho một quán ăn trong thị xã, để được đi lại (chầm chậm) trên khúc đường gần đó, nhìn Bi bò lủm củm trong nhà. Bi biết đi, mẹ dắt ra sân, Xuyến giả đò lại gần khen, em bé dễ thương quá hen, mà không dám xiết chặt Bi vào lòng, áp mặt mình lên đôi má phúng phính lông tơ, vì sợ mình sẽ khóc. Bữa kia mới buồn ác, thấy Bi lon ton chơi mình ngoài sân, bỗng không kìm được, Xuyến xốc Bi lên chạy một đoạn rồi thất thần dừng sững lại, kêu lên hai tiếng trời ơi, mình làm khổ nó rồi, mình nghèo như vầy… Xuyến đưa Bi quay lại. Những khuya, ngủ không được, Xuyến lọ mọ lại khoảng sân đầy lá trước nhà Bi, rờ rẩm chỗ đất cạnh gốc điệp già. (Chỗ đó, có một sáng đôi vợ chồng nọ mở cửa ra, thấy một đứa bé đang nằm say ngủ).
Mấy chuyện này may mà Xuyến giấu chặt trong lòng, phải kể ra chắc là buồn vô địch cấp huyện chứ sá gì cái Mũi So Le nhỏ nhoi này.


Sân nhà
Nguyễn Ngọc Tư

Má buồn thiệt buồn khi nhắc lại hồi con gái má chừng mười, mười hai tuổi, "nhà mình nghèo quá, má không lo cho bây được đủ đầy…".
Tôi cười giòn, trời đất, thiệt thòi gì đâu, má quên rồi sao? Những củ khoai lang còn ấm má mang về khi tan chợ, những bộ quần áo mới má thắt thẻo chắt mót từng lọn rau, bó cải để sắm cho con, chiếc xe đạp nhỏ - món quà từ tháng lương của ba để con tới trường… Và con có cả một vạt sân vàng nắng…
Tôi nhớ, sân nhà mình chỉ nhỏ bằng hai tàng cây trứng cá. Nó lọt thỏm giữa ngôi nhà xam xám thấp tè và những giồng rau xanh biếc ngoài kia. Phía bìa sân, ba đặt cái bàn thờ Thông Thiên nho nhỏ, bát cắm nhang để giữa hai hũ gạo, muối (hết thảy mấy thứ đó cũng nhỏ xíu), buổi chạng vạng, gió phiêu phiêu mang hương nhang bay lãng đãng trước nhà. Ranh giới giữa sân với vườn rau là những cái mương nhỏ tạo thành do má tôi lấy đất lên giồng. Sát hàng ba có một luống hẹ kiểng, trổ bông tím rập rờn suốt hai mùa nắng, mưa. Nhà tôi nghèo nên trồng loại bông coi cũng bình thường quá đỗi, lúc Tết, cũng chỉ thêm bông vạn thọ, mồng gà. Nhưng tôi chẳng có gì tiếc nuối khi nhà mình chẳng có mai, đào… Vạn thọ cũng có cái vui của vạn thọ (câu này tôi học trong Gala cười 2003 : "Bánh giò cũng có cái giá của bánh giò"), bởi những cây hoa bình dị ấy chính tay tôi gieo trồng giáp biên sân. Bữa hai chín Tết, má phơi lá chuẩn bị gói bánh, tôi ngẩn ngơ nhìn "bức tranh" sân của mình, trời đất, sao mà đẹp dữ ôn vậy không biết, viền quanh những tàu chuối xanh rờn là hàng trăm đóa hoa vàng rực rỡ. Tôi đứng ở đó, tự hào nhìn sự sống nở hoa từ bàn tay nhỏ nhoi, xương xẩu của mình (bàn tay xưa rày chỉ biết cầm đũa ăn cơm và… chơi chuyền).
Rồi hoa tàn, rồi mùa nắng hết. Mưa bắt đầu xập xoài, báo mùa đang đi tới. Tôi lóp ngóp xách rổ chận bắt mấy con cá rô ốm nhách, dài nhằng, mình đầy nhớt xăng xái lóc lên sân. Mặt sân đã ngấm mưa, đất vỡ ra, tràn xuống những chỗ nẻ. Nước lên săm sắp, ba phải kê đá tảng để có lối đi vào nhà. Không còn chỗ chơi rượt bắt, nhảy dây…, tôi bắc cái ghế ngồi học bài ngoài hàng ba, lâu lâu lại ngóng phía chân trời, coi xuyên qua đám mưa mịt mùng kia, có tia nắng nào hửng lên không ? Chà chà, chỉ cần đủ ba nắng, sân - thiên - đường của mình lại ráo hoảnh, sạch bong cho mà coi.
Bây giờ nhớ lại, thấy lạ, lạ quá chừng… Sân nhà mình hồi ấy có rộng mấy đâu, chỉ có khoảng trời là lồng lộng phía trên đầu, nhưng đã đi hết cả tuổi thần tiên rồi, sao tôi vẫn còn nhớ tiếc.
Chứ không à? Những đứa bạn dễ thương, những trò chơi tuổi nhỏ, cái xích đu tự tạo mắc lên cành cây bằng mấy cọng dây chuối, con dế gáy te te hoài dưới tấm đá chẻ bên góc nhà, tôi nhớ cả tiếng má rầy khi tôi trốn ngủ trưa lén ra sân ạch đụi nhảy dây. Suốt một mùa hạn, đám vú sữa đất mọc trên mặt sân chẳng thể nào ra lá mới, coi xo cò, tội nghiệp…(thì có sáng nào, chiều nào mà đám trẻ không chạy nhảy ở đó đâu). Coi lại, hồi nhỏ, tôi lang thang ngoài sân, vườn nhiều hơn trong nhà, trên mình đầy sẹo lớn nhỏ (mà, hỏi "lý lịch" của chúng, lắm khi tôi còn không nhớ hết); da vừa đen vừa mốc cời mốc thếch vì lấm lem bụi đất. Lúc tan bạn rồi, còn một mình, tôi vẫn thường thẩn thơ ở đó, mơ màng nghe bầy chim sâu, chim sẻ ríu rít cãi nhau, ngó con bướm nhỏ vỗ cánh thấp tha thấp thỏm… Có bữa thấy tôi bưng tô cơm vắt vẻo ngồi ăn trên chạc ba của cây trứng cá, má bực quá, má rầy, "con nhỏ này chỉ thiếu nước ôm mùng chiếu ra ngoài sân ngủ"…
Má cũng thường ra sân, nhưng không phải để thảnh thơi chơi đùa, không phải để ngắm mặt trời lặn, đón trăng lên… Buổi sớm, má ra quét lá, tiếng chổi xao xác trong tiếng gà. Buổi chiều, má hay ngồi chỗ góc sân, nghe tôi nhảy từ trên cây xuống cái phịch như ai quăng bịch muối, má than (mà cười): "Con nhỏ này chắc Mụ bà nắn lộn"… mà tay vẫn thoăn thoắt bó rau chuẩn bị cho buổi chợ sớm mai. Độ gần cuối tháng 10, lúa về sân, ba má ngồi quây lúa giữa trưa, bóng hai cây trứng cá đã bị tỉa thưa cành không đủ sức ngăn bớt cái nóng bừng bừng, mồ hôi chảy dài, bê bết tóc. Mỗi lần giở đệm lúa lên, hơi nước ướt đầm mặt đất, không hiểu sao, tôi cứ tưởng đấy là mồ hôi của má ba mình. Dường như không lần nào đứng trên mảnh sân - thiên - đường của tôi, má ba không tất tả, bận bịu, lo toan…
Nên cái hồi con mười, mười hai tuổi, nhà mình nghèo, má (và cả ba) thiệt thòi nhiều nhất. Còn con lúc ấy giàu có, đầy đủ lắm, má à. Má không tin con sao?

Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn
4-11-2004

Mai Ninh giới thiệu
Mút Cà Tha là cù lao đơn độc hiu hắt nằm cuối một con sông, bên rừng mắm. Nơi có những gò đất chôn cất từ trẻ em đến người lớn, đa số chết vì bệnh chỉ do không có được một thầy thuốc hi sinh đến ở chốn này. Dân làng phó mặc cho rủi may, ngoài ông trưởng ấp. Người đàn ông đầy tình nghĩa và quyết tâm ‘‘không chết vì bệnh, chỉ vì già’’ sẽ làm gì để đem đến một đời sống an lành đảm bảo hơn cho đám dân nghèo cam phận của ông ?
Nguyễn Ngọc Tư, như từ những ngày đầu tôi đọc tập ‘‘Ngọn Đèn Không Tắt’’, với tấm áo ngoài bình dị nhưng gói bên trong tất cả sâu xa lắng đọng - trong ý tưởng lẫn ngôn từ, đã đưa tôi lên một chiếc xuồng xuôi dọc con sông Dài, như nhân vật trong‘‘Thương Quá Rau Răm’’ dưới đây, để bước vào thế giới nhỏ nhoi nhưng đượm tình người chân chất lại luôn luôn phảng phất một nỗi gì u hoài thiên cổ. Thế giới của con người tận cùng miền đất Việt Nam.
Tôi ngồi trên xuồng và để mái chèo của Nguyễn Ngọc Tư đưa đi, chị rất tài tình đổi thay nhịp nước. Mút Cà Tha buồn thế, vậy mà Nguyễn Ngọc Tư đã dấy lên trong tôi bao nụ cười cùng thú vị bất ngờ. Văn chương mà không cần cầu kỳ ẩn dụ nhưng đem được cho người đọc những xúc cảm như thế, không phải nhà văn nào cũng có khả năng,

22-10-04

________________________________________
Diễn Đàn
Tháng 11/2004
Thương quá rau răm
Nguyễn Ngọc Tư


Ông Tư Mốt chỉ cái dãi xanh mù mù trong mưa, bảo cù lao Mút Cà Tha kìa. Văn ờ, nói thấy xa quá chú ha. Ông cười, gạt ngang, xa gì, đây tới đó mấy hồi. Rồi chiếc xuồng máy nhỏ mong manh rập rờn đi trong giông gió. Người thành phố ngồi ngấm cái “mấy hồi” của ông già, mừng tủi thấy màu xanh cây cỏ cù lao đã thẫm trước mắt (mà sau mới biết mình mừng hụt). Mưa dịu lại, hạt nhỏ rức nhưng gió mạnh lên, thổi xà quần, không biết đâu là chiều hướng. Ông Tư quăng cho Văn cái can nhựa còn ít xăng, bảo, tới khúc “mứt” nghen, coi chừng lật xuồng. Mà, có kịp coi gì, Văn thấy mình ngã ập xuống nước, hành lý trôi mất, lên tới bờ anh chỉ còn trụi trơ bộ đồ đang mặc. Ông Tư kè chiếc xuồng vô sau, dậm chân dậm cẳng bứt đầu gãi tóc như thể mình vừa lỡ tay làm nên cơn giông chiều nay. Bởi ông biết rằng, mưa gió kia, sóng nước mênh mông kia và cả màu chiều đang lịm dần kia sẽ làm cho người bác sỹ trẻ này thất vọng. Bác sỹ thứ sáu về làm việc ở trạm xá cù lao. Năm người trước đã ra đi, đi vì không chịu nổi thiếu thốn. Và buồn.
Cù lao Mút Cà Tha nằm gần cuối sông Dài, trên nó một chút có một nhánh sông khác rẽ về phía mặt trời, rộn rịp được đoạn đó rồi thôi. Mút Cà Tha nằm hiu hắt, lâu lâu mới thấy bóng dáng một con tàu lớ ngớ chạy vào rồi lại tẻn tò quay ra vì lầm đường, vì không biết đằng sau cù lao, sông cụt. Ngó sông vắng vẻ quá trời buồn, nhìn cảnh cù lao còn buồn hơn. Buồn từ mùi ổi chín phảng phất trong vườn, từ giọng người ới lên một tiếng rồi bặt, dư âm còn thâm u trên các ngọn cây, tiếng cạo cơm cháy xa vẳng trong nắng chiều... Từ mé rừng mắm chống lở đất phía bên này, đi hết vườn cây này gặp được một căn nhà thì lại tiếp đến vườn cây trái khác. Cuối cùng là bãi bồi, dây khoai lang bò xùm xòa phủ kín đất. Bóng người ẩn hiện dọn cỏ dưới các gốc cây. Bên đường thấp thoáng nhiều nấm đất con con của những đứa trẻ kiệt sức vì bị đẹn mà chỉ được rơ miệng bằng cỏ mực, những đứa trẻ bệnh sốt xuất huyết chỉ chữa bằng cạo gió, uống nước mía lau, rễ tranh, những đứa trẻ mắc thương hàn bị thủng ruột vì tự do chạy ra vườn ăn ổi chua, ổi chát... Những gò đất ấy đã cũ mèm rồi, bây giờ người cù lao hiểu biết nhiều, nhưng vẫn còn chuyện rủi may, còn người bị rắn độc cắn, chết trên đường ra bệnh viện huyện. Hôm ấy, trưởng ấp Tư Mốt tuyệt vọng nắm chặt hơi thở cuối của ông bạn láng giềng trong tay, tuyệt vọng thấy nó tan đi, ông về nhà viết lên tường trạm xá “Cương quyết chỉ chết vì già”.
Nhân viên y tế nào mới về ngó câu khẩu hiệu ấy cũng cười, cũng thương. Nhưng rồi nửa khuya ngồi ăn mì gói, nghe cú kêu lẫn tiếng radio khọt khẹt (để chút âm thanh đấy cho đỡ quạnh), vạch đi vạch lại tờ báo cũ mèm, họ sực nhớ phải về quê lấy vợ, lấy chồng, sực nhớ vợ mình mới sinh, sực nhớ tội nghiệp ba má đã già… Và họ từ giã cù lao. Ông Tư Mốt ờ ờ ra chiều thông cảm, vẻ mặt cố tỏ ra không buồn nhưng hàm râu xuôi xị. Họ ngoắc đò đi rồi chú còn đứng mãi trên bến, nghĩ giận đám trẻ cù lao đã được học hành nhưng chẳng đứa nào chịu quay về.
Nên chú bảo với bốn mươi ba nóc gia sống trên Mút Cà Tha, “Bất cứ người xứ lạ nào đến làm việc ở đất cù lao đều quý, mình phải đối xử cho tử tế, thiệt tử tế”. Gặp Văn lần đầu tiên, ông nghĩ ngay, phải giữ thằng nhỏ này ở lại cù lao, thấy cái mặt buồn buồn, ngó bộ đàng hoàng. Ông nghĩ là mình có cách, không có gì sâu nặng bằng tình cảm người với người. Thì ông đã rịt chân mấy thầy cô giáo cho đám trẻ cù lao đấy thôi. Hôm Văn đến, bà con ôm lại cho một đống áo quần, góp gạo đổ vô thùng, câu cá đem rọng. Rồi mấy con cá ốm nhom, trắng dờ con mắt, lội vật vờ tới lui chờ hoá kiếp mà Văn vẫn còn ngợp trong mớ lời mời, hết nhà này đến nhà khác, bữa thì cháo vịt, cháo rắn, bữa khác tôm nướng, lươn um...
Mà, trông Văn vẫn buồn, buồn chen giữa hai cái cười, nó tranh thủ cả khi Văn đưa ly rượu lên môi và để ly không xuống (còn lúc uống thì mặt Văn nhăn nhúm lại, vẻ buồn không rõ ràng). Hỏi làm sao buồn thì Văn cười, ủa, cháu có buồn gì đâu. Hỏi nhớ thành phố à, Văn cũng cười, không, thành phố có gì mà nhớ. Hỏi nghĩ sao mà tình nguyện về đất cù lao này, nghe tên Mút Cà Tha bộ không ớn sao, Văn (lại) cười, không, có nghĩ gì đâu, cháu chọn nơi nào hẻo lánh ít người... Nghe cái giọng như đời ta là lục bình, trôi đâu cũng được, càng xa càng tốt.
Nhưng trưởng ấp Tư Mốt phải làm cho anh chàng hiểu đời anh có ý nghĩa với đất này như thế nào, thiếu anh người cù lao sống không nổi chớ chơi à. Buổi sáng có người chạy lại than nhức đầu, sổ mũi, buổi chiều thêm chứng chóng mặt, đau mình. Vài ba chị phụ nữ đỏ mặt thập thò ngoài cửa, trong bụng rủa thầm ông già Tư Mốt, đau bụng kinh cũng bắt đi trạm xá, mắc cỡ gần chết. Trưởng ấp tà tà dài theo xóm, thấy ai rảnh rỗi là kêu, đứng đó làm gì, sao hỏng lại trạm xá cho bác sỹ người ta khám. Trời đất, bệnh gì mà khám chú Tư. Ông nói tỉnh bơ, khều khều bộ râu, “Có chứ sao không, hễ mầy nhậu xỉn là ói, để vậy không tốt, lại kiếm thằng Văn đi”. Mới đầu thì Văn không biết, nên thấy có bà cụ chống gậy lại bảo bác sỹ coi bệnh dùm, Văn hỏi bà bị gì, bà cười, tui suy nghĩ chưa ra. Thuốc hết, huyện chưa kịp gởi, Văn áy náy, tần ngần đưa mấy thứ B1, B6 cho con bệnh đau bao tử, uống xong, ông này phởn phơ đứng dậy, tươi rói bảo, trời đất ơi, thuốc chú mầy quá chừng hay. Văn đâm ra lạ. Cho tới bữa đám con nít khiêng một thằng bé ở truồng lại, nhao nhác nói chim của thằng Út Chót bị còng kẹp rồi, nó sưng chù vù nè chú bác sỹ ơi. Văn mắc cười quá, hỏi sao tới nông nổi vầy, thằng Út Chót khọm rọm lấy tay bụm chỗ đau, phều phào nói trong nước mắt, “Tại bác Tư biểu ai cũng phải đi khám cho chú bác sỹ vui, chú không bỏ về thành phố. Con đâu có bịnh, tính bắt còng kẹp chơi...”. Văn chỉ kêu được hai tiếng trời ơi.
Và anh hiểu tại sao ông già ấy lại quan tâm tới mình. Chiều nào ông cũng lại chỗ Văn, rủ rỉ rù rì. Ông biết giờ đó, bà mụ Năm, nhân viên thứ hai của trạm xá đã về nhà, có thể Văn thấy cô đơn. Ông kêu đám thanh niên lại chỗ Văn đàn hát tẳng tằng tăng, dẫn Văn đi câu cá hay soi ếch trong “mà”. Văn tham gia nhiệt tình nhưng không tha thiết như người đi đường thấy vật lạ thì cầm lên, rồi lại bỏ xuống, đi tiếp. Có lần ông Tư hỏi nhà Văn ở khúc nào, Văn bảo ở chỗ ấy chổ ấy mà trong bụng buồn cười, nghĩ nói cho có chứ chắc gì ông biết, nghe cái giọng như thể thành phố nhỏ bằng cù lao. Không ngờ ông biết thật, nói hồi giải phóng, trung đội ông đánh vô đường đó. Ban quân quản còn cấp cho ông căn nhà đằng trước có khoảng sân ngập tràn bông giấy rụng. Văn hỏi, rồi sao bác lại ra sống ở đây. Ông cười, vì cái đất này cần mình. Nói xong câu này, ông lén dò xét coi thằng nhỏ có bắt được cái ý nghĩa ngầm mà ông gởi gắm không, chỉ thấy Văn ngó lên trời, ngó xa xôi, hỏi nhìn gì, Văn ù ờ, bảo nhìn chim bay, không biết tụi nó bay tới đâu, về tận đâu. Trưởng ấp Tư Mốt thấy bất an, về nhà biểu con gái sớt nửa nồi bí hầm dừa bưng qua trạm xá. Con Nga dạ rồi tong tả đi.
Nó thường được ông Tư sai bưng thức ăn đến trạm xá cho Văn. Nhiều nhất, thường nhất là món khoai luộc nóng hổi, thơm bừng. Bưng rổ khoai từ nhà đến chỗ Văn, khói mềm cả ống tay áo Nga. Trời trở chướng, gió ráo hanh nhưng nước lên, sân trước trạm xá ngập lênh láng, con Nga xoắn quần quá gối lội qua, thấy Văn, nó thưa thẻ thọt “Ba em gởi anh ít khoai” rồi về. Lần sau, nó xoắn quần thấp một chút, bảo ăn khoai đi anh. Sau nữa nó cứ để ống quần bết nước, lọng cọng đứng ngoài cửa, hai gò má rựng lên, gọi “Ăn khoai nè”. Lúc đấy thì nói ít, thẹn thò nhưng ở lại lâu, dọn dẹp lăng xăng, quét trên quét dưới, bắc nồi cơm lên bếp, làm cá nấu canh chua trái giác, sung sướng thấy mình bận rộn giống hệt mấy nhỏ bạn mới lấy chồng (tụi con gái thường hay điên vậy, tới khi xà quần chồng con thật, lại than số mình cực như trâu) . Rồi sực nhớ bếp ở nhà lạnh tanh, nó chạy về. Ông Tư ngồi trước cửa, giấu sự thắc thỏm (Và một chút lưỡng lự, mình tạo điều kiện cho hai đứa gần gủi vầy có sao không ta). Cố tươi tỉnh, ông hỏi ngay, “Con Nga lo cho anh bây xong chưa ? Mắc gì mà mầy cười suốt từ ngoài đường vào đây ?”. Dạ, con Nga chối bay, con đâu có cười, tại ba má sanh cái miệng con vậy mà. Nói rồi nó chạy vô bếp, bâng khuâng cười thêm một hồi nữa…
Chủ nhật, Văn mượn xe đạp chở con Nga đi chơi lòng vòng cù lao. Nga ngồi đằng sau, khép nép, sượng trân, sợ ai đó thấy hai đứa vầy, một hồi lại sợ không ai thấy, nó tiếc nuối chép miệng:
- Bữa nay người ta đi đâu hết trơn rồi cà, vắng dễ sợ.
Quẹo qua quẹo lại, nói đất nói trời (chỉ thiếu nói lời thương yêu), cuối cùng hai đứa ra bãi đào khoai. Văn hỏi má Nga đâu, nó cười, chết rồi, chết hồi sanh em, chết trên xuồng. Văn về ngó cái khẩu hiệu ông Tư vẻ trên tường. Thấy nó đỏ như một lời thề.
Bữa nọ Nga đem mấy cần xé ổi ra chợ huyện cân cho vựa thì gặp đám bạn Văn xốc xếch đứng trên bến. Nga cho quá giang về Mút Cà Tha (mà không hiểu sao trong bụng muốn nhận chìm xuồng cho tụi này bỏ ý định ra cù lao cho rồi). Ngồi dưới xuồng, ba thằng trai cứ khen Nga đẹp, nhìn là muốn ở lại đất cù lao này hoài, hai đứa gái bĩu môi, tủm tỉm cười, nói bữa nay dê thả tùm lum ngoài đường. Nga không để ý, những lời nói ngọt ngào càng không để ý. Xuồng cập bến, Nga xăm xăm đi trước dẫn đường, tong tả xộc vào phòng sau của trạm xá, cằn nhằn cử nhử, sao anh Văn bày tùm lum như vầy (cho tụi kia biết, ta đây đã thân thuộc với anh ấy đến mức nào).
Văn từ nhà tắm vào, nước trên tóc còn rỏ tong tong. Năm người họ sà vô ôm, nhảy tưng tưng, nói tui nhớ ông em nhớ anh quá chừng. Văn ngợp thở vì cái mùi thành thị quen thuộc của nước hoa, của son, của phấn, của khói thuốc lá, của những hơi thở gấp, của sự chen chúc, xô đẩy nhau… Và những kỷ niệm ùa về, nhớ quán cà phê chỗ mình ngồi không, bây giờ đổi tên khác rồi. Văn sôi nổi hỏi, vậy con nhỏ phục vụ bốc lửa còn không. Còn, mà chi, tụi con gái ở Phố Xưa còn dữ dội hơn, nhớ bar đó không ? Nhớ không, nhớ không… Đã vầy đã khác. Mà Hương của mầy có con rồi, mầy đã quên chưa. Không khí chùng xuống. Một đứa bạn cười, kín đáo liếc ra đằng sau, giọng xủng xoảng như ly chén bể, “Sao anh không chịu để em bù vô nhỏ Hương, ra đây trốn tình chi cho cực, em nhớ anh thấy mồ”. Đuôi mắt quét tận chỗ Nga, thấy con gái cù lao đứng thừ lừ. Nga nói thôi em về, luộc khoai đem qua anh Văn đãi bạn.
Nga qua khoảng sân đầy nước thì có ông con trai chạy theo, lăng xăng nói trời ơi mát khủng khiếp, yên tĩnh tuyệt vời quá, cảnh thiệt là thơ mộng rồi hỏi, ủa, sao không thấy em gái nói gì. Nói gì bây giờ, Nga đi lẹ lẹ đằng trước, nỗi sợ cuộn lên, mong manh, Văn dễ tin lắm, hôm trước con chồn chạy ngang Nga nói con mèo Văn cũng tin, Nga bảo cây cỏ trên cù lao này đều do chim ỉa mà mọc lên Văn tưởng thiệt, bây giờ người ta nói yêu này yêu nọ, không biết Văn của mình có tin không. Nó cố kìm để khỏi kêu lên, trời ơi, sao người ta nói chuyện yêu thương dễ ợt, giòn rụm vậy cà.
Bận quay lại trạm xá, Nga còn đi nhanh hơn, đầu nó có một mớ tro lá dừa đậu hồi thổi lửa. Anh chàng nọ rớt lại dọc đường. Bước vô cửa thấy ba bốn người nằm ngủ ngiêng ngủ ngửa, Nga nói ngay, “Ủa, anh kia chưa về hả, cha, ảnh ở đâu ta ? Em hỏng có đi chung” (cho anh đừng suy diễn lung tung, rồi hiểu lầm lòng dạ em). Ngó bộ Văn không để ý, Nga nhẹ lòng, thở ra cái phù, hỏi, anh đang làm gì đó, Văn cười coi nắng cù lao. Trời, nắng có gì mà coi, anh?
Hôm ấy Văn không trả lời, hôm sau không kịp trả lời vì Văn đưa bạn ra về rồi không trở lại. Lặng lẽ, như trốn chạy. Trưởng ấp Tư Mốt đứng ở trạm xá, thấy sau trước trống không, trong lòng nghe đau tiếc như vừa thua một ván bài lớn. Văn không từ giã ông một lời, để nói cháu về vì má cháu đang đau, hoặc cháu ra ngoài trung tâm y tế huyện một tí, rồi lên xe đi luôn cũng được, dù nhìn vào đôi mắt đang cụp xuống kia, biết người ta nói dối, dù trong tâm ông đã vẫy tay để chào xa mãi.
Trong một thoáng, ông thấy mình chùng chình, vớ được khúc cây bình bát, ông chống vào đất. Bên ngoài cái đất Mút Cà Tha dường như đã có sự thay đổi lớn. Thí dụ như con cá, lá rau, hạt gạo mến thương của người cù lao không ràng buột được một con người (như đã từng rịt chân ông lại), thì cái bóng nhỏ nhoi của đứa con gái đang tuyệt vọng đứng ngóng chờ dưới bến không có ý nghĩa gì sao ? Tuyệt không đáng gì à?

Tác giả gởi ngày 17-10-2004
Lên mạng ngày 19-10-2004
Kính thưa anh nhà báo
Nguyễn Ngọc Tư


Tôi ở tận Cà Mau, cái tỉnh lỵ hay được anh vẫn thường nhắc tới, lúc thì dồn dập, rồi bặt hơi lâu lâu lại thảng thốt kêu lên, có vụ tham nhũng, có vụ sai phạm, lãng phí mới đây, bà con ơi. Tôi quý anh, bà con Cà Mau quý anh, quý tinh thần dũng cảm, tinh nhạy, quý tấm lòng cương trực, thẳng thắn…
Nhờ anh, Cà Mau mình nổi tiếng quá chừng. Nổi tiếng mà tôi buồn, ngộ quá hen anh. Bởi người ta biết xứ sở mình không phải vì nhiều con gái đẹp (như gái xứ Tuyên), nhiều anh nông dân giỏi chế tạo máy này máy nọ (như Đồng Tháp, Tây Ninh), nhiều phong cảnh đẹp (như Huế, Hội An)… sở dĩ quê tôi tiếng tăm vang dội chỉ vì có quá nhiều chuyện… lu bu (là tôi nói cho gọn).
Mặc dù đó không phải là bộ mặt, là bản chất của miền đất này. Chúng tôi có nhiều sông, nhiều cây cỏ (dù là cỏ dại bên đường, tất cả chúng đều kết trái, nở hoa) và gió tuyệt đẹp thổi trên những mái nhà. Có bà mẹ già ngày ngày xách hàng chục lít nước màu đi hai mươi cây số chỉ để kiếm mười ngàn tiền lời mà không phải làm gánh nặng cho con cháu. Có những lão nông hiến đất xây trường, có nhiều người anh hùng sống thanh đạm đến cuối đời, mang mảnh đạn trong mình ra hàng cây bên đường trốn nóng và dịu cơn đau nhức. Một xóm nghèo nhưng quyết tâm gồng gánh nuôi con cháu vào đại học. Bà má Việt Nam anh hùng mở lớp học tình thương… Anh kiểm lâm anh dũng hy sinh vì bọn phá rừng. Làng chài nghèo lao ra biển khi nghe có tai nạn đắm tàu, ghe cào nghèo sẵn sàng quăng bỏ lưới để kịp cứu người…
Và anh nhà báo ơi, đất Cà Mau chúng tôi còn hàng triệu chân dung người tử tế, hàng trăm câu chuyện ấm lòng như thế, nhưng anh không nhắc tới, nhắc ít, hoặc vả nhét vô tuốt trong ngách nào đó của tờ báo nào đó, tít nhỏ, chữ cũng nhỏ (còn chuyện lu bu anh bày ngay trang đầu, đập vào mắt người ta những con chữ thật kêu, cực kỳ ấn tượng). Vậy là anh không công bằng rồi, anh đánh đổ hình tượng của một vùng đất tan hoang mà xây… ít xịu, làm mất nhiều mà “gỡ” lại hỏng có bao nhiêu . Để đến nỗi cảm giác ác cảm với đất này dày thêm mãi, bạn bè tôi đánh đồng Cà Mau với muôn vàn chuyện lu bu (và tạo thành một thói quen, như nhắc tới gái Miền Tây là thể nào cũng lấy chồng Đài Loan, làm gái ở Sài Gòn… mà con gái đồng bằng chúng tôi có đứa lột vỏ tôm bợt bạt, lở lói đôi tay, có đứa lả mồ hôi gặt lúa trên đồng, có đứa lặn lội từ Đất Mũi lên Sài Gòn vào đại học và có không ít đứa như tôi, gò lưng viết từng câu chữ để sống. Chà, nói chuyện mình mắc cỡ quá chừng…)
Anh nhà báo ơi, bắt đền anh đó, tôi biết phải làm sao bây giờ, khi bạn bè hỏi em gái đến từ đâu. Tôi sẽ nghe ê ê cái mặt (mà vốn nó đã dày theo năm tháng lắm rồi), chẳng đặng đừng, lí nhí, thẹn thò thưa : “Thưa, em ở Cà Mau” (và tôi làm sao tránh được ánh mắt cười cợt, nghi ngại của người thị thành khi biết tôi là gái miền Tây).
Và thưa anh nhà báo, hãy giúp giùm, tôi biết làm sao khi bảo mình là người Cà Mau mà trong lòng không còn chút tự hào nào.
Đã đăng Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn (14-10-2004)
Bản ở đây là do tác giả gửi cho trang này
(lên mạng ngày 17-10-2004)


Đau gì như thể...
Nguyễn Ngọc Tư
Ông già Tư Nhỏ thức dậy từ lúc nửa đêm. Ông rên lên một tiếng ứ hự, thấy thất vọng khi nghe lòng mình vẫn còn đau. Có một niềm khát khao đến cháy bỏng, ông vẫn thường ước ao một lần nào đó đánh giấc thật sâu, khi trở dậy nỗi đau ấy biến mất, không còn dấu vết, như thể nó chưa từng có trên đời.
Ông khẽ khàng vòng theo mé hè ra chái sau, bắc ấm nước lên bếp. Một làn khói mỏng bay lên. Lửa bắt đầu le lói ngoi lên giữa đám củi dừa rồi lại ngụp xuống, xanh lè vì gió. Trong nhà, nghe thằng Sáng vùng vằng đập chân xuống giường, ông buột miệng, “Tội nghiệp, chắc muỗi cắn thằng nhỏ”. Con Nga ngồi dậy, hỏi vọng ra, “Mới nửa đêm mà, ba thức chi ?”. Ông già trần tình như con Nga đang ngồi trước mặt mình : “Tao ngủ hỏng được. Mà, bây coi ém mùng cho kỹ, để muỗi cắn thằng nhỏ làm ghẻ à”. Nga dạ, tiếng dạ của nó nghe chớm nghẹn ngào. Giữa im lặng, gió cồn lên rúc rích đuổi nhau chạy xổm trên mái nhà, như một đám trẻ lật từng tàu lá để tìm trứng thằn lằn. Con Nga ngậm ngùi, bữa nay trời trở gió, chắc ngoài kia lạnh lắm, rồi nó ngập ngừng lên tiếng, “Mai vô nhà ngủ… nghen ba”. Ngực ông Tư hực một tiếng, trái cổ nhảy ầng ậc để ngăn cho dòng nước mắt chực trào. Ông lật bật hốt một nắm trà, bỏ vào cái bình sứt vòi, nói “Bây để từ từ, tao tính…”.
Ngay lập tức ông thôi thèm trà, ông muốn ngủ, ngủ đêm ngủ ngày, để khi thức dậy, như một phép màu, ông ngồi ngay bên mâm cơm chiều con Nga vừa mới dọn ra. Nó biểu ba uống rượu đi, bữa nay có con cá lóc nướng thiệt ngon. Mà, ba tắm làm sao con nghe hôi sình quá trời đất vậy. Ông cười, ngồi tém tẻ, mắt khoan khoái nhìn con cá lóc da vàng ruộm, “làm nghề lặn đất như tao hỏng hôi bùn sình thì hôi gì, con ?”. Con Nga cũng cười, nó lật lưng con cá lên, lấy đũa xẻ dọc, gắp vô chén ông cái đầu dính theo bộ lòng, bảo “Con giăng mùng sẵn rồi, chút nữa con đi tập văn nghệ, ba nhậu thấy vừa xỉn là chui vô mùng liền nghen”. Nói xong, nó lấy lược chải đầu, vói lấy cái kẹp tóc chạy đi, miệng hát Bông ô môi. Con Nga đã qua khỏi bụi trâm bầu mà tiếng hát vẫn chưa tan.
Cảnh đó đã lâu rồi không trở lại. Cũng như lâu rồi hai ba con ông Tư không còn quảy lon trùng ra ngồi thong thả câu cá bên gốc trâm bầu, rồi người trước mũi, người sau lái bơi xuồng đi nhổ bông súng dưới kinh. Những trưa nắng, con Nga không còn ngồi nhổ tóc bạc cho ông. Chẳng bao giờ người Xẻo Mê còn chứng kiến hai ba con họ xuất hiện cùng nhau.
Bây giờ, tối tối ông Tư uống rượu một mình (chớ có ai muốn uống với ông đâu), say rồi giăng mùng ngủ ngoài hàng ba, không quên treo cái đèn chong nhỏ (ý như nói với người qua kẻ lại, tui, thằng Tư Nhỏ, ngủ ở đây nè). Nhiều bữa mưa tạt ướt mẹp, ông ngồi hút thuốc cho đỡ lạnh, con Nga trong nhà cũng ngồi bó gối nghe giông gió. Đi làm về, đói bụng, ông lục cơm nguội dùa vô một tô ra hè ngồi ăn, Nga trong nhà bưng chén mà rơi nước mắt.
Tình cha con đã như nước chảy xuống kẻ tay từ một ngàn năm trăm mười hai ngày trước. Cái ngày con Nga rầu rầu xin ra Chợ Cũ thăm má nó. Ông gật đầu, thì người đàn bà đó hơn một năm rồi chẳng về, tưởng đã quên mất con đường quay lại Xẻo Mê. Ai dè chiều hôm sau má con Nga tong tả xông vào nhà, níu ao ông mà rằng:
- Sao anh hại đời con gái tôi đến nỗi nó phải mang bầu ?
Ông Tư kêu lên một tiếng trời ơi. Tôi là người như vậy sao, Cúc ơi, tôi mà là người như vậy à. Cúc biết tôi từng ấy năm trời, sao lại gieo cho tôi cái tội mà chỉ nghĩ đến thôi đã xấu xa… Nhưng chẳng kịp mặc cái áo khô vào để phân trần, công an xã đến mời ông đi. Má con Nga theo sau, la khóc. Mọi người bàng hoàng ngó nhau, đâu nè, anh Tư Nhỏ hồi nào giờ ở đời tử tế, chị đã dò hỏi kỹ chưa, con Nga nó nói vậy à. Không, con Nga nó không chịu nói tên người đó, bà con cô bác nghĩ coi, ai mà nó không dám kêu tên ? Ai trồng khoai đất này…
Lúc con Nga hay được thì ông Tư đã bị nhốt năm ngày. Nó trốn má về, chạy thẳng ra xã xin ông ra. Nó sụp lạy ông ngay trụ sở Uỷ ban, nó khóc, “Ba ơi, tại con hư, con làm ba khổ, ba tha lỗi cho con, nghen ba”. Ông đỡ nó dậy, cười mếu máo, “Thôi con, đứng dậy, về. Chuyện qua rồi …”.
Hồi đó, ông cũng tưởng, chuyện qua rồi. Hai ba con ông ra khỏi cổng uỷ ban, nắng bồn chồn úa vàng trên mặt sông (màu trời đó hay trở về trong những giấc mơ ông, khi giật mình thức dậy, mắt ông luôn luôn đầy nước). Dài theo dãy hàng quán che tum che bạt, người ta đứng coi đông thiệt đông. Đám con nít chạy theo vỗ tay kêu cô dâu chú rể kìa tụi bây ơi, trâu già khoái cỏ non kìa. Người lớn hả hê nhưng giả đò đằng hắng biểu đám trẻ im đi. Coi tướng tá ông Tư hiền lành, đàng hoàng vậy mà làm chuyện động trời, đúng là “lù đù vác cái lu chạy…”, hết chuyện rồi sao mà tằng tịu với con mình. Đâu nè, có phải con ruột ổng đâu. Chị Hai nhớ không thím Bảy nhớ không, hồi má con Nga xáp lại với Tư Nhỏ, bụng đã mang bầu, rồi con nhỏ Nga mới lẩm đẩm biết đi, chị ta bỏ ra Chợ Cũ, Tư Nhỏ phải làm mẹ gà chắt chiu con vịt. Tưởng đâu ông ấy thương con Nga như cha thương con thiệt lòng, thì ra ổng ghé chỗ tui mua cái bánh dừa, củ khoai lang, cây kẹp tóc… về cho con nhỏ là có ý đồ. Tưởng đâu thằng chả nghĩ tới con Nga nên không lấy vợ, ai mà dè…
Nắng tắt lịm, trời ơi, đâu rồi xóm giềng thân thuộc, đâu rồi khuôn mặt, giọng nói, tiếng cười quen, ông Tư đứng khựng lại, uất ức, trơ cứng cả quai hàm. Con Nga òa khóc, bỏ chạy tắt theo đường đồng, trên bờ ruộng lông chông những chân cỏ ống cháy trơ xương xẩu. Rồi nó chợt dừng lại, ngó cái bờ chuối mờ chìm trong đêm. Chỗ đó nhắn mắt lại nó vẫn nhìn ra một bãi cỏ mềm, mấy cành cây khô có con rắn mối bò ra bò vô. Chỗ đó, nó với anh đã mấy lần…
Nhưng bây giờ chỉ còn một mình nó ngồi đây, giữa đồng khơi, đến lúc sương xuống ướt đầm một vai tóc nó mới đứng dậy ra về. Nó gặp ông Tư giữa đường, ngọn đuốc trên tay ông đã gần tàn, cháy lom đom, phập phều trong gió. Ông bảo, “Ba sợ bây làm chuyện dại, rồi lặng đi một chút, ông thầm thì như nói với chính mình, người ta có ác miệng cỡ nào cũng ráng mà sống nghen con”. Con Nga dạ rồi bỗng giật thót lên, nhìn quanh, trong mắt thoáng hãi hùng, nó biểu ông đi trước đi, nhanh lên, đứng xa nó ra, kẻo người ta thấy…
Rồi người trước người sau, họ trở về căn nhà nhỏ bên kinh Xẻo Mê. Căn nhà từ đây trở đi nằm chơ vơ trong ánh mắt cười cợt, trong lời đàm tiếu của người đời. Ngày nào cũng vậy, ông già Tư Nhỏ đi làm từ sáng sớm, khi người chưa tỏ mặt người, quen chân nên te te qua quãng đông nhà mới dám đứng lại, thở. Hôm ghé quán thím Hồng Nhiên mua khoanh thuốc gò, thím bảo “Hết rồi”, giọng ngắn ngủn, cộc lốc mà con mắt nguýt thì dài, người ta đây ở goá đã lâu, đã để ý thương mà anh lạnh lùng không đếm xỉa, tưởng anh còn thương má con Nga, ai dè anh khốn nạn vậy… Xóm giềng lạnh nhạt, ông Tư phải vác dá, quảy len thùng đi làm đất xa hơn, qua tận bên Đất Đỏ, Kinh Năm, ở đó, người ta không biết ông là ai. Nhưng chuyện một đồn mười, đồn trăm, đám bạn nghề của ông một trưa ngồi dưới bờ dừa hỏi nhau, bên Xẻo Mê có người lấy con gái nên bị bắt phải hôn. Ờ, nhưng được thả rồi, đứa con gái nói hỏng phải nên lãnh ra. Ai đó cười khào, mai mỉa, ái chà chà, hai người họ bênh nhau quá ha. Định day qua hỏi ông Tư coi có biết người đó không nhưng ông đã nhảy cái ọt, lặn mất, lâu lắm không thấy ngoi lên. Đám người sợ quá nhào xuống lôi ông từ đáy nước ngầu đục, hỏi ông bộ muốn chết sao, ông cười, “Bậy, tao lặn thử coi hơi còn dài không, làm gì tụi bây quýnh lên vậy”. Thật tình ông đã nghĩ đến điều đó, rồi chợt nhớ, còn con Nga, nó ở lại chịu đựng vì không nỡ bỏ mình … Mà, con nhỏ đã gần sinh…
Ông Tư mua than đước dự trữ trong nhà, đưa con Nga ít tiền ra chợ sắm sửa cho đứa bé sắp chào đời. Ông còn chuẩn bị cả vỏ tỏi, hạt mè để làm thuốc cho con Nga những ngày ở cử. Ông ngượng ngịu bảo, “Cái này… tao biết là vì… hồi má bây sinh…”.
Chỉ chờ có vậy, kỷ niệm ùa về kinh hãi, tươi xanh. Như thể mới chiều hôm qua, Cúc đội thúng rau ghé nhà, xanh xao, đau khổ hỏi, tui biết anh để ý thương tui, anh có muốn cưới tui làm vợ không ? Rồi Cúc nói luôn, không cần cưới hỏi gì, mai tui cuốn đồ lại theo anh. Tưởng đâu nói chơi, ông cười, ai dè Cúc làm thiệt, cô gái đẹp nhất Xẻo Mê về với ông gọn gàng như người ta nhảy ùm xuống ao. Rồi Cúc có thai, ai cũng cười, úi chà chà, bộ trồng lúa ngắn ngày hay sao vậy cà, có chắc là cái thai đó của mầy không, Tư Nhỏ. Ông cười, không nói, nghĩ nó là của mình thì là của mình. Và khi bà mụ Năm trao cho ông đứa trẻ tóc dày mịt, mắt đen, môi đỏ, lòng ông vui mừng rưng rưng, nó là con của mình, con của mình.
Dù sau này Cúc đã không yêu được cái mùi bùn sình của ông, dù Cúc bỏ ra Chợ Cũ cất quán hàng, nói là cho gởi con Nga lại ít năm (như gởi một cái lu, cái tủ), ông vẫn thương nó như con của mình. Nó lên sáu tuổi, Cúc về, dẫn nó đi. Ông chạy theo nắm tay con bé lại, Cúc cau mày, giằng ra, nó là con tôi, anh biết mà. Ông nhậu say ba bữa liền, tỉnh dậy, thấy Nga đứng đầu giường, nó nói, “trời ơi, con đi mới mấy bữa mà ba tệ thiệt. Thức dậy, đi câu cá nấu cơm ăn, ba ơi”. Nói rồi nó đon đả cầm cái lon trùng đi trước.
Đứa trẻ ngày xưa bây giờ đã làm mẹ một đứa trẻ khác, cũng môi đỏ, mắt đen. Hôm ở trạm xá về, ở xóm người ta lại thăm nườm nượp, không kịp nhìn đứa trẻ, nắc nẻ khen liền: “Trời ơi thiệt là giống chú Tư quá hen”. Có người chưa đi quá cái miễu ông Tà đã cười cợt bàn với nhau, hỏng biết thằng nhỏ kêu ông Tư Nhỏ là gì ha, là ngoại hay cha. Ông đang quạt mẻ than, nghe câu ấy thảng thốt nhìn tro bụi tơi bời, con gái nỉ non, ba ơi, kệ con, coi chừng người ta thấy, nói tới nói lui. Ông già nổi quạu đùng đùng, “Thiên hạ phải để tôi sống đàng hoàng như một con người chớ” . Tiếng kêu nghe thấu đến trời, sao đồng loại con người không học cách hiểu nhau.
Đêm đó, ông thức trắng. Sáng ra con mắt trõm lơ, ông sửa soạn quẩy gói đi. Hai mẹ con Nga ọ ẹ lên tiếng trong nhà, ông Tư nói vói vô, “Bây có muốn mua gì không, tao đi huyện nè…”. Trời, đi chi vậy ba ? Ông nói ông cũng chưa biết nữa, nhưng dù không biết phải bắt đầu từ đâu cũng phải đòi lại danh dự cho mình, cho con Nga và thằng cháu ngoại, đòi lại những niềm vui đã bị người đời tước đoạt. Ông ra xã , công an xã cười khà khà, như đang nói về vụ bắt nhầm con cá lóc, hay con vịt con gà, “Biết chú bị oan là tụi tui thả liền, chú còn đòi gì nữa ?”. Ông cãi, tui đâu có đòi gì, nhưng cậu ra thanh minh với bà con Xẻo Mê dùm vài tiếng được không. Công an chạy qua hỏi chủ tịch, chủ tịch cười “chuyện của chú thấy vậy mà căng lắm, hồi trước giờ chính quyền chưa xin lỗi trước dân lần nào, tôi đâu có dám phá lệ, hay chú lên huyện hỏi thử coi…” Rồi huyện chỉ lên tỉnh, tỉnh hứa để từ từ coi lại, không sao, ông nói ông chờ được. Lâu lâu, ông tới để nhắc chừng, mỗi khi hay có sự thay đổi, luân chuyển lãnh đạo, ông đến nộp thêm bộ đơn nữa. Lộ phí xe tàu đi tới lui, ông Tư bán con chó phèn, bán luôn bầy vịt mới lông bông áo lá, còn tiền công đào đất mướn dành để lo gạo cá cho hai mẹ con con Nga. Vận bộ đồ bà ba màu cỏ úa, cái khăn quấn sù sụ trên cổ, giỏ bàng nách một bên, gõ cửa hết cơ quan này đến công đường khác, nhiều khi ông già thấy cuộc hành trình của mình mù mịt quá chừng. Có bữa vừa xuống bến xe bị đám bụi đời giật cái giỏ, ông già hớt hãi rượt theo, ngoằn ngoèo hơn mười con hẻm, bất kể ngoặt phải ngoặt trái, người rượt, người chạy cuối cùng chui tọt vô con hẻm cụt, thằng giật đồ hào hển hỏi, gì mà quý dữ vậy ông nội. Ông thở dốc, không nói, trút giỏ, rớt ra mấy cuộn giấy buộc bằng dây thun. Thằng kia vừa tức vừa mắc cười, chửi thề mấy tiếng rồi bỏ đi. Ông già đứng dậy, ngơ ngác, hỏng biết mình đang đứng đâu đây, hỏi vói theo, “Chú em ơi, đường nào xuống toà án tỉnh ?”
Lội bộ tới đó, anh bảo vệ ngó ông, cười “Ủa, hôm trước chú tới đây rồi mà”. “Vậy ?! - ông già chưng hửng - tui đâu có nhớ. Thôi vậy để tui qua chỗ tiếp dân, chú em cầm ít đơn đọc chơi”. Rồi ông đi trong mưa rúc rắc, trong gió riu riu, chỉ mong có ai đó thấu hiểu được nỗi niềm oan khuất của mình, ai đó thôi cắm đầu vào bàn giấy, ngước lên, hỏi “ Có gì hôn, chú ?”, ông mừng húm, vọt miệng bảo, có chớ, có tui mới lặn lội từ Xẻo Mê lên đây nè, rồi rụt rè rút ra một bộ đơn, đây là tờ cớ ông bị mất danh dự hồi bốn giờ chiều ngày tháng năm, đây là tờ yêu cầu được minh oan… Và lòng ông được an ủi biết bao nhiêu nếu ai đó ra vẻ quan tâm một chút, hỏi “Vụ của chú ra làm sao, đâu nói cho tụi tui nghe coi”.
Ông Tư lụm cụm kéo ghế ngồi, lưng lòng khòng, đôi mắt ánh lên như người đang khóc. Ông nói nhà tôi ở bên kinh Xẻo Mê, xưa rày sống bằng nghề lặn đất, cắc củm nuôi đứa con gái tên Nga. Rồi một bữa công an xã lại bắt tôi, vì có người tố cáo, tôi làm cho con Nga có bầu.
- Tôi nghe như ông trời dộng cái ầm vô mặt, nhưng tôi nói gì người ta cũng không tin. Rồi sau biết tôi bị oan, họ thả tôi ra. Tổng cộng tôi đã ở tù oan sáu ngày năm đêm…
- Ủa, đơn giản vậy thôi hả ?
Ông già nghe thất vọng quá, các người đòi thêm gì nữa, các người muốn gì nữa, muốn éo le như thế nào, oan khuất bao nhiêu năm mới đủ ? Rồi nuốt vào lòng khối nghẹn ngào, ông cố tươi tỉnh, hỏi :
- Dà, hồi nãy tôi kể tới đâu rồi cà ?
Nhưng rồi đến đây ông không không biết phải diễn tả nỗi đau của mình như thế nào. Nỗi đau của một người mới hôm trước còn đề huề sống trong tình làng nghĩa xóm, chiều chiều khề khà vài chung rượu với mấy bạn già, say rồi hát tỉ tì ti, hôm sau đã thui thủi một mình. Làm sao diễn tả được nỗi đau của người cha hôm trước còn bắt kiến vàng bu trên tóc con gái hôm sau đã phải nghẹn ngào đứng xa xa ngó nó khổ đau.
Ôi ! Những tâm hồn tươi hơn hớn, những khuôn mặt không nhuốm sầu lo kia làm sao biết được niềm ao ước của ông Tư mỗi khi ngồi nhìn thằng Sáng bò lủm củm trên đất, ông khát có một ngày được đàng hoàng, đĩnh đạc bồng nó xênh xang đi trên con đường xóm rập rờn hoa cỏ dại, ai đó hỏi, “Ủa, chú Tư, ẳm cháu ngoại đi đâu vậy?” Ông sẽ cười (lúc đó chắc ông chẳng còn răng):
- Đi đằng tiệm mua cho thằng nhỏ mấy cục kẹo dừa. Nó mê kẹo vô phương.
Bây giờ thằng Sáng đã lững đững biết đi, ước mơ đó chưa thành sự thực. Con Nga đã chai lì, nó thôi sợ những bóng người qua lại, thôi sợ những ánh mắt ngó ngiêng. Mà, hai ba con nó không biết, xóm giềng đã thôi để ý lâu lắm rồi (Người đời thường vậy, họ chém ta một nhát rồi quên đi, thì chỉ nói cho sướng miệng thôi, cho đỡ buồn thôi chứ chết chóc ai đâu, ai biểu ta ngồi đó để ôm vết sẹo với nỗi đau khôn tả). Nó biểu ông Tư thôi đừng đi kêu oan nữa, “Hai ba con mình sống y như hồi chưa có thằng Sáng, nghen ba”. Ông già Tư Nhỏ bảo, phải nghĩ tới tương lai thằng Sáng mai nầy chớ con.
Một bữa có đoàn cán bộ huyện về khánh thành con đường giao thông nông thôn từ Xẻo Mê về Phước Hậu. Nghe nói họ sẽ đi qua nhà (đi một khúc để Đài truyền hình quay phim), con Nga bèn cầm chổi ra sân quét lá. Thấy bóng người quen, Nga gọi nhỏ, anh gì ơi. Chẳng gọi ngay tên, nhưng có người đứng lại, con Nga nghiến răng cười: “Trời đất ơi, tui chờ anh lên tỉnh làm quan quá chừng. Lên càng cao, té càng đau, đồ có quý bể mới tiếc… Tui nhịn hoài, ngậm đắng nuốt cay, lì lợm, nín thinh là tính chờ anh lên đó mới phá anh chơi, nhưng mà đợi lâu quá… Bây giờ ở huyện anh làm tới chức gì rồi, mà anh làm tới cái gì thì cũng do tui cho, nên anh tính làm sao không tui nổi quạu, tui đòi lại cho mà coi”. Người nọ đứng ngây ra, mặt tái như mặt gà mái, hồi lâu mới hỏi : “Bây giờ… Nga muốn gì…”. Con Nga giả đò chưng hửng, “Ủa, vậy mấy lần ba tui lên huyện kêu oan, anh không gặp sao, anh biết ba tui khổ sao anh im re vậy ?”. Nói rồi nó đủng đỉnh đi vô, kêu thầm, trời ơi, người này, hồi đó với mình nồng mặn biết bao nhiêu, khi anh ta say công danh mà bỏ rơi mình, mình đã đau vất đau vả. Sao bây giờ gặp nhau, thấy nản không muốn nhìn mặt. Thì ra, tình cảm cũng như bát nước hắt đi, không mong gì hốt lại.
Rồi một trưa đầy nắng, mây trên trời xanh lẻo xanh lơ, trước giờ ca cải lương, đài truyền thanh xã gởi đi lời xin lỗi của chính quyền đối với công dân Dương Văn Nhỏ. Đơn giản, gọn hơ, nhẹ nhỏm. Vậy là huề nghen. Cái câu dài thê thiết những dấu phẩy, dấu chấm lửng cuối cùng cũng được người ta chấm cái rột. Ông Tư lúc đó đang móc đất nắn trâu cho thằng Sáng chơi, khóc hức lên vì không cầm lòng được, sao kỳ vậy cà, người ta đã giải oan cho mình rồi, đã xin lỗi mình rồi sao mình vẫn mãi đau.
Con Nga đứng đằng sau, ngó cái lưng bắt đầu còng xuống của người cha, nghe gió thổi qua lòng mê miết, nghĩ mình ngu thiệt, mình nuôi hận người ấy làm chi đây, mình trả đũa làm chi, đổi lấy cái gì ? Có đáng không những tháng năm dài vằng vặc? Những tâm hồn thương tổn ? Và kia, một mái đầu bạc phơ xơ xác ?
Có đáng không ? Trời ơi, có đáng không ?

Văn Nghệ Trung Ương
Tháng 9/2004
Nửa mùa
Nguyễn Ngọc Tư

Tiên đi ngang qua hẻm Cây Bần trong một ngày sụt sùi mưa gió. Định đụt dưới hàng ba nhà dì Hên chút xíu rồi đi nhưng nó lại ngủ quên. Thức dậy thì trời đã khuya rồi, thấy một bà già ngồi cạnh mình, bà hỏi (nghe như đã quen biết tự hồi nào), "Ngủ không được hả, muỗi nhiều quá hả con ? Bây tên gì ?" "Dạ, Tiên". Bà ờ, bà không cười.
Bởi ba má đặt cho mình cái tên nhiều khi cũng trớt, như tên dì, hay của cậu May, em dì chẳng ứng với cuộc đời chút xíu nào. Tiên cũng vậy, tiên gì mà xấu hì. Nó thấp người, tướng tá thô kệch, sồ sề. Quanh cổ và hai bắp tay mọc đầy mụn. Khuôn mặt tròn, ngô ngố dưới mái tóc thưa, rối bời như trái chôm chôm. Răng trên không có, môi lay lập phập mỗi lúc nó nói cười. Bù lại nó cười thiệt ngọt, cười giống như má mình như ngoại mình, móm mém hiền khô, như rót vào lòng. Một nụ cười lương thiện. Cậu May không bao giờ nhìn thấy nụ cười đó, nhưng cậu nói con người Tiên thiệt thà, hỏi sao cậu biết thì cậu cười, "Thì đui thử như tui đi, rồi biết…". Trời, ai ngu sao…
Tiên trú lại dưới hàng ba nhà dì Hên từ bữa đó, vì cái băng đá dưới dạ cầu có người khác chiếm mất rồi, vì không ai có được cái tình cảm đến mủi lòng như chị em dì. Người chị thì nhỏ thó, túc tắc như cọng bánh hỏi, bỏ qua nhiều mối duyên, ở vậy nuôi cậu em trai tật nguyền, sống bằng nghề đan võng. Cất cái nhà lùi tận phía sau, chỉ vừa đủ để hai chiếc giường, cái bếp và bàn thờ Phật, dì chừa khoảng sân đằng trước để che mái hiên tới mí hàng rào. Chỗ đó đủ ấm cho người lang thang lỡ đường ngủ lại qua đêm, đủ mát cho bầy trẻ con tụ lại bắn đạn keo, nhảy lò cò… Chỗ đó đủ cho dì mở được cánh cửa cuộc sống đến với cậu em bất hạnh của mình nhờ mấy chị đàn bà trưa trưa sề bên bộ vạc đóng bằng cây tạp, nói chuyện dưới đất trên trời, chuyện hai con ruồi vừa mới bay ngang qua thấy hỏng bình thường à nghen, ruồi đực bữa nay rõ ràng là bay với con cái khác. Thấy cậu May mủ mỉ hiền lành như con gái, mấy chị hay ghẹo cậu với cô câm bán vịt chiên, lúc đầu cậu cười mỉm mỉm. Sau này, lúc Tiên đến rồi, cậu vẫn cười cười nhưng trong bụng buồn teo, nghĩ sao họ không cáp đôi mình với người khác mà nhất thiết phải là cô câm. Vì cái nồi mình hợp vung ấy sao, vì tật nguyền chỉ hợp với tật nguyền sao ? Buồn tình, cậu lần vô bếp nấu cơm, vặn to lửa cái bếp dầu, biết đâu có người cần cơm cháy...
Tiên thích cơm cháy, hôm nào về cũng lỏn lẻn vào xin. Rồi vừa nhai chòm chọp nó vừa ríu ran, “Ý Hai ơi, Củ Ba à, bữa nay con gánh cho người ta nhóc đôi nước, với giặt nhiều đồ lắm. Con có nhiều tiền. Nhưng con còn thiếu ba mươi bảy ngàn năm trăm đồng chuối nướng chưa trả nổi. Bữa nay có ông kia đòi bóp vú con rồi ổng cho tiền, con hỏng chịu, vú thì phải dành cho chồng mình chớ, phải hôn ý?” Dì Hên với cậu May bật cười, nửa đêm tỉnh giấc nhớ tới, bắt tủm tỉm cười hoài. Nửa đêm tỉnh giấc, nghe gió thổi hiu hút trong mưa, cậu May trở mình, "Ở trong nhà mà lạnh như vầy, chắc ngoài sân chịu hỏng thấu, chế hen". Dì Hên lui cui mở cửa, biểu Tiên vào trong nhà với ngủ với bà, nó cười, thôi, con ngủ đây quen rồi.
Thì đã mấy chục năm ngủ chái hiên, ngủ dạ cầu mà làm gì hỏng quen. Với lại, nằm chỗ này sẽ nghe được tiếng đàn ghitar vẳng ra từ căn nhà trọ bên kia con hẻm.
Bên đó là nhà Sỹ. Anh dọn tới hẻm Cây Mận chưa đầy năm, xóm dân cư chuyên đạp xích lô, bán vé số và bắp luộc bỗng xuất hiện một chàng nhạc sỹ. Anh mướn căn buồng nhỏ, sống thanh tịnh và tao nhã, và giống như bông sen nở thoi loi giữa ao bèo, anh ít giao du bên ngoài, bảy tháng chưa tới được cuối hẻm. Cả ngày quanh quẩn ở nhà nghe nhạc giao hưởng, xem mấy tập thơ, chiều xuống tắm sạch sẽ (mấy đứa con nít nói anh tắm một lần chừng một giờ đồng hồ, cộng thêm nửa giờ để chải đầu), đốt một nén hương trầm cho khói thiêng thanh khiết, xong ngồi trước tập kẻ nhạc, ôm đàn, gò từng phím tỉnh tình tinh.. Anh viết nhiều bài ca nghe lạ lùng lắm, người xóm hẻm nói hay thiệt nhưng hiểu hỏng nổi, sao không viết mấy bài như "bẻ một nhành cây nhành cây trứng cá để đem vô trường chia trái cho em" cho dễ thuộc, viết làm chi "Em như mưa như sương như gió như khói như mây, tôi chết giấc lao đao chìm vào em đôi mắt dại khờ". Không biết có phải vì vậy mà Sỹ chưa nổi tiếng, anh phải sống bằng nghề tay trái: thảo đơn, đánh máy thuê. Xóm hẻm hồi nào giờ quen giải quyết mau thuẩn bằng việc đánh nhau nên Sỹ sống khá chật vật, may lắm mới trả được tiền nhà, ai cũng nói làm cái đơn thưa sao nghe vô vọng quá trời, ghét quá sao hỏng đập vô mặt tụi nó cho gọn… Dì Hên thương tình, biểu anh đi làm than đá, hay xin vô lò quay heo, việc không quá sức, lương ổn định, nhưng Sỹ lắc đầu, anh sợ những công việc lấm lem bụi đời, nhuốc nhơ trần tục ấy sẽ dìm chết cái tư chất nghệ sỹ cao quý mà anh đã nuôi dưỡng từ lâu. Nên nhiều đêm chàng nhạc sỹ ôm đàn sáng tác trong cái đói cồn cào…
Người xóm hẻm bảo nhau, làm nghệ sỹ coi vậy mà cầu kỳ thiệt, khó thiệt, phức tạp thiệt. Tiên càng ngưỡng vọng anh càng đau thắt trong lòng, nó thấp thỏm xốn xang, chắc lưỡi tặc tặc, tội nghiệp quá, tội ảnh quá chừng. Nó cũng đã bị đói rồi nó biết, những bữa không ai kêu bửa củi, lau nhà, giặt đồ, gánh nước… nó ăn chuối nướng trừ cơm. Ăn chuối chắc bụng. Vậy mà nửa đêm là nghe đói sôi ruột, đói muốn ứa nước mắt ra…
Thì đôi khi nước mắt ứa chơi vậy thôi, chứ Tiên vốn là một người vui vẻ. Hồi nhỏ, sau bốn năm ngủ li bì vì thuốc trên vai một bà mẹ mìn, tỉnh dậy đã bị đá đít ra bụi đời, hết còn nhớ nhà, nhớ tuổi, Tiên hoá thành người hiền hậu, đơn giản. Không phải bận lòng đến quá khứ tương lai làm chi, nó sống thanh thản, không tính toán. Nó sẵn sàng lau một căn nhà ba tầng với mười bảy cái cửa kiếng, bốn mươi hai bậc cầu thang chỉ với mười ngàn tiền công. Nó gánh chục đôi nước vòng vèo qua hai ba con hẻm có khi chỉ được đãi một bữa cơm canh. Nó nghĩ như vầy, thí dụ như mình cho người bằng ấy, người lại trả ta cũng bằng ấy thì huề rồi, thì làm sao cảm thấy duyên dẻ, nợ nần mà gắn bó với nhau.
Nên Tiên không ngẩm ngợi đắn đo khi tối tối ở chợ lao động về nó ghé mua cho Sỹ khi thì tô hủ tiếu, khi hộp cơm, khi gói xôi gà… Chỉ người xóm hẻm là xôn xao, hỏi nhau, hay gì chưa, nhỏ Tiên với thằng cha Sỹ tù ti tú tí với nhau. Giỡn hoài, con Tiên thấy ghê làm gì xáp được với nghệ sỹ người ta…
Nhưng Sỹ nhìn thấy một vẻ đẹp từ Tiên ngay cái hôm đầu nó bước vào căn phòng đó. Đâu có gì lạ lùng, nếu trong một đêm mưa rơi rỉ rả, ta nhìn bản nhạc sáng tác giữa chừng thì bí rị, nghĩ tới con đường đời dài trước mặt, thèm một tô hủ tiếu nóng hổi, trên đó có mấy lát thịt, hai khúc giò heo cùng mùi tỏi sấy thơm phức thì bất ngờ em xuất hiện ở cửa nhà ta, tóc bết mồ hôi, thở hào hển, tay bưng tô hủ tiếu nghi ngút khói, em cười (nụ cười hệt của mẹ ta, ngoại ta vốn đã vắng bóng lâu rồi), bảo, "Tui chạy từ ngoài đầu hẻm vô đó, đi chậm sợ nó nguội, hỏng ngon. Ăn đi, tui cho. Ăn no mới làm được bài hát đẹp". Ta đứng sững trong nỗi xúc động vui sướng bất giờ, ta dè dặt, "thôi, cảm ơn cô, tôi mới ăn cơm xong" (thì cũng phải tự trọng chứ). Nhưng em quýnh quáng, rối rít, " Chê hả ? Ngon lắm mà. Tui mua hết sáu ngàn đó, tui có đòi tiền đâu. Tui cho mà… Không lấy, tui buồn ráng chịu nghe." Ta phì cười mà trong lòng rưng rưng, có khi ta nghĩ đây là thần tiên giáng thế không chừng.
Thần tiên bắt đầu lang thang nhiều hơn để tìm việc, kiếm tiền. Nhà dì Hên hơi buồn đi một chút vì tối tối, Tiên phải sang nhà Sỹ, quét dọn, lau chùi (đến dề cơm cháy cậu May chừa nó còn không kịp ăn). Anh sống sạch sẽ và kỹ tính lắm, bận lòng đến cả tí bụi trên bàn. Nó thấy đời này kiếp này mình phải có nhiệm vụ che chở, bảo bọc cho anh, chứ anh mảnh khảnh, nho nhã thế kia sao để lấm lem bụi đời và mưa và nắng được. Sỹ đi tắm, nó mang khăn tới, nghe vừa ngưng tiếng xối nước, nó ra đầu hẻm mua thức ăn, để lúc anh tắm xong, có thể ăn ngay cho nóng. Lúc Sỹ bắt đầu đốt trầm lên cũng là lúc Tiên rón rén đi ra, đứng dựa chỗ hàng rào, nghe Sỹ khe khẽ hát một đoạn trong bài mới, "Vai em gầy, yếu đuối mỏng manh như từng gân lá, anh che chở cho em, anh vuốt ve và hôn lấy vai em, nép đầu vào mùi vai hát hù hú hù hu hù hu… ". Nghe xa xăm, lạ lẫm mà thiệt ngọt ngào.
Về bên nhà dì Hên, Tiên còn tần ngần ngồi vui mãi. Thấy dì, nó đon đả khoe ngay, "Ý Hai ơi, hồi nãy ý có nghe bài đó hôn, ảnh nói ảnh làm bài đó là tặng cho con". Dì Hên cười buồn, nghĩ, cái vai nọ có phải là của con đâu, khờ ơi, vai bây chai cứng vì gánh nước tảo tần. Mà thật, trong bài hát của Sỹ tuyệt không thấy bóng dáng Tiên, anh chỉ toàn dùng những từ trắng trong, chân thon gót nhỏ, mong manh yếu đuối… (Nhưng viết đôi bàn tay em thối móng vì giặt nhiều đồ, làn da em sạm đen dưới nắng, mái tóc em cháy xác xơ… thì còn gì là nghệ thuật nữa). Dì Hên dĩ nhiên là không biết điều đó, nên nửa đêm buồn bực trong bụng, dì kêu cậu May thức dậy, cằn nhằn, "Con Tiên chiều thằng nọ như chiều vong, mà thằng nọ hỏng làm gì cho nó hết". Cậu May gắt, "Thây kệ người ta". Dì chưng hửng, "coi ngộ hôn, làm gì quạo ?". Cậu làu bàu, "Tui đang ngủ ngon…". Dì ngờ ngợ, nó có ngủ đâu, nó trở mình hoài mà. Bên kia hẻm, người nhạc sỹ vẫn miệt mài đàn tỉnh tình tinh…
Rồi công sức lao động của anh cũng được đền đáp, Sỹ gởi một vài bài hát lên Đài Truyền hình, được một ca sỹ khá nổi tiếng chọn hát trong chương trình "Sao đậu xuống đời". Bài hát ấy nhanh chóng được yêu thích, ai cũng khen lời lẽ thiệt là cao sang quá sức, nghe hiểu chưa được mà đã thấy hay rồi, thấy mình rời xa thực tế trần trụi này để phiêu linh ở chỗ mơ hồ nào đó. Nhà Sỹ bắt đầu có người đẹp và sang lui tới, tất nhiên là cô nhà báo tới trước. Cô coi bài Sỹ sáng tác hồi mười sáu tuổi xong(bài này nói về một đám mây trên trời), tấm tắc khen bài này hé lộ một thiên tài. Bởi ai cũng thấy đám mây bay qua nhưng không viết được những câu như vầy “Mây hôn phớt vào mặt ta như nụ hôn em đắng cay dịu ngọt the. Ta xiết mây vào lòng nghe cả trời thương tiếc nhớ…” Nhiều quản lý của ca sỹ cũng chạy tới lên tiếng đề nghị mua bản quyền bài hát, Sỹ ý thức được giá trị của mình nên còn chần chừ. Tiên biết chuyện, sướng quá, lẽo đẽo đi theo, hỏi "Bán được trăm ngàn hôn anh ? Trời ơi, trăm ngàn mua được nhiều đồ ăn lắm". Sỹ nhìn sững vào Tiên nghe cơn lạnh chạy tê cả sống lưng.
Giống như một cơn bão khô đi qua.
Giống như một dòng thác lạnh ngắt đổ ụp xuống người.
Sỹ thấy tuyệt vọng khi biết rằng mình với vị thần tiên này không thể đi tới tận cuối cuộc đời với nhau. Nghệ thuật của anh cao quý là vậy mà em đòi đánh đổi bằng tiền, bằng những tô hủ tiếu, bún riêu... Anh không cần tiền, một nghệ sỹ chân chính thì không cần những đồng tiền hạ thấp nhân phẩm mình. Em không hiểu rồi, thần tiên của ta ơi, nên đã xúc phạm tới cái đạo mà ta tôn thờ.
Tối đó, nhạc sỹ cầm tay Tiên lại, ghì chặt Tiên vào lòng, biểu Tiên đừng đi. Anh phải trả ơn em, phải đáp tạ tấm chân tình của em. Tiên nghe mấy từ không hiểu lắm nhưng sướng đến ngây ra, nó móm mém cười hoài, hồi nào giờ anh không gần gủi nó như vầy. Rồi anh trịnh trọng hát cái bài anh vừa viết riêng để tặng Tiên "Em tặng cho ta đoá hồng mong manh trong suốt trinh nguyên, một lần cuối, rồi em yếu đuối tan vào gió mưa gửi lại…". Nghe thiệt buồn, buồn mà vẫn sang trọng (Nhưng hồi nào giờ Tiên có biết cầm cái bông cái hoa gì tặng anh đâu, nó toàn bưng thức ăn đến).
Tiên về nhà lúc gần sáng, cậu May nghe nó nằm xuống bộ vạc thật khẽ khàng, nhẹ tênh như thể nó tan đi, đã cháy thành tro vì hạnh phúc. Cậu tự bảo mình, thôi, ngủ đi. Mà, ngủ gì được, sớm mai rồi.
Sớm mai, mở cửa ra, xóm hẻm bất ngờ khi hay Sỹ đã dọn đi mất tiêu. Nhà chỉ còn giấy poluya nằm tao tác. Hỏi Sỹ đi đâu, người ta lắc đầu, đi đâu ai biết đi đâu. Tiên còn không biết thì ai biết. Tiên ngơ ngác ngồi ở ngạch cửa nhà Sỹ một hồi, ngơ ngác đi lòng vòng những con đường trong thành phố, ngơ ngác nhìn, ngơ ngác kiếm. Bộ não đã từng ngủ suốt bốn năm của nó không nghĩ ra được điều gì, không lý giải được cái gì, trong nó chỉ còn tràn ngập những nỗi niềm thương nhớ. Cuối cùng, nó nuốt nước mắt, tin rằng chuyện này cũng giống như trong phim, chắc là anh mặc cảm, anh không muốn làm gánh nặng cho nó nên mới ra đi. Chắc là anh không dùng cách giả đò thân mật với một cô gái khác vì sợ làm nát tan lòng nó. Chắc là anh đứng dán chỗ hàng rào một hồi, câm lặng nuốt nước mắt nhìn nó ngủ, tay muốn vuốt tóc nó biết bao nhiêu, muốn hôn lên trán nó biết bao nhiêu nhưng rồi buộc lòng quay gót. Và nếu giống như trong phim thì Tiên phải đi tìm anh, dù ở cùng trời cuối đất, để nói với anh rằng nó có thấy nặng nề, cực nhọc gì đâu, cả nghĩ tới điều đó nó còn không mảy may nữa là…
Tiên bỏ hẻm Cây Mận ra đi khi mưa chỉ mới nửa mùa. Hồi tới, hồi đi đều lặng lẽ, sẽ sàng như cái lá me rơi. Tối ra nhìn cái hàng ba lặng ngắt, dì Hên thấy buồn muốn chết. Đã vậy rồi, lúc đem chục cái võng giao ngoài sạp còn bị trả lại bốn cái vì cậu May thắt đầy lỗi, rối nùi (hồi nào giờ cậu đâu có vậy).
Rồi lâu lắm, hai người họ (và nhiều người nữa đã từng đến hẻm này) chẳng trở lại (làm như thoát ra khỏi đây là mừng húm ba hồn bảy vía rồi, quay về làm gì). Có người đọc được bài báo viết về Sỹ trên miếng giấy gói bánh mì, báo kể Sỹ đang kiện một ca sỹ nọ hát bài của anh mà không trả tiền tác giả. Anh ca sỹ thiệt cũng kỳ, không trả tiền thì người ta sống bằng gì, ăn gió à ? Dì Hên than, cái người mình hỏng ưa thì xuất hiện chần ngần trước mặt hoài, còn nhỏ Tiên thì mịt mù bóng chim tăm cá... Nhiều khi buồn tình, dì hỏi "Cậu Út mầy còn nhớ con Tiên không, con nhỏ "mắc đằng dưới" hồi đó đó".
Nhớ, nhớ chớ. Quên sao được cái người đã ngủ trước hàng ba nhà mình gần hết một mùa mưa mà không ai xì xào đồn đãi bậy bạ dùm cho một tiếng, không ai chọc ghẹo cáp đôi chuyện gái chiếc trai đơn. Không ai nghĩ mù cũng biết thương nhớ, biết ngóng chờ (trong nỗi tuyệt vọng), rằng cái người đó, mùa mưa này liệu đã mỏi chân mà trở lại không ?
Lên mạng ngày 9-8-04
Làm cho biết

Nguyễn Ngọc Tư

Bảy nhắn tin vào máy tôi, “Viết văn không lo viết văn bày đặt vô Hội đồng nhân dân chi vậy không biết?”. Ui cha, Bảy đang cười mình ham hố, học đòi nhúng chân vô chính trường đây, tôi nhắn lại gọn gàng ba chữ “Làm cho biết”.
Mà thật, có nhiều chuyện mình chưa được biết bao giờ, nhiều cảm giác thật lạ lùng mình chưa được trải qua. Lần đầu tiên tôi nếm trãi nỗi áy náy khi thấy người dân chờ đợi. Buổi gặp gỡ nào, tôi cũng cố đi cho thật sớm, nhưng tới nơi đã thấy họ đợi ở đó. Những ông bà già tóc bạc, những anh thanh niên làm ra vẻ chững chạc, những cô gái e thẹn cắn vành nón... nhưng tất cả những vẻ mặt đó đều nhuộm màu sương nắng. Ngoài trời mưa gió hiu hắt, họ ngồi co chân trên ghế đá, nước từ ống quần nhỏ xuống tong tong. Có người đã hối dâu con chuẩn bị cơm từ sáng sớm để ăn cho kịp đi chuyến đò đầu. Có người chuẩn bị xuồng máy lúc trời tờ mờ chưa tỏ mặt nhau, vì đường từ nhà ra xã còn xa lắm. Ngồi chờ tới giờ vào họp, tôi hay nghĩ lung tung beng, sao mình lại bắt họ lặn lội đến để gặp mình, mình phải đến với họ chứ. Chỗ mình và họ gặp nhau đáng lẽ phải ở bên một bờ kinh cạn nào đấy, chỉ cần ngồi ở đó coi con nước lờ đờ, không ai nói gì hết nhưng mình thấu được nỗi khó khăn của người nuôi tôm, trồng lúa. Lẽ ra mình phải gặp họ trong một ngôi trường trống, co ro nghe mưa và gió thốc vào để hình dung ra những con chữ run rẩy như thế nào dưới bàn tay tái xanh vì lạnh của đám học trò. Lẽ ra phải cùng bà con đi trên con đường đất, lột dép bò qua cây cầu dừa, ngồi quây quần chỗ chòi vuông hay cái rạp xuồng, uống vài ly rượu đế để cởi mở những khúc mắc của nhau ra.
Chà chà, làm được vậy sổ tay tôi mau đầy cho mà coi. Tôi sẽ ghi chép thật nhiều để làm vốn cho việc viết văn. Bảy ơi, Bảy đừng lo, đi tới đâu, làm gì, tôi cũng không quên cái nghiệp của mình, “chuyện làm ăn” của mình. Tôi còn ôm mộng in quyển ghi chép như “Năm tháng chưa xa” của Nguyễn Thi. Sinh động, chi tiết, chứa đựng thiệt nhiều hoàn cảnh, nỗi niềm của nhân dân. Đây nè, tôi ghi cũng đã nhiều câu nói thiệt là mắc cười (không hiểu sao, cười xong tôi lại thấy đau quặn cả lòng)
Một ông già hỏi : “Heo gà tụi tui cho ăn ngày ba bốn bữa thì giá rẻ. Còn vàng với sắt hỏng cho ăn sao lên giá hoài, kỳ vậy ?”
Một ông già khác nói chuyện xây nhà tình nghĩa “Năm nay không cất chắc hai bà má Việt Nam anh hùng ở ấp tui cũng không còn sống để chờ. Mà, mấy ông nhà nước có cố ý làm chậm hôn ta, chậm chậm, hai bả chết rồi là xù, nhà nước đỡ tốn ?!”.
Một anh thanh niên bảo (anh này có nụ cười rất đẹp, nói chung ai cười đẹp là tôi nhớ lâu) “Nhà nước hay nói đảng viên, cán bộ là đày tớ của nhân dân, sao tui thấy “đày tớ” bây giờ sống ngon hơn “chủ” quá trời đất, nhậu chỗ sang, ở nhà lầu. Tui hỏng hiểu gì hết”
Một ông già khác (có chòm râu hơi dài): “Vợ tui nói bả hỏng biết mặt chủ tịch xã nhiệm kỳ rồi ra làm sao, bốn năm trời, ông này có xuống dân đâu mà biết mặt. Tui thấy mấy ông nhà nước lúc rày xa tụi tui quá, lạnh lùng với tụi tui quá. Cậu văn thư ở xã mình râu còn chưa có mà lần nào tui lại làm giấy tờ nầy nọ cậu cũng lớn tiếng rầy rà, nạt nộ”.
Một bà lão (tay phe phẩy cái nón lá rách tả tơi) bảo “Tôi thấy mấy ông sai phạm làm mất tiền tỉ mà hỏng có sao hết, có người bị xử nhẹ hều, có người đưa qua làm giám đốc bên xứ … đạm gì đó (Ghi chú : Tác giả nghi là Khu công nghiệp Khí – Điện – Đạm Khánh An, chứ ở Cà Mau có xứ Đạm nào đâu). Kỷ luật mình hỏng nghiêm nên cán bộ “chơi” hoài, “ăn” hoài, ăn đâu có tội tình gì, ngu sao hỏng ăn”.
… Sổ tay tôi còn nhiều phát biểu mắc cười như thế nữa, Bảy à. Tôi luôn ghi vào sổ tay vì giọng văn tưng tửng của mình cần những câu nói dân dã, không quan cách ấy. Và Bảy biết không, thật lạ lùng, nhiều khi tôi không giở sổ ra nhưng vẫn nhớ rõ ràng khuôn mặt của người, nhớ từng câu, từng chữ, cái cười cay đắng, cái chém tay quyết liệt vào khoảng không…
Và từng nét mặt đè nén, dáng đi nặng nề, từng ánh mắt day diết của mỗi người khi ra về. Phải chờ lâu lắm, đoàn Đại biểu Hội đồng nhân dân mới đến, nhưng gặp nhau, trao đổi chưa được hai tiếng đồng hồ thì hết giờ. Xong, đại biểu Hội đồng đi ăn cơm với cán bộ xã. Bà con lểnh thểnh xuống xuồng, không thấy ai cười bởi trong lòng trĩu nặng những nỗi niềm chưa kịp nói, còn trong tim những ray rứt chưa kịp tỏ bày…
Khi ấy, Bảy ơi, tôi đã biết so đo, lúc nhậu, hay chơi tennis mình đã có dè sẻn thời gian như thế không ?
Câu trả lời đắng chát
Lên mạng ngày 8-8-2004
Ngậm ngùi Hưng Mỹ
Nguyễn Ngọc Tư
tặng cô Tuyết Nga
Hôm trước gặp chị, chị khoe đang viết cái ký "nhớ đồng". Tôi hỏi vặn chơi, nhớ đồng là nhớ những gì, chị cười buồn, nhớ lúa, nhớ vườn, nhớ dòng nước ngọt ngào năm cũ. Nhớ cái hồi dân xứ chị nghèo nhưng trong bồ có lúa, ngoài vườn có rau, dưới ao có cá, hồi nghèo mà thanh thản, chưa phải chịu cảnh nợ nần chồng chất đến nỗi, hột muối, chén cơm, chai nước mắm bà con ăn đều là từ tiền vay hết.
Thú thật là hôm ấy tôi đã cười thầm trong bụng, nghĩ, làm gì mà khổ dữ vậy, chắc cái chị này nói quá lên. Nhưng rồi tôi đã đi Hưng Mỹ, chị à. Ở đó, tôi thẹn thò nhận ra, Hưng Mỹ là đây, Thị Tường là đây, cái quê xứ anh hùng này chẳng có gì khác xa lời chị kể.
Hưng Mỹ quê chị nằm giữa Phong Lạc và Phú Mỹ, ba xã vòng tay quây lấy Đầm Thị Tường. Đây là vùng căn cứ nổi tiếng hai thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ. Anh là người Cà Mau, nếu anh từ hai cuộc chiến tranh thần thánh ấy ra, hẳn anh còn nhớ cái vị ngọt đằm của những hạt cơm được gặt từ những cánh đồng quê xứ nầy. Nhớ những người dân áo vá, chân bùn nhưng một lòng theo Đảng, theo cách mạng. Nhớ hàng ngàn cái hầm đào dưới những vườn dừa bạt ngàn mà người Pháp, người Mỹ không tìm được lối vào vì miệng hầm nằm trong trái tim mỗi cụ già, em nhỏ. Họ dũng cảm, kiên cường, hào sãng rộng rãi mà cũng rất giỏi giang. Chúng tôi tin rồi, chị ơi, thương quá chừng bà con Hưng Mỹ, nhất là những người mẹ, người chị, khách vừa đặt chân đến thềm nhà đã hối hả bắc nồi cơm lên bếp, biểu "làm gì làm cũng ăn bậy ba hột cho vững dạ nghen con". Lời mời tình cảm, hồ hởi đến mức mình không nỡ chối từ, dù cái thanh âm của cái lon sửa bò chạm vào đáy thạp gạo nghe cồn cào, xót xa trong bụng.
Thương quá chừng bà con Hưng Mỹ, chị Ngờ ơi. Ba mươi tháng Tư này nữa, là tròn hai chín năm hòa bình, con đường quốc lộ về ngang qua xã vẫn ca hoài bài "Đường chỉ đẹp khi còn… dang dỡ", xã có 3911 hộ đã ngót 251 hộ nghèo, 13 ấp thì một ấp rưỡi chưa có lưới điện. Ai sai ai biểu mà cái nghèo vẫn còn tận tuỵ với Hưng Mỹ dữ vậy không biết.
Thì tôm chết triền miên, chết suốt ba mùa chuyển dịch rồi, hỏi dân làm sao không nghèo. Ở ấp Rau Dừa C, thậm chí chẳng có được con đường lành lẽ để nối các xóm với nhau, nên ấp giống như một cái đảo nhỏ. Mùa mưa, nước ngập các mương ranh, mỗi nhà là một ốc đảo nhỏ hơn. Những năm 68, 72, nơi đây là căn cứ cho nhiều cơ quan trọng yếu của tỉnh như Dân y, Quân y, Binh vận, Ban chính trị Tỉnh đội… Với cách mạng, chén cơm bà con từng xẻ nửa, hạt muối chia đôi, vậy mà giờ đây, cái cảm giác bị quên lãng đau đáu trong lòng. Coi lại, Rau Dừa C chưa có công trình phúc lợi công cộng nào gọi là được con mắt. Đường không, cầu cũng không, có ngôi trường tiểu học dựng tạm bằng cây lá tạm bợ từ hồi bão số 5 giờ đã bệu xệu như răng ông già, mùa mưa, trường ngập lút mắt cá học trò. Coi lại, những người đã từng sống, chiến đấu ở đây đã chẳng ai trở về thăm, để cùng ăn với nhau nồi cháo cá, cùng uống với nhau ly rượu, nhắc chuyện xưa, cái hồi bà con Rau Dừa mình nghèo mà tốt quá trời đất… Chẳng ai trở lại…
Bây giờ đất này còn nghèo hơn trước, cái nghèo lừa mị người xứ xa, lừa mị những ông quan kinh lý ưa kiểm tra lớt lớt. Chú Sáu Tấn, nhà ở Kinh Ngang bảo, "trời ơi, cô đừng thấy bà con cất nhà mái tole mới cáu, dưới bến có xuồng có máy mà lầm tụi này giàu, cô phải vô tới trong bếp để coi hủ gạo, coi túi tiền của tụi tui. Nó trống trơ thôi. Coi cái vỏ vậy chứ trong ruột tan nát hết".
Nhà chị Võ Thị Nga nằm trong số đó. Ba năm chuyển dịch, tôm chết triền miên, nợ hơn mười triệu ở ngân hàng. Không sống được trên năm công ruộng nhà, chồng chị làm thợ mộc kiếm tiền mua gạo. Anh vái hoài, vái trả hết nợ anh cạo đầu, rủi quá, tới bây giờ tóc vẫn còn nguyên. Anh chị có bốn đứa con nhưng ba đứa đã thôi học. Chị chỉ cậu con trai đầu lòng của mình, giọng rười rượi, "Tội nghiệp thằng nhỏ, học hết lớp mười hai rồi mà không có tiền, tui bắt nó nghỉ. Tương lai của nó, tui coi như xong rồi". Trí tật nguyền do sốt bại liệt hồi sáu tháng tuổi, biết mình không làm được việc đồng áng như người khác, em dồn sức vào việc học. Nhưng cái mơ ước trở thành bác sỹ đã tan mau như mây, phủ phàng như chẳng có cái hồi mẹ cõng em tới trường ngày hai buổi, như chẳng có những đứa em tình nguyện nghỉ học để cha mẹ dành dụm cho anh… Chị Nga rân rấn nước mắt, " Còn nhỏ Út, con nước nào cũng vái ông bà phò hộ cho trúng vuông để được đi học tiếp. Mà, hỏng biết chừng… Hồi sáng này bán tôm được 24.000, có nhiêu đó mà phải lo gạo, dầu hôi, nước mắm, đưa ông chồng tui bỏ túi đi làm chỗ xa, hỏi tiền đâu cho nó… Tui làm mẹ mà, đau chớ sao không, cô ?".
Gần đó một đỗi đường là nhà chú Bảy Chà, được coi là nghèo nhất ấp. Đó là một căn nhà nhỏ và rách tả tơi đến mức khi bước vào tôi muốn rơi nước mắt. Nhà có ba bộ vạc vá đắp bằng ván vụn chừng bốn lớp, hai cái võng cũng tưa tải như xơ mướp. Chú nói, "trận mưa đầu mùa hôm rồi, tụi nhỏ ướt hết, phải cuốn mùng chạy. Mà, chạy chỗ nào cũng dột", rồi chú nghẹn lại, "khổ như chó…". Tôi bước vào gian bếp ngoi ngóp khói, ngó nồi cơm trộn khoai bắt đầu lên tim. Gia đình chú Bảy không đất canh tác, sống bằng cách làm mướn, làm thuê. Mỗi tháng, thím Bảy lĩnh tiền chính sách (chồng trước của thím là liệt sỹ) được 150.000. Hỏi cô con gái tên Trang đã học tới lớp mấy rồi, cô cười, nghèo quá, mấy anh em em hỏng ai biết chữ. Rồi cô lặng lẽ nhìn ra sân, chỗ những đứa trẻ đang chơi, lê lết cái mông trần trên đất, tóc cháy vàng, gầy gò, khô khốc. Hỏi anh Nguyễn Đồng Khởi - trưởng ấp Rau Dừa C về việc nhà chú Bảy chưa được cấp sổ nghèo, anh trả lời, " Các ấp khác trong Hưng Mỹ mình đã có rồi, nhưng riêng Rau Dừa C vẫn chưa. Tại sao mà kỳ vậy hả ? Tại hồi làm thủ tục, Ban chính sách nhập nhằng làm lộn hai cột thoát nghèo với còn nghèo nên phải chờ làm lại". (Ở đây cũng có vài chuyện hơi bị… lãng xẹt hả, chị Ngờ, thí dụ như chuyện kéo điện, một xóm nhà lẽ ra phải cắm hai mươi cột nhưng dự toán thế nào chỉ cắm có mười tám, thành ra còn sót lại một khúc xóm, bà con phải xúm nhau tự mua điện giá trên trời mà chất lượng thì ở dưới đất)
Buồn cười, tới đây thì con Tư "lý trí" xuất hiện và chúng tôi cãi nhau. Cứ mỗi lần được nghe những quan điểm trái ngược nhau từ người dân và chính quyền, nó lại tới "để giữ cho bạn thật tỉnh táo. Tụi viết văn hay sống theo tình cảm, có lúc cũng không nên". Nên thấy cái cảnh tôi sụt sịt cảm thương, nó nhảy xổ vào, "Ở xã người ta nói ông Bảy nầy nhậu nhẹt tối ngày, mấy đứa con thì hổn hào, phá làng phá xóm, đừng thèm thương". Tôi hỏi, "Nếu bạn là chú thím Bảy, sinh ra những đứa con như vầy, bạn có buồn không, Trang hơn hai mươi mà thân hình như mười ba, mười bốn; Dương mười một tuổi mà thua cậu bé lên năm. Nhà lại nghèo như vậy, hỏi chú có buồn không ? Và nếu thiệt những đứa trẻ này không được tử tế lắm, có phải vì chúng thất học, chúng thiệt thòi không ?" Con Tư "lý trí" im lặng, nhưng nó không chịu thua, nó đang tìm lý lẽ để tranh luận tiếp, tranh luận dài dài.
Nên chúng tôi vẫn phải lườm lườm ngó nhau khi nắng cuối mùa đang đỏ úa trên đầu, chúng tôi vòng qua chợ Rau Dừa đi Thị Tường. Cái ấp Thị Tường của chị Ngờ của mùa gió chướng, của những bờ kinh bông so đũa nở trắng trong ký ức của chị đây, chị Ngờ ơi. Mà, thiệt buồn thay, cũng là Thị Tường làm tôm thất bát nhất trong số 13 ấp của Hưng Mỹ. Cả ấp có 365 hộ hết 105 hộ nghèo, năm nào huyện cũng lên cứu đói chừng năm ba chục hộ. Học trò từ cấp hai trở đi bắt đầu bỏ học, đi làm mướn, mà cũng phải làm mướn xứ khác, chứ đất này ai cũng như ai. Nhiều thanh niên của Thị Tường bây giờ đang ở biển, ở rừng, mỗi mùa gió chướng rao rao lại cồn cào nhớ quê xứ. Tôi nhớ có lần hỏi chuyện làm ăn của bà con ở quê nhà, chị nói, "Hồi đó Thị Tường có "ba không", không theo giặc, không bỏ Đảng, bỏ cách mạng… bây giờ "tùm lum không". Không gạo, không tiền, không cá, không rau cỏ…". Môi trường nước mặn quá khắc nghiệt, người ta sống còn muốn le lưỡi, nên gà vịt chim cò cũng vắng hoe. Qua nhà anh Tám Hải, thấy vẫn còn cặm cái bảng bán đất, nghe kể thì đã dựng bảng hơn một năm rồi, chẳng thấy ai tới mua, nghĩa là sổ đỏ vẫn ở ngân hàng, nghĩa là món nợ sáu mươi triệu vẫn còn nguyên trân đó. Chúng tôi ra chỗ Mũi Ông Lục, chỗ mà chị đã từng gọi là "đất trắng", mà thương chị thật lòng. Ở đây, cái thứ lau sậy lì lợm là vậy mà ngó bộ sống cũng vất vã. Chúng xơ rơ cháy đến phai cả màu vàng, chỉ thấy thân sậy trắng bệt ra, rụi ngọn trên những bờ đất khô nẻ. Không có một thứ cây nào khác sống ở đây ngoài những đám lau sậy này, nên trảng đất hoang vu tràn đến những bìa dừa xanh thẩm đằng phía chân trời. Nước dưới kinh trong tới đáy, thấy cả mấy con cá ốm nhằng lội tới lui. Khu vực này gồm 251 hecta, trước đây đất hoang hóa, cây tạp mọc thành rừng, máy bay Mỹ rải thuốc mấy lần, đất trở thành đất trắng. Anh Vương Thanh Dũng, trưởng ấp Thị Tường cho biết, "Chỗ này bà con mình cũng vừa vào đây khai phá hồi năm 80, 81. Nghe mấy ông kỹ sư nói cái thứ phèn này độc dữ lắm, nên hồi làm ruộng cũng thất te tua, lúa bắt đầu trổ là quéo ngọn, chết queo. Năm 99, nhà nước làm thuỷ lợi múc đê Ông Lục, dân Ông Lục năm đó mừng húm, vì làm lúa bắt đầu trúng. Nhưng cũng được có một năm thôi, bắt đầu chuyển dịch, bà con còn nghèo dữ hơn trước… Mới đây chừng hai tháng, ở Sở Thuỷ sản cũng có người xuống, nghiên cứu coi đất này hợp với cây gì, con gì, quy hoạch ra làm sao để tính lại con đường sống cho bà con. Mà, chắc cũng lâu…". Và sự chờ đợi đã mỏi mòn, nên trong xóm đã có người cho mướn vuông với giá rẻ để qua U Minh thuê đất ruộng. Nói chuyện mướn đất, anh Dũng kể cái hồi Cái Nước bắt đầu chuyển dịch, dân Đầm Dơi chạy qua mướn vuông quá trời, tưởng bên này cũng ngon như ở bển, nhào vô Mũi Ông Lục chừng năm rưỡi đã chạy mất, chạy không kịp trả đất. Rồi anh chùng giọng xuống, "tui thấy phải làm thuỷ lợi cho ngon dân mình mới có cơ hội thoát nghèo cô à".
Tới đây thì chúng tôi lại cãi nhau nữa, chị Ngờ ạ. Con Tư lý trí nó nói thiếu điều văng nước miếng, "Bà con cứ đổ thừa thuỷ lợi kém nên tôm chết, nên nghèo hoài là không phải. Ngay từ đầu Hưng Mỹ cũng như Cái Nước làm đề án là vụ lúa vụ tôm, tui nói đúng hôn ? Nhưng bà con mê tôm quá nên bỏ bê cây lúa, nên đất bạc màu, nguồn nước bị ô nhiểm, nên tôm lụi đầu, nên hỏng có gạo ăn, tui nói đúng hôn ? Đó, anh Huỳnh Công Trí, chủ tịch xã cũng có nói đó, bây giờ đã nghèo túng, nợ nần như vầy mà bà con còn dùng dằng chưa chịu làm vụ lúa vụ tôm. bà con sợ làm lúa rồi cực khổ hôm sớm chớ gì, tui nói đúng hôn ?".
Tôi không tranh cãi gì hết, tôi hỏi, "Bạn còn nhớ cái kinh Ngang chỗ nhà chú Sáu Tấn mình vừa đi qua không. Mùa này, kinh cạn chỉ còn non một thước. Xuồng chạy qua, sình cặn cồn lên đục ngầu, nước này thì làm sao bơm vào đồng đây. Ngược lại, bà con cũng không thể tháo nước, xổ phèn khi mực nước kinh thấp hơn cả trong vuông. Nên bạn thấy đó, những cánh đồng trơ nẻ đất như người ta bắc cái chảo lên bếp rồi kho cho cạn. Làm sao tôm không chết thành dịch khi người này vừa bơm nước ra, người khác lại lấy nước vào ? Ba tôi làm vuông ở Rạch Bộ Tời, đêm nào cũng canh chờ con nước lớn nửa đêm, cả xóm kinh rủ nhau ra tát, năm cái máy bơm hút nước chừng nửa giờ đồng hồ, rạch đã cạn trơ lòng. Rồi ai nấy ngồi thừ ra, muốn khóc. Nhà nước còn nghèo, lại thương hết thảy mọi người, nên nạo vét dàn trải ra, không đồng bộ, có con kinh ngang được múc nhưng hai kinh dọc thì không nên nước khó chảy tới lui. Hệ thống thuỷ lợi như vầy thì làm gì cũng khó, kỳ công rửa mặn, tháo nước để trồng vụ lúa trên đất nuôi tôm còn khó hơn. Vì chi phí cao lắm, tiền đâu ?".
Tiền đâu khi nợ cũ vay để cải tạo kinh mương hồi mới chuyển dịch bây giờ vẫn còn nguyên đó, trả lãi còn vất vả đừng nói chuyện hoàn vốn để vay lại. Người dân Hưng Mỹ nợ ngân hàng trên ba mươi tỉ đồng, hy vọng trả được rất xa xôi, mờ mịt. Anh Nơi, chạy đò bao ở chợ Rau Dừa kể, "Ông Trọng ngoài Ngân hàng công thương vô đây hoài chớ gì, chả biểu tui chạy đưa ổng đi lòng vòng để đòi nợ. Riết rồi tui biểu, thôi cha nội ơi, đi hoài cũng đâu có được gì , rồi mắc công cha nội cằn nhằn cử nhử. Coi cái cảnh bà con ở đây, chạy gạo từng bữa còn đuối nói chi trả nợ".
Nên có người lên tiếng, phải nhà nước chịu thấy đất trừ nợ, tôi buông xuôi cho rồi. Chớ bây giờ, nhớ tới nợ, ăn ngủ không yên, lúc nào cũng thấy bồn chồn.
Chị Ngờ ơi, tôi có cảm giác cái nghèo giăng ra sẵn những cái bẫy mà bà con nông dân mình đi lẩn quẩn thế nào vẫn quay về ngay trân chỗ ấy. Những người tốt, những người lam lũ cả đời chẳng được (hay chưa được) đền đáp.
Nhưng lạ là không bao giờ họ tắt đi niềm hy vọng, chị ạ. Bà con khoe với tôi, nghe râm ran mùa tôm về dài theo mé Đầm Thị Tường bên Phú Mỹ, bên đó mấy năm nay cũng khổ, nhưng bây giờ coi bộ dỡ lắm rồi, nghe mấy ông thầy coi nước nói năm nay tôm tép khá lắm đây. Tôi chưa mường tượng được về mấy ông thầy coi nước, không biết có giống thầy bói không, không biết có phải là những lời an ủi, vực nhau đứng dậy rồi bị đồn đại ra không nhưng tôi biết ơn mấy ông lắm lắm, khi nhen lại cái khát vọng sống trong lòng người Hưng Mỹ.
Ờ, sống để mà bước tới.

No comments:

Post a Comment