Sunday, March 6, 2011

Nước như nước mắt-Nguyễn Ngọc Tư

Nước như nước mắt

Truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tư


Đừng sợ hãi, dù vì nó mà người ta sống, chết… (*)


1

Chồng Sáo chết vì mấy lá ngò gai.

2

Nhà chức trách nói rằng họ đang tìm sự thật nhưng có thể chồng Sáo đã lẻn lên bè rẫy Đại Thanh trộm tài sản của họ, lúc người ta bắt gặp đã xảy ra xô xát nhỏ, anh lao xuống sông định trốn, chết nước là chuyện rủi ro không ai ngờ… “Những người đầu tiên trông thấy xác chồng cô đều chứng kiến trên tay anh ta còn cầm một sợi dây chuyền vàng đã đứt”, nhà chức trách bảo vậy. Sáo nói không phải đâu, anh Thi chồng tôi chỉ muốn lén hái vài lá ngò. Nhà chức trách hơi xẵng giọng, chúng tôi dựa trên nhiều bằng chứng quan trọng. Sáo cãi không phải đâu, chồng tôi cần có chút ngò gai thôi. Họ kiên nhẫn kêu vài nhân chứng tới nói mấy câu chuyện ngập ngừng.

Sáo cãi phăng đi. Ngay khi Sáo ôm xiết chồng đang nằm thõng thượt trên cái bàn dài đặt giữa văn phòng nhà chức trách, ngay khi nó vùi mặt mình vào cơ thể lạnh lẽo chi chít những chỗ tím bầm, ràn rụa tìm kiếm hơi thở của anh núp trốn đâu đó, trong rún, trong mắt hay ở bên sườn. Khi lướt qua đôi môi dập nát nó nghe phảng phất mùi ngò gai. Trời đất ơi, chồng nó đã nhấm nháp thưởng thức mùi vị chúng ngay khi vừa hái được. Anh vẫn chưa nuốt trôi khỏi cổ, ý nghĩ đó làm nó nghẹt thở. Người ta đang nhâm nhi ngò gai thì không ngó ngàng tới vàng bạc đâu, Sáo nói và xốc ôm chồng tha về ghe.

Dưới sạp ghe hai con cá Bạc Đầu đã chết. Cặp cá này sáu tiếng đồng hồ trước vợ chồng Sáo giăng lưới bắt được. Cá bị nước đuổi ốm tong teo nhưng chồng Sáo sướng quên trời đất, và như con nít, anh đứng múa may quay cuồng ở đầu ghe, kêu hết sẩy hết sẩy, nói phước đức ông bà để lại. Chưa bao giờ Sáo thấy anh hạnh phúc, hân hoan đến vậy, đến nỗi nó đã chạnh lòng ngay lúc đó, anh đâu có từng tỏ ra quý mình như quý cặp cá này.

Cá Bạc Đầu luôn đi thành đôi, là loại cá rất hiếm hoi. Sục sạo như chồng Sáo cũng chỉ một lần thấy chúng. Má chồng Sáo hồi còn sống thường thắt thẻo nói vợ chồng nào hiếm muộn con cái nuốt mật cặp cá Bạc Đầu thể nào cũng cấn thai. Bà hay ngồi ở cửa trước hóng coi trẻ con bên xóm đang chạy giỡn, tiếng thở dài của bà lửng thửng bay về phía Sáo nhoi nhói. Chồng Sáo cà rỡn, “bắt được cá Bạc Đầu rồi vợ con sanh một lần bảy đứa, cho má giữ mệt nghỉ…”. Má chồng không chờ được, lúc bà chết bên vách vẫn còn giắt mớ vỏ tỏi - thứ đàn bà đẻ dùng để xông da thịt cho thơm. Chồng Sáo vẫn phấn khích quăng chài xuống sông Sắc nuôi hy vọng, không hoàn toàn vì khao khát trẻ con. Chồng Sáo đã được ăn cá một lần hồi mười lăm tuổi mà mỗi khi anh nhắc lại nồi canh cá nấu mẳn, Sáo lại thấy nước miếng rỉ ra rưng rưng bên mép anh. Người Châu Thổ hay nói, bắt tao tả đau bụng đẻ ra làm sao chẳng khác nào kêu tả mùi vị con cá Bạc Đầu, tức là chẳng thể chia sẻ cảm giác với người khác nếu họ không tự mình trải qua. Sách “Bi ký” chép lại, năm 813 đã có một làng chài lưới bị tàn sát vì giữ lại cá Bạc Đầu mà không cống nộp cho vua. Một trăm ba mươi bốn người trong làng đã chết. Ba chồng Sáo quý cuốn sách đó như một gia tài nhưng nhà nó đã làm mất vào một bữa nước đột ngột dâng.

Giờ con cá của những đồn đãi, con cá huyền thoại, con cá vì nó mà người ta sống, chết đang nằm trong ghe nhà Sáo, đuôi màu xám đậm rồi phai dần cho đến phần đầu thì trắng muốt tựa bông lau chín. Cái chết cận kề không làm cho chúng thôi quấn quýt. Chúng chạm râu vào nhau khẽ khàng, như âu yếm như đờ đẫn, như dịu dàng lại như kiệt sức. Phải, nước đuổi đã quá hai tháng rồi, đến con người cũng phờ phạc bạc đi.

3

Mùa nước đuổi bắt đầu từ giữa tháng Giêng. Ngó nước bắt đầu linh đinh bờ bãi, người ở xóm Rẫy thở dài ứ hự, chắc năm sau ăn Tết trên ghe.

Cứ mỗi năm nước đuổi lại tới sớm hơn, mùa mỗi năm mỗi dài hơn. Tết chưa tàn vợ chồng Sáo đã lụi hụi dọn đồ đạc lên ghe, bông vạn thọ trồng trong cái khạp lủng để trước hàng ba còn chưa bung nở hết. Chồng Sáo cứ tiếc là ghe chật quá, không rinh cái khạp đó đem theo được.

Anh còn muốn bứng cả cây cỏ quanh nhà theo, nếu có thể. Nên trên ghe lủ khủ những bụi hành hẹ, sả, vài cây ớt, ít hẹ, ngò om… Mấy thứ cỏn con này hay làm chồng Sáo bận lòng, ăn cá chốt nấu cơm mẻ mà thiếu sả ớt, cá trê nướng mà không gừng… là anh băn khoăn lắm. Anh nói thà không ăn, chứ ăn vầy không đúng điệu.

Chồng Sáo ưa nói hai từ đúng điệu. Coi kìa, đêm nay trời trong nhưng trăng tròn quá nhìn không đúng điệu, phải khuyết chút ngó hay hơn. Nắng vầy mà có bóng cây để treo võng nằm chơi là đúng điệu. Con lá lóc này phải có rơm khô chất lên đốt nướng trui mới đúng điệu. Sống giữa trời nước bao la vầy mà không có nước để tắm cho đúng điệu, nghĩ mà tức.

Sáo nhớ chồng nó nói câu đó khi đang ngồi ểnh ra, se miết mấy ngón tay da cổ làm đất rụng xuống lả tả. Gọi là tắm khô, kỳ cọ bằng mồ hôi xong sẽ tắm ướt bằng hai gàu nước. Nhưng có bữa chồng Sáo tắm cả xô, tắm đúng điệu. Chữ đúng điệu nhiều lúc làm Sáo sợ. Nhất là khi nghe bảo “em nằm day lại tui gãi cho đúng điệu cái coi”. Đêm nào trước lúc ăn nằm với nhau bao giờ chồng cũng gãi lưng Sáo, trong một trình tự lớp lang đúng điệu, bắt đầu từ lúc những ngón chân cọ vào bắp chân Sáo, sau đó này sau đó kia, anh nhẩn nha đến nỗi nó thiu thiu ngủ luôn bỗng nghe cái gì đó xộc tới chới với. Nó không thích vậy nhưng không dám nói, biết đâu vì cái khoảnh khắc chới với đó mà trẻ con không chịu ra đời.

Sáo còn hồ nghi vì hai chữ đúng điệu mà nhà nó nghèo. Gieo mấy giồng cải, chồng Sáo nói lá cải chưa mướt mà nhổ bán là không đúng điệu, nhưng chờ tới lứa cào cào ở đâu bay lại ăn đám rau rách nát. Có năm trồng dưa hấu, thấy dưa lớn trái lại đang được giá Sáo đòi bán cho thương lái. Chồng bảo chờ cho dưa chín thêm ít nữa, cho da trái dưa căng bóng mới đúng điệu. Ai ngờ trời trở mưa một trận, không kịp cắt dây dưa nổ lụp bụp như pháo, nứt vỏ hết. Trắng tay.

Mùa đó là mùa dưa cuối cùng trên đất nhà Sáo. Năm sau nước đuổi tới nơi, cứ nghĩ nước tràn quanh quẩn những vùng gần biển thôi, nhưng nước theo sông ngày càng vào sâu hơn, tràn bờ bãi, ngấm vào chân ruộng. Người ta kéo nhau đi đào đất đắp bờ, nhưng đắp tới đâu nước theo tới đó, cơi nhà tới đâu nước ngập tới đó, không lẽ ở trên mái nhà, thôi kéo nhau lên ghe ở cho rồi. Cây trái tàn rụi, chỉ còn cỏ Đuôi Mèo là sống được, đem bán rẻ mạt cho những người chăn nuôi bò ở bên kia biên giới, chẳng được bao nhiêu tiền.

Chồng Sáo không lấy chuyện đó làm phiền, cả khi ôm cái lư hương cha mẹ rút lên ghe chờ qua mùa nước đuổi, anh vẫn làm mặt tỉnh queo. Cả xứ này bỏ đất mà đi chớ đâu phải chỉ nhà mình, chồng Sáo nói vậy. Chỉ một lần duy nhất chợt thèm ớt giữa bữa cơm, mà cây ớt đem theo đã chết queo, anh mới dựng đũa kêu trời.

Trời im ắng ở trên cao, trong ngằn ngặt, trong như nước mắt. Nắng quay quắt như vắt như vo con người thành những hòn đá khô khốc có thể lăn cọc cạch. Vợ chồng Sáo neo ghe ngay trên đất vườn mình, cạnh mái nhà mình, lây lất sống nhờ chài lưới những con cá nước đục còn sót lại ốm ròm trên mình đầy ghẻ lở… sau đó thì tới đám cá nước trong len lỏi vào sâu trong đất liền, hai đứa kiếm được chút đỉnh tiền gạo và không đến nỗi cực ăn. Nhưng có bữa chỉ bắt được cá Sầu Ngư, đành ăn cơm với muối hột.

Sầu Ngư bình thường vẩy màu xám bạc chỉ nhẩn nha ăn bèo rong trôi dạt, đến nước đuổi thân cá trở nên đỏ thẫm. Chúng có thể sống tỉnh queo nhờ rỉa xác súc vật chết trôi, trong đó có cả xác người. Chồng Sáo vừa ghét vừa ghê sợ chúng, anh xỉa xói, “Cái thứ ham sống tới nỗi bất chấp tội lỗi…”. Sáo mắc cười quá, mắng cá mà như mắng người.

Sáo đâu có ngờ có ngày mình phải bảo vệ chồng khỏi miệng cá Sầu Ngư.

4

Chồng Sáo ốm teo, nằm gọn đeo trong cái hòm được ghép tạm bằng mấy tấm ván ngựa xóm giềng giúp mò lấy từ dưới nhà lên. Lúc lau rửa cho chồng, men tay theo từng tấc thịt da dường như đang tan chảy Sáo thấy buồn quá. Không thể chôn xuống đất, người ta bày cách dìm hòm xuống nước, lấy dây buộc níu vô cột nhà, chờ nước rút mới đem âm thổ. Vị mặn của nước ngấm vào sẽ làm chồng Sáo lâu tàn rữa, họ nói vậy.

Xóm giềng lặng lẽ tiễn chồng Sáo. Cũng mệt mỏi và đuối sức như những con cá nước đục khắc khoải sống với cái vị mặn mòi xa xót của biển, họ chới với khi bị bứng lìa khỏi đất, khỏi cái màu xanh rười rượi của cỏ cây. Cả cái chết cũng không phải xa lạ, nó diễn ra mỗi ngày, người ta chết đuối, chết vì khát, vì thèm tắm, vì nhớ vị của trái ổi chát, vì giành nhau cành củi trôi sông…

Riêng chồng Sáo thì chết vì thèm rau. Hàng xóm bảo, không phải, nó chết vì nghèo đó chớ. Vì nghèo nên không đi ra khỏi cái xứ trần ai này được. Vì nghèo nên phải bỏ mạng vì gặp phải bọn cậy giàu coi sinh mệnh người như cỏ rác. Bứt mấy cọng ngò thôi mà, có phải thù oán gì cho lắm đâu mà nhẫn tâm quá thể? Sáo cũng muốn đi hỏi người của bè rau Đại Thanh câu đó. Sao vậy, tại sao, vì sao?

- Thời thế loạn rồi, đất không còn thì có thứ gì còn.

Ông bán xôi dạo thở hắt ứ hự. Ông nói bữa trước đi ngang bè rau nghe có tiếng kêu cứu, nghe trên đó rầy sao mầy không chết đi, sống làm chi mà làm khổ người ta. Không biết “người ta” là ai, mắc mớ gì tới cái bọn sống sung sướng trên cái bè rau đó.

Sáo nghe xong tưởng trong lồng ngực có thứ gì vừa đứt phựt, nó hức lên, anh ơi sao anh tới chỗ đó mà chết. Ủa, vậy chồng mình chết chỗ khác thì mình đỡ đau lòng hơn sao? Sáo giật mình nghĩ vậy khi vừa khóc dứt. Trong nỗi ân hận Sáo ngồi dựa vách ghe, mong xóm giềng cứ ngồi chơi, nếu không muốn nhắc tới chồng nó thì cứ nói chuyện bâng quơ, chuyện những vùng đất cao cẳng xa xôi nước biển không bao giờ đuổi tới, chuyện ở đâu đó con chó đẻ ra con dê, cây dừa có chín đọt… Hoặc họ không nói gì cũng được, ca hát cũng được… Nhưng họ phải về, phải sống. Cuối buổi sáng là nhà chức trách xả nước ngọt ở các máy nước công cộng, không kịp chèo ghe đi lấy sẽ không có nước nấu cơm, tắm giặt…

Sáo chỉ còn một mình.

Một mình.

Sáo lết đi bắc xoong cơm lên bếp lửa. Cảm thấy tay áo giở lên còn không nổi. Bụng không đói miệng thì đắng nhưng Sáo phải ăn, để chờ người ta trả lời tại sao chồng nó chết. Đợi chán Sáo lại chèo ghe tới chỗ nhà chức trách thăm chừng, khi thì thấy vài anh say sưa chơi cờ, khi thì thấy một anh ngủ gục bên bàn làm việc kệ ruồi o e trên mép. Hỏi thì họ chưng hửng nói cô còn đợi sự thật nào? Như thể có rất nhiều sự thật nằm nhấp nhổm trong ngăn kéo, và họ đang chọn một cái sự thật hợp với tướng tá xơ rơ, túi áo lép kẹp của Sáo.

Hơi thất vọng, Sáo chèo trong chảo nắng mặn trở về, bỗng nín thở nhìn thấy cái lưng dài nhằng của chồng mình trên mái nhà. Em chồng Sáo mang nó về, cả đôi chân mày rậm. Nó thảng thốt hỏi chị Hai làm gì vậy. Sáo nói chị đâu có làm gì. Trời ơi chị xởn tóc chị xơ cờ kìa.

Em chồng nhìn Sáo như thể kêu Sáo nín đi, như thể Sáo xởn tóc là một cách khóc. Sáo chỉ gượng cười rồi luýnh quýnh đi nấu cơm cho em chồng ăn, bận bịu làm sự sống quay trở lại trong nó. Sáo đã quen sống và làm lụng vì ai đó. Như bà nội Sáo vì thương chồng mà bơi xuồng đi cưới hai bà vợ bé cho chồng, như má Sáo vì chuộc chồng khỏi núi nợ ở trường gà mà phải bán hết đất lên ghe sống lênh đênh. Năm mười chín tuổi, nghe má ao ước “lúc chết được nằm trên đất của mình”, Sáo lấy chồng. Lấy người má nó chọn, lý do “thằng đó có tới chục ngoài công đất”. Sáo nhìn thấy chồng lần đầu khi anh đang ôm con gà tre đi trên đường, miệng ngậm vung vinh cọng cỏ mần trầu, nó tự hỏi đây sẽ là chồng mình sao? Lễ ăn trầu uống rượu rồi, chồng vỗ mông Sáo, nó lại hỏi đây là chồng mình sao? Hôm cưới nghe chồng phả hơi rượu nóng rực vô vành tai, vẫn hỏi chồng mình đó sao? Nhưng lúc Sáo cài khuy áo lại, ngó cái người đang lật ra ngủ queo đó, nó nghĩ đây là chồng mình. Nghẹn căng ứ mũi.

Má Sáo vui lắm, gói ghém mấy lễ, bà mua hai công đất dành để chôn. Nhờ con gái hiếu thảo mà thím đổi đời rồi, má giả đò vu vơ khoe với một khách thương hồ quen, không lâu sau, anh ta cũng lấy con gái nhà giàu dưới chợ.

Nước đuổi vào sâu Châu Thổ, đất – thứ mà vì nó mà Sáo lấy chồng – trở nên vô nghĩa, như cái tên xóm Rẫy mà còn cái rẫy nào đâu.

Giờ đến cả chồng, Sáo cũng làm mất.

Em chồng rút trong túi xách ra bộ đồ tây mới cáu đặt cạnh đôi dép da mà nó đã mua cho chồng Sáo từ năm trước. Món quà còn nguyên niêm mạc, chồng Sáo chưa đi lần nào, anh nói chờ kiếm có quần áo đẹp mặc cho đúng điệu. Có lần đi chợ gặp em chồng, Sáo kể, nó buột miệng chửi thề, “Má, thằng cha cầu kỳ quá, con nhà lính tính nhà quan…”. Giờ thì em chồng im lìm ngồi vuốt mớ đồ của anh nó. Bao giờ chồng nhập thổ, Sáo sẽ chôn chúng theo.

Ngó cái cảnh đợi công lý của Sáo, thằng em chồng cười khào, con dao bấm trên tay cứ lè lưỡi ra tanh tách, sáng quắc. Nó nói “công lý ở trong tay mình mà, chị Hai…”

Em chồng đi giang hồ từ nhỏ, lưng em giờ đã hai mươi hai cái thẹo, đó là những lần em thực thi công lý hay bị công lý của nhóm giang hồ khác thực thi lên. Không thẹo người ta không biết mình dân giang hồ, em khoe vậy, giống như ở chợ hay gắn chữ văn hóa cho người ta biết là có văn hóa vậy. Em chồng cũng thường khoe công lý của em nhanh hơn, luật của em công bằng, sòng phẳng hơn. Không tin không được, nhiều lần nó tìm lại những món đồ nhà Sáo bị trộm lấy đi, dù chúng đã bị thay hình đổi dạng, bị tháo rã ra bán đầu một nơi mình một nẻo. Nó còn dẫn thằng ăn trộm về biểu, "xin lỗi anh chị Hai tao, mầy !", và thằng kia cun cút cúi đầu.

Nhưng đó chỉ là thằng trộm nhỏ thó hom hem, giờ em chồng Sáo sẽ đối đầu với một bè rau đông người lắm của. Em chồng đi rồi Sáo nóng ruột bồn chồn quá, như thể chỉ cần vo gạo rồi ôm cái nồi vào bụng, gạo sẽ sôi thành cơm. Mấy bữa sau nghe ở mấy máy nước công cộng người ta hể hả bàn tán, nói xe hơi của nhà Đại Thanh dưới chợ bị đập phá, tụi giang hồ còn đánh thuốc chết mấy con chó, tưới xăng định đốt biệt thự may mà nhà chức trách tiếp cứu kịp.

Bữa sau nữa, người ta rủ Sáo đi coi một bảo vệ của bè rau bị dìm chết. Sáo không đi, nó không chắc mình sẽ hả hê khi nhìn thi thể đó. Sáo sợ cái bàn lạnh ngắt giữa căn phòng lạnh ngắt, nơi hơi thở một con người bỗng dưng biến mất. Ở đó, biết đâu cũng có con đàn bà gột rửa da thịt chồng bằng nước mắt, mong gọi những hơi thở trở về.

Nhưng buổi tối hôm đó Sáo đã phải xuôi ghe tới văn phòng của nhà chức trách, vì em chồng Sáo. May phước, em chồng không nằm trên bàn mà bị trói gô, khiến cái lưng dài thượt gần như cuốn tròn lại. Sáo thở phào nhẹ nhỏm dù hoàn cảnh của thằng em hiện giờ rất cay đắng. Vậy mấy bữa qua Sáo đã bồn chồn lo lắng cho ai? Nó tự hỏi, người mướt mồ hôi lạnh. Ngó vẻ mặt đờ đẫn của Sáo, em chồng cố an ủi mà giọng nói cứ nghiến sít sìn sịt :

- Chị buồn con c. gì, tụi nó bắt tui như bắt cóc bỏ dĩa. Chỉ uổng là tui chưa kịp bẻ cổ thằng Giang.

Câu nói làm Sáo rúm ró. Sáo biết người đàn ông tên Giang đó, lầm lì ít nói, da ngăm đen mắt sâu, hai bàn tay đều chai. Và tóc gội sương gió cứng đến nỗi nếu ai đó để anh ta gối đầu lên đùi, họ sẽ nghe vừa nhột ran vừa đau nhoi nhói. Người đó đã từng hiền lắm, ngập ngừng mãi mới dám nắm bàn tay con gái, nhưng theo lời em chồng Sáo thì giờ anh ta đã đổi thay quay quắt như con cá Sầu Ngư. Sáo muốn đi tìm coi anh ta nhuốm đỏ tới mức nào.

Sáo sẽ đi. Nó quyết định vậy khi nhìn theo em chồng bị người ta đưa đi mất. Nhanh đến nỗi Sáo nhận ra công lý thật ra đâu có già nua hay chậm chạp hay đui mù. Sáo thấy mình vừa mất hết, cả người thân cuối cùng và chút niềm tin cuối cùng. Nhưng cái cảm giác đó thật sự rõ ràng khi nước bắt đầu rút, Sáo đào xuống năm lớp dá, rồi kéo cái thứ đất ngâm lâu bủng beo trong nước đó, đắp lên cho chồng.

Chờ những mầm cỏ Đuôi Mèo lún phún lên xanh, Sáo chèo ghe đến bè rau Đại Thanh. Nhắm mắt thì nó cũng chèo được tới cái chuỗi xanh ngằn ngặt ở ngã ba sông Sắc, chỗ sông Mê cắt qua.

5

Bè đang tuyển người làm. Những nhân công cũ sợ giang hồ đòi công lý nên xin nghỉ quá nửa. Sáo bị xua đuổi ngay khi trờ tới, họ nhận ra vợ của thằng oan gia bứt ngò. Nhưng vì người ta biết Sáo nên nó vẫn cắp cái nón trong nách nấn ná chờ. Hồi lâu có người kêu, cô kia tên gì để tôi ghi hồ sơ? Ông ta hỏi mà vẻ mặt thảng thốt như không hiểu cái câu vừa rồi sao lại tuôn ra khỏi miệng, như thể đang nghĩ mướn con này chẳng khác nào rước giặc vô nhà, sao ông chủ mình ngu vậy?

Cũng ngơ ngác, Sáo nói tên mình. Ngay lập tức trên danh nghĩa nó trở thành người của bè rau. Dù Sáo chỉ muốn tới hỏi người đàn ông tên Giang đó có thật đã muốn chồng nó chết không. Sáo nghĩ người đó sẽ im lặng hoặc nói không, vậy đỡ quá. Chối bỏ nghĩa là còn biết sợ hãi. Nhưng con rể của nhà giàu Đại Thanh, người quản lý bè rau mênh mông này, anh ta nói có. Anh ta nhìn thẳng vào Sáo, nói có, nó – đáng – chết…". Anh ta vẫn rám nắng chắc chắn vạm vỡ như năm bảy năm trước, mắt vẫn rười rượi sâu. Mặt anh ta phẳng lặng, giọng cũng đều đặn thản nhiên, mà buốt nhức :

- Em sẽ làm gì tôi?

Sáo chết trân. Nó không biết. Nó đinh ninh là anh ta sẽ chối bay chối biến và nó cắp nón ra về, an ủi mình đã tìm được sự thật giống như sự thật. Nhưng anh ta thừa nhận, trâng tráo như Sáo không thể làm gì được. Sáo sẽ chạy tới nhờ nhà chức trách đang ngủ gục hay sẽ đòi công lý bằng dao bấm giống như em chồng?

Ngơ ngác, Sáo bỏ đi. Vài ba bận chèo ghe trở lại, cũng chừng ấy lần lủi thủi quay về, Sáo nghi chắc tại phải chèo xa mệt mỏi nên sự căm thù hao hụt. Nó quyết định ở lại làm công cho bè rau. Ở đây nó sẽ tích tụ được những cơn giận dữ, đến khi chúng căng chật, nổ tung thì đường đến căn phòng của tên gian ác cũng gần.

Và nơi này làm cho Sáo không bao giờ nguôi oán giận. Sáo gánh nước tưới những giồng ngò gai và tưởng tượng cái tối chồng mình khoái chí nhấm nháp chúng, chắc anh không kịp rửa, chắc trong cái vị cay nồng có lẫn oi oi mùi rơm mục. Sáo ngồi bó rau bồ ngót ở sàn nước và nghe gan bàn chân tê tái bởi ý nghĩ chồng mình đã bị người ta đánh đập, lăn lộn đau đớn ở đây (dựa theo sự thật của ông bán củi). Trầm mình dưới khúc sông bên hông bè để ủ rơm tươi, Sáo đánh dấu lên dòng nước chỗ người ta đã dìm chồng nó xuống (vịn vào sự thật của thím bán bánh dừa).

Có lần lửa bùng lên tới mặt, Sáo đã chạy tới căn phòng đó, khi xô cửa bỗng bàn tay Sáo chui tọt vào vạt áo. Một đứa trẻ đang ngồi trong lòng người đàn ông, nó đang vùng vằng cằn nhằn cha không biết chải tóc làm đầu nó đau lắm luôn. Anh ta nhác thấy Sáo liền nói, “cô để lần sau…”. Ừ, Sáo không muốn khi xiên con dao trong túi nó qua ngực người đàn ông đó lại có đàn bà và trẻ con trông thấy. Đi men theo những giồng gừng về dãy nhà ngang nơi dành cho những người làm công ngủ, tiếng con nít thỏ thẻ vướng chân làm Sáo trợt chân té sấp. Nó gượng bò dậy khỏi những vũng nước săm sắp, nghĩ phải chi mà vợ chồng nó cũng có đứa con như vậy, chắc bọn nó sẽ có nhiều chuyện để nói với nhau, sẽ không phải tìm kiếm mỗi đêm dù nó mệt đến rã rời, chỉ muốn ngủ thôi. Và đứa con sẽ làm Sáo thôi nhớ tháng ngày trôi nổi.

Trưa thứ bảy ca nô đưa trẻ con ra bè, chiều chủ nhật trẻ con vào trong chợ. Vợ của người đàn ông, tức bà chủ của Sáo thì tới bè mỗi buổi chiều, lúc các máy nước công cộng đã khóa chặt và những người không lấy nước kịp sẽ ghé qua chỗ chị ta mua nước với giá cao. Cuối chiều cho tới nửa đêm, thương lái nườm nượp tới để giành giật nhau từng bó rau, chị ta đứng bán rồi sáng hôm sau cũng biến mất sau con đê kiên cố sừng sững như tường thành bọc quanh thành phố. Nó cao tới mức những người lam lũ như Sáo cảm giác bị bỏ rơi, bị rời ra, thấy mình nhỏ nhoi như kiến, cỏ. Nó nhắc nhớ nắm xương của ba Sáo đã lạc mất bên dưới tầng tầng lớp lớp nhà cao. Nó nhắc nhớ ba mươi sáu bậc thang mà Sáo đã dò dẫm từ mặt đê xuống ghe cùng với xác chồng.

Nên nhìn thấy bà chủ là Sáo nghe giận. Chị ta cứ lai vảng hoài nên mỗi tuần Sáo chỉ còn lại chừng bốn mươi tiếng đồng hồ để tiếp cận kẻ thù, mà không phải lúc nào kẻ thù cũng ở một mình, bởi người làm công cứ dập dìu qua lại. Trắc trở nhiều khi đến từ trong Sáo, bởi đôi lúc đứng nhìn một vạt cải con xanh non, đôi lúc đi ngang giồng quế đang trổ bông, hay bước chân giẫm lên một lá gừng già… mùi thơm nồng nàn làm người Sáo lỏng lơi ra, nhẹ bỗng. Vậy đâu có được. Nó ở đây để đòi công lý cho chồng, sao lại quên chỉ vì mùi hương của những thứ cỏ cây này.

Nhưng trước những đọt ổi non, những giồng rau húng lủi, đống rơm mới…Sáo vẫn không cầm lòng nổi. Sáo đã nhớ chúng biết bao nhiêu, từ khi nước đuổi lấp ló phía chân trời.

6

Sáo sống gần như đơn độc trên bè. Thui thủi. Bạn làm công dè dặt, đám bảo vệ canh chừng, và Sáo biết mình đi đâu làm gì cũng có người ngó theo, khi da diết khi mãnh liệt, khi hờn mát khi chua chát. Có cảm giác người ta rọng nó ở lại bè rau chỉ để Sáo quẩn quanh trong tầm mắt, nó không phải thả ghe chơi vơi chài lưới chật vật kiếm sống trong mùa nước đuổi.

Sáo hơi tuyệt vọng, nó vẫn chưa trả được thù chồng. Người xóm Rẫy ghé qua bè mua rau đổi nước cắt Sáo bằng ánh mắt căm ghét đến rát mặt, ý nói "thứ người gì tệ bạc, đi làm tôi mọi cho giặc...". Sáo càng nôn nóng, sợ năm dài tháng rộng mớ màu xanh ngằn ngặt trên bè sẽ loang hết mảng tím bầm trong lòng nó. Vậy đâu có được. Nhưng kết thúc bằng cách xiên một mũi dao thì quá dễ cho anh ta. Cái cảm giác sống mà mất hết, nhìn thấy mọi thứ chung quanh tàn rữa mới ghê. Nhưng những thứ mà kẻ thù yêu quý Sáo đều không thể chạm vào. Trẻ con, đàn bà, và cả những giồng rau trái thênh thang trên bè - thứ mà mùa nước đuổi trắng xóa những chân trời, chúng là vàng. Có thể anh ta còn thứ quý giá hơn, Sáo đang tìm kiếm. Nó tới gần anh ta hơn, tới mức có thể nghe giữa những cơn nín thở là tiếng nuốt nước bọt lục cục trong cổ họng. Có lần vô tình cùng khiêng chung một cái lu, Sáo bỗng thấy cảnh này sao giống đôi vợ chồng đang chuẩn bị đón mưa đầu mùa, ý nghĩ làm nó giật mình buông tay làm lu rớt xuống mấy ngón chân anh ta tươm máu. Sáo đau, đến nỗi nó tin rằng nếu lưỡi dao thấu qua ngực anh ta chắc nó là người gục xuống.

Phát hiện đó làm Sáo về luẩn quẩn gần mộ chồng ân hận cả ngày. Oán đong đầy lại. Sáo bắt đầu ráo riết tìm kiếm, bằng cách nhìn rười rượi vào mắt anh ta mỗi khi chạm nhau giữa mấy luống cà chua, dưa chuột. Bằng cách vu vơ hát lên một câu hát cũ, hoặc ra ngồi nhìn trời nước chỗ cây quao. Trời ơi, khi mà mỗi tấc đất trên bè này đều là một tấc vàng, thì người ta bứng trồng lên đó một cây quao, chẳng làm gì cả, trái không ăn được lá lại hôi rình.

Anh ta không thèm giải thích. Con người kỳ cục đó hùng hục làm giàu, nhưng có khi Sáo thấy anh ta đứng ngó bạn hàng vây quanh vợ mình, ngó những xấp tiền xập xòe bằng cái nhìn trống rỗng, tựa như chúng vô nghĩa. Dù nhiều tiền thì gì cũng có, có cả nhà chức trách hồ hởi ghé chơi. Bạn làm công lâu năm vui miệng kể hồi lập bè anh ta cũng chỉ nói với vợ một câu, “tôi ra sông làm rẫy, em ưng thì theo…” Bè dứt khoát phải đặt ở ngã ba sông Sắc, người xóm Rẫy đi chợ đằng nào cũng phải ngang qua. Vợ anh ta nghĩ chắc chồng nhớ sông, nhớ quãng đời lênh đênh nên quyết ra bè sống. Sau này nước đuổi, rau trái quý như vàng, bên nhà vợ khen con rễ biết nhìn xa trông rộng. Sáo nghe chuyện nghĩ, thì anh ta hại chồng nó chết mà có giải thích gì đâu.

Mỗi khi nhìn những bông quao trắng muốt, Sáo nghiến ngầm trong bụng, thằng gian ác thằng gian ác, mình căm thù mình căm thù mình căm thù. Như thể không đinh ninh vậy thì Sáo sẽ coi anh ta như người yêu cũ mất. Vậy đâu có được.

Một bữa người ta cho phun thuốc khắp nơi trên bè. Mọi bán mua vốn đang tấp nập bỗng dưng ngưng bặt. Bà chủ của Sáo cũng không trèo đê ra với chồng. Tắm đêm giữa chừng Sáo để nguyên quần áo ướt xông vào căn phòng người đàn ông đó. Anh ta nằm im lìm như mặt ao ngày không gió, cả khi bọc tay nó trong bàn tay chai cứng vì từng chèo chống sông hồ.

- Em đi với tôi nghen…

Sáo muốn khóc. Câu nói này Sáo đã nghe lần đầu dễ chừng bảy năm trước, hồi chưa lấy chồng. Sáo đùng đưa chân khỏa nước trên sông, nói má em bệnh không ai lo. Lần thứ hai ngồi dưới chòm quao lập lòe đom đóm, nó nói má em nhận lễ của người ta rồi. Lần thứ ba là vào một mùa mưa, bữa đó đi chợ, đứng đụt mưa ở hiên nhà người ta, gió tạt làm hai ống quần sũng nước, Sáo bỗng nghe ai đó nói “em đi với tôi nghen…”, như tha thiết như thương hại, xót xa… Nó đi hết chặng đò rồi, về tới nhà vẫn còn nghe. Chục bữa sau vẫn nghe. Sáo không đi chợ nữa, cần gì thì chồng đi hoặc nhờ hàng xóm tiện thể mua giùm.

Nhưng Sáo có cài bao nhiêu cửa, có ngồi miết trong buồng thì vẫn nghe “hãy đi với tôi…”. Bằng thứ âm thanh chỉ mình nó biết, nó nói đâu có được, tui mắc nấu cơm cho chồng tui, người khác không biết ý ổng nấu ăn sẽ ấm ức lắm. Như bữa ở chợ Sáo nói mắc đi mua chỉ về cho chồng vá chài. Sáo luôn phải bận bịu, vướng víu vì ai đó, dù đôi lúc giữa đêm Sáo mặc lại áo, nó nghĩ nếu đi với Câu Nói thì giờ chắc mình được ngủ rồi.

Lần cuối cùng Sáo nghĩ tới chuyện nắm tay Câu Nói ra đi, là khi chồng Sáo nhảy lên chiếc xuồng câu bơi đi hái trộm ngò gai nêm canh cá Bạc Đầu. Nhìn theo anh rẽ lân tinh lấp lánh như con tôm mon men vào ven đó, Sáo nghĩ, nếu con cá, cọng ngò có thể làm anh vui vẻ tới vậy, thì không nó cũng không sao. Nó muốn có một đứa con được tạo thành bởi tình yêu chớ không phải bởi phép màu của cá. Đang nghĩ bùi ngùi bỗng có người tới gọi, chồng bây bị người ta đánh té xuống nước chết queo rồi. Sáo chôn cất cuộc đi, vì mắc tang tế, đòi công lý cho chồng, cúng quảy người nhà chồng. Chớ ai.

Hôm đó, Sáo chôn cất luôn những ý nghĩ chạy trốn vẩn vơ. Giờ người đàn ông này lại bảo, “Em đi với tôi nghen – Cũng câu nói hôm xưa, giờ nhuốm màu vô vọng – Chồng em có còn đâu…”. Sự vô vọng của năm chữ đằng sau phả hơi lạnh tới cả cái gật đầu của Sáo, ừ thì đi.

7

Cả hai không xếp hành lý, thậm chí không lấy ghe, cứ ào xuống nước bơi về phía bờ mà ai cũng biết là đã không còn bờ từ nước đuổi. Sau lưng, bè rau càng lúc càng rực rỡ. Ngọn đèn chong Sáo kê sát vách mùng giờ chắc đã bén lửa lan vào tận những đụn rơm phía ngoài. Người đàn ông bơi cạnh Sáo không một lần ngoái lại. Sáng hôm qua khi tiễn con gái nhỏ trở vô trong chợ, anh ta đã xiết nó đến nỗi nó kêu đau. Như không có lần sau. Giây phút đó Sáo nhận ra thứ anh ta quý nhất, đến nỗi sẵn sàng từ bỏ tất cả để có được. Là Sáo.

Nó rớt nước mắt. Đi cùng nó có gì vui đâu mà người này cứ đòi phải đi cho được, bảy năm trời không chịu thôi. Ừ vậy thì đi. Hai đứa bơi mãi trong ánh lân tinh réo rắt dìu dặt. Nước tràm trụa trên mặt, nước mặn xót mấy cái chân răng. Bơi đến kiệt sức, đến trống rỗng, đến mức có thể chìm trôi, có thể quên hết quá khứ. Chớ Sáo biết đi đâu với người đã vô tình làm chồng nó chết, bởi một cơn nóng giận, bởi một lầm lẫn, tưởng đạp rào là sẽ được bước qua.

Quanh hai con người đau đớn, cá Sầu Ngư đang nhơ nhởn họp bầy.

… Đoạn, có người hỏi rồi hai đứa đó ra sao. Tôi không biết, tôi đâu có lội theo chi. Thấy đi thì biết đã đi, vậy thôi.

(*) Từ Bi Ký
Trên tay có đá
Nguyễn Ngọc Tư

Trên một ngọn núi cao lêu đêu đứng khều mây, có ông thầy.
Lần đầu tới chơi thầy kêu bỏ mấy cục đá xuống cho rảnh tay múc giùm ta gàu nước. Bạn cãi ủa con có cầm đá gì đâu. Thầy cười, khi nảy con định ném đá cho bể đầu ông xe ôm dưới chân núi mà. Tại thằng cha đó lấy tiền công mắc quá, mới chạng vạng mà tính giá gấp đôi lúc ban ngày, bạn ngoay cái miệng phân trần. Thầy lại cười, mấy chục ngàn đó cũng còn rẻ, vì chở con là chở theo một đống đá, nặng lắm chớ đâu phải chơi.
Giọng thầy không có chút cà rỡn nào, làm bạn ngờ ngợ ngờ ngợ ngờ ngợ miết. Không nén được, bạn xòe tay ra coi và thật kỳ lạ, bạn thấy trên tay mình thiệt tình là có đá. Thiệt tình là bạn đang lăm le chực chờ ném vào người khác, giống hệt cái cách người đời hăng hái ném nhau.
Bạn về nhà rồi, chuyện mấy cục đá cũng lẽo đẽo theo về, đeo bám dai dẳng. Đôi khi bạn bĩu môi lườm nguýt ai đó, mắng xiên chửi xéo ai đó... mà thấy rõ ràng là mình vừa ném đá vào người ta. Đôi khi viết một đoạn chữ mà thấy lổn nhổn nặng nề như đá. Đôi khi chỉ nói nửa câu mà thấy người nọ rúm ró vì đau. Ném đi rồi thấy sướng phút đó, hể hả phút đó nhưng dường như người không nhẹ bớt, vì cục đá thiên hạ ném trả bạn nhặt lấy mang theo bên mình, rình chờ cơ hội chọi lại.
Những hòn đá đó không bao giờ rơi xuống đất, bởi không người này cất thì người kia cũng cầm. Vì nó mà mình đau nhưng người ta vẫn giữ gìn để tiếp tục làm đau người khác, hòn đá được ném đi ném lại trong một hành trình sát thương không ngơi nghỉ. Sách nói vậy. Sau này, bạn nghiền ngẫm sách thiền các loại, bạn nghiên cứu kinh Phật, Kinh thánh, kinh Coran...
Bạn cố không lẫn lộn giữa chê bai và lăng mạ, giữa phê bình và đạp đổ, giữa gièm pha và hạ nhục... để nếu có ném đi thì chỉ là những hòn đá con con. Thấy chưa ăn thua, bạn hay lên núi nói chuyện với ông thầy học cách làm sao bỏ đá khỏi tay. Ông thầy cười nói phải có cách nào thì ta đâu có bỏ chạy lên đây, ở một chỗ chỉ có mây và vài nhà hàng xóm. Ít người lại qua, ít va chạm, ít thị phi thì đỡ phải ném đá nhau...
Nhưng bạn ở một chỗ nào? Chỗ mà sáng sớm dừng ở đèn đỏ có kẻ chạy xe lấn đường xước cả tay bạn. Chỗ mà sáng sớm phát hiện ra chị kia thản nhiên cân thiếu. Chỗ mà sáng sớm anh cảnh sát giao thông ngoắc bạn lại kiếm tiền lót tay. Chỗ mà sáng sớm mở trang báo thấy bao nhiêu chuyện nát lòng: chó người giàu cắn chết người nghèo, mẹ ngược đãi con, chồng giày vò vợ...
Chưa hết, biển thông tin đưa bạn tới gần những sự thật, ở đâu đó người ta đào bới tận diệt thiên nhiên. Ở đâu đó có những đứa trẻ bị đẩy ra đường phơi mưa nắng kiếm tiền khi vẫn còn ẵm ngửa. Ở đâu đó có những người phụ nữ bị bán mua rẻ mạt...
Bạn nghe lửa bốc lên đầu, giận đầy ứ họng. Căm. Uất. Ngột ngạt. Nghe đá ở đâu bỗng chất oằn cả người, kẻ thủ ác mà đứng trước mặt bạn dám ném cho họ chết lắm. Nhưng đó là “ở đâu đó...”, giờ chuyện xảy ra ngay ở quê hương bạn, cách chỗ bạn chỉ hai mươi cây số. Nghe đâu, coi bản tin thấy hai vợ chồng trẻ người mà tàn ác man rợ, nhục hình tra tấn thằng nhỏ làm công mà tỉnh bơ như thở, như ăn, có một bà già quê đập bể tivi rồi xách dầm xuống xuồng bơi đi “đi đánh hai đứa ác ôn đó coi tụi nó biết đau không?”.
Như thể hết cách rồi, đá phải được đáp trả bằng đá. Bạn giận mình sao không được như bà già đó. Những cuốn sách về nghệ thuật buông bỏ, hạn chế sân hận trải rộng tình thương... đã trở nên vô nghĩa.
Không thể buông bỏ ở cái thời thế còn ngổn ngang này. Đến cha mẹ mà tàn tệ với con, không phải loạn thì là cái gì. Ông thầy trên núi gọi điện thoại xuống, nói ông coi tivi rồi. Lặng đi giây lát, ông nói “ta thấy sợ...”. Ông thầy sợ vì tôn giáo mà ông đeo đuổi làm sao cứu rỗi được người đã đánh mất chất người. Còn bạn sợ vì luật pháp làm sao cải tạo, thay đổi được người mà không phải người. Sách nói không có gì là rác hết, bạn đã từng tin vậy nhưng giờ chê sách xạo, thiệt tình.
Tội ác biết đâu nảy sinh từ những cú ném đá lặt vặt nhỏ nhít mà người ta không nhận ra. Cho đến một ngày...

Mùa bông cháy
Nguyễn Ngọc Tư

Tôi dừng xe dưới hàng tràm bông vàng tạm trốn cái nắng rừng rực trên đầu. Uốn dẻo thân người đang cứng đờ như manơcanh vì ngồi xe máy suốt mấy giờ đồng hồ, rồi ngẩn ngơ nhìn khoảng sân tràn ngập bông giấy bên kia sông. Hoa đỏ như cháy.


Hạn đang chếch cuối mùa. Đi dọc theo những con đường xóm quãng này thường ấn tượng những giàn bông giấy cứ rực lên dưới nắng. Có cây nở bung như pháo hoa, không còn một chiếc lá nào, chỉ cành cong bông trĩu. Có cây bông lấp mất cành. Gặp bông trắng cảm giác như dịu nắng, gặp bông đỏ tưởng đâu lửa của bông loang sức nóng ra trời.
Những xóm làng nằm theo con lộ làng mê mỏi thiu thỉu giấc ban trưa. Bên đường thưa vắng người. Lâu lắm mới thấy vài bà cụ già vừa nhai trầu vừa phe phẩy nón trước hàng ba. Vài con chó nằm ườn ra thè lưỡi thở dốc. Nhiều con mương cạn trơ lòng, chơ vơ cái cầu ao thành ra không thấy con nít tắm truồng. Cũng chỉ gặp năm ba đứa chạy chơi vào cái ban trưa thời trốn ngủ. Cỏ cây tàn tạ, lớp cháy sém, rụi ngọn, lớp còi cọc. Chỉ những cây phượng, cây bò cạp nước, râm bụt và đặc biệt là cây bông giấy bất chấp cái hạn dài khắc nghiệt, tuôn đổ hoa ra biển nắng. Những loài cây hơi giống nhau, khi hoa bắt đầu bung nở đến kín cành thì lá thưa vắng hẳn.
Thứ bông giấy này chịu nắng giỏi nhứt hạng, đất nào cũng chịu, tưới càng ít nước, càng cằn cỗi càng chịu trổ bông. Người bán quán nước xập xệ bên đường khoe vậy, khi tôi săm soi cây bông giấy già bên rào. Chị nói trồng nó từ hồi mới về nhà chồng, giờ thằng con đầu đã mười hai tuổi. Chồng chị mấy bữa rày đi tiếp chữa cháy rừng bên lâm trường. Mà bình thường anh cũng vắng nhà đi làm mướn suốt. Đang mùa giáp hạt mà, làm có vài công đất thì xài đâu vô đâu. Có năm chưa hạn là chạy gạo rồi, nên giờ “ai có móng nấy bươi”… Nghe giọng chị không phải người miền này, chị nói “Bà già ẵm tôi ngoài Quảng dạt vô, lúc đó tôi nhỏ quá nên quên trần ai cơ cực ở xứ đó rồi. Nên nhiều khi thấy khổ quá tôi than là bị bà già cằn nhằn, nói, khổ cùng khổ tận như tao mà sống được tới giờ…”
Ly mủ gòn chị làm đúng điệu miền Tây, trong khi nước đá đầy ứ tới miệng ly thì đường cũng ngọt lừ dưới đáy, lẫn trong hương dầu chuối có mùi đậu phộng rang. Nước mát đến nỗi chạy tới đâu hay tới đó. Ban nãy khi tiễn tôi ra khỏi cái quán tuềnh toàng của chị, người phụ nữ khum tay che nắng chói, nói thấy mây đùn ở chân trời đen kịt thấy ham quá, không biết chừng nào ông trời mới chịu nhỏ hột xuống cho nhờ…
Nhưng cũng ngó về chân mây xám đó, một anh bán kem vừa trờ tới đụt nắng chung với tôi dưới hàng tràm bông vàng, đã thở hắt lo âu. Sắp tới mùa mưa rồi, kiếm miếng ăn vất vả cho mà coi. Mây thành mưa là cái đường xóm này sẽ thành bùn sình lầy lội, đi bộ còn vất vả nói chi lai dắt xe kem. Anh bán kem than. Áo anh ướt rượt mồ hôi, vẳng ra một mùi vừa mặn vừa chua khẳm. Chiếc xe đạp đeo theo thùng kem cũ mèm đang dựa vào một gốc cây và nó vẫn vẳng ra một điệu nhạc quen nhàu nhĩ. Bộ dạng anh bán kem lọm khọm như một ông Chà Và ngồi thổi sáo dụ rắn ra khỏi hang nhưng tiếng sáo vừa khàn vừa hụt hơi nên rắn không ra múa. Bớt liên tưởng và văn vẻ đi là bầy con nít không bu theo anh như hồi xưa tôi từng sướng run sướng rẩy khi người bán càrem lắc cái chuông leng keng từ đằng xa. Trẻ con giờ có nhiều đồ ăn ngon hơn món kem làm bằng đường và hương liệu công nghiệp rẻ tiền. Hoặc tụi nó cũng thèm kem lắm nhưng nhà chúng như những xóm nghèo khác đang ở mùa giáp hạt. Mùa chạy gạo.
Mùa hoa cháy. Anh bán kem cũng ưa bông giấy, nhân tiện ngó về chân trời mây đen đang đùn ngọn, thấy hoa chói chang bên sông. Anh nói nắng tới nỗi người ta còn héo ngắc ngoải mà bông giấy trổ thấy ham, thấy cánh mỏng dính vậy mà chịu trận mạnh dạn thiệt. Ờ thì cái phận người của chúng ta cũng mỏng manh vậy, mà ham sống thôi là ham, tôi nghĩ bụng. Lúc chuẩn bị chở bài hát cà rem đi tiếp, bỗng anh khoe, “Lay lắt vậy mà thằng nhỏ tôi sắp qua được năm nhứt đại học Cần Thơ rồi đó cô…”.
Tôi thấy thật sống sượng khi so sánh người đàn ông đen đúa khô khòng này với cái cây bông giấy đang cháy hết mình như lửa, ở bên sông. Nhưng tôi vẫn không thể không liên tưởng vậy. Trong mắt tôi lúc này chỉ có anh bán kem hối hả đi về phía mây đen và cây bông giấy đỏ.
Không biết hạn năm sau tôi có được gặp anh đụt nắng dưới hàng cây này để khoe thằng con đã sắp hết năm hai, hiển nhiên như gặp lại những vầng bông cháy.

Trời ở nơi nào ta ở đây…
Nguyễn Ngọc Tư

Chị tính đi kiện công ty nhà đất, chủ đầu tư khu dân cư mà chị đang ở. Chị nói họ tráo trở nuốt lời. Họ hứa giữa xóm này sẽ có công viên và chứng minh bằng một bản đồ quy hoạch chi tiết, chị từng bò ra coi kỹ, rõ ràng họ vẽ một cái khoảnh tròn tròn nhỏ nhắn và ghi trên đó hai chữ "công viên". Ngay lập tức chị nghĩ tới những vòm cây xanh mát, những bầy chim sẻ chim sâu, những lối đi trải sỏi lâm râm chồi cỏ, những cái xích đu, băng đá nhỏ, vài khoảng trống cho trẻ con đá bóng đá cầu. Ngay lập tức chị nghĩ tới bầu trời. Và ngay lập tức chị quyết định mua mảnh đất gần công viên (còn trên giấy) đó, dù giá đắt hơn những chỗ khác.
Giờ thì cái ô nhỏ xíu đó mọc lên trường… chính trị. Người ta xây tường rào trước cả khi xây những dãy lớp học ngang dọc. Mỗi khi ngó thấy con chị mon men chạy chơi bên ngoài bờ rào cao và cốt gác cổng to đùng, chị cảm giác như bê tông đang sừng sộ trẻ con, ê tụi mầy đừng hòng bước chân vô đây.
Khoảng không đó, vòm trời đó đáng lẽ của trẻ con của khu phố này, chỗ chúng thở, chúng chơi. Giờ người ta giành giật cả những cái mà đám trẻ chưa kịp có, chị nói không phải em bé bị cướp thì là cái gì ? Thương lắm. Có tối chị làm cô giáo bất đắt dĩ cho con, nó hỏi "bao la" là gì. Chị ừ à thì là… Giải thích nghĩa hai chữ "bao la" thì dễ, nhưng dẫn chứng, làm cho trẻ con mường tượng hình dung khó. Bao la không phải là cái nhà ta, không phải con đường, càng không phải sân trường con học... Tóm lại "bao la" không có ở trong thành phố, chị kết luận. Em bé gật gù, hèn gì con không biết bao la lần nào. Thật ra nó đã gặp bao la một lần, vào năm sáu tuổi. Cả nhà đi biển chơi, và hôm đó màu mây như màu nước biển làm người ta không phân biệt được đâu là đường chân trời.
Chị thì đã sống với bao la cả một thời thơ ấu, nhưng “bao la” cũng như những từ ngữ gợi cảm bay bỗng khác, đã lâu rồi mất biệt trong thành phố. Chỉ buổi tối ngồi học cùng con, mới nhớ. Tinh khiết. Trong ngần. Mơ màng. Khẽ khàng. Dìu dặt. Vời vợi… Chúng gợi lại một ban mai dát một lớp sương mù mỏng trên những vườn chè, những sợi khói lơ đảng xiêu xiêu bay lên khi lửa đốt đồng đã tắt, những vạt bông lau vừa chớm chín ngụp lặn trong dòng gió non…
Nhưng ký ức em bé đâu giàu có vậy, với nó, từ ngữ chỉ là từ ngữ trơ trụi, chẳng gợi chút gì. Có bữa hai mẹ con tới quán ăn, chị cố tìm một chỗ có tầm nhìn, hoặc gần cửa sổ hoặc cửa chính, một chỗ vừa tránh bớt khói thuốc lá nồng nặc vừa hóng hớt được chút nắng trời gió trời không khí trời ngoài đó, chị phát hiện ra cái không gian ngột ngạt này cũng có thể làm chết người, trước hết là chết tâm hồn, chết những ngôn từ. Thời gian ngồi đó thường thì chị chỉ nói mỗi một câu với con, "ăn lẹ lên đi con, trễ học rồi kìa…". Chị nôn nao muốn mau mau thoát khỏi chật chội này để rồi rơi vào chen chúc khác. Mỗi lần bày ra trước mặt trang giấy trắng định kể một câu chuyện, cảm thấy chữ nghĩa ngày càng thưa vắng, cùn mòn…
Chúng rơi rụng ở những lần kẹt cứng giữa dòng người kẹt cứng.
Chúng mai một lem luốc giữa đám khói bụi mù.
Chúng tan tác trong tiếng còi xe.
Chúng bị chìm trôi vật vờ trên những con đường chìm trong nước và rác rưởi.
Không có những từ ngữ ngọt lành dịu dàng nào sống sót trong thành phố, nếu có cũng bị giẫm đạp. Những buổi tối bứt con ra khỏi ti vi, chị rủ nó đi dạo ngang qua ngã ba đường, đứng lại chốc lát dưới cây hoàng lan để nhặt trong khói thịt nướng quặt quại bay lên từ quán cơm tấm… một chút mùi hoa, mỏng manh mà nồng nàn. Chị nói với em bé về “ngan ngát” thì tháng sau người ta bật gốc hoàng lan để làm vỉa hè.
Diễn tả cho chính xác, đó là mất mát.
Nhưng em bé của chị, cả cảm giác mất mát cũng không có. Nó bị kẹt giữa hai màn hình ti vi và máy tính, nó bị nhốt trong mảnh sân con… nên có bữa nó nói muốn ăn cơm với cá khô nhưng không có tư cách; ti vi bị tắt lúc bộ phim hoạt hình đang gay cấn, nó giãy nảy nói mẹ giở trò với con. Chữ của nó rắn đanh, lổn nhổn và khô khốc. Tối nào nó cũng vật lộn với môn tiếng Việt, đổ quạu vì phải học những từ ngữ lạ hoắc chẳng bao giờ nó có cơ hội dùng, bứt rứt không biết "dòng sông là một đường trăng lung linh dát vàng" là cái gì, sông sau nhà mình rác ơi là rác hôi ơi là hôi. Chị vét tới đồng tiền dành dụm cuối cùng cho cuộc chuyển nhà này, vì cái ô tròn tròn có chữ "công viên" đó, hy vọng em bé sẽ yêu mấy chữ "thênh thang", "lồng lộng", "bầu trời"…
Giờ ôi thôi, chỉ vòm trời con con còn bị người ta lấy mất. Chị tính đi kiện. Vì những em bé xóm mình. Vì những hy vọng bị giẫm đạp của mình.
Củ khoai, chờ đấy
Huyền thoại không thể chấm hết

Nguyễn Ngọc Tư

Cái nắng chang chang được nhân đôi. Khát nhân đôi, quéo cổ họng. Mệt nhân đôi, rã rời. Lần nào nhìn thấy hình ảnh con rồng bêtông loè loẹt uốn éo nằm trên đường lên núi, cũng có cảm giác đó. Cũng tự hỏi, trời ơi, mình leo lên núi này làm chi, ta?!
Câu trả lời cho buổi chiều cuối năm này là ta tưởng núi có cây. Ngay lần đầu tiên tới đây, ngó ngọn núi xanh um đứng sững giữa trời là ta thấy mê rồi. Nhưng núi như cô nàng mặc yếm, ngó đằng trước có áo nhưng đằng sau lồng lộng thịt da. Ảo tưởng chấm dứt khi bắt đầu bước lên những bậc thang đầu tiên lên núi. Nơi có cây thì không có lối mòn. Chỗ có đường đi thì không có cây. Chỉ có chùa miếu nằm rải trên sườn núi, đi chừng chục bậc đá lại có người rủ ghé cúng bái. Lâu lâu thấy thò ra mấy con rồng đồng bóng rực rỡ màu sơn theo trường phái nghệ thuật “hàng mã”, cùng với voi bêtông nai bêtông đứng nằm cạnh gốc cây bêtông.
Sực nhớ tới tin vắn trên báo bữa qua về triển lãm tranh của một chàng hoạ sĩ chuyên vẽ phong cảnh, chỉ phong cảnh. Điểm lạ là tranh của chàng không một bóng người, chỗ nào có người thì chỗ đó đâu còn gì đẹp nữa, chàng nói vậy. Không biết chàng đã lên núi này chưa ta, có cảm giác nghẹn họng thắt ngực khi thấy người ta cưa phứt cái cây để trơ gốc dùng làm bàn trà chưa. Chắc không núi này thì cũng núi khác, không trảng cỏ này thì cũng cánh rừng khác.
Không có cây. Người sống ở lưng chừng núi chống cái nóng mùa hè cháy trên da thịt bằng…cổ tích. Một ông áo nâu (giống như người trên núi này ưa chuộng áo nâu, hoặc họ là sư hoặc cho giống sư) đang bện võng bằng những sợi dây được se lại từ vải vụn nói núi này thiêng lắm, mấy chục năm bom đạn vậy mà không có trái bom trái pháo nào rơi trúng, quân mình ở trên này khoẻ re. Có thần thánh chở che hết mà, ông già nói bằng giọng ngút ngất tự hào. Ông hỏi vừa rồi mấy cô cậu trèo lên có thấy bên tay phải có tảng đá giống bàn chân không? Chân Tiên đó. Gần tới đỉnh thì có giếng Tiên, chỗ tiên hồi xưa xuống tắm. Trước đây người ta thấy Phật toả hào quang trên đỉnh núi hoài.
Ta quạu sẵn vụ không có cây, định hỏi vậy chú thấy lần nào chưa, nhưng kịp dừng lại, không thôi hối hận sao. Ông ta mù. Suýt chút nữa là ta bị đôi bàn tay đan võng lẹ làng, những bước chân lẹ làng lúc đi lấy khăn lạnh bán cho khách… lừa. Ta dịu giọng dù nắng vẫn loá bưng con mắt, hỏi bán buôn có khá không chú. Ông cười mắt không một lần chớp, nói bèo bọt lắm cô ơi, đủ ăn là may phước, nhờ thánh thần phù hộ cả.
Rồi ông trở lại kể chuyện thánh thần, như người kia ở chỗ kia đau gan nặng lắm nên lên núi cầu may, lúc xuống núi khối u rụng mất tiêu; như người nọ ở chỗ nọ bị chồng bỏ chồng chê, lên núi cúng bái chồng mê lại liền; như người ở chỗ ấy giàu mà thất đức, thả chó cắn chết người nghèo vô vườn mót củi, bữa đó người đó lên núi chơi đá lở lấp mất luôn… Ông trời có mắt mà, ông kết luận, có lòng thành thì cho đi gì nhận lại nấy, tôi đây tối nào cũng bái lạy trời đất hết.
Cũng may là ông mù nên không nhìn thấy vẻ cười cợt mỉa mai trên mặt ta, nhưng có thể ông cảm nhận được sự chán chường trong hơi thở, trong cách ta bồn chồn bẻ mấy ngón tay, như ông nhận ra càng ngày người hành hương càng thưa vắng, càng ít tiếng bước chân è ạch ngang qua căn chòi ông đang trú qua mưa nắng. Khách du lịch thì tới một lần thấy nai giả nằm dưới gốc cây giả thì không quay lại nữa. Ở cái chỗ đá trọc nắng chang này chỉ có cách trồng trọt canh tác huyền thoại mà sống. Núi càng thiêng, thần thánh càng thiêng thì khách tới càng đông, ông bán được nhiều khăn ướp lạnh. Ta thầm hiểu vậy nhưng để bụng thôi. Nhưng mấy nhóc học trò ngồi nghỉ chân hóng chuyện gần đó chưa hiểu đời tới cỡ đó, một đứa vô tình vọt miệng, “ủa vậy đêm nào cũng lạy mấy chục lạy mà sao thần tiên không làm cho bác Hai sáng mắt cho hết khổ?”
Ông già khựng lại, sượng trân (*). Nghe trong tiếng đá lông chông rơi xuống núi nhỏ dần nhỏ dần rồi mất hút như tiếng huyền thoại tắt lịm. Trông vẻ mặt hụt hẫng của ông, ta bỗng giật mình biết đâu ông thật sự tin vào cổ tích, ông sống vì nó, hy vọng ở nó và chiều nay đứa trẻ kia đã làm đổ nát ít nhiều.
Trên đường xuống núi với hai cái gối chùn mỏi, bỗng dưng ta tự hỏi, cái vụ đá lở vùi kẻ ác là có thiệt không ta? Sao tự dưng ta thấy hy vọng quá à, bởi có lúc không thể tin vào công lý của người, thì thử tin công lý của trời thử coi sao.
Biết đâu ông già đúng, núi này thiêng lắm chớ không phải không, bằng chứng ta đã xuống núi bằng một ta khác…
(*) Dân gian gọi là “mất lửa”
Ông Cà Bi ở Xẻo Quao
Tản văn

Nguyễn Ngọc Tư


Cái nửa giống chòi nửa giống nhà chỉ có hai tấm vách. Cột cặm vào đất liêu xiêu như hết thảy mọi thứ trong nhà cũng liêu xiêu, chỉ cái bàn nhổ mạ được trưng dụng làm bàn thờ là đứng vững. Lại gần hóa ra cái bàn thờ cũng bị mọt ăn rách ván. Ngồi dưới võ lãi ngó lên nghĩ nhà ông Cà Bi này nghèo quá xá, càng tới gần càng nhận ra chẳng những nghèo mà là nghèo thứ thiệt, nghèo tận mạng, tới cái võng ông già nằm ngủ trưa cũng te tua.

Đoàn thiện nguyện ai nấy đều ái ngại xót xa. Mấy năm nay rủ nhau đi làm từ thiện, cảnh nghèo gì cũng thấy qua nhưng nghèo kiểu ông Cà Bi thì lâu lâu mới gặp. Trong nhà không thấy món đồ nào đáng giá chừng hai mươi ngàn, đến mùng ngủ mà chỉ có nửa cái. Có người mò vô bếp thấy cơm cháy trong cái nồi móp méo với hai con cá sặc kho khô quắt. Ông già Cà Bi dửng dưng ngó khách lục lọi nhà mình, ngồi uống trà khà khà. Chẳng nhận ra ở ông chút tủi buồn nào. Hỏi ông sống bằng gì, ông nói cắm câu, mần mướn, ai kêu gì cũng mần. Hỏi nhà chỉ có hai vách thì ăn ở sao, ông nói mùa này nắng nôi, qua để trống vách cho mát. Chừng nào mưa tính tiếp. Ai đó rưng rưng chỉ cái nóc nhà thưa thấu trời lồng lộng, ông già cười, “chỗ ngủ với bàn thờ vợ qua có che ni lông rồi, chỉ cần không ướt hai chỗ đó…”. Hỏi trong túi có tiền không, ông nói tiền để rải rác trong xóm. Anh thanh niên địa phương dẫn đường sợ khách xa không hiểu, giải thích, “ý ổng là ổng sẽ có tiền khi người ta mướn sên đất, dọn dừa, hay đắp bờ lên liếp…”.

Lúc ngồi dưới võ thì anh thanh niên tả sơ sơ chân dung ông Cà Bi. Anh nói ông này làm buổi sáng đủ tiền nhậu thì chiều không làm nữa. Có khi làm suốt tuần bỗng nghĩ ngang, ăn xài hết phần tiền đó rồi lại vác dá đi lang thang kiếm việc. Một năm nhà ông Cà Bi ăn tới bốn cái Tết, mỗi Tết ít nhất cũng mười ngày. Có tiền trong túi đồng nghĩa với hội hè, ông Cà Bi ta sẽ đủng đỉnh rong chơi. “Chơi kiểu đó ổng nghèo là phải…”, anh thanh niên dường như giận.

Giận là phải. Khách cũng thấy hơi giận. Ông già có vẻ tự hào về việc ham chơi dẫn đến “vô sản” của mình. Thay vì ne nép trước nhà giàu, ông già ngồi trên bộ vạc cau (cũng) rách mà điệu bộ khoan thai khoái chí như đang tiếp khách ở… Dinh Độc Lập. Vợ chết, ba đứa con đã dựng vợ gã chồng làm ăn xứ khác, ông già kiếm sống một mình. Ông treo võng trên mấy cái cây trồng quanh nhà, nắng sớm nằm đòng đưa bên vách Tây, chiều ngủ khò bên vách Đông tránh mặt trời. Quỡn thì cuốc bộ đi chùa, cách đây chừng mười cây số. Nhà không điện, nước sạch, không tivi, radio cũng không và tất nhiên là không cửa (đâu có cần thiết).

Vậy mà lúc anh giám đốc ngân hàng thay mặt đoàn thiện nguyện tặng ông già phần tiền an ủi đời nghèo, ông già chỉ giữ lấy một tờ giấy bạc năm mươi ngàn, còn bao nhiêu đưa trả lại.

- Nhiêu đây đủ cho qua rồi. Mua gạo ăn tới ngày mốt, dư ra chút đỉnh đong rượu nhâm nhi chơi. Ít bữa nữa đi sên đìa cho bên xóm là qua có tiền. Phần còn lại này chú em đem cho thằng Tám bên sông giùm, con nó bệnh nặng dữ lắm – Nói rồi ông Cà Bi lỏn lẻn nhét tiền vô túi cười phô ra ba cái răng xếu xáo, mặt tỉnh rụi - Có tiền nhiều giống như có con vợ đẹp, mắc công giữ…

Anh chủ nhà máy gạch bất mãn, anh có tiền tỉ mà còn chưa thấy đủ kìa, sá gì ít chục ngàn… Anh nói cũng phải để dành tiền phòng khi đau bệnh chớ chú, mà không lẽ chú ăn cơm không, phải có thịt thà cá mắm… Ông già Cà Bi vận cái quần cộc nhuộm mủ chuối lem luốc, chờ qua cơn nghẹn nước trà mới khề khà bảo đau yếu sơ sơ thì uống thuốc nam, cây cỏ ở đất Xẻo Quao này nhiều thứ nên thuốc lắm. Đau nặng nữa thì bất quá chết, có tiền cũng chết mà. Còn cá mắm hả, chậc, cần thì chống xuồng qua Trảng Sen thiếu cha gì. Mà, mấy chú có qua Trảng Sen chơi chưa ? – Ông già bất ngờ hỏi.

Chưa. Sáng nay họ đã tính đi tặng quà cho bà con nghèo xong sẽ ra Trảng Sen chơi, nghe khen chỗ đó còn đẹp và hoang sơ lắm, nhưng ai cũng sợ chiều không về kịp, mà một số người còn phải đi suốt đêm nay để về lại Sài Gòn, nhiều công việc, nhiều tiệc tùng, hò hẹn, nhiều hợp đồng làm ăn quan trọng đang đợi. Ông Cà Bi nghe qua chậc lưỡi lắc đầu chua xót nói, “tội nghiệp không !”.

Ngữ điệu của ông già làm khách giận lắm, xuống võ chạy đi xa rồi mà còn giận. Chúng tôi đây không lười biếng ham chơi, đầu tắt mặt tối làm ăn kiếm tiền để cuối năm đi thơm thảo với người nghèo như vầy là quá tốt, ông già nói tội nghiệp là tội nghiệp gì ?! Anh thanh niên địa phương xoa dịu nói ông già đó tưởng đâu ai cũng ham chơi như ổng.

Nhưng khách còn giận ông Cà Bi, tới mức quyết định ra… Trảng Sen chơi. Cái ông già nghèo xác xơ đó có gì mà lại thương hại cho tụi ta chớ…

Con trai. Và má…

Nguyễn Ngọc Tư


Tết năm kia bạn tham gia một vở ca kịch mừng giao thừa trên quảng trường. Chương trình được truyền hình trực tiếp, má bạn coi ti vi thấy vậy liền lấy điện thoại gọi lúc vở diễn đang giữa chừng, nói tết nhất rồi bây còn vẽ mặt hề ca hát chi nữa, thay áo xống đi. Về ! Bạn xoa cái bụng ông Địa độn vải chang bang của mình, nói chờ con chút nữa má ơi. Sau, lúc kể với tôi bạn nói, “thì dặn cho có vậy, chớ bà già tao chờ tao tới suốt đời”. Tết đó bạn bốn mươi ba tuổi.

Tôi với bạn không thân, có khi cả tuần mới ngồi chung nhau ở bàn, ở nơi gần như duy nhất là quán cà phê Văn nghệ. Nhưng tôi quen má của bạn, một bà già tuổi trên bảy mươi, đẹp người. Mỗi tháng bà ăn chay bốn ngày. Bà bị say xe, đi Sài Gòn lần nào cũng gọt củ sắn đem theo nhai cho đỡ nhộn nhạo trong ruột. Buổi sáng đi chợ thay vì vô tiệm phở bà chỉ ăn nắm xôi, hay một ổ bánh mì trơn, số tiền còn lại bà chắt mót bỏ ống cho bạn cất nhà. Bà có cái đầu tóc mượn làm tóc rụng của mình, chính mình nhặt nhạnh. Đôi lúc đọc mấy mẫu chuyện con con bạn viết, truyện nào cũng có nhân vật má, bà kêu kiếm gì đó viết nhắc tới ba bây, kẻo ổng buồn.

Tôi chưa gặp bà má đó lần nào, những gì tôi biết đều do bạn kể. Ngoài cà phê đá, sữa đậu nành… ngồi với bạn, tôi được thưởng thức thêm món “bà già tao…”. Như một ám ảnh. Ngọt ngào. Quán nằm giữa lòng thành phố, nhưng có khi bạn làm tôi thấy bóng người đàn bà ngồi câu cá chốt giấy làm khô gởi ra chợ cho con, bà hái bông so đũa về nấu chua với cá rô đồng. Tôi thấy bà ngồi trong bếp, thêm lửa cho đáy nồi dày cơm cháy (món này bạn khoái). Những ngày Tết bà hay lảng vảng gần chỗ mấy đứa con chơi bài cào, hóng coi coi đứa nào thua nhiều, bà lén luồn tiền cho nó.

Và bạn luôn là người thua nhiều nhất. Bà má bận lòng với bạn nhất. Lần nào về trong mớ hành lý của bạn cũng nhồi nhét bao nhiêu là quần áo quăn queo, má lục lọi ra, ôm đi ủi. Qua cửa là bà ngó từ trên xuống dưới, lúc bảo cạo râu bớt đi lúc chê tóc dài quá phủ cả lỗ tai, mà để móng tay chi dài thượt thiệt ngứa con mắt. Bạn hí hửng, bị rầy mà vô cùng hí hửng, má càm ràm bạn coi bằng như má hát ru vậy.

Bạn không bao giờ nói kiểu như tao thương má, nhớ má lắm lắm. Tình cảm của bạn đặt vào những câu chuyện, những ký ức, những kỷ niệm có thể đã cũ kỹ rồi hoặc còn tươi rói mới hôm qua, lần về thăm nhà gần nhất. Nơi bạn sống cách nhà sáu mươi cây số, lâu lắc vài ba tháng bạn mới về một lần, nhưng cảm giác bạn chưa bao giờ bỏ má đi đâu quá một ngày. Lá bay ngoài đường rơi bạn mơ màng “bà già tao tầm bốn giờ sáng là xách chổi đi quét lá ngoài sân…”. Một người bán quà rong đi ngang qua bạn chép miệng, “bà già tao ưa bánh phồng nếp nướng…”. Ngồi trong quán ngó trời mưa, mà mắt bạn ngậm sương như thể trước mặt thấp thoáng dáng một người phụ nữ đang súc rửa mấy cái lu, đắp đất be quanh nền nhà chống ngập, lấy tấm cao su căng che cho mùng con khỏi dột.

Bạn là họa sỹ, kiêm viết văn xuôi, làm thơ kiêm diễn viên, và ca vọng cổ nghe cũng mùi. Chữ của bạn luôn có hình ảnh bà mẹ tần tảo với đầu tóc mượn xức dầu dừa, kim tây cài miệng túi áo, chân đi dép Lào, nồng mùi dầu gió. Nhưng khi vẽ, hiện diện trên tranh bạn nhiều nhất là trẻ con. Những đứa trẻ đang giỡn đang chơi, xúm xít với nhau hồn nhiên ngước mặt ngó trời, bình an và nhẹ nhõm. Như thể khung tranh đã che khuất bà mẹ chúng đang ở gần đâu đó, đang bao dung dõi theo, ngó chừng bảo bọc cho, tôi có cảm giác đó. Nhưng cảm giác cũng đầy chủ quan, tôi bị ám ảnh bởi thứ tình cảm kỳ lạ mà bạn dành cho má, đôi khi chỉ vì một lần giọng bạn trở nên thảng thốt, “bà già tao nằm đau ở Sài Gòn…”

Đôi khi, tôi học từ những câu chuyện thảng hoặc, nhát gừng, vô chừng của bạn cách làm mẹ, làm con. Và cũng có lúc tôi hơi nghi ngờ, không biết chi tiết này câu chuyện kia có thật không. Nhưng điều đó không quan trọng, dù bạn viết truyện ngắn bằng lời, thì ba chữ “bà già tao…” từ cái miệng râu ria rậm rạp của bạn cũng lan ấm áp rung cảm sang tôi.

Bạn kể, má sinh bạn khi thai chưa đầy bảy tháng. Sinh non. Èo uột, bạn được nuôi dưỡng trong bệnh viện cho tới khi về nhà má đã mang bầu đứa nữa. Đứa trẻ chưa được ôm ấp bao nhiêu thì nhường vòng tay mẹ cho em. Câu chuyện đó nhen trong tôi một cảm giác lạ lùng, biết đâu bạn nuôi dưỡng trong mình một tình mẫu tử cực kỳ phức tạp, ngay từ lúc bé thơ, mà tôi chưa hiểu thấu. Và những sớm mai, tôi biết bạn hay trông tôi tới, bởi tôi luôn chăm chú ngồi nghe bạn nhắc “bà già tao…” với tất cả háo hức, tò mò. Là người viết, tôi mong giải mã một tình cảm hơi kỳ lạ, người ta vẫn thường thương má, nhưng ít ai thương ám ảnh kiểu như bạn.

Đến nỗi, tôi đoán chừng bạn không lấy vợ vì chưa tìm được người phụ nữ nào giống như má bạn. Và bạn còn nghèo má bạn còn mãi xót xa. Bạn còn lông bông văn nghệ văn gừng là má bạn còn cằn nhằn rầy la… Dường như bằng cách này bạn giành lấy tình thương của má, khi trót sinh ra dưới một mái nhà đông anh chị em. Má ở đầu nguồn, nên bạn mãi là con cá lìm kìm suốt đời bơi ngược nước?

Ai đó sẽ nói rằng bạn ích kỷ, chỉ nghĩ tới bản thân mình, nhưng dường như quyền phán xét chỉ thuộc về người mẹ. Biết đâu bà cảm thấy vui, an ủi, khi những đứa con lớn khôn đã lần lượt rời khỏi tầm với của bà, chỉ bạn là mãi loay hoay, lẩn quẩn vướng quanh chân. Ứ hự cái thằng nghề nghiệp lêu bêu, chưa vợ, chưa nhà cửa…
Xe miền Tây

Nguyễn Ngọc Tư


Người ta mở một đường bay từ Sài Gòn về Cà Mau. Mỗi khi có dịp đi khỏi nhà, mình lại có thêm một lựa chọn hoặc níu cánh máy bay vượt dặm dài hoặc leo lên xe đò đi túc tắc; hoặc loay hoay ngồi chưa ấm chỗ đã vụt đến nhà hoặc rị mọ tám giờ đồng hồ ê ẩm mông, đau nhừ lưng, đờ cả cổ. Và mình thường chọn cách thứ hai.

Mình gọi đó là “liệu pháp đường xa” mỗi khi cần phải chống sốc vì phải đi về giữa hai môi trường sống, hai thế giới khác biệt. Quả thật thần kinh mình hơi… mỏng. Nên hoang mang gửi lại ngã ba Trung Lương. Đãi bôi bỏ bên cầu Mỹ Thuận. Ấm lạnh người đời mình thả xuống bắc Cần Thơ. Hội hè miên man bỏ lại ở quán ăn bên đường, cùng với được mất đắng cay sau những ngày rời tổ. Có quá nhiều thứ phải bỏ lại, và mình cần có thời gian. Cũng may đường rất dài mà xe chạy thì chậm rãi, nhà cũng xa vừa vặn để mình trở lại là mình (hoặc gần giống mình).

Cũng có khi đi xa tới vùng đất nào đó rất xa, nhớ miền Tây quá lúc quay về mình dứt khoát leo xe đò. Vì ở đó có ít nhất ba thứ đặc miền Tây mà hầu như trên chuyến xe miền Tây nào cũng có : nhạc bolero (hoặc vọng cổ), dầu gió, và… người miền Tây (thí dụ như mình).

Thứ nào mình cũng chịu được, nhất là chịu được cả mùi dầu gió Kim, Nhị Thiên Đường, Trường Sơn… nồng nặc trên một chiếc xe kín mít rù rì máy lạnh. Người miền khác ưa không vô. Có lần ngồi cạnh một anh cứ phe phẩy tay trước mũi chê hôi, mình muốn… nhéo anh ta bầm dập để anh thuộc cho rành cái câu nhập gia tùy tục. Thưa anh xứ này người ta bôi dầu gió lên mũi cho ấm, chà xát lên lưng trừ cảm cúm thông thường, uống cả dầu gió những khi đau bụng, hôi gì mà hôi. Tôi đây nè, mới chui ra khỏi bụng mẹ đã được tẩm dầu khuynh diệp, chưa đầy tuổi đã ngủ cùng bà ngoại, nghiện mùi cốt trầu, dầu gió đến nỗi không ngủ được lúc bà đi đâu vắng.

Mình không quen chủ doanh nghiệp nào bán dầu gió để hỏi coi miền Tây hoang dại này mua của anh (chị) nhiều bao nhiêu, nhưng rõ ràng là miền Tây vẫn còn ăn dầu gió thở dầu gió. Ngồi xe đò thì thấy rõ, có nhiều thím bị say xe cứ như tưới tắm bằng dầu. Mình vài ba năm trước cũng hay say, trước khi đi chuẩn bị nào gừng nào củ sắn nào dầu gió xanh… trước khi lên xe còn lượm cục đá bỏ vô giỏ. Nghĩa là vài ba năm trước mình còn… hôi, theo như cách nghĩ của anh bạn đường đến từ xứ khác, xa xôi.

Dù vậy, mình cũng thòm thèm xoắn áo động tay, vì chê bai dầu gió chán anh lại than vãn mấy cái bài bolero đang ca trong xe văng vẳng. Bài “Gió thổi bên sông” quặn lòng là vậy mà anh ta phì cười đã thấy giận rồi, chuyển qua “Đồi thông hai mộ”, “Chuyến đò không em” cảm động gần chết, mà anh nhăn nhó vậy có phải khó coi, ứa gan không ? Nếu vậy thì “anh tài xế ơi, có nhạc nào mùi hơn nữa thì mở lớn lớn nghe chơi. Hương Lan, Thanh Thúy hay Cẩm Ly… cũng được”, mình chọc tức anh chơi mà cả xe nhao nhao góp lời, “Ừa, được đó”.

Thôi anh chịu khó, xe đò miền Tây nó vậy, bolero cũng như dầu gió, không có sao thành… miền Tây. Nếu anh đừng nôn nóng, đừng phủi như phủi bụi ngay từ đầu, anh sẽ thấy trong mỗi bài ca có một vài câu được lắm, ngọc nằm trong đá chớ đâu. Đây Phố đêm “đèn mờ giăng giăng/ Màu trắng như vì sao gối đầu ngủ yên…”; đây Đường xưa lối cũ “có em tôi tóc xanh bay mơ màng/ Đường chiều dịu nắng, bóng em đi áo nâu in đường trăng”; đây Dòng đời “ngược xuôi bèo mây tan tác…”; đây Thói đời ‘cười ra nước mắt khi trắng tay gọi tên bằng hữu giờ giàu sang quên kẻ thâm giao…”.

Mình thiệt tình không dám chắc là chúng hay, nhưng biết đâu anh bạn cũng có mối tình dở dang như vầy, từng buồn như vầy, từng than thở như vầy, rằng “nếu không dang dở làm sao trọn đời nhớ em…”. Năm ba bữa nữa anh còn ở lại miền Tây là còn gặp bolero dài dài, ở quán ăn, chiếu nhậu, ở những chiếc xe bán nước giải khát rong ngoài đường. Nếu may (tôi nhấn mạnh là may), anh sẽ nhận ra vẻ đẹp của bolero vào một chiều tắt ngồi bên dòng sông mênh mang, ngó lục bình trôi dưới trời mưa mỏng; hay một buổi trưa hoang hoải ngó những cây thốt nốt trầm ngâm, kiêu hãnh cô độc đứng trên đồng; hay chút nữa đây xe sẽ trôi vào đêm tối, khung cảnh ngoài kia chìm trong mụ mị, anh nghe Cuốc kêu bên trời “ta gối lá ngắm trăng lên, hoa bần rơi trắng đôi bờ kinh…”, biết đâu anh không còn bĩu môi chê nhạc gì mà sến chảy nước, tới bán bia ôm, đi xe đò cũng viết thành bài hát nữa là sao ? Nhưng không bolero thì lấy đâu ra những bài hát cho những người thân phận mỏng, anh?

Mình thu nắm đấm (tưởng tượng) lại, thôi kệ anh cứ ghét đi, ghét cũng là nhớ, nhiều khi còn nhớ hơn thương, chớ giỡn. Cũng có thể anh đúng, biết đâu… Có thể mình giảy nảy lên vì mình ham miền Tây đến mù quáng mất rồi. Ví dụ như xe đò miền Tây này đâu có gì hay, ngồi mòn mỏi mất thời gian, phải ngồi máy bay thì đã tới nhà từ lâu lắm, ngủ một giấc đã đời, bồng trẻ con đi chơi. Nhưng mình vẫn chọn xe đò, lý do gì thì mình đã kể ở đây, ở những trang viết khác. Mình thấy không có gì là phiền phức nếu chị nọ ngủ say cứ tựa đầu vào vai mình, hay cái cách rút chân lên ngồi chồm hổm trên ghế của anh kia. Hay cái ông ngồi đằng sau chuông điện thoại cứ gióng lên câu vọng cổ “Điệp ơi mai anh lên chốn thành đô nhà xe rực rỡ, xin đừng quên bến đò ngang con sông nhỏ…”, mà bao giờ chờ xuống xề ông mới chịu bắt máy trả lời. Kiểu nói chuyện điện thoại mình thường gặp trên xe, giọng oang oang, đầu thì gật lắc, tay xua xua, hấp háy mắt, như thể người bên đầu dây kia đang ngồi trước mặt.

Thôi thì chân chất, ừ thì quê mùa… miền Tây mà, vẫn nghèo vẫn xa xôi. Đây không phải Sài Gòn Hà Nội, đây là một thế giới khác rồi. Thế giới mà người ta vẫn còn mua bắp luộc, bánh mì ở bến xe đem về xứ làm quà, trẻ con vẫn reo mừng tở mở. Xe ghé quán ăn dọc đường, nhiều người ngồi chồm hổm chờ ngoài sân không dám ghé mông ngồi vào ghế, sợ thức ăn đắt đỏ. Đi qua quầy trái cây mình thấy có người đứng đằng xa ngó, tay nắn hai túi áo bà ba mỏng, trên miệng túi cài cái kim tây. Có lần mình ngồi cạnh một bà già, cứ ngồi lận lấy mấy hạt lúa từ trong nẹp vạt áo, cắn lóc cóc.

Những người miền Tây quăn queo lam lũ thật thà này, bolero này, dầu gió này mình không bao giờ gặp trên những chuyến bay. Lý do có vẻ ngớ ngẩn, nên thấy mình ham xe đò có bạn bè cười, mình chống chế bằng một câu danh ngôn nổi tiếng, những gì thuộc về con người thì không xa lạ với tôi. Nhưng trong bụng nghĩ, thôi bà sến thì nói đại là sến cho rồi, có sao đâu…

Cuộc diễu hành lặng lẽ

Nguyễn Ngọc Tư



Tôi cũng như những đứa trẻ nhà quê lớn lên ở xóm Bà Bèo, mỗi khi nghe hỏi tới tiệm tạp hóa của chú Mười Ba, là nghĩ ngay tới hai chữ: thiên đường. Cục kẹo đầu tiên tôi được ăn, cái kẹp tóc đầu tiên tôi được diện, cây viết chì đầu tiên tôi được chạm tay vào… đều được mua từ đây.

Tiệm mà cũng là nhà, vừa chật vừa tối, đồ đạc lộn xộn chen chúc chồng chất lên nhau, giắt trên vách, treo đòng đưa trên dây. Cần gì cũng có hỏi gì cũng thấy. Dù nhỏ xíu như cục đá lửa gắn trong ống quẹt, cây kim may tay hay những món năm khi mười họa mới có người mua như cối xay bột, lu sành… Ở nhà thiếu gì người ta chạy lại tiệm chú Mười Ba. Lúa ngoài đồng cần gì người ta cũng chạy lại tiệm chú Mười Ba. Tiệm tạp hóa có một đời sống mãnh liệt không hẳn vì xứ này xa chợ, mà người ta tìm thấy một nơi nương dựa. Mấy cụ già ghiền trầu tới tiệm tìm vôi; đàn ông nghiện thuốc lội lại kiếm thuốc gò, giấy quyến; đàn bà con gái quây quần quanh bếp núc cũng mua ở tiệm những thứ gia vị nêm đậm đà cho hai bữa cơm canh. Trẻ con thì khỏi phải nói, mỗi khi nghĩ tới, ngang qua hay bước vào tiệm chú đều cảm giác mùi vị ngọt ngào, béo ngậy của những bịch cốm ngào, kẹo dừa ứa ra trên đầu lưỡi.

Hồi nhỏ, được người lớn sai đi tiệm là quá chừng hạnh phúc, may còn chút tiền thừa mua mấy cục kẹo sướng rơn, còn không thì nhìn hủ kẹo chép miệng chẹp chẹp cũng phần nào thỏa mãn. Lớn lên mới biết cái việc nho nhỏ niềm vui cỏn con đó đôi khi là… sứ mạng, nhất là vào mùa giáp hạt.

Mùa những bồ lúa trống trơn. Mùa mua chịu. Tiệm chú Mười Ba dường như chỉ có trẻ con lai vãng. Trẻ con không biết mắc cỡ khi đi mua đồ chút dầu hôi nước mắm bằng tay không, bằng một lời hẹn mù khơi, nội con nhắn chú ráng chờ tới gặt... Trẻ con không bị tổn thương nhiều bởi túng quẩn, không quá mặc cảm bởi cái nghèo (thường kèm theo chữ hèn), tụi nó không cảm thấy ngượng ngập khi nhìn tên nhà mình được ghi trên cánh cửa tiệm trong mùa-bán-chịu.

Cánh cửa được ghép lại bằng mấy mảnh ván được bào láng, để mộc không sơn, lúc nào cũng chi chít những chữ số viết bằng phấn trắng. Mùa giáp hạt danh sách nợ nần nhiều thêm, cánh cửa trở nên quá chật, thím Mười Ba ghi tràn ra mấy thanh đố của cái kệ gỗ. Không biết do tiện đâu ghi đó, hay cố ý ghi ở chỗ dễ thấy dễ nhắc nhớ, mà chú thím làm nên cuộc trình diễn câm lặng của những người nghèo, thiếu trước hụt sau, đắp bề nào cũng hở. Những chữ số cứ ngày ngày tháng tháng diễu hành trên cánh cửa. Mùa gặt còn xa.

Mùa gặt người ta chở lúa mới qua con đập trước nhà chú Mười Ba, trên chiếc xuồng khẳm lừ có phần dùng để thanh toán nợ nần cho chú. Người ta bán lúa ngay khi chúng vừa phơi đủ nắng, còn nằm ngoài sân. Đống lúa hót bao nhiêu thì trong lòng họ như bị đẻo khuyết đi bấy nhiêu. Chữ trên cánh cửa tiệm tạp hóa đôi ba dòng được bôi xóa vội bằng tay, để lại những quầng phấn đùng đục. Buổi chiều ba mươi Tết, cánh cửa được lau bằng giẻ ướt, sạch bong, nghe đâu đó có những cái thở phào nhẹ nhỏm, thanh thản. Cũng có Tết, cửa tiệm chú Mười Ba còn sót lại vài cái tên vài con số, nom rã rời rát xót, trong xóm có nhà ăn Tết bằng từng lát thở dài, trong xóm có vài đứa trẻ không có áo mới để khoe.

Cánh cửa được ghép lại bằng mấy mảnh ván được bào láng, để mộc không sơn xanh đỏ, lại ám ảnh đeo đẳng, lại đồng hành với những thân phận nông dân cay đắng và bi tráng của cái xóm nghèo.

Xứ Bà Bèo mười sáu năm sau, khi tôi quay về, tiệm tạp hóa chú Mười Ba dỡ ra cất lại vài ba bận, cánh cửa xưa không còn. Chú giao tiệm cho con trai là Tư Giàu, cũng là thằng bạn cùng lứa với tôi. Xóm chuyển qua nuôi tôm, hàng hóa trong tiệm cũng thay đổi, ngoài vuông cần bất cứ thứ gì tiệm nó cũng có. Cái tiệm cũng như cư dân xóm, trở xoay chóng mặt để nuông chiều con tôm đỏng đảnh.

Ngồi chơi thấy nhiều đứa con nít hăm hở chạy lại mua đồ, một nửa trong số chúng mua bằng tay trắng và lời hứa, “má con nói con nước tới sẽ trả đủ cho cậu”… Giờ người ta nín thở theo trăng, không còn thắt thẻo bởi mưa mùa, gió mùa. Chỉ có tụi con nít là còn giữ nguyên niềm vui bé mọn, còn hồn nhiên làm một sứ mạng cỏn con: đi tiệm. Đám con nít đó cũng là con của bạn bè xưa, những đứa đã không đi cùng chữ nghĩa như tôi mà ở lại với ruộng đồng. Ở lại để mười sáu năm sau, tụi nó dường như vẫn còn chưa rời khỏi nơi cái nghèo diễu hành trên cánh cửa.

Thằng Tư Giàu làm một chuyện mà tôi khen là nhân bản, kín đáo ghi nợ vào cuốn sổ học trò trăm trang quăn queo góc. Nó cười khì, nói khỉ họ, tại bây giờ dân xóm mình đông, đâu có cánh cửa nào chứa nổi… Tôi cụt hứng nín thinh. Mười sáu năm, tôi từ đứa con nít hôi nắng hôi sình đã thành kẻ chợ, xóm Bà Bèo xanh rờn cây cỏ trở thành những trảng nước trắng dờ, nhưng nỗi chua xót đắng cay giật gấu vá vai trình diễn trên cánh cửa tiệm tạp hóa chú Mười Ba vùng vẫy kiểu gì, vượt thoát kiểu gì mà lại tiếp tục diễu hành trong cuốn sổ của tiệm tạp hóa Tư Giàu. Cuốn sổ ngoài bìa ghi: sổ nợ. Bằng mực đỏ. Như vết xước.

Khép sổ học trò lại rồi mà tiếng thở dài còn vang…

Cuộc tình tuyệt chủng

Truyện vui vui

Nguyễn Ngọc Tư

Mối tình của Nị đã tồn tại tới ngày thứ bốn mươi. Bất chấp những đồn đoán thêu dệt của cả nhà Nị, tối qua chàng vẫn thắm thiết đưa Nị về. Sự kiện này làm em trai của Nị thua độ trầm trọng, nó cá với mọi người năm chầu nhậu quả quyết lần này Nị cặp bồ không quá con trăng. Có lý do để nó tin vậy, Nị đã qua mười bốn mối tình, mỗi mối tình được nhiều lắm là nửa tháng, có khi chỉ hai ngày. Nị xinh đẹp, dịu dàng, không phải là cô gái sâu sắc cả nghĩ, không quá cầu kỳ đòi hỏi đối phương phải có ngoại hình bắt mắt, cơ bắp săn chắc, vàng bạc lắc cắc nhưng đường tình duyên cứ lận đận vì cái chủ nghĩa lãng mạn mà Nị ôm ấp tôn thờ. Nên có chàng đẹp trai như anh Hugh Jackman, thông minh như chú Ngô Bảo Châu, giàu gần bằng chú Bill Gates mà Nị vẫn ngoe nguẩy nguýt ngang không thèm ngó tới, chỉ vì chàng kia hong biết câu thơ lãng mạn nào, kiểu như ta buồn hong biết mần sao ta buồn, chỉ vì chàng ta thấy trời kéo mây đen liền hối, đi lẹ lên em ơi kẻo mưa là ngập đường, có nước sắm sào đứng trên xe Rolls-Royce của mình mà chống.

Chàng mới nhất, mối tình mới nhất của Nị chỉ đi xe đạp, một chiếc xe đạp cũ mèm ốc vít rơi rụng như mưa sao băng, không ngờ ăn điểm ngay trân chỗ đó, thời này đi xe đạp phải có tâm hồn lãng mạn ghê lắm, xe càng cũ chứng minh lòng chung thủy càng cao. Nị đoán đúng, chàng lãng mạn quá sức tưởng tượng. Chàng yêu thích những cơn mưa sầm sập làm những con đường biến thành sông rạch, lúc đó Nị lội bì bỏm cạnh chàng, tà áo dài nổi lềnh bềnh trên mặt nước bên cạnh cùi bắp, xác mía cùng muôn vàn rác rưỡi, “Nhìn em mộng mị, não nùng làm sao đâu…”, chàng ngẩn người khen. Nị sướng lịm người. Đi chơi với nhau, bị mắc trong đám kẹt xe dài tám cây số, chàng vẫn ung dung như không, chàng kêu Nị chịu khó lắng nghe tiếng còi xe inh tai điếc óc chung quanh có phải hao hao giai điệu bài “Diễm xưa” nổi tiếng không. Nị nhắm mắt mơ màng, nói giờ chuyển qua bài “Con thuyền không bến” rồi đó anh. Bởi vậy đôi tình nhân chẳng cần phải vội vã gì, vừa nghe những giai điệu trữ tình vừa ngắm khói đen phụt ra từ hàng ngàn ống xả xe máy trước khi tan vào không trung đục ngầu, mường tượng từ khói bao nhiêu hình ảnh nên thơ tươi đẹp, kia là cây bàng lá vàng, kia là đôi chim lim dim, kia nữa là con thỏ ăn cỏ. Có bữa mơ mộng chán chê, Nị và chàng chụm ngoẻo đầu ngủ ngồi một giấc, lúc thức dậy vẫn còn xe vẫn còn kẹt dài bốn cây số rưỡi, đôi tình nhân không thấy bực chút nào, lại vui vẻ mơ mộng tiếp.

Nhiều khi Nị phải nhéo đùi coi đây có phải là giấc mơ không khi gặp một người tình lý tưởng vô cùng tận. Lọt vô con đường dằng dặc lô cốt, phải va quẹt nhích từng chút một, bầu trời bị che chắn chật muốn ná thở, chàng ngước lên bảo, thấy không em lô cốt làm bầu trời như một khung tranh vậy, nếu có con diều bay nữa thì thơ mộng còn gì bằng. Dây điện chằng chịt búi nhỏ búi to chàng nói tóc của thành phố đó em, mấy hôm rày gió nhiều nên tóc rối. Bụi đường mù mịt với chàng là sương mù, là khói đốt đồng. Nhờ sự lãng mạn bay bỗng của chàng, Nị thấy thành phố này đúng là thiên đường, bỏ xa Jeju, Venice, Paris, Honolulu, Praha… Tới khi cưới đâu có cần hưởng tuần trăng đâu xa, Nị gật gù nói vậy. Nhắc cưới mới nhớ vài mối tình xưa đã tan vỡ vì bàn chuyện cưới mà chàng kia chỉ quan tâm sau đám cưới vợ hay chồng sẽ giữ tiền; đãi tiệc thì nên đãi buổi trưa ai nấy cũng mệt mỏi không ăn được bao nhiêu chứ đãi chiều nhậu đầm đìa tới nửa đêm là lỗ sặc máu; đi du lịch trăng mật nên đặt vé máy bay trước sẽ được giảm hai mươi lăm phần trăm. Nghe ớn ói.

Nhưng người tình đương kim của Nị không bao giờ quan tâm tới tiền bạc, quãng thời gian giáp lương (cũng như nông dân kỳ giáp hạt ấy), chàng không đưa Nị la cà quán xá mà rủ nhau ăn đồ nướng các loại bao gồm khoai nướng chuối nướng bắp nướng rưới lên nhiều nhiều mỡ hành, ngồi ở lề đường ngó lá me bay, thở khói khoai mà tình tự, lãng mạn kinh khủng. Bụng chàng sôi rột rẹt, chàng nói em nghe chăng tiếng lòng anh đang réo gọi tên em?

Cả nhà mừng cho Nị, chỉ chị Nhí là hơi nghi ngờ, chị đang mất lòng tin vào đàn ông nói chung. Xưa chị yêu và cưới một anh vô cùng nhỏ nhẹ và tử tế, ai dè chỉ bữa sau chồng chị cuốn gói theo… trai. Phải theo gái chị Nhí cũng hong tức, đằng này theo trai, ta nói chị hận dễ sợ. Càng hận càng thấy bồ của Nị đáng nghi ngờ, không thể nào trên đời này có người không quan tâm tới kẹt xe, ngập nước, cũng chẳng coi tiền bạc ra gì. Như động vật quý hiếm trong sách đỏ, thấy hong bình thường à nghen.

Ngày thứ bốn mươi chín, Nị về nhà một mình với cái mũi cà chua, mắt dâu tây, miệng mếu máo như trái táo nói chia tay chàng kia rồi. Hôm nay hôn nhau ngoài bãi cỏ xong chàng ta thấy nóng nảy dậy động trong người hay sao mà rủ, mình tới nhà trọ nào đó tâm sự ấy ấy đi em. Một con người lãng mạn chừng ấy, tinh thần cao quý chừng ấy mà cuối cùng cũng đòi vô một nơi trần tục làm chuyện trần tục ấy ấy là sao, Nị ngửa mặt kêu trời.

Chị Nhí nghe xong gầm lên, con Nị này ngu quá bay ơi, có phước mà không biết hưởng. Thằng đó nó đi đường nào, ngã nào, để chị đuổi theo coi còn kịp không?
Tình lơ…

Nguyễn Ngọc Tư


1

Lâu rồi, má tôi có đi coi phim Công lý báo thù người ta chiếu đằng sân Xã ủy. Dượng Bảy (lúc chưa phải là dượng Bảy) bữa đó cũng coi chung, ngồi kế bên má, gần cái phông vải lớn. Coi hát thì chỗ này là ngon lành nhất, nhìn đào kép rõ, mụt ruồi giả của họ bị rớt, hoặc áo vua rách mình cũng thấy, nhưng đây là chiếu bóng, cái phim từ đầu tới cuối chỉ ca hát với đánh nhau. Cứ mỗi lần nhân vật ra đòn là má tôi né, thấy máu má tôi che mắt kêu trời, tới cảnh mấy con trăn rắn lớn bò tới thì khán giả đều sụt lùi ngã rạp sắp lớp lên nhau la ó ré. Má tôi sợ tới quên trời đất, dúi mặt vô lưng người thanh niên lạ hoắc bên cạnh, tức dượng Bảy. Khi phim gần hết, nam nữ chính múa hát ứ ư thì dượng Bảy đã chính thức chạm vào ngón tay út của má.

Hết phim má tôi để lại một cái lông ngỗng, em là cháu ông xã Nghiệp, rồi chìm mất vào dòng người. Năm bữa sau dượng Bảy (lúc đó sắp là dượng Bảy) nhờ một người bạn của ông ngoại tới nhà. Bữa đó má tôi chở mía đi lò đường để ép, dì Bảy ở nhà nấu cơm. Bạn già của ông ngoại khều dượng Bảy hỏi, “mầy thương đứa đó hả ?”. Dượng ngó cái người thấp thoáng trong bếp, thấy cái eo thon, đuôi tóc dài, gương mặt nhỏ nhắn xinh xẻo, trên môi lúc nào cũng nhoẻn cười , dượng tưởng người quen liền gật đầu. Tới đám ăn trầu uống rượu mới hay dì Bảy có người chị sinh đôi, tức là má tôi. Hai người giống nhau đến mức khó mà phân biệt được, nên đã nhiều người há hốc, “Ủa, mới thấy con Bảy xách giỏ đi chợ cái độp giờ sao nó làm cỏ ở nhà rồi ?” Dượng Bảy cũng cầm khay rượu há hốc ra, hết nhìn cô chị rồi tới cô em. Bẽ bàng. Lỡ làng.

2

- Cô không phải người tôi thương.

Dượng Bảy phũ phàng nói thẳng trong một tối say mèm, say đến nỗi thay vì chỉ thẳng dì Bảy thì dượng dứ dứ vô cái gối. Dì Bảy mắc cười quá, khẽ khều sườn chồng, nhỏ nhẻ, em bên này nè anh. “Tôi nhớ em từ bữa đi coi chiếu bóng tới giờ…”, dượng nói sau khi day lại ôm dì, sau khi cầm ngón út nhỏ nhắn của dì nắn mãi. Dì kệ, để tay mình ở đó, mặt héo lòng hon bỡi bàng hoàng, phải như bình thường dì đã thanh minh giòn giã, “Đây Bảy à nghen, con Bảy, không phải Sáu…” Nhưng dì biết nói gì cũng muộn, người nhầm lẫn là chồng dì, tối đó đúng tối tân hôn.

Bữa sau ra vườn đắp mấy họng đìa, hồn vía để đâu mà dượng xắn lưỡi dá vô chân, máu chảy đầm đìa. Dì Bảy bứt lá chuối non nhai nghiến ngấu đắp lên vết thương của dượng, máu trôi bả chuối này dì đắp lên bã chuối khác, miệng không hay chát. Dượng lắc đầu nói, cô không phải người tôi thương, người ta kia thấy máu trên phim còn không dám nhìn…

Hôm gặt, dì đẩy xuồng lúa bó trên mương ruộng cạn, mồ hôi này chưa khô mồ hôi kia lại tươm bê bết, lúc ăn cơm dượng ngồi gần nhăn mặt, cô không phải người tôi thương, đàn bà gì đâu mà chua lè, người ta kia thơm phức như múi mít…

Năm sau vợ chồng cãi nhau, bữa đó chồng có rượu nói ngang, tức quá vợ đá vô ống quyển của dượng rồi té chạy. Chồng rượt sát đằng sau. Lọt qua cây quao che khuất tầm nhìn, vợ liền xõa tóc đủng đỉnh đi ngược lại, hỏi lớn, “dượng Bảy, cầm chổi chà chạy đâu gấp vậy ?”. Chồng tưởng chị vợ tới chơi, khựng lại sượng trân, “à, tôi.. tôi đuổi mấy con gà…” rồi mời vợ vô nhà, rót nước cho vợ uống, hỏi vợ đói bụng không để chồng nấu cơm. Vợ nằm chờ cơm đòng đưa trên võng, ngó dượng chổng mông thổi lửa, mắc cười nhưng buồn quá, không cười được. Tối đó chồng chắc lưỡi hít hà xoa dầu gió vô chỗ chân bầm tím, chồng nói cô không phải người tôi thương, người ta kia thấy đánh nhau trong phim còn sợ...

Năm sau dì sinh con gái đầu lòng, tóc rụng xơ xác, dượng Bảy ngó lom lom vào đỉnh đầu trống trãi nói, cô không phải người tôi thương, người ta kia tóc nắm môt vốc, mướt rượt…

Cô không phải là người tôi thương, sau này dượng còn nhắc đi nhắc lại câu này, mỗi khi say. Mà nghề thợ mộc cất nhà của dượng thiếu gì dịp say. Dỡ gỗ, nhậu. Lên đòn dông, nhậu. Lợp nhà, nhậu. Nhưng say nhất là về đám giỗ bên vợ, phải ngượng ngập gặp chị vợ lúc này cũng đã có chồng, phải nhớ lại mùi tóc, làn da, ngón tay nhỏ xíu nóng rẫy năm xưa. Nhưng đáp lại cái câu tạt mặt phũ phàng vô duyên vô dùng là một cái nhoẻn cười, cũng đôi khi dì Bảy hỏi lại, “chắc không à?”, mà dượng có lần dõng dạc nói chắc, dì vặn ngay, ‘vậy sao hồi hôm ôm tui ?”. Dượng Bảy không biết trả lời sao, đành ngoẹo đầu ngáy o o.

Có lần dượng đi đám giỗ ba bữa chưa về, dì lấy tờ giấy vẽ bản đồ nhà mình, vẽ sông Cái Tàu cong cong ẹo ẹo qua rạch Giồng Ông, vẽ chòm cây trâm bầu dưới bến, vẽ cái nhà có bàn ông Thiên đằng trước, ghi chú rõ ràng “Nhà Hai Hiệp”. Trâm bầu thì dì viết chữ “trâm bầu”, không thôi người ta nói đó là so đũa sao. Xong dì sai con đem tờ giấy cho dượng. Đi te te về, dượng nạt, ý cô nói tui đi nhậu không biết đường về nhà hả ? Cô sâu cay hết biết. Thiệt là… cô không phải người tôi thương, người ta kia mủ mỉ thật thà…

3

Ba mươi năm sau, dượng Bảy đột quỵ. Chân yếu, miệng méo, xãi lai nằm một chỗ, mỗi khi dì dìu đỡ vào nhà tắm, giặt khăn với nước ấm lau khắp người, thay quần áo cho, dượng mắc cỡ quá nói câu gì đó, dì Bảy phiên dịch là, “cô đâu phải người tôi thương. Người ta kia kín đáo, ý tứ tới cái tên còn không dám nói thẳng ra…”. Dượng nghe chảy nước mắt. Dì hết hồn, hớt hãi nhắn xuống xóm Rẫy kêu má tôi qua, để an ủi tinh thần dượng.

Buổi đó nhá nhem, đèn đỏ ối, dượng Bảy nhìn má tôi rồi ngơ ngác ngó quanh tìm dì, rướn cái cổ lên dượng nói từng chữ lục cà lục cục, “chị không phải người tôi thương…”
Của nhớ và xa

Nguyễn Ngọc Tư


Năm tôi ba mươi ba tuổi, tôi vẫn chưa chuẩn bị gì cho mình để đối mặt với nỗi nhớ nhà, nhớ thành phố đã và đang ôm giấu tôi trong lòng nó. Đơn giản vì tôi nghĩ mình sẽ không bao giờ xa đủ lâu, lâu tới mức phải quờ quạng tìm một bài hát hoặc một tấm hình quê mình cho qua cơn nhớ. Cho tới khi nhận được một lời nhắn lúc nửa đêm, “tôi nhớ Cà Mau quá trời đất, chị có gì giúp tôi đỡ nhớ không, một bài viết, hay tấm hình con đường nào ở đó cũng được…”

Nhưng gia tài bán chữ của tôi chưa có dòng nào như ước muốn của bạn. Hình ảnh cũng không, bạn đó thiệt là rủi. Rủi hơn là cầu cứu tôi, một đứa viết lách ẩm ương, chậm chạp và phức tạp. Bạn nói nhớ Cà Mau mà là Cà Mau nào kìa?

Phải Cà Mau của những năm tám mươi, đường sá nội ô lổn nhổn ổ gà, mù bụi? Cầu Quay đã ngừng quay, cầu sắt Phán Tề gặp người đông là run lẩy bẩy, qua sông Gành Hào thấy bóng mình dưới đó cũng run. Sân vận động cũ mèm, nhiều chỗ sơn phết tèm lem như một chị bôi phấn mà phấn đi đường phấn da đường da, mặt sân lại nhiều cỏ tranh thủ mọc xanh rì giữa hai ngày lễ lớn. Đại lễ thường có hội chợ. Như mưa rào tưới tắm cho đám người khô khát, hội chợ nào cũng đông nghẹt, người ta cuồng nhiệt chen chúc, người ta thường ra khỏi chỗ đó bằng cách vác xe đạp lên đầu. Trong hội chợ, mùi chiến tranh còn nồng, bởi những gian trưng bày súng ống, những bài ca chiến đấu phát ra từ mấy cái loa phóng thanh khàn… Trên những con đường thị xã, đôi lúc người ta tìm nhà bằng ký ức chiến tranh, “qua khỏi nhà thiếu tá Năm một đỗi là tới miếng đất của tôi” hay “quán nhậu sát bên nhà thiếu tá Hứa”... Điện nội ô chập chờn, đi uốn tóc ngày mất điện, phải xách cái đầu khai nồng mùi hóa chất về nhà, hôm sau trở lại tiệm để sấy ép nếp tóc.

Nếu đúng bạn nhớ Cà Mau xớ rớ, bề bộn và hom hem đó, thì tôi cũng nhớ nó nữa. Tôi ở trong nó mà nhớ, mà không biết kêu ai, huống chi bạn đã biết bao nhiêu mùa xa. Nhưng nhờ chung nhớ, bỗng nghĩ, biết đâu chúng ta đã từng gặp gỡ, từng bè bạn… Không chắc chúng ta còn nhớ gương mặt nhau, bởi đoạn ký ức ngày trước giờ nhòe nhoẹt, thỉnh thoảng đứng hình, méo tiếng như một đoạn phim nhựa mốc meo trầy xước, nhưng nếu bạn đã từng ở đó vào những ngày tháng đó, phải bạn có đuôi tóc chấm eo xếp hàng đằng trước tôi hôm rạp Huê Tinh chiếu phim Sạc Lô, phải bạn đã đứng cạnh tôi dự Lễ Quốc Khánh ngày mưa ngoi ngóp, tan lễ ra về nước ngập tới eo, những tà áo dài trôi bềnh bồng trên mặt nước; hay chúng ta từng uống đá đậu trong một cái quán nhỏ ở bến đò nhỏ gần chùa?

Cũng có thể bạn nhớ một Cà Mau cũ hơn, một Cà Mau bom đạn, và bạn đã bỏ lại nó khi chiến tranh vừa tàn, thì bạn đúng là rủi vô phương cứu chữa, tôi không một chút cảm giác gì về Cà Mau đó. Tôi chỉ biết một thành phố đang có, lúc này, bây giờ…

Một thành phố nhỏ biết làm nên những tổn thương. Cho những cư dân của nó, những người nhớ và xa nó. Bạn đi khỏi một ngày, lúc về đã thấy cái cây me keo quỳ trước trường mẫu giáo Sơn Ca đã bị đốn hạ, choáng váng một khoảng trời. Bạn xa thành phố một năm, lốm đốm những ngôi nhà xây mới bên đường, cây xanh lâu năm vắng thưa đi, lại thêm những khoảng trời ngơ ngác. Bạn rời khỏi nó năm bảy năm, ngày trở lại đứng tần ngần ở mấy bùng binh, con đường nào cũng thênh thang lạ hoắc, bầu trời dong dãi ngày xưa giờ bị cắt vụn bởi những nhà cao tầng. Và nếu bạn đã hơn mười năm xa, bạn sẽ không biết dòng kinh Mười Sáu, rạch Cầu Chùa đã từng chảy thong dong, mát trong giữa lòng đô thị bây giờ nằm dưới dãy phố nào. Cái gọi là dấu vết của chúng không hơn cái cống nước thải, nước tối om chảy hòa vào những con sông cắt dọc ngang thành phố mênh mang rác. Một cụm tượng đài cao và nhọn hoắc, mấy anh chị sĩ công nông thương đứng trên ấy mỗi người cô đơn ngó một hướng. Buổi tan tầm xe cộ cũng đông, cũng inh ỏi, vội vàng như Cần Thơ, Sài Gòn.

Mười, hay mười lăm năm trở lại, có lẽ bạn thấy bị bội phản, hoặc bởi ký ức của chính bạn, hoặc vì cái thành phố chớm điệu đàng này. Có vẻ như không ai, không gì chờ đợi bạn. Ông Vá Xe ở đầu hẻm Xóm Đạo trở thành ông Nước Mía, sông hóa thành phố xá, nhà cũ người ta trồng lên quán nhậu, đường nhỏ biến thành đường lớn, con hẻm trước sáng láng giờ người ta chất lên mấy tầng lầu nên lối nhỏ tăm tăm…

Cả những ai mới tới lần đầu, cũng thấy bẽ bàng cho trí tưởng tượng của mình, nó không tù mù hiu hắt, xám xịt, quê mùa như họ vẫn thường nghĩ về tỉnh lẻ. Họ sửng sốt hỏi làm cách nào để phân biệt Cà Mau hay Mỹ Tho hay một quận nào đó của Sài Gòn?

Vụ này, chị xe ôm trả lời, tùy thuộc vào bạn hiền tính ở lại đây bao lâu. Nếu bạn hiền có hai ngày lang thang, sẽ thấy Cà Mau đi ngủ từ rất sớm. Loanh quanh thêm ít ngày nữa, bạn nhận ra cả thành phố chỉ có vài ba cửa hàng sách loe hoe èo uột mà quán nhậu xênh xang có tới số ngàn. Cuộc chơi buổi tối chay tịnh chỉ là ngược xuôi đại lộ Phan Ngọc Hiển vài lượt rồi về. Dưới mưa ràn rạt, bất chấp những vội vàng, người ta vẫn tăm tắp dừng lại nhẫn nại chờ đèn đỏ chuyển sang xanh… Bạn để ý thấy bài nhạc chuông điện thoại thịnh hành ở đây là một bài hát dở ẹt nhưng thiệt thà, nghe riết bắt…hay, “Nghe nói Cà Mau xa lắm, ở cuối cùng bản đồ Việt Nam…”, hoặc một bài nhạc phổ thơ hay mà ca sỹ hát riết thấy kỳ, “anh đến quê em Đất Mũi Cà Mau, cò thây (có thấy) xanh tươi đất rừng bát ngát…”, bạn thắc mắc dễ sợ, í ơi, cò thây là loại cò gì?

Ngó nghiêng hoài bạn nghe đói bụng, mới phát hiện ra Cà Mau có món bún nước lèo ngon lạ, chỗ khác người ta gọi bún mắm, dân bản xứ kêu bún nước lèo, cũng như ở đây cầu Cũ mới hơn cầu Mới, hơi sức đâu mà bạn cãi, với lại tô bún bưng ra đặt trước mặt rồi, ăn cái đã. Vị mắm U Minh mặn mà, trong tô bún chỉ tịnh mấy miếng cá lóc trắng bong hay chục con tôm đất lột vỏ đỏ au cạnh mớ ớt băm cay xé, dĩa rau giá đặt cạnh, thêm cái đầu cá lóc còn nguyên bộ lòng béo quá xá. Mùi mắm sẽ phảng phất theo bạn hoài, ám ảnh bạn cho đến khi bạn… rửa sạch bộ râu. Bạn nhận ra đây không phải là món bún mắm mà bạn đã từng ăn ở đâu đó có mùi mắm bò hóc của người Khmer, hay vị của thịt heo quay. Cà Mau còn một món tôm khô làm quà nịnh…ông già vợ cũng hay. Tôm khô Cà Mau dùng để nhậu lai rai là hết sẩy, nổi tiếng ngọt thịt, vừa miệng, tôm sông lên màu đỏ tự nhiên không dùng phẩm nhuộm nhìn vẫn ưa mắt.

Và trong những ngày lang thang, biết đâu bạn may mắn nhận được một nụ cười làm thắt cả tim bạn, trong khoảnh khắc đó, bạn nghĩ cả đời này không bao giờ gặp lại nụ cười ấy ở bất cứ nơi nào nữa.

Đó là kinh nghiệm của riêng tôi, không có nơi chốn nào trên đời này là vô duyên vô vị. Chỉ cần ai đó đừng vội vã. Đôi khi qua chỗ tượng đài, thấy có mấy anh lăng xăng chụp ảnh, hay bắt gặp những đoàn hành hương lủ khủ vượt qua cầu Mới (mà cũ) để lễ chùa Bà, tôi ngùi ngùi trong bụng, thì ra chùa nhà thiêng lắm. Và lời nhắn của bạn lúc nửa đêm cho tôi một nắm bồi hồi, thì ra một chốn nào đó được người ta nhớ không hẳn vì nó đẹp.

Nỗi nhớ không phụ thuộc vào nhan sắc. Dường như rất bền lâu. Và không thể cắt cơn, dù tôi có viết bao nhiêu, có chụp ảnh bao nhiêu, có gởi tới bạn bao nhiêu tôm khô và bún lèo…

Dù bạn có chạy ào về, vẫn nhớ. Cà Mau này sao kỳ quá ta ơi, thấy chảnh chảnh, điệu điệu, dơ dơ sao đâu á. Nhưng bạn ơi, đi chậm thôi. Nhanh quá không nhìn ra quán đá đậu gầy nhom bao nhiêu năm vẫn còn khép nép trên lối xuống bến đò, nhanh quá không kịp nhận ra mùi thuốc bắc lưu cửu quen thuộc phảng phất từ mấy tiệm thuốc của người Hoa, nhanh quá không nghe được tiếng chuông nhà thờ đổ lênh láng làm ngơ ngẩn thầy trò trường Phan Ngọc Hiển. Nếu bạn từng ngồi một trong những lớp học đó, đã từng đọc những câu thơ đớt đát của tôi viết trên mặt bàn lem nhem dấu mực, đã từng nghe… đói bụng mỗi khi chuông nhà thờ đổ vào gần cuối giờ học ban chiều, thì âm điệu tiếng chuông đó chưa bao giờ thay đổi, cho tới chiều nay.

Cho tới ngày bạn lại quay về, ít ra là chúng ta tin vậy.

Hình như mọi thành phố cũng được yêu bằng cách này.
Cảm giác trên dây

Nguyễn Ngọc Tư


Cô Nghĩa vừa qua tuổi bốn mươi sáu, suốt từ lúc trẻ đến giờ chỉ yêu và cưới đúng một người, sinh cho chồng hai thằng con trai đẹp như cha chúng. Mười tám năm nay cô dạy lịch sử cấp ba ở trường Phù Đổng, mười tám năm cô tới trường đúng giờ, kiểu thời trang ưa thích là áo dài, tóc dài. Cô ăn nói nhỏ nhẹ, cười khẽ khàng, vui lắm cũng không thành tiếng. Đề tài ưa thích của cô khi tán gẫu với đồng nghiệp là chuyện cải cách sách giáo khoa và giá cá, rau đang lên. Cô không thỏa hiệp với những lời nói đùa kiểu như “cô đẹp lắm…”, cô nghĩ ai đó mỉa mai mình. Đến nỗi có thầy nói lén sau lưng, ngồi gần cô Nghĩa không dám bật hột quẹt, sợ cháy bất tử…

Vòng vo để thấy cô không chút gì thích hợp với lời tỏ tình của thằng nhỏ học trò mới mười bảy tuổi. Chiều hôm qua nó chờ cô trong nhà xe dành cho giáo viên, và nói em yêu cô. Nhìn thẳng vào cô, nó nói bằng vẻ điềm tĩnh, nắm chắc và kiểm soát từng từ khi thả chúng rơi chậm rãi vào tai cô gây âm thanh leng keng như những đồng xu. Em – yêu – cô. Những lời yêu cô gặp nhiều hồi chưa lấy chồng, nhưng hơn chục năm rồi ít ai nhắc tới, nghe xa lạ quá chừng. Năm giây ngó quanh, năm giây định thần, thêm năm giây ngơ ngác, rồi cô Nghĩa cũng tin rằng thằng nhỏ đang nói với mình.

- Em giỡn có duyên lắm – Cô nhẩn nha lúc dắt xe ra cửa - nhưng cô đói bụng quá nên không thấy mắc cười.

Cô quay đi và nghĩ trò đùa này đã kết thúc. Ra về trong một buổi chiều muộn của tháng ba, những con đường khô cong sau một ngày nắng đỏ, xe trước tung bụi bay mù lấp mặt xe sau. Thời tiết ngột ngạt nín thở chờ đợi một cơn mưa xô đổ cửa mùa. Khi cô Nghĩa dừng xe trước đèn đỏ chỗ ngã tư quen thuộc, cô nhìn thấy người bán bắp luộc đang ngồi ngáp. Ở vỉa hè gần đó, người ta rao bán áo sơ mi hàng công ty tồn kho, hai mươi lăm ngàn một cái. Chà, phải còn sớm ghé lựa áo cho mấy đứa con chơi, rẻ quá…, cô nghĩ vậy. Cô nghĩ ngợi cho buổi chiều này bình thường như mọi buổi chiều đã trôi đi không tăm tích trong cuộc đời mình, những buổi chiều không có ai đó nói yêu cô.

Nhưng chủ nhân của câu nói đó mới mười bảy tuổi. Con nhà giàu, học dở, thủ lĩnh một băng hơn chục đứa con nhà giàu học dở khác. Nó không chỉ sáng tạo ra những cuộc chơi bất tận mà còn đi đầu trong bộ điệu, làm sao phải thật nổi bật giữa đám đông nổi bật. Bữa nay tóc nó vuốt keo dựng đứng như ngựa hoang bờm sửng lên trong gió, thì bữa sau nó chải tóc xước ra đằng sau, ướt rượt và bóng lộn như công tử Bạc Liêu thời xưa bôi dầu dừa, thoắt cái lại thấy nó nhuộm chòm nâu chòm đỏ. Buổi nghỉ giữa giờ nó với đám bạn hay ngồi đồng ở căn tin, rú lên từng hồi man rợ. Đó là lúc có đứa con gái đẹp, cô giáo trẻ, hay bạn học trò quê mùa (mà học giỏi) ngang qua, hoặc một đứa trong tụi nó đang bàn chuyện “phức tạp”. Hoặc chẳng cơn cớ gì, cứ hú hét cho sướng, cho nổi bật, cho đỡ chán chường khi nghĩ tới tiết sau, cho đói để tan học đi tiệc tùng… Mấy giáo viên ngồi nói với nhau, tiến hóa mấy triệu năm khỉ mới thành người, còn tụi ôn con này từ người thành khỉ cái một.

Giờ khỉ đầu đàn chắc lại làm trò khỉ, sau vụ nó dùng điện thoại di động chụp hình cô Nghĩa rồi dán hình lên mông mình đi đủng đỉnh trong trường, vụ nó dùng sơn đỏ vẽ hình đôi môi lên ghế cô ngồi làm mông cô lãnh trọn nụ hôn cháy bỏng… Thường, cô giận rất phải cách, mím miệng xăm xăm lên văn phòng. Năm phút sau thầy giám thị tới lôi thằng nhỏ đem đính vào cột cờ lộng gió. Đám bạn nó ngưỡng mộ nó hơn, căm ghét môn lịch sử hơn, tình hình các nước tư bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới có mắc mớ gì tới cuộc đời tụi nó? Có lần cuộc phá phách lên đến cao trào khi nó giả bộ trượt té và chụp lấy vạt áo dài của cô làm nút áo bứt tung. Phản ứng ngoại lệ, cô vừa khóc vừa tát nó một cái rát mặt.

Chuyện đó xảy ra vào tháng trước, nối thêm dây oán càng dài, giờ thằng nhỏ trở mặt nói yêu cô lắm. Ai mà tin. Cô Nghĩa càng không, thằng này mà ho hoặc gãi đầu cũng là những hành động có âm mưu. Coi như đã quên chuyện xảy ra ở nhà xe rồi, những khi bước vào lớp nó học, cô dửng dưng lướt mắt qua cuối dãy, nơi nó ngồi. Dạo này nó thay đổi lạ lùng, lúc nào cũng ngước nhìn cô với vẻ buồn rượi, chân thành, như uống như nuốt từng lời, từng cử chỉ nhỏ. Đôi lúc cô thấy nhột ran cả gáy, băn khoăn đằng sau chắc tóc bạc nhiều, hay lúc chải đầu mình cặp tóc không ngay ngắn.

Tuần sau nó lại xuất hiện ở nhà xe lúc vắng người, trực tiếp trao cho cô lá thơ, nói “cô đọc xong rồi xé cũng được, nhưng cô phải đọc, mỗi chữ trong này là một đọi máu của em…”.

Chữ nó xấu như gà bới, chuyện này thì cô biết rồi, những bài kiểm tra bao giờ cô cũng trừ điểm vì viết xấu, sai chính tả. Cô chỉ chưa biết là nó chọt phá cô vì iu cô (chữ nó viết vậy), vì muốn cô chú ý, nghĩ về nó nhiều hơn. Nó yêu cô từ năm học lớp mười, khi lần đầu tiên cô bước vào lớp với áo dài tiếm, tóc vẫn còn ướt, mặt tran nhả. Đằng sau vẻ ngim nghị khô khan của cô là sự ấm áp, ân cần, nó nhìn thấy cả nỗi cô đơn chới với. Và nó bắt đầu nhen mối tình căm, thấy ghen tuông kinh khủng khiếp mỗi lần thấy cô được chồng chại xe tới trường đưa đón, bàn tay cô mơng man trên eo chồng, ngực cô dán vào lưng chồng, ghen tuông cả khi thấy những cô giáo khác quàng vai, vuốt tóc trong lúc tán gẫu với cô. “Em biết tình yêu của mình là tiệt dộng, nhưng không kiềm chế được cảm xút”, nó viết vậy.

Thêm một chuyện cô chưa biết: nó sắp đi xa đến nửa vòng trái đất, nên nó quyết định bày tỏ với cô những tình cảm cháy bỏng của mình. Cô gấp lá thư lại nghĩ, thằng nhỏ chơi trò này công phu quá. Lúc trả lại thư, cô nói nhỏ nhẻ, “em có năng khiếu văn học lắm, nhưng rèn chính tả thêm, tệ quá…”. Mặt nó chảy xuống, nhưng ánh nhìn vẫn rát bỏng.

Làm như nó yêu thiệt vậy, cô Nghĩa hơi mắc cười. Như nó yêu thiệt vậy, ý nghĩ đó mấy bữa sau quay quắt trong đầu cô, khi buổi sáng thấy trên mảng tường đầu hẻm xuất hiện những con chữ bằng sơn đỏ “tôi iu Nghĩa”. Mạnh mẽ. Tự tin. Sòng phẳng. Chuyện này là tình yêu của tôi với Nghĩa, không thầy trò gì hết. Xen giữa mớ chữ hổn độn là mấy trái tim ú mềm bị tên xuyên qua, máu tuôn giọt giọt. Thằng con lớn của cô đi học sớm nhìn thấy đầu tiên, nó quay xe trở lại hào hển, “Mẹ, ai yêu mẹ ngoài hẻm kìa…”. Ba nó đang cạo râu, xách cái cằm đầy bọt chạy ra coi, lúc quay lại như cắn phải lưỡi, “ngoài đó thiệt là có ai yêu em”. Lúc cô Nghĩa ra tới nơi, đã có năm bảy người xúm lại chỉ trỏ, sau lưng cô thêm năm bảy người nữa nườm nượp chạy theo như đi coi đụng xe.

Cô Nghĩa nhìn tên mình lấp loáng trên tường, cố tỏ vẻ bình thản. Ý nghĩ đầu tiên là thằng nhỏ lại sai chính tả nữa rồi. Sau đó thấp thoáng những ý nghĩ khác, mình sẽ phải chiến đấu với thằng con nít quỷ này dài dài, sẽ dài dài làm mồi ngon thơm tho đậm đà cho những bữa cơm của hàng xóm, con mình sẽ hết hồn dài dài, không biết sáng nay nó học sao trong tâm trạng bớ xớ như vậy. Còn nữa, chồng có tin lời mình kể không, rằng chuyện này là do một đứa học trò quậy phá ngỗ ngược làm… Trở về với món trứng chiên sống nhăn trên bếp, cô thấy chồng đang ngồi chờ, mặt chồng biến mất, chỉ còn dấu chấm hỏi gắn trên cổ lúc lắc. Cô nuốt khan, giải thích mà nghe từng lời mỏi rã.

Câu chuyện làm cả hai người cảm giác như mình bị trói chặt trong một niềm tiếc nuối. Như họ đã để một kẻ xa lạ nào vào đào được vàng ở mảnh vườn của mình và chính mình bỏ hoang. Họ nghĩ yêu thì cần gì nói, tự hiểu thôi. Mấy tiếng em yêu anh hay anh yêu em tưởng sến rện, thừa thãi họ cứ để đó từ hồi cưới, chưa thử lần nào thì bị một đứa trẻ nhảy vào lủm mất, hóa ra chúng rất ngọt ngào. Họ thấy mật rỉ ra từ miệng đứa trẻ đó, và thoảng ra một mùi hương mê dụ. Cô Nghĩa nghe như trong cô có chút gì giận dữ, sao người nói câu yêu mình không phải là cha của hai đứa con mình?

Cô đi tới nhà thằng nhỏ nhà giàu học dở. Cô cố nghĩ ra cách nói nhã nhặn nào có giá trị tương đương với mớ từ sỗ sàng đang chật cứng trong đầu mình, “làm ơn bỏ chút thời giờ dạy con trai mấy người, nó quậy tôi vô phương…”. Đó là cô tưởng tượng gặp được mẹ, hoặc ba nó, hoặc cả hai người thì may phước. Tất nhiên họ sẽ hỏi lại nó quậy làm sao, tất nhiên cô sẽ kể chuyện nó nói yêu mình, và tất nhiên họ sẽ kêu lên, trời, đâu có được… Không biết cô có nén được hay lập tức vặn lại, tại sao không?

Cô Nghĩa thấy căng thẳng, cô chưa từng gặp phụ huynh học sinh để nói một chuyện giống như vầy. Mấy cuốn sách giáo khoa lịch sử không giúp gì được cho cô, lịch sử chưa bao giờ nhắc tới tình yêu, chỉ chiến tranh, thanh trừng, xung đột. Tuổi tác cũng không giúp được khi đây là lần trải nghiệm đầu. Dò dẫm quanh quẹo qua mấy con đường, tới trước cỗng nhà nó rồi, cô chợt nghĩ hay là thôi. Biết đâu ba mẹ nó đùng đùng buộc nó chuyển trường, nhốt nó trong nhà, biết đâu cô sẽ không còn thấy nó nghinh ngang đi với những kiểu tóc kỳ lạ, nó không thể xuất hiện thảng thốt ở nhà xe, sẽ vắng tiếng nó rú man rợ giữa giờ chơi như những tiếng kêu bầy.

Cô bần thần trước chỗ gọi chuông, rốt cuộc cơn giận dữ lúc sáng cũng quay trở lại, nó cầm tay cô ấn lên cái nút màu trắng đó. Có người đi ngang qua, nói, nhà không có ai đâu, muốn gặp người nhà thì lại đằng chỗ gốc cây me đằng đó, chỗ bán chuối nướng hột vịt lộn đó, hỏi cô Mận. Chị tên Mận trạc tuổi cô Nghĩa, dáng người cũng hao hao như cái trứng lộn chị mới khẻ mỏ, tay giơ cây muỗng gần miệng trứng nhưng mãi há hốc hóng chuyện đánh ghen. Cô Nghĩa hỏi tới lần thứ ba cây muỗng mới đổi thế xua ngang:

- Trời trời, tui ở mướn thôi, hong dám làm má thằng ôn dịch đó, đẻ nó để đẻ hột gà sướng hơn. Má nó đi Mỹ rồi, cưới Mỹ, tính rước nó qua đó luôn. Ba nó làm gỗ trên Tây Nguyên, đi suốt. Chị là cô giáo? Chắc thằng đó làm chuyện gì động trời gì rồi. Nó mà đòi cưỡng hiếp chị tui cũng không ngạc nhiên đâu à, nó hăm dọa tui hoài chớ gì. Ghê lắm, sợ bữa nào nó nổi khùng đè tui lột quần áo ra chắc tui cắn lưỡi tự vận quá.

Cô Nghĩa chăm chú vào cái muỗng nhỏ dùng để ăn trứng nằm trên tay chị Mận, nó đảo lên rơi xuống, vo ve gần cái miệng trứng rồi lại tiếp tục chao liệng. Mãi nhìn nó nên cô nghe lỏm bỏm, cả buổi tóm gọn lại là cô không thể gặp người thân của thằng nhỏ học trò vì hiện giờ nó không có người thân nào ngoài chị giúp việc có sở thích ngồi ngoài đường ăn hàng. Có một chi tiết đáng giá, chị Mận nhớ ra cậu chủ có dán ảnh cô giáo này trong phòng ngủ, bên cạnh ảnh má nó. “Thằng ôn dịch có viết chữ nước ngoài lên hình nữa, không biết nó viết gì, tiếng Việt tui còn nuốt không trôi…”

Cô Nghĩa ngẩn ngơ. Cô hình dung ra cảnh thằng nhỏ nằm giữa bốn bề hiu quạnh, cô độc, lủi thủi, lầm lì. Như con chó hoang không được một ai xoa đầu, thèm một lần mừng chủ, thằng nhỏ thèm yêu thương, thèm hơi ấm con người, thèm một bờ vai…

Tội nghiệp. Cô nghĩ tới hai từ đó suốt đường về, nhưng đi tới đầu hẻm thì mất hết cảm giác. Chồng với hai thằng con trai đang lui cui quét nước sơn lên xóa đi những lời tỏ tình. Cô Nghĩa nghe một đứa bàn, “hay là mình viết trả mấy chữ “Cảm ơn, cô giáo Nghĩa chỉ yêu chồng!”…”. Thì sao, đêm nay những trái tim bị trúng tên sẽ xuất hiện lại thôi mà, không hiểu sao cô nghĩ vậy.

Đúng như cô đoán, sáng sớm thằng con chạy ra đầu hẻm, lúc quay lại đầy vẻ thất vọng, “bữa nay mắc sơn lại nữa rồi ba ơi…”. Cô Nghĩa đang cài nút áo dài, mỉm cười rồi không hiểu sao mình lại cười mà không tức tối, khó chịu, bị quấy rối mà, bị đem ra làm trò đùa mà, nhất thiết phải giận.

“Em đừng phí công phá tôi, không ăn thua gì đâu”, cô định gặp nó để dằn mặt, nhưng thằng nhỏ đã tự tới tìm. Lúc nào cũng chủ động.

- Em biết lý do cô tới nhà em, chắc cô thất vọng lắm. Giờ cô tính sao, lôi em ra giữa buổi lễ chào cờ cảnh cáo trước toàn trường vì yêu cô? Yêu cô là tội?

Không, trong cô có tiếng trả lời, nhưng khi ra khỏi môi, nó biến dạng, “Trò đùa của em ngày càng quá quắt, tôi…”. Thằng khỉ cắt lời cô bằng cách sấn tới làm cô phải lùi lại mấy bước, tưởng nó nhào vô ôm mình ở ngay hành lang này giữa giờ chơi này chắc cô chết quá. “Em phải làm sao để cô tin em thật lòng?”, lại cái kiểu thả đồng xu khua tinh tang vang động vào lòng cô.

Nhưng dù cô tin nó thì sao? Chuyện này không đi tới đâu hết. Cô Nghĩa bỗng nghĩ vậy. Một bữa, nửa đêm cô thức dậy ra ngoài lấy nước uống, tình cờ nhìn qua cửa sổ đằng trước, cô thấy nó, trời ơi, đúng là đứa học trò con nhà giàu học dở, nó đang đứng dưới đường ngước nhìn lên. Ngọn đèn đằng kia đổ xuống nó một cái bóng dài, gầy guộc, quái dị. Cô vừa chực thấy nó là nép ngay vô rèm, lén ngó nó ngồi nhẫn nại ngồi dưới sương đêm ngóng chờ một điều vô vọng, cô nghĩ thằng nhỏ này sến quá. Khi cô hiện ra trên khung cửa, cô nghĩ dù vậy nên bù đắp cho nó chút gì, thí dụ như mớ máu bị mất đi bởi bầy muỗi đói. Dưới kia nó hí hửng ra mặt, ngoác miệng cười.

Cô mất ngủ. Cứ tới nửa đêm là nghe như có ai đó gọi mình, dù nó không tới nữa, dù cô nói với nó cô mệt mỏi rồi. Cô giảng lịch sử Việt Nam mà lơ ngơ tưởng Hoàng Hoa Thám và Đề Thám là hai người, chểnh mảng ủi quần áo cho chồng, lẫn lộn tên của hai đứa con, nấu canh chua lại bỏ nước màu dừa. Gương mặt của ba gã đàn ông trong nhà cô dần biến mất nhường chỗ cho những dấu chấm hỏi. Bây giờ mọi hành động của cô, như thở dài, đứng dựa cửa sổ ngó mây bay, chiêm bao ú ớ, soi gương lâu, may áo mới… đều liên quan gắn bó với vụ tỏ tình ngoài đầu hẻm. Những ánh mắt nghi hoặc ngờ ngợ ngày càng làm cô khó thở. Cô vốn đã thấy bị rời ra trong đám đàn ông con trai lộc ngộc, giờ cô độc, hoang mang hơn. Bỗng dưng buồn bã vì một sợi tóc bạc, thấy đau đáu vì một nếp nhăn mới, thấy u ám bởi da trên cổ nhão. “Dù em thiệt hay giỡn thì cũng thôi đi - cô nói với vẻ chán chường – chuyện này không đi tới đâu hết, em biết mà”. (Nhưng cô muốn đi tới đâu? tới đâu là tới đâu? – ý nghĩ đó làm cô giật mình)

Nó hẹn gặp cô trong cái thư viện nhỏ vắng vẻ của trường, trong giấy ghi là “lần cuối, em thề…”. Cô không tới thì tội nghiệp nó uổng công đợi (Đàn bà thường vậy, một nửa là quản giáo nửa kia là mẹ). Khỉ đầu đàn, không biết vì động lòng trước vẻ hao gầy của cô hay chấp nhận được sự thật tình này không có hậu, nó chỉ yêu cầu cô Nghĩa cho nó ôm một lần. Như đứa con ôm người mẹ đã xa lâu, như em trai ôm tiễn chị gái lấy chồng, ôm đơn giản thôi, tức là cả hai đều đứng và tay nó vòng qua lưng cô, ngực nó áp vào ngực cô. Đầu giờ chiều không có người nào khác trong phòng sách. Mùi thuốc chống mốc xộc lên ngộp thở. Nghĩ sao mà ôm nhau chỗ này trời, cô nghĩ. Nhưng thằng nhỏ đã bước tới giang tay bọc lấy cô giáo, làm cả người cô như tê rần. Đậu miết vào cổ cô là một đôi môi dày, ẩm ướt, những cơn sóng từ đó loang ra tưới tắm làm cơ thể cô như mềm nhũn đi, như sắp tan rã tới nơi rồi. Bằng những chuyển động da diết, khẽ khàng, đôi môi đó để trôi ra những lời nóng bỏng, “bà già, bà nên biết là không nên bợp tai làm nhục tôi giữa đám đông…”.

Và chuyện xảy ra tiếp theo là những gì mà ban giám hiệu, hội đồng sư phạm nhà trường được xem trong đoạn phim quay bằng điện thoại di động của một đứa bạn nó (hết sức tình cờ) chứng kiến. Thằng nhỏ cố thoát khỏi vòng tay cô và vùng vẫy hét lên, “không, em sẽ không đổi tình lấy điểm, em mới mười bảy tuổi thôi mà, em xin cô buông tha cho em đi…”, mà cô thì chới với, chết sững ở đó. Nghĩ, thằng nhỏ giỡn chơi mà cũng kỳ công quá. Nghĩ trời đất ơi hên thiệt, thằng nhỏ giỡn chơi thôi, phải yêu thật thì nó sẽ khổ tâm lâu lắm, cô hơn nó tới hai mươi bốn tuổi, tình này sẽ không đi tới đâu hết…

Nhưng cô muốn tới đâu? Tới đâu là tới đâu? Tới một chỗ nào?
Đường Lưu Tấn Tài

Nguyễn Ngọc Tư

Lần đầu tiên đi qua con đường này, thắc mắc không biết ông Lưu Tấn Tài là ông nào. Những người quen cũng lắc đầu, biết chết liền. Suốt mười năm sau đó, lâu lâu lại thắc mắc ông Tài là ai?
Đường chừng hơn năm trăm thước, thẳng nắn nót dưới bóng cây, đứng ở đầu đường ngó thấy cuối đường. Cơ quan hội văn nghệ nằm xế giữa, ấy vậy nên đôi khi cả tháng không đi hết con đường ngắn khụi, đời mình có đoạn chỉ là chuỗi lặp lại tẻ nhạt những vòng bánh xe quay. Bạn bè nói đường này đẹp nhưng buồn quá, bên kia là công viên dày bịt những cây cao lớn tàng, bên này có vài ba cơ quan người ít đầy ắp giấy tờ. Đầu kia có cái khách sạn cũ tăm tăm, dành cho khách dễ tính ít tiền. Đi suốt, không có mùi phấn hương, mùi thuốc bắc, hay mùi phở bò thơm phức như những con đường bán buôn sầm uất. Cũng chẳng thấy trẻ con chơi trên vỉa hè hay những ông già ngồi đánh cờ, kiếm không ra mùi cá kho khô, tiếng tỏi cháy xèo trên chảo lại càng không có tiếng xoong chảo khua… như vẫn thường rộn ràng ở một lối đông dân cư.
Chỉ lá rơi và tiếng lá khô chạy chơi cùng gió bụi. Con đường thơ mộng nằm chờ đợi một điều gì đó không rõ ràng, một cái gì đó ấm áp, sống động. Giống như khoảnh khắc của những buổi xế trưa, khi những người đàn bà đội thúng bắp luộc nóng hổi, nghi ngút khói từ trong ngõ hẻm duy nhất của con đường bước hòa vào dòng lá bay. Khói bắp nấu là đà trong khói nắng. Nghe đời sâu nặng vị mặn của mồ hôi.
Xưa mình đi xe đạp thì đầu đường có anh vá xe đạp. Sau mình đi ké chiếc cub của ba, chắc không còn ai vá xe hay sao mà anh kia cũng đi mất, lâu lâu đi qua chỗ thoi loi của anh, nhớ trước chỗ này có cái ống bơm gỉ sét cùi bắp đứng dựa vô gốc còng như một biển hiệu không lời. May, con đường không vắng lạnh lâu, bắt đầu thấy vài ba chị kê bàn rải rác ngồi bán vé số. Phía trong rào công viên xuất hiện mấy quán cà phê, thỉnh thoảng ai đó đập nước đá lóc cóc vui lổ tai. Ông bán đồ cổ cũng trải chiếu đầu đằng kia chưng đồ cổ (hoặc giống như đồ cổ). Nép bên cửa ra vào công viên có người đàn bà bán chuối nếp nướng, lớp lá chuối bọc lấy vắt nếp là đà ngọn khói. Lá xanh nên khói bay thấp, trĩu hơi nước. Đường ngắn nhưng không vì vậy mà trôi tuột đi trong cảm xúc của người lại kẻ qua. Lá còng vẫn bay bất kể người đông hay vắng, cuộc thi vị tưởng chừng bất tận.
Mình đã đi qua hàng trăm con đường đất nước, và với mình con đường đẹp không chỉ để cho người đi mà còn để cho người sống. Song song với đường Lưu Tấn Tài, bên kia công viên là một đại lộ thênh thang, những buổi lễ lớn được sử dụng như một quảng trường. Đường này lạnh như mặt những anh bảo vệ mấy cơ quan đóng ở đây, vô duyên như cái bảng cảnh báo nằm trên rào, “cấm chụp ảnh quay phim, cấm tụ tập, cấm hàng rong…”. Nếu có một chị bán khoai nướng ngồi ở gốc cây kia là hết sảy, đường sẽ hết đờ đẫn trơ trơ.
Nhưng người ta đã chọn cho con đường đó một sứ mệnh mang vác cờ phướng rực rỡ, nó không thể ôm vào lòng những phận người khó nhọc. Nó không bao giờ có một đời sống vừa đẹp vừa buồn như đường Lưu Tấn Tài những ngày giữa cuối Chạp. Con đường nhỏ nhắn trở thành chợ hoa cho người trồng hoa tứ xứ. Những bàn chân nẻ rang như thói quen lặn lội nơi đồng bãi cứ bấm ngón cái xuống mặt nhựa bê tông. Làm nhói cả con đường. Nhói cả buổi trưa, lúc đi qua ngó ai đó nằm ngủ queo dưới bóng lá, ai đó dựa gốc cây cầm nón quạt vơi bớt mồ hôi, ai đó ngồi nhổ tóc ngứa cho nhau, ai đó nhẫn nại ngồi tuốt lá, nắn lại thế cây… Hoa Tết rực lên, người chăm hoa héo lại. Họ làm nhói cả Tết, lúc pháo hoa bắt đầu nở trên trời, cũng là lúc đường hoa tan tác, xiêu lạc. Con đường lên tận đỉnh vui để thả mình rơi chới với xuống vực buồn.
Đến cơ quan trực sáng mùng hai, đi trên con đường hai đêm trước còn xôn xao chợ nhốn nháo bán mua, giờ trống không. Thênh thang lá bay, rơi mãi chẳng trúng người. Cảnh vật đẹp, mà buồn thiêm thiếp, rã rời. Giống như những làng xóm miền Trung mà mình từng tới, đi cả ngày tuyệt không nghe tiếng tụi con trai ghẹo gái, thanh niên đã đã bỏ xứ tha hương.
Mình không ưa vẻ đẹp đó tẹo nào. Thật may sáng mùng bốn có mấy hoàng tử bán báo dạo đen đúa đã bày báo tân niên ra vỉa hè sành soạn, lao xao đánh thức con đường mê ngủ. Vé số lại chào mời bên đường những cơ hội, những vận may; khói từ mớ bắp luộc mới vớt ra khỏi nồi nghi ngút trên vành thúng. Gia nhập đội quân vỉa hè có thêm một tủ bánh mì cùng hai quán cà phê. Vừa đẹp, buổi sáng vừa uống trà đá vừa đọc báo, vừa gặm bánh mì vừa ngắm lá, còn gì bằng.
Nhưng mình phải rời đi, giờ mình cũng hay qua con đường mà mình nghĩ là đẹp nhất thành phố, nhưng như người khách có việc tạt ngang qua. Tám, mười năm trước, trời đất, mình ngây ngô đến mức coi cơ quan là nhà, còn đường là lối về nhà, giống như cái lối hai bên trồng dâm bụt rậm rì, có mấy con rắn chạy qua chạy lại ở nhà ba má. Mười năm, hàng cây bên đường lớn lên, già đi, vẫn giữ nguyên màu lá, lá giữ nguyên sự thi vị lúc lìa cành, nhưng con người mình thì tối sạm đi, xấu xí thấy rõ.
Điều duy nhất mình còn giữ của mười năm trước là thỉnh thoảng lại nghĩ không biết Lưu Tấn Tài là ai nữa, tên lạ quá đi…

Buồn quá. Ừ, thôi…
Nguyễn Ngọc Tư

Không bất ngờ chút nào khi em từ chối làm nhân vật cho bộ phim tài liệu của bọn tôi về hôn nhân quốc tế.
Suốt mấy tuần tôi với anh đạo diễn thay phiên nhau lượn lờ ở sở Tư pháp. Mỗi thứ năm có một buổi phỏng vấn xuất cảnh cho những cô dâu không biên giới. Nhiều đôi rất hay, như anh đạo diễn nói, nhìn là ra phim. Có thể vì cách biệt tuổi tác hay ngoại hình, hay vẻ lo lắng bồn chồn, vẻ ngượng ngập xa xôi giữa hai người đã chính thức cưới hỏi, sống đời vợ chồng. Nhưng bọn tôi vừa ngỏ lời thì các cô lắc đầu ngoe nguẩy, có cô còn cảnh giác lôi ông chồng ngoại quốc bỏ đi ngồi chỗ khác. Họ cảm nhận được từ đám công chức bọn tôi - những người được coi là hiểu biết - đang có sự kỳ thị, thiếu thiện chí, nói thẳng là khinh thường với những mối lương duyên kiểu này.
Chuẩn bị tinh thần người ta sẽ từ chối nên bọn tôi cũng chuẩn bị tinh thần quyết tâm đeo bám. Nhưng thuyết phục kiểu nào cũng không ăn thua. Chỉ em là phát ra một tia hy vọng khi xởi lởi hỏi lại, “trời, anh chị kêu em lên truyền hình hả?”, nhưng ngay lập tức em dập lửa tắt ngóm luôn, “thôi, hai vợ chồng em xấu lắm, vô ti vi người ta cười.”
Em nói đúng một nửa, chồng em ngoại hình không đẹp, gương mặt lớn bành bạnh, gò má chân mày cái mũi đều thô. Anh ta lớn hơn em gần hai mươi tuổi, chân lại cà nhắc, được cái hay cười. Em mười chín, ngơ ngác như mới tan học ở trường cấp ba nào đó, mặt mũi khá đẹp, xinh xẻo. Một cặp vợ chồng ngồn ngộn chất liệu mà chúng tôi từng mơ ước có trong bộ phim của mình. Phỏng vấn lần đầu, em bị đánh rớt vì không trả lời được một câu bằng Hàn ngữ, “Sở thích của chồng chị là gì?”, một tháng sau quay lại, đến lượt anh chồng ngẩn ngơ khi người ta hỏi tên quê vợ của anh, tên xóm, ấp, thuộc xã, huyện nào. Người cán bộ trực tiếp ngồi phỏng vấn, càu nhàu bằng tiếng Việt, “trời ơi anh lấy một cô làm vợ mà anh không biết cô ta thường trú ở đâu, gia cảnh ra sao thì kỳ quá…”. Và họ chỉ còn mỗi một cơ hội ở lần phỏng vấn thứ ba, nếu họ không vượt qua có thể cô dâu sẽ bị buộc ở lại Việt Nam vài năm nữa, hoặc vĩnh viễn không chừng.
Bọn tôi phải nói là thèm nhỏ dãi đôi nhân vật này, cuộc hôn nhân này, mối lương duyên nhiều bi hài kịch tính này, mối tình (thì như hai người nói là họ thành thật yêu nhau trước khi cưới) trắc trở này. Anh đạo diễn bàn, hay là đừng quay gương mặt họ. Phim sẽ ấn tượng, lạ, mà thông điệp vẫn rõ ràng, cô dâu quốc tế nào cũng từng ấy vui buồn, đây không chỉ là câu chuyện của riêng Hường riêng Mai, Trúc… Quan trọng nữa, với việc không xuất hiện trên màn ảnh bằng gương mặt, biết đâu em và chồng sẽ đồng ý bước chân vào phim.
Chữ “bước chân vào phim” này có thể hiểu theo nghĩa đen, nếu đúng như ý tưởng bọn tôi vừa phác thảo. Thay cho khuôn mặt là sự biểu cảm của những phần cơ thể khác. Là hai bàn tay em xoắn vặn lại tươm mồ hôi rối bời trước một câu hỏi bằng ngôn ngữ quê chồng. Là đôi chân đòng đưa vô tư như trẻ con khi ngồi băng đá ngoài hành lang, bên cạnh người chồng chỉ một chân trầm tư chấm đất. Là đôi vai nhỏ bé hơi rụt lại bên cạnh đôi vai lớn khuỳnh khuỳnh. Là đôi giày hở mũi rẻ tiền chi chít nhiều đường may bằng chỉ trắng, chật vật không giấu nổi bàn chân con gái nhiều vết chai. Là những bước đi cuống cuồng, hấp tấp trên con đường về nhà, khi qua một quán nước đầu xóm Xẻo Chà, vẳng ra vài tiếng thanh niên chọc ghẹo. Những khuôn mặt cười cợt, ánh mắt xoi mói đó làm cho vợ chồng em càng trở nên dấp dúi, tấp tểnh hơn. Và biết đâu bọn tôi sẽ bắt gặp một gã trai nhìn theo bằng đôi mắt rất buồn. Chi tiết này sẽ gây cảm động cho mà coi, tất nhiên đây là bọn tôi mơ ước vậy.
Phần âm thanh bọn tôi thu trực tiếp, cả những ấp úng ngập ngừng trong cuộc đối mặt với người bên tư pháp; cả những ngây ngô, chân chất khi trao đổi cùng bọn tôi; cả những ngơ ngác, nhọc nhằn khi đôi vợ chồng nói chuyện với nhau. Múa may hết kiểu mà không hiểu, thỉnh thoảng người chồng cau mặt, lật lạch xạch cuốn đàm thoại Hàn – Việt cấp tốc nhàu nát ra, dầm cái ngón trỏ ngắn như trái chuối cao mẳn vào một câu nào đó, em ngồi bối rối bẻ những ngón tay lắc cắc. Hình ảnh nói thay cho lời bình. Hình ảnh đau cho thân phận. Hình ảnh xót cho sự thật. Nhưng tất cả, là mường tượng mơ mộng của bọn tôi.
Em lắc đầu nói thôi, bàn tay của em xấu lắm. Hồi trước, đi mần cỏ mướn bị dao cắt trúng ngón út chút nữa là đứt lìa, giờ nó quẹo đơ, ngó sơ bàn tay là trong xóm em nhận ra em, rồi đồn đãi rùm trời. Nhà em người ta cũng đâu có xa lạ gì, mới xây tường lại thay cho cái nhà cũ mối ăn gần sập. Mà chân chồng em bị tật như vầy…
Osho và bồ
Nguyễn Ngọc Tư

“Osho nói, chữ viết làm người ta văn minh hơn nhưng cũng độc ác hơn.”

Bồ nói và nắm bàn tay Vĩnh đang lạnh đi. Khi đó hai đứa ngồi ở nhà chờ xe buýt, bồ vừa đọc xong một mẫu báo cũ dùng để gói bánh mì. Trên giấy úa có cái tựa lớn “Đến thơ cũng ăn cắp?” cùng ảnh một người đàn ông. Vĩnh nhớn nhác ngó sơ mà biết bài viết có năm trăm mười bảy chữ, ba chữ sai lỗi chính tả, và ảnh kia là ba nó. Báo cũ lạt mực, nhưng cũng đủ nhận ra một gương mặt xương xương đa cảm, hơi ngước lên.

Tấm hình này nằm trong tập thơ riêng đầu tiên và cũng là cuối cùng của ba Vĩnh, người ta sẵn đó chụp lại in báo. Họ không tới gặp ông. Những quyển thơ ba nó đem đi đốt lâu rồi, và cái nhìn thẳng cũng vắng bặt. Ở nhà chỉ còn ánh mắt khi rắn đanh, khi lầm lũi, khi u tối… Nhưng chân dung cũ vẫn tồn tại trong những tờ báo cũ, vẫn xộc tới bâng quơ, tình cờ như mảnh giấy gói bánh mì này.

Và tình cờ làm buổi hẹn hò của Vĩnh kết thúc. Nó ào lên chuyến xe buýt vừa trờ tới, bỏ lại mớ ngơ ngác cho con bồ. Năm phút trước Vĩnh nói, “tụi mình đi đâu đó chơi đi…”, và ngó bồ mừng rỡ nhoẻn cười, Vĩnh đã nghĩ, hay là chiều nay nó sẽ đưa cô gái này vượt qua một mê cung hẻm, tới căn ngôi nhà có cái cổng gỗ vẹo vọ đằng trước. Bồ sẽ bất ngờ lắm khi nó ghé vào tai nói nhỏ, “má anh lãng tai, Ái nhớ thưa lớn tiếng…”. Bồ mong đợi cuộc gặp gỡ này từ hồi Tết, khi hỏi Vĩnh, lần đầu, “sao anh không đưa em về nhà chào ba má?”. Câu này có nghĩa, “anh có nghiêm túc yêu em không?”.

Đôi khi bồ hoang mang, thấy Vĩnh ngồi một cục thù lù trước mặt vậy nhưng thật khó nắm bắt, như khói vậy. Đôi khi bồ không nhớ ra ông Osho có lời khuyên nào trúng vô trường hợp này.

- Osho nói, nghi ngại có nghĩa là đứng lại. Thằng Vĩnh nhại lại lời bồ.

Câu này Vĩnh nghe hồi nào nó không nhớ rõ, bởi bồ trích dẫn Osho như cơm bữa. Quen nhau ở lớp sinh ngữ tối ít lâu, một bữa cô nghiêng đầu nhìn Vĩnh, bảo, “Có ông Osho bên Ấn Độ nói, nếu buồn không tiêu hóa được, chỉ còn cách ói nó ra, bằng lời. Ái thấy anh buồn rượi, sao không nói cho Ái nghe, cho khỏe người…”. Vĩnh nghe tên ông đó lạ hoắc, nhưng qua cô nhân viên của nhà sách Văn Việt, thấy người này hơi kỳ lạ.

“Osho nói, trong đời người ta sẽ bị ném đá một vài lần, đau chút nhưng chết vì mấy cục đá đó thì lãng quá”, Vĩnh nghe như ông Osho này từng học chung lớp, từng nghe đám bạn mỉa mai cười cợt, “bữa nay ba mầy lên báo nào?”…

“Osho nói, chạy trốn là dở ẹt, nhất là chạy trốn tình yêu…”, như Osho biết tại sao Vĩnh hay lẻn ra bằng cổng phụ tránh về cùng cô gái, tại sao Vĩnh lại phủi người ta như phủi bụi, tôi chỉ là thợ cơ khí, nghèo lắm. Không ăn thua gì, cô gái cười, “Có sao đâu, Osho nói…”.

Có thật Osho nói vậy? Vĩnh không biết, nó đâu có đọc sách, cứ cầm cuốn sách là trong cổ cuộn lên tiếng ngáy. Báo thì nhà Vĩnh đã không mua từ bảy năm trước, không một tờ nào. Nhưng cô gái bốn mươi hai kí lô kia là có thật, cô nói nhiều câu (được cho là của Osho) vá víu được nỗi đau âm thầm, biết Vĩnh bị thương chỗ nào và luôn chọn một miếng đắp thích hợp. Ngay cả khi Vĩnh thắc mắc, “tại sao tôi phải tin Osho?”

- Vì ổng không phải thánh, cũng không phải tầm thường như tụi mình, Vĩnh thử tin đi nếu thần thánh với con người đã làm Vĩnh thất vọng - Cô gái rụt cổ, nói thêm - Ái đọc thấy người ta viết vậy, chớ không phải Ái nghĩ ra đâu.

Vậy có câu nào mà Ái tự nghĩ ra? - Có lần Vĩnh hỏi vặn. Cô gái day qua ngó vào mắt Vĩnh và đôi môi nhảy múa khẽ khàng trên gương mặt nhỏ nhắn ấm áp, “em yêu anh!”. Môi Vĩnh quen mím chặt, thường bị răng cắn rát… không kìm được bèn áp vào đôi môi mát lành kia, đắp lên vừa khít một vết thương.

Từ bữa đó đời gọi tên cô gái là bồ.

Bồ Vĩnh dù đọc nhiều sách trong nhà sách mà cô đang làm việc, vẫn giản dị như đa số bồ (không đọc sách) khác, nghĩ yêu một lúc thì nên cưới nhau rồi yêu tiếp cho chắc ăn. Bồ trông Vĩnh đưa mình về nhà, cô sẽ sà vô bếp nấu nướng với má Vĩnh, nghe bà già kể hồi nhỏ thằng Vĩnh ở truồng. Sau đó ra uống trà với ba Vĩnh, chuyện trò về sách, hoặc theo người chị gái chưa chồng vào phòng, thủ thỉ bày cho chị cách yêu.

Thiên đường đó bảy năm trước Vĩnh đã có và đã mất. Bởi hai chữ “ăn cắp”, dù có dấu chấm hỏi đằng sau. Dấu thì mỏng mà hai chữ kia quá trần trụi, khiêu khích, bén ngót. Chúng róc chỗ này chỗ kia tí, nhà Vĩnh trống hoang. Đến buổi yêu ban chiều chúng còn xước mất.

Phải không, hay chính mình đã hai tay dâng cho chúng? Vĩnh nghĩ vậy khi bước vào căn nhà vắng. Má Vĩnh đã ngủ từ chạng vạng. Ba nó đang coi ti vi, chương trình khuyến nông chống rầy nâu cho lúa, một chuyện không ăn nhập gì tới cuộc đời ông. Nhưng ông vẫn ngồi cú rủ trước ti vi cho đến khi mỏi mòn đi ngủ. Đó là lúc má Vĩnh thức, lẹp xẹp ra ngó ti vi. Không ti vi thì làm gì bây giờ, ngoài cỗng biết đâu người ta còn nhớ…

Vĩnh ngồi ở cầu thang nghe ngôi nhà thiu thỉu nằm đau. Nhìn ba nó từ phía lưng, Vĩnh cảm giác ông già đang lún sâu trên ghế, và bóng tối sắp nuốt trộng cả phần đầu. Nó muốn cứu ông, chết cũng được, cũng phải cứu ông.

Mà làm gì đến nỗi chết, dù bồ cũng ném đá vào Vĩnh bằng vẻ thất vọng sững sờ trước sự thật, “ba anh từng lên báo vì bị nghi ngờ ăn cắp một bài thơ…”, dù cuộc tình dừng lại. Nhưng bồ đọc nhiều sách, bồ chỉ phì cười, mặt mũi vừa rửa trôi mớ bụi đường, trong veo, “Có sao đâu…”

- Đi với anh, có ông già bị thương quá trời, cần em lắm…”



Hoàng hôn rộn rã

Nguyễn Ngọc Tư


Nhiều khi bạn thấy nhớ những buổi chiều…

Bạn kéo cái ngăn nhớ đó ra, tức thì nghe tiếng con gà mái mẹ la ó ré khi mình nhấc nó vào cái cà vung độn rơm, tụi gà con còn đứng bên ngoài kêu chíp chiu nháo nhác. Mấy con gà lớn hơn đập cánh lạch xạch bay chập chõa lên nóc nhà củi, bầy vịt quế về chuồng lạch bạch tới rúc mỏ vô cái máng đổ xem xép lúa lép . Chạng vạng ở nhà ngoại còn có tiếng con bìm bịp rười rượi kêu nước, tưởng tượng, tiếng con chim này làm tan chảy cả đá chớ không phải chơi.

Bạn có hơn ba ngàn chạng vạng trong đời ướt rượt những âm thanh quen thuộc đó, làm bao nhiêu chuyện đó. Hốt ổ gà, châm dầu đèn, gom củi, lấy mớ quần áo thơm bừng nắng trên sào vào nhà… Hôm nào bạn cũng cố làm cho sớm, để ba chân bốn cẳng chạy đi chơi với tụi bạn, nhưng trời còn nắng thì mẹ con gà còn lang thang đi chơi trong vườn. Đành chờ mặt trời khuất vậy, nhấp nhổm như ngồi trên đống lửa, bên xóm có bầy con nít đang giỡn hớt om sòm.

Và khi tiếng kèn kẹt của những cái cửa sổ lá sách khép ngày, là cả nhà bạn sum vầy. Anh chị bạn tan trường đạp xe vẹo sườn rẽ vô lối nhỏ lót bằng đá chẻ. Má về khi cửa trước lúc cửa sau, tùy bữa đó má đi ruộng hay bơi xuồng tới nhà máy chà gạo làm bạn hàng xáo. Ba vào nhà chỉ một cửa sau, quần cộc ướt mèm vì tưới rau, cuốc đất. Ông đi tới đâu để lại trên nền đất cứng quèo những dấu chân sũng nước chèm nhẹp tới đó. Rồi mấy cái chén úp trên giàn xốn xang chạm vào nhau. Chỉ buổi cơm tối trễ tràng này là đông đủ tiếng đũa khua.

Có lẽ những chạng vạng năm xưa neo cặm vào lòng bạn bởi sự đầm ấm đó. Của cảnh, vật và người. Của một thời chưa biết khăn gói lang thang, đi tới những chân trời xa lạ. Chiều muộn giờ có khi bạn đang ở một miền đất xa xôi nào đó. Hoang mang. Chông chênh. Xớ rớ. Ăn ở quán đông người say, sợ. Ngủ trọ ở chỗ vách phên không kín, sợ. Gặp những ánh nhìn đăm đăm của người lạ, sợ. Và chạng vạng ngơ ngác mon men theo sau tiếng lục lạc lanh canh của những đàn bò vừa đủng đỉnh rời sườn núi, bạn thấy nhớ nhà. Nhớ như người xưa nhớ đến bật ra lời hát, “chiều chiều chim vịt kêu chiều/Ngó về quê mẹ chín chiều ruột đau”. Thời khắc này đã được bạn đổi tên là buổi nhớ nhà mất rồi, hành trình đến tên gọi mới mất mười lăm năm.

Bạn nghĩ có thể bạn tiến hóa từ chim hay gà, nên chạng vạng là bạn muốn về nhà, về tổ. Mấy triệu năm rồi, duy nhất và độc nhất vẫn còn sót lại bản năng này. Khao khát bầu trời nhưng đồng thời cũng nhớ thương tổ lá tổ rơm tổ cỏ.

Nhưng buổi nhớ nhà, buổi sum vầy đôi lúc không còn ý nghĩa như tên gọi, bởi những cuộc gặp gỡ, tiệc tùng, những mối quan hệ phức tạp. Chiều muộn giờ là cuộc gọi ngắn ngủi, “tôi đi nhậu cùng mấy đồng nghiệp, khỏi đợi cơm…”; là tin nhắn lạnh lùng trên điện thoại di động, “em ăn tối với khách ở xa”; hay một mẫu giấy phất phơ trên bàn, “con đi sinh nhật bạn, chắc về khuya, đừng chờ cửa…”.

Cái bản năng không bị mấy triệu năm tiến hóa làm mai một, đôi khi biến mất vì những cách giản dị đơn điệu không ngờ. Nhanh như trở bánh phồng. Chạng vạng đứng bên ngoài những ngôi nhà khép cửa và khóa trái, chạng vạng nghe như ai gọi nó bằng cái tên tan tác. Hai mươi năm, tính ra cũng không dài cho những cuộc đổi thay…

Và đôi khi bạn thấy nhớ những buổi chiều bạn biết là sẽ không bao giờ quay lại nữa…

Sư tử không ăn cỏ

Nguyễn Ngọc Tư


Thằng bạn nhỏ của tôi hồi năm tuổi thần tượng sư tử. Nó nói sư tử mạnh nhứt trong rừng, mà lại mềm mại dễ thương. Nó dẫn chứng ra sư tử Simba với cái bờm mượt mà, chúa tể thế giới hoang dã trong một bộ phim hoạt hình rất hay của Walt Disney. Một bữa thằng nhỏ coi chương trình thế giới động vật, thấy con sư tử (thiệt, không phải hoạt họa) ăn bữa sáng với thịt nai tươi sống, nó đau khổ hết phương. Với bạn, hình ảnh chú sư tử phè phởn nằm liếm láp bộ lông rậm bằng cái miệng tèm lem máu con mồi là không thể chấp nhận được. Đứa trẻ thất vọng nói, sư tử ác quá.

Tôi cảm thấy bối rối, thật khó để giải thích cho thằng bạn hiểu sư tử ăn thịt vì không thể ăn cỏ, vì sự sống còn của chính nó, như mẹ con mình bữa qua ăn cơm với cá. Sau bữa đó, tôi không dạy bạn về thiện - ác nữa. Cặp từ kia đã được thay bằng tốt – xấu, hợp lý - không hợp lý, tử tế - không tử tế…

Con mèo Tom không ác, nó sinh ra là để bắt và ăn chuột. Trong bộ phim rượt đuổi bất tận đó, con chuột Jerry cũng không ác, nó phải đấu tranh để sống, dù đôi lúc nó hơi quá quắt khi trả đũa gấp đôi, trừng phạt gấp ba lỗi con mèo gây ra. Hai mẹ con tôi cùng đồng ý là những tập phim mà cả hai con mèo chuột hợp tác để chống kẻ thứ ba, hoặc cuối phim chúng bắt tay nhau cười toe vui vẻ, là hay nhất. Mặc dù không đúng với bản chất chuột, mèo cho lắm.

Đôi khi vô tình, người ta đòi hỏi ai đó (hay con gì đó) không được sống như chính họ (hay chính nó). Hồi nhỏ, mỗi lần thấy thầy giáo dắt con heo nọc đi bỏ giống là tôi thấy phiền lắm, tôi nghĩ thầy chỉ nên đọc sách, tỉa cây kiểng, nuôi chim sáo hoặc rung đùi ngồi đánh cờ chơi. Dù thầy nghèo xơ xác, dù vợ con thầy cực ăn ốm nhách, nhưng nếu cực chẳng đã phải kiếm tiền, thì thầy nên mở tiệm bán kẹo, xi rô đá bào hay bán sách báo…không lý nào xoắn quần áo xắt chuối nấu cho heo, còn dắt nó đi lang thang khắp xóm những khi tan buổi dạy. Tôi nghĩ vậy.

Hồi đó, thầy sống như thầy có, lương thiện mưu sinh cho qua hồi cơ cực, nhưng lòng kính trọng thầy của tôi bị sứt mẻ lãng òm. Như người ta không chịu anh bác sỹ ăn mặc cù lần, xét nét ông kia tướng tá nông dân mà làm lãnh đạo, thất vọng khi trên mắt nhà thơ viết thơ tình nổi tiếng lại dính… ghèn. Như thằng bạn nhỏ của tôi đòi sư tử hoang dã của rừng rậm Phi Châu phải ăn chay.

Đời cũng hay ca cẩm kiểu như: tụi trẻ bụi đời ngang ngược xấc xược ưa hong vô, cô giúp việc nói năng thiệt là thô lổ, mấy bà bán cá sao hung dữ quá, thím nông dân kia dòm nhếch nhác quá, áo dính mủ chuối móng chân đóng phèn… Và người nghèo, dân lao động nghèo vì những tiểu tiết đó mà bị ghét bỏ, đôi khi. Thử thả một đứa bé con nhà tử tế ra bãi rác, để mặc nó vật lộn kiếm miếng ăn, ngủ bờ ngủ bụi, bị những đứa mạnh hơn chà đạp… một vài tháng sau nó sẽ không khác gì đám trẻ bãi rác kia. Ta muốn một thằng nhỏ thất học, lang thang đói rách phải sử sự lịch lãm như một quý ông sang trọng mà không chìa tay ra giúp nó, dạy dỗ, cưu mang, thay đổi nó. Thành kiến đẩy nó dạt xa về phía tối.

Nói về thành kiến thì ai cũng có một kho. Xưa tôi ghét những người mua bán ve chai, do đã gặp vài người tiện tay ăn cắp vặt. Thằng bạn nhỏ ra đời, ông trời cho tôi nhiều hơn tôi tưởng. Những buổi trưa thấy mấy chị ve chai lầm lũi ngang qua, nắng mưa oằn cả hai cần xé, tôi bỗng nghĩ chẳng may tôi phải ra đường mưu sinh bằng cách đó, tôi cũng sẽ phạm lỗi, biết đâu chừng… Cực khổ cỡ nào tôi cũng chịu được, kể cả đói lạnh, nhưng con tôi thèm thịt đến nỗi đang sốt dầm dề mà được ăn cháo trắng với thịt nướng là tỉnh trân, thì tôi cũng sẵn sàng đánh cắp cái chảo, hay mớ sắt vụn, đoạn ống nước cũ… để đem về cho con một bữa ngon.

Nói vậy là tôi phủi sạch trơn cái câu ông bà dạy “nghèo cho sạch, rách cho thơm”, nhưng nghèo hay rách thì không giày vò và réo gọi như… đói. Lúc cuộc sống khắc nghiệt buộc người đi chênh vênh lằn ranh tử tế và không tử tế, họ bước chệch choạc cũng là chuyện tự nhiên. Có ở dưới ao mới biết không cách nào không ướt áo.

Chấp nhận những gì khác mình đã quá khó, nói chi tới yêu thương. Tôi biết không hy vọng gì thằng bạn nhỏ tôi lại khoái con sư tử như trước. Có gì đó đổ vỡ rồi. Bạn day qua thích siêu nhân. Siêu nhân suốt ngày đi đánh nhau, tôi đương nhiên không thích, nhưng thằng nhỏ nói, “siêu nhân thì phải đánh nhau tụi quái vật chớ…”

Ờ, bản chất siêu nhân là đánh nhau, không thì năm anh em đó thành lập ban nhạc chớ làm siêu nhân chi? Mà kẻ xấu lộng hành vậy siêu nhân không đánh thì ai đánh???


Có còn người không?

Nguyễn Ngọc Tư



Câu hỏi đó thằng nhỏ hỏi mỗi ngày mỗi ngày mỗi ngày, khi đói khát, khi bị đánh đập cấu nhéo, khi phơi trần ra dưới nắng mưa. Khi nó nằm trên mặt đường và kêu khóc khản giọng. Nó hỏi vào đám đông lướt qua nó, hỏi ai đó dừng chân cho nó (chính xác là cho những kẻ chăn dắt nó) chút tiền lẻ. Nó hỏi những kẻ bắt nó nằm lăn lóc kêu khóc trên đường để kiếm tiền, để nhởn nhơ ăn mòn tấm thân bé nhỏ non nớt của nó.

Nhưng tôi tưởng tượng thôi, trong lúc ngồi uống một ly cà phê mặn chát. Dường như cả quán hôm đó cũng có cùng cảm giác, sau khi giở tờ báo sáng, và nhìn thấy hình ảnh của thằng bé ăn xin. Nó nhỏ đến mức chỉ biết khóc. Ở truồng và khóc. Ướt và khóc. Bị đánh đau và khóc. Chấp chới giữa dòng người ngược xuôi đông đúc như con vịt con ngơ ngác mà người ta dùng để câu nhắp cá lóc. Em bé – con mồi sống không nói gì hết, mà tôi tưởng như nó hỏi, người ơi, người ở đâu?

Tôi đã nhận được câu hỏi đó bao nhiêu lần trong đời? Không đếm được. Có đứa thậm chí còn không khóc. Nó ngủ mềm oặt, xanh rớt trên tay người đàn ông ngồi ở một góc đường. Một kiểu ngủ mụ mị vì tác dụng của thuốc. Buổi tối tôi đi qua chỗ đó và em lại hỏi bằng vẻ câm lặng im lìm. Như cái chết. Có còn người không?

Đám đông không lên tiếng. Không Lục Vân Tiên nào, đại diện công quyền nào đưa cả hai con người rách rưới về, gạn hỏi coi có thật là cha con như gã đàn ông phân trần, hay chỉ là kẻ chăn dắt với con mồi. Em bé ngủ vì thuốc ngủ hay vì sốt cao? Em cần một mái ấm hay một bệnh viện cho qua cơn đau? Bàn tay mỏng đó không quá khó để người đời nắm lấy. Nhưng dòng người lũ lượt không ai dừng lại. Chính xác là cũng có người bước tới cho vào cái ca nhựa bạc màu chút tiền lẻ, nghĩ sau đó mình sẽ nhẹ lòng. Tôi cũng vậy, tự lừa mình. Và cái góc đường trước Trung tâm văn hóa thông tin ám ảnh tôi dai dẳng dù em bé chỉ ở lại hai đêm rồi biến mất. Cuộc ra đi gây bất an hơn cả khi xuất hiện, bởi linh cảm em lại vạ vật ở một góc đường khác, bị nhấn chìm trong giấc ngủ khác. Ngủ là một cách hỏi, người đâu mất rồi?

Cũng như những em bé ăn xin mà bất cứ ai cũng có thể gặp một đôi lần trên đất nước này, chúng gọi con người bằng nhiều cách, bằng ánh mắt thất thần, bằng vẻ ngoài trần trụi và lem luốc, bằng tiếng khóc, tiếng hát, bằng bàn tay bẩn thỉu xòe ngửa, bằng những vết thương bầm tím trên da thịt… Ai đó nghe thấy tiếng gọi đó nhưng họ bận rộn, sợ hãi, bất lực, cũng có kẻ không nghe, không cảm nhận gì hết…

Và những đứa trẻ đường phố vẫn tồn tại, như một phép thử.

Thử coi người ta bất lực, rụt rè, ngại khó bao nhiêu? Bao nhiêu người đã từng đi qua, chứng kiến những thân phận nhỏ bé khốn khổ. Dù ngoái lại, dù áy náy, dù thấy thương và bất an… nhưng chậc, mình lại phải đi rồi… Họ không làm gì mà kêu mấy ông nhà nước làm gì đi chớ…

Thử coi người ta đã tha hóa, độc ác và nhẫn tâm tới mức nào khi phơ phởn kiếm tiền bằng cách giày vò, đọa đày kẻ khác?

Thử coi nhà chức trách đã làm gì để bảo vệ luật pháp, quyền con người, quyền được sống được vui chơi? Trẻ con họ không che chở được, thì họ hô hào khẩu hiệu, tính làm chuyện lớn lao chi hả trời?

Một phép thử đau. Nhưng thử thách bao nhiêu lâu rồi, nhân tình thế thái đã bày ra đó rồi, chuyện muốn biết thì đã biết, đám trẻ vẫn chưa ngưng gọi con người. Vẫn chờ đợi ai đó đáp lời, chìa ra một bàn tay, một vòng tay ấm. Có điều, khi đó không biết chúng còn đủ sức để nắm lấy không?


Gió thổi suốt đêm

Nguyễn Ngọc Tư


Đuổi kịp mấy dì đi bộ thể dục buổi sáng ở đoạn đường gần trường học, tôi nghe một người nói, gió thổi suốt đêm qua. Ờ, gió thấy sợ, đang có bão xa mà, một người khác đáp.

Bỗng dưng tôi nhớ những đêm xa xưa ngủ trong chòi vó, nửa khuya nằm nghe những người đàn bà bơi xuồng đi chợ sớm, cuộc trò chuyện rộn rã trong tiếng mái dầm chẻ nước lách tách, đôi khi cũng là chuyện ban tối gió giông.

Hồi đó tôi còn nhỏ, ngủ là ngủ như chết, chẳng hay trời đất gì. Sáng ra má kể trận gió đầu hôm còn xíu nữa đã làm bay nóc chuồng gà và có chút mưa lúc gần sáng. Có nhiều người đàn bà quê xứ mình nghe thấy cơn mưa, gió đó. Như thể họ thức suốt đêm, như thể họ chong đèn ngồi coi chúng. Nên họ biết đêm qua chó rộ sủa mấy chập, trẻ con ngủ mớ kêu ú ớ mấy lần, con chim cú đậu trên cây vú sữa kêu bao nhiêu tiếng…

Và đêm được vẽ lại bởi những người đàn bà thao thức. Hàng ngàn đêm trong cuộc đời. Họ ngủ nhưng tiếng ho khan của người già, tiếng cười khẽ của đứa trẻ trong mơ, con chó sủa, bầy vịt rộ, mưa giông bên ngoài… đã chẻ vụn những chiêm bao. Trong ký ức về vài người phụ nữ ruột thịt của tôi, có đến một nửa nỗi nhớ diễn ra trên nền đêm tăm tối. Nhớ bà ngoại nửa đêm hay xức dầu dừa vô mấy đầu tóc mượn rồi nhẹ nhàng chải chúng, nhớ má nửa đêm cạ gót chân vào cục đá mài dao để xóa bớt những vết nứt, những chai sần… Đó là những giây phút ngắn ngủi bạn yêu thương chính mình, sống vì mình, cho mình. Sau đó, bạn đẹp vì người khác. Nhọc nhằn vì người khác. Có khuya giật mình thấy má rón rén bưng đèn đi ngang giường, tôi tốc mùng thò đầu ra tưởng đâu trời đã sáng. Má nói ngủ đi, còn khuya lắm. Tôi hỏi, vậy má thức làm chi? Ờ, con gà mái mẹ nó kêu hoảng quá, má ra coi có chuột bọ rắn rít gì vô quậy ổ gà không.

Một má một ngọn đèn. Cô độc. Hai mươi năm sau, dậy thăm chừng thằng nhóc con đang sốt, tôi thấy cái bóng cô độc in trên tường này quen quá, y như má, như bà ngoại. Hai mươi năm sau, dù có muốn hay không, tôi đã trở thành một người vẽ đêm, nghe gió mưa đêm, kể chuyện đêm… Và tự trả lời câu hỏi năm nào, người ta sao lại không ngủ, thức làm chi cho cực, ngủ sướng hơn.

Nhưng thức như một bản năng, mình không muốn, nó cứ đến. Mình thèm ngủ, mình muốn ngủ nhưng đêm cứ kể chuyện rầm rì. Một người đàn ông say đang hát nhừa nhựa ngoài đường. Đứa bé con nhà bên vách khóc ngằn ngặt. Xe cấp cứu hú còi. Nhóc con nằm giường bên, giãy đồm độp chắc vía bị khủng long rượt. Gió vần vũ phành phạch cái mái che. Con mèo trườn qua làm cuốn sách rơi khỏi giá.

Lúc nhỏ tôi tưởng ở nhà lá, nhà rách, ở giữa vườn tược đồng bãi vắng vẻ người ta mới thao thức. Nhưng cái xóm chợ sôi động mà tôi từng ở trọ nhiều năm, hừng đông hàng xóm thường rộn rã kể chuyện đêm. Và những người đàn bà vận động buổi sớm mai, khu nhà họ ở rất sang trọng, chắc chắn và yên tĩnh, làm sao họ biết suốt đêm rồi gió chạy đuổi điên cuồng? Giữa những lớp cửa kính kín đến mức chuông gió không lay, có phải họ nghe gió bằng cảm giác, bằng bản năng, ký ức...?

Tôi chỉ chắc chắn một điều, khi tôi thức viết một trang sách, tôi biết giờ phút đó trong những ngôi nhà nào đó cũng có nhiều người đàn bà thức giấc. Để khép một cánh cửa, để ém lại vách mùng đã bị trẻ con đạp tung ra, để chờ tiếng bước chân của đứa con còn chơi lêu lỏng ngoài đường, để thảo một bức thư, để nhớ một người xa…

Cũng có người làm những việc vô cùng giản dị, chị giũa móng chân hay đắp lên mặt một lớp mật ong…


Chút tình nhỏ nhít…
Nguyễn Ngọc Tư

Hôm trước rửa chiếc xe máy của mình lần cuối, trước khi cho nhỏ cháu đem lên Sài Gòn, lúc kỳ cọ đồng hồ công tơ mét tôi nhìn thấy con số dừng lại ở 92.880. Tôi dừng lại mơn man mặt kính rạn nứt chi chít phía trên con số đó. Trong khoảnh khắc, tôi thấy thân thiết với chiếc xe biết chừng nào. Hơn một người bạn, hơn một người yêu. Và thật khó khăn khi phải chào biệt rời xa nó.
92.880 cây số. Tôi tự hỏi đã đi đâu trong bảy năm qua, cùng với chiếc xe cà tàng này? Xấp xãi lồng lên chạy trong nắng trưa, mưa sớm, trong khói bụi dày đặc. Tôi đi chợ. Đưa đón con. Tới cơ quan. La cà quán xá. Về nhà má… Và những chuyến đi xa. Qua những con đường mịt mù đất đỏ, những con đường chen chúc người, những con đường buồn hiu cỏ cháy, những con đường nhiều hoa dại… Chia sẻ với nhau nỗi hồi hộp khi qua những chiếc cầu xiêu vẹo như răng bà già, nỗi hoang mang đi trên cung đường xa lạ, sự bịn rịn man mác lúc đi qua cây bằng lăng lẻ. Từ chạy những vòng bánh xe đầu sợ cóng hết chân tay, cho tới buổi chiều nay, quả thật không đếm hết những kỷ niệm của chúng tôi, hôm nào xốc ổ gà té bầm đầu gối, hôm nào dầm trong cơn mưa thiệt dài, hôm nào kẹt phà đứng chờ trong nắng chang chang, hôm nào cả hai chìm trôi trong con đường mênh mông nước… Lạ lùng quá, khi chứng kiến, đồng hành và sẻ chia bao nhiêu cơ cực buồn vui đó là… chiếc xe.
Không phải người, không phải bạn bè tôi, hay những người thân thiết. Đơn giản vì họ cũng có những cung đường riêng, những bối rối, bức bối riêng. Và giống như tôi, ở vòng quay đi về lủi thủi đó, họ thương yêu những phương tiện, vật dụng vô tri giác ở quanh mình. Một chị bạn tôi kể rằng nhà chị có cái máy giặt xài lâu năm, sắp mục rã tới nơi rồi, vừa hao điện vừa rùm lổ tai, mà chị luyến tiếc chẳng muốn thay. Sao xài cái gì là có tình cảm với cái ấy, đàn bà tụi mình kỳ quá, chị cười.
Tôi cũng thấy kỳ quá, phung phí quá, trong khi quan hệ người với người lắm khi dè sẻn từng chút một, nhưng lại ngẩn ngơ nhớ tiếc khi xa một góc bếp, một mảng sân phơi, chiếc xe đạp, một cái áo cũ, bậc thang... Chỉ vì giữa tôi và chúng có quá nhiều kỷ niệm, những kỷ niệm đôi khi không bao giờ xảy ra giữa người với người. Nhiều nỗi vui, niềm đau ta nghĩ quá tầm thường, nhỏ nhít, nhưng chúng vẫn xảy ra thường xuyên trong cuộc đời, chỉ có điều hơi kỳ cục, trẻ con, sến rện khi thật thà chia sẻ với ai đó. Lúc tôi dụi mặt vô võng giấu nước mắt vì một cảnh phim quá sức cảm động, khi đó tôi và cái võng đã có với nhau một kỷ niệm. Kín đáo. Thầm lặng. Cái võng không bao giờ phán xét, “mít ước quá mày…”, hoặc “ê đừng có khùng vậy chớ, biết là dựng chuyện mà đi khóc như Lưu Bị…”, hoặc “thôi mà, nín đi...”. Và chiếc xe máy mà tôi sắp xa chưa từng tỏ ra buồn cười, chế giễu, “con nhỏ này tào lao ớn…” những khi tôi dừng lại giữa đường lặng nhìn một vạt hoa mua.
Thường, tôi là tôi thật nhất lúc ở một mình, lúc lộ nguyên hình con đàn bà vụng về, ngơ ngác. Nấu canh thì canh mặn, chiên cá để dầu cháy văng ra làm phỏng da, gọt rau củ lưỡi dao lỡ cứa ứa máu tay, chạy ra sân phơi gom mớ đồ trước cơn mưa thì mấy ngón chân lại vấp vào thềm, giũ áo con đem giặt bàng hoàng nhận ra áo nó dài bằng áo mình, con lớn hồi nào mình có hay gì đâu, trời… Những tình cảm bé mọn, bâng quơ đó vừa vặn để làm vài kỷ niệm vừa đau đau vừa ngọt ngào giữa tôi với ông táo, thềm nhà, sàn nước… Có lần lơ đãng sụp ổ gà té đo đường, lúc lồm cồm bò dậy, tôi liền săm soi chiếc xe coi có trầy trụa chỗ nào không, một ông già chống gậy đi qua cười, con nhỏ này coi trọng cái xe hơn thân nó. Tôi đâu có ý đó, chẳng qua vì thể diện, không nhờ chiếc xe để mình giả đò nghiêng ngó, biết giấu đi đâu cái mặt sượng ngắt này.
Giờ chiếc xe cà tàng đầy thẹo vết (y chang tôi) đã đồng hành cùng người khác, cũng yếu đuối, cũng vụng về, bất ổn nhưng ra vẻ mạnh mẽ, tươi trẻ, giỏi giang. Những con số trên công tơ mét lại lặng lẽ quay vòng theo những buồn vui người mới, rồi thảng thốt một ngày… như tôi đã thảng thốt bữa qua. Trời đất, mình đã đi muôn ngàn dặm mà vẫn không ra khỏi sân phơi, góc bếp, mái hiên… nhà mình.
Giờ đi qua khoảng sân ráo tạnh, nhớ buổi tiễn đưa sến rện chiều rồi (ngó tới ngó lui không có ai, mình đã ôm choàng chiếc xe máy một cái, haha). Và, giây phút đó tôi cùng mảnh sân lại có thêm một ký ức nữa, tình này cũng hứa hẹn đậm sâu…

mong manh của người…

Nguyễn Ngọc Tư


Chị D ở Đài phát thanh kể, có lần hỏi phỏng vấn một giám đốc lâm trường. Ông nhiệt tình cho chị cuộc hẹn. Chị khăn gói tới, ông ngơ ngác nhìn quanh hỏi ủa không có máy quay phim hả, tưởng thu hình chớ, vậy phỏng vấn chi mất công. Ông giám đốc phủi phủi không khí rồi bứt cái cravat trên cổ ra. Khi đó khu vực rừng của ông đang đứng trước nguy cơ cháy rất cao, chị định hỏi lâm trường đối phó ra sao. Nhưng có vẻ mấy bữa nay ông quên canh chừng lửa mà chuẩn bị bộ vó để lên ti vi. Chị D nhớ lại cảm giác bữa đó, “Chị hận máy quay phim ghê gớm, nó chỉ là máy móc thôi mà hạ gục nhân cách một con người…”.

Mình vừa buồn vừa cười, sực nhớ coi chương trình thời sự trên ti vi, thường gặp vài anh đang ngáp bời bời, nhác thấy máy quay của phóng viên lia tới ngay lập tức sửa lại tư thế ngồi, lúi húi ghi ghi chép chép, mặt mũi đăm đắm suy tư. Mình cũng có ý nghĩ gần giống chị D, sao mà người ta dễ bị sai khiến vậy? Sẵn sàng biến thành một người khác chỉ vì lý do không đâu.

Đi đám cưới, mình tức cười nhất là lúc cô dâu chú rễ đến chào, lôi máy quay theo. Cả bàn chục người ngồi đơ ra, đũa nằm ngơ ngác trên miệng chén, máy quay lướt qua những đôi môi còn rưng rưng mỡ mà mặt mũi nghiêm trang như đang dự cuộc họp phòng chống bão gần bờ. Có lúc mình lọt tuốt vô cảnh đó, dưới ánh đèn chói lóa, trong lúc đôi đũa mình phân vân không biết tiến hay lùi, mình nhớ tới tụi con nít trong những xóm nghèo bên sông Ông Đốc, hôm mình quay phim tụi nó bằng cái máy ảnh cùi bắp, có đứa ở truồng tay mằn chim, có đứa liếm láp nước từ que kem chảy xuống cùi tay, có đứa cố chen đưa cái mặt già khằng, nước mũi xanh đặc quánh cứ thập thò dưới mũi. Tất cả tụi nó đều thản nhiên cười toe toét, chuyện người khác nhìn mình ra sao, nhìn mình bằng gì chẳng quan trọng cóc khô…

Mình cũng vài lần ghé qua chương trình truyền hình chuyến xe tình yêu đang được giới trẻ yêu thích. Thấy tươi tắn, vui vui, thú vị, nhưng vẫn là cảm giác đang xem phim truyện. Dù nhà sản xuất khẳng định rằng đây là truyền hình thực tế, mấy bạn thanh niên trên chuyến xe đó hoàn toàn sống như họ có, những hình ảnh mang tính chất ngẫu nhiên tình cờ, máy quay luôn được giấu kỹ… Ừa, tin vậy. Nhưng cảm giác phim truyện không phải ở chỗ nhà quay phim nằm núp lùm bụi nào mà ở chỗ chàng và nàng - những thành viên tham gia chương trình - ngay khi đăng ký lên chuyến xe này ai cũng biết mình có thể bị (hay được) ghi hình bất cứ lúc nào, ở đâu. Ý thức đó không bao giờ buông bỏ chàng khi ngồi trên ngọn đồi để chờ tỏ tình với người yêu, khi nàng nấu món canh ngót vẫn thường nấu ở nhà, khi hai người hứ nguýt, giận hờn nhau hay điên lên vì ghen tuông.

Xem, và thấy tình yêu sao mong manh ghê gớm. Mong manh vì người ta chạm vào nhau, tìm kiếm một tình yêu bằng lớp áo bên ngoài. Ai đó giống chị ấy cảm thấy yêu ai đó giống anh ấy. Mỗi khi có đôi nào nắm tay nhau rời khỏi chuyến xe, mình thấy bất an sao đó. Phần diễn đã xong, không còn ám ảnh cái máy quay phim, trở về với con người thật của mình, thể nào cũng xảy ra những hớ hênh, những vụng về, bối rối… Và một trong hai người hoặc cả hai nhận ra người kia không phải kẻ mình đã yêu trên chuyến xe tình.

Mình thấy hơi giận cái máy quay phim, biến đổi tình yêu thành ra một thứ gần giống tình yêu, làm bao nhiêu người cả tin thổn thức. Nhưng đâu chỉ mình cái máy đó, nhiều thứ thậm chí mình không rờ rẫm được, không thể bấm nút “rec” mà vẫn xoay người ta đổi thay ngoay ngoắt. Cái hôm chồng nghe tin tổ chức cơ cấu anh làm phó giám đốc sở, chị vợ đã thôi không còn tới nhà mình xách cặn heo. Mình có chị bạn vui vẻ hồn nhiên biết bao nhiêu, năm kia chị làm được bài thơ, mọi người gọi đùa nhà thơ, giờ chị ngồi với mình mà tâm miên man bên những vần điệu, nói chuyện với mình mà mắt mơ màng ngó lá rơi, bướm lượn, hồi lâu thảng thốt, trời, con chim sâu đó hót nghe cô đơn quá.

Trời, con chim đó có đứng một mình đâu, nó đang cãi vã vang với bầy đàn trên nóc nhà, mình không thấy nó cô độc chút xíu nào. Nhưng, ờ, thật tình, có tiếng gì đó buồn quá.

Mưa nắng phai ai…

Nguyễn Ngọc Tư


Bà ngoại tôi hồi còn sống, mỗi lần nghe những chuyện người hại người, bà nói, chắc là bị ma nhập. Bà không tin và không giải thích được tại sao người này lại cầm dao cắt thịt da, lại làm tắt rụi hơi thở của người khác. Với bà, con người không ác, có-thứ-gì-đó khiến con người ác.

Nhờ vậy, bà ngoại giữ niềm tin miên viễn vào sự tốt đẹp của con người. Tin yêu hết cuộc đời. Ngoại đột ngột qua đời, bà vẫn chưa kịp dạy tôi cách bó chổi rơm, vót nan đan rổ, tôi vẫn chưa học nướng bánh bông lan… mà tiếc nhất là học chưa tròn cách nhìn người bao dung đó. Tôi bối rối. Tôi không đổ thừa cho ma quỷ nữa, vì thế giới đó giờ có linh hồn của ngoại, của ông bà tổ tiên, những người đã từng sống rất hiền thì không thể làm ma ác.

Có cô giáo già về hưu dọn mảnh vườn hoang cất nhà làm hàng xóm của tôi, đã dạy tôi nhìn con người theo cách khác, không thể nói là kém vị tha hơn kiểu của ngoại tôi. Cô nói con người tiến hóa từ loài thú, nên không tránh được trong người ai đó còn sót một chút xíu tính thú. Nghĩa là hồi nhỏ tôi hay đánh nhau với đám bạn bởi trong người tôi còn chút cặn của chó sói, hay sư tử, lý do này khiến tôi hung hăng, chớ thật ra tôi đâu có hung hăng. Ái chà…

Năm tôi mười lăm tuổi, má dẫn tôi hành hương núi Sam vía Bà chúa xứ. Lễ xong người ta rủ đi qua Tri Tôn chơi núi. Và tôi đến Ba Chúc lần đầu, khi trên những bức tường đổ nát quanh đó còn bê bết những mảng máu khô. Máu của trẻ em, của những người già, của những người đàn bà chết trong thảng thốt, chết mà không hiểu sao mình lại chết. Vùng đất đi qua cuộc thảm sát đẫm máu của Khơ-me Đỏ vẫn còn ngổn ngang nhiều vụn xương người. Hai má con tôi đứng khóc trước những tấm ảnh đen trắng chụp những thi thể gầy gò, còng queo như những dấu hỏi dưới trời thăm thẳm.

Lúc đó tôi không sợ, sau này khi quay lại Ba Chúc nhiều lần nữa, tôi vẫn không thấy sợ hãi, chỉ có cảm giác thất vọng ghê gớm, về con người. Ngay khi đứng giữa những bức ảnh loang lổ, đứa trẻ nào bị xé làm đôi, người phụ nữ nào bị xóc cây vào cửa mình… tôi nhận ra tội ác này không phải vì chút thú tính còn sót lại, nói vậy tội nghiệp tụi thú. Bà giáo già, cũng như bà ngoại tôi, thật ra cũng vì bối rối mới đành đổ lỗi cho ma quỷ, cầm thú… cho gọn.

Có thể bằng cách đó, chúng tôi chế ngự được nỗi thất vọng, bởi không thể không thương yêu con người, bởi trong chúng tôi vẫn còn rất nhiều người tốt. Những câu nói dịu dàng. Những ánh nhìn ấm áp. Những bàn tay nồng nàn thô ráp… Nên đôi khi đọc báo thấy chuyện cha trói con, kéo xểnh lông chông trên đường bằng xe máy, hay trò mang dao vào giảng đường đuổi giết thầy, chồng lột trần vợ nhốt vào chuồng chó, con đẩy mẹ ra đường ăn xin… tôi thấy ngơ ngác, thấy nên tìm gì đó vịn vào, bất cứ gì để biện minh cho sự tha hóa, nhẫn tâm của họ. Nghĩ, nắng này, mưa này tới đá còn phai, còn bạc màu, thì con người có kẻ cũng phai đi chất người một chút, hay chín mười chút, hay trăm ngàn chút. Người ta ai cũng phai, phai ít còn người, phai nhiều chỉ còn con. Tại mưa nắng hết.

Giống như cô vợ không còn giữ được tình yêu của chồng, thấy chồng đi với người khác, cô liền nghĩ con đàn bà kia chắc là có bùa Chà. Cố gắng để không gọi tên sự thật, tôi khoan khoái xoa tay, thấy an ủi vô cùng, giờ mình vô cảm hơn hồi xưa, rắp tâm toan tính hơn xưa… do bởi… trời mưa.

Tôi ước gì ý nghĩ đó có thể an ủi mình mãi. Nhưng tin trên báo sáng cứ xoáy vào lòng, hôm qua một em bé qua đời bởi nhát chém oan nghiệt từ hằn thù của người lớn, một em bé khác bị đánh đập, bỏ đói vì xin không đủ số tiền quy định của những kẻ chăn dắt, cũng hôm qua. Tôi không biết nên yêu thương con người theo kiểu nào mới phải? Đối diện, vẽ chi tiết, đường nét của cái ác, gọi tên, chiến đấu với nó hay ngụy biện cho sự thoái hóa của con người bằng những thứ không biết kêu oan, che đậy, phủ lên nó bằng bức rèm mưa nắng mông mênh?
Vài ba trăng khuyết…

Nguyễn Ngọc Tư


Không cần nhìn em thêm lần nữa thì cũng nhận ra em bị thiểu năng trí tuệ. Người mang dị tật này thường có dáng dấp, gương mặt với mắt này mũi này… giống hệt nhau. Tròn lẳn, bầu bĩnh, phúng phính nhưng làm người ta nhói đau khi va ánh mắt vào. Em nuôi bệnh ở giường bốn mươi tám, tôi ra vào với má ở giường năm mươi hai. Những buổi sáng khi mười mấy con người ở phòng này nhao nháo rối bời với việc tắm giặt, chải chuốt, ăn uống, thì em bò ra chùi rửa, quét dọn khoảng hành lang, mấy cái phòng vệ sinh nhớp nháp. Chúng tôi không nhúng tay vào vì biết đó là phần việc của mấy chị lao công bệnh viện, chút nữa họ sẽ làm, họ nhận lương để làm những chuyện này.

Nhưng cô bé, với trí khôn khiếm khuyết của mình, não em thiếu mất vùng mang tên đùn đẩy, chờ đợi. Em làm vì thấy nơi này bẩn thỉu quá. Người khôn không vậy, họ thà chịu khó nín thở, bịt mũi, nhón dép lên những cái vũng chèm nhẹp… để chờ đợi. Ngay cả dì em, người đang sưng húp vì mang quả thận hư khá nặng, chị cũng cằn nhằn con nhỏ đi làm chuyện tào lao, ai kêu?

Phải em làm vì ai đó sai bảo thì em đã không đẹp đến vậy, không làm tôi mắc cỡ, tần ngần những khi nhìn em quét lau loẹt xoẹt, thấy mình giảm chiều cao chắc còn cỡ một thước hai, nhưng tôi là con người toàn vẹn, hiểu biết, đọc nhiều sách, nên tôi vẫn ngồi trơ trơ vảnh móng tay. Bù lại, tôi hay rủ em ra ngoài dúi cho khi hộp sữa tươi, khi cái bánh bông lan... Mừng rỡ nhận quà nhưng em dáo dác ngó vào trong, “dì chửi chết…”. Người phụ nữ đó không biết vì bệnh tật làm cho bứt rứt đau đớn hay do nỗi bực dọc gì mà rầy la em suốt ngày. Nhưng suốt ngày em chỉ toe miệng ra cười, lăng xăng đấm bóp, đi mua cơm, giặt giũ quần áo… Có lần tôi nói giỡn, “em với dì giống hệt nhau, y như hai mẹ con vậy…”. Em hạ giọng thầm thì, vẻ như sắp trao cho tôi một bí mật lớn lao, “mẹ em đó, em giả bộ kêu dì Chín để mẹ khỏi mắc cỡ, tại đẻ ra em khùng khùng…”. Xế trưa, tôi bỗng nhìn thấy một mảnh trăng đầu mùa, khuyết còng, mỏng tang gần như trong suốt treo diệu vợi giữa trời, ngó nao lòng lắm, không thể nói ra lời. Không biết vì đẹp hay vì buồn.

Như món canh tạo hóa nấu lạt, cô bé chỉ thiếu một chút thôi là lành lặn kiếp người. Bất chấp điều đó, em vẫn đẹp theo kiểu của mình. Đẹp vì hao khuyết. Đẹp mà không biết.

Xóm tôi ngày trước cũng có một anh thiểu năng trí tuệ, mọi người gọi Lủ khùng. Đám tang nào anh Lủ cũng tới, phụ lo trà nước và đánh trống. Khuya xa, khi mọi người đã mòn mỏi lủi đi kiếm chỗ chợp mắt, anh Lủ vẫn không bao giờ để thưa tiếng trống. Giữa hai hồi trống, thấy cỗ áo quan nguội lạnh, anh đi sửa lại cây đèn cầy nghiêng, đốt giấy vàng bạc, thắp nhang, rồi khói lại tiếp tục nối vào khói ấm áp… Lủ lủi thủi, mà tận tụy. Buổi khách viếng đông, đám thanh niên kia cà lơ phất phơ, bởi một mình anh Lủ chạy trà nước cũng đủ chu đáo rồi, dù mệt đừ, mồ hôi nhễ nhại, nhìn thương. Người như anh ở chốn nhốn nháo nào cũng bị lạc giữa những người khôn toan tính thiệt hơn.

Lại nhớ Soi, một khán giả hâm mộ đặc biệt của anh nghệ sỹ bạn tôi, bẩm sinh ngây ngô dài dại. Chị mê cải lương, mùa khô nào đoàn hát về chị cũng đi coi, và vô cùng ngưỡng mộ anh bạn tôi. Hết buổi diễn, chị thường len vào đằng sau sân khấu để tặng anh khi thì trái khế, trái bần, khi thì cái bánh dừa, khúc mía… không quên ngọng ngịu khen, hát hay quá à... Lớn tuổi, anh không đi hát nữa, quản lý đoàn một thời gian anh về Sở làm việc như một công chức bình thường. Có chiều từ cơ quan về anh thấy chị Ngơ Ngẩn đứng chờ ở cỗng. Anh hỏi, “Em kiếm tôi à, Soi?”. Chị chìa ra mớ bông rau muống héo queo, chắc là hái ở dọc đường, nói “Cho nè…”. Tay đưa về phía anh mà mặt day chỗ khác, ngượng ngùng đúng kiểu… cải lương. Xong chị ra về, từ trung tâm thành phố, Soi phải đi hơn hai mươi cây số đường sông mới tới nhà mình.

Hơn nữa đời ca diễn, người nghệ sỹ nổi tiếng lần đầu tiên nhận được một bó hoa kỳ lạ. Nghe chuyện, ai cũng buồn cười, nhưng trong lòng nhuốm màu chua xót, mai kia khán giả không còn nhớ anh nữa, tên anh, giọng hát anh bị vùi dập mất tăm giữa những thần tượng mới, thì anh vẫn còn chị Ngẩn Ngơ, lâu lâu lại xuất hiện để tặng hoa cỏ dại hái bên đường xơ xác, tưởng thưởng cho người nghệ sỹ này đã từng sáng chói, vàng son. Chị không được trời cho chức năng quên lãng.

Nhưng cái mối quan hệ bi hài, vừa buồn cười vừa ngọt ngào vừa xót xa đó không phải ai cũng có. Bạn tôi vô tình nhận được vì anh đã bình thản chào đón một khán giả dị tật như một người bạn lâu ngày, như một người bình thường với trái tim, khối óc bình thường, “Em chờ tôi lâu không, Soi?”. Cho là anh giả bộ, anh diễn, nhưng hình như không nhiều người diễn cho ra cái vai nhân hậu đó…


Má, con và…
Nguyễn Ngọc Tư

Tôi nghĩ, đôi khi vô tình tôi làm má buồn.
Như chiều qua, tôi nói lúc này tóc con bị rụng quá trời, coi trên internet người ta dạy mua thuốc này thuốc này sẽ bớt. Hay hôm kia khi giỡn với nhóc con, phát hiện ra lưỡi nó bị nấm đóng dày, tôi mở máy tính, xong gật gù, trên mạng người ta kêu mua thuốc x thuốc y, hoặc hái lá a, lá b giã lấy nước rơ lưỡi, nhóc sẽ khỏi.
Có lần tôi khoe vài bí quyết nấu ăn, cách chọn gà ngon, má ngạc nhiên, mèn ơi trên mạng có đủ thứ hết trơn hả? Tôi cười khoái chí, gì cũng có má à, trên trời dưới đất, muốn biết gì cứ gõ vài ba chữ là mạng cho mình biết tuốt. Má nói ngộ quá, cái mạng là cái gì mà hay dữ ta. Giọng má không một chút ngậm ngùi nhưng bỗng dưng tôi nghĩ má ngậm ngùi.
Là vì má đang ở bên tôi, nhưng khi bối rối và ngơ ngác tôi đã không hỏi má. Sống bảy chục năm dài, trải qua bao nhiêu biến cố, má vén khéo đảm đang, chèo chống gia đình nuôi nấng mấy chị em tôi khôn lớn, phải nói là má biết nhiều, rất nhiều. Nhưng tôi không hỏi má, tôi chạy tới internet, gọi “vừng ơi…”, và đôi lúc khoe khoang những kiến thức mà má đã “rành sáu câu” rồi.
Một phần ý nghĩa của mối quan hệ già-trẻ (hay má-con) là cho-nhận, dạy-học… nhưng giá trị đó đang ít nhiều thay đổi. Sự mất mát rất từ tốn không nhận biết ngay được, cho đến khi đủ lớn và sâu, người ta mới giật mình, sực nhớ ra lúc này mình nói bằng ngón tay nhiều hơn bằng miệng, nhìn màn hình máy tính hay điện thoại nhiều hơn nhìn người. Sực nhớ có thể má đã buồn, má sống nhiều nhưng những trải nghiệm mà má đang gìn giữ, tôi không ngó ngàng tới.
Như thể tôi là tôi khác, không phải con bé đen nhẻm hồi lên bảy lên mười, đi vào cuộc đời bằng cánh cửa do má mở, suốt ngày lẽo đẽo theo chân má, để hỏi má ơi cái kia để làm gì, má ơi cái này tại sao... Ngày tôi về nhà chồng, má không dám đi đâu, suốt ngày chờ bên điện thoại, vì tôi hay gọi về hỏi, má ơi kho cá bằng muối hay nước mắm, nấu canh chua bằng me hay bằng giấm, con lỡ làm cơm khét rồi, giờ biết làm sao?
Hồi đó má ở xa chỗ tôi chừng mười lăm cây số, nhưng má chỉ cách tôi một hồi chuông điện thoại. Băn khoăn chút chút, nghi ngại chút chút, lo lắng chút chút… tôi lại nghĩ tới má. Và má luôn có câu trả lời. Như bà ngoại luôn có câu trả lời cho má. Như bà cố luôn có câu trả lời cho ngoại. Người ta cứ sống vậy, già rót đầy cho trẻ, đi trước dẫn đường cho đi sau, tưởng đâu nối tiếp hoài hoài.
Nhưng khi nền tảng ứng xử giữa người và người lung lay bởi quá nhiều phương tiện hiện đại, tôi cũng buông lơi bàn tay má. Ngụp lặn trong biển thông tin mà tôi tin với chúng, tôi sẽ xử lý tốt mọi tình huống xảy ra với cuộc đời mình. Tôi quên, má không biết nơi lạnh nhất vũ trụ nhưng má có nhiều kinh nghiệm nuôi trẻ con lớn mau. Má không biết cách diệt virus máy tính nhưng bẫy chuột là số một. Má không biết viết blog nhưng nấu ăn rất ngon. Nhưng tôi quên. Má, như những người già khác, đôi lúc nào buồn tênh trong ý nghĩ mình đang sống thừa, tàn lụi không tăm tích.
Tôi còn giữ hình ảnh những người già nước Hàn xa xôi mà tôi đã từng gặp mặt. Những ông bà già buồn rượi, lặng lẽ. Vật vờ như bóng, lắt lay như khói. Anh bạn của tôi nói đất nước anh càng phát triển càng hiện đại thì người già càng cô độc, hai thế hệ già-trẻ hầu như không còn chuyện gì chung để nói với nhau. Khi chụp ảnh những gương mặt sầu muộn đó, tôi luôn nhớ tới má, thầm so sánh và khoái chí vì má gọn gàng lanh lợi hơn họ, má tươi tắn vui vẻ hơn họ, dù má nghèo, thiếu thốn hơn họ.
Nhưng giờ tôi biết má cũng buồn, bởi nhiều lúc tôi bỏ bà một mình ở nơi cũ, thời gian cũ để một mình tôi đi vào thế giới ảo đầy quyến rũ. Không cần nỗ lực lớn nào, không cần với tay cao, cũng có thể hái được trái. Nó sẵn sàng xoa dịu, đưa ra những lời khuyên khi tôi than vãn đầu gối tôi mỏi, con mắt tôi bỗng nhiên mờ, vùng thắt lưng nghe nhói, cái đầu đau...
Riêng trái tim thường chẳng hết đau nếu chỉ nhận được những lời an ủi thao thao, bạn hãy quên bạn hãy vui, phải này phải kia... nên có lần đem trái tim đau lên mạng thở than, chớ hề nhận được cái khăn lau nước mắt. Những lúc đó nhớ má quá …
Không biết, khi tôi đi rất xa và quay lại, thời gian còn cho má bao dung đứng chờ?!!

Trời hỡi làm sao cho khỏi… Lọa???
Nguyễn Ngọc Tư

Lúc rày nghe nói ngư dân nước mình bị tàu Lọa ăn hiếp, bắt bớ, đánh đuổi dữ quá, sông quê mình bị Lọa bóp họng từ xa, đất quê mình bị Lọa che lấn từng tấc một… tinh thần dân tộc của chú Tư bừng bừng trỗi dậy, chú liền họp mặt gia đình thông báo từ nay cấm không xài đồ của nước Lọa nữa, không lý gì nó bức hiếp chà đạp mình vậy mà mình cứ nhơn nhơn xài đồ Lọa, làm giàu cho nó.
- Phải chống lại sự xâm lăng của Lọa ngay từ trong nhà mình – Chú nói với sự quyết tâm ngút ngất.
Ở nhà chú Tư, lệnh chú là lệnh trời. Thím Tư là ngừơi đầu tiên cảm nhận trời sập cái rầm xuống đầu mình, tối tăm mày mặt, cái phim Lọa “yên yên mông mông” mà thím đang coi đang tới khúc chia ly mùi mẩn gay cấn. Nhưng giờ trong nhà đang có chiến dịch tẩy chay hàng Lọa, nên ti vi hầu như không hoạt động. Chú để cái búa cạnh nó, chú nói, hễ phát hiện ra ai coi phim Lọa, nghe nhạc Lọa là chú bửa… ti vi cho tan nát đời con… chip luôn.
Tánh chú nói là làm, ai cũng ớn. Bàn thờ nhà chú giờ chưng toàn trái cây héo, bởi trái cây mà tươi rói căng mọng chắc chắn là từ bên Lọa chở qua. Đồ chơi của thằng Tu Ti cháu nội chú bị đem bán ve chai hơn một nữa do “made in Lọa”. Thằng Sáu buộc phải cho không cái điện thoại Lọa mua có hơn một triệu mà coi được ti vi, nghe nhạc lồng lộng, nó mua lại cái di động hiệu Nó Kìa. Đem về chú Tư săm soi rồi hét lên, cha chả cái thằng Sáu, điện thoại này cũng sản xuất ở Lọa nghen mậy. Thằng Sáu mặt xanh như tàu lá, chạy đi đổi lại cái điện thoại Việt cho chắc ăn. Mấy bữa sau đọc báo thấy điện thoại nhãn Việt toàn đặt hàng gia công bên Lọa, thằng Sáu kêu chú Tư cho năm triệu, cỡ tiền đó mới mong hàng không liên quan tới đất nước ất ơ kia. Chú Tư đổ mồ hôi hột, nhưng cố bấm bụng vì những đồng bào đau khổ của mình, vì yêu nước mình nên mua điện thoại… Nhật Bản cho con nó xài.
Rắc rối đâu chỉ có vậy, cái phim Việt “Thái Sư Trần” nhưng quay cảnh bên Lọa, cả son phấn trên mặt diễn viên cũng do người Lọa phết lên. Chú Tư tức mình nói với thằng Hai, tao chống mắt coi làm phim Lý Thường Kiệt thì đi quay ở đâu, tại vì ông Kiệt này chống nước Tống, tức là tiền thân của nước Lọa, họ đâu có ngu mà cho mình qua đất họ quay phim chửi họ. Thằng Hai cười, cũng chưa biết sao à tía, tại vì phim lịch sử nước mình hay mặc nhầm quần áo của Lọa lắm, nói chuyện giống y phim Lọa nói, sao tía cự được, tía có sống ở một ngàn năm trước đâu.
Chú Tư cảm thấy ngán ngẩm lắm rồi, tối qua thím Tư mặc cái áo ngủ mỏng tang mới mua, liếc qua mà chú nóng bừng ngây ngất, ai dè áo mang mác Lọa, làm chú mất hứng quá chừng. Ngó qua ngó lại trong nhà thấy cái gì cũng của Lọa, chén ăn cơm, ly uống nước, hột gà, hột quẹt, đèn pin, tới cây đập ruồi của made in Lọa nữa là sao là sao là sao? Chú vừa tống chúng ra ngoài đống rác vừa kêu trời.
Nhà trống trơ, vợ con chú ủ rủ, đồ Lọa bị đẩy ra khỏi nhà mang theo bao nhiêu vui thú trên đời, không phim Lọa ti vi chẳng có gì để thím coi, con Út Chín phải lén đọc mấy tờ “Nhí Nhảnh”, “Nhí Nhố” ở ngoài đường, đem về nhà chú Tư thấy trong đó toàn là hình diễn viên Lọa là chết chắc, Út Mười không có con sâu nhồi bông gòn để ôm ngủ, nó trằn trọc đêm đêm. Một bữa thằng Hai đòi đổi tên, chớ tên nó lai Lọa quá, gì mà Hà Đại Cương, phải đổi lại là Sông LớnCứng, thằng Ba Hà Đức Minh thì đổi là Sông Nết Sáng, thí dụ vậy… Mà tía cũng phải đổi thành Sông gì đó nghen. Con đi hỏi thủ tục đổi tên rồi, đóng chín dấu, qua bốn cửa là xong, nhà mình thuần Việt. Nhưng con lo mấy cái đơn xin không biết viết sao cho nó Việt hết cỡ, thí dụ "Độc lập - tự do - hạnh phúc" thì mình viết là "một mình sung sướng thoải mái" được không?
Chú Tư ngã vật ra chết giấc. Cũng may nhà còn sót lại chai dầu cù là nhập bên.. Lọa mới đánh gió lay tỉnh chú được. Thiệt tình!
“Cúi xuống vùng non xanh mát…”

Nguyễn Ngọc Tư


Cạnh quán cà phê Văn Nghệ có ông trải chiếu ở vỉa hè bán đồ cổ, hay mở cái băng nhạc Trịnh Công Sơn Hát cho quê hương Việt Nam 1 thu âm năm 1969. Nghe lần đầu, thề có mấy lá bàng rơi bữa đó, tôi muốn chạy qua ôm ông đồ cổ một cái, vì ông đem những bài hát này ra con đường vốn chỉ rùng rùng nhạc vũ trường, nhạc trẻ kiểu “yêu thì nói hông yêu cũng nói”… Giữa bụi đời mù mịt, giữa xe cộ ngược xuôi, cô Ly của bốn mươi năm trước cất tiếng hát trong veo, “Cúi xuống. Cho bóng đổ dài. Cho xót xa mặt trời. Cho da thơm trên người nay cũng phôi pha…”, nghe mát rượi lòng, nghe khoẻ dễ sợ.

Nhạc “nghe khoẻ”, là chữ của thằng nhỏ ở tiệm bán băng đĩa quen. Một lần tôi ghé qua, nó khoe “em có nhạc này nghe khoẻ lắm, bảo đảm chị thích”, rồi nó đem ra mấy cái đĩa nhạc thu âm hồi năm một ngàn chín trăm mấy mươi gì đó. Gương mặt của Thái Thanh, Hà Thanh… trên bìa đĩa coi trẻ măng, trong sáng, hơi quê quê, dễ thương kinh khủng. Nghe chúng lần đầu, tôi đã nghĩ, tình cờ thằng nhỏ tặng mình quà quý.

Nhưng thằng nhỏ không tình cờ chút nào khi miêu tả cảm giác về một bài hát bằng chữ “khoẻ”, mà không phải là “hay”, là “xúc động”, là “sởn tóc gáy”. Khoẻ, vì dễ chịu, khoan khoái, thoải mái. Vút khỏi tiếng đệm guitar bập bùng, là chơi vơi tiếng hát non trong, mộc mạc, chân phương, đôi lúc vụng về, run rẩy. Ca sĩ không dùng bất cứ phương tiện nào kỹ thuật nào để nương dựa, lấp liếm hay che đậy, cứ hồn nhiên như vậy cất cao tiếng hát từ đáy lòng, thanh thoát.

Những ca sĩ ấy sau này khi đạt đến đỉnh cao của tài năng, họ rực rỡ, họ nổi tiếng, họ thu nhiều bản nhạc gần như hoàn hảo, nhưng sự giản dị năm xưa mãi mãi ở lại với… năm xưa. Tôi ngã lòng vì sự giản dị đó. Kiểu giản dị mà mười năm trước chưa chắc tôi đã thích, bỗng dưng bước chân qua tuổi ba mươi, bỗng dưng thấy… khoẻ khi đứng trước những tấm ảnh trắng đen, những bức tranh lụa, những trang viết của Thạch Lam, những minh hoạ nguệch ngoạc mấy nét chì, những bản nhạc thu âm năm xửa năm xưa, hay những bản demo trên mạng…

Ông già bạn tôi có lần nói, viết sao cho càng giản dị thì văn chương càng đẹp. Tôi cười nói, “câu này của chú mười một chữ, mà hai mươi hai năm nữa chưa chắc cháu làm được”. Ông cười cười, “sai bét, cháu đã làm được rồi, mấy cái truyện đầu tay đó”. Nhưng những trang viết giản dị, ngây ngô có phần khờ khạo đó tôi càng sống càng trải đời càng rời xa chúng. Giờ mà viết được vậy, coi bộ khó hơn lên trời.

Ngó qua ngó lại, tôi thấy cải lương cũng vậy. Hồi trước, tôi mê cải lương, mê ngẩn ngơ những bản vọng cổ xa xưa thu trên đĩa nhựa. Nghệ sĩ giọng nào ra giọng nấy, chữ nào tròn chữ nấy, ngón đờn dù tài hoa lả lướt đến đâu vẫn giữ sự trong trẻo, hồn hậu, vẫn tôn giọng ca lên hàng đầu. Thứ vọng cổ này nếu ngồi kế cassette thưởng thức chưa đã, phải dỏng tai nghe ké bên hàng xóm, hay ngồi ngoài vườn nghe trong nhà vẳng ra, chỉ tiếng ca và tiếng ca, gió đàn qua đánh lại, mùi ác liệt. Cải lương giờ đã qua thời hoàng kim, người ta biện ra nhiều lý do, nhưng nó làm rơi mất một đứa hâm mộ như tôi chỉ vì một bữa kia Vũ Linh nắm tay Tài Linh chạy lên đồi cỏ non. Xét theo tính hợp lý, tôi chấp nhận được chuyện ca vọng cổ lúc yêu nhau, đánh nhau, bắn giết nhau, miễn là xảy ra trên sân khấu, trên sàn diễn, nhưng giữa đường tự nhiên có hai người vừa ôm khít rịt mắt nhìn đắm đuối vừa ca khơi khơi chắc tôi phải nghĩ tới bệnh tâm thần. Tô Ánh Nguyệt năm xưa đau nỗi đau xa con chỉ cần nghẹn ngào bước từng bước run lẩy bẩy, nắm tiền trong tay bay bời bời; Tô Ánh Nguyệt bây giờ vừa gào thét vừa bứt xé hàng khuy áo khoe da thịt, mệt gì đâu.

Chia sẻ ý nghĩa này với ba đứa bạn, một đứa cười “vậy mới là tìm tòi, sáng tạo”, đứa kia hỏi vặn “bộ khùng sao mà đi coi cải lương”, đứa còn lại nói “thấy ghê thiệt nhưng thời này nó… phức tạp vậy”. Ừa, đúng là thời này phức tạp thiệt, bữa trước muốn mua cái áo “nhìn thấy khoẻ”, màu sắc nhã nhặn, hoa văn đơn giản, kín đáo mà phải lục tung cả cửa hàng trong con mắt căm hờn của chị chủ. Sách, băng đĩa thì nhất thiết phải siêng năng lục lọi, lâu lâu mới rinh được một cuốn văn đẹp kiểu Thạch Lam, lâu lâu mới chộp được một vài đĩa “nhạc nghe khoẻ”, sao chép lại từ những nguyên bản của mấy chục năm trước nên chất lượng cũng được chăng hay chớ.

Có lần hỏi thằng nhỏ mấy cái đĩa nhạc cổ lỗ sĩ này bán chạy không, nó nói “người ta mua nhiều lắm, nhưng chị là trẻ nhất”. Lại hỏi tiếp, “bộ thấy tôi mệt mỏi già nua lắm sao mà nghĩ nhạc này hợp với tôi”. Thằng nhỏ cười, “tại em thấy chị không đeo vòng vàng gì hết”. Câu trả lời này làm tôi nhớ mấy giai thoại thiền, kiểu như hai ông đi bên bờ sông, một ông hỏi đại niết bàn là gì, sư trả lời, “mau”. Hỏi “mau gì”, ông sư trả lời, “xem nước”. Hiểu chết liền.

Bữa qua ngồi quán chiều vắng ngắt, ông đồ cổ lại mở cái đĩa hát cổ, cô Ly đổ giọng ca mát rượi ra hè phố, “Cúi xuống. Vùng non xanh mát. Và cao tiếng hát cho cơn ưu phiền tan…” bỗng thấy tâm hồn mỏi mệt của mình đang được sự giản dị nào đó cứu chuộc. Cảm giác gan bàn chân tôi vừa chạm vào mặt đất, hình như tôi vừa tháo giày ra bỏ bên đường.

Nhưng tuổi hai mươi gặp gì cũng hăng hái đeo mang, thấy gì cũng hớn hở vơ lấy vào mình, lỉnh kỉnh những phấn son, tô vẽ và xiêm áo, tuổi hai mươi ấy giờ nằm lại ở đâu?

Người đi ngang cửa

Nguyễn Ngọc Tư


Một vài buổi sáng khi mở tầng tầng lớp lớp những ổ khóa cửa, tôi tính đâu đêm qua nhà tôi đã trôi ra khỏi thành phố rồi.

Lúc đó ngoài đường có vài người đàn ông quần cụt đóng phèn, quảy túi câu thả đi qua, tay xách đòng đưa giỏ cá, ôm thêm mấy cái lờ, lọp. Cả người họ ướt, tóc ướt chảy xuống gương mặt ướt. Họ đi lủi thủi về phía cuối đường, nơi có một đám lau sậy chắn ngang, họ vạch mớ cỏ cây hoang dã đó ra, chui vào và mất hút.

Cũng có khi thấy vài người phụ nữ bước ra từ bức rèm lau lách, đội thúng rau đi ngang nhà. Nước từ những mớ rau cải chảy tong tong. Có mấy đứa nhỏ lắc xắc chạy theo, da đen và tóc cháy, người cũng ướt đẫm vì va quệt phải sương sớm còn đẫm ướt.

Tôi nhớ cái xóm ngoại ô của mình, những buổi sớm, ngoài đường cũng có những người đi giống hệt như vầy. Chỉ khác là khung cảnh xung quanh chúng tôi là vườn ruộng, bên đường là một con kinh. Nhưng ở chỗ này, khi cánh cửa mở bằng một góc một trăm tám mươi độ, tôi sẽ thấy tấm panô lớn vẽ quy hoạch khu tái định cư phường x, như một lời hứa hẹn sẽ rất hiện đại và sang trọng, với quãng trường, trung tâm hành chính, những trường cấp một, hai, ba. Hoặc khi tò mò dõi theo coi những người ướt nhẹp đó đi đâu, mắt tôi phải trượt dài theo những dãy nhà cao ngệu. Nhà tôi không trôi đi đâu hết, nó vẫn nằm trong thành phố, chỉ cách trung tâm thành phố chưa đầy hai cây số về hướng Đông, theo đường chim bay.

Và những người nương náu trong lau sậy cũng quá gần tôi, đến nỗi ngày nào cũng có những con chó cò chó vện mặt mũi giang hồ chạy ra chọc ghẹo đám chó kiểng xinh đẹp thơm tho, cho dậy động cả xóm lên, rồi tung tăng đắc thắng chạy về, co chân bậy một phát đánh dấu lãnh thổ của mình trước khi mất hút. Ngày nào tôi cũng thấy những đứa trẻ từ trong đó chui ra đi tới cửa hàng ngoài này mua kẹo, chai nước tương, đường cát, tiêu tỏi hay bột ngọt… Khu quy hoạch vẫn còn dang dở, mở đường tới đâu người ta xây cất nhà theo tới đó, hết đường thì sậy mọc che giấu những thân phận bí ẩn khác. Lần theo những lối mòn nhỏ xíu, lần theo những sợi dây điện máng lòng thòng trên mấy đọt tre khô, hay mấy cây so đũa… sẽ gặp nhà, gặp người. Họ từ nơi khác trôi giạt tới, hay họ đã từng là chủ của những mảnh đất này, khi nó còn là đồng ruộng. Và giờ họ đi trên nó như những người khách lạc lõng buồn bã. Mai kia con đường nhựa xuyên thẳng qua cái hàng rào lau sậy đó, họ sẽ nấp xa hơn trong một đám lau sậy xa hơn, hoặc vĩnh viễn rời đi, hoặc phải cất nhà lầu (bằng tiền bán đất, hay bán cá, bán rau…).

Bởi trong khu quy hoạch, có những con đường nhất thiết phải cất nhà cao ba, hay bốn tầng. Nhiều chiều rủ thằng con đi dạo, chào hỏi người này người kia đôi ba câu, mới hay cả một con đường không có nhà nào đã từng sống ở đây, trước quy hoạch. Khu tái định cư này thực chất đã bỏ chữ “tái” ở lại quán phở bò.

“Ở nhà lầu mà đi cắm câu còn kỳ cục hơn là đi cắm câu trên đường nhựa”, có lần kêu một thím trong xóm sậy mua bó cải xanh, thím nói vậy. Chúng tôi ngồi ở nơi xưa là miếng ruộng của thím và thím nói, lần nào đi qua cũng nhớ chuyện hồi đó… Đất bán hết, tiền sắm cho đứa này chiếc xe, cho đứa kia miếng nền ra riêng, ở lại tạm bợ trên vườn cũ, bao giờ người ta lấn tới, thì mình đi.

Nhưng cũng có những người trong xóm sậy lại có hoàn cảnh khác, họ giữ lại được nền nhà, dành dụm được ít tiền để cất nhà gởi ngân hàng, nhưng chờ năm này qua tháng nọ, con đường nhất định không bước tới là không. Chờ đợi lâu và tiền cũng hao hớt, họ lo khi người ta cho xe ủi mở đường, cặm cột điện ngang qua mảnh đất còn chút xíu của mình, có khi mình cũng phải cắm bảng bán nền.

Họ chạy xe ôm, chờ đợi.Họ cuốc đất trồng rau quanh nhà, chờ đợi. Họ đi cắm câu đặt lọp ở một nơi cũng đã được quy hoạch rồi, nhưng vẫn còn đầy ao đìa, đồng trũng, họ chờ đợi. Một sự mất mát nào đó sẽ tới. Họ không phát quang đám sậy che chắn quanh, tôi tự hỏi không biết họ làm biếng, hay khi cỏ cây rạp xuống, phơi bày cuộc sống là một nỗi đau, và chúng tôi có trông thấy nhau thì phía họ cũng bị quên lãng, bị gãy rời.

Chỉ đôi khi dậy sớm, tôi nhìn thấy những con người đen đúa ướt đầm đi qua cửa, họ không cười, nhanh nhanh và lầm lũi, họ không nhìn quanh chỉ đăm đăm hướng về phía lau sậy mịt mùng. Lúc đó, mới nhớ họ vẫn còn ở đó, rất gần.

Nhớ ơi nguội bớt cho nhờ với…

Nguyễn Ngọc Tư


Hồi trước, lần nào tôi gọi điện thì chị cũng giòn tan nói nhằm nhò chi có sao đâu, buồn gì buồn hoài. Lúc đầu mấy mẹ con cũng sốc, giờ quen rồi, vui lại rồi, trước người ta cũng vắng nhà, đi công tác suốt, giờ không khác gì mấy…

Sau câu nói đó, tôi tin ở chỗ thị trấn Ga xa xôi kia, chị đang cắn môi nhừ. “Người ta” mà chị nhắc qua là anh chồng mủ mỉ ít nói hay cười yêu chiều vợ con, chị vẫn thường khoe và tôi cũng đã gặp vài lần, thầm khen chị ấy lấy được thằng cha tử tế. Như thường lệ, bảy tháng rồi anh vắng nhà, điều duy nhất khác là anh bỏ đi sống cùng người đàn bà khác. Ba mẹ con chị như gặp ác mộng, sống những ngày ngơ ngẩn, choáng váng bước hụt bước hẫng, liêu xiêu sống dựa vào nhau. Thời gian trôi cũng chông chênh như người chông chênh đau. Lâu lâu tôi hoặc gọi điện hoặc nhắn tin, nói vài câu tếu táo vui, hỏi thăm chuyện trên trời dưới đất, tự thấy mình như đưa cho chị chiếc khăn thấm bớt nước mắt. Lại nghe chị cười, khoe, mấy mẹ con mới đi núi về nè, tuần tới chở nhau đi biển, còn tính viếng chùa xa… Lại nghe tôi nói, ừa, ráng vui vẻ nghen thay cho câu tạm biệt. Lại giật mình sau đó, trời đất, chị có than buồn đâu mà mình kêu vui. Rõ ràng là chị nói, “chuyện như chiêm bao vậy mà, tỉnh ra là hết. Nghỉ hè nên tranh thủ đi chơi thôi. Ờ, ờ, hè năm trước…”

Câu nói bỗng dừng phắt ở đó, đứt đột ngột, tôi đoán là do bóng anh chồng xuất hiện thấp thoáng trong cái “hè năm trước…”. Và anh này sẽ còn trở đi trở lại trong ngày tám tháng ba năm trước, quốc khánh năm trước, đám giỗ ba năm trước, đám cưới đứa em năm trước, ngày này năm trước… Cái năm trước từng rất ngọt ngào, đầm ấm. Năm trước của thời chưa mất, hạnh phúc chưa bị bão, tình yêu chưa tỉnh chiêm bao. Giờ thì trở thành nỗi ám ảnh của đỉnh núi với vực sâu.

Giờ thì năm trước hay dẫn anh chồng quay về nhà. Bứt không đứt, dứt không rời, bứng không xong. Anh ta vẫn lảng vảng, vẫn âu yếm nói cười, nhưng lại gây đau như cầm cây dao lụt nhách mà cứa trên da thịt chị. Thiệt không biết làm sao để quên phứt cho rồi, có bữa đang khoe vui lắm vui thiệt bỗng chị thở dài, than vậy.

Tôi nói tôi cũng không biết, chưa có kinh nghiệm vụ này (mà cũng không mong có kinh nghiệm đâu nghen). Tôi hình dung ra một cách là chờ, cứ để người đàn ông (từng) yêu dấu quay đi quay lại với cây dao gỉ sét đó (nỗi đau đôi khi cũng giết người như bệnh uốn ván, chớ giỡn). Chờ tới ngày thứ ba trăm sáu mươi sáu, ký ức cũng mòn, chị không đủ kiên nhẫn mà ngậm ngùi dài nhằng, “ngày này năm trước năm trước nữa…”. Thật ra cái năm trước năm trước đó tự nó không muốn quay lại, đã xa xôi, mòn mỏi lắm rồi. Anh chồng chị sẽ về nhà ngày một ít dần, chỉ còn mỗi năm một lần, đúng ngày kỷ niệm cơn lốc mang tên Bội Bạc cuốn anh ta đi mất.

Ờ, thì chờ. Như thể chờ củi tàn, bớt lửa. Một mùa hè nữa. Gọi tìm nhau hỏi chị lúc này sao, chị giòn tan vui lắm em ơi hết sạch buồn rồi, mấy bữa trước mấy mẹ con dọn cái kho, thấy đôi dép của người ta, chị không còn cảm giác gì hết, đem bán ve chai.

Trời, tôi nghe mà tuyệt vọng quá, thì ra anh ta vẫn về nhà phá rối mẹ con chị bằng nhiều cách khác, bằng đôi dép, cái khăn, bậc thềm, cánh cỗng… Những thứ vô tình nên đã vô tình giữ lại hình ảnh anh trên sợi vải, cây đinh, thớ gỗ, viên gạch…

Chắc chị chỉ có cách bán nhà đi khỏi chỗ này, nhưng con đường, hàng cây, cái chợ, và thị trấn Ga buồn xo run rẩy mỗi khi có tàu qua, cả những đoàn tàu kia làm sao mà bán được? Ngay khi chị yêu một người đàn ông khác, cũng không sao trốn khỏi những ý nghĩ bỗng dưng, chồng cũ của mình không có nhiều râu như người này, ông chồng cũ thẳng thớm lắm, không phong trần như người này, hồi xưa ông chồng kia cũng vậy, rất dịu dàng…

Cây dao lụt của anh chồng, thời gian đã làm mòn tận cán, nhưng hình ảnh anh trong ký ức tự nó cũng gây đau. Chị ơi cố chờ đến năm sau năm sau năm sau năm sau…

Ngồi buồn coi phim con nít…

Nguyễn Ngọc Tư


Mỗi năm đến hè là thằng con rủ coi Tây Du Ký.

Hồi nào giờ chưa thấy bộ phim nào mà nhân vật chính xấu xí, lông lá, quái dị, không yêu đương, hẹn hò, không xxx nóng bỏng nhưng lại sống dai như phim Tây Du Ký. Cũng chưa thấy phim nào chiếu miệt mài, trở thành phim “đinh” của mấy đài truyền hình mỗi khi hè lại.

Tụi nhỏ coi hoài không chán. Mình cũng coi hoài không chán. Hồi nhỏ, mê mấy phép thần thông biến hóa nhí nhố của anh chàng khỉ khọt. Chừng mười sáu tuổi mê phim vì ông Đường Tam Tạng đẹp trai (dù không có tóc) và hồ nghi mấy cảnh biến hóa sao hơi… giả. Bây giờ thì biết là nó giả quá chừng, những trò đi mây về gió biến người thành rắn, nhện, biến cây gậy dài nhằng thành chiếc kim giắt lổ tai…

Bây giờ mê Tây Du Ký vì thấy nó… buồn. Yêu quái ít xuất thân từ… yêu quái, mà toàn là con ông cháu cha, vật cưng, thú cưng của mấy ông “ở trển”. Mấy ông này ngộ, nghe méc rồi mà có ông mặt tỉnh bơ, ủa, cái con ấy (hay vật ấy) tui mới thấy đây mà, có ông còn nhào vô đánh khổ chủ vì cho rằng mình bị vu khống. Mấy ông trời (ông, cha) đi bắt mấy ông trời (con) cũng hết sức nhẹ nhàng, thư thái, lại khều khều, “Mi thật là quá lắm nghen…”. Chẳng may chàng khỉ quạu quọ, cằn nhằn, làm mình làm mẩy quá, thì mấy ông trời (cha) cũng đằng hắng rầy lấy lệ, yêu nghiệt, ai cho xuống đây quậy hả ? Mau, theo ta về (Câu này còn có nghĩa, trời ơi, còn chần chừ ở đây hoài con khỉ đó nện cho chết tươi bây giờ).

Và “lực lượng đặc nhiệm phòng chống tội phạm” cùng tội phạm trìu mến ngó nhau, rất chậm rãi, ung dung cưỡi mây về. Khung cảnh cực kỳ thơ mộng, bóng người khuất dần sau làn khói trắng.

Như chưa từng có những bãi xương khô…

Như chưa hề có những oan hồn…

Như chưa bao giờ đau đớn phận con người.

Và cái đoàn người đi thỉnh kinh, đoàn người cô đơn, đoàn người đau khổ ấy, có kẻ suýt chết ấy lại hồ hởi lên đường, để tiếp tục bị những thế lực đen tối có xuất thân cao quý dập vùi, hãm hại. Đi cho đủ kiếp nạn, cho thấu hết khổ này đến khổ khác.

Có lúc ngồi nghĩ, phải mình làm phim này, mình cho mấy anh trong phái đoàn thỉnh kinh diễn thêm chút xíu ở cái đoạn trời (con) được trời (ông, cha) rủ đi… nhậu (ai biết được điều gì xảy ra trên… trời ?), mình sẽ đặc tả vẻ ngẩn ngơ, chua xót tràn ngập trên mặt, tối sầm trong mắt họ, mình thuê chiếc trực thăng bay lên cao để quay đám người cô đơn đó, cô đơn tận cùng, cô đơn đến tuyệt vọng. Lọt thỏm giữa đất trời, nhỏ bé như giun như kiến dưới cái nhìn giễu cợt của người trời. Và anh hùng của mình, chàng khỉ ngang tàng hoang dã của mình, Tôn Ngộ Không tài năng, dũng cảm, thông minh, trung hậu nhưng chiến đấu một cách tuyệt vọng với những bức tường chắn vô hình. Bọn xấu chỉ cần phủ phục liếm tay chủ, là ung dung ở cõi trời. Nhàm chán, buồn tình, lâu lâu xuống trần hại người chơi, rồi về, làm gì được nhau?

Coi hè này, bỗng nghĩ hè tới Tây Du Ký đến hẹn lại lên. Hè tới, mình thêm một tuổi, ngồi xem phim với con, không biết bật ra được nỗi người nào nữa?

Biết

Nguyễn Ngọc Tư


Quán cà phê “Đầu Xóm”, cái tên như cặm một cây thắc mắc, đầu xóm là đầu xóm nào, tại sao là đầu xóm mà lại nằm chặng giữa con hẻm gầy tong teo, ngoằn ngoèo giữa lòng thành phố? Sớm nay góc quán nơi ông già bán vé số ngồi nhâm nhi trà đá, như cái nhánh thắc mắc, ông đó uống trà đá mà sảng khoái, khoan thai thưởng thức từng ngụm, như sợ hết.

Sớm nay có thằng nhỏ ngồi tuyệt vọng ngó quanh, thấy mình đang khuyết đi, cảm giác chính nó đang bị ông già hớp từng ngụm từng ngụm một. Một ông già gầy gò lạ mặt với cái nón phớt nỉ đội trên đầu. Hai giờ trước, lúc mùi vị của sự xui xẻo chưa loang ra đến mức nắm trong tay được, thằng nhỏ cũng vui vẻ giống ông già. Hứng khởi, nó góp chuyện quanh mẩu tin trên báo:

- Tui có biết vụ đó, ông kia lấy mấy tỉ bỏ túi đi chơi, giữa chừng bị mất. Thấy ghê thiệt...

Ông già bật cười trước cái vẻ e hèm quan trọng của thằng nhỏ, đôi mắt hấp háy dưới vành nón cũ, hỏi:

- Ậy, chú em, sao xài chữ biết dễ dãi vậy? Chú em nói biết mà biết tới đâu? Có biết tụi trộm nó lấy ra làm sao, rồi cái ông mất buồn làm sao, tiền đó giờ cất chỗ nào không?

- Trời đất - thằng nhỏ nhổm một chân lên khỏi ghế, cái đầu gối xương xẩu đụng tới vành tai - Sao tui biết được, công an đang điều tra mà.

- Thì đó - ông già hớp một hớp trà, rủ rỉ - chú đừng có nói biết. Phải sợ chữ biết như sợ cây roi của bà già chú vậy.

Thằng nhỏ cụt hứng, hơi giận, mấy hột mụn mẩy lên trên gương mặt đỏ rần, nó mai mỉa:

- Bắt bẻ nhau từng chữ chi vậy ông ơi. Đây nè (dằn ly xuống bàn cái cộp), ly nước này không lẽ tôi nói là không biết, cà phê mà không biết, chết sướng hơn.

Ông già ngẩng lên, tựa hẳn vào lưng ghế, nét mặt bao dung, ôn tồn hỏi:

- Vậy chú có biết ly cà phê này có mấy phần là bột bắp, biết mùi cà phê này tự nhiên hay chỉ là hương liệu, cái đắng này tự nhiên từ những trái cà phê trồng trên rẫy hay do người ta bào chế ra?

Thằng nhỏ bỗng nghĩ giờ nó là con thỏ. Ông thợ săn đang chờ đó, ánh nhìn giễu cợt, a ha mày chạy đâu cho thoát tao. Nhưng nó là thỏ, nó phải vùng vẫy.

- Vậy ông biết cái bông đó không?

- Không biết - tưởng gì, con thỏ lại chạy vô bụi bông vạn thọ ở hiên nhà bên kia hẻm, ông thợ săn hơi mỉm cười - thấy quen thôi, thứ bông vạn thọ này hồi má tôi còn sống, tết nào bà cũng gieo vàng cả một vạt sân, đẹp vô phương. Nhưng tới lúc già như vầy tôi chưa biết nó có bao nhiêu cánh, bao nhiêu nhụy, nở trong bao lâu thì rã...

Thằng nhỏ tiu nghỉu nuốt nước miếng thở dài, bữa nay mất hứng gì đâu. Sáng mới chải đầu xong thì má nó càm ràm, riết rồi muốn gặp mặt con phải thức thiệt khuya, dậy thiệt sớm, nuôi con lớn bằng này, con đi nhận thiên hạ bằng má... Má thằng nhỏ đang giận, hôm qua bà nhìn thấy con trai rứt ruột, con trai thương yêu của bà hì hụi rửa chén giùm con bồ nó, trong căn nhà cách đây chừng trăm bước. Bà cảm giác mất con rồi, mất từng ngày, khi nó chở bồ đi chợ, nó vô bếp nhà người ta phụ nấu nướng, nó nằm dài nhà người ta coi phim trong khi phim ở nhà cũng giống hệt. Có bữa gánh trái cây ế về ngang, thấy thằng con múc nước cho con nhỏ gội đầu, bà muốn quăng gánh bên đường cho rồi.

Thằng nhỏ đâu biết, nó tưởng má nó lớn tuổi nên đổi tánh khó khăn, nên bà vừa định há miệng rầy rà là nó bỏ đi. Bữa nay không chạy khỏi vì chiếc xe đạp bị tuột sên, chắc nhỏ em phá “để anh Ba khỏi đi chở gái”. Nuốt giận ra tới quán cà phê, vừa mới vui, vị đắng mơn man trên môi, trôi chưa khỏi cổ họng thì gặp ông-già-không-biết này, đúng là rủi quá. Thằng nhỏ than thầm.

Nhưng bây giờ mà nín thinh luôn thì mất mặt với mấy người quen đang ngồi quán sáng nay đang thích thú theo dõi cuộc tranh cãi, nhất là có anh rể của con bồ đang tủm tỉm cười ngồi cạnh nó đây. Giữa cuộc giằng co vậy mà con em còn chạy lại kêu “chút nữa anh Ba về sửa cái máng cho má hứng nước mưa uống, khỏi tốn tiền đổi”. Thằng nhỏ gạt ngang “từ từ tao về”. Vài phút sau đó con bồ nó trên đường đi làm móng tay ghé lại dặn “chút nữa anh lại đóng giùm em mấy cây đinh máng khăn, hén”.

Thằng nhỏ cố cười tươi gật gật đầu, nói để đó cho anh, nhưng bụng tính cách phản pháo ông già, mót chút vinh quang khi rời quán. Bằng bất cứ gì trong tầm mắt nó, từ gói thuốc lá, chai nước ngọt đến đôi dép mòn lẹm gót, cái nón nỉ bạc màu của ông già. Ông vẫn khăng khăng nói không biết, nhìn thấy hay nếm được hay cầm trong tay, ôm vào lòng, chưa chắc biết. Chữ của ông già là “thấy quen”, “nó gọi là”. Vờn nhau chán chê ông với tay hái trên trời xuống một câu choáng váng:

- Chú em vẫn không chịu sợ chữ “biết” hả? Vậy má chú đó, chú biết không? Biết bà nghĩ gì không? Vui hay buồn, thảnh thơi hay rối bời? Bà có đang thương nhớ ông nào?

Mất sạch kiên nhẫn, thằng nhỏ rít lên:

- Chớ ông không biết con mình?

- Không - ông già rút một ngàn đồng dằn dưới đáy ly trà đá cạn queo - tôi quen tụi nó.

Ngón tay trỏ quèo nón sụp che lại ánh mắt nhìn xuống tối rười rượi, ông già nắm chặt xấp vé số trong bàn tay xương xẩu, đứng dậy đi. Ai đó hình như từng hỏi han ông già, ngậm ngùi nhìn theo, ông đó nói phải à mầy, nuôi con biết đâu được cái ngày nó hắt mình ra đường chan dầm mưa nắng.

Ừa ai biết được... Bảy mươi ba buổi sáng sau, nơi quán cũ, thằng nhỏ tiu nghỉu ngó con bồ nó ăn mặc mong manh ôm sát thằng con trai khác lượn chiếc SH ngang qua, ai đó cà rỡn “biết nhỏ đó không mậy?”.

Thằng nhỏ gầm gừ trong cổ họng: “Không biết, thấy cái rốn quen quen...”.
Chuyện cục kẹo

Nguyễn Ngọc Tư


Có người kể tôi nghe câu chuyện cũ này, hỏi ý tôi sao.

Chuyện rằng, có bé lên ba bé… không đi mẫu giáo như lời hát trẻ con hay hát.

Em đi chợ chơi với mẹ. Đó là một ngày chiến tranh vẫn mỏi mòn chơi trò chơi bom đạn, cùng đi chuyến đó còn có bốn người đồng đội khác của mẹ em. Thì lâu lâu cũng đi chợ một lần, chuyện đó bình thường với những biệt động quân, buổi chợ này cũng bình thường, chỉ là tấn công... Ty cảnh sát thị xã Cà Mau.

Để bảo đảm bí mật, bất ngờ, để kịch bản áp sát hoàn hảo, tiếp cận mục tiêu an toàn, mẹ đưa em theo. Một bà mẹ nghèo, lam lũ ẳm đứa con gái nhỏ, gầy gò, nhà quê ngơ ngác giữa xa hoa. Bâng quơ đi đằng sau là một người con gái 21 tuổi xách cái giỏ cũ kỹ đựng khối mìn nặng gần 10kg, nhập nhòa trong đám đông đằng xa nữa là một tổ khác gồm hai người, họ sẽ chi viện khi có tín hiệu. Nhưng những người đi sau chưa qua khỏi khúc đường thì tiếng nổ đã làm rung chuyển thị xã Cà Mau, lẫn trong những thi thể kẻ thù, có mẹ, đồng đội của mẹ và em. Kế hoạch rời đi đã gặp trục trặc vì những sơ suất nhỏ, và họ chọn cho mình sự hy sinh.

Người đồng đội đó, được phong tặng danh hiệu anh hùng, mẹ em được công nhận liệt sĩ, được truy tặng huân chương chiến công hạng Nhì. Bé bị quên lãng trong nấm mồ chung, mang tên mẹ.

Nhưng không có sự lãng quên nào là mãi mãi, một ngày đẹp trời, người ta nhớ tới em. Người ta tự hỏi tại sao không công nhận em là liệt sỹ, người ta này hỏi người ta khác, tại sao và tại sao?

Rốt cuộc người ta cãi nhau, vài người bảo em vẫn còn nhỏ quá, em không ý thức, em đã đủ mười tám tuổi đâu, có lý tưởng gì đâu. Em có phân biệt được kẻ thù đâu mà đánh giặc, may lắm, thì em chỉ biết chạy trốn xuống hầm mỗi khi có máy bay. Em chết, chỉ vì em phải theo mẹ, trẻ con thì theo mẹ chứ theo ai ? Buổi sáng hôm đó, em đâu có nghĩ mình đi chiến đấu, mà Tổ quốc là gì, độc lập tự do là gì với đứa trẻ lên ba ? Em chỉ biết má với mình đi chợ, vì lúc thay đồ mới cho em má nói, mình đi chợ chơi nghen, út cưng của má.

Nhưng một số người không chịu, với họ, em là một sinh mạng, chúng ta mang một sinh mạng vào trận đánh chứ không mang theo con búp bê, thú nhồi bông, hay con chó con. Không có bé, tổ công tác đó chưa chắc tiếp cận sâu vào hang ổ kẻ thù, chiến công đó chưa chắc lẫy lừng như vậy. Nếu chúng ta chỉ xem em như là nạn nhân chiến tranh như bao đứa trẻ khác, liệu có thỏa đáng không khi em cùng mẹ đi vào trận đánh có kế hoạch tác chiến hẳn hoi.

Cuộc tranh cãi không kết thúc được vì những cái lý của những người ta. Tôi nghe xong, nuốt nước mắt vào lòng, trợn trạo cà rỡn, nói sao không kiếm nhà ngoại cảm nào thiệt giỏi tìm gặp linh hồn bé, hỏi coi bé thích gì. Tí ơi Nị ơi, Mén ơi Đẹt ơi, con thích gì ? thích là liệt sỹ hay chỉ thích làm nắm tro bụi tan rồi, phiêu lãng trong lòng đất ?

Nhưng linh hồn nhỏ trả lời trớt quớt, kon hít ăn chẹo dùa .

Tạm dịch, con thích ăn kẹo dừa. Bé không trách móc, oán giận, không kể công, đòi hỏi, không kêu lên lỗi tại ai, như người lớn. Chuyện nhỏ teo như… cục kẹo mà người lớn cứ cãi nhau. Thương làm sao những tâm hồn người lớn đã từ lâu tuyệt chủng ngọt ngào.

Cho nên đôi lúc trước trẻ con, có tôi-người-lớn cúi đầu. Lần này thì tôi cúi đầu rất thấp.

không dấu vết

Nguyễn Ngọc Tư


Những buổi sáng ngồi cà phê ở quán quen, đôi khi tôi hay bị mất cảm giác về thời gian. Như thể mình đang ngồi trong ngày hôm qua, hôm kia.

Quán vẫn cũ, những bức vách đã tróc lở vôi, và rêu bắt đầu ửng lên một màu xanh, như bộ râu quai nón của một chàng trai vừa cạo qua ngày. Người vẫn cũ, từ cô bé phục vụ tóc nâu đang hỏi anh ơi uống gì nhưng cô có vẻ chẳng chờ đợi câu trả lời vì đã thuộc lòng sở thích của từng người. Anh bán bán dạo cũng không cần hỏi, cũng biết người nào đọc báo gì và dúi đúng tờ báo vào tay. Chị bán vé số lượn lờ chờ một cái gật đầu. Bà cụ bán bánh phồng nếp đứng nấn ná vô vọng đợi niềm thương nhớ tuổi thơ, thương nhớ quê mùa của một ai trong đám đông này.

Và mấy anh quen quen ngồi kia là công chức làm việc trong những cơ quan đặt trên con đường này, tôi biết tên từng người, biết cả chuyên môn gì, chức vụ gì, dù chưa lần nào chào nhau. Quán nhỏ, nhìn mặt riết rồi quen, không muốn biết cũng biết, không muốn nghe lóm cũng buộc phải nghe. Nhưng sáng nào câu chuyện tình cờ nghe được từ mấy anh cũng xoay quanh chuyện… nhậu bữa qua. Nó ít nhiều xua tan cái không khí đờ đẫn lười nhác trên dáng họ, nhưng dự báo một sự trống rỗng kỳ dị. Họ hỏi nhau tối qua nhậu ở đâu, với ai, mấy giờ về. Đề tài rộng hơn là món ăn tối qua, loại rượu (hoặc bia) tối qua, chuyện phiếm tối qua, cả… vui buồn của những bà vợ tối qua, và cảm giác cơ thể sáng nay khi đã qua giấc say mèm…

Ngồi một mình chờ bạn tới, tôi hay ước phải chi mấy anh đó nói chuyện về một cuốn sách hay, một bài báo hay vừa đọc, một tin nóng vừa phát trên ti vi…để tôi kéo ghế qua ngồi hóng hớt, góp chuyện cho đỡ buồn. Tiếc là cuộc gặp tưởng chừng giản dị đó chưa từng xảy ra. Những trang báo lật nhanh trong tiếng muỗng chạm đáy ly leng keng, nhưng vẻ mặt họ không chút gì quan tâm phiên chất vấn ở quốc hội sáng nay, chiếc máy bay mất tích, trái đất đang nóng dần lên, băng sẽ tan, châu thổ này sắp ngập trong nước biển… Cũng chưa bao giờ tôi nhìn thấy họ cầm cuốn sách trên tay, có thể họ đọc sách ở nhà, hay trong văn phòng, nhưng sáng nay gặp bạn bè thì họ chỉ khoe, hôm qua đánh trận ở Phượng Vĩ, say quá trời, gọi cho ông mà không được. À, trưa qua có thằng bạn dưới huyện lên xách theo mấy con rắn nước, quần nhau tơi bời, ngủ luôn. Câu chuyện cứ cuốn theo vậy vậy vậy vậy. Và tôi buồn mình ên.

Quá nhiều bạn bè, quá nhiều người quen của tôi đã gởi một phần đời vào những tiệc tùng gọi mời giăng giăng trong thành phố. Nhưng chiếu rượu, quán rượu hoặc quá hời hợt hoặc quá bận bịu, nên đã để đời họ trôi đi, không tăm tích.

Những khi ngó tờ lịch chói chang ngày mới, tôi thường tự hỏi, ngày này năm trước, mình ở đâu, làm gì? Bằng cách đó tôi biết đoạn đời đã qua mình sống như thế nào. Nhưng một năm ròng rãi, dồn đếm lại thì chỉ vài ba ngày là nỗi nhớ còn níu lại được. Ừa, ngày này năm trước mình ở Trường Sơn, ruột réo sôi ngồi ngắm bướm bay, ước bướm là… gà để chụp một con đốt lửa nướng ăn cho bớt đói. Ngày này năm trước mình đọc trang cuối cùng của cuốn Suối Nguồn của Ayn Rand. Ngày này năm trước, người bạn viết già đã nói mình nghe bài học về sự kính trọng chữ nghĩa. Ngày này năm trước, mình trồng cây bằng lăng trước sân nhà… Hàng trăm ngày còn lại, tôi đã không có câu trả lời, bởi nó đã tẻ nhạt trôi đi cùng những công việc nhàm chán, những quán xá những la cà…

Nên những khi ngồi quán, tôi nhìn quanh và nghĩ, ngày này năm trước, những người kia làm gì, ở đâu. Từ những chuyện vãn rời rạc vẳng lại, không hiểu sao tôi nghĩ họ có rất ít câu trả lời…

Đành đổ lỗi cho cái không khí buồn tẻ của tỉnh lẻ, cái nhàm chán của đời công chức, cái vồn vã quyến rũ của những quán rượu… đã làm vụn đi, làm phai lạt những người ta.

Phía những người yêu…

Nguyễn Ngọc Tư

Ngay lúc này đây, cái ngăn tủ tôi dành cho em gái đã đầy. Cái chỗ riêng này tôi xếp những những chiếc đầm bầu tôi đã mặc vài ba lần, những tã lót, áo nón… con tôi từng dùng qua, còn như mới. Bắt đầu từ khi em báo tin sắp làm mẹ, lần đầu. Tôi mua cho em cái đĩa người ta dạy chăm sóc trẻ sơ sinh, một cuốn sách viết về những bệnh con nít hay mắc phải. Gần như đã đầy đủ cho cuộc vượt cạn vào cuối năm.

Sinh con đầu lòng, em ngơ ngác không biết phải chuẩn bị gì. Tôi cười bảo, chỉ thiếu trái tim bà mẹ nữa, nhưng không sao, em sẽ có nó khi bụng bắt đầu tròn sau áo. Đó không chỉ là một trái tim mạnh mẽ mà còn phải thật dẻo dai, để giữ sống trong những giây phút dằng dặc nhất, những nhịp đập bàng hoàng nhất, những khi đau nhói nhất. Làm mẹ, mà là mẹ Việt, em sẽ phải run rẩy nhiều khi…

Ngay những ngày đầu tiên, lúc mang con đi chích (tiêm) ngừa, những nhịp tim run rẩy sẽ bắt đầu vì em nghĩ tới những tai biến quanh chuyện này mà mà báo chí cứ một hai ngày lại phản ánh. Những liều vacxin lẽ ra sẽ bảo vệ con em, nhưng lại làm hại đứa trẻ, không biết chừng. Và em sẽ luôn luôn sợ hãi lo âu bởi những lý do cũng gần giống vậy.

Con bệnh, đưa con tới bác sỹ, nhưng em không biết bác sỹ có vì nóng vội mà cho kháng sinh quá liều, có vì mệt mỏi mà bỏ qua dấu hiệu bệnh, để rồi bệnh A chữa B, có vì thu nhập mà tiếc nuối để bệnh kéo dài, để buổi mai bệnh nhân còn quay lại.

Con đi nhà trẻ, em trao con tận tay cô giáo, tay cô mềm lắm, và cô cũng xinh đẹp nữa, nhưng em chỉ biết đến đó, em không biết khi mình ra về cô giáo có tốt với con không? Cô ấy có yêu con, dạy con múa hát, dịu dàng giúp con ăn hay sẽ cấu nhéo, dọa dẫm, dùng băng keo dán miệng, hay lơ đãng để con chơi với nước, một mình.

Con lên tiểu học, tiễn con tận cửa lớp, em không thể đứng đó mãi, khi quay lưng lại, em chẳng thể nào biết được thầy giáo có dùng thước đánh con, có bắt quỳ xó lớp nửa ngày, đứng giữa sân trường giữa chang chói nắng, và để trả giá cho tính nghịch ngợm, con phải hít đất vài mươi cái, hay bị xách tai? Thầy sẽ đối xử với con trong công bằng hay yêu hơn những bạn có học thêm ở nhà riêng của thầy, sẽ giúp con ngồi thẳng hay bỏ mặc con lưng cong, mặc cho con đeo kính…

Và những bài học con nhận được ở trường, có khai sáng tâm hồn con, giúp con hiểu biết và mê say khám phá cuộc sống hay mệt mỏi, sợ sệt, chán chường. Em sẽ tự hỏi điều đó khi nhìn thấy những bài học con học, cái cặp sách nặng nề mà con mang, vẻ nhàu nhĩ mụ mị mỗi khi con tan trường về. Trái tim em run lên vì nghi ngại, không biết tại sao nơi mà em tin tưởng gởi gắm sẽ dạy con nên người, lại làm con mệt mỏi đến nhường này.

Giữa muôn trùng vây bủa, chực kéo con ra khỏi vòng tay em, có những hiểm họa em sẽ đề phòng được. Xe cộ trên đường. Những cái bẫy của Internet. Sông nước ao hồ. Cả khi thời tiết bất an, như những cơn mưa đầu mùa, nếu em bọc con đủ ấm, sẽ giúp nó khỏi bị cảm lạnh. Nhưng hiểm họa đôi khi tới từ những người, những chốn mà em tin rằng sẽ cùng với em yêu thương và bảo vệ đứa trẻ ngây thơ trong veo này, lại làm nó tổn thương. “Ta không đề phòng từ phía những người yêu. Cây ngã về nơi không có vết rìu…”, hai câu thơ này, chẳng phải một hôm nào chúng ta cùng tấm tắc khen ông Hữu Thỉnh viết hay, hay mà buồn, hay vì buồn. Em đã từng nhớ mỗi khi gặp phải lừa dối, phản trắc nhưng em chắc không tưởng tượng được những câu thơ chua xót đó sẽ ám ảnh theo khi em làm mẹ, khi cố bảo bọc và che chở cho những đứa con non nớt.

Bà ngoại chúng ta làm mẹ rất giản dị, bà chỉ sợ bom rơi đạn lạc, sợ chiến tranh, sợ những căn bệnh ban đen ban đỏ, sài đẹn cướp mất con của bà.

Mẹ chúng ta làm mẹ cũng giản dị, chỉ sợ con không đủ no vào những năm cả nước Việt xanh xao bo bo nấu cùng với gạo, con sẽ không đủ sức chống chọi với những cơn sốt xuất huyết, sốt thương hàn…

Tôi, em làm mẹ thì sợ muôn ngàn nỗi. Sợ cả hộp sữa bột thơm tho biết đâu lại chứa những chất độc mang bộ mặt thơm tho. Hiểm họa không chỉ đến từ trước mặt. Sẽ có nhiều lần trong đời, em ước ao lại được gói con vào lòng, mang con theo trên mọi ngả đường, mọi sớm chiều, bởi con vừa ra khỏi tầm mắt mẹ, là bất trắc lẽo đẻo theo.

Nên em, trót làm phụ nữ Việt, sẽ trở thành anh hùng ngay khi đứa con cất tiếng khóc chào đời. Gặp nhau ngay lúc xa nhau, sum họp đúng lúc chia lìa, trái tim mẹ bắt đầu ngơ ngác ngổn ngang, ngơ ngác …


Lại những diêu bông

Nguyễn Ngọc Tư


Trong lá đơn được trình bày ở kỳ họp giữa năm, chị gởi tới đôi bờ lời xin lỗi cho sự bỏ cuộc ra đi, cho sự dang dở và buông xuôi này. Lá đơn được trình bày bởi một người đồng nghiệp khác, vì hôm đó chị vẫn còn trong kỳ nghỉ phép, xem truyền hình trực tiếp, chị thẹn thò nghĩ, nếu có mặt mình sẽ nhận được bó hoa và những tràng vỗ tay chào từ biệt, nhưng đến hai điều nhỏ nhoi đó mình cũng không đáng được nhận.

Chị thường ví mình là một cây cầu dang dở, nên chưa nối được nhà nước với dân, chị vẫn muốn có thêm thời gian để xây, cố gắng làm được nhịp nào hay nhịp ấy, nhưng giờ thì chị buộc phải chấp nhận một sự thật, cây cầu đó sẽ không bao giờ hoàn thành nhịp cuối cùng. Xấu hổ và bẽ bàng, chị đi.

Đi và chưa kịp một lần cùng với chị em bạn gái tíu tít với nhau chuyện quần quần áo áo, son son phấn phấn giữa giờ giải lao. Cũng chưa lần nào xán lại tán gẫu với các anh về trận bóng đá tối qua, cuộc nhậu tối qua… Chị tự rời ra bởi câu hỏi, ủa mình ở đây làm chi? Để thêm một gương mặt, để góp một bàn tay đưa cao cao?

Câu hỏi đó vẳng đi vẳng lại, vào mỗi kỳ họp. Chị ngồi ở nghị trường và cố gắng tránh né ống kính của mấy anh truyền hình. Chị tê dại trong nỗi sợ bà con ở cái vùng Đồng Trũng xa xôi sẽ nhận con Hà Há Ha, người đại diện của họ, người gánh vác cái gánh tâm tư trĩu nặng của họ rõ ràng đang ngồi đó, mà ngóng hoài không thấy nó nói giùm vụ những dòng kinh không có cầu bắc qua báo hại trẻ con tới trường phải qua những chiếc đò đầy, nó không nói giùm họ về những khúc xóm bị bỏ quên không đường, không điện, nó không nhắc giùm vụ trạm y tế đang xuống cấp, sắp sập đến nơi rồi… Những chuyện này chẳng phải họ đã vượt mươi cây số đường đi tới cuộc gặp cử tri, để nói chị hay, nhưng giờ thì chị ngồi đây, trong nghị trường này, nếu không sột soạt lật tới lui tài liệu, dò coi người trên bục đọc tới đâu rồi, không hý hoáy sửa mấy lỗi chính tả trong văn bản… thì chị là bức tượng, không hơn.

Chỉ câu hỏi là lồng lộng thổi dọc thổi ngang, làm ngã nghiêng những ảo tưởng, những giá trị. Nó ngợp trong chị khi họp tổ thảo luận chuyện này nọ, bỗng dưng người ta nói, vụ này cấp ủy hôm trước nhất trí rồi, thôi khỏi bàn chi. Xin ý kiến thông qua một nghị quyết, người ta nói cái này chỉ nên đề nghị chỉnh sửa câu cú, chấm phẩy thôi, chớ thay đổi cả nội dung, thì kẹt. Những lúc như vậy, chị thấy mình trong veo, tay này sờ tay kia mà không cảm giác.

Nhưng bản tin tối trên truyền hình vẫn rành rạnh gương mặt chị trong nghị trường, hôm đó. Chị nhìn ti vi và hình dung cảnh bà con Đồng Trũng cũng đang xem chương trình thời sự trong lúc ăn bữa cơm chiều trễ tràng sau một ngày đồng áng, họ thấy chị, họ kỳ vọng những thua thiệt, khúc mắt, ấm ức của dân xứ mình sẽ vọng tới ‘ở trên’, sẽ theo chị vượt qua cánh cỗng thâm nghiêm của công quyền, một cánh cỗng mà không phải ai và cái gì cũng dễ dàng qua lại.

Và họ lại đội mưa đội nắng đi tới cuộc hẹn hò, với mong mỏi chị mang về những tin vui, những lời hứa hẹn. Có điều để đợi, để hy vọng còn hơn không. Và chị lại ngượng ngịu ngồi đối mặt với họ, nhìn những gương mặt khắc khổ, những bàn tay chai sạn xương xẩu khô queo, những vai áo bạc sờn lam lũ, những đôi chân bùn đóng vảy… Nhìn và chua chát nghĩ, họ như những người đi tìm lá diêu bông, ngơ ngác tin yêu và mơ mộng.

Nhưng chị đã phụ họ trước cả ngày thứ nhất, trước cuộc gặp gỡ đầu
Một thế gian thênh thang

Nguyễn Ngọc Tư


Cái hộp thư tôi đang xài có một kiểu gửi thư rất buồn cười: gởi cho chính mình. Những gì cho là quan trọng, tôi đính kèm vào thư, gởi đến… tôi. Lúc nào cần, dù đang ở bất cứ đâu, vào mạng internet được là lấy tư liệu xuống được. Bởi có quá nhiều thứ có thể trao thân gởi phận theo kiểu đó nên tôi cũng siêng viết thư cho tôi. Cũng có khi thư không kèm theo tệp tin nào, nội dung gọn lỏn chỉ vài chữ, “Cố lên, đừng chán”, “Buồn làm chi tui ơi…”, “mùa mưa đi ngang qua cửa sổ…”, “người thấy vậy mà xa…”. Chúng thảng hoặc vu vơ, bất chợt, ngớ ngẩn, như thể không có ý nghĩa gì.

Nhiều bữa kiểm tra hộp thư chỉ thấy chỏn lỏn thư mình, chữ cười trong “buồn cười” rơi đi mất. Việc đọc của chính mình có chút nào xốn xang có chút nào cay đắng, nhất là những thư không kèm theo tư liệu. Nó nói lên một sự thật là ta đã mất niềm tin và khả năng chia sẻ vui buồn với người khác. Sống rúc vào chính mình, tựa vào chính mình để đứng dậy, vịn những lời nhắn ngẩn ngơ của mình để đi qua miền ưu phiền.

Nghĩ, cái anh lập trình ra cái vụ thư gởi cho mình này hoặc quá chu đáo, hiểu đến tơ tóc nhu cầu của người dùng hoặc đã từng cô đơn, thấu đến tơ tóc của cô đơn. Nên anh ta biết được vào những lúc nhân gian vắng rợn, có người ngồi chờ không thấy ai viết thơ cho mình, mà mình thì cũng không biết viết cho ai, bởi có những chuyện không tìm được người, không tin được người, không chờ được người để san sẻ, cô ta bèn viết gởi chính mình.

Như có người mua hoa bằng tay này rồi tặng tay kia.

Như có người đứng giữa núi kêu lên để nghe tiếng mình vọng lại.

Như có người lang thang ngoài vườn vắng để thủ thỉ những bí mật, những nỗi đau mà ôm kín trong lòng họ sẽ vỡ tung ra mất.

Dù là kiểu cổ điển như đào hố chui xuống tâm tình với đất hay hiện đại như cái hộp thư điện tử tôi đang xài thì cũng giống nhau, rằng những bờ vai, những bàn tay, những ánh mắt cảm thông trìu mến đôi khi không có giá trị. Và càng ngày càng mất giá trị. Không cần thiết. Con người đã thừa mạnh mẽ (hay thừa u uất?) để sống mà không tha thiết bầy đàn.

Chỉ là một bữa nào đó, khi tự điền tên tôi vào chỗ “người nhận”, thấy mình như đang uống một ly chua xót đầy, ủa, sống sao mà tới nông nổi này, thế gian thênh thang vậy mà không có ai tri âm hết? Nói theo kiểu dân gian là kiếm không ra một người bạn để… làm thuốc.

Quá tệ!

Nỗi mất và quên

Nguyễn Ngọc Tư

Mười năm trước, bạn không bao giờ gặp một nỗi mất mát mang tên “hư ổ cứng”.

Những năm đó, thỉnh thoảng bạn cũng buồn, mớ ảnh gia đình bị ố vàng đã làm lem luốc vài gương mặt người thân mà bạn không bao giờ còn gặp lại họ nữa, cuộn phim chụp ảnh đám cưới bạn bị cái nóng ẩm nhiệt đới làm cho mốc meo, quyển nhật ký bị chuột gặm nham nhở, hay những bài hát, bộ phim bạn yêu thích chảy nhão, trầy xước theo mớ băng dĩa cũ.

Hồi đó bạn biết trước sau gì chúng cũng mất, dù chậm hay nhanh, bằng cách này hay cách khác. Giống như bạn biết rồi mình sẽ già đi, nên thêm một tuổi bạn có buồn một tí hay nhiều tí nhưng cũng chấp nhận nó. Còn “thằng ổ cứng” (bạn xấu tính lắm, nghĩ cái gì liên quan tới cứng thì thuộc về… thằng), bạn tin rằng nó sẽ cất giữ kỷ niệm của bạn, hồi ức của bạn, phần đời của bạn, vài thứ bạn yêu thích… bền vững, lâu dài. Máy tính nhiều lần không thể khởi động, hệ điều hành nhiều lần bị lỗi phải cài đặt lại, nhưng ổ cứng có hề gì đâu.

Bỗng một ngày nó chết ngắt, cái chết như nụ cười mỉa vào những lời xưng tụng muôn năm muôn năm. Muôn năm là bao lâu, mãi mãi là bao lâu? Cái chết của nó mang theo bao nhiêu là hình ảnh, bài hát, ghi chép… Những tuồng cải lương hương xưa. Những bài thơ với giọng ngâm ngọt ngào, nức nở của Hoàng Oanh, Hồ Điệp… Bạn te tái xách ổ cứng đi tìm những anh chàng được mệnh danh là phù thủy phục hồi, khắc khoải giống như người yêu ôm người yêu đi tìm thầy thuốc. Và khi mấy phù thủy trong thành phố thở hắt lắc đầu, bạn mới tràn ngập cảm giác mất mát.

Những chuyến đi không còn dấu vết, khi không còn gương mặt người đã từng gặp, cảnh vật đã từng qua. Bạn nhận ra lâu nay, bạn nhờ máy ảnh nhìn, nhờ máy tính nhớ. Đi đến đâu lăng xăng chụp ảnh đến đó, về tuôn vào máy tính, lâu lâu giở ra coi lại, ờ bạn đã tới chỗ này chỗ này. Nó đẹp như vầy như vầy. Người ta lem luốc hồn nhiên vậy đó vậy đó. Chúng tồn tại để sẵn sàng khơi gợi lại cho bạn một ký ức. Bạn tưởng thời gian đã ngưng đọng trong những tấm ảnh đó, và bạn muốn quay lại những khoảnh khắc đã qua lúc nào cũng được. Không vội vàng, thiết tha chi cho lắm. Nhưng giờ bạn không còn manh mối, chỉ còn nhớ mơ hồ, ví dụ cỏ trên những ngọn đồi, nhưng bạn không biết chúng mượt và xanh như thế nào; những đứa trẻ chơi trên cát, bạn không nhớ nụ cười chúng ra sao, có bao nhiêu cái răng bị sún…

Hôm đó, bạn gọi mấy đứa nhỏ đó chỉ để chúng cười cho bạn chụp ảnh. Bạn không trực tiếp nhận nụ cười của chúng. Nếu bạn đừng bận bịu, chỉ chạy chơi với bầy trẻ thôi bạn được sống lại buổi chiều thiên đường ấy, bất cứ khi nào gió cũng lại thổi trên những triền cát nóng.

Giống như cách bạn nhớ chuyến đi Đà Lạt năm bạn mười hai tuổi. Hồi ấy bạn nghĩ, quá xa xôi để tới đây, và sau này không biết có thêm lần nữa. Bạn tận hưởng Đà Lạt bằng tất cả giác quan trẻ nít của mình, hít thở và ôm ngấu cảnh vật trong lòng. Hai mươi năm sau, bạn vẫn còn nhớ mùi nước đái ngựa trên cỏ, khói sóng vương vất dưới chân thác nước, tiếng những trái thông khô rơi, cái lạnh buốt của bàn tay người đàn ông lạ mà bạn nắm lấy giữa chợ vì tưởng tay ba bạn.

Không có tấm ảnh nào còn lại sau chuyến đi đó, bạn toàn tự nhớ thôi. Cả bài hát trên xe. Giọng nói của người tài xế. Chúng rồi cũng phai trước khi mất đi, lúc bạn đã già, nhưng nó kịp làm bạn rung cảm và xao xuyến cả một thời gian dài nên không gây hụt hẫng và tiếc nuối.

Nó không đột ngột biến mất như ‘thằng” ổ cứng vừa mang theo một vùng ký ức ra đi. Những bài hát bạn sẽ tìm lại ở tiệm bán băng đĩa, hay trên mạng, nhưng sẽ mất một thời gian để bạn nhớ ra, mình đã từng thích bài hát nào, giọng hát nào, tại sao. Đôi lúc bài hát cũng gợi nhớ một người nào đó, một đoạn đời nào đó. Chúng ít nhiều miêu tả cuộc đời bạn. Tại sao những bài ca ngô nghê, ngớ ngẩn đó năm mười lăm tuổi bạn lại thích mê mẩn? Tại sao có những bản nhạc hồi hai mươi bạn không thể nghe nổi, thì năm năm sau, bạn không dứt ra được những “một ngày như mọi ngày / em trả lại tình tôi / một ngày như mọi ngày / ta nhận lời tình cuối / một ngày như mọi ngày/đời nhẹ như mây khói…”? Tại sao một bài sến chảy nước “Đừng nói xa nhau, cho tâm hồn đau khổ…” bạn lại giữ gìn cẩn thận, không phải vì một người dưng nào đó rưng rưng hát hôm hội tan bạn ra về? Giờ người đã xa, chuyến đi quá vãng, bài hát bị mất. Giờ ngang qua quán cà phê, hay xe kẹo kéo, bạn chắt chiu nhặt lại từng chút một, cho cái hồi ức đã bị rơi đi để trả giá cho sự làm biếng.

Làm biếng cảm thụ cuộc sống, làm biếng thương, thậm chí làm biếng nhớ. Nên cứ bắt máy móc nhắc nhớ giùm. Nên máy móc một hôm trăn trối, sẽ không giữ được gì nếu bạn không tha thiết.

Tình yêu cũng vậy. Cuộc sống cũng vậy. Bạn sực nhớ tới những thứ lớn lao này…

Vai diễn cuộc đời
Nguyễn Ngọc Tư

Mình có ý nghĩ rất kỳ quặc là có hai dạng bà mẹ, một bẩm sinh đã tràn đầy bản năng làm mẹ, một chỉ đóng vai… mẹ. Mình dạng thứ hai. Bạn bè vài lần buột miệng, “con nhỏ này mà làm mẹ gì trời ?”, mình thú nhận, mình là bà mẹ nửa mùa.
Những khi bên võng con nằm, mình cố không cầm cuốn sách, tờ báo, không mở máy tính, không gõ những con chữ trên bàn phím đã chớm sờn. Mình chỉ muốn ngồi đó, và ngắm giấc ngủ của con, với trọn tấm lòng, giống những bà mẹ mà mình ngưỡng mộ. Họ không bao giờ rời bỏ con mình để đi tới một thế giới khác, của những trang sách, của những câu chuyện xa xôi, dù là một chút thôi. Bên nôi, họ sẽ ngồi đan những cái áo len, sẽ khâu lại nút áo vừa sút chỉ, họ luôn nhìn thấy giấc mơ của con qua cái nhoẻn cười hay tiếng khóc ré thảng thốt trong giấc ngủ.
Những bà mẹ đó có cuộc đời hết sức bình thường, quẩn quanh dưới mái nhà, sống giản dị và ước mơ giản dị, trọn lòng với chồng, con. Ngay cả khi đôi chân đưa họ rời đi, đến chợ, đến cửa hàng bách hóa, đến tiệm cắt tóc… thì tâm trí họ cũng để lại nhà, bên con đau đáu. Họ nhận biết ngay khi trên má con mình vừa xuất hiện thêm vài mạch máu li ti, móng tay con dài, gót chân có vết xước nhỏ… Chưa bao giờ mình thôi ngưỡng vọng, học hỏi họ. Học cái cách ôm con vào lòng và chỉ nghĩ về con thôi, về những sợi lông măng trên trán, về mùi sữa thoảng trên da thịt, bước chân chập chững đầu đời… Con chỉ mới mọc mấy cây răng sữa, họ đã mơ mộng đến đám cưới con mình, cô gái nó yêu, ngôi trường nó học…
Mình muốn trở thành một bà mẹ như vậy, rồi bỗng dưng trong đầu mình chập chờn những tiếng nói lạ. Bỗng dưng xuất hiện những con người, họ nói cười, họ yêu và oán hận nhau. Những câu chuyện miên man bất tận. Bỗng dưng tờ báo sáng lật từng trang từng trang trong đầu mình như thể có một cơn gió vô tình, những đứa trẻ bị bắt cóc bán bên kia biên giới, biểu tình bạo loạn ở một nước châu Âu xa xôi, một nghệ sỹ qua đời, ca ghép mặt đầu tiên trên thế giới thành công... Hay vụ tai nạn ô tô thương tâm trên đèo, ở khúc đường mình đã từng qua, nên cái hồi ức mưa phùn hiu hắt dài ba phút. Ba phút lãng đãng là tối thiểu cho mỗi sự kiện, bởi tính mình lẩn thẩn trời đã trót cho. Những lần tâm mình đi lạc, da thịt con vẫn nóng hổi trên tay mình, mùi phấn rôm lẫn trong mùi sữa phảng phất lên mũi mình, mình cười và gọi này cưng của mẹ ơi, nhưng trong đầu mình co một mình tình vừa giãy chết ở trang 247 của cuốn sách nằm trên giá.
Con vẫn đang nhìn mình mỉm cười, ánh nhìn làm mình ứa nước mắt. Lớn lên, khi con có yêu đơn phương một cô gái nào thì cũng gần giống con với mẹ phút giây này, phút giây xao lãng.
Có điều gì hình như là tội lỗi, khi mình đeo mang quá nhiều mối quan tâm, khiến bà-mẹ-mình bị cắt làm năm ba mảnh. Chúng không chịu buông mình ra như đôi giày nằm lại sau bậc cửa. Và mình yêu con trong khi chung quanh vẫn lao xao kẻ đứng người ngồi, kẻ cười người khóc, kẻ săm soi người châm chọc, đâu đó tiếng nhắc tuồng rất mỏng. Hãy nói, mẹ nhớ con quá. Hãy nói, mẹ thương con lắm, sẽ hy sinh cho con cả đời này.
Nhưng bà mẹ ngang nhà, cách một con đường – bà mẹ mà mình vẫn thường ngưỡng vọng – chị ấy hình như không nói những câu đơn điệu đó, đơn giản là chị chưa bao giờ rời đi. Sáng nào bên thềm chị cũng lắc lư hát một bài hát trẻ con trong lúc chải tóc cho đứa con gái nhỏ xíu. Xung quanh chị mọi thứ cứ trong veo, bất cứ gì cũng không tồn tại, chỉ còn lọn tóc mềm thoảng mùi dầu gội dịu dàng, còn tiếng hát theo ngọng ngịu, còn tiếng cười trong trẻo của con. Đã tan biến hết, chỉ chị với con trong những buổi sáng ngọt lành. Mình hơi ngớ ngẩn, nhưng thật sự cảnh tượng đó làm mình nghĩ tới thiền.
Cảnh tượng đó đôi lúc làm mình hơi tuyệt vọng, sao tâm mình cứ chộn rộn không yên, ra đời nhớ con, ở bên con lại nhớ đời. Có thể sẽ không bao giờ mình có được niềm vui buông bỏ, và vai bà mẹ mình sẽ đóng đến tàn hơi.
Nhưng vai diễn đó mình đã hăm hở, hân hoan nhận rồi, mình sẽ diễn hết lòng, vắt máu tim ra mà diễn, để không gợn chút ân hận và xấu hổ nào, khi gọi con ơi… Đó là chuyện của mai này, còn nằm trong cái gọi là hy vọng, giờ thì mình cắn môi, toát mồ hôi, tập trung hết sức lực để… cắt móng tay cho con, bởi sợ đám người nào đó lại chộn rộn trong đầu, mình sẽ làm con chảy máu…

Giấc mơ con cuộc đời con

Nguyễn Ngọc Tư

Một phong tục kinh điển khi đứa trẻ thôi nôi là người lớn bưng cái rổ lại trước mặt nó để nó chọn… nghề, để coi nó sẽ cầm món nào trong đó : gương lược, kéo, viết, cây búa, cuốn sách hay là cục đất. Một câu hỏi gần như… kinh điển của các ông ba bà mẹ, khi đứa trẻ biết chuyện trò ríu ran, rằng sau này con thích làm nghề gì. Chiều qua, trên đường từ trường về, đứa trẻ hớn hở khoe, mai mốt lớn lên con đi bán xôi gà. Bán xôi gà thì sẽ được ăn xôi gà đã đời luôn.
Má nó nghe buồn, bán xôi gà dãi nắng dầm mưa, suốt ngày long đong ngoài đường phố, vui sướng gì hả con ơi?
Bà nội nó nghe buồn, cứ ước trong nhà có đứa làm bác sỹ, không thì làm thầy giáo cũng được, ra đường trẻ nít nó kêu thầy ơi thầy à không oai sao?
Ba nó nghe buồn, đời ba lắt xắt bán buôn, mong có con cho làm cán bộ nhà nước, giàu thì chưa biết, nhưng chắc chắn là sống ổn định, không lo bữa no bữa đói.
Đứa trẻ chín tuổi, không hiểu tại sao người lớn lại tiu nghỉu khi nghe dự định của nó. Với nó, mọi mơ ước đều bình đẳng với nhau, vui như nhau, không phân biệt thấp cao. Bạn nó có đứa thích lái máy bay bay lên trời. Có đứa đòi tham gia đội đặc nhiệm siêu nhân. Có đứa thích làm công an bắt cướp. Nó chọn bán xôi gà vì công an, phi công, hay siêu nhân gì thì xong việc rồi cũng muốn ăn xôi gà.
Cũng may là có bà ngoại là vỗ tay cười mừng, bà nói cháu bà mơ ước bán cá bán rau bà cũng vui. Ước mơ tự bản thân nó đẹp rồi, không có ước mơ xấu, lại càng không có ước mơ sang, ước mơ hèn. Bán xôi gà, hay làm giám đốc ngân hàng thì cũng hồn hậu đáng quý như nhau khi chúng vẫn còn nằm trên mảnh đất mang tên mơ ước. Bán xôi gà cũng có cái hạnh phúc đặc biệt của bán xôi gà, bà ngoại nói tỉnh bơ.
Như bà ngoại đã từng mơ ước làm họa sỹ truyền thần nhưng suốt đời gắn bó với nghề may áo bà ba, vui vẻ thấy người ta đẹp lên nhờ bàn tay khéo léo của mình.
Như chú kia biết đâu đã từng ước mơ làm kỹ sư, nhưng lẽ gì lẽ khác, chú ấy đi bán cơm chiên. Sáng nay ta đói bụng quá và ta nhớ tới chú.
Như chị nọ biết đâu đã từng mơ làm hoa hậu, nhưng cuối cùng chị đi bán dừa tươi, và ta luôn trông ngóng, chờ đợi chị đẩy xe dừa ướp lạnh trong cái nắng lửa tháng Tư tuôn ngui ngút.
Như anh kìa biết đâu đã từng mơ làm bác sỹ, nhưng cuộc đời đưa đẩy khiến giờ anh an ủi những thương tổn của con người theo kiểu khác, anh làm công nhân trồng cây, trồng hoa, tỉa tót, tắm tưới chúng xum xuê trên những ngã đường.
Và khi ta thèm một tô bún riêu, cần một cái chổi rơm, muốn sơn lại mảng tường cũ… luôn có người sẵn sàng chờ để làm những công việc đó. Họ có thể đã từng mơ ước làm giám đốc, chủ tịch, hay chỉ giản dị, “muốn bán bún riêu để ăn bún riêu cho đã đời luôn…” .
Ngoại nói hay ho như trên báo, dù vậy, cả nhà vẫn buồn. Họ hy vọng thời gian sẽ làm thằng nhỏ thay đổi ước mơ, trẻ con vội thèm mau chán mà. Và một bữa nhân dịp nép bên lề nhường đường cho đoàn xe công vụ có còi hụ đi qua, thằng nhỏ nói lớn lên con muốn làm bộ trưởng, làm bộ trưởng oai thiệt oai như cái bác ngồi trong xe kia.
Lần này thì cả bà ngoại cũng buồn, bà ngoại sợ thằng cháu theo đuổi tận cùng hiện thực hóa ước mơ đó, nó sẽ làm ảnh hưởng, biến chuyển số phận của hàng trăm, triệu con người. Một chữ ký, một cái phẩy tay, một lời nói lơ đãng vô tình, một sơ sót nhỏ của nó cũng làm vất vơ ngơ ngác một đám đông. Họ sướng thì không nói gì, nhưng nhiều khi thằng cháu bà làm họ khổ…
Bà ngoại hy vọng nó lại quên mau, để mà ước mơ giản dị như năm trước.
Ơi hỡi diêu bông…

Tản văn

Nguyễn Ngọc Tư

Ông già hay bưng bình trà ra bộ vạc đặt ở chái sau, ở đó nhiều khi đến nửa ngày. Dáng ngồi như tượng, nếu không có tiếng nước trà rót lỏn xỏn vào cái tách sứt sẹo, thì chỉ có gió hui hút thổi qua mấy cự củi làm bạt đi âm thanh lũ mọt đang nghiến trong cây. Ở đó, ông già đăm đăm ngó về phía nhà xưa, đất cũ. Ở đó, tầm nhìn quang đãng tới mức lổn nhổn bày biện ra trước mắt ông một khu công nghiệp với hệ thống nhà máy giăng giăng khói phía chân trời. Không có rặng cây nào đủ bao bọc lấy vài ảo tưởng, từ khu định cư nắng chang chói này ông già buộc phải chấp nhận một sự thật, chỗ đất ông từng chôn khúc rốn khô của thằng con trai út, giờ đã thành chốt gác tạm vào nhà máy phân đạm đang thi công.

Thằng Út mỗi ngày vài ba lượt lủi thủi mệt mỏi đi ngang qua đó. Nó chưa bao giờ xao động vì cái cuống rốn đã hóa thành đất của mình, nhưng lúc qua cỗng nó thường hoang mang, không biết ngày mai có còn quay trở lại đây, không biết ngày mai mình có bị sa thải, bị thay thế bởi những công nhân đến từ bên kia biên giới xa xôi.

Ông già lớn tiếng nói không lo, người ta đã hứa rồi, sẽ kiếm công ăn chuyện làm cho tụi trẻ bây. Người ta làm lớn nên nói đâu chắc đó. Mình đã bứng nhà cửa, bứng mồ mả ông bà đi cho người ta làm công nghiệp thì cũng được đền đáp xứng đáng chớ. Ông oang oang, cố lớn tiếng cũng là để trấn an chính mình. Mỗi khi thấy mới xế trưa mà thấy thằng Út về, ông cũng thót tim, cứ lo nó bị đuổi việc.

Nghe kể lại, hồi thôi nôi thằng Út, nó hí hửng chụp lấy cục đất lúc vợ ông đặt trước mặt nó cái rổ đựng lỉnh kỉnh viết, kéo, lược, gương… Phải nghe kể lại, vì hôm đó ông vẫn phải đi gặt mớ lúa bị gió giông giật sập chìm ngoi ngóp trong nước. Lúc đó, ông đã tuyệt vọng nghĩ, những đứa con mình rồi cũng suốt đời quần quật đồng áng như mình.

Đời tụi nó phải được thay đổi. Cái ý nghĩ đó lúc nào ám ảnh sôi réo trong đầu ông. Nên ông già bồi hồi biết bao nhiêu khi nghe tin về khu công nghiệp sắp được xây trên vùng đồng rừng heo hút quê mình. Họp dân lần nào ông cũng hỏi, có công ăn chuyện làm cho bầy trẻ không? Lời hứa chắc nụi của người ta làm ông chấp nhận rời đi mà không lưỡng lự. Hôm dọn nhà về chỗ định cư mới, ông gần như khóc, thằng con lớn hỏi tại làm sao, ông cố gượng nói bị kiến nẻ nẻ đau quá để mấy đứa con không phải cảm thấy mắc nợ ông chút nước mắt này.

Để con đừng vì thương ông mà do dự trước cơ hội đổi đời. Lúc đó, ông nghĩ vậy, nên dù có luyến tiếc đất đai vườn tược, dù nước mắt đong vài chén nữa, ông vẫn cắn răng nhổ cái bàn thông thiên mang về cặm ở nhà mới nằm trong xóm mới. Buổi tối mang nhang ra thắp giữa trời, ông hình dung cảnh như vầy : mấy đứa con về nhà vào buổi chiều, trong bộ đồ công nhân lấm lem dầu mỡ, tụi nó kêu, ba ơi, con mới lãnh lương, mấy ba con mình bắt con gà nấu cháo nhậu chơi. Ông suýt cười thành tiếng, trong tưởng tượng thôi mà mấy chữ “lãnh lương” nghe lạ lùng và xao động lắm rồi. Một nông dân sống sắp hết đời chưa bao giờ được nghe.

Lúc đó ông không biết không có cơ hội dành cho đám trẻ vốn vừa học vừa ra đồng, nên cố gắng lắm thì trình độ cũng vừa xong trung học. Những nhà máy công nghệ cao không có chỗ dành cho chúng. Những cánh cổng rốt cuộc chỉ chào đón người đến từ quê xứ khác.

Ông sắm xe cho thằng con lớn chạy như cả xóm chạy xe ôm. Con gái đi bưng bê cho quán cơm gần nhà máy. Thằng Út xin được một chân phụ hồ trong chuỗi nhà máy đang xây dựng. Mừng còn ấm thì đã bị lo âu hắt vào mặt, khi ở công trường, trong quán nước hay trên đường ngày càng có nhiều người mới đến. Họ không hơn đám thanh niên bản xứ này cái tay cái chân con mắt nào, cũng gân guốc, chai sạn, chỉ khác ở thứ ngôn ngữ dị biệt. Nghe không hiểu, nhưng khi họ cất tiếng lao xao, thằng Út thấy như cứa, như cắt, xót xa trong ruột. Cô gái làng thằng Út thương đã chắt nụ cười sang cho một người khác, chỉ vì anh ta đến từ đất nước của Tiểu Yến Tử, của vua Càn Long, của Võ Mỵ Nương… sớm chiều phát trên truyền hình.

Thằng Út về nhà buồn tênh nằm võng nghêu ngao hát, “thương em tôi tìm được lá diêu bông, sao em nỡ vội lấy chồng…”. Không phải tự nhiên mà bài thơ, bài hát về thứ lá sắc sắc không không đó làm người ta yêu thích. Đời người dường như ai cũng có một lần thương yêu ngu ngơ, cũng tin yêu trong veo, cũng gặp những thề hẹn mơ hồ, cũng nhận những lời hứa ỡm ờ, lơ đãng, cũng gặp những phũ phàng…

Ông già, ngồi trong cái chái chất củi được cất từ cây lá nhà xưa, vẫn đượm mùi khói xưa, nghe bài hát bỗng buồn không kể xiết, cầm như cha con ông đã bị phản bội rồi.


Đám đông nhỏ bé…

Nguyễn Ngọc Tư


Nhiều khi ớn chữ, tôi mua mấy tạp chí phụ nữ, thời trang về để… coi hình. Hững hờ để từng trang trôi qua tay mình, khuây khỏa được chút kia thì thương vương nỗi nọ. Mình không thể có trang sức này, quần áo này, bộ mỹ phẩm này hay cái túi xách, đôi giày này. Hoặc chúng quá hào nhoáng chỉ để trình diễn hoặc quá sang trọng, quý phái hoặc chúng quá đắt tiền. Giống như một mối tình không mơ mộng và hy vọng. Tôi nhớ tới má cùng chị, nghĩ, nếu cố gắng, mình cũng mua được một vài thứ bày biện trong tạp chí này để tặng hai người phụ nữ mình thương.

Và má tôi sẽ xòe bàn tay chai sần quắt queo của mình, để quy đổi giá tiền cái túi xách ra… lúa, ra mấy giồng cải, bàng hoàng biết nó giá trị hơn cả một vụ mùa. Chị tôi chắc cũng bẽ bàng, chẳng có đôi giày nào hợp với đôi chân héo thường xuyên dầm trong nước, chẳng có bộ trang phục nào chị mặc để bưng bê trong cái quán giải khát nhỏ xập xệ bên đường. Chưa kể nội dung, chỉ giá bìa thôi, tạp chí đã là một thứ xa xỉ, với đám đông kiếm sống vất vả, tảo tần như má, chị tôi.

Nhưng những tạp chí đó vẫn được người ta yêu thích. Những món hàng tinh tế, sang trọng, đắt đỏ và xa hoa vẫn được người ta mua. Cuộc sắm sửa của họ bình thản và nhàn tản như trẻ con mua viên kẹo, như tôi mua tờ báo, không một chút thắt lòng nào. Họ ít, nhưng là số-ít-gì-cũng-có.

Vài lần trong đời, tôi cũng đứng về phía số ít đó, nên sau này không còn cực đoan quay quắt khi nhìn những cái sân tennis của huyện lỵ nghèo. Tập thở đều khi qua những cao ốc sang trọng những resort thơ mộng, giữ nhịp tim không đổi khi đứng trước miên man cỏ mượt sân golf. Tự nhủ, mình chẳng có lỗi gì.

Tôi thật chẳng lỗi gì với bầy trẻ xóm chài kia, dù chúng không được vào cái bãi cát tuyệt đẹp mà tôi đứng ngắm biển chiều. Chỗ này ngày xưa, trước khi trở thành nơi nghỉ dưỡng cao cấp, đám trẻ đó đã từng chạy chơi. Và đứng ngoài rào, dì tôi sẽ không oán giận nếu tình cờ nhìn thấy đứa cháu ruột mình xênh xang trong một sân golf, nơi chỉ vài năm trước là mảnh ruộng của dì, cho đến một ngày dì bị bứt lìa đi, cỏ thay màu xanh của lúa. Không vì những điều như thế này mà người ta thôi sống và tận hưởng cuộc sống. Sáng nay tôi vẫn phải la cà quán xá dù ở miền quê xa xôi, bà ngoại tôi lụm cụm xách vài con tôm sú ra chợ xã bán, đổi chút tiền còm.

Cũng đành, tôi đang cố rời đi nhưng những người thân tôi vẫn ở lại giữa đám-đông-nhỏ-bé. Cố cân nhắc trong mớ vốn liếng tiếng Việt của mình, tôi tìm được một cụm từ vụng về, cũng giống như mọi người vẫn đang xốc xáo từ điển để chọn những chữ thật dịu dàng cho số đông thương khó này, để lẩn tránh không phải dùng hai từ “tầng lớp…”.

Những chuyên san phụ nữ và thời trang, chiếc Rolls-Royce, hay những sân golf là thí dụ. Chúng hiện diện, phát triển để chờ đợi người ta gọi đúng tên những khoảng cách đang ngày càng xa biệt.

Chỉ là đôi lần chạnh nghĩ, một người viết ít nhiều đa cảm như mình mà giờ giả vờ thản nhiên rời bỏ đám đông nhỏ bé, thì những người mang chức phận, thường rất lạnh lùng và tỉnh táo, họ đứng về phía số-ít-gì- cũng-có, cũng là lẽ đương nhiên. Và đương nhiên, đám đông bị quên lãng, bị đẩy dạt đến những bìa trời. Tan tác.

Họ có làm sao thì cũng không phải lỗi của tôi. Ừ, nào phải lỗi của tôi. Không phải đâu…
Xóm cũ

Nguyễn Ngọc Tư


Những gương mặt người. Những nóc nhà thưa. Những cây cầu khỉ. Mỗi khi nhớ về xóm cũ, hiện lên ngay trong đầu cái phác họa giản dị đó, cùng những cánh đồng, mảnh vườn xanh xanh đậm nhạt bọc quanh. Một con đường khấp khểnh băng qua xóm, bên lối đi lau sậy chập chờn.

Và hai cái ti vi trắng đen, niềm vui, nỗi xao xuyến không tan của đám trẻ con nghèo, khi những rạ rơm, ao đìa, những trò nghịch trèo cây hái trái đã tạm khép cùng ánh sáng mặt trời. Chỉ còn đêm dài lắm. Nhiều lúc ngó mưa sụt sùi nhớ cũng mưa vầy, cũng những tối nhão ướt như vầy, mình ngoi ngóp trùm cao su đi coi ti vi. Lội bộ cũng xa, mò mẫm trong màu trời nhập nhoạng mà hớn hở như đi hội. Tối nào tụi trẻ con trong xóm tối nào cũng xúm lại hai nhà giàu sang nhất xóm (vì có… ti vi), dán mặt vào cái ánh sáng trắng lung linh kỳ ảo. Có đứa cứ hết chương trình hoạt họa là ngủ khò, ngáy pho pho mà không đêm nào vắng. Vài đứa khác mơ mộng thật thà, cứ khóc òa khi vở cải lương tới khúc đoạn trường, cô Nguyệt bồng con tới nhà người yêu cũ. Đường về khuya lơ khuya lắc, bạn bè lần lượt tới nhà, cứ qua mỗi ánh đèn là vắng đi đôi bước chân. Rồi chỉ còn lại một mình, đi qua những lùm trâm bầu, lùm tre hình thù kỳ dị bên đường, tưởng tượng bao nhiêu chuyện ma quái, đêm nào cũng quắn đuôi bỏ chạy. Vậy rồi chiều lại, vẫn xao xuyến lặn lội đi hẹn hò với cái… ti vi.

Nên xóm thêm một nóc nhà, trẻ con mừng hơn cả. Đường bớt vắng, thêm một ngọn đèn, thêm bạn, cùng những điều lạ lẫm. Dì Tư sinh tố quảy thùng kem về xóm, với bảy đứa con gái môi đỏ tóc dài, mớ tiếng Huế rặt của nhà dì như mở ra một chân trời mới, cả xóm mừng rơn khi biết o đi mô, có nghĩ cô đi đâu vậy. Trưa nào dì Tư cũng quảy thùng kem ngang qua xóm, dì gầy, đi hai hàng, cảm giác nếu chân dì mà thẳng thớm, thì sức nặng của thùng kem sẽ khiến dì té nghiêng té ngửa. Cứ xà bát hai hàng, dì rung chuông , sau tiếng chuông rung là tiếng chó sủa giòn tan, tiếng người lớn nạt mấy con chó, tiếng trẻ con xin tiền. Nghe như tiếng chuông của dì chọc nguậy vào một cái chảo âm thanh, khuấy nó lên, đảo đều rộn rã cho tới khi dì đi khuất.

Thêm một tiếng cười, lau sậy cũng bớt dày, đi vắng ba ngày đã thấy bên đường cặm một ngôi nhà mới, thấp tủn. Đất ven đường chỉ cỏ hoang mọc chen trong đá, bỗng thành cái rẫy dưa, bắp xanh rì. Ông Sáu Rẫy lại mở ra chân trời khác, làm bọn trẻ xóm nghèo há hốc với Bến Te, con cá zô bỏ vô zổ, nó nhảy nghe zột zẹt. Bà Sáu thì điếc đát, hỏi chiều nay ăn cơm với gì, bà nói zẫy không trồng khoai mì. Hỏi bà ơi bồ ngót bao nhiêu một bó, bà nói ừ, nhà có nuôi bốn con chó. Ông Sáu cuốc đất ngoài hè, nói vọng vô, “cái bà này, điếc mà hay nói…”, bà ngỏn ngoẻn cười, “tối đâu mà tối, còn mặt tời mà…”.

Ngày ông Sáu tới, rồi lại nhổ chòi tha vợ con về xứ, cả xóm vẫn chỉ gọi ông, nhớ ông vận theo nghề rẫy mà gia đình ông gắn bó. Như tên dì Tư gắn với thùng sinh tố, cà rem. Như quên luôn tên thật của bà Tám Bánh Cam, ông Mười Cốm Bắp. Gọi tên một người xóm cũ là gọi cả hình ảnh bàn chân chai, vết sẹo dài, bàn tay khô, màu da sạm… và tên những đứa trẻ đã theo cha mẹ đến đây, kết bạn kết bè. Bỗng một sáng vài đứa đi mất, mù mịt như chưa từng có ở trên đời.

Cuộc đời lại cặm vào mảnh đất bỏ trống một ngôi nhà mới, những đứa trẻ mới, một số phận mới. Người đàn ông đi chân giả lúc nào cũng bước cắm cúi, thằng bé con chú vác cái bụng to vèo đằng trước, chắc là nó ăn đất quá nhiều. Chiều đi ngang qua gặp nó đang gặm mớ rễ tranh - ba má nó đào bật lên để lên giồng gieo cải. Nó chìa tay ra, khoe “ngọt lắm!”, sau này nhớ lại, mắc cười, trẻ con có thể tiệc tùng kết bạn từ mớ… rễ cây.

Người lớn chậm rãi hơn, họ sẽ rề lại hỏi cư dân mới của xóm, anh thứ mấy, quê quán ở đâu mà tới đây, và ngó cái chân giả cứng đờ, hỏi anh bị thương ở trận nào. Phước Long hả ? Tui cũng bị cái thẹo bự này, ngay trận đó. Câu chuyện bỗng trở nên ngượng ngập, họ đã từng cầm súng đối mặt nhau, cùng nhau mang về những vết thương, vết thấy được đã lành, vết lòng vẫn rịn máu.

Nhưng người lớn biết cách chữa lành, bằng những điều đơn giản. Đem cho tô chè đậu xanh, nửa mục măng tre, phụ giúp nhau lợp mái nhà, cất chòi vó, sẻ nhau vài gánh nước mưa uống trong mùa nắng, mớ củi chụm qua mùa mưa. Ba của thằng Rễ Tranh đã thôi giấu mình trong lầm lũi, ánh mắt không còn ủ dột cặm xuống chân. Chiều chiều, ông còn vui vẻ tấp tểnh qua bên xóm uống trà.

Con đường xóm lông chông đá, lổn nhổn những ổ gà, hai mươi năm qua với tôi, vẫn là con đường đẹp nhất. Nó đưa đón những bàn chân tần tảo, nó chứng kiến những tấm lòng thơm thảo. Thỉnh thoảng tôi vẫn để nhớ dắt tay về chỗ ngồi yêu thích, vắt vẻo trên ngọn cây cao, ở đó, tôi thấy cô bé bưng dĩa bánh lá mít chan nước cốt dừa đang đi dưới mưa lất phất, tay nó cầm cái nón nhỏ lóng ngóng che đầu thì sợ bánh ướt, che bánh thì ướt đầu, cuối cùng, nó che nửa này nửa kia. Đi một đỗi đường, cô gặp một thằng bé khác đang đứng chơi, cô sượng sùng nói, “má tao cho má mầy bánh”. Ở đó, tôi nhìn thấy chị hai mình, lúp xúp đội thúng rau muống, ngò gai đi chợ sớm mai, tôi nhận biết từng người quen trong xóm, qua nón, áo, qua cái dáng đi cắm cúi, xấp xãi, hớt hãi, tất tả, hay thong thả…

Họ mới là linh hồn của xóm. Sau này đi đây đó, đôi khi gặp lại vài khung cảnh y hệt như xóm-của-mình, nhưng xúc động chỉ thoáng qua rồi tạnh, bởi không có những gương mặt, dáng đi quen.

Bây giờ, xóm còn nguyên chỗ cũ, nhà tôi vẫn còn chỗ cũ, chỉ láng giềng không còn. Người đã dời đi tản mác. Người vẫn ở đó nhưng không phải là người của những năm xưa. Đôi lúc trên đường về, qua những ngôi nhà cao tầng kín cửa, qua những cãi cọ đôi co từng tấc đất, qua những bon chen háy nguýt, bỗng nghĩ, nơi đây từng có những người đàn bà, lúc xay bột làm bánh, họ không quên đong thêm vùa gạo để thơm thảo với láng giềng.

Bây giờ họ đã về đâu?!

No comments:

Post a Comment