Sunday, March 6, 2011

GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ QUA TẬP TRUYỆN “CÁNH ĐỒNG BẤT TẬN”

GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT
CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ QUA TẬP TRUYỆN
“CÁNH ĐỒNG BẤT TẬN”
Nguyễn Thị Hoa

Nguyễn Ngọc Tư “đôi lúc ví văn của mình như quả sầu riêng, người thích thì nói nó thơm, người không thích thì chê rằng thối”. Người ta bàn tán. Thẩm bình. Suy ngẫm. Nghi ngờ. Khen chê. Bình phẩm…Song dù khen hay chê, nghi ngờ hay tán thưởng, độc giả đều nhận ra một Nguyễn Ngọc Tư rất riêng, rất lạ trong văn học Việt Nam đương đại. Không ồn ào, chao chát như Đỗ Hoàng Diệu; không lạnh lùng, sâu cay như Phan Thị Vàng Anh; … Nguyễn Ngọc Tư đã tạo dựng cho mình một thế giới riêng ̶ thế giới đặc quánh chất miệt vườn Nam Bộ. Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ phác hoạ ấn tượng chung về giọng điệu trần thuật của Nguyễn Ngọc Tư qua tập truyện “Cánh đồng bất tận”.
““Giọng điệu”(tiếng Anh: tone) là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm,…”. “Giọng điệu là một yếu tố đặc trưng của hình tượng tác giả trong tác phẩm.Nếu như trong đời sống, ta thường chỉ nghe giọng nói nhận ra con người thì trong văn học, giọng điệu giúp chúng ta nhận ra tác giả”. Người đọc có thể nhận thấy tất cả chiều sâu tư tưởng thái độ, vị thế, phong cách, tài năng cũng như sở trường ngôn ngữ, cảm hứng sáng tạo của người nghệ sĩ thông qua giọng điệu. Nền tảng của giọng điệu là cảm hứng chủ đạo của nhà văn. Khảo sát tập truyện “Cánh đồng bất tận”, chúng tôi nhận thấy giọng điệu trần thuật của Nguyễn Ngọc Tư rất đa dạng và độc đáo.
2.1. Ấn tượng đầu tiên khi đọc truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư là giọng điệu dân dã mộc mạc trong những trang văn tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh cuộc sống sinh hoạt của người dân Nam Bộ. Đó là những trang viết về dòng sông như một người bạn tâm tình“Đêm sông trăng, ngồi trên nhà có thể nhìn thấy một dòng chảy líu ríu, sáng loáng. Ban đêm, con sông trước nhà tôi không ngủ, nó thức theo những chiếc tàu rầm rì chảy qua, theo tiếng mái chèo quẩy chách bụp rất đều”. Câu văn êm ả như ru, những dòng sông cuộc đời, những dòng sông thời gian thấm thía tình người, niềm đau và nỗi buồn. Những dòng sông-thơ cứ thênh thang chảy mãi từ ngôn ngữ rất riêng, rất trong trẻo, độc đáo và đa âm sắc của Nguyễn Ngọc Tư. Giọng điệu dân dã, mộc mạc này xuất hiện với tần số cao trong truyện ngắn của chị, đôi khi lắng đọng ở những câu văn kể hòa trộn với tả “Bây giờ, gió chướng non xập xòe trên khắp cánh đồng Bất Tận. Ven các bờ ruộng, bông cỏ mực như những điền viền nhỏ liu riu làm dịu lại mảng rực vàng của lúa”. Câu văn có chất thơ, nó là khúc nhạc lòng thiên nhiên Nam Bộ dân dã, tự nhiên nhưng cũng đầy vẻ quyến rũ vút lên từ những trang văn nồng nàn tình người.
Giọng điệu dân dã mộc mạc này giúp Nguyễn Ngọc Tư trần thuật một cách dễ dàng với lời văn gần với văn nói, ở đó có sự mộc mạc, dung dị khi nói về cuộc sống vất vả của người dân Nam Bộ. Sự thiếu thốn về vật chất, sự khắc nghiệt của thiên nhiên được trải ra bằng chất giọng đặc sệt giọng quê Nam Bộ “Buổi chiều đi làm mướn về, họ tụt xuống ao tắm táp thứ nước chua lét vì phèn, rồi xối lại đúng hai gàu. Nước vo cơm dùng để rửa rau, rửa rau xong dành rửa cá”. Cảnh sắc Nam Bộ tràn vào trong tác phẩm cứ gần gũi, tự nhiên như chính vùng đất ấy “Cù lao Mút Cà Tha nằm gần cuối sông Dài, trên nó một chút có một nhánh sông khác rẽ về phía mặt trời, rộn rịp được đoạn đó rồi thôi”.
Viết về cuộc sống sinh hoạt đời thường gần gũi của người dân Nam Bộ, Nguyễn Ngọc Tư đã chọn cho mình giọng điệu dân dã, mộc mạc cứ tự nhiên chảy ra từ vốn sống của nhà văn, gắn bó với mảnh đất Nam Bộ cùng với niềm đồng cảm, chia sẻ. Giọng mộc mạc, dân dã ấy xuất phát từ cảm hứng của nhà văn về cuộc sống và số phận của những “nhân vật nhỏ bé”- những người nông dân nhếch nhác bùn đất và những người nghệ sỹ nghèo khổ, bất hạnh nhưng giàu lòng yêu nghề. Giọng điệu ấy được chưng cất bằng mật độ đậm đặc của ngôn ngữ Nam Bộ (như từ chỉ địa hình sản vật gắn với một vùng sông nước, cử chỉ hoạt động, sinh hoạt, cách xưng gọi mang sắc thái Nam Bộ, tình thái từ có màu sắc Nam Bộ, cách diễn đạt kiểu Nam Bộ…) và sự ùa vào của khẩu ngữ. Điều này góp phần tạo bối cảnh cho truyện đậm đặc chất Nam Bộ từ cảnh sắc thiên nhiên tới cuộc sống sinh hoạt và tạo cho Nguyễn Ngọc Tư một phong cách trần thuật độc đáo. Người ta gọi Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn của miệt vườn Nam Bộ.
2.2. Nổi bật nhất trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư là giọng điệu đôn hậu, ấm áp, chân tình. Đây là giọng điệu chủ đạo, là “chất quặng” của Nguyễn Ngọc Tư. Giọng điệu này thể hiện rất rõ một tình cảm thiết tha, một tấm lòng đôn hậu, sự thông cảm sâu sắc với những số phận éo le, bất hạnh của nhà văn. Đó là những trang văn viết về cuộc sống hẩm hiu, duyên phận éo le của Xuyến trong “Duyên phận so le”: “Bữa kia mới ác, thấy Bi lon ton chơi một mình ngoài sân, bỗng không kìm được, Xuyến xốc Bi lên chạy một đoạn rồi thất thần dừng sững lại, kêu lên hai tiếng, trời ơi, mình làm khổ nó rồi, mình nghèo như vầy…”. Cái giọng đôn hậu pha lẫn chút ngậm ngùi ấy xuất phát từ tấm lòng nhân hậu, chan chứa yêu thương, thấu hiểu, đồng cảm với nỗi đau của Xuyến; hay có lúc nhà văn hướng niềm xót thương, âu yếm, hi vọng vào mối tình buồn “Thêm một mùa gió bấc nữa, chị Hảo vẫn chưa lấy chồng. Ai cũng hỏi chị chờ ai vậy cà. Chị bảo…chờ người ta thôi buồn khi đưa chốt qua sông”…
“Nguyễn Ngọc Tư giỏi ở chỗ cái tưởng không có gì mà chị cũng viết được, lại viết rất có duyên, rất nhân hậu”. Giọng văn của chị lan tỏa, sưởi ấm tâm hồn, tâm trạng chồng chéo nhiều ký ức tạt ngang trang viết, chợt trở nên sinh động, có hồn dù tác giả không mô tả gì nhiều “Tôi đã từng trở ngược về những nơi đó theo cách của tôi, bằng mường tượng…Và hình ảnh đó thật đến nỗi, tôi bất giác lùi lại vì một đứa trẻ đang nhìn trân trối vào mình, ngạo nghễ”. Giọng điệu đôn hậu ấm áp, ân tình ấy góp phần vào việc lột tả, khám phá những suy tư, trăn trở, dằn vặt trong tâm hồn nhân vật “Đâu có. Có mà, nước mắt anh rớt lên con tướng này nè, đó, nó ướt nhẹp đó thấy chưa. Hết cười lớn, nói lớn, “ừ, tại tao thương con chốt. Qua sông là không mong về…”. Câu văn như tức tưởi, dòng cảm xúc lắng vào trong thành niềm đau. Cái thật thà, chất phác, song cũng sâu nặng nghĩa tình của người dân Nam Bộ được dệt nên bởi giọng điệu ấm áp, chan chứa yêu thương.
Giọng điệu ấy xuất phát từ chất Nam Bộ- nhân hậu và sâu sắc của nhà văn, cũng bắt nguồn từ chính những người nông dân và người nghệ sỹ với số phận bất hạnh, hẩm hiu nhưng giàu tình nghĩa ở miền Tây Nam Bộ. Đó là những đoạn mạch sự kiện lắng xuống, nhường chỗ cho cảm xúc, hoài niệm, cho nỗi lòng tràn về trang sách “Ra tới lu nước bà tựa người vào đó, mặt soi xuống nước, bật khóc. Ước gì nước đừng trong như vậy để khỏi phát hiện một nhan sắc tàn phai”. Những mảnh đời bất hạnh, những mối tình già, những tình cảnh éo le đều được bắt sóng bởi giọng điệu hồn hậu, chân thành. Có khi là nỗi đau thầm của một người cha mất con (“Cải ơi”), có khi là tiếng nức nở của những “Duyên phận so le”, hay “Cái nhìn khắc khoải” đợi chờ, nỗi đau lặng ngắt trong “Một trái tim khô”, sự tàn phai, héo úa trong “Cuối mùa nhan sắc”, chảy thành “Dòng nhớ” giữa “Biển người mênh mông”…song tất cả đều chung nhau “Cánh đồng bất tận”… yêu thương và tình nghĩa. Chỗ lắng sâu của những trang văn này là dòng cảm xúc tuôn chảy từ trái tim nhân hậu, trăn trở với cuộc đời và con người của nhà văn, là những giọt nước mắt trong trẻo và đẹp đẽ gọi dậy nơi người đọc sau mỗi truyện ngắn.
Cái hay của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư là sự đan xen, hòa trộn giữa giọng văn đôn hậu, tình nghĩa với ngôn ngữ đối thoại tưng tửng, hóm hỉnh. Những lời thoại được chen ngang qua lời kể khó mà tách biệt được đây là kể hay tả, lời đối thoại cắt ngang trong lời độc thoại nội tâm làm lời văn sâu sắc và ám ảnh “Ông Sáu ngừng lại, lấy tay quệt nước mắt, “cái con Bìm Bịp quỷ nầy nó cũng bỏ qua mấy lần nhưng ngủ một đêm trên đọt dừa nó lại quay về. Sao cổ không quay lại?”(“Biển người mênh mông”). Câu văn như một câu hỏi đang trút ra nỗi lòng ngổn ngang trăm mối, đang đay nghiến, giày vò nhưng cũng chất chứa yêu thương.
“Giọng văn của chị càng về sau càng đằm địa mà góc cạnh hơn, mà “chắc như cua gạch”. Giọng văn ấy biết mềm mại hóa nỗi đau khổ bởi đó như một sự biến chuyển của trong cá thể để nhận thức mình”. Có ý kiến cho rằng, giọng văn của Nguyễn Ngọc Tư trong “Cánh đồng bất tận” là giọng lạnh lùng, khinh bạc, chỉ toàn hận thù và báo ứng. Song không phải như vậy. Vẫn là giọng ấm áp, đôn hậu, chân tình nhưng ở “Cánh đồng bất tận” đã có sự pha trộn với giọng điệu day dứt, trăn trở “Sau giấc ngủ dài, bản năng nó không trở dậy. Trái tim nó chỉ là hòn than nhỏ, không thể hâm nóng lại cơ thể đã ngã màu tro. Sợi dây xúc cảm như lối đi lâu lắm không người lui tới, cỏ dại mọc bít mất, đường đứt, cầu gẫy…”. Giọng văn có vẻ dửng dưng nhưng ẩn chứa nỗi niềm day dứt, oằn mình trăn trở của nhà văn “Đói và khát, nhưng chị còn sợ đau hơn. Người ta đã đổ keo dán sắt vào cửa mình của chị…”. Cái “đáy” của sự sống trong văn Nguyễn Ngọc Tư không phải là cái chao chát, dửng dưng mà là giọng điệu đôn hậu, ấm áp, luôn trăn trở suy tư và ẩn chứa nỗi niềm yêu thương “Đàn bà, với cha, càng trải nghiệm càng chán chường. Càng gieo rắc càng đau. Vết thương cũ mở miệng toang hoác, không da thịt nào có thể lấp đầy”. Viết về vấn đề trần tục, Nguyễn Ngọc Tư không“chài” khán giả bằng công nghệ copy lại những cảm giác khoái cảm mà bằng chính những đối thoại nội tâm độc đáo, với giọng điệu trần thuật đôn hậu, chân tình “Tôi mong ông đừng quay lại…sau đó thử chống cự một lần rồi thôi. Sự vùng vẫy chỉ kích thích lòng ham muốn”. Giọng văn tỉnh táo rất mực giằng xé với giọng đôn hậu, ấm áp giúp nhà văn lột tả rất thực, thực từ cảm giác, xúc giác lẫn bản năng tự vệ của Nương trong hoàn cảnh éo le nhất của số phận.
Pha lẫn với giọng điệu ấm áp, đôn hậu, chân tình là giọng điệu khắc khoải xót thương cùng với cái nhìn cảm thông, đồng cảm, chia sẻ với những mảnh đời bất hạnh, những số phận éo le. Đây là chất keo trong ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư, chất keo kết dính độc giả với truyện ngắn của chị.
2.3. Giọng điệu trữ tình sâu lắng cũng là nét nổi bật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Không ồn ào, phô diễn trên bề mặt, giọng văn của chị dung dị mà sâu lắng, tỏa ra hai nẻo: vừa xôn xao buồn, bâng khuâng xao xuyến nhẹ nhàng lắng đọng, vừa trăn trở suy tư và đầy tâm trạng. Nhân vật trong truyện ngắn của chị phần lớn là những người nông dân thật thà, chất phác, tình nghĩa; những người nghệ sỹ tha thiết với nghề nhưng tất cả đều chung nhau một điểm, mỗi nhân vật mang trong mình niềm “uẩn khúc” riêng.
Giọng văn của chị vừa trữ tình nhẹ nhàng, vừa đầy tâm trạng suy tư được gọi ra bằng hàng loạt câu văn buông lơi, mềm mại “Và chiếc ghe, cánh đồng, dòng sông thênh thang mãi…”. Câu văn mang chất thơ, như khúc nhạc lòng buông ra mênh mang, mênh mang! Trong truyện ngắn của chị, chúng ta bắt gặp hàng loạt câu văn bỏ lửng, hàng loạt dấu “…” giữa những trang văn như tâm trạng ngổn ngang thổn thức của nhà văn trước cảnh đời và tình người “Với ký ức trống trơn, họ phơi phới ra đi, còn mình thì nhớ hoài, đau hoài…”. Hàng loạt câu hỏi buông ra như tiếng kêu thống thiết trước cuộc đời đa đoan “Có ai chờ chúng tôi trên những cánh đồng khơi?”; “Đêm nay tôi sao thế này? Vì nhìn thấy niềm hy vọng ư? Và tôi ngủ trong nỗi xốn xang”; hay là sự vỡ nhẽ trước cuộc sống “Mà, đã ngấm, đã xé toang lòng với nỗi đau chia cắt rồi chưa sợ sao?”. Nét nổi bật ở chất giọng này là những câu văn kết thúc tác phẩm, song lại mở ra một chân trời cảm xúc, suy tư nơi độc giả “Nhưng nói để làm gì, ta?”; hay “ Họ suy nghĩ…”; “Biển người thì mênh mông vậy…”; “Ai mà biết. Mùa này gió bấc hiu hiu lại về…”; “Rồi họ, và cả má tôi đều bảo tôi khóc đi…”. Những câu văn ngắn, buông lơi như tiếng thở nhẹ khơi gợi dòng suy nghĩ bâng quơ cho người đọc.
Ở hầu hết truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư (11/14 truyện), đều có phần đề từ. Đây là những lời thao thiết, là dòng cảm xúc của nhà văn trước cuộc đời và tình người; là lời “giới thiệu hấp dẫn” tạo tâm thế chờ đợi cho độc giả bước vào câu chuyện. Chúng ta còn bắt gặp giọng văn trữ tình sâu lắng trong sự lặp lại của cấp độ từ ngữ trong truyện ngắn của chị (hình ảnh “dòng sông”; “Cánh đồng”; “nỗi nhớ” hay những “giọt nước mắt”…). Nhờ chất giọng trữ tình sâu lắng, bàng bạc, suy tư này mà văn của Nguyễn Ngọc Tư rất giàu chất thơ và dễ xao động lòng người…
Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư rất đa dạng, có giọng dân dã, mộc mạc; có giọng đôn hậu, chân tình; có giọng khắc khoải xót thương; có giọng hóm hỉnh; có giọng trữ tình sâu lắng… Điều này, góp phần tạo nên phong cách trần thuật độc đáo của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư - người được mệnh danh là “đặc sản miền Nam” này. Đây cũng là sức hút độc giả trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
Sự độc đáo trong trần thuật giúp độc giả dễ dàng nhận ra Nguyễn Ngọc Tư - “Quả sầu riêng của đời”. Đồng thời nhận diện “giọng điệu trần thuật” của Nguyễn Ngọc Tư là chiếc chìa khóa vẫy gọi người đọc bước vào tác phẩm. Không ồn ào, mãnh liệt thiêu đốt như văn phong Đỗ Hoàng Diệu (tác giả “Bóng đè”); văn Nguyễn Ngọc Tư dung dị mà thấu đáo, thẩm thấu lắng sâu vào bên trong với dòng cảm xúc suy tư bất tận nhưng cũng không kém phần tinh tế và nhạy cảm trước những biến thái của cuộc đời. Nhà văn Nguyên Ngọc đánh giá “Mấy năm nay chúng ta đều rất thích Nguyễn Ngọc Tư. Cô ấy như một cái cây tự nhiên mọc lên giữa rừng tràm hay rừng đước Nam Bộ vậy, tươi tắn lạ thường, đem đến cho văn học một luồng gió mát rợi, tinh tế mà chân chất, chân chất mà tinh tế, đặc biệt “Nam Bộ” một cách như không, chẳng cần chút cố gắng nào như các tác giả Nam Bộ đi trước…”. Dòng văn học mới đang xôn xao, chấn động với sự “quẫy mình” của hàng loạt cây bút như: Lê Đạt (với“Bóng chữ”); Đỗ Hoàng Diệu(với“Bóng đè”); Vi Thùy Linh(với“Đồng Tử”,“Thơ Linh”,“Khát”); Phan Huyền Thư (với “Nằm nghiêng”); Nguyễn Ngọc Thuần…và Nguyễn Ngọc Tư. Nhưng phía trước các cây bút trẻ vẫn còn rất nhiều thử thách, có vượt qua để “đè bóng”, để khẳng định mình hay không, điều đó còn phụ thuộc vào thời gian, vào bản lĩnh của các cây bút trẻ và sự thẩm bình của độc giả trước những “kết cấu vẫy gọi” đó.
Về tác phẩm GIÓ LẺ của Nguyễn Ngọc Tư


Thử nhận định về
Gió Lẻ sau hiện tượng Cánh Đồng Bất Tận
trong hành trình văn học Nguyễn Ngọc Tư
Để chia sẻ cùng V. và mớm thương yêu cho mầm N. vừa hé nụ

Bùi Đức Hào

Văn học nghệ thuật Việt Nam mấy thập kỷ qua đã có những tác phẩm giá trị, tạo được cảm xúc lớn trong lòng người thưởng ngoạn.Nhưng nhìn chung, trừ vài ngoại lệ hiếm hoi trong âm nhạc và thi ca, phần đông các sáng tác - kể cả của những khuôn mặt được xem như “đại thụ” - là không đều tay, thiếu dài hơi hoặc lập lại chính mình.
Riêng trong lãnh vực văn học, Nguyễn Ngọc Tư là cây bút trẻ được nhanh chóng nhìn nhận tài năng mấy năm gần đây. Nguyễn Ngọc Tư cũng là người đã sớm đặt vấn đề và đã thành công trong việc làm mới, tạo đột phá qua tác phẩm Cánh Đồng Bất Tận, cũng như đang tiếp tục quá trình này - một cách đáng chú ý - qua tập truyện Gió Lẻ.

Dấu ấn Cánh Đồng Bất Tận
Có lẽ sẽ không hoàn toàn vô bổ việc nhắc lại ở đây là, bên cạnh những đón chào nồng nhiệt của giới phê bình và người đọc, Cánh Đồng Bất Tận(CĐBT) đã gặp một số ý kiến phản đối khá…lạ: không phải của giới quan chức - tuyệt nhiên không đáng để được kể ra -, nhưng là từ một bài viết (1) mà tác giả lại là người đã từng chứng tỏ - qua ngòi bút năng nổ và nhiệt tình trông thật đáng quý - sự cởi mở và tha thiết của mình đối với công cuộc phát triển Đất Nước cũng như đối với văn hóa, văn nghệ.
Thế mà tác giả đã hạ bút “buộc tội” CĐBT như thế này:
“…Thành công của một tác phẩm là tạo được dư luận rộng rãi về vấn đề đã nêu (ngoài cách hành văn) trong tác phẩm; nhưng có phải là đó là mức chuẩn duy nhất của bậc thang giá trị văn học, khi nội dung của nó lại cường điệu, không sát nếu không nói là ngược với thực tế dù rằng hư cấu? Tạo ra một hiện tượng văn học mới, thổi cho nó một sức sống trong cảnh văn hoá "đọc" đang bị văn hoá "nghe nhìn" lấn lướt hiện nay là điều đáng trân trọng, làm giàu thêm cho nền văn chương nước nhà nhưng nếu hiện tượng nầy quá xa lạ với tâm sinh lý con người (ở đây là phụ nữ). Khai thác những khía cạnh "sâu kín"của tình dục thì đó không phải là văn học chính thống mà chỉ là những sản phẩm khiêu dâm thời thượng và khuynh hướng đó chẳng mới mẻ gì trong thị trường kích dục thường thấy trên mạng dưới cái tên “truyện người lớn”.
Nhiều cây bút trên thế giới đã trở thành tỷ phú nhờ những tác phẩm kiểu nầy, vì vậy cũng không có gì ngạc nhiên khi CĐBT bán chạy như “tôm tươi”, là loại “hàng lạ” trong một xã hội còn lắm điều cấm kỵ, chắc chắn khuynh hướng nầy sẽ được những nhà văn gặp “bế tắc” trong sáng tác khai thác.”
Và vị này còn chua thêm:
“Hiện nay ở Việt Nam, xuất hiện một vài nhà văn nữ giới lãng mạn, đi vào ngõ ngách của tâm lý thầm kín của phụ nữ gây được tiếng vang, ồn ào trên văn đàn như Man Nương (Phạm thị Hoài), Bóng đè (Đỗ hoàng Diệu), tuy nhiên nhìn về bề dày thì vẫn còn kém xa Quỳnh Dao (Đài loan), Vệ Tuệ (Trung quốc) hay các nhà văn ở Miền Nam trước đây như Mai Thảo (Để tưởng nhớ mùi hương), Nguyễn thị Hoàng (Vòng tay học trò) … một thời gây sóng gió mặc dù họ không trắng trợn và “lõa lồ” như NNTư. ”
Người ta có thể đánh dấu hỏi là, đằng sau ngòi bút ấy, phải chăng có một ám ảnh bất thường về tính dục trong văn chương, cũng như về sứ mạng muốn tự làm … “ayatollah” Việt Nam từ hải ngoại để mong bảo vệ - một cách lạ lùng và cay cú - cho cái “trong trắng” của môt thứ văn học ngâm formol nào đó.
Đối với độc giả Nguyễn Ngọc Tư thì hoàn toàn không phải vậy.
Từ gần nửa năm nay, người ta nao nức ngóng trông rồi ồ ạt đi xem CĐBT được tái hiện tài tình qua kịch nghệ ngay từ buổi diễn đầu tiên (và hiện lịch diễn vẫn tiếp tục ít nhất đến cuối tháng 7/2009 tại Sài Gòn) với không ít lần “cháy vé”, mặc dù giá vé có tăng đáng kể (2).
Cái xuất thần của Nguyễn Ngọc Tư là đã sáng tạo được một tác phẩm hàng đầu, gây cảm hứng và cả thách thức cho nhiều nghệ sĩ tài ba muốn góp phần tái tạo nó trong kịch nghệ - từ đạo diễn (3-5) đến diễn viên (6-8) - và đã được quần chúng chiêm ngưỡng, sẻ chia, trong một không khí văn nghệ hào hứng, thanh tao và quảng đại hiếm thấy từ nhiều năm nay.
Hãy nghe Cát Vũ (7) ghi lại những cảm nhận về CĐBT và cách nhập vào vai Sương của nghệ sĩ Thanh Thủy, người được xem là “một trong những gương mặt xuất sắc của thế hệ diễn viên kịch nói ở Sài Gòn sau năm 1975”:
“Ngay trong lần "gặp" Sương trong tác phẩm văn học, Thanh Thủy đã có cảm giác như mình bị "mất thăng bằng" bởi sự lung linh trong tâm hồn cô(…)
Chị tìm thấy nơi nhân vật một tình thương - thứ tình thương không thể rờ mó, không mua được bằng tiền nhưng có giá trị thiêng liêng vô bờ và có khả năng đem lại sự sống cho con người (…)
Cô gái ăn sương của chị không phô diễn nét gợi cảm về xác thịt nhưng lại khiến người ta buốt lòng về nỗi thèm khát được sống cho ra một con người. Có lúc tưởng có thể ngất đi trong vô vọng, nhưng rồi bằng niềm tin từ trong sâu thẳm như chút ánh sáng lóe lên phía chân trời xa, cô lại gượng dậy. Cách diễn như rút ruột rút gan của Thanh Thủy cho phép người ta tin rằng Sương thật sự đã trở thành chỗ dựa của hai chị em Nương và Ðiền.
Sương chính là một khát vọng sống của con người.”

Thanh Thủy (vai Sương) và Hoàng Thành (Điền),
đã thật xuất sắc trong CĐBT được diễn trên Sân khấu
5B Võ Văn Tần, Sài Gòn -Ảnh: Gia Tiên
Nếu có ai còn nghi ngờ về cách đón nhận của người Việt Nam đối với CĐBT, xin thử làm một vòng “điểm báo” trên mạng.Và nếu ngại phải đi tìm xa xôi thì có thể ghé mắt đến lời tâm sự sau đây của môt độc giả chắc chắn không thuộc loại chạy theo “hàng lạ” như trong bài viết trên kia (4):
“Tôi đã đọc đi đọc lại truyện ngắn CĐBT của Nguyễn Ngọc Tư - có đọc từng trang văn, ngẫm nghĩ thật kĩ từng con chữ mới thấy được "bức thông điệp thẩm mĩ" mà nhà văn gửi gắm. Mỗi một tình tiết, mỗi một xung đột như một lát cắt của cuộc sống, làm cho tôi cho bạn phải suy ngẫm, để giải đáp câu hỏi mang tính nhân văn cao đẹp về ý nghĩa của cuộc sống? Và liệu những giá trị tốt đẹp của cuộc sống có còn tồn tại và tồn tại với cấp số nhân nếu ta không mở rộng lòng mình,cứ mang mãi nổi oán hận trong lòng? Ý tưởng xây dựng một vở kịch theo nguyên tác CĐBT quả rất độc đáo. Được vậy, chúng ta sẽ được thấy những Nương, những Điền,cô gái điếm... hiển hiện thật sống động! Và như thế, một lần nữa như bao lần khác CĐBT lại tiếp tục cựa quậy trong lòng người đọc hôm nay và mai sau...”
Hầu như không ai là không nắm bắt cái thông điệp trong suốt mà Nguyễn Ngọc Tư đã phát đi ngay ở lời đề từ: "Hạn chế sân hận, trải rộng tình thương - Tỳ kheo VISUDDHÀCÀRAZ”.
Chẳng những chỉ trong nước mà ở ngoài nước, CĐBT cũng bắt đầu được biết đến: Nguyễn Ngọc Tư gặp gỡ công chúng Hàn quốc năm 2007 và đoạt giải thưởng văn học ASEAN 2008.
Sự đánh giá rất cao của nhà xuất bản Hàn (8) đối với CĐBT chắc không thể tách rời với lòng ưu ái đặc biệt họ đã dành cho Nguyễn Ngọc Tư, thể hiện qua ý kiến dưới đây:
“Từ tác phẩm này, chúng ta thấy rằng dòng văn học hiện đại của Việt Nam có thể được chia thành 2 giai đoạn, trước và sau Nguyễn Ngọc Tư.
Qua tiểu thuyết của cô, người ta có thể cảm nhận được sự thay đổi nhận thức về xã hội và cuộc sống. Tác phẩm của Tư có thể sẽ khiến cho các tác phẩm văn học khác tại Việt Nam trở nên lỗi thời. Và các cây viết mới kiểu “Nguyễn Ngọc Tư” sẽ xuất hiện.”
Người ta không nhất thiết phải đi xa đến như thế trong sự thẩm định về tầm vóc và ảnh hưởng của Nguyễn Ngọc Tư. Nhưng ít nhất, không thể bỏ quên những nhận xét về Nguyễn Ngọc Tư của Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Nhà văn VN, Tổng biên tập báo Văn Nghệ - người đã quyết định đăng tải CĐBT lần đầu tiên trên tuần báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn VN tháng 9-2005 (10):
“Thông điệp của Tư ở đây là con người sống phải biết khoan dung và tha thứ. Chỉ có lấy ân báo oán thì con người mới có thể nguôi ngoai được lòng thù hận và nỗi đau, nhờ đó, người sẽ người hơn, sẽ lớn lên. Ông bà mình đã dạy thế, và Tư đã chuyển tải thông điệp đó một cách tài tình, đau đớn (…)
Một thông điệp nữa của Tư là lời cảnh báo về vấn đề gia đình, vấn đề trẻ em trong toàn xã hội: muốn xây dựng một môi trường đạo đức xã hội lành mạnh thì trước hết phải xây dựng môi trường đạo đức ngay trong gia đình mình. Gia đình trong “cánh đồng...” là một gia đình tan vỡ vì cả cha lẫn mẹ đã quay lưng lại với con cái. Theo tôi, Tư đã nêu lên một vấn đề bức xúc và cấp bách nhất hiện nay. (…)
Nguyễn Ngọc Tư là một tài năng. Cô ấy không còn là người của một vùng đất Cà Mau cụ thể nữa. Cô ấy là tài sản quốc gia, là của VN. Mà tài năng thì ở đâu cũng vậy, chỉ có thể phát triển nếu được sự phát hiện, nâng niu, bồi dưỡng, vun đắp của toàn xã hội”.
Hữu Thỉnh đã có công phát hiện và bảo vệ một tác phẩm gây nhiều tiếng vang. Nhưng CĐBT không chỉ có thế. Vũ Hồng, Phó Ban công tác Hội nhà văn Việt Nam miền Tây Nam bộ, cho rằng Nguyễn Ngọc Tư đã “dự cảm được đời sống xã hội nông thôn trong những năm sắp tới nếu như nông thôn bị lãng quên và sự phân hóa thành thị - nông thôn sẽ ngày càng rõ nét hơn, nhất là về mức sống, mức hưởng thụ” (11).
Lê Chí, Trưởng ban công tác Hội Nhà văn VN Đồng bằng sông Cửu Long, thì chỉ thẳng ra rằng “sức hút của CĐBT, chính là tính hiện thực của đời sống nông thôn trên khắp đất nước”(10).
Sự thực, với CĐBT, Nguyễn Ngọc Tư đã hết còn dừng lại ở vai trò một nhà cung cấp những mẫu chuyện nho nhỏ, hay hay để tiêu khiển: CĐBT đã đụng đến thực chất vấn đề.
Khi ấy, đương nhiên, nó quấy rầy. Cũng từ ấy, Nguyễn Ngọc Tư đã bước lên một nấc mới trong bậc thang cao quí nhưng lắm gian nan của thiên chức người cầm bút.
Ngay ở những dòng đầu CĐBT, Nguyễn Ngọc Tư đã không che dấu việc mình khó kiềm chế được sự phẫn nộ. Và tất cả bắt đầu từ đó.
Cao Huy Thuần, trong một bài viết tuyệt diệu về sự gặp gỡ giữa Thiền và sáng tạo nghệ thuật (12), có đoán rằng sau “sự cố tháng tư”, chắc là “cô Tư đã… đắc đạo”. Không biết Nguyễn Ngọc Tư có đọc kịp hay đã trực giác lời nhắn của Cao Huy Thuần chăng, nhưng rõ ràng Nguyễn Ngọc Tư đã một lần nữa xuất sắc chấp bút trong một bài “Thay lời tựa” độc đáo mang tên “Chân không”, nằm ở trang đầu của tập “Ngày mai của những ngày mai” (NHX Phụ Nữ, 2007). Sâu sắc, tinh tế, đa nghĩa. Đẹp. Nó cho thấy một Nguyễn Ngọc Tư bản lĩnh, vượt được thử thách và nhất là vượt qua chính mình. Một trả lời đầy tính nghệ thuật và đượm mùi triết lý cho câu chuỵện CĐBT coi như đã khép.
Đã khép? Không hẳn thế.
Mùa kịch nghệ 2009 năm nay đã mở lại CĐBT dưới một góc độ và sắc thái mới. Trong tình hình văn nghệ khá trầm lắng hiện nay, kịch nghệ- ngoại trừ những tuồng hài dễ dãi- dường như đã trở thành một trong những biểu hiện sinh động nhất của đời sống văn hóa VN (mà điển hình là kỷ lục khán giả đi xem Bí mật vườn Lệ Chi tại Sài Gòn mấy năm vừa qua).
Trong bối cảnh đó, sự đồng cảm của quần chúng với vở kịch CĐBT một lần nữa khẳng định giá trị nội dung văn học của tác phẩm và đồng thời biểu lộ một sự đồng thuận trong ý chí gắn bó với những giá trị nhân văn làm nền tảng cho tình tự dân tộc. Một thông điệp dân gian đáng đọc cho những ai đang xây sự nghiệp trên mặt bằng của sự phản bội các giá trị đó.
Trong lời phát biểu tại buổi lễ nhận giải văn học Asean 2008 (13), Nguyễn Ngọc Tư có nói rõ ý hướng của chị: “Tôi nghĩ, nếu vẽ một biểu tượng của nghề viết mà tôi đang đeo đuổi, tôi sẽ vẽ hình ảnh của giọt nước mắt (…) Khi viết về thân phận, nỗi đau, sự bối rối thường trực của con người trước những biến cố của cuộc đời, tôi luôn ao ước những trang viết của mình có được sự rung cảm như những giọt nước mắt”.
Một ám ảnh đầy chất thơ, nặng trĩu chất đời. Một nỗi cảm thương mà trước đây Xuân Diệu cũng đã từng chuyển tải qua hình tượng cõi khổ đau xoay vần trong vũ trụ:
“Trái đất ba phần tư nước mắt,
Đi như giọt lệ giữa không trung…”
Chính nỗi ám ảnh đó đã đẩy ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư tiếp tục đi tới, soi rọi lên những mảnh đời phiêu bạt, những thân phận hẩm hiu trước gió bão cuộc đời.

Khúc quanh Gió Lẻ…
Gió Lẻ và 9 câu chuyện khác là tựa tập truyện ngắn xuất bản gần đây nhất của Nguyễn Ngọc Tư (NXB Trẻ, 2008). Nó ra đời sau CĐBT(cũng là tựa sách gồm 13 truyện ngắn cùng với truyện cuối được lấy làm tiêu đề cho toàn tập) nên đã chịu nhiều thử thách khá đặc biệt.
Việc chọn cái tên đầy đủ và… công bằng như vậy, lần này, hẳn không do tình cờ. Nó hàm chứa ý tưởng cần đánh giá toàn bộ các sáng tác, chứ không chỉ riêng mỗi một truyện cuối.
Thế mà, đại đa số các phê bình đều hầu như chỉ tập trung vào truyện ngắn mang tên tựa sách (14-18), với “hệ quy chiếu” duy nhất là CĐBT và lắm khi còn nêu những câu hỏi chắc đã không khỏi gây buồn lòng tác giả…
Nguyễn Ngọc Tư có lúc phải kêu lên (19):
“…CĐBT không đại diện duy nhất cho tôi. Mười năm tôi viết những cái mà người ta thích, giờ tôi viết những gì chính mình thích (…) Tôi như một kẻ đẽo cày giữa đường, ai qua cũng ngó nghiêng chỉ trỏ một tí. Cái tôi thấy buồn không phải vì những lời chân thành của bạn, mà là tôi thấy mất tự do. Mọi người cứ gào thét đòi tự do sáng tác, nhưng lại băn khoăn trước việc cô ta viết như cô ta thích.“
Thậm chí, chị vận dụng cả hình ảnh để khẳng định rất văn chương quan điểm mình:
“…tôi đã thực sự nhìn thấy một bi kịch, là bạn đọc cứ trải chiếu ở cái chỗ CĐBT và muốn tôi ngồi uống rượu mãi ở đó. Trong khi tôi muốn đi và thực sự đã đi rồi. Tại sao tôi cứ luẩn quẩn ở cánh đồng đó trong năm năm, mười năm và hai ba mươi năm nữa, mà không được đi uống rượu, ngắm cảnh ở không gian khác? Tôi biết, cái chỗ tôi muốn tới và thích tới không đông đảo người chờ đợi và chúc tụng; nhưng tôi tự hào là mình cũng chịu dời chân khỏi cái hào quang cũ mà đi.”
Nguyễn Ngọc Tư hoàn toàn có lý.
Gió Lẻ là truyện ngắn quan trọng nhất trong tập sách. Nó mang tham vọng của tác giả muốn “rẽ sang lối mới”, về nội dung lẫn hình thức, trên con đường sáng tác của mình.
Tại sao người ta không nhìn thấy mình khi mình còn sống - Lời của một con ma.
Thoạt tiên, bằng lời đề từ ấy, tác giả đã báo hiệu ngay sắc diện của 51 trang đi liền sau. Nó để lộ sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ văn nghiệp Nguyễn Ngọc Tư, một tra vấn thường trực về bộ mặt và hình như cả về sự hiện hữu của con người. Nó bắt buộc ta suy ngẫm về khả năng biết nhìn và biết thấy, như tác giả đã có lần phát biểu trước độc giả Hàn quốc tại Seoul (20): Người ta thường quá tự tin vào mắt, vào tai mình; người ta không dè dặt trước chữ “biết”.
Truyện không nơi chốn, thời gian rõ rệt. Nhân vật chính là một cô gái không tên bị nghịch cảnh vùi dập đến độ khước từ quá khứ, ngôn ngữ và thế giới người. Em là con “ma sống” trôi giữa biển đời, có duyên ngộ với đôi kẻ sống mà như đã chết - những con ma - vô hình giữa một thế giới vô tâm…
Nồng độ khác thường của truyện đã khiến có người vội vàng lên án Gió Lẻ mang hơi hám “hiện sinh” và nhại mùi “phi lý chủ nghĩa” (21). Nhưng sau đó, những ý kiến phản đối khá thuyết phục từ một số độc giả am tường (22-23) dường như đã làm cho luận điểm về “dấu vết của Jean- Paul Sartre và Albert Camus” trong tác phẩm này được tự xóa bỏ.
Điều không chối cãi là bề dày nội dung Gió Lẻ đã thực sự đem lại nhiều cảm nhận đa diện và sâu sắc cho độc giả. Điển hình là trường hợp Nhã My (24) với nhận xét sau:
“Gió Lẻ là câu chuyện về một cô bé quên mất tiếng nói loài người. Trong nỗi hoang mang của kẻ lạc loài, số phận run rủi cho cô gặp hai kẻ đồng hành kém may mắn khác; và họ đã dạy cho cô những tiếng nói quen thuộc. Nhưng rồi tình cảnh thật trớ trêu khi cô nhận ra mình mãi mãi không thể hòa nhập được với thế giới con người mà cô đã từng bị chối bỏ, bởi cô nhận ra giữa tiếng nói, hơi thở và “những ý nghĩ chạy xuyên qua mạch máu” đôi khi hoàn toàn không giống nhau. Thất vọng khi khoảng cách với thế-giới-người ngày càng xa vời vợi khiến cô co mình vào một cõi riêng, bất định… Ở đó ranh giới giữa sự sống và cái chết gần như bị xóa nhòa.”
Đối với Nhã My, đây là “một câu chuyện đầy cảm xúc về nỗi cô đơn, tổn thương, sự mất mát và cái chết”.
Nhưng dưới con mắt của Minh Thi (25) thì Gió Lẻ đề cập tới một cái gì khác hơn nữa:
“Mặc dù hành trình trên chuyến xe như một sự hành xác, nhưng đó lại cũng chính là hành trình gột rửa và hình thành một bản thể khác trong cô; không phải con người cũ bị vùi dập, chịu đựng đau đớn trong dồn nén, mà là người không có quá khứ, không tên gọi, không cả giọng nói uất nghẹn.”
Mặc dù vậy, tác phẩm hoàn toàn không đồng nghĩa với một sự lạnh lùng hay đen tối. Cao Thoại Châu (17) nhấn mạnh đến khía cạnh tỏa sáng của tình yêu đã giúp cô gái vất vưởng đáng thương kia trở về với thế giới người: “Cuối cùng thì cả ba người tình cờ gắn với nhau trên chiếc xe đã thức dậy một tình yêu trong lòng. Ai yêu ai, ai được yêu và ai lỡ độ, không phải là điều quan trọng. Quan trọng là “Em hoang mang với một điều thuộc về con người mà em vừa mới biết”... ”
Minh Thi thì, ngược lại, đề cao vai trò chủ động và tích cực của nhân vật nữ: “Và ngay cả ở phút cuối cuộc đời, cô vẫn đủ sức biến cái chết của mình thành một điều có ý nghĩa hơn với những người còn sống mà như đã chết trên cõi đời.”
Và những người này sẽ “mãi mãi là những hạt bụi mất hút vào hư vô, nếu không có thứ ánh sáng lấp lánh mà cô bé soi rọi từ tâm hồn mình ".
Hình như cũng chính sự tỏa sáng của nhân vật câm trung tâm đó đã khiến Hồ Trung Tú (15) suy diễn khá xa trong một nhận định đầy ngụ ý về sự tắt nghỉ của ngôn ngữ, xuất phát từ quan niệm “kể từ khi có ngôn ngữ, con người cũng bắt đầu tha hoá và xa rời dần bản thể”. Anh cho rằng: “Có thể Nguyễn Ngọc Tư chỉ vô tình, hoặc bằng trực cảm của một nhà văn, đã vô tình chạm đến điểm khởi sinh và cũng là điểm cuối cùng mà văn minh loài người bắt đầu và đến đích. Dường như, tất cả đã thật chín để đến một lúc nhân loại đặt lên mặt bàn công và tội của ngôn ngữ”.
Như vậy, rõ ràng Gió Lẻ không đơn điệu, mà đã khơi gợi nhiều suy nghĩ khá phong phú, vượt trên thông điệp giản đơn mà ai cũng có thể nhận ra ngay, trước những chi tiết tương đối khá ước lệ mà tác giả phơi bày qua các nhân vật đặc trưng (người cha, ông Tám Nhơn Đạo), hoặc qua những chứng tật của vai chính (dị ứng buồn nôn khi gặp kẻ gian dối, muốn nói tiếng loài vật thay tiếng người).
Và nói chung, người ta có thể dễ dàng chia sẻ với Yến Nhi (26) rằng Gió Lẻ đã để lại trong lòng độc giả “không chỉ một nỗi xót thương dằng dặc mà còn một “đốn ngộ” về thiên lương, về nhân phẩm trong những mảnh đời tưởng như đã bị bao bất hạnh làm thui chột nhân tính”.
Nguyễn Ngọc Tư viết Gió Lẻ là để tiếp tục con đường khai phá. Tham vọng, cảm hứng và tay nghề như vậy đã đủ chưa để đạt được mục tiêu?
Đứng về mặt kỹ thuật, Gió Lẻ là một thử nghiệm với khá nhiều cách tân qua lối dàn dựng và làm mới trong giọng điệu lẫn ngôn từ.
Tuy nhiên, cái giá phải trả là rốt cuộc nó không hẳn luôn luôn “lên bóng” như mong muốn và thậm chí có chỗ xem ra chưa được hoàn hảo.
Truyện mang ba giọng kể xen nhau, dài gần 51 trang và có 34 chỗ ngắt đoạn: trung bình cứ đọc một trang rưỡi là gặp một ngắt đoạn. Một kỷ lục hiếm có, nhưng đồng thời cũng dễ gây chóng mặt, gần giống hiệu ứng một phim quay với ống kính vác đi trên vai và chuyển cảnh liên tục.
Mà quả thế, ta có thể hình dung Gió Lẻ như một bộ phim, như phần lớn các sáng tác của chị. Một trong những điểm mạnh của Nguyễn Ngọc Tư chính là tài mô tả như thể đang chiếu cho độc giả xem từng đoạn phim đầy ắp hình ảnh. Nhưng, ở Gió Lẻ, chị lại dùng quá nhiều thủ thuật lắp ráp(montage) và flash-back.
“Đạo diễn” có thể rất giàu ý, nhưng chỉ khi nào tác phẩm thành hình rồi thì mới biết được là những thiết kế ban đầu có thực sự “ăn” với tác phẩm hay không. Đó là một quy luật chung cho mọi tác phẩm nghệ thuật, dẫn tới vẻ đẹp hài hòa nếu thành công hoặc-ngược lại-chỉ gây chông chênh khiên cưỡng.
Với nội dung và tình tiết ba nhân vật “ngoại chuẩn” của Gió Lẻ, hình thức diễn đạt đương nhiên phải rất đặc thù. Hồ Trung Tú (15) tỏ ra rất sành điệu khi cho rằng chuyện phải “được kể lại bằng giọng kể không đầu không cuối, tuỳ vào những liên tưởng bất chợt, như ký ức vậy; ký ức trở về đâu cần có đầu có đuôi!”
Tuy nhiên, anh cũng nhìn nhận: “Câu chuyện được kể không đơn tuyến, chính thủ pháp này đã khiến người đọc khó nắm bắt mạch chuyện từ đầu(…) Với thủ pháp này truyện không còn những đoạn dẫn dắt, những câu chào mời, giới thiệu”…
Và đưa ra một nhận xét khá bất ngờ:
“Đọc Gió Lẻ, tôi cứ hình dung Nguyễn Ngọc Tư như một mụ phụ thuỷ lần đầu nắm được sức mạnh của âm binh, chị tung bên này, hứng bên kia, hô phong, hoán vũ cái sức mạnh của ngôn từ mà chị đã bắt đầu nắm được.”
Tất cả là ở hai chữ “bắt đầu” nầy .
Từ lối viết đã tạo nên phong cách “Ngọc Tư đặc sản Nam bộ” qua các tác phẩm trước đây, chị đã bức phá với CĐBT bằng một giọng điệu sắc lạnh và dữ dội hơn nhằm diễn đạt một nội dung gây chấn động. Thế nhưng, trong Gió Lẻ, văn chị súng sính - và đôi khi hơi ngượng nghịu - trong chiếc áo mới, nhất là ở phần đầu, như thể ngòi bút chưa đủ hâm nóng, dẫn tới những phê bình như của Nhã My (24): “Cách viết mới, nên người khen không ít, người không chấp nhận cũng nhiều thiệt nhiều. Nhất là, người quen với Nguyễn Ngọc Tư chân quê dung dị, bảo Gió lẻ khác chị xưa quá, như cô gái chân quê một bước đi ra thành thị, với câu chữ làm duyên làm dáng (…) Nguyễn Ngọc Tư có lạ, có mới, có biến đổi câu chữ kỳ ảo làm cho bạn có khi hơi mất đi chút xíu cảm tình.”
Thật vậy, cho dù đã có người ca ngợi chất thơ trong dòng văn mới này (15,18,25), khó mà không phủ nhận những vụng về không đáng có từ một bàn tay được xem là đã gần đạt mức phù thuật.
Mỹ từ pháp nhân cách hóa đôi lúc dường như bị “quá dose”, dễ cho cái cảm giác văn hơi cầu kỳ, chẳng hạn như khi tác giả viết:
“Hôm ấy, gió lẻ bắt đầu ướm chân vào mùa” (trang 125);
“Em nghĩ anh ta đang nói nhảm, anh ta không nói về mình, nên thản nhiên lấy mắt buộc những sợi mưa mỏng và dai ngoài kia” (trang 128);
hay như ở tiểu đoạn tả về cơn gió làm nền cho tác phẩm (trang 132), với những câu giống văn chính luận nhiều hơn là văn truyện ngắn: “Và từ khi lìa nhau, gió dằn vặt con người bởi nỗi ly tan của chính nó”,
hoặc trông có vẻ hơi nói quá:
“Đắp một tấm mền cũng là một cuộc tranh đấu nhỏ bởi không biết bao giờ gió sẽ tới, trong thời gian đó, người ướt đẫm mồ hôi. Sự đùa cợt không bao giờ mệt mỏi. Đến mức người ta mòn mỏi thiếp đi thì gió lại dựng họ dậy theo cái kiểu lướt thật chậm từ chân lên đầu, như có một linh hồn, một bóng ma vừa đi qua âu yếm”.
Vì thế, người đọc khó được thuyết phục về mục đích chỉ nhằm “trốn gió” của gã lái xe:
“Để trốn gió, gã nhận chở bất cứ loại hàng nào, với cái giá rẻ nhất đi tới những người đàn bà của mình ở những điểm đến quen thuộc.Bằng cách đó, từng mùa gió lẻ đã đi qua đời gã êm đềm”
Mặc dù có người nghĩ Nguyễn Ngọc Tư chọn “bút pháp tượng trưng xen lẫn siêu thực” (17) trong Gió Lẻ, độc giả vẫn dễ cảm thấy, ở tiểu đoạn tả người say rượu (trang 128), hình ảnh “máu loãng” hơi bị gượng ép, nhất là ở câu cuối:
“Cả người anh ta ngấm nước mưa, rượu và nỗi buồn, tất cả đã ướt đẫm tới xương. Chúng pha loãng máu, và trái tim mệt mỏi kia phải đẩy đưa từng dòng trong vắt. Em quẩy túi lên vai, em sợ cái cách chảy trôi tuột, trơn lẫy của những dòng máu loãng.”
Ngược lại, hai trang 133-134 là một trong những tiểu đoạn trong sáng nhất của truyện, người ta được ngắm một bức tranh chứa nhiều nét lạ, như muốn báo hiệu cho phong ba sắp đổ tới, nhưng vẫn thanh thoát, dịu êm như chính tâm hồn nhân vật:
“Em chậm rãi xoay người về phía cây bằng lăng. Những chòm sao tím thắp trên cây đã bị gió lùa rụng đầy đất.Từ lưu lạc, bầy sao bắt đầu nhuốm màu lam lũ, tả tơi.
Con Cò từ trong nhà ông Tám băng xăng bái xái chạy ra, mớ lông trên mép còn dính chút mỡ cháy. Nó vừa đi vừa sủa sững sốt, dù đã sủa suốt đêm qua, dưới ánh sáng ban mai, cảnh vật trên rẫy trở nên xa lạ. Nóc căn chòi em ở xù lên phơ phất, như tóc của một người vừa ngủ dậy.
Trong mớ âm thanh quen thuộc của lũ kiến chạm chân trên đường rời tổ, của muôn vạn cái lá dập xao xác, những giọt sương sẽ sàng rụng xuống, tu hú kêu vang trong bờ sậy, có lẫn tiếng cây đang ứa nhựa hàn gắn vết thương, nơi nụ hoa lìa”.
Nhà phê bình vãn học Phạm Xuân Nguyên (27) đã rất khắt khe với tác giả trong câu cuối này, cho rằng:
“…khi chị tỏ ra làm lạ mình, khác mình bằng cách “làm văn” ở câu chữ thì lại không nên. Cái duyên cái chất của Ngọc Tư là ở những câu văn chân chất, hồn nhiên truyền tải được cái hồn vía của một người văn. Những câu làm dáng, văn hoa thật không phù hợp và không cần thiết cho truyện, càng rất không “Ngọc Tư”.”
Điều đó đúng, nhưng ở chỗ khác. Còn trong tiểu đoạn vừa nêu, người ta vẫn có quyền hình dung cô gái – với giác quan nhạy cảm khác thường, nghe được tiếng máu chảy trong cơ thể người, âm thanh của thiên nhiên và loài vật ̶ khi ấy đang đắm chìm trong một nỗi mơ nào đó, bắt đầu từ câu văn trau chuốt đã khơi mạch phía trên (Những chòm sao tím…lam lũ, tả tơi).
Thiết tưởng, thích hay không thích lối văn mới này của Nguyễn Ngọc Tư là tùy mỗi người nhưng ở đây không hề có “lỗi văn chương” .
Truyện ngắn Gió Lẻ là một lối rẽ trên đường truy tầm cái mới, không giống với những gì trước đó của tác giả, “một kiểu viết khác, một cuộc tìm kiếm khác, để tạo nên phong cách đa dạng hơn và cũng nhiều triết lý hơn cho Nguyễn Ngọc Tư” như ý kiến của Minh Thi (25).
Trao đổi với bạn đọc trên báo gần đây về Gió Lẻ (28), chính Nguyễn Ngọc Tư cũng nhìn nhận “nó không hấp dẫn, bởi trúc trắc và khó nắm bắt” nhưng khẳng định khi viết thì “thấy vui, mắc cười, thấy mình giống như đang viết... trường ca vậy” .
Phía tác giả thì thế, nhưng về phía người đọc, cảm nhận rõ ràng đã có khoảng cách không nhỏ so với chủ ý người viết. Và ta có thể tạm dừng trên đánh giá sau đây trong một phản hồi của độc giả (16) - ít ra về mặt hình thức - vì nó nêu lên một cách khá hữu lý giả thuyết dẫn tới sự chưa đạt của Gió Lẻ:
“Mặc dù những đột phá dễ thấy, có cảm giác như Gió Lẻ được xây dựng và triển khai quá vội vã, chưa đủ thời gian và cũng không được dồn đủ tâm sức cần thiết ”.
Những mong tác giả đón nhận các ý kiến trên đây đúng trong tinh thần đi tìm sự hoàn thiện mà người đọc quan tâm nhắn gửi (14):
“Có lẽ vì yêu quý nhà văn nên độc giả đã yêu cầu khắt khe quá chăng?”

…và 9 câu chuyện khác
Là mảng còn lại của tập truyện, phần sáng tác ngoài-Gió-Lẻ này khá “ trung thành” với phong cách “ Ngọc Tư” thường lệ. Nhưng không phải vì thế mà nó tự động làm tăng giá trị văn chương của tập sách, hay làm giảm chiều sâu của mỗi truyện. Chúng ta sẽ trở lại điểm này.
Khác với truyện cuối Gió Lẻ, gần như toàn bộ các truyện còn lại đều khá hoàn chỉnh, không bị “sức ép” của chủ đề và ý đồ văn học của tác giả làm trì nặng hoặc biến tính. Tâm An (29) có cho một tóm lược - gần như đầy đủ nhưng lại quá ảm đạm so với những người phê bình khác (25, 26) - về từng truyện một.
Nổi bật trong tác phẩm Nguyễn Ngọc Tư là trẻ em, với một vị trí đặc biệt: vừa là người phát ngôn trung thực cho sự thật, vừa là kẻ hứng chịu hậu quả những sai trái của người lớn.
Hãy nghe nhận xét của Phạm Xuân Nguyên (27):
“Văn Nguyễn Ngọc Tư, có thể nói, là cách thế nhìn vào thế giới người lớn ngổn ngang, phức tạp, đầy bất hạnh và bi kịch, từ mắt những đứa trẻ ngây thơ - già nua. Giọng điệu văn của chị, xuyên suốt, cũng là giọng kể giọng nói giọng nghĩ từ phía những con người còn nhỏ này. Hoàn cảnh chung tạo nên cảnh ngộ bất hạnh của chúng là sự tan vỡ của các gia đình, sự phản bội nhau của các cặp vợ chồng.”
Truyện mở đầu Vết chim trời được dành cho những vết thương chưa lành của cuộc chiến. Điều đó thể hiện - trước tiên - một cách đánh giá lịch sử của tác giả, khởi từ sự nhận diện lại những vết hằn trên da thịt và tâm hồn Việt Nam. Thứ đến, mặc dù những chứng tích đó sẽ không biện minh được gì hết cho những hèn kém trơ gan trước thách đố hôm nay, nhưng nó vẫn là tất định (déterminante) trên tác phong cung cách của những thế hệ đã trải qua trận “gió tanh mưa máu”, nói theo chữ của Nguyễn Đình Toàn.
Đó là chuyện về “một nỗi buồn khôn khuây trùm lên gia đình nọ khi trong cơn mê bà nội nhắc lại cái chết của thằng Út Hơn phía bên kia chiến tuyến bị người anh bắn chết. Nỗi đau lớn qua đi, đứa con nhỏ sót lại của Út Hơn dẫu được cả gia đình yêu thương đùm bọc, cuộc sống thơ ngây của nó vẫn có nhiều vết gợn” (26).
Về mặt nghệ thuật, Nguyễn Ngọc Tư thật sự đạt đến mức làm trống của Thiền nhân mà Cao Huy Thuần đã nói tới (12): một đề tài nghiêm trọng như thế mà chị viết sao xem thật nhẹ nhàng. Như gió thoảng, như chim trời, như sự hồn nhiên của hai nhân vật tuổi thơ, nhưng đồng thời lại nằm trong thế tương phản tột cùng với những câu hỏi nhức nhối mà chúng đặt ra. Một thành công xứng đáng được đặt ở đầu tập sách.
Chuồn chuồn đạp nước, ngược lại, là một đề tài đơn giản nếu không nói là “vu vơ”, đi liền sau truyện đầu tiên. Ấy vậy mà Nguyễn Ngọc Tư xử lý thật tài tình. Cái đặc sắc ở đây là cách lột tả tâm lý nhân vật, thường là một trong những nhược điểm to nhất của cả nền văn truyện Việt Nam so với văn học châu Âu chẳng hạn.
Khởi từ một sự việc không có gì (người cha lỡ nhắc sai cho con mình trong một cuộc chơi “đố vui” trên đài truyền hình), tác giả đã trải trên 12 trang sách “nỗi lòng” của nhân vật, thỉnh thoảng được điểm xuyết bằng những câu nói “trúng phóc tim đen”, như:
“Quan trọng là người ta trong mắt mình như thế nào. Tao thấy mầy cứ mệt mỏi vì chuyện mình như thế nào trong mắt người ta...”
Hoặc:
“Có quá nhiều chuyện nhân tình thế thái mà cha không quên, có nhiều thằng cha xỏ lá cà khịa đâm sau lưng cha: đáng lẽ nên quên đi cười trọn nụ, để đời nhẹ nhỏm mà cha không quên, thì sao lại quên vụ này?”
Tình thầm, truyện tiếp theo, cũng là một ví dụ tiêu biểu cho lối viết truyện ngắn đáng được tán dương: một góc nhìn nhỏ, không ôm đồm khi chọn chủ đề, nhưng hết sức tỉ mỉ trong cách triển khai và luôn luôn “đi guốc” trong bụng con người, nhất là nêu bật được những cái yếu đuối và mâu thuẫn đến độ không ngờ của nó.
Truyện một cô tài xế kể lại những gì cô chứng kiến và cảm nhận hằng ngày trong những cuộc săn tìm người yêu liên tục của ông chủ. Mệt mỏi đến độ cuối cùng cô phải viết đơn xin nghỉ việc, nhưng ngay khi vừa mới cương quyết gạt lời ông chủ năn nỉ cô ở lại trong điện thoại thì:
“…tắt điện thoại rồi, cô sợ chỉ một câu nói của anh nữa thôi, cô sẽ chạy tới, vò lá đơn quẳng vào sọt rác.”
Với Sầu trên đỉnh Puvan, Nguyễn Ngọc Tư đã chọn một chủ đề có tầm cỡ và nhiều ẩn dụ. Nhân vật bình dị nhất trong chuyện, người dẫn đường tên Củi, được mô tả thật sắc với những điểm sáng lý thú như hình ảnh này:
“Thằng Củi lù lù hiện ra, một linh hồn mười lăm tuổi trong cơ thể đứa bé lên chín, ở trần, gầy nhom, lem luốc, hai xương vai bén ngót, nhô lên cao, môi nẻ ra, bong những cái vảy nhỏ”.
Hoặc sự tinh tế trong những giây phút mà thằng bé – rồi khách của nó ̶ bỗng chốc biết khựng lại, như vừa chạm đến một sự thật phải trốn tránh hay đang bị vùi sâu:
“…trong cơn hưng phấn, đứa bé khoái chí chỉ về phía làng mình; nhưng ngay lập tức ngón tay nó hơi cong lại, như thể chỉ cần thẳng ra là tay nó hướng ngay vào sự nghèo khó, hắt hiu(…) thỉnh thoảng nó ngây ra nhìn người đàn ông xa lạ và ngượng ngập cười xòa khi ánh mắt của mình bị Vĩnh bắt gặp: “Hồi nào giờ tui chưa biết mặt ba tui, tui nhìn coi ông có chỗ nào giống tui không?” Câu nói làm Vĩnh khựng lại một thoáng và Dịu nhớ con đến rã rời.”
Truyện có tham vọng nghệ thuật. Tiếc thay, khuyết điểm đáng tiếc nhất- theo thiển ý ̶ là thiếu hẳn ở phần cuối một mảng triển khai tâm lý nhân vật Vĩnh cho thật đúng nghĩa và đầy đủ: cái chết của anh, trông như chỉ do “dàn xếp” chứ không phải là hệ quả tất yếu của đoạn văn đi trước đó.
Ấu thơ tươi đẹp là môt cái tựa mang nhiều mai mỉa, như chính thân phận của những đứa bé không còn một tổ ấm yêu thương, được dành cho ngót 13 trang xoáy quanh bi kịch trẻ con có bố mẹ đã lìa nhau.
Tất cả diễn ra trên một“đoàn tàu chở hai cha con về quê xa, nơi có người đàn bà đang chờ cha thằng bé về làm đám cưới. Thằng nhỏ Sói đã xuống một ga lẻ bỏ đi, mặc người cha khốn khổ tìm kiếm trong hoảng loạn đau đớn. Nó thương cha lắm nhưng mà việc làm của cha nó, nó không san sẻ được” (26).
Và truyện kết thúc bằng quyết định của cô bé kể chuyện trên tàu, đồng cảnh ngộ với thằng nhỏ, thật buồn nhưng dường như đã cùn lụt, tê dại nỗi đau: “Em thì mãi mãi ở lại con tàu này bằng một vốc thuốc ngủ vun vén ở mỗi tiệm thuốc tây một chút. Nên em hoàn toàn tôn trọng sự chọn lựa của Sói”.
Một lát cắt trong cuộc sống hôm nay. Một giọt lệ lăn xuống những ngày mai tuổi trẻ ̶ hay đúng hơn - những tuổi trẻ không ngày mai.
Bước sang Núi lở thì không gian và tiết tấu hoàn tòan khác.
Văn Nguyễn Ngọc Tư, như đã nói trên, thường giống như cho xem cảnh phim. Thì ở đây, chủ đề lại đúng là chuyện một người thuật lại những gì anh ta đã hình dung cho bộ phim tốt nghiệp định làm. Do đó, truyện lại càng là một bộ phim, được “chiếu thử” trước mắt người đọc.
Độc đáo, sống động. Đầy những cảnh, cũng thường thôi, nhưng có sức lay động làm ta không thể dửng dưng trước “sự đời” ngán ngẫm: cảnh mẹ cha nuôi ổ điếm, chống lại ý ông nội, ngay trong nhà có con trẻ; cảnh cha mẹ cố tình bỏ rơi ông Nội khi chạy tránh núi lở mặc cho đứa con kêu gào đòi cứu…Hãy nghe Yến Nhi (26) ghi nhận: “Một cảnh núi lở làm tan hoang một vùng dân cư và bao nhiêu ngang trái, thô kệch ngẫu nhiên phơi ra. Cuộc sống lang chạ ê chề một cách tự nhiên hiện lên bất khả kháng trong đổ nát, hỗn độn làm ngơ ngác cả những tâm hồn bé dại.”
Vẫn một bản cáo trạng đọc lên cho đời bằng ngôn ngữ nghệ thuật, vẫn một điệp khúc không nhàm nhạt chút nào qua câu chuyện, bởi nó nêu đích danh những “kẻ đang rú lên mừng thoát nạn mà đã-chết-rồi” - như tác giả đã nhấn mạnh - dù là trong tuồng chạy trốn “núi lở” này hay ở môt đại hồng thủy mới nào khác…
Bằng đôi nét chấm phá và vỏn vẹn chỉ trên 7 trang giấy, Thổ sầu - truyện sau đó- đã nêu lên những vấn đề tế nhị, tuy riêng mà vẫn rất chung cho bất cứ xứ nào đem du lịch đến nông thôn, khi nông thôn đó quá nghèo. Truyện dựa trên khả năng quan sát tinh tường của tác giả, và hắt một thứ ánh sáng đặc quánh trên cảnh quan thời “hội nhập”.
Hãy chứng kiến vài phản ứng của khách du lịch: “Người thấy cuộc sống chật chội, nặng nề đến đây, bỗng thấy mình ham sống, thấy tràn trề sức lực trong cuộc chen chúc mưu sinh. Phụ nữ luôn có nụ cười kỳ lạ, như thể không ngậm miệng được, nụ cười biết nói, “vậy mình quá giàu so với đám người này”. Đám đàn ông ánh mắt cũng mãn nguyện không kém,“dám chắc là trong ba tháng nữa bà vợ mình không than vãn chuyện lương thấp lương cao”. Có chút gì chua chát trong câu văn: “Khách có quá nhiều thứ để giới thiệu Thổ Sầu với bạn bè, một chiếc mùng chi chít những miếng vá nhiều màu, mấy cái đèn cóc lụm tim, chiếc giường ngủ ghép bằng thân tre chẻ hai, mắt tre dù đã chuốt kỹ vẫn gù lên lông chông”.
Và cuối cùng, vẫn từ miệng những đứa bé mà thoát ra sự thật: “Tôi thích nhìn vẻ thất vọng não nề của chúng khi tới xóm tôi (…) Nhất là khi ra về, nhiều đứa ấm ức cằn nhằn:
- Hổng vui gì hết … Nhìn người ta nghèo hổng vui gì hết”.
Truyện kết thúc ở đỉnh điểm là sự từ chối rời bỏ quê nghèo của người kể, bởi một lý do nghe thật xót xa: “Vì sau vườn cỏ lại mon men bò lên mộ má tôi, ông bà tôi …”.
Phải chăng đó là lời đáp bi thương của trái tim “hiếu để” trước mệnh lệnh khắt khe, đầy ý thức hệ gia đạo của một thời không trở lại?
Đổi khung cảnh. Truyện Của ngày đã mất trổi lên như môt hợp tấu của dân ca, sông nước và Tình Yêu, theo âm điệu những cảm xúc tinh anh trước cái Đẹp, dù những khoảnh khắc đó vô hằng (fugace), bất định hay chỉ vọng từ hư ảo.
Một chuyến du khảo của hai thầy trò đi sưu tầm âm nhạc giữa miền quê còn giữ màu nguyên thủy, nơi có “Bờ lau xào xạc gió. Nước chảy vào họng đìa. Con chim nào đó kêu ánh ỏi” (Ta lại gặp hai từ đắc giá của Xuân Diệu nơi đây!).
Những rung động từ một hiện diện hồn nhiên và tuyệt bích kề cận bên mình. Những thân mật dịu êm và thuần khiết của cô học trò son trẻ đầy cá tính dần dà choáng ngập tâm hồn người thầy cao tuổi. Nhưng ông không may mắn như một Pablo Casals huyền thoại. Dấu vết thời gian trên cơ thể không cho ông đáp lại những thôi thúc rộn ràng của con tim. Con tim rạo rực, hãy còn thênh thang mở về từng nhịp sống, từng xao động thì thầm sâu kín nhất đến từ mỗi cơn mơ, mỗi góc đứng giữa thiên vạn cảnh giới cuộc đời.
Chuyện đẹp, nhiều chi tiết tinh tế, không đi đến đâu và kết thúc bằng cuộc chia tay:“Cái cảm giác mất em bắt đầu ăn lan trên từng thớ thịt. Chuyến xe cập bến vào một buổi chiều tàn lụi, nhưng chúng tôi mãi mãi không trở về được cái nơi mình ra đi.”
Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư không chứa những mê say trữ tình (lyrisme) hay xót xa lãng mạn, nhưng có thể xem đây là một “Vòng tay học trò” nho nhỏ, có những vai đối xứng với nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Thị Hoàng năm xưa.
Thêm một khúc vinh danh cái đẹp thực hữu của Tình Yêu Mỹ Cảm (joie esthétique), của cảm xúc phi luân (amoral), bởi nó nằm ngoài luân lý và vượt trên mọi rào ngăn, tầm nhắm của những quan niệm thông thường chỉ biết đến - và hay lo sợ - những sự thể vô luân (immoral) tầm thường, ngay cả trong khu vườn Văn Nghệ.
Một chuyện hẹn hò khép lại loạt truyện ngắn bên cạnh Gió Lẻ. Tác giả mượn lời một chú cóc để kể lại cuộc hẹn hò- nói như Yến Nhi (26) - của một “người đàn bà bất hạnh trong cuộc sống gia đình đến với người đàn ông yêu thương giữa mùa mưa bão. Tình cảm chân thật mãnh liệt đã vượt khỏi những khắc nghiệt của lề thói cũng như sự hung bạo của thiên nhiên. Họ đến với nhau trong lo âu nhưng dịu ngọt, hiến dâng cho nhau một tình yêu đầy thảng thốt”.
Cũng giống như trong Tình Thầm, nhà văn bóc trần ở đây sự yếu đuối của con người, sự giằng co giữa con tim và lý trí, giữa tình yêu và bổn phận, giữa cái mình là và phải là.
Nhà văn nữ viết đậm đà và độ lượng về thảm kịch một phụ nữ đã phải trả cái giá đắt nhất cho sự lựa chọn được làm bằng tất cả tự do ban đầu của mình khi quyết định đi đến nơi hẹn với người yêu. Những gì sau đó hoàn toàn thuộc về bất trắc - nếu không là bất công nghiệt ngã - của cuộc đời.
Như vậy, qua Gió Lẻ và 9 câu chuyện khác, Nguyễn Ngọc Tư đã ghi thêm những bước đi chinh phục. Dưới một bề ngoài thoạt trông như “đã thấy đâu đây rồi”, tác giả - qua từng tác phẩm - đã tỉ mỉ tỉa xén và tái tạo từng mảng thực tại theo một cảm hứng và mỹ quan mới.
Vì thế, có người như Yến Nhi (26) một mặt cho rằng “dễ nhận dạng một phong cách viết truyện khá ổn định của Nguyễn Ngọc Tư”,nhưng mặt khác cũng ghi nhận “một tiếp cận của Nguyễn Ngọc Tư vào trào lưu mới ở lối kết cấu đồng hiện (Sầu trên đỉnh Puvan, Núi lở, Gió lẻ) và sự hoá thân vào các ngôi 1, ngôi 3, và loài vật để kể chuyện (Vết chim trời, Ấu thơ tươi đẹp, Một chuyện hẹn hò) làm thay đổi tiết tấu tự sự ở từng thiên truỵện cho thêm phần dí dỏm, hứng thú”.
Và phát hiện xuất sắc điều cơ bản là: “Tất cả đều đứng ở bờ ranh của sự trong sáng và u tối, của cái thiện và cái ác; “cái tài” của Nguyễn Ngọc Tư là nơi mấp mé bờ vực đó vẫn giữ cho nhân vật một nét của thiên lương, để rồi chỉ chờ chút gió lành của cuộc sống thoáng qua là bùng lên ánh sáng của nhân phẩm”.
Nói chung, tập truyện dễ tạo ấn tượng buồn vì hầu hết các câu chuyện đều kết thúc trong tan vỡ, chia ly hoặc cái chết. Thậm chí, nói như Tâm An (29):
“Tập truyện ngắn này hướng về sự giải thoát của cái chết, sự ra đi thanh thản mà nhân vật chính chờ đợi từ lâu”,
để rồi “đọc truyện, chợt giật mình bởi những cái chết kia không gì khác chính là hồi chuông thức tỉnh yêu thương trong mỗi người chúng ta”.
Chừng ấy nhận xét và cảm nhận, bất luận về ý hay lời, cũng đủ để nói lên rằng người ta khó đồng tình với cách đánh giá sau đây của Phạm Xuân Nguyên (27): “… đọc cả loạt truyện dễ có cảm giác lặp lại trong cách khai thác đề tài.”
Cảm giác lặp lại, nếu có, là không ở cách khai thác đề tài!
Mặt khác, để trở lại với truyện ngắn chính, nếu mọi người có thể dễ dàng chấp nhận rằng “truyện hứa hẹn là một đột phá mới của người viết, nhưng Gió Lẻ chưa được đến độ như có thể mong đợi”, thì - ngược lại - làm sao tránh khỏi băn khoăn khi nghe nhà phê bình văn học của chúng ta phát biểu một cách đáng ngạc nhiên như thế này:
“Đọc nó vẫn thấy ra chất Nguyễn Ngọc Tư, và do đó lại có chút tiếc nuối. Có cảm tưởng tác giả vẫn đang bị níu chân trên đường quen.”
Thế ra, phải làm cho hết thấy “chất Nguyễn Ngọc Tư” mới là đột phá!
Đó là chưa kể đến những điều không đúng sự thật sau đây, đối với những ai đã thật sự đọc qua truyện ngắn, cũng nằm trong bài hình như được viết quá vội vàng của Phạm Xuân Nguyên:
“Gió lẻ có ba nhân vật, đan xen hai giọng kể (…) Nguyễn Ngọc Tư đã cố gắng đổi cách viết, thực chất là tìm cách móc nối những đoạn văn ngắn, những mẩu chuyện mà tách riêng ra có thể thành từng truyện độc lập, vào trong một chỉnh thể mới để làm đa dạng đa chiều hơn thế giới nghệ thuật của mình” (xin được gạch dưới).

Hành trình vô tận…
Câu hỏi mà độc giả hay đặt ra cho Nguyễn Ngọc Tư là tại sao chị từ bỏ lối viết quen thuộc để đi vào những thử nghiệm mới. Câu hỏi này, tự nó, nói lên và mở ra nhiều vấn đề liên quan đến hình thức, nội dung và chiến lược sáng tác của nhà văn.
Trước hết, vì sao những thay đổi dễ nhận ra trong CĐBT đã không hề gây thắc mắc cho độc giả, mà phải đợi đến Gió Lẻ người ta mới lên tiếng?
Một cách hiển nhiên và gần như mặc định, lối viết mới của Nguyễn Ngọc Tư trong CĐBT đã được công nhận là rất đạt.
Mỗi nhà văn là một nhà sáng tạo, do đó mang một cá tính, một phong cách riêng khiến độc giả không thể nhầm lẫn với bất cứ ai khác.
Phong cách (style) là kiểu viết, là thói quen diễn đạt của một tác giả. Giọng là cách phát âm có tính cách riêng trong trường hợp một ngôn ngữ, là lối sử dụng câu chữ của nhà văn để biểu lộ ý tưởng hay mô tả sự vật, con người, tạo cho nó một sắc thái riêng về mặt hình thức.
Đó là những hằng số bất biến, là đặc trưng của mỗi ngòi bút. Nó chính là “dấu tay” nhà sáng tạo nghệ thuật để lại trên tác phẩm mình. Đánh mất nó là đánh mất bản sắc và cả cái “vốn quần chúng” của tác giả, khiến người đọc sẽ không còn nhận ra được cây bút quen thuộc của mình. Đó là một lỗi nặng, giống như để mất thương hiệu trong lãnh vực Tiếp Thị (Marketing).
Nguyễn Ngọc Tư hoàn toàn có thể và nên động não không ngừng để luôn luôn cống hiến cái tươi tắn, mới mẻ. Tác giả có thể thay đổi nhịp điệu, y trang, màu sắc, “phông” cảnh… Nhưng sẽ không hợp lý chút nào nếu chị đụng tới phần hằng số bất biến của mình. Điều đó có vẻ quá hiển nhiên nhưng thực ra không dễ tránh, nếu không có một sự phân tích thấu đáo ngay từ đầu: nó đã từng xảy ra một cách đáng tiếc trong một số tác phẩm về sau này của Nguyễn Huy Thiệp chẳng hạn, qua đó, người ta hết còn nhận ra cái chất độc đáo của anh nữa.
Trong một bài phỏng vấn phong phú (19), Võ Đắc Danh có nhắc nữ sĩ Cà Mau câu nói của Gamzatov, nhà thơ nổi tiếng của dòng văn học tiếng Avar miền núi Daghestan: “Văn học không có ranh giới, nhưng nhà văn phải có quê hương”.
Hình như có vấn nạn “tính địa phương” phải chăng là một cản trở cho tiến trình văn nghiệp Nguyễn Ngọc Tư. Nhưng, hơn thế nữa, có lẽ cái cốt lõi chính là câu hỏi “cái phổ quát” (l’universel) có thực sự đối lập với “cái riêng lạ” (le singulier) hay không trên bình diện văn học. Một đề tài lớn về triết học, tôn giáo và văn hóa, từ lâu đã làm chảy nhiều bút mực qua các thời đại.
Một cách tổng quát, ta có thể tham khảo quan điểm của Leibniz, cho rằng “muốn đi đến cái phổ quát thì trước hết phải bám rễ trong cái riêng biệt, bởi vì cái trước luôn luôn hiện ra - thoạt tiên -dưới dáng nét của cái sau” (30) .
Aimé Césaire thì gói ghém qua công thức: "C'est en étant soi-même qu'on est universel" (chính khi mình là mình thì người ta mới đạt đến cái phổ quát), những gì nhà thơ đảo Martinique đã nói trong tác phẩm “Cahier d’un retour au pays natal”: muốn đạt tới cái phổ quát, các nền văn hóa châu Phi phải bám rễ vào một nơi chốn và một lịch sử.
Cũng vậy, Ngoc Tư càng “đặc sệt Nam Bộ”, càng khám phá, đào sâu, bóc trần những cái lẽ không cùng trong lõi cốt con người và cuộc sống trên những mảnh đất, vùng trời đích thực (authentique) nhất, dù riêng lạ (singulier) đến đâu - bằng lao động sáng tạo nghệ thuật - thì như thế chị mới cống hiến có ý nghĩa nhất, và không chỉ cho độc giả của riêng một xứ nào.
Nguyên Ngọc (31) có nhận xét và cách nói bậc thầy: “qua những bức xúc thời sự, Tư có cái tài biến nó thành cái nhân loại.” Nguyên Ngọc đã sớm thấy tầm khái quát cao của một CĐBT mà ông đã không ngần ngại xếp ngang hàng với những Số Đỏ, Nỗi Buồn Chiến Tranh và các truyện ngắn hay nhất của Nguyễn Huy Thiệp. Ông cũng đã mạnh dạn dành lời khen “lịch sử” sau đây cho Nguyễn Ngọc Tư (32): “Với CĐBT, văn chương ta bước vào toàn cầu hoá hôm nay một cách đàng hoàng, cùng và ngang bằng với những giá trị nghệ thuật và nhân văn của toàn cầu, chẳng phải nể ai hết”.
Đó là một nhìn nhận đầy vinh hạnh và đồng thời cũng chất chứa những kỳ vọng lớn lao đặt nơi nữ sĩ Cà Mau.
Mặt khác, bước sang lãnh vực thực hiện và nhìn dưới góc độ nghề nghiệp, thiết tưởng ta không thể không đề cập đến những sơ hở và nhược điểm mà người làm văn học nghệ thuật thường khó tránh khỏi.
Thật thế, văn nghệ tuy không là kinh tế, nhưng vẫn đòi hỏi phải có tư duy, chiến lược và lộ trình hành động. Những thất bại gần đây của nhiều ca sĩ do thiếu suy nghĩ về chiến lược đã được báo chí trong nước nêu lên khá rõ ràng và rất đáng suy ngẫm (33). Cho nên, rất dễ hiểu là người đọc yêu mến Nguyễn Ngọc Tư có đôi chút lo ngại về sự định vị chiến lược (positionnement stratégique) của chị trên trận địa văn chương.
Khái niệm “định vị chiến lược” là cơ bản trong Marketing. Sẽ không có chỗ cho việc đề cập đến nó ở đây, nhưng thiết tưởng nó sẽ rất hữu ích cho bất cứ ai muốn đưa thành quả lao động của mình đến tay một quần chúng tiếp nhận (34). Quan hệ giữa nhà văn với độc giả cũng không nằm ngoài lô-gic đó.
Có nên hay không, việc bỏ một mạch ngầm chỉ mới vừa được khai thác và đã gặt hái thành công lớn? Bước vào một vùng đất mới, liệu Ngọc Tư có sử dụng hết được sở trường của mình chăng?
Cách tân (innover) không phải để cách tân. Nó không phải chỉ duy nhất dựa trên sự sáng tạo (créativité), mà còn phải biết sáng tạo ra cái gì, và sản phẩm mới đó có lọt được vào mắt xanh của thiên hạ, có đáp đúng những khát vọng bùng phát hoặc còn đang âm ỉ trong lòng khách thưởng ngoạn hay không.
Vì sao Nguyễn Ngọc Tư lại bỏ sức đi viết tản văn hoặc … tạp văn (một từ không mấy hoa mỹ để chỉ một thể loại văn học!), thay vì tập trung sáng tác truyện ngắn - và nhất là tiểu thuyết, nếu được - bởi truyện mới là một tác phẩm nghệ thuật tự tại?
Để vươn ra thế giới, ngoài ví dụ Hàn quốc, làm sao giới thiệu nữ sĩ Cà Mau với các nước khác đặc biệt là ở phương Tây?
Để làm giàu, làm mới mình, tác giả có nghiền ngẫm, kế thừa, giao lưu, cọ xát với văn học thế giới đủ chưa?
Hỏi tức là trả lời.
Sáng tạo cần đam mê, bốc lửa. Trong một cuộc trả lời báo chí mới đây, Nguyễn Ngọc Tư có nói lo sợ sẽ bị “cạn” đi (35). Điều đó dễ hiểu và chứng tỏ ý thức của chị về trách nhiệm và vai trò của mình.
Đầu tháng 7 vừa qua, Nguyên Ngọc cũng đã có những đánh giá thẳng thắn và xác đáng về nữ sĩ Cà Mau (31), cho thấy cơ sở sự tin tưởng sáng suốt và quảng đại của ông:
“Gần đây, một số tạp bút của Nguyễn Ngọc Tư có hơi chững lại, không còn giữ được nhiều sự thâm trầm và sắc sảo như trước. Nhưng có lẽ cũng không sao, người ta viết lên xuống là thường. Tôi vẫn tin Nguyễn Ngọc Tư. Cô ấy rất có bản lĩnh. Một trong những nét bản lĩnh đó là cô luôn thấy văn chương của mình có vấn đề, luôn thấy cần thay đổi, đồng thời vẫn là mình. Trong một bài viết, Tư đã nói rằng cô sợ mình “nhạt” đi, một người viết biết được như thế là rất giỏi. Chắc Tư còn tự thay đổi, sẽ khác đi, mà vẫn là Tư.”
Đặc biệt, vẫn bằng lối nói sâu sắc cố hữu, Nguyên Ngọc khẳng định:
“Tư là một nhà văn rất xã hội, nhưng xã hội một cách rất văn học, rất nghệ sĩ.”
Chính những phẩm chất đó là hành trang máu thịt trên con đường Nguyễn Ngọc Tư đi giữa thế gian và đến tận sâu thẳm tim người.

…trong đối thoại với cuộc đời
Những gì chính trị và các kênh xã hội công dân bó tay, hình như văn học có khả năng làm được. Nhưng nó không trực diện hoặc quá chân phương như đã thấy trong một ví dụ kịch nghệ gần đây chẳng hạn, đã giới thiệu say sưa dự án kịch bản “Bản giao hưởng Điện Biên” giữa lòng thời sự (36). Văn học thâm trầm và trải rộng tầm mắt hơn.
Văn học luôn góp phần vào sự chuyển hóa của đời sống. Nó sẽ không bao giờ là nó nếu lên gân “ tải đạo” hay đóng vai kẻ chỉ đường. Vì đường thì ở trong tâm thức mỗi người. Vì sức mạnh của văn học là nằm chính ở sự đồng cảnh ngộ, trong tư thế người trong cuộc, với mọi sắc thái và hệ quả trần gian.
Văn học soi rọi, chia sẻ, khơi gợi, mun mớm cho con người nguồn cảm hứng và sự háo hức sử dụng Tự Do. Để hiểu. Để thở. Để hành động.
Văn chương Nguyễn Ngọc Tư là văn chương của thân phận. Nếu nghệ thuật, nói như André Malraux là một “phản định mệnh” (anti-destin), thì nghệ thuật Nguyễn Ngọc Tư đã kết tinh được dũng khí sắc bén với bao dung hồn hậu, thống khổ với hy vọng, nước mắt với nụ cười.
Tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư có khi được nhìn như một sự cảnh báo (17) hoặc một liều thuốc cứu rỗi (29). Nó chính là lời mời dừng lại, để đến với sự thật, với yêu thương. Để trở về nguồn nhân ái của con người giữa một thế giới lây lan vô cảm, phân ly và ngày càng có khuynh hướng chạy trốn về phía trước.
Nguyễn Ngọc Tư là một hiện tượng, là cơ may cho một nền văn học dễ chừng đang bí lối, trong một xã hội buông chèo, mắc cạn. Là biểu tượng cho niềm tin còn lại ở nhân tính bật dậy trong những phút giây hiểm hóc nhất, nơi tột cùng của sự phủ nhận cuộc đời.
Ngọc Tư: cây bút thiên tư mang tấm lòng châu ngọc.

Đất Thổ Sầu, mùa gió chướng
Bùi Đức Hào



(1) Nhìn về "Cánh đồng Bất Tận" của Nguyễn Ngọc Tư, Hồng lê Thọ,
http://vietsciences.org/.
Chú thích thêm: Riêng về Vòng Tay Học Trò, kẻ viết bài này đã từng có hân hạnh phân tích(trong “Bên kia một tác phẩm”, Giai Phẩm Xuân Trung Học Hồ Ngọc Cẩn, 1969) và ước mong sẽ hiện hữu những thiện chí tìm hiểu chân thành, cho phép xóa đi những ngộ nhận đáng tiếc về tình khúc văn chương tuyệt mỹ này.
(2) CĐBT cháy vé vì sao, Hà Nam,
http://www.vnmedia.vn/newsdetail.asp?NewsId=157671&CatId=58#
(3) Đạo diễn Minh Nguyệt: Trôi trên cánh đồng bất tận, Toàn Nguyễn,
http://antgct.cand.com.vn/viVN/nhanvat/2009/5/52910.cand?SearchTerm=Minh%20nGuyệt
(4) Một cung bậc khác của CĐBT, Văn Bảy, http://www.thethaovanhoa.vn/326N20090223110740664T133/mot-cung-bac-khac-cua-canh-dong-bat-tan.htm
(5) Cánh đồng của tình thương và nỗi đau, Hoàng Oanh,
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=302741&ChannelID=62
(6) Yêu thương hóa giải hận thù, Trần Minh Ngọc,
http://www.sggp.org.vn/vanhoavannghe/2009/1/179612/
(7)Nghệ sĩ Thanh Thủy thức cùng cô đơn, CátVũ,
http://www.tuoitre.com.vn/tianyon/Index.aspx?ArticleID=314039&ChannelID=62
(8) NS Thanh Thủy với Cánh đồng bất tận,
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=302741&ChannelID=62
(9) Tác phẩm CĐBT được chuyển ngữ và phát hành tại Hàn Quốc,Trà Mi, http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/VnBestsellerConceptIntroducedInSouthKorea_TMi-20071028.html/story_main
(10) Người đọc “bắt được sóng” của trái tim vàtàinăng,
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=132234&ChannelID=6
(11) Báo Pháp Luật TP. Hồ Chí Minh số ra ngày 12.4.2006
(12) Vẽ cây vẽ chim, Cao Huy Thuần, Thấy Phật (NXB Tri Thức 2009)
(13) http://www.thethaovanhoa.vn/133N20080924083249696T0/ba-bau-nguyen-ngoc-tu-di-nhan-giai-asean.htm
(14)Tập san Áo Trắng 12/10/2008, Yến Linh,
(15) Gió Lẻ của Nguyễn Ngọc Tư và những điều ngoài ngôn ngữ, Hồ Trung Tú,
http://giaoan.violet.vn/present/show/entry_id/539435
(16)Văn Nguyễn Ngọc Tư - Số lượng hay chất lượng?, Đình Khôi –V. Quỳnh, http://www.thethaovanhoa.vn/133N20081018111811900T0/van-nguyen-ngoc-tuso-luong-hay-chat-luong.htm
(17)Đọc “Gió lẻ…” Nguyễn Ngọc Tư: Cảnh báo về sự dối trá, Cao Thoại Châu, 30/9/2008,
http://www.vanchuongviet.org/vietnamese/tulieu_tacpham.asp?TPID=8785&LOAIID=15&LOAIREF=5&TGID=607
(18) GIÓ LẺ" VÀ TÔI, Lê Anh Thu, 14.9.2008,
http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=5296
(19) http://www.viet-studies.info/NNTu/VoDacDanh_NguyenNgocTu.htm
(20) Tham luận tại Seoul nhân dịp CĐBT ra mắt độc giả Hàn Quốc,
http://metinfo.blogspot.com/2007/10/cnh-ng-bt-tn-i-chi-hn-quc.html
(21) Đọc 'Gió lẻ' nhớ Jean Paul Sartre và Albert Camus, Đoàn Thị Cảnh,
http://evan.vnexpress.net/News/phe-binh/phe-binh/2009/01/3B9AE2AF/
(22) ‘Gió lẻ’ không chịu ảnh hưởng của J.P. Sartre và A. Camus, Ngô My, http://evan.vnexpress.net/News/phe-binh/tranh-luan/2009/01/3B9AE2CB/
(23) Bàn về "Gió lẻ" của Nguyễn Ngọc Tư, 17/2/2009, Mai Ngọc Trầm/ Trúc Vy,
http://forum.sachhay.com/showthread.php?p=3997
(24) Đời Gió lẻ trên đường Nguyễn Ngọc Tư, Nhã My,
http://www.giacngo.vn/vanhoc/2008/09/20/73D259/
(25) "Gió Lẻ và 9 câu chuyện khác", Minh Thi, Lao Động Cuối tuần số 38 ngày 21/09/2008, http://www.laodong.com.vn/Home/ldcuoituan.laodong
(26)Nhà văn của những mảnh đời bất hạnh, Yến Nhi,
http://www.vanchuongviet.org/vietnamese/vanhoc_tacpham.asp?TPID=9832&LOAIID=28&LOAIREF=1&TGID=1424
(27) Nguyễn Ngọc Tư - một báo hiệu khác từ Gió lẻ, Phạm Xuân Nguyên, http://tusach.tuoitre.com.vn/ArticleView.aspx?ArticleID=278094&ComponentID=1
(28) http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=315302&ChannelID=414
(29) Nguyễn Ngọc Tư của những cơn "gió lẻ", Tâm An, 26/09/2008,
http://tuanvietnam.net/
(30) Senghor et la pensée de l’universel: l’éclairage leibnizien, R. Diagne, Afrique et Développement, Vol. XXXIII, No1,2008, p.88.
(31) Hai nhà văn già và cô gái trẻ, Minh Nguyễn,
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=325111&ChannelID=61
(32) Không gian… của Nguyễn Ngọc Tư, Nguyên Ngọc,
http://www.viet-studies.info/NNTu/NguyenNgoc-NguyenNgocTu.htm
(33) Ca sĩ chông chênh, Quỳnh Nguyễn,
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=320689&ChannelID=58
(34) Có thể tham khảo sách kinh điển “cổ điển” về Marketing đã được dịch ra tiếng Việt khá nhiều ở Việt Nam, hoặc đọc thẳng những sách gần đây hơn, như của Harry Beckwith: Selling the Invisible: A Field Guide to Modern Marketing, The Invisible Touch: The Four Keys to Modern Marketing, v.v…
(35) Nguyễn Ngọc Tư: Sợ sẽ "cạn đi" như nhiều người, 10-06-2009,
http://www.phapluattp.vn/news/van-hoa/view.aspx?news_id=257138
(36) “Ba chữ Võ Nguyên Giáp đã hút hồn tôi”, Nguyễn quang Vinh, http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=322032&ChannelID=62

Ngô My phản hồi Bùi Đức Hào
về bài viết
Thử nhận định về Gió Lẻ
sau hiện tượng Cánh Đồng Bất Tận
trong hành trình văn học Nguyễn Ngọc Tư

Vì bài viết của ông Bùi Đức Hào có một đoạn tập hợp nhiều ý kiến từ nhiều người phê bình khác, tôi xin được phản hồi bên dưới một vài ý kiến đó bằng chữ màu xanh. Tôi chỉ xin nêu ý kiến và cảm nghĩ của mình về Gió Lẻ và viết tắt NPB như Nhà Phê Bình hay Người Phê Bình.

Thế nhưng, trong Gió Lẻ, văn chị súng sính – và đôi khi hơi ngượng nghịu – trong chiếc áo mới, nhất là ở phần đầu, như thể ngòi bút chưa đủ hâm nóng, dẫn tới những phê bình như của Nhã My (24):
“Cách viết mới, nên người khen không ít, người không chấp nhận cũng nhiều thiệt nhiều. Nhất là, người quen với Nguyễn Ngọc Tư chân quê dung dị, bảo Gió lẻ khác chị xưa quá, như cô gái chân quê một bước đi ra thành thị, với câu chữ làm duyên làm dáng (…) Nguyễn Ngọc Tư có lạ, có mới, có biến đổi câu chữ kỳ ảo làm cho bạn có khi hơi mất đi chút xíu cảm tình.”
Khi NPB Bùi Đức Hào nói
“... trong Gió Lẻ, văn chị súng sính – và đôi khi hơi ngượng nghịu – trong chiếc áo mới, nhất là ở phần đầu, như thể ngòi bút chưa đủ hâm nóng...”,
ông đã không chỉ ra được đoạn văn đó súng sính hay ngượng nghịu ở từ nào, nghĩa nào. Theo tôi, đoạn văn đầu tiên đó không có vẻ gì ngượng nghịu hay súng sính, nó chỉ là không làm tốt cho phần mở đầu Gió Lẻ. Ví dụ, nếu tác giả đưa đoạn văn đó về sau như một hồi tưởng, đồng thời bắt đầu Gió Lẻ bằng đoạn thứ hai
“Họ không còn nhớ màu của nắng, hay phía của mặt trời rơi, vào buổi chiều chiếc xe tải rời một cái quán ăn bên ngã ba đường đi chợ Cỏ...”,
thì tôi tin, câu chuyện sẽ được mở màn sống động hơn, trực dẫn vào chuyến xe định mệnh của ba con người.
Mỹ từ pháp nhân cách hóa đôi lúc dường như bị “quá dose”, dễ cho cái cảm giác văn hơi cầu kỳ, chẳng hạn như khi tác giả viết:
“Hôm ấy, gió lẻ bắt đầu ướm chân vào mùa” (trang 125);
Bắt đầu chuyện kể về cái chuyến đi của những con người cô lẻ ấy bằng cuộc khởi hành của gió. Gió đã bắt đầu “ướm chân vào mùa”, họ cũng vừa lên đường... Còn một biện pháp nào tốt hơn, thích hợp mà thi vị hơn thế nữa không, trừ phi có ai thực sự ghét gió bởi thường lậm gió?
hay như ở tiểu đoạn tả về cơn gió làm nền cho tác phẩm (trang 132), với những câu giống văn chính luận nhiều hơn là văn truyện ngắn: “Và từ khi lìa nhau, gió dằn vặt con người bởi nỗi ly tan của chính nó”,
“Và từ khi lìa nhau, gió dằn vặt con người bởi nỗi ly tan của chính nó” là không nên dùng cho Truyện ngắn? Lời khuyên này sẽ gây nhiều “nan giải” cho chính người viết ra nó đấy. Khi Bình Nguyên Lộc viết:
"Gió bấc lướt trên ngọn cây, té vào giếng ấy như nước chảy vào chỗ trũng, và vì không có lối ra gió quay cuồng, càng vặn thêm lòng người vốn đã lạnh" (*), sao không hề nghe ai trách cứ?
Gió mà “quay cuồng” vì “té vào giếng” rồi “vặn thêm lòng người vốn đã lạnh...” thì chuyện nó có “dằn vặt con người bởi nỗi ly tan của chính nó” đâu có gì là không phải?
Xem “gió” của Ngô Phan Lưu trong “Bầy Người Bé Nhỏ” kìa: “Bầu trời như một tấm chì đang đè sát xuống một biển nước màu gạch pha tro. Đè sát đến mức, gió lạnh cũng phải ép mình mới đi qua được.”
Gió phải tự “ép mình mới đi qua được” cái gầm trời sát sạt ấy đấy, khổ lắm. Gió mỏi mệt tả tơi rồi, nhưng vì bản chất hồn nhiên xuân thì của nó, nên gió lại “ướm chân vào mùa” tiếp tục lang thang, tôi nghĩ thế.
(*) – theo trích dẫn của NPB Thụy Khuê, Hợp Lưu 11/11/2008
Mặc dù có người nghĩ Nguyễn Ngọc Tư chọn “bút pháp tượng trưng xen lẫn siêu thực” (17) trong Gió Lẻ, độc giả vẫn dễ cảm thấy, ở tiểu đoạn tả người say rượu (trang 128), hình ảnh “máu loãng” hơi bị gượng ép, nhất là ở câu cuối:
“Cả người anh ta ngấm nước mưa, rượu và nỗi buồn, tất cả đã ướt đẫm tới xương. Chúng pha loãng máu, và trái tim mệt mỏi kia phải đẩy đưa từng dòng trong vắt. Em quẩy túi lên vai, em sợ cái cách chảy trôi tuột, trơn lẫy của những dòng máu loãng.”
“Em quẩy túi lên vai”, cuống cuồng bỏ đi, “em sợ cái cách chảy trôi tuột, trơn lẫy của những dòng máu loãng” ấy, bởi vì đó là những dòng “máu lạnh” hay “máu hèn”?... (“Bữa ở trên đèo, tụi nó có tới sáu thằng. Mình đâu có bỏ chạy, mình chỉ tìm người tới giúp.” )
Mà “Em”, hình như “Em” khinh cả hai thứ máu đó, cho dù “nước mưa, rượu và nỗi buồn” có cố gắng “pha loãng” bớt cái lạnh lùng, cái hèn của dòng máu đó, có cố trưng ra một lời giải thích, thì em cũng vẫn cứ khinh, sợ và bỏ đi. Có gì gượng ép ở đây không nhỉ? Và chắc chắn, không có bút pháp siêu thực nào, chỉ là một dụng ý của nghệ thuật ẩn dụ.
Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên (27) đã rất khắt khe với tác giả trong câu cuối này, cho rằng:
“…khi chị tỏ ra làm lạ mình, khác mình bằng cách “làm văn” ở câu chữ thì lại không nên. Cái duyên cái chất của Ngọc Tư là ở những câu văn chân chất, hồn nhiên truyền tải được cái hồn vía của một người văn. Những câu làm dáng, văn hoa thật không phù hợp và không cần thiết cho truyện, càng rất không “Ngọc Tư”.
Để vươn ra thế giới, ngoài ví dụ Hàn quốc, làm sao giới thiệu nữ sĩ Cà Mau với các nước khác đặc biệt là ở phương Tây?
Để làm giàu, làm mới mình, tác giả có nghiền ngẫm, kế thừa, giao lưu, cọ xát với văn học thế giới đủ chưa? Hỏi tức là trả lời.
Tôi tin, khi đem thân mạng của mình đi đấu tranh cho hoà bình, không ai muốn nghĩ đến giải Nobel Hoà Bình Thế Giới (dĩ nhiên phải trừ ra vài ca khác thường đã từng có trong lịch sử của giải thưởng này). Khát vọng thì khác với tham vọng. “Em hồn nhiên rồi em sẽ bình minh”.
Yêu cầu một tác giả phải vừa “bám giọng”, giữ “hồn vía”, luôn giữ “chất Ngọc Tư”, không nên “bỏ một mạch ngầm”, vừa phải “vươn ra thế giới”, rồi phải “nghiền ngẫm, kế thừa, giao lưu, cọ xát với văn học thế giới”, phải “định hướng chiến lược” theo marketing, vân vân và vân vân... ? Các nhà phê bình quí mến ơi, tất cả những điều các vị nói trên nghe rất giống chỉ thị, một sự phân công tác, hay lời hợp đồng của nhà xuất bản, chứ không phải là công việc của phê bình tác phẩm.
Nếu độc giả Việt Nam, trong đó có các nhà phê bình, chưa rung động thực sự trước sự nhạy cảm tinh tế, chưa hiểu trọn vẹn những dụng ý nghệ thuật , không chấp nhận những giọng văn khác nhau của một tác giả, thì việc giới thiệu tác giả đó ra nước ngoài hẳn có gì mà phải vội?

Lời của riêng tôi:
1. Giọng kể của ai?
Trong Gió Lẻ, nếu hai ba giọng kể nào như một số người phê bình đã chỉ ra, thì đó cũng chỉ là một giọng nói duy nhất, giọng của tác giả ở thể ngôi thứ ba, vừa third-person omniscient (biết ý nghĩ, cảm giác của tất cả nhân vật) lẫn third-person limited (chỉ biết ý nghĩ, cảm giác của một nhân vật) .
“Em” ở đây không tự mình kể chuyện, mà là tác giả đang kể chuyện. Tác giả dùng từ “Em” như là “Nàng”. Vì là ở trong vai ngôi thứ ba third-person omniscient nên “người kể” có toàn năng hiểu và kể lại khi thì về hoàn cảnh của tất cả nhân vật; khi thì hiểu được sự giao cảm giữa “Em” và các con vật rồi tường thuật; lúc thì nói lời của Gió, và ghê hơn nữa, đã kể lại lời của các con ma. Ngôi thứ ba third-person omniscient này xuyên suốt Gió Lẻ từ lời mở đầu của một con ma (“Tại sao người ta không nhìn thấy mình khi mình còn sống”) cho đến lời trách của con ma Tìm Nội khi chiếc xe rơi xuống vực (“con nhỏ này… tôi chỉ định giỡn thôi mà…”).
Nhưng, dọc theo câu chuyện đôi khi tác giả ở ngôi thứ ba đó lại “thu mình” vào third-person limited, chỉ biết được ý nghĩ của một nhân vật, không biết về những nhân vật kia. Ví dụ, khi “thu mình” vào “Em” , tác giả chỉ biết về em, mà không biết ý nghĩ của các nhân vật Ông Buồn và anh Tìm Nội. Tác giả cũng đã làm điều tương tự, “thu mình” vào nhân vật Ông Buồn, anh Tìm Nội, thậm chí vào các con ma, con vật.
Độc giả dễ bị “rắc rối” chỗ này, “Em” và con chó tên Cò lại trò chuyện và hiểu nhau được ư? Thật vừa ngộ nghĩnh, vừa cảm động khi tác giả làm thông ngôn, tường thuật lại với chúng ta về sự giao cảm không lời giữa “Em” và con chó...
“Con Cò lẽo đẽo đi theo, thật ra cái từ “đi” nó chẳng hiểu, vì em (nàng) chưa từng nói, nhưng nó biết có cơn đau nào đó đang xảy ra...”
Lẽo đẽo theo sau bước chân cô độc của kiếp người là một tình thương, một mối cảm thông vô ngôn, một cái biết siêu nhiên, xoá tan biên giới giữa người và vật. Nó gây chấn động, gây xấu hổ cho con người, sao chúng ta còn tệ hơn cả loài vật?
Vì là ở ngôi thứ ba third-person omniscient nên tác giả có toàn năng hiểu và kể lại lời độc thoại của nhân vật, nói lên những suy nghĩ của nhân vật bằng tiếng nói của chính mình, nên mới xảy ra việc đột xuất xen lẫn trong những độc thoại của nhân vật, có một giọng nào đó đang “làm văn”, tả cảnh tràng giang mà không nhất thiết đó là lời nói của nhân vật. Cho nên, nhận xét của NPB Phạm Xuân Nguyên:
“Thí dụ câu này từ miệng kể cô bé nhân vật chính: “Trong mớ âm thanh quen thuộc của lũ kiến chạm chân trên đường rời tổ, của muôn vạn cái lá dập xao xác, những giọt sương sẽ sàng rụng xuống, tu hú kêu vang trong bờ sậy, có lẫn tiếng cây đang ứa nhựa hàn gắn vết thương, nơi nụ hoa lìa” là hố to. Đó là lời tác giả, chứ không phải là lời của cô gái.
Vừa trực tuyến, đơn tuyến, vừa đa tuyến. Sự nhào lộn, biến hoá của “point of view” này gây ra sự “khó nắm bắt” cho một số độc giả , nhưng nó rất thông dụng trong truyện ngắn và tiểu thuyết, tạo nên những tình huống hấp dẫn.
2. Gió Lẻ – một biểu tượng:
Suốt truyện ngắn Gió Lẻ, độc giả có thể sẽ choáng ngợp, đếm được đến vài chục từ “gió” trong đủ loại gió khác nhau: gió chướng, gió độc, gió lạnh, gió bầy, ... Nhưng Gió Lẻ là loại gió gì? Tôi thầm mong nó không có nghiã là Gió Lẻ Tẻ, mà hy vọng rằng tác giả đã dùng nó cho tựa đề, như một biểu tượng để nói lên sự lẻ loi, cô độc. Thật xiết bao thất vọng khi chị bỗng dưng tự phá huỷ cái biểu tượng rất độc sáng của tựa đề Gió Lẻ:
“Câu chuyện trong trẻo và vui nhộn không bao giờ chấm dứt, bất chấp mưa, nắng, bất chấp gió lẻ gió bầy.”
“Gió bầy đi rồi gió lẻ tới, mỗi mùa gió có một tiếng nói riêng, nên âm thanh chung quanh em lúc nào cũng thanh thao và trong trẻo.”
Khi Gió không còn là hình ảnh để nói về sự lẻ loi, vô định và cô độc thì sự “trốn gió” bỗng hoá ra là cái “trốn lạnh” bình thường, chứ không phải là sự chạy trốn nỗi cô đơn, cô độc. Do đó mà NPB Bùi Đức Hào mới nói rằng:
“Vì thế, người đọc khó được thuyết phục về mục đích chỉ nhằm “trốn gió” của gã lái xe”. Và ông ta đúng.
Tôi tin, trong vội vã chị đã “lỡ tay đánh rơi” biểu tượng. Cho nên, khi trả lời phỏng vấn, chị đã nói: “Thật ra tôi có thể viết Nắng lẻ, hay Mây lẻ, nhưng những thứ này không… lạnh, khi tôi đang nói tới cái cô độc hiu hắt của cuộc đời.”
3. “Làm văn”, tại sao không?
“Em” xiết bao hoang dại, ngây thơ, khi vừa chớm dậy thì...
Nằm nhìn trăng trôi trong rẫy bắp, em từng nghĩ, khi mình nói trở lại, câu đầu tiên là gì?
– Mầy đừng liếm chân tao, nhột lắm!
Câu đó em sẽ nói với con Cò. Nó hay làm em tỉnh giấc bởi sự hí hửng vô chừng, chỉ là bóng trăng, lá rơi hay mùi một con chó cái xa xa… Cái lưỡi ướt lạnh của nó bắt đầu lượn lờ lên gót chân rồi lên đến bắp chân, đầu gối em. Những cơn rùng mình từ đó chạy lên đỉnh đầu, làm nên một vòng sóng ran cả người.
Dù “Từ lưu lạc, bầy sao bắt đầu nhuốm màu lam lũ, tả tơi”,thì giữa đất và trời, “sao tả tơi” kia vẫn cứ nguyên sơ, trong lành như một giọt sương.
Rồi ... “những giọt sương sẽ sàng rụng xuống, tu hú kêu vang trong bờ sậy, có lẫn tiếng cây đang ứa nhựa hàn gắn vết thương, nơi nụ hoa lìa.”
Có hạt sương rụng rơi, có nụ hoa lìa, có vết thương tự cứu chữa bằng nhựa ứa của chính mình, nhưng không có “Những luồng run rẩy rung rinh lá” (Xuân Diệu). Những “luồng run rẩy” ấy đã bị tước đoạt, đã bị chết oan!
Chỉ bằng với những khắc khoải âm thầm của thiên nhiên, những “bài làm văn” của Nguyễn Ngọc Tư cứ làm cho người đọc ngậm ngùi, rơi nước mắt. Tôi vẫn không thể hiểu, nhà văn mà không “làm văn”, thì làm gì? Giọng kể này hay lắm, sao quý vị không ưa?
Chưa hết, dù “những tia máu vằn trong mắt” và “ bước chân oằn trĩu”, với nỗi oán giận và cơn đau mà em không thể chia sẻ được cùng ai ngoài con chó tên Cò, “Em” vẫn cứ thương người. Có độc giả sẽ hiểu, “Em” khinh kẻ đã hại mình như khinh một con chó, nhưng tôi nghĩ, “Em” thương kẻ đó như thương một con chó đã “lè lưỡi liếm để gọi em than thở chuyện đời nó”. Một Tình thương đã xô ngã mọi nấc thang giá trị, nơi tâm Phật ẩn náu, không chút mê mờ. Những ai đã nói Gió Lẻ chỉ là những câu chữ làm duyên làm dáng cần nên xem lại nhận xét của mình.
4. Định vị chiến lược hay Tự do?
Hầu hết những nhà phê bình đều cho rằng Nguyễn Ngọc Tư không nên rời bỏ giọng kể của vùng sông nước Nam Bộ, bởi làm như vậy là chị sẽ đánh mất hồn, bản sắc của mình... Nhưng chỉ có chị mới có thể cảm thấy những ước muốn vươn ra ngoài địa phận đó như một khao khát khám phá nghệ thuật, chứ không phải là muốn “làm duyên làm dáng”, “làm lạ”, “đánh bóng” nọ kia. Dùng những từ này để sỗ sàng phủ đầu một tác giả đang ra sức tìm kiếm, thám hiểm trên con đường sáng tạo là không tốt bụng và không tiến bộ. Nếu chị chỉ biết tự đóng khung, tự thoả mãn với những gì đã làm ra thì mới là đáng ngại. Giọng văn cũng chỉ là phương tiện của bếp núc sáng tác, mà giọng đó là giọng của ai cơ chứ? Tại sao chị lại không thể tiếp tục sáng tác bằng nhiều giọng văn khác nhau? Tại sao phải gò ép chị nói giọng nói của nhân vật? Trung thành với giọng kể vùng sông nước phương Nam của mình, tác giả sẽ phải từ chối những đề tài khác mà chắc hẳn chị yêu thích và muốn thử nghiệm.
Tôi quý ý kiến này của NPB Thụy Khuê từ Hợp Lưu:
“Trái ngược với thời điểm sau 1954, các nhà văn Bắc di cư vào Nam, ngoài giọng văn Bắc, họ còn tập viết đối thoại tiếng Nam và họ đã làm giầu thêm ngôn ngữ của họ: văn chương luôn luôn cộng vào, khi trừ là mất đi.”
Mặc dù chị Thụy Khuê lo lắng:
“Nếu quả như vậy, thì sự "thống nhất ngôn ngữ" đang đi trong chiều đáng ngại: nó đẩy nhà văn đến chỗ chối bỏ bản ngã của mình.”
Tôi vẫn cứ không tin rằng giọng văn quyết định bản ngã của người viết, cũng không là “phần hằng số bất biến” của tác giả, như lời của ông Bùi Đức Hào.
Đọc Truyện Ngắn Việt Nam hiện nay, là một độc giả, tôi nhận thấy Ngô Phan Lưu là một bậc thầy trong cái gọi là “giọng văn”. Những câu đối thoại trong truyện ngắn của ông có khi là những lời nói của những người dân quê, mang đậm hồn quê Việt Nam nhưng câu chuyện không tự nó muốn tạo ra chất “quê” hay “dân dã” bởi nó đã là “quê mình” rồi còn gì. Tàng ẩn đằng sau những truyện ngắn ấy là một triết lý sâu lắng. Thoắt một cái, giọng nông dân chân chất biến mất, người ta nghe một giọng “Xuân Thu Chiến Quốc”, những cái nhìn gườm nhau sát nút, những lời gằn đầy hiểm hoạ (như “Xoa Tay Và Cười”), bỗng thư giãn giọng một ông “dại” Phú Yên, rồi đùng một cái lại là giọng rất trẻ như của một trung niên, có cả giai nhân, có cả sóng, cả nhạc của một khung cảnh đô thị... Một giọng kể đang “điều hành” nhưng tự nén chặt mình đằng sau sự tự diễn biến của câu chuyện. Nó không “lộ mình”, như người điều khiển những con rối mà khán giả không thực sự biết mặt mũi và giọng nói thật của người nghệ sĩ sau bức màn kia là ai. Một nhà văn vẫn có thể là một kịch tác gia theo cái cách của mình. Nếu vở kịch của mình có hai màn, một về nông thôn, một về thành phố, dĩ nhiên người viết kịch phải sử dụng đủ loại “giọng” thì mới làm nên nổi. Cái tham vọng nếu có chăng ở Nguyễn Ngọc Tư, tôi nghĩ, có lẽ là chị đang muốn viết một tác phẩm “không biên giới”. Chị đang đứng “Bên Cầu Biên Giới” đó thôi.
Nguyễn Ngọc Tư đang bị báo chí kìm hãm trong “tình thương yêu vô vàn”, dù chị đã như “gào” lên: “Con cá quẫy để khỏa bèo vì nó cần thở ở một khoảng rộng hơn. Tôi cũng vậy”. Nhưng con cá ấy đã chẳng khoả nổi bèo, mà còn là cả một rừng bèo mới thật đáng sợ.
NPB Bùi Đức Hào đã tung ra một cái lưới hoành tráng, thu gom toàn bộ dư luận và nguồn với 36 links. Không những thế, ông còn trích dẫn những tên tuổi gạo cội nước ngoài, gợi ý cả “thương hiệu”, “định vị chiến lược” của marketing, dùng đòn kinh tế để thuyết phục nữ sĩ Cà Mau:
Cách tân (innover) không phải để cách tân. Nó không phải chỉ duy nhất dựa trên sự sáng tạo (créativité), mà còn phải biết sáng tạo ra cái gì, và sản phẩm mới đó có lọt được vào mắt xanh của thiên hạ, có đáp đúng những khát vọng bùng phát hoặc còn đang âm ỉ trong lòng khách thưởng ngoạn hay không.
Văn chương trong một nền kinh tế thị trường. Nghe quen thuộc lắm. Lần này, biết bao nhiêu là người đã hả dạ. Còn nữ văn sĩ, chị đang nghĩ gì?
Tôi sống ở Mỹ, nơi hằng năm suốt trong nhiều tháng trời, đài truyền hình Fox xen kẽ chiếu hai chương trình American Idol và So You Think You Can Dance. Cả hai chương trình đó đã cho thấy thí sinh được tuyển chọn không nhất thiết phải là giọng ca / vũ công hay nhất (the best) mà là giọng ca / vũ công được yêu thích nhất (the most favorite). Với American Idol, thật dễ nhận thấy rằng ban giám khảo đã khống chế thiên hướng của thí sinh, bác bỏ nét tài hoa riêng bẩm sinh của họ, gò tất cả những “riêng lạ” ấy theo mô hình chiến lược sản phẩm của nhà sản xuất băng đĩa, cái mô hình hội đủ các yếu tố giọng và hình thể trẻ, sexy và “Americanized”. Đây chỉ là một ví dụ của cái gọi “định vị chiến lược” cho một số sản phẩm văn hoá của Phương Tây, tôi không có ý ám chỉ nhà văn như là các thí sinh kia.
Dĩ nhiên các thí sinh sau khi chịu gò mình vào các “yêu cầu” trên, dẹp bỏ cái tôi của mình, chịu lắng nghe lời khuyên của ban giám khảo và đi theo “tiếng gọi” của người thưởng thức (chứ không phải tiếng gọi của trái tim mình), họ sẽ gặt hái danh hiệu và những hợp đồng béo bở. Các ban giám khảo luôn am tường giới thưởng thức, tiêu thụ, chìu theo thị hiếu của họ để hái ra tiền. Khách hàng là thượng đế, họ nói thế. Nhưng, đó chỉ là một nửa sự thật, vẫn có một thế lực siêu quần hơn “đi trên đầu” khách hàng đấy. Không những “Selling the Invisible”, họ còn có cả “Mind Control Marketing” nữa cơ.
“Hollywood là nơi mà người ta trả một triệu dollars cho một nụ hôn và chỉ 50 xu cho linh hồn của bạn mà thôi” cô đào Marilyn Monroe đã nói thế ("Hollywood is a place where they'll pay you a million dollars for a kiss and 50 cents for your soul.").
Nhưng chúng ta có quyền hy vọng, rằng các nhà xuất bản của phương Tây không mang “tinh thần” của Hollywood.
5. Lời Kết.
Trở về Gió Lẻ, với bài viết này tôi chỉ muốn bày tỏ sự ủng hộ đối với tác giả về sự thử nghiệm phong cách mới của chị. Chẳng phải ngẫu nhiên mà chị đã khởi hành sự đi tìm cái mới bằng một cơn gió lẻ loi, cô độc đó sao? Dường như chị đã thậm hiểu rằng, sáng tác là cuộc hành trình cô độc ít bóng mát, không ai có thể giúp đỡ ai, cõng ai đi. Như một kẻ lữ hành đi qua sa mạc, qua các ốc đảo, lang thang tìm kiếm những mạch nước để được buông vào đó những cơn khát sáng tạo của mình. Nếu y không kiếm ra được mạch nước, nếu y bị lạc đường không tìm ra một ốc đảo, y sẽ phải “chết”. Các nhà văn, nhà thơ và các nhà phê bình quý mến, có phải mỗi người trong quý vị, ai cũng có những sớm mai thức dậy thấy mình như một kẻ đã chết rồi? Không cảm hứng, không đề tài, không biết viết cái gì? Rồi quý vị khoả lấp cái “nỗi chết” đó bằng sự bận rộn của một ngày để thấy mình... đang “sống”? Cái nghiệt ngã ở chỗ, ai cũng có thể cho nhau lòng mến mộ, đề tài, định hướng, nhưng không thể cho nhau nguồn cảm hứng và cái “tự biết mình phải làm gì”. Ai cũng có thể nhìn thấy, phát biểu, phân tích nhưng chỉ có một người phải tự mình làm ra cái gọi là tác phẩm. Sao không trả lại cho nhau cái đẹp nhất của “tình nghệ sĩ”: quyền tự do sáng tạo.
Nguyễn Ngọc Tư đã nói rõ những điều này trong bài tham luận Lớn lên từ những ngộ nhận
“... Nhưng sự trải nghiệm của tuổi tác, của thời gian đã làm tôi nhận ra, những gì tôi viết là không gian của riêng tôi, của sự tưởng tượng và sáng tạo. Những đất ấy, người ấy, tôi chỉ mượn cái hồn cốt, giai điệu của Nam Bộ để chuyển tải. Thổ ngữ địa phương chỉ là phương tiện thể hiện ý tưởng và câu chuyện của người viết. Chúng được mọi người xem là phong cách riêng của văn tôi. Nhưng thực chất đó chỉ là một lớp vỏ, tôi muốn bỏ qua cả lớp vỏ đó, để tận mắt thấy trên mảnh đất này, người đời đang lạnh hay ấm, vui hay đau qua làn da, qua từng vết tím, từng cái se lại của lỗ chân lông, thấu thị tận tâm hồn, như một người hành hương về chốn tâm linh không cần bất cứ phương tiện hiện đại nào, chỉ bằng đôi chân trần.”


Lời “đề từ” trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

Phạm Phú Phong
Đại học Huế

1. Trước khi có cuộc “Đối thoại với Cánh đồng bất tận” trên báo Tuổi trẻ tháng 4. 2006, Nguyễn Ngọc Tư đã được bạn đọc biết đến với tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt, giải Nhất trong cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi XX (lần 2) năm 2000, được tặng thưởng dành cho tác giả trẻ của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam năm 2000, giải B của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2001... Nhưng quả là đến cuộc “Đối thoại...” chị trở thành một hiện tượng văn học đáng chú ý, một sự kiện văn học hy hữu trong lịch sử văn học nước ta, thể hiện tinh thần dân chủ hoá của thời kỳ đổi mới và hết sức tập trung, đến mức chỉ trong một thời gian ngắn, báo Tuổi trẻ đã nhận được 868 ý kiến gửi về tham gia diễn đàn, trong đó có 855 ý kiến khen và chỉ có 13 ý kiến chê.
Nhìn chung, cả khen và chê tác phẩm Cánh đồng bất tận đều theo tư duy kiểu cũ, đều lấy hiện thực đời sống làm thước đo, làm tiêu chuẩn để đánh giá tác phẩm. Người chê, phản đối tác phẩm thì cho rằng những chi tiết, nhân vật, vấn đề trong tác phẩm đều không thể có trong hiện thực đời sống, chủ yếu đó là ý kiến của những người làm công tác chính trị.
Ở phía đa số, những người khen Nguyễn Ngọc Tư cũng lấy hiện thực đời sống làm tấm gương phản chiếu, bởi “đó là sự chân thực, đôn hậu, trong sáng toả ra từ những gì cô viết”.[1]
Sự khen-chê đều xoay quanh vấn đề nội dung, vấn đề hiện thực và hư cấu, mà không căn cứ vào văn bản ngôn từ để lý giải vì sao, bằng quan niệm nào mà tác giả viết như thế và cách viết ấy tạo được hiệu ứng thẩm mỹ như thế nào? Một trong những đặc điểm nghệ thuật nổi bật của Nguyễn Ngọc Tư, thu hút đông đảo người đọc, đó chính là những yếu tố nằm ngoài cốt truyện, mà chủ yếu là những yếu tố thuộc về thi pháp hình thức độc đáo như cách đặt tên tác phẩm, tên nhân vật, lời đề từ, đề tặng, những đoạn trữ tình ngoại đề, hình thức trình bày tác phẩm,... Ở đây, tôi chỉ xin khảo sát một trong những yếu tố đó (chủ yếu là thông qua Cánh đồng bất tận), là lời đề từ trong tác phẩm văn xuôi.
2. Lời đề từ là “thành phần nằm ngoài văn bản tác phẩm, được viết ở đầu sách hoặc sau tiêu đề mỗi chương trong cuốn sách nhằm hướng người đọc vào ý đồ nghệ thuật của tác giả hoặc tư tưởng của tác phẩm”.[2] Các tác phẩm trữ tình hay sử dụng lời đề từ cho cả tập sách, như lời đề từ cho Nhật ký trong tù là bài thơ in ở bìa sách:
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao
Có thể nói, đó là cảm hứng chủ đạo của toàn bộ tập thơ, thể hiện tư tưởng - chủ đề của tác phẩm, là người tù - người tự do. Các bài thơ trong tập, dù nhiều bài không nhắc đến tự do, nhưng vẫn cứ bàng bạc tư tưởng ấy trong toàn bộ tác phẩm. Các tác phẩm nghiên cứu phê bình, thường sử dụng lời đề từ cho mỗi chương như Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Phan Cảnh, Chân trời có người bay của Đỗ Lai Thuý... Nguyễn Ngọc Tư là một trong số người hiếm hoi sử dụng lời đề từ cho văn xuôi tự sự. “Trong tập tản văn Sống chậm thời @ một nửa là của chị và tác phẩm nào chị cũng đưa ra lời đề từ như dấu ấn sâu đậm khắc ghi trong lòng độc giả và đó dường như cũng là nỗi day dứt lớn nhất trong chị”.[3] Cánh đồng bất tận gồm 14 truyện, thì có 11 truyện được tác giả sử dụng lời đề từ. Theo cách trình bày, do yêu cầu các truyện đều phải bắt đầu từ trang lẻ, trong khi đó ba truyện Thương quá rau răm, Huệ lấy chồng, Dòng nhớ các truyện đặt trước đều kết thúc bằng các số trang chẵn, không có trang trống nên không có lời đề từ. Thực ra, tác giả hoàn toàn có cách trình bày khác, đồng thời khi đọc lời đề từ của các truyện còn lại mới thấy hết giá trị nội dung của tác phẩm. Ở đây, lời đề từ có thể là một danh ngôn, một đoạn trích từ kinh Phật, một câu hát dân gian, hoặc đôi khi chỉ là một ý nghĩ bâng quơ, nêu một sở thích ngộ nghĩnh, hoặc một đoạn tự sự tồn tại song song với truyện... nhưng tất cả đều có thể vận vào, đều thể hiện chiều sâu của tư tưởng, là một phần bổ sung không thể thiếu cho văn bản tác phẩm, góp phần tạo nên sự toàn vẹn của chỉnh thể, thực chất là một bộ phận của chỉnh thể tác phẩm, thể hiện ý đồ sáng tạo của tác giả và tư tưởng - nghệ thuật của tác phẩm, cần phải được lưu ý xem xét, nếu bỏ qua, hoặc bỏ sót sẽ không khám phá hết giá trị nội dung của tác phẩm.
Truyện Cải ơi! có lời đề từ sau: “Mỗi lần nghe câu hát “Gió đưa cây cải về trời. Rau răm ở lại...”, tôi hơi quạu, ông bà mình quá hiền lành đi, thí dụ có bị phụ phàng, thì cũng có chanh chua, hằn học một tí. “Gió đưa thằng quỷ sứ về thành. Để tôi ở lại chành ành... đắng cay”. Đau, tức vậy mà trách cứ nhẹ hều... Dường như người ta vẫn yêu, đến mức không thể giận dỗi, nặng lời. Và mình thì chưa bao giờ yêu ai đến như vậy ?!!!”.[4] Đó là nỗi oan của ông già Năm Nhỏ, bỏ nhà đi tìm đứa con riêng của vợ, tên là Cải. Từ năm mười ba tuổi, khi đi chăn trâu, vì ham chơi đôi trâu lạc mất, Cải sợ bị đòn không dám về nhà, ông già Năm bị vợ và bà con lối xóm nghi là đã xua đuổi, thậm chí đánh chết Cải rồi vùi xác ở đâu đó. Hơn mười hai năm ông đi tìm, ông xin làm chân sai vặt cho đoàn ca múa nhạc, để trước giờ biểu diễn, ông lên thông báo tìm con: “Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè con”; rồi ông đẩy xe kẹo kéo đi bán, cố tình vi phạm pháp luật như lấn chiếm lòng lề đường để bị phạt, ăn trộm trâu để bị bắt, được đưa lên ti vi, cũng chỉ để được gọi hai tiếng “Cải ơi...”.
Ở truyện Một trái tim khô, lại được mở đầu dòng tự sự bằng những câu hát sướt mướt để đối lập với hành động phi nhân thuê người giết vợ: “Dạo trước, hồi chưa có phong trào nhạc “Sáng sáng anh uống cà phê. Tối tối anh uống cà phê...” hay “ở bên người ấy xin đừng nhớ đến tôi, ở bên cạnh tôi xin đừng làm khổ tôi...”, mấy chiếc xe kẹo kéo, khoai mì luộc hay mở bản nhạc như vầy “Một trái tim khô, một trái tim mùa đông. Trái tim đã nhiều lần, nhiều lần chạy trốn tình yêu. Suốt đời tôi mãi mãi là người đến sau...”, nghe cũng hay hay / Mà hơi mắc cười, tình yêu, ai cũng khoái, sao cha nội nầy đòi chạy trốn ?!” (tr.144). Đây là truyện có nhiều tình tiết éo le, hấp dẫn như truyện hình sự. Truyện xuất sắc nhất trong tập là truyện ngắn có dung lượng tiểu thuyết Cánh đồng bất tận, vốn ít nhiều thể hiện tư tưởng nhân quả của nhà Phật, chị dẫn ngay kinh Phật làm đề từ: “Tôi hiểu biết về Phật giáo không nhiều, vớ được quyển sách nào thì đọc cái ấy. Cũng có điều hiểu được, học được, làm được, nhưng nhiều điều buộc phải “bó tay”. Ví dụ như mấy lời này: “Khi nào bạn bực tức, giận dữ, hãy bất động! Ngay tại đó! Đừng cử động! Đừng làm gì cả! Đừng nói gì – dù chỉ một lời. Hãy yên lặng và bất động hoàn toàn. Tuyệt đối không biết gì đến kẻ hoặc sự việc làm cho mình giận dữ” (Hạn chế sân hận, trải rộng tình thương - Tỳ kheo VISUDDHÀCÀRAZ). Trời ơi, mình giận muốn chết, muốn gào thét, muốn cào cấu, muốn đập phá mà không cho mình nhúc nhích, sao có thể hả hê? Đạt được đạo mới khó làm sao...” (tr. 154).
Ở một truyện khác, truyện Mối tình năm cũ, có lời đề từ ngắn gọn mà sâu sắc: “Chiến tranh, theo tôi hiểu, có nhiều người nhói đau khi nhắc về nó / Những huân chương, huy chương chỉ làm ấm ngực, niềm đau khuất ở một góc lòng, có kẻ nhìn thấy, có người không” (tr.72). Đó là câu chuyện của ông Mười yêu và lấy dì Thấm là vợ liệt sĩ Nguyễn Thọ nổi tiếng trong chiến tranh, vì muốn vợ dứt ra khỏi mối tình năm cũ, ông đã đem bốn mươi chín bức thư tình ra đốt, làm cho đứa con riêng của vợ giận bỏ về nhà ngoại ở, khi đoàn làm phim về liệt sĩ Nguyễn Thọ đến nhà ông không cho vợ tiếp, vì sợ khơi lại chuyện cũ vợ buồn, thế mà mọi người không hiểu, ai cũng trách cứ ông.
Lời đề từ như một ẩn dụ của nội dung câu chuyện. Cũng viết về những số phận sau chiến tranh, trong Biển người mênh mông mỗi người mỗi cảnh ngộ trớ trêu: cha Phi tham gia kháng chiến, mẹ ở nhà bị giặc làm nhục sinh ra Phi, khi cha mẹ đoàn tụ anh trở thành kẻ lạc loài, bỏ học theo đoàn hát, gặp già Sáu Đèo, gần bốn mươi năm đi bán vé số khắp các hang cùng ngõ hẻm, để cố tìm lại người vợ đã bỏ nhà đi, tác giả lại dẫn dắt bằng một lời đề từ khái quát, đau xót hơn, trong nỗi cô đơn đến da diết, riết róng của phận người: “Ngày ngày kẹt giữa đám đông, chen chúc trên những con đường đông nghịt người, nhiều khi tôi giật mình, trời ơi, họ kia, đồng loại mình kia, sao mình lại cô đơn đến rã rời... / Lúc ấy, tôi có một cảm giác kỳ lạ, chỉ mình trên đời này, chỉ một mình... Chẳng ai là tri âm, chẳng ai cả...” (tr.98). Khác với những truyện trước, lời đề từ truyện này như phần mở đầu cho câu chuyện, là một bộ phận của truyện, nếu thiếu nó, truyện mất đi phần mở đầu trong phương thức tự sự của tác giả.
Tương tự, ở Cái nhìn khắc khoải, được mở đầu bằng lời đề từ: “Một ngày khác thường của tuổi hai mươi - tuổi bè bạn, tuổi vui chơi, tôi lùa mười sáu con vịt - một trong những gia tài của má tôi - ra đồng, mưa đầm đìa vào mùa. Tôi thường ngồi ở bờ ruộng, mắt trông chừng bầy vịt, không cho chúng lân la đến những đám mạ muốt xanh, và da diết thèm người, thèm được nói chuyện / Bây giờ, quay quanh tôi bao nhiêu là người, tôi lại thèm cảnh đồng nước vắng tanh...” (tr.48). Những số phận trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư, là những con người sống giữa mọi người, không cô đơn nhưng lại cô độc, con người cá thể với những ý thức cá nhân không được đầy đủ. Một ông lão chăn vịt, trước đã từng tham gia chiến tranh, khi trở về vợ đã bị chết vì đạn pháo, sống một mình giữa bầy vịt, nhặt được một người phụ nữ bị chồng bỏ rơi đưa về chăm sóc, rồi tìm nơi chồng cô ta ở để chỉ đường cho cô ta tìm đến, còn mình chỉ ngoái nhìn theo với cái nhìn khắc khoải. Hầu hết những con người trong truyện đều có đời sống nội tâm phong phú, có lương tâm, có nhân phẩm, sống lặng lẽ, không phô bày tâm trạng.
Cũng là những mối tình thầm lặng, kín đáo, nhưng ở Nhà cổ được diễn đạt theo một hướng khác: “Tôi thích những mối tình câm, tình thầm. Tôi tưởng tượng đó là những mối tình da diết, sâu sắc. Mãi mãi chẳng dám nói thật lòng, cho đến cuối đời, tình ấy vẫn bàng bạc, rập rờn, và mỗi khi có dịp (như đi qua chỗ ngồi cũ, con đường cũ, gương mặt cũ...), ta bỗng thấy nhói ran / Chắc là khó chịu lắm, khi yêu mà giả bộ không yêu, khi buồn cố diễn mặt vui, khi đau tình phải tỏ ra vô tình...” (tr. 62). Đó là mối tình giữa anh em Tứ Hải, Tứ Phương với Thể. Phương nhường Thể cho anh, để suốt đời đau khổ, mà không hề hay biết cô hàng xóm Út Nhỏ cũng thầm yêu...
Nhiều truyện, lời đề từ được dẫn dắt một cách dài dòng, như là một câu chuyện bổ sung, tồn tại song song bên cạnh tác phẩm, vừa góp phần làm nổi bật tư tưởng - chủ đề của tác phẩm, vừa như một đoạn trữ tình ngoại đề thổi vào không gian tâm tưởng của người đọc những day dứt khôn nguôi. Trong 22 chương của tiểu thuyêt Paris 11 tháng 8 của Thuận, tác giả người Việt sống tại Pháp, không có chương nào là không sử dụng lời đề từ, cái ngắn nhất là gần một trang sách, có cái dài hơn ba trang sách, nó tạo nên sự dồn nén thông tin, lần giở từng trang sách, người đọc cảm nhận được cái sức nặng của đời sống hiện đại. Nguyễn Ngọc Tư cũng đã làm được điều ấy trên cái nền của đời sống đồng bằng Nam bộ.
Cuối mùa nhan sắc kể về cuộc đời ông Chín Vũ, xuất thân là “công tử Bạc Liêu”, mê cô đào Hồng, bỏ nhà đi theo gánh hát làm chân kéo màn, giờ về già tập trung về nhà dưỡng lão “Buổi chiều”, đi bán vé số kiếm sống vẫn yêu tha thiết đào Hồng – nay đã trở thành bà lão. Trong khi đó đào Hồng lại yêu và có con với một người khác. Truyện có lời đề từ dài kín cả trang sách, là những ý nghĩ hết sức ngộ nghĩnh buộc người ta phải quan tâm: “Hồi nhỏ tôi có nhiều mơ ước kỳ cục lắm. Thí dụ như lớn lên tôi sẽ làm chủ tịch nước, hay lấy một ông già làm... chồng. Già như ông ngoại tôi vậy. Lúc nào cũng chậm rãi, cũng hiền hiền, cũng trầm lặng, cũng tràn đầy bao dung (một ông chồng giống như vậy đáng mong chờ lắm chớ bộ). “Ảnh hưởng” lớn nhất có lẽ vì ông luôn nhặt mấy cây sậy... giập để đánh khi tôi phạm lỗi, và dành cho tôi những con tép, con cua lớn nhất, trong chén luôn đầy ắp phần nạc của thịt, cá... Tôi nhớ, cứ đôi ba ngày, ông ngoại lại cứ nhấp nhổm cồng cồng trên chiếc xe đạp cũ hiện ra chỗ rẽ vào hàng dâm bụt trước nhà tôi. Ông hiện ra với dáng vẻ của một ông tiên không có phép thuật thần kỳ, nghèo, mắc đoạ. Mồ hôi chảy nhễ nhại trên gương mặt già nua, mồ hôi đầm đìa lưng áo, ông phèo phào vừa thở vừa cười nhìn đám cháu xúm xít lục lọi mớ đồ ăn trong giỏ ra. Những trái vú sữa, khế, mãng cầu... không khi nào còn nguyên vẹn do bị dằn xóc trên đoạn đường gần mười cây số nhưng với đám cháu nghèo, đó là tất cả nỗi vui / Những ước mơ ngày xưa như bong bóng lên trời nhiều khi vì lý do lãng xẹt. Lớn lên tôi nhận ra người già quá... nhăn nheo, không được... đẹp (trong khi có nhiều thằng con trai hấp dẫn, trắng trẻo, thẳng thớm phát mủi lòng) / Cũng tiếc lắm chứ, cái tình đằm thắm, sâu lắng của những người già. Hay là tôi thi vị hoá cuộc sống của họ, lo chiến đấu với tuổi tác, bệnh tật mệt muốn bứt gân, hơi đâu mà yêu iếc...?!” (tr. 84).
Nhớ sông viết về ba bố con ông Chín. Vợ chết đuối ở một đoạn sông, ba cha con suốt năm này qua năm khác gắn bó với sông, thương con ông cho đứa lớn lấy chồng lên bờ, nhưng vẫn cứ nhớ sông, đêm không ngủ được, lời đề từ dàn trải như một câu chuyện thứ hai: “Tôi thường đứng trên Gành Hào, nhìn về chợ nổi, ở đó có thể trông thấy một dãy ghe rập rờn xao động cả mặt sông, những cái chân vịt gác chổng lên loang loáng dưới mặt trời / Mỗi chiếc ghe là một ngôi nhà nhỏ, ngang hai mét, dài năm bảy mét. Nhỏ bé, chật hẹp. Nhưng có một cái gì đó thật khác thường, thế giới đó hẹp đến nỗi chỉ vừa để xoay lưng, để nằm co, để cúi người... mà cũng dài cũng rộng vô phương bởi cuộc sống rày đây mai đó, lênh đênh cuối bãi đầu ghềnh / Những chiều tà, chợ nổi đìu hiu bập bềnh đâu hết một vạt áo nắng vàng hoe hoe, đỏ hoe hoe. Những người đàn bà cúi đầu ngó chăm chăm xới nồi cơm dào dạt khói, những người đàn ông xếp bằng ngồi trên mui ghe vấn những điếu thuốc to đùng bằng đầu những ngón chân cái, phì phà nhả khói lên trời. Những đứa trẻ con ngồi tênh hênh trên mũi ghe câu cá chốt, cá mè. Những cô con gái sau một ngày bán hàng mệt mỏi soi mình xuống sông, chải tóc / Họ chắc cũng từng yêu từng vui từng đau, từng nghe phảng phất niềm thương nhớ đất” (tr.112). Có thể coi đây là một đoạn văn miêu tả đầy đủ nhất về sinh hoạt đời sống của người dân buôn bán trên chợ nổi ở Cà Mau.
Duyên phận So Le viết về nhóm tiếp viên nhà hàng một khu du lịch ở đất Mũi, trong đó diễn ra mối tình giữa cô Xuyến và những người đàn ông chợt đến, chợt đi, tác giả đã có dòng tự sự bổ sung: “Tôi mới gặp lại thằng bạn cũ, cái thằng mỗi khi cười làm tim tôi thút thít thòm thèm. Tốn tới bốn năm, ủa, vậy thì bốn năm đó, chúng tôi chẳng rời xa cái thành phố chật chội này, cớ sao không gặp nhau? / Tôi ngồi ngẫm nghĩ mấy giả thuyết (tất nhiên là trong lúc rảnh), có thể, khi tôi tất tả trên con đường này thì thằng bạn lại đi trên con đường khác; tôi đi chợ mua cá nấu cơm, bạn đang nhậu; tôi thức gần trắng đêm để viết lách kiếm cơm, bạn phải ngủ; khi tôi ngược về vùng sâu vùng xa công tác, bạn được sếp cử đi Sài Gòn... Kẻ xuôi người ngược. Nhưng tôi nghĩ, cũng không loại trừ chúng tôi từng bị mắc trong một vụ kẹt xe, có cách nhau chừng năm ba thước cũng vô phương đối mặt. Hay chúng tôi cùng học, ở, thí dụ như học nghị quyết, chắc là tôi ngồi đằng cuối còn thằng bạn ngồi dãy đầu, tôi lên cầu thang bên này bạn xuống cầu thang bên kia... / Về cái sự chúng tôi không gặp (dù thi thoảng cũng nhớ nhau), có quá nhiều giả thuyết. nhưng, nếu quyết lòng, thì có khó khăn gì để gặp nhau, hở trời?!” (tr.134).
Hiu hiu gió bấc tả mối tình của anh Hết và chị Hoài yêu nhau dữ dội mà không lấy được nhau, do mẹ chị Hoài chê anh Hết nghèo. Anh thầm lặng chôn chặt tình yêu trong lòng. Anh có biết đâu bên cạnh anh còn có chị Hảo, thương anh, chờ đợi anh đến thành gái lỡ thì, tác giả đã có lời đề từ: “Tôi thường đón gió chướng về với một tâm trạng lộn xộn, ngổn ngang. Mừng đó rồi bực đó. Sao tôi lại chờ đợi nó, chẳng phải năm nào cũng vậy, lúc cầm cây chổi ra quét sân, đứng trong gió đầm đìa tôi cũng buồn. Trời ơi, gió này là hết năm đây, già thêm một tuổi đây, mình đã kịp sống gì đâu, tay mình vẫn trắng như vầy... Mỗi lần gió về lại cảm giác mình mất một cái gì đó không rõ ràng, không giải thích được, như ai đó đuổi theo đằng sau, tôi gấp rãi nói, gấp rãi cười, gấp rãi khi ngày bắt đầu rụng xuống... / Cuối mùa gió chướng, trời bỗng lạnh hơn, thêm vào một chút buồn, nó kia, gió bấc! Những đám cưới được tôi cho xuất hiện trên cái nền gió nầy, nhưng chỉ là cái cớ cho buồn thấm hơn, sắc lại trên những mối tình dang dở. Chắc tại gió quá dịu dàng, nên có cảm giác gờn gợn buồn, có cảm giác như gió mồ côi, cúi đầu hiu hắt đi giữa đời. Hay tại tôi đã già, đã nhận ra không mùa vui nào là vui trọn. Đến đám cưới vốn là hỷ sự, tôi cũng “gây sự” để nó phải buồn chút chút. Chỉ có đám trẻ con là không biết, nên mới sướng rơn vỗ tay cười hát “Cô dâu chú rể. Làm bể bình bông. Đổ thừa con nít...” Hà hà, thấy vậy mà không phải vậy đâu, mấy cưng...” (tr. 26).
3. Những lời đề từ mà tôi đã dẫn trên, tuy có nhiều cái dài cả gần trang sách, nhưng tôi vẫn phải dẫn nguyên văn, không lược bỏ một câu chữ nào. Bởi vì mỗi cái có một chỉnh thể riêng không thể chia cắt. Nếu tách mỗi cái riêng ra, có cái hoàn toàn có giá trị như một đoản văn, một tác phẩm nghệ thuật độc lập, hoàn chỉnh. Nó có tính tự đầy đủ để tạo thành một chỉnh thể toàn vẹn, thống nhất. Trong lời đề từ Nhà cổ có câu mở đầu đáng chú ý: “Tôi thích những mối tình câm, tình thầm” (tr.62). Đó chính là cảm hứng chủ đạo chi phối toàn bộ cốt truyện, tình huống, xây dựng đời sống nội tâm nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Tình yêu thầm lặng là tình yêu giữa Phương và Thể, Út Nhỏ và Phương (Nhà cổ) giữa ông Hai và cô Út (Cái nhìn khắc khoải), giữa Huệ và Thi (Huệ lấy chồng), giữa Hảo và Hết (Hiu hiu gió bấc), giữa Nga và Văn (Thương quá rau răm), giữa ông Chín Vũ và đào Hồng (Cuối mùa nhan sắc), giữa Năm Già và Xuyến (Duyên phận So Le) và có ít nhiều bản năng theo kiểu hiện sinh như giữa Điền và chị Sương (Cánh đồng bất tận)... Yêu lặng lẽ. Không cần thổ lộ. Những mối tình âm thầm đơn phương, không cần đáp lại, không cần đi đến kết quả cuối cùng. Yêu để mà yêu. Đó mới thật sự là tình yêu đích thực, bền vững ở cõi nhân gian tạm bợ, lắm đổi thay này.
Phương thức biểu hiện sinh động các yếu tố thi pháp hình thức của Nguyễn Ngọc Tư còn thể hiện ở việc miêu tả thiên nhiên, thời tiết như nắng, mưa, bụi, khói... mà nhất là gió, ở ngay chính các lời đề từ. Trong Cánh đồng bất tận không dưới hai mươi lần chị miêu tả các loại gió: gió bấc, gió chướng, gió thốc, gió lùa, gió cười, gió hiu hiu, gió dịu dàng, gió mồ côi, gió đầm đìa,... Thật ít có tác giả nào phổ vào gió nhiều cung bậc đến như vậy. Ngay trong lời đề từ của truyện mở đầu Cải ơi!, chị cũng mở đầu bằng câu hát cửa miệng của người dân Nam bộ: “Gió đưa cây cải về trời”... (tr. 6); mở đầu cho lời đề từ Hiu hiu gió bấc, chị thổ lộ: “Tôi thường đón gió chướng về với một tâm trạng lộn xộn, ngổn ngang”... Gió thổi xuyên suốt tập sách dày mấy trăm trang của chị (ở các trang 6, 26, 36, 61, 71, 120, 136, 158, 191, 198, 202, 208...). Cái không gian đủ các kiểu gió trên vùng sông nước kênh rạch, đồng ruộng ấy, đậm đặc chất liệu của đời sống đồng bằng Nam bộ, nó thổi vào tâm trạng, vào đời sống nội tâm của những con người có tâm hồn trong như ngọc, chất phác, thánh thiện nhưng cũng hết sức bản năng. Những gì hiện ra trên văn bản, trên ngôn từ mà ta thường gọi là hiển ngôn hữu hạn hơn rất nhiều so với sự hàm ngôn, ở tầng sâu hơn, chị có khả năng mở ra những ngóc ngách tận đáy tâm hồn của con người, trong sự đồng hiện, đồng cảm giữa người đọc và thế giới nhân vật. Một trong những thủ pháp nghệ thuật tạo cho chị thành công, đó chính là việc sử dụng nhuần nhuyễn các lời đề từ. Có lẽ nhờ vậy, mà gần đây Cánh đồng bất tận của chị vừa được dịch giả Ha Jae Hong dịch ra tiếng Hàn, được Nhà xuất bản Châu Á (Asia Publishers) cho ra mắt độc giả Hàn Quốc. Đánh giá về sự kiện này, Thời báo Hàn Quốc (Korea Times) đã có bài viết trang trọng giới thiệu về tác giả và tác phẩm, trong đó có đoạn: “Trở thành một nhà văn có sách bán chạy ở tuổi 31 là một kỳ công để nhiều tác giả khác phải thèm muốn. Nhà văn Việt Nam Nguyễn Ngọc Tư - người đã “độc chiếm” độc giả ở tuổi 31 - không chỉ bán được khoảng tám mươi ngàn bản cho cuốn sách mới nhất, chị còn được giới thiệu như một giọng văn riêng ăn khách ở đất nước mình...”.[5]
Ở nơi nào chị chưa thấu đáo, chưa thật sự chín hay như có người nói còn ít nhiều bị ảnh hưởng trào lưu này trào lưu khác cũng là điều tất yếu. Nhưng với tôi, sau những bậc trưởng bối đã thành danh không thể thay thế ở Nam bộ trước đây như Lý Văn Sâm, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức,... nay tôi mới gặp được một tâm thức, một giọng điệu Nam bộ trong thế hệ trẻ là Nguyễn Ngọc Tư. Ở chị có sự đậm đặc của một giọng điệu văn chương Nam bộ, trong đó có những kế thừa thế hệ trước, nhưng lại là giọng điệu của đời sống hiện đại, không trộn lẫn với bất kỳ ai. Đó là điều đáng quí, cần được khẳng định ở Nguyễn Ngọc Tư.

Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 5/2008

Bi kịch hóa trần thuật - Một phương thức tự sự
(Trên cứ liệu "Cánh đồng bất tận" của Nguyễn Ngọc Tư)

TS. Nguyễn Thanh Tú
Văn nghệ quân đội

Văn xuôi Việt Nam thời gian gần đây thiên về tìm tòi đổi mới cách kể. Hứng thú của các nhà văn cũng như các nhà nghiên cứu phê bình là vấn đề cách kể như thế nào hơn là vấn đề kể cái gì. Đây cũng là điều hợp quy luật, nó đẩy cách sáng tạo, cách hiểu, cách tiếp nhận về gần hơn với đặc trưng thẩm mỹ của văn học. Một trong những cách kể được nhiều người quan tâm và đã có những vận dụng thành công nhất định là bi kịch hoá trần thuật. Ở bài viết này chúng tôi xin đi tìm hiểu cách kể này dựa trên cứ liệu hai tác phẩm được giải thưởng Hội Nhà văn: Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư (Giải thưởng năm 2006) và Và khi tro bụi của Đoàn Minh Phượng (Giải thưởng năm 2007).
Lý thuyết tự sự trước nay ghi nhận hai hình thức trần thuật cơ bản: trần thuật ở ngôi thứ ba (khách quan hoá) và trần thuật ở ngôi thứ nhất (chủ quan hoá). Cách phân biệt này mới chỉ dừng ở hình thức bề ngoài chứ chưa đi sâu vào phương thức tự sự bên trong. Điều này cũng chứng tỏ người ta chưa xem người kể đứng gần hay xa các sự kiện, nhân vật trong truyện một cách cụ thể. Chúng tôi đặt vấn đề bi kịch hoá trần thuật, cụ thể hơn là bi kịch hoá nhân vật người kể chuyện để tìm hiểu sâu hơn một bước cụ thể hoá hình thức trần thuật ở ngôi thứ nhất. Theo chúng tôi khi người kể được nhân vật hoá sẽ thoả mãn hai chức năng: chức năng miêu tả hoàn cảnh, không gian, thời gian, các biến cố sự kiện và chức năng phát hiện ra thế giới bên trong của nhân vật người kể chuyện. Người kể không chỉ kể mà còn đóng vai là một nhân vật, do vậy tất yếu phải biểu hiện những quan niệm, suy nghĩ, tình cảm với ngôn ngữ, giọng điệu của một con người cụ thể. Vì thế câu chuyện không chỉ lôi cuốn sự chú ý của người đọc theo dòng các sự kiện mà còn lôi cuốn người đọc vào cả lời kể, cách kể. Nhờ thế đã tạo ra hai hiệu quả: tạo ra ảo giác ở độc giả về tính khách quan của nội dung câu chuyện và thể hiện đậm nét dấu ấn chủ quan của người kể chuyện. Điều này đã được hai nhà văn Nguyễn Ngọc Tư và Đoàn Minh Phượng vận dụng khá thành công trong tác phẩm của mình.

1. Bi kịch hoá tình huống
Chúng ta đều cho rằng để tạo ra được một truyện hay người viết phải sáng tạo ra được một tình huống hấp dẫn. Ở cả hai truyện Cánh đồng bất tận và Và khi tro bụi đều tạo ra một tình huống bi kịch. Ở Cánh đồng bất tận là bi kịch gia đình tan vỡ bắt đầu từ chuyện ngoại tình của người mẹ. Hận đời, hận tình người cha phóng lửa đốt nhà rồi đưa hai con lênh đênh trên chiếc thuyền nhỏ làm nghề chăn vịt, nay đây mai đó kiếm sống. Ở Và khi tro bụi là bi kịch của một người vợ có người chồng chết "bất đắc kỳ tử" vì tai nạn giao thông. Không chịu nổi nỗi đau, nỗi cô đơn, người vợ cũng đi tìm cái chết bằng cách lên một chuyến xe lửa định đến một nơi bất kỳ và sẽ tự vẫn trên cuộc hành trình bằng cách uống thuốc ngủ. Những tình huống này không mới. Chúng đều là những tình huống bi kịch mang tính giải thoát. Người cha đưa hai con lên một chiếc thuyền cũng là một cách giải thoát khỏi bi kịch gia đình bị tan vỡ, bi kịch bị phản bội. Hành động phóng lửa đốt nhà của người cha (Cánh đồng bất tận), hành động rũ bỏ không thương tiếc nhà cửa, của cải, kỉ niệm của người vợ (Và khi tro bụi) là những hành động cự tuyệt tuyệt đối với hiện tại. Đó là những hành động tiêu cực. Xét dưới góc độ cấu trúc thể loại, những tình huống này tăng cường tính bi kịch cho câu chuyện, lôi cuốn sự chú ý dõi theo những sự kiện tiếp theo. Không ngẫu nhiên, hai tác giả đều để cho nhân vật của mình “giải thoát” bằng cách di chuyển trong một không gian vô định. "Cánh đồng" có thể là không gian xác định nhưng "cánh đồng bất tận" lại là không xác định, không giới hạn, không phương hướng. Xét dưới góc độ ý nghĩa, nó khơi gợi lòng cảm thương, xót xa cho số phận con người, nhất là đối với người phụ nữ bơ vơ "tứ cố vô thân" nơi đất khách (Và khi tro bụi), với trẻ em nghèo không được sự chăm sóc đầy đủ của cha mẹ (Cánh đồng bất tận).

2. Bi kịch hoá không - thời gian
Chọn người kể chuyện là một cô gái mới lớn (Nương) thất học chưa từng trải còn ngỡ ngàng trước những sóng gió va đập của cuộc đời, hồn nhiên kể lại chuyện của gia đình mình và của chính mình đã góp phần tạo ra một đặc điểm dễ thấy ở Cánh đồng bất tận là sự hồn nhiên. Chính điều này đã nói rõ mặt mạnh, mặt yếu (mà chúng tôi sẽ bàn dưới đây) ở cây bút trẻ tài năng Nguyễn Ngọc Tư thể hiện trong một truyện vừa gây xôn xao văn đàn, người khen rất nhiều, người chê cũng không ít. Mô hình kết cấu của Cánh đồng bất tận ảnh hưởng rõ kết cấu trong Chí Phèo của Nam Cao, nghĩa là điểm nhìn trần thuật được di chuyển trên trục thời gian bắt đầu từ một thời điểm hiện tại rồi ngược về quá khứ sau đó lại tiếp tục ở thời tương lai. Mở đầu là cảnh một cô gái điếm bị đám đông đánh đập sau đó ngược về quá khứ nói về nguyên nhân gây tan vỡ gia đình rồi lại kể tiếp những chuyện trả hận đàn bà của người cha và cảnh người con gái (Nương) bị cưỡng hiếp trên cánh đồng. Câu chuyện được mở đầu nói về một hiện tượng xã hội nhức nhối (tệ nạn gái điếm) đã gây sự chú ý theo dõi ở người đọc: đây là câu chuyện về sex, về bạo lực hay về số phận một con người đầy bi kịch nào đó… Rồi người kể cứ lái dần câu chuyện vào nội dung chính bằng cách để cho người kể kể lại chuyện của gia đình "tôi" và của chính "tôi", bằng cách kể này đã tạo ra ở truyện một hiệu quả nghệ thuật lưỡng tính. Một là, câu chuyện hồn nhiên như cuộc đời vậy, "tôi" là một cô gái quê mùa chân chất, mộc mạc cứ thật thà kể, hồn nhiên kể, vì thế mà người đọc hầu như không thấy dấu vết của sự hư cấu. Hai là, thời điểm xảy ra câu chuyện và thời điểm kể rất gần nhau nên tính thời sự của câu chuyện còn tươi nguyên, nóng hổi như là câu chuyện của ngày hôm nay vậy. Mà đã có tính thời sự, thì bao giờ cũng mang một độ nhạy cảm chính trị nhất định, nếu cứ hồn nhiên kể, thậm chí quá đà sẽ gây ra một hiệu ứng tức thời ở bạn đọc. Thí dụ chuyện dịch cúm gia cầm là chuyện nhạy cảm, nhà văn lại khoét sâu vào chuyện này thì thật không cần thiết. Có chi tiết phản hiện thực như nhà văn để cho người nuôi vịt tự vẫn vì đàn vịt của mình bị tiêu huỷ. Trên thực tế việc chính quyền ra lệnh phải ngăn chặn nạn dịch là đúng và bao giờ cũng có một sự đền bù, tất nhiên không thể thoả đáng nhưng không đến nỗi đẩy người lao động vào bước đường cùng mất hết gia sản, đến mức phải tự tử. Điều này tạo ra sự phản ứng của một bộ phận bạn đọc là có lý của họ. Một kinh nghiệm rút ra, trong sáng tạo nghệ thuật sự hồn nhiên là rất quý nhưng nhà văn không thể ngây thơ về thời cuộc, ngoài tài năng, tâm huyết nhà văn còn phải luôn trau dồi vốn chính trị, nếu không sẽ dễ bị hiểu lầm hoặc sẽ bị kẻ xấu lợi dụng để bịa đặt, tuyên truyền gây ảnh hưởng không tốt đến dư luận bạn đọc.
Một đặc điểm trong cấu trúc nhân vật ở Cánh đồng bất tận là nhân vật không hề tĩnh tại mà luôn vận động. Ba cha con Nương làm nghề chăn vịt nên phải lênh đênh sông nước nay đây mai đó, chỗ nào vịt có thức ăn thì đến, rồi lại phải tiếp tục ra đi. Rõ ràng nhân vật đã bị đẩy vào một tình huống mâu thuẫn: càng tiếp xúc đến mức tối đa không gian vật lý thì lại càng hạn chế đến mức tối thiểu không gian tâm thức vì ít được tiếp xúc với cộng đồng. Nhân vật dường như chỉ sống với chính mình và độc giả bị kéo vào câu chuyện đi theo bước chân nhân vật để tìm hiểu cảnh đất trời sông nước miền cực nam Nam Bộ, nhưng chủ yếu là đi theo dòng hồi tưởng miên man của nhân vật. Vì người kể chuyện và nhân vật là một nên truyện vẫn chỉ có một điểm nhìn. Cách kể truyền thống thường chỉ sử dụng một điểm nhìn dẫn đến lời văn một giọng đơn điệu. Nguyễn Ngọc Tư đã vượt qua thách thức của cách kể chuyện truyền thống, vẫn một điểm nhìn nhưng là điểm nhìn của "tôi" - ngôi thứ nhất, điểm nhìn này luôn di chuyển trên trục thời gian gấp khúc (hiện tại - quá khứ - tương lai) soi chiếu trên một toạ độ không gian rộng nên đã tạo ra ở lời văn mang tính chất nhiều giọng, lời văn hồn nhiên, tươi non mà nhiều cảm xúc.
“Tôi” trong Và khi tro bụi hành trình trên chuyến xe lửa để tìm cái chết thì ngẫu nhiên được đọc những dòng nhật ký trong một quyển sổ ghi chép của một chàng trai trực đêm ở khách sạn. Lại là một cái chết oan uổng khác: một người chồng giết vợ, đứa con 5 tuổi nhìn thấy, sợ quá mà bỏ trốn vào rừng. Người anh (Michael) lớn lên cùng một ý chí mãnh liệt tìm em (Marcus) và trả thù cho mẹ (Anita). “Tôi” (AnMi) từ bỏ ý nghĩ tự vẫn mà tự nguyện dấn mình truy tìm cho ra người em Marcus và làm rõ nguyên nhân cái chết của người mẹ Anita.
Câu chuyện bắt đầu hấp dẫn trước hết bởi cái chất “điều tra hình sự” của nó. Tiểu thuyết (cứ tạm gọi trước như vậy) có kết cấu truyện nọ lồng trong truyện kia với năm sáu lớp truyện mà “tôi” vừa là người kể chuyện vừa là nhân vật cứ bước hết từ lớp truyện này sang lớp truyện khác cho đến khi “vụ án” được làm sáng tỏ. “Vụ án” kết thúc không trùng với kết thúc của tiểu thuyết mà lại tạo ra một kết thúc bất ngờ khác cho chính “tôi”. Tính chất “ly kì” của câu chuyện điều tra thể hiện ở những sự bất ngờ từ các nhân vật với các mối quan hệ mới, các lời phủ định hay tự thú. Chàng trai Michael phủ nhận nội dung nhật ký của chính mình. Ông bố Kempt tự thú đã giết vợ. Đứa em Marcus bị mất trí nhớ. Cô giáo Sophie (có thể coi là một nhân chứng trong vụ án) có những lời ngụy biện che giấu sự thật bằng cách phân tích tâm lý trẻ em rất có sức thuyết phục. Sophie là tình nhân của người cha (Kempt) rồi trở thành nhân tình của người con trai (Michael).
Tập sách chỉ dày 185 trang không đề tên thể loại. Có lẽ ý định của tác giả là để cho bạn đọc tuỳ coi đó là truyện vừa hay tiểu thuyết. Theo tôi tập sách có một cách kể rất tiểu thuyết thể hiện ở sự pha trộn nhiều dạng tiểu thuyết: tiểu thuyết đời tư, tiểu thuyết tâm lý; tiểu thuyết hình sự, kết hợp nhiều cách kể: dòng ý thức, đồng hiện, đảo trật tự thời gian… và tận dụng triệt để hiểu biết của người kể về hội hoạ và âm nhạc, có những trang miêu tả rất hay đạt đến độ tinh tế và sâu sắc hai lĩnh vực nghệ thuật này. Có hai tuyến truyện song hành xuyên qua các lớp truyện lồng nhau là chuyện của “tôi” và chuyện “vụ án”. Chọn điểm nhìn trần thuật là cái “tôi” trong tình trạng cô đơn đến tuyệt vọng đang đi tìm cái chết nên không hề sợ chết mà do vậy cứ “dấn thân” điều tra các chứng cứ, truy tìm các tình tiết rối rắm phức tạp của “vụ án”. Sự “dấn thân” này còn cắt nghĩa ở sự đồng cảm giữa “tôi” và nhân vật, nhất là với nhân vật Marcus. Nếu “tôi” nhìn thấy cảnh mẹ bị chết bom thì Marcus chứng kiến cảnh mẹ bị giết. “Tôi” và Marcus cùng có một tuổi thơ trong trại mồ côi. Đây là cách chọn điểm nhìn tối ưu. Điểm nhìn này lại luôn được di động trên hai trục không gian với các cảnh sống, phong tục, con người ở Đức và quê hương sinh ra “tôi”; trên hai trục thời gian quá khứ và hiện tại của “tôi” và của các nhân vật, đã tạo ra sự đa dạng về bức tranh văn hoá đa sắc màu được thể hiện trong tác phẩm.

3. Bi kịch hoá hoàn cảnh, tâm lý, tính cách nhân vật
Nếu coi Cánh đồng bất tận mang một chủ đề báo ứng như có người đã hiểu thì câu chuyện chỉ là chuyện của một vài người, của một vài đời người. Có lẽ cao hơn thế nữa, lấy chủ đề báo ứng làm điểm tựa, câu chuyện hướng về mọi người, trở thành chuyện của nhiều người, của xã hội. Theo tôi truyện đặt ra một vấn đề xã hội mang tính khẩn thiết về thân phận người phụ nữ nghèo trong xã hội hôm nay. Đó là những kiếp người mòn mỏi sống tù túng nghèo nàn, không yêu thương, không hi vọng, sống cùng tiếng thở dài buồn não ruột: “Má tôi thở dài khi nghe cha ghé bến… Má tôi thở dài khi tắm… Mỗi lần ghe vải ghé trước bến, má cũng thở dài, tay bối rối nắm vào hai túi áo mỏng lẹp kép. Thở dài cả khi thằng Điền bảo cho con xin tiền mua kẹo...”. Đó là những kiếp người phải sống ở vùng khí hậu khắc nghiệt đến mức ước sao trước lúc chết “được tắm một bữa đã đời”. Đó là những phụ nữ quê mùa lam lũ bị những ông chồng vũ phu hành hạ coi như là con ở, là nô lệ tình dục. Đó là thân phận hèn hạ của những cô gái điếm. Đặc biệt là thân phận trẻ em nữ như Nương (nhân vật - người kể chuyện), vì chuyện người lớn mà phải hứng chịu bao nỗi khổ đau vất vả, phải làm người lớn quá sớm. Ý nghĩa phổ quát toát ra từ những hiện tượng này lên tiếng kêu gọi toàn xã hội phải quan tâm hơn nữa, phải có những hành động thiết thực, cụ thể hơn nữa để giúp đỡ những mảnh đời vất vả khổ sở ấy. Trong khi đó chính những mảnh đời khốn khổ ấy trong sâu thẳm tâm hồn lại mang một vẻ đẹp nhân hậu thiết tha, yêu say đắm, yêu hết mình, quên mình và luôn ý thức về phẩm hạnh người phụ nữ. Như cô gái điếm kia vì kiếm sống mà phải bán thân nhưng vẫn ý thức được giá trị của con người, khi bị thiên hạ đánh cũng biết ngậm ngùi: “Ăn trên mồ hôi nước mắt của người ta nên lâu lâu bị đánh cũng đáng đời…”. Nhân vật - người kể chuyện phải hứng chịu tội lỗi của người lớn, bị cưỡng hiếp nhưng vẫn không hận đời, hận tình như người lớn mà trái lại đầy niềm tin: “Đứa bé đó, nhất định nó sẽ tên là Thương, là Nhớ, là Dịu, Xuyến, Hường… Đứa bé không cha nhưng chắc chắn được đến trường, sẽ tươi tỉnh và vui vẻ sống đến hết đời, vì được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn”. Đây là những dòng kết của truyện tạo cho truyện một kết cấu mở, gieo vào người đọc một niềm hi vọng: con người dù có phải sống trong bi kịch nhưng vẫn ấp ủ một khát khao tin vào lẽ đời, tin vào tình người. Truyện không hề bi quan.
Chương 17, trong Và khi tro bụi là chương quan trọng nhất quyết định ý nghĩa chủ đề tiểu thuyết, giả sử cắt chương này thì đây chỉ là một câu chuyện vụ án bình thường. Chương 17 cắt hẳn với mạch chuyện vụ án và nối vào với chuyện của "tôi". "Tôi" đã tìm ra sự thật của vụ án và cực kỳ thất vọng về chàng trai Michael đã phản bội chính mình. "Tôi" lại tiếp tục đi tìm và đã rất gần với cái chết thì ý thức đưa "tôi" về quá khứ cùng một ấn tượng tuổi thơ kinh hoàng khắc sâu trong đáy tim giờ đây sống lại: "Tôi" một đứa trẻ bảy tuổi đang ôm xác mẹ thì bỗng nghe tiếng gọi từ đâu đó, tiếng gọi của đứa em gái ba tuổi kêu chị chạy đi. Thế là người chị ấy vùng chạy đi để lại xác mẹ và đứa em ấy đến nay đã 25 năm. Một chủ đề chống chiến tranh, tố cáo chiến tranh toát lên day dứt người đọc. Tại sao hình ảnh này cho đến khi "tôi" "một nửa bước vào cái chết" mới hiện ra? Điều này không khó cắt nghĩa. Một là câu chuyện của "vụ án", nhất là các tình tiết về Marcus một đứa trẻ năm tuổi khi thấy mẹ bị giết sợ quá mà chạy vào rừng trong cái rét dưới âm nhiều độ dẫn đến mất trí nhớ đã ám ảnh tới "tôi" sâu sắc. Như vậy, tuy là hai câu chuyện nhưng lại có mối liên hệ với nhau rất chặt như mạch chìm của tiểu thuyết. Mạch chìm ấy là tình thương, là sự đồng cảm của hai bi kịch, hai số phận dù trong những tình cảnh khác nhau. Hai là, khi gần cái chết người ta thường nghĩ về nơi sinh ra, dĩ nhiên là suy nghĩ ấy thường neo lại nơi những ấn tượng không bao giờ quên, nhất là ấn tượng tuổi thơ. "Lá rụng về cội". Một chủ đề chính của tác phẩm rộng hơn nhiều chủ đề tố cáo chiến tranh, chủ đề chạy trốn sự cô đơn hay bi kịch về sự phản bội chính mình…, đó là chủ đề Quê hương cứu vớt con người. "Tôi" quyết định không chết nữa mà phải sống để quay trở về quê hương tìm lại đứa em ba tuổi ngày trước. Cái kết này ứng với câu thơ của Henry Vaughan được tác giả lấy làm đề từ, nguyên văn tiếng Anh là: And when this dust falls to the urn/ In that state I came, return. Có nghĩa là Và khi tro bụi rơi về/ Trong lúc đó tôi sẽ quay trở lại, được tác giả dịch thơ: Và khi tro bụi rơi về/ Trong thinh lặng đó, cận kề quê hương. Đây cũng chính là tâm trạng của hàng triệu người Việt xa xứ vì chiến tranh đang mong ngóng từng ngày trở về Đất Mẹ. Tiểu thuyết đã góp một tiếng nói làm xích lại gần hơn những đứa con xa quê xa đất nước.
Như vậy, cách kể bi kịch hoá trần thuật đã góp phần làm nên thành công của Cánh đồng bất tận và Và khi tro bụi. Một cách kể mang đậm dấu ấn của "tôi", nhân vật - người kể chuyện. Ứng với cái "tôi" này, lời văn trong Cánh đồng bất tận đầy khẩu ngữ, đậm đà phong vị dân gian Nam bộ chân chất, hồn nhiên. Còn lời văn trong Và khi tro bụi lại hiện đại với lối văn phân tích sắc sảo, không kể lại sự việc mà là phân tích sự việc, không miêu tả trạng thái tâm lý mà là phân tích tâm lý. Phép liên tưởng và trùng điệp được sử dụng rất hiệu quả. Các câu văn cứ nối vào nhau, móc vào nhau để biểu hiện các liên tưởng, các hồi ức của nhân vật cũng là của người kể xưng "tôi". Giả sử đặt hai câu chuyện này sang một ngôi kể khác, cách kể khác, hiển nhiên truyện sẽ có một điểm nhìn khác, các sự kiện sẽ được phản ánh, phân tích dưới một hệ quy chiếu khác, do vậy tác phẩm sẽ có một hình thức khác, một nội dung khác.
Đăng trên Văn Nghệ
số 9, 27-2-2010


Đêm trắng giữa Cánh Đồng Bất Tận

Vũ Bích


Bình Phong Thạnh- Mộc Hóa- Long An đêm 16-12-2009

Trận mưa giông cuối mùa ồn ào và dữ dội rồi cũng dứt. Đường Sài Gòn nhiều chặng thành sông làm chuyến xe khởi hành muộn. Hơn 14 giờ xe mới xuất phát đưa nghệ sỹ đa tài Trần Huy Hoan về Bình Phong Thạnh nơi đêm nay sẽ quay một cảnh nhỏ trong phim Cánh Đồng Bất Tận (dựa theo truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư). Đã khởi quay được hai mươi ngày, đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình hình như không tự tin lắm trong một cảnh khó, phải nhờ đến ông anh giầu kinh nghiệm và từng trải trong những pha diễn viên ít hoặc không có gì che thân.
Đường về Mộc Hóa mới hôm nào đầy ổ gà, ổ voi, đang được vá lấp một phần. Từ cầu Mộc Hóa phải rẽ vào con đường đất đỏ chạy dọc khu vực biên giới với nước bạn Campuchia, dài hơn hai mươi kilomet mà có đến mười một cái cầu, cái nào cũng có độ dốc rình rập treo xe bốn chỗ. Cây lá hai bên đường bị phủ một lớp bụi đỏ dày như vừa qua một cơn động đất. Hoàng hôn, xe mới vượt cầu cuối có tên Dâu Tràm, điện thoại liên lạc trước, vừa gửi xe ở quán nước ven cầu, đã có tắc ráng của đoàn phim ra đón. Mùa nước ròng, tắc ráng phải chạy theo dòng kênh thay vì băng đồng mùa nước nổi. Một quầng điện sáng rực giữa vùng đồng hoang: Trung tâm nghiên cứu bảo tồn phát triển dược liệu Đồng Tháp Mười do dược sỹ Nguyễn Văn Bé làm giám đốc. Đây là nơi đoàn làm phim trụ lại trong hai tháng để quay các cảnh chính. Tắc ráng chỉ ghé vào bờ đón nhân viên mang cơm đêm cho đoàn.
Phải hơn ba mươi phút âm thầm lặng lẽ lướt trên con kênh chạy giữa rừng tràm âm u trong màn đêm vừa chụp xuống. Một quầng sáng mới: nơi đang chuẩn bị cảnh quay đêm. Ngổn ngang trên bến dưới kênh là phà chở máy nổ lớn, xà lan, thuyền, tắc ráng và các đạo cụ.
Tắc ráng tắt máy từ xa đánh dấu hiệu xin cập bờ vì sợ ảnh hưởng khi đoàn đang quay. Đoàn đã ra đây từ 5 giờ chiều để chuẩn bị mặc dầu phần lớn là phương tiện đã chuẩn bị từ đêm quay trước.
Hơn 60 người phục vụ cho một cảnh quay đêm chỉ có 2 diễn viên.
Năm dàn đèn 4-5kw để ở bốn góc hồ, vừa làm nhiệm vụ chiếu sáng vừa thu hút muỗi và các loài sâu bọ, nhiều vô kể giữa cánh đồng hoang. Đồng Tháp Mười có nhiều đặc sản đang dần mất mát, nhưng mấy trăm năm qua có những thứ không sợ thời gian: Muỗi như sáo thổi, đỉa lền bánh canh. Rất nhiều phương tiện và công nghệ, kỹ thuật đã được huy động để xua muỗi và các sinh vật phù du. Dưới chân các ngọn đèn pha là những cây quạt gió lớn. Một đèn pha thấp đặt gần quạt thổi phồng một tấm lưới vợt lớn dài đến bốn năm mét để nhốt muỗi. Mấy tấm màn tuyn cái hồng cái xanh căng lên ở mấy góc làm nơi tạm trú cho các diễn viên và các đạo diễn. Nhưng vào bên trong mới thấy muỗi đã tập kết từ bao giờ, như từ đất sinh ra. Mẫy cây vợt khua cá góc màn liên tục lóe sáng kèm những tiếng lép bép nổ triền miên.
Dustin Nguyễn và Đỗ Hải Yến giấu mình trong mấy lớp áo quần mà vẫn bị muỗi tấn công. quần áo bò mà vẫn bị muỗi chích thủng- nữ thư ký trường quay khoác trọn bộ quần áo nilong chống mưa trùm kín đầu tiết lộ.
Mùi dầu tràm chanh, mùi các loại hương liệu chống muỗi nội ngoại ngào ngạt cả không gian. Mấy bếp lửa nhóm trong các thùng phuy cắt đôi, phòng lan tỏa gây cháy rừng, liên tục được bổ sung các loại cành lá tràm chanh còn tươi vừa tạo khói vừa lấy hương xua muỗi. Người mới tới được xoa khắp mặt, cổ, và các chỗ hở trên người một loại tinh dầu đặc biệt, có loại được chiết xuất tại cơ sở dược liệu ở đây.
Tất cả những gì có thể đã được huy động để tạo một không gian nhỏ cho đoàn làm việc nhưng đều bất lực.
Ở một góc, mấy cậu phụ trách âm thanh chui vào tấm màn xanh di động tranh thủ ăn cơm hộp mà một tay vẫn cầm vợt xua muỗi. Đàn vịt mấy trăm con được quây trong lưới trên mảnh đất phẳng cạnh bờ sông thêm một đêm mất ngủ.
Nửa tháng trước ngày khởi quay, các diễn viên chính đã được đưa về miền Tây đi thực tế. Dustin Nguyễn- Việt kiều Mỹ từng đóng một số phim hành động nhưng chưa bao giờ quen miền sông nước. Đỗ Hải Yến quê ở Trung du Bắc Bộ hơn chục năm làm quen với điện ảnh qua các vai hiền lành, ít hành động. Nên cả hai phải tập thói quen của người sống miền sông nước, lội sình, chèo thuyền, lái tắc ráng.
Vịt và người, và cả các diễn viên trong đoàn phải có thời gian làm quen nhau và tập diễn những cảnh cần thiết. Vịt thì phải quen với cảnh đông người, với tiếng động, với ánh đèn, máy quay…để đóng cảnh sống tự nhiên.
Bối cảnh chính đem nay là một cái chòi dựng sát mặt hồ mọc đầy cây súng. Về đem, hoa không nở nhưng lá súng tròn nhỏ phản chiếu ánh đèn như một bầu trời sao. Mái lợp lá tràm đã khô, sàn lát thân tràm. Chủ nhiệm tiết lộ, những cây tràm này mang về thành phố bán làm cừ hoặc dàn giáo giá chỉ 8000 đồng/ cây, nhưng ở đây phải trả 30.000 đồng.
Máy quay, ánh sáng, âm thanh được kiểm tra qua nhiều lần thử.
Trong màn, hai diễn viên cùng đạo diễn ngồi trước màn hình monitor xem phó đạo diễn Lý Thái Dũng thị phạm.
Đó là cảnh: một đêm, khi đã bình phục, Sương ( Hải Yến) rời thuyền tìm tới chòi của ông Võ. Chuyện gì phải đến đã đến! Sáng hôm sau, trong bữa ăn, trước mặt bọn trẻ, ông móc tiền đưa cho Sương và là dịp hiếm hoi con cóc mở miệng nói lý do trả tiền cho chuyện xảy ra đêm qua. Sau giây lát đau đớn sững sờ vì sự tàn nhẫn độc ác của Võ, Sương buông lời khen ông già đẹp trai hào phóng.
Hôm nay quay cảnh diễn ra trong đêm ấy.
Chuyện này trong phim ảnh cổ kim đông tây quá nhiều và quá nhàm. Nhưng trong truyện và trong phim phải có cảnh đó. Nó là một nút thắt làm bộc lộ một nét tính cách độc đáo của hai nhân vật.
Tạo hình ảnh sao cho không giống ai, cho hợp lý, gây được xúc động?
Đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình, cố vấn Trần Huy Hoan, phó đạo diễn Lý Thái Dũng, đạo diễn hình ảnh Nguyễn Tranh chụm đầu bên monitor vừa quan sát vừa chỉ đạo cách diễn, cách ghi hình.
Độc đáo và có lẽ duy nhất trên thế gian, không quay được, không dùng được trong phim là tất cả thủ pháp, thủ đoạn, kỹ thuật, nghệ thuật, phương tiện có được để tạo một không gian nhỏ ít muỗi nhất cho hai diễn viên không mặc gì trên người diễn cảnh yêu đương có màu hoang dại.
Trong chòi có mắc sẵn một tấm màn. Có nên thả xuống cho họ diễn ở bên trong? Dùng ánh sáng quay thử cảnh bên trong. Đẹp. Hợp lý theo lẽ thông thường. Nhưng tình huống trong phim là khác thường. Cảnh đã quay thiếu đi chất hoang dã và tâm lý bất cần đời của cả hai người.
Quạt mạnh xua muỗi sẽ gây tiếng động.
Khói phủ sẽ làm mờ ống kính.
Thuốc phun đậm đặc sẽ làm nét khó chịu hiện rõ trên gương mặt diễn viên. Sàn phía dưới sát mặt hồ là căn cứ địa, khu tập kết của hàng sư đoàn muỗi đói mồi, chỉ rình chờ lúc lặng gió là xông vào xâu xé hai hình hài thơm tho hoàn toàn không có gì chống đỡ.
Sau trận mưa chiều, giữa đảo nổi trên Đồng Tháp Mười, về đêm trời mát dịu, yên tĩnh lạ lùng. Một trời đầy sao rực rỡ.Khoảnh khắc này, không gian này sẽ đẹp biết bao nếu không ở Đồng Tháp Mười hoặc Đồng Tháp Mười không sở hữu loại sinh vật gây kinh hoàng cho con người. Nó đeo, bám, ám, áp sát, xông xáo, liều lĩnh, táo bạo, quyết liệt, ngoan cố, dai dẳng với số lượng lớn không ngừng được bổ sung tiếp ứng: Muỗi.
Đã quá 12 giờ đêm. Bắt đầu cảnh quay đầu: Sương dời thuyền lần theo bờ sông tới chòi Võ đang ngồi hút thuốc, gương mặt lạnh lùng. Không lời thoại, Sương đặt bàn tay mình gần rồi nhích dần lên bàn tay Võ đang chống xuống sàn. Một thoáng rút ra rồi bị nắm lại. Tay Võ để yên và giành lại thế chủ động. Tình huống xảy ra.
- Cắt! Xong một cảnh.
Bắt đầu cảnh nóng!
Chủ nhiệm hô to: tất cả lực lượng phục vụ lùi vào phía sau; cấm quay phim, chụp ảnh.
Hai diễn viên tiến tới sàn chòi. Một tấm vải được dơ cao làm màn che. Áo khoác chống muỗi được cởi ra. Cả y phục đang mặc. Nữ nhân viên phụ trách trang phục ôm vội tất cả chạy ra khỏi ống kính. Bấm máy. Chỉ chưa đầy một phút. Hai diễn viên mặc vội các lớp áo quần lên xem lại cảnh quay. Chưa thật ưng ý, phải tìm tư thế, vị trí đặt chân, tay. Góc nhìn, tư thế tiếp xúc. Lại trao đổi cân nhắc! Trong tay Hải Yến thường trực cây vợt muỗi màu xanh. Hết khua cho Dustin-Võ lại khua cho đạo diễn. Theo cánh vợt là ánh chớp liên hồi cùng tiếng nổ lép bép liên thanh. Canh khuya, người không diễn cũng mệt rã rời, mà mỗi lần diễn xong cảnh ôm ấp, không biết Dustin Nguyễn nói gì mà chỉ nghe tiếng cười giòn tan của Hải Yến.
Trong lúc chờ đợi, cả đoàn chia nhau tiếp sức bằng cơm hộp. Mấy gói kẹo vừa được tiếp tế từ thành phố về trở nên quý giá. Nhận họp kẹo gôm bạc hà, Hải Yến vừa ngậm vừa khen: Ngon hơn cả sâm.
Chờ đợi nghiên cứu khuôn hình mới, hai diễn viên lại chui vào màn chống sự công kích của muỗi. Nào hay muỗi đã phục sẵn từ bao giờ.
Hỏi thời gian kết thúc, nữ thư ký trường quay cho biết, đêm trước quay tới 3 giờ 30 mà được 2 trang (2 trang kịch bản ứng với 2 phút). Đêm nay thì chưa định được.
Trong phim dự định sẽ có 4 cảnh quay đêm.
Có mặt trong đoàn phim là những gương mặt dày gió dạn sương trong nhiều bộ phim quay ở khắp rừng núi sông hồ từ Bắc chí Nam, thức qua đêm cũng là chuyện quá thường. Nhưng ai cũng nói chưa bao giờ bị rơi vào một hoàn cảnh bị khủng bố , oanh tạc liên tục, dài ngày như khi bước vào Cánh Đồng Bất Tận.
Có một chuyện vui, suốt thời gian quay, để tập trung tâm trí, đạo diễn tuyệt đối không tiếp xúc với báo chí, không trả lời phỏng vấn. Nhưng có tờ báo gửi mail mấy lần phỏng vấn, đầy lòng hoài nghi về nhân sự của bộ phim, nêu ra một số vấn đề để hỏi đạo diễn có bị áp lực nào không và áp lực đó là gì. Quang Bình trả lời: Muỗi! Áp lực chỉ là muỗi. Chắc nhà báo bực mình vì trước một bộ phim khó như thế mà đạo diễn mới làm ít phim này lại không có gì lo lắng. Nhưng có về đây thức một đêm với đoàn, mới thấy đạo diễn nói đúng, nói thật. Bốn năm qua, có đến 6 lần đạo diễn cùng các cộng sự am hiểu Nam Bộ đã đi tìm hiểu cuộc sống và chọn cảnh.
Mấy chục ngày quay, nước da trắng trẻo ngày nào, giờ sạm đen vì nắng gió, suốt ngày lội sình,lội ruộng hái rau, chăn vịt, tắm rửa. Công tử Dustin Nguyễn lại là võ sư, vậy mà mấy ngày đầu làm quen với hoạt động sông nước, đã bị ngã bong gân. Ngày về nhận giải thưởng phim còn đi tập tễnh. Công nương Hải Yến quen với các vai diễn khuê các, lại là dân Bắc chưa một lần xuống miền Tây, vốn sợ nước, không biết bơi, nhận một vai khổ sở từ đầu tới cuối, suốt ngày tắm ao, lội sình, ao đầy gai góc, nước đọng hôi hám, gai cào, sành xước đứt chân, chấp nhận thử thách để làm mới hình ảnh của mình.
Hai giờ sáng, quay lại cảnh yêu đương mà chỉ lấy phần chân trần.
Ống kính liệu có thu hình những con muỗi to kềnh cứ dai dẳng bám vào chân đã đầy dấu hoa bầm tím?
2 giờ 30 phút, tưởng đã dọn rút về. Nhưng đạo diễn còn phân vân. Trần Huy Hoan gợi ý một tư thế, một góc quay khác. Lại di chuyển đèn. Lắp lại cần cẩu 30 tấn mượn từ miền Bắc.
Gần 60 người thêm một đêm thức phục vụ.
Nhưng nhìn hai diễn viên vẫn chờ đợi không một lời than trách, không một dấu hiệu uể oải mệt nhọc, sẵn sàng thực hiện những cảnh quay khó theo ý đồ đạo diễn mới thấy phục ý chí, nghị lực, tình yêu nghề nghiêm túc của người nghệ sỹ chuyên nghiệp. Trong thời buổi, điện ảnh, ti vi là món hàng đơn thuần giải trí, vào vai diễn là một cuộc rong chơi, thì ở đây, đêm nay, mà không chỉ đêm nay, họ đang làm một công việc mà lâu nay ít người nói tới: Hy sinh vì nghệ thuật.
4 giờ 30 phút đạo diễn hô đóng máy.
Mai này xem phim, khán giả mấy ai hay, để chỉ có khoảng 30 giây trong bộ phim gần trăm phút, hai diễn viên cùng gần 60 người phục vụ đã lao động cật lực từ 5 giờ chiều hôm trước đến tận sáng hôm sau.
Bộ phận diễn viên và kỹ thuật lên tắc ráng về trước.
Các bộ phận phục vụ còn thu dọn hiện trường. Có mấy tấn đạo cụ được thuê từ các hãng phim ngoài Bắc phải đóng gói để kịp trả về theo hợp đồng thuê ngắn hạn.
Chiếc tắc ráng chở hai diễn viên đang đi tập tễnh cùng nhóm chuyên môn chủ chốt rẽ sóng theo con kênh xuyên rừng tràm trở về nơi nghỉ. Nghe tiếng động bất ngờ và đèn pin loang loáng, từng bầy chim bị đánh thức giật mình bay vút lên với tiếng kêu thảng thốt.
Đêm phương Nam, những vì sao như xuống thấp, mở mắt to và sáng như kinh ngạc nhìn đám người di chuyển một cách bất thường phá vỡ cảnh bình yên hoang dã của Đồng Tháp Mười.
Đâu rồi sao tua rua? Nơi nào sao Bắc Đẩu ?
Có ngôi sao nào đang ngơ ngác nhìn hai ngôi sao đẹp của nghệ thuật Việt Nam đang trong những ngày nhọc nhằn, thức khuya dậy sớm, lội sình, phơi nắng, chịu sự tấn công của bao sinh vật hoang dã hóa thân thành những con người cần lao vô danh chốn hoang sơ này để dựng nên một tác phẩm nghệ thuật nhỏ với hy vọng đánh thức lương tri và trách nhiệm của chúng ta góp tay chung sức làm cho đất nước ngày càng tốt đẹp hơn.
Tắc ráng cập bến ! Có tiếng người. Mấy con gà rừng được thuần hóa đồng loạt cất tiếng gáy báo hiệu một ngày mới.

Vũ Bích
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT
CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ
QUA TẬP TRUYỆN CÁNH ĐỒNG BẤT TẬN
Trần Thị Dung
Khoa Ngữ văn - Đại học Vinh - Nghệ An
Trong Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư đã xây dựng được một thế giới nhân vật có tính cách, số phận riêng khá độc đáo. Quả thật, những nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư luôn gây cho chúng ta những day dứt, ám ảnh khi đọc xong tác phẩm. Phần lớn những nhân vật trong tác phẩm của chị đều thuộc vào những kiếp người bình thường nhỏ bé, nhưng lạ thay họ đều không hề tầm thường; thậm chí không ít nhân vật có sự hi sinh đầy cao thượng, có tính cách có thể nói là cao cả. Ngoài ra, điều chúng ta ít ngờ tới, đó chính là những con người lao động bé nhỏ kia, lại có thể là kẻ suốt đời ôm mộng, chạy theo một niềm say mê của mình. Do đó, tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư trong Cánh đồng bất tận sẽ góp phần giúp chúng ta đánh giá đúng những sáng tạo của chị trong truyện ngắn.
1. Trước hết, Nguyễn Ngọc Tư đã đặt nhân vật trong các tình huống để các nhân vật tự bộc lộ bản chất, tính cách của mình. Liên quan đến điều này có thể nói các truyện của Nguyễn Ngọc Tư đều xây dựng trên các tình huống truyện. “Tình huống truyện là toàn thể những sự việc xảy ra tại một nơi, trong một thời gian hoặc một thời điểm”. Chính tình huống nó tạo thành các tứ riêng, làm nổi bật điều mà nhà văn muốn gửi gắm cũng như bản chất của nhân vật.
Chẳng hạn đó là tình huống khi con Cải làm mất trâu vì sợ đòn mà trốn nhà nhưng mọi người xung quanh lại nghi ngờ ông Năm Nhỏ - bố dượng chính là thủ phạm giết con. Không chịu nổi ánh mắt ngờ vực của mọi người và chính vợ mình, ông đã quyết tâm ra đi tìm cho được con Cải. Qua mười hai năm rong ruổi trên khắp các nẻo đường, tìm đủ mọi cách để mong tìm được con, mãi mà vẫn không có tin tức gì nhưng ông Năm Nhỏ không hề nhụt chí. Thậm chí, ông còn có “sáng kiến” là ăn trộm trâu để được lên truyền hình nhắn lời tìm con. Đặt ông Năm Nhỏ trên nền tình huống đó Nguyễn Ngọc Tư đã cho ta thấy được trọn vẹn tấm lòng yêu thương con tha thiết cũng như tính cách kiên trì, sự quyết tâm muốn chứng minh sự trong sạch của mình của ông Năm Nhỏ.
Trong truyện Nhà cổ đó là tình huống hai anh em Tứ Hải, Tứ Phương “đều lặng lẽ để bụng yêu chị Thể”. “Nhưng nhường qua nhường lại mãi không ai chịu mở lời”. “Tốt nghiệp trung học xong anh Tứ Phương xung phong đi bộ đội, đi mà không nói gì với chị Thể, tôi cứ nằng nặc đi theo hỏi tại sao anh nói “Thương anh Hai quá út nhỏ à. Mười bốn tuổi anh đã thay cha mẹ anh quán xuyến trong ngoài, học hành lỡ dở”. Với truyện ngắn này Nguyễn Ngọc Tư cũng rất chú ý đến việc xây dựng tình huống truyện. Nhân vật bị đặt trong tình huống trớ trêu buộc lòng phải giải quyết được vấn đề đặt ra trong tình huống đó. Chính trong quá trình giải quyết tình huống có vấn đề bản chất, tính cách con người được thể hiện một cách rõ nét. Đặt hai anh em vào trong tình huống này Nguyễn Ngọc Tư đã giúp người đọc thấy được tình anh em thắm thiết và tính cách cao thượng của Tứ Phương.
Anh Hết trong truyện Hiu hiu gió bấc xuất thân từ một gia đình nghèo, mẹ mất sớm, anh lớn lên được là nhờ những người đàn bà tốt bụng trong xóm đã cho anh bú thép. Lớn lên anh và chị Hoài đem lòng yêu thương nhau. Nhưng khi gia đình chị Hoài biết chuyện đã tìm cách để chia rẽ tình cảm của hai anh chị. Trước giọt nước mắt của người đàn bà đã từng cho anh bú thép anh đã hoàn lại món nợ về tình cảm cho mẹ của chị Hoài, anh chấp nhận giả trở thành kẻ phụ tình mặc dù anh có một tình yêu lớn với chị.Trước khi “sang ngang” chị Hoài đã tìm anh Hết để nhìn mặt lần cuối nhưng anh Hết nhất định không chịu rời bàn cờ không chịu ngước mắt nhìn chị Hoài ôm tiếng oan say cờ mà quên cả người yêu. Chỉ có thể là một con người mạnh mẽ, nghĩa cả, tràn đầy tình yêu thương thì mới có thể xử sự như anh Hết.
Cái nhìn khắc khoải là câu chuyện xoay quanh tình cảm của ông Hai đối với người đàn bà mà ông đã cứu giúp khi lỡ độ đường. Dù trong lòng đã có cảm tình với cô Út nhưng khi biết được tin tức của chồng cô, ông ngay lập tức nói cho cô biết, rồi ông quay trở về quyết định dựng lại nhà để ở lại, để chờ đợi ông ôm ấp trong lòng sự hi vọng một ngày gặp lại. Qua tình huống này chứng tỏ ông Hai là con người chỉ biết hi sinh vì người khác, ông hoàn toàn có thể không nói về tin tức của chồng cô út và ông cũng hoàn toàn có hi vọng được sống bên cạnh cô út khi không nói ra tung tích của chồng cô nhưng ông đã không làm như vậy. Cũng vậy trong Mối tình năm cũ ông Mười hiện lên là một người đàn ông vô cùng cao thượng khi Nguyễn Ngọc tư đặt ông trong tình huống ông chứng kiến vợ mình đau đớn khóc thương cho người chồng cũ. Trước sự đau đớn của vợ, ông đã nhẫn nại lau sạch nước mắt trên khuôn mặt vợ mình.
Trong Cuối mùa nhan sắc là tình huống cả đời bà Đào Hồng chờ đợi ông Khanh nhưng khi gặp lại ông ta đã quay gót bởi đó không còn là cái nhan sắc mà ông ta đã từng thương nhớ. Bị sốc trước sự thật phũ phàng bà đã qua đời. Qua đây Nguyễn Ngọc Tư vừa đã khẳng định được tính cách chung thủy của một con người phụ nữ Nam Bộ vừa muốn nói với tất cả độc giả rằng một khi niềm tin, sự hi vọng của con người dù chỉ mong manh nhưng khi đã bị dập tắt thì cái chết luôn là điểm đón đợi gần nhất đối với họ. Quả thực: “bà như trái bầu khô chỉ còn nhờ vào chút chờ đợi mỏng manh của tình yêu thời son trẻ làm cái vỏ cứng cáp ở bên ngoài, rồi cũng có ngày thất vọng xui cái vỏ thấm mưa nắng mục ruỗng đi”. Để khẳng định tình yêu say đắm, chung thủy, Nguyễn Ngọc Tư còn đặt ông Chín Vũ trong tình huống bỏ cả nhà cửa, cha mẹ tình nguyện chấp nhận cuộc sống “ăn cơm quán ngủ sàn diễn” đi theo gánh hát có Đào Hồng, suốt đời yêu thương chăm sóc che chở cho Đào Hồng dù bà lòng bà luôn hướng tới người khác.
Trong Cánh đồng bất tận Nguyễn Ngọc tư cũng đặt nhân vật vào trong những tình huống đầy kịch tính. Trước hết đó là tình huống vợ bỏ theo trai, hận tình người chồng trả thù vợ trên thân thân xác những người đàn bà khác, là tình huống Nương cứu được người đàn bà đang bị người ta đánh ghen đến mức dã man, rồi cả tình huống Nương bị cưỡng hiếp ngay trước mặt người cha của mìn....Qua các tình huống đó ta thấy ông bố nổi lên là một kẻ hận thù đến mức mù quáng; trở thành kẻ tàn nhẫn, bất nhân; còn Nương một cô gái sống trong môi trường vô cùng tăm tối đó nhưng vẫn giữ được tâm hồn đầy tình yêu thương cũng như niềm tin vào một tương lai tươi sáng hơn.
Nếu so sánh chúng ta thấy nhân vất ông bố trong Cánh đồng bất tận có lô gic hành động hoàn toàn khác với những nhân vật trong những truyện khác của Nguyễn Ngọc Tư. Những anh Hết, Tứ Phương, ông Hai, ông Mười, Chín Vũ đều là những con người có lòng hi sinh cao cả. Họ lấy việc quan tâm đến người khác, làm cho người khác hạnh phúc làm ý nghĩa sống của đời mình. Ngược lại, ông bố trong Cánh đồng bất tận lại lợi dụng tình yêu của kẻ khác để thỏa mãn lòng hận thù mù quáng của mình. Tuy nhiên, điều chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây là tính cách của các nhân vật đó đều nổi bật nhờ cách tạo dựng tình huống truyện.
Có người đã từng nói tình huống truyện như một lát cắt trên thân cây để từ đó ta thấy được cả đời thảo mộc. Thật vậy, tình huống truyện không chỉ là yếu tố thúc đẩy cốt truyện phát triển mà như ta đã thấy nó còn như là “chất xúc tác”, là thứ nước rửa ảnh để từ đó nhà văn tái hiện rõ nét hơn tính cách, bản chất của từng nhân vật. Qua đó phần nào khái quát được bức tranh tính cách của con người trong hiện thực đời sống.
2. Để xây dựng tính cách nhân vật, Nguyễn Ngọc Tư còn đã rất chú ý đến việc miêu tả ngoại hình. Ngoại hình là một khái niệm nhằm chỉ toàn bộ những biểu hiện tạo nên dáng vẻ bề ngoài của nhân vật. Đó chính là những nét về diện mạo, hình dáng, trang phục, cử chỉ, tác phong của nhân vật được biểu hiện trong tác phẩm. Chỉ bằng vài nét bút thoáng qua có tính chất chấm phá nhưng Nguyễn Ngọc Tư đã tái hiện, dựng lên chân dung các nhân vật một cách rất rõ nét trước mắt người đọc. Để từ chân dung đó, người đọc có thể nhìn thấu một cách sinh động, trọn vẹn tính cách nhân vật.
Dân gian thường nói: “Nhìn mặt mà bắt hình dong”. Có lẽ rất do rất tâm đắc với với lời dạy đó nên Nguyễn Ngọc Tư đã rất hứng thú trong việc phác hoạ lại hình ảnh các khuôn mặt. Đọc Cánh đồng bất tận, ta dễ dàng bắt gặp cái khuôn mặt “lạnh trơ, bình thản” của Diễm Thương, khuôn mặt “teo héo, sạm đen” của ông Năm Nhỏ trong truyện Cải ơi. Thấy được cả khuôn mặt “trầm lặng mà sâu sắc” của Tứ Phương trong Nhà cổ, khuôn mặt “nhăn nhúm, nám đen” của bà Hồng trong Cuối mùa nhan sắc, khuôn mặt “đen sạm, nhăn nheo” của người đàn bà trong Dòng nhớ, hay “nét mặt âu yếm” của nhân vật chị trong Cánh đồng bất tận.
Thật vậy, khuôn mặt là điểm nhận biết đầu tiên khi người ta tiếp xúc với nhau, là nơi bộc lộ mọi trạng thái cảm xúc vì vậy nó là một phần để người ta nắm bắt tâm lý của nhau. Nắm bắt được điều đó Nguyễn Ngọc Tư đã thể hiện sự thành công đặc biệt của mình khi phác hoạ hình ảnh dễ gợi này.
Từ nhân vật trẻ đến nhân vật già, ai cũng là những nhân vật bất hạnh nhưng khi phác hoạ ngoại hình của nhân vật mình, tuyệt nhiên Nguyễn Ngọc Tư đã không để đặc điểm nhân vật trùng lẫn với nhau. Nói về Diễm Thương, Ngọc Tư miêu tả: “khuôn mặt cũng hay, không đẹp nhưng bình thản, lạnh trơ, vui buồn không ra, đố ai biết nó nghĩ gì”, “mái tóc nhuộm vàng hoe chơm chớm như rễ tre”, “nụ cười héo hắt”. Không miêu tả chi tiết khuôn mặt của nhân vật theo kiểu mắt ra sao, mũi thế nào... Nguyễn Ngọc Tư chỉ khái quát một cách rất chung chung nhưng chỉ cần đọc thế thôi người đọc đã có thể tưởng tượng ra được khuôn mặt lạnh trơ là khuôn mặt thế nào; nụ cười héo hắt là nụ cười ra sao. Có thể mỗi người sẽ hình dung một khuôn mặt không giống nhau nhưng ở đó đều toát lên một điểm chung đó là tính cách rất lạnh lùng, bất cần đời nhưng ẩn bên trong lại là yếu đuối, đau khổ.
Trong Biển người mênh mông, ta thấy ngay từ thủa nhỏ Phi là một cậu bé có cuộc sống rất buồn, không cha, mẹ thì theo chồng đi ở nơi khác. Ở với ngoại, hai bà cháu dành trọn tình yêu thương cho nhau nhưng từ khi ngoại mất đi Phi trở thành một con người “ăn vận lôi thôi, quần jean bạc lỗ chỗ, te tua, áo phồng dài quá mông, râu ria rậm rạp móng tay dài tóc dài. Từ hồi nào muốn soi kiếng phải lấy tay vẹt mớ râu tóc như người ta vẹt bụi ôtô”, chỉ qua ngần ấy chi tiết ta cũng có thể hình dung ra một con người phớt đời, phong trần có phần bụi bặm.
Cũng là một thanh niên trẻ tuổi nhưng Tứ Phương lại rất khác với Phi: “Cao ráo, thanh mảnh miệng nhỏ mắt sâu, ăn nói nhỏ nhẹ’’ nhưng “ôm ốm, mặt mày xanh rơ’ ở Tứ Phương ta không còn thấy nét phong trần, bụi bặm của Phi mà ngược lại, Tứ Phương là con người có tính cách trầm lặng, điềm đạm sâu sắc và chính cái tính cách này đã làm nên con người hết sức tình nghĩa “thương ai thương tới chết mới thôi”.
Bên cạnh những nhân vật trẻ tuổi đó, còn có những nhân vật già hơn nhưng dù tuổi tác như thế nào thì nét mặt, ngoại hình của họ vẫn không thoát được cái khuôn của sự khắc khổ. Người đàn bà trong Dòng nhớ được Nguyễn Ngọc Tư miêu tả “Tóc dài, da ngăm ngăm, không đẹp không xấu; mặc chiếc áo cộc tay màu cau khô ở trong, khoác thêm chiếc áo bà ba ở ngoài mỏng te nhiều mụn vá. Tóc đã bạc nhiều lơ thơ vài cọng rũ xuống mặt. Sương gió đã làm cho khuôn mặt dì đen sạm, nhăn nheo”. Chỉ đọc đến đây thôi đã đủ điều kiện để ta hình dung một ngoại hình đích thị là của con người có cuộc sống lận đận, chịu nhiều mất mát. Mà cũng đúng thật, chồng bỏ đi, con chết, một thân một mình xuôi ngược trên các dòng sông mà trong lòng lúc nào cũng khắc khoải nỗi nhớ chồng, thương con. Một con người như thế tránh sao được những xác xơ, vùi dập của cuộc đời.
Đến với Biển người mênh mông, ta làm sao quên được hình ảnh ông Sáu với “hàm răng trắng trơ, móm mém, mặt già nua với những chiếc xương gồ ra trên thân hình nhỏ thó ốm teo”, “mặc độc một chiếc quần một chiếc quần tà lỏn đã xoăn lại còn ngồi giăt bộ đồ kaki màu cứt ngựa, thân hình nhỏ quắt quằn quật’’. Thân hình vặm vỡ trước kia đã trở thành kỉ niệm quá vãng, bây giờ Sáu Đèo đã trở thành một ông lão già nua, ốm yếu khắc khổ. Đó chính là kết quả do sự tàn phá của thời gian và đặc biệt là sản phẩm của bốn mươi năm quăng quật giữa biển người mênh mông để tìm người vợ yêu dấu của mình.
Miêu tả khuôn mặt, Nguyễn Ngọc Tư đặc biệt chú ý đến việc miêu tả hình ảnh “đôi mắt”, người ta thường nói “ đôi mắt là cửa sổ tâm hồn”.
Thật vậy, qua hình ảnh một người đàn ông với “cái nhìn khắc khoải” trong một đôi mắt “rân rấn” nước. Chi tiết tưởng chừng như rất nhỏ ấy nhưng cái “cửa sổ tâm hồn” ấy đã hé mở cho ta thấy nhiều điều về một con người. Đôi mắt ấy đã tự nó đã nói lên được cái khao khát mong ngóng hạnh phúc của một người đàn ông giàu lòng yêu thương.
Cũng với hình ảnh đôi mắt nhưng đôi mắt của ông Mười là “đôi mắt dữ tợn lên, đỏ ngầu dưới hai đám lông mày rậm rịt chớm bạc phát ra nhưng tia nhìn như xoay thấu người khác’’. Mới đọc những chi tiết này có lẽ người sẽ chụp mũ đó là nhân vật dữ dằn, thô bạo. Nhưng thật ra ta phải hiểu được rằng lúc có được ánh mắt ấy là lúc ông đang ở trong tâm thế của một người chồng sẵn sàng che chở, bảo vệ cho người vợ yếu đuối của mình. Đằng sau vẻ dữ tợn đó là một tấm lòng lúc nào cũng lo lắng xót xa cho vợ con. Ông thương vợ và ông thể hiện tình thương đó một cách kín đáo, ông chấp nhận mọi người hiểu lầm ông ích kỉ hơn là việc người ta sẽ khơi lại chuyện cũ bởi ông biết rằng mỗi một lần như thế sẽ lại một lần vợ ông bị nhói đau.
Viết về những người đàn bà buôn hương bán phấn, Nguyễn Ngọc Tư đã không cần tốn quá nhiều công sức khi khái quát về tính cách, nghề nghiệp của họ. Viết về họ, Nguyễn Ngọc Tư đã chớp ngay được “cái con mắt đung đưa’’, “nụ cười tung tẩy trên khóe mắt”. Cái con mắt “đung đưa” “tung tẩy” gợi tình, mời tình ấy cũng đủ giúp ta hình dung được sự phong trần, lả lơi của một kiếp đàn bà. Tiếp đến cụ thể hơn là hình ảnh “mắt và cổ đã nhão”, đặc biệt Nguyễn Ngọc Tư còn vạch cho ta thấy nhưng vết thương toang hoác của cuộc đời mà đã chấp nhận để được ăn trên miếng cơm, manh áo của người khác. Sau trận đánh ghen “môi chị sưng vểu ra xanh dờn; những mảnh thịt mà người ta cấu nhéo tím ngắt’’, “đôi vú rách bươm và khoảng đùi rớm máu” đau đớn ê chề nhục nhã nhưng người đàn bà đó vẫn chấp nhận, như một lẽ tất nhiên khi đã chấp nhận dấn thân vào cái nghề tàn khốc đó. Trước sự đau đớn mà chị phải chịu, trước việc biết được người ta đã đổ keo dán sắt vào cửa mình chị thì một lần nữa để thấy được thái độ của mọi người “bằng việc đặc tả đôi mắt của người cha: “tôi đọc được sự ghê sợ, kinh tởm cồn lên trong mắt cha”.
Nhưng cũng với đôi mắt ấy, ở một hoàn cảnh khác sắc thái cảm xúc mà nó biểu hiện lại khác. Sau khi quyến rũ được người cha chung chạ qua đêm với chị “ cha tôi chỉ lạt lẽo nhếch cười...Cha đưa cho chị một ít tiền ngay trong bữa ăn cơm khi nhà đủ mặt, “tôi trả tiền hồi hôm...” rồi điềm nhiên phủi đít đủng đỉnh đứng lên, sự khinh miệt và đắc thắng no nê trong mắt”. Rõ ràng với cách thể hiện như vậy, người đọc chỉ có thể nhận xét rằng đó đích thị là đôi mắt của kẻ tàn nhẫn, bạc bẽo đến vô lương tâm.
Những tưởng người cha trong truyện sẽ càng ngày càng man rợn nhưng không ngờ với đôi mắt “ầng ậc nước... nhoè nhoẹt” khi chứng kiến con gái mình bị hãm hiếp mà ông không làm gì được đã trở thành dấu hiệu sự trở về của con người thật trong ông. Hình ảnh đôi mắt còn xuất hiện rất nhiều trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư, đó còn là đôi mắt bị bệnh chảy nước mắt sống của Điền. Đôi mắt cứ chảy nước mắt ròng ròng, đôi mắt bị tổn thương sau khi nhìn thấy những hình ảnh không đáng nhìn khi vừa thức giấc trong bồ lúa. Sau khi Điền bỏ đi theo “chị”, Nương vẫn nghĩ về đôi mắt ấy với một niềm khắc khoải khôn nguôi: “không biết nước mắt của nó đã khô chưa hay vẫn rỉ từng giọt như máu tươi”. Hình ảnh đôi mắt cứ chảy nước ròng ròng ảm ảnh từ đầu đến cuối câu chuyện đã thể hiện ý nghĩa nhân văn sâu sắc, Nguyễn Ngọc Tư đã cho ta thấy một tâm hồn bị tổn thương, yếu đuối .Con người ta có thể chai sạn với mưa nắng nhưng với những cú sốc tinh thần đặc biệt là cú sốc đầu đời đầu đời thì rất khó dể chữa lành. Cú sốc đó mãi còn để lại những di chứng về sau này.
Ngoài những nét chấm phá rất điển hình để miêu tả một khoảnh khắc trong cuộc đời nhân vật, Nguyễn Ngọc Tư còn miêu tả ngoại hình gắn với sự biến đổi theo năm tháng. Nhan sắc của bà Hồng không thể chống lại quy luật tàn phai của thời gian. Thời con gái bà đẹp “tới đứng tim người ta’’. Trải qua bao vất vả cơ cực để cống hiến cũng đã đến lúc “đôi môi đã héo queo, mặt nhăn nhúm nám đen, cái cổ cao ngày trước giờ gần như đổ gục vì cái gánh tâm tư mà cuộc đời chồng chất’’ sự thay đổi đó làm cho ông Khanh “đứng chết lặng ngẩn người ra, lòng đau đớn, đó không phải là nhan sắc mà ông nhớ thương chờ đợi ...”.
Nhìn vào thế giới nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư, ta dễ dàng thấy đặc trưng riêng của từng nhân vật. Tuy nhiên toát nên từ tất cả, từ trẻ đến già ai cũng mang trên mình đặc điểm chung, cái nét chung của người nông dân Nam Bộ cơ cực nghèo khổ lam lũ vất vả nhưng giàu tình yêu thương. Những nét tính cách này càng được nổi bật rõ ràng hơn khi ta đặt những nét ngoại hình đó trong sự đối sánh với nhân vật ông trưởng ấp và ông cán bộ xã: “hai khuôn mặt bị nướng dưới ánh mặt trời, bóng nhẫy, tươm mỡ”, còn ánh mắt thì đó là: “ánh nhìn ham muốn như mũi kim thò ra khỏi bọc, lơ láo”. Chỉ cần hai nét cơ bản như vậy thôi người đọc dã có thể hình dung ra sự ứ thừa của những con người tham lam, ham hố.
Như vậy miêu tả ngoại hình Nguyễn Ngọc tư đã không sao chụp máy móc chân dung các nhân vật mà chỉ phác họa tái hiện lại bằng một vài nét thoáng qua có tính chất chấm phá. Song những nét chấm phá ấy lại có ý nghĩa lớn, nó đạt tới giá trị tạo hình, lại vừa có khả năng gắn rất cụ thể nhằm tái hiện một cách sinh động tính cách nhân vật cũng như đã góp phần nêu bật được quan niệm của nhà văn về con người thế giới.
3. Ngoài ra để người đọc có thể thấy được rõ nét tính cách của nhân vật thì Nguyễn Ngọc Tư còn rất chú ý trong việc mô tả hành động của nhân vật. Thể hiện tính cách nhân vật qua miêu tả hành động là một thủ pháp cơ bản trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. “Hành động là những việc làm cụ thể của nhân vật trong các quan hệ ứng xử với các cá nhân vật khác nhau và trong những tình huống khác nhau của cuộc sống’’. Hành động được xem như là kết quả cuối cùng của quá trình nhận thức, quá trình tâm lý, quá trình tình cảm. Qua hành động, Nguyễn Ngọc Tư muốn để cho nhân vật của mình nói lên những suy nghĩ, tư tưởng, trạng thái diễn biến bên trong nhân vật.
Đọc Cánh đồng bất tận người đọc không thể quên được hành động “Người cha cởi áo trên người để đắp cho đứa con gái. Ông ta bò quanh nó, tìm bất cứ cái gì để có thể che cơ thể nó dưới mặt trời”. Có thể nói một hành động chăm sóc yêu thương đó ông đã bỏ quên từ lâu lắm. Rồi hành động khăn gói bỏ xứ ra đi tìm con của ông già Năm Nhớ trong truyện ‘Cải ơi’’. Hành động đó thể hiện lòng yêu thương, lo lắng cho con. Mặt khác ông muốn ra đi, quyết tâm tìm lại con để minh chứng cho tấm lòng của mình trước sự nghi nghờ của vợ và thái độ dò xét của những người xung quanh.
Rồi hành động hết sức cảm động của ông Mười (Mối tình năm cũ). Khi chứng kiến cảnh vợ đau khổ vì làm phim về người yêu cũ đã mất. Ông đã “nhẫn nại cầm chiếc khăn lau những dòng nước mắt trên khuôn mặt vợ’’. Trước hết ta nhận thấy đây là thấy đây là một hành động tràn đầy tình yêu thương, sự nâng niu, trân trọng đối với người vợ đã chịu nhiều mất mát của mình. Và đằng sau tình cảm ông dành cho vợ là tấm lòng vị tha, cao thượng, ông đã không hề mảy may ích kỉ, nhỏ nhen trước chuyện vợ mình vì một người đàn ông khác mà khóc.
Hành động “khăn gói bỏ xứ ra đi” tìm đứa con riêng của vợ cũng là hành động thể hiện được tình yêu thương vô bờ của ông Năm Nhỏ trong Cải ơi. Thương con lưu lạc, bơ vơ, thương vợ nghẹn ngào trong nỗi sầu lo lắng nhớ mong con, ông quyết tâm tìm lại đứa con ấy. Ngoài ra, hành động quyết tâm ra đi cũng thể hiện lòng tự trọng và sự cố gắng minh chứng cho tấm lòng trong sạch của mình trước thái độ dò xét của những người xung quanh và sự ngờ vực của vợ. Hành động ra đi còn xuất hiện rất nhiều trong tập truyện Cánh đồng bất tận: Sự ra đi của Tứ Phương để nhường chị Thể cho anh trai, hành động nhân vật “má” đi tìm tin tức của người vợ cũ cho chồng cũng là những hành động mà chỉ những con người có tấm lòng vị tha, cao thượng mới có được. Hành động bỏ nhà, bỏ cửa, bỏ nơi giàu sang để đi theo tiếng gọi tình yêu của ông Chín trong Cuối mùa nhan sắc cũng là hành động rất đáng trân trọng của một con người mạnh mẽ, dứt khoát lấy tình yêu là lẽ sống cả đời của mình. Hay hành động ra đi tìm chồng của cô Út trong Cái nhìn khắc khoải cũng đã thể hiện được tình cảm yêu thương, gắn bó và sự chung thuỷ của người phụ nữ Nam Bộ... Những hành động đều rất nhẹ nhàng nhưng tất cả như đã đều toát lên ý nghĩa nhân văn sâu sắc của nó.
Mỗi nhân vật khi làm bất cứ một điều gì, hành động như thế nào đều đã thể hiện một phần tính cách của mình. Mô tả hành động của nhân vật, ngoài để góp phần thúc đẩy cốt truyện, Nguyễn Ngọc Tư còn khéo léo thể hiện tính cách nhân vật, góp phần xây dựng nhân vật trong tính hoàn chỉnh của nó.
4. Khi xây dựng nhân vật, để khắc hoạ rõ nét, sống động cá tính của nhân vật thì các nhà văn còn rất chú ý đến những lời đối thoại của nhân vật. Họ đều là những người nông dân Nam Bộ nên trước hết ta thấy họ đều là những con người bình dị. Ngay từ cách xưng hô giữa các nhân vật với nhau, ta thấy họ gọi nhau là: Bây, tía, má, chế, ý, qua... Đó là những cách xưng hô thân mật của những con người xứ miệt vườn Nam Bộ. Cách diễn đạt của họ cũng rặt một kiểu Nam Bộ: “bảnh thiệt, cà lơ phất phơ, cá chốt rỉa, chành miệng, chộ ba bảy chín, đưa chốt qua sông, đã thiệt....”. Họ là những con người chất phác, thường thì nghĩ sao nói vậy. Vậy nên khi tìm hiểu tính cách nhân vật ta không thể bỏ qua những lời đối thoại của nhân vật.
Qua lời đối thoại, ngoài thông tin thể hiện trong lời nhân vật đó ta còn dễ dàng hiểu được cách suy nghĩ và qua đó mà hiểu được tính cách nhân vật. Chẳng hạn trước khi ra đi ông Sáu Đèo đã nói với Phi như sau : “Chú mầy uống đi, buồn gì, hai đứa mình có duyên gặp ở đây, có phải là vui biết chừng bao nhiêu không? Nhưng qua có lời dặn lại, chú em đừng bao giờ uống say quá, chỉ những người sầu muôn mới uống say thôi”. Nếu không phải là con người từng trải, sâu sắc, chu đáo và rất tình cảm thì sẽ không bao giờ thốt ra những câu nói đầy triết lí nhưng rất chân tình và thấm đẫm tình yêu thương như thế.
Tính cách thẳng thắn, trẻ trung, yêu đời, giàu tình cảm của ông Chín trong Cuối mùa nhan sắc cũng được thể hiện rất rõ nét khi ông nói chuyện với mọi người trong quán cà phê.
“Có người hỏi, sao bữa nay không uống cà phê. Ông Chín Vũ cười lắc đầu, cười tiếp với cái vẻ không muốn nói mà thèm nói quá trời đi:
- Để dành tiền mua cho cổ chai dầu thơm.
Ông già trịnh trọng thì thào. Cả quán rộ lên cười:
• Già rồi mà còn yêu.
• Mắc yêu thì yêu - ông già cự lại, vẻ mặt sương sướng không giận gì ai.
• Bây thì biết gì, tình xưa đó, mà, mình thương người ta mà người ta đâu có thương mình”
Trong Cánh đồng bất tận để thể hiện tính cách tàn nhẫn của người cha và sự cam phận nhẫn nhục của nhân vật “chị”, Nguyễn Ngọc tư cũng đã xây dựng những đoạn đối thoại rất đặc sắc. Sau khi diễn tả sự hạnh phúc của chị khi quyến rũ được nhân vật cha qua đêm với mình trong bữa ăn, cha nói: “Tôi trả tiền hồi hôm…” Chị nhét tiền vào trong áo ngực, cười “Trời ơi ba mấy cưng sộp quá chừng”
Rồi một lần sau khi chị cố gắng để đàn vịt của ba cha con khỏi bị tiêu hủy, sáng sau gặp ở quầy vịt : “Sao, hồi tối có vui không?
Chắc họ tưởng cô là vợ tôi nên hứng thú lắm hả? Cứ để họ nghĩ vậy...”. Chị ngó trân trân vào cha, rồi day qua tôi, chị để rớt từng lời:
- Má cưng ác một, nhưng người cha này của cưng ác tới mười”
(Cánh đồng bất tận)
Qua đó ta thấy lời đối thoại cũng là một phương tiện nghệ thuật rất đắc dụng để nhà văn xây dựng lên tính cách nhân vật. Qua những lời thoại trong tập truyện, Nguyễn Ngọc tư đã cho ta thấy được rõ nét hơn về lối sống, tính cách của các nhân vật trong truyện.
5. Để khắc hoạ nhân vật trong tính toàn vẹn của nó thì bên cạnh việc miêu tả ngoại hình, Nguyễn Ngọc Tư còn rất chú trọng đến việc miêu tả nội tâm nhân vật. Nội tâm là khái niệm chỉ toàn bộ những trạng thái, suy nghĩ, cảm xúc, cảm giác, nhưng phản ứng tâm lý của bản thân nhân vật trước cảnh ngộ và tình huống mà nhân vật chứng kiến trên bước đương đời của mình. Yếu tố tâm lý thường được nhà văn xem là một đối tượng nghiên cứu trực tiếp của mình. Muốn khai sinh cho một nhân vật phải nắm bắt được tâm lý của nhân vật. Đây cũng chính là một thử thách đối với nhà văn bời tâm lý của con người không đơn giản, khó nắm bắt. Mỗi người có một tính cách riêng, cách suy nghĩ riêng với những cảm nhận khác nhau về thế giới và con người. Có thể nói thủ pháp được vận dụng thường xuyên nhất trong truyện Nguyễn Ngọc Tư đấy chính là dùng lời nửa trực tiếp. Cụ thể là trong lời kể chuyện của nhà văn đã bao hàm cả giọng điệu, thái độ, suy nghĩ của nhân vật; kể lại câu chuyện bằng chính giọng điệu của anh ta. Chẳng hạn trong truyện Huệ lấy chồng, Khi Điềm ước sau này sẽ gặp được người tử tế, lấy được một người chồng như Thi (người yêu của Huệ) thì “lòng Huệ nghe ấm ran, nó mơ tới một mái nhà sớm chiều khói tỏa, buổi sáng nó rang cơm cho thi lót lòng đi dạy, trưa đón thi về chăm chút nồi canh chua bông súng ăn với cá sặc kho khô
”. Nhưng khi Thi đi lấy người khác Điềm sợ Huệ vì Thi mà làm dại “sợ vậy thôi, chớ Huệ vẫn roi rói, người ta thấy nó không thèm rớt một giọt nước mắt nào như nó với Thi chưa từng có duyên gì với nhau”. Hồi đám cưới Thi, Huệ chép miệng tiếc, phải chi Thi mời... Không được mời nên mới nằm nhà, gió đưa tiếng hát qua đồng lúc gần lúc xa thăm thẳm”. Đến ngày Huệ cũng phải lấy chồng, vẫn qua lời của người kể chuyện ta thấy khi đi ngang qua đoạn gần nhà Thi “nó ngơ ngẩn ngó lên bờ, trong lòng chao chát một nỗi thèm muốn. Nó muốn chạy vô xóm, tới nhà Thi, gặp anh và nói cho anh hay rằng nó hết thương Thi rồi, nó quên anh, quên thiệt ”. Rõ ràng, những đoạn đã dẫn cho thấy nhà văn đã trần thuật lại câu chuyện bằng giọng điệu, nội tâm của nhân vật. Hình thức này khiến cho nhà văn có thể taí hiện tự nhiên dòng tâm tư của nhân vật mà còn khiến tác phẩm biến hóa, nhiều giọng điệu.
Có thể nói nguyễn Ngọc Tư là nhà văn có khả năng nhập thẳng vào nhân vật của mình, thông qua nội tâm của anh ta mà kể lại câu chuyện cho nên rất nhiều tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư lựa chọn hình thức trần thuật theo ngôi thứ nhất, qua nhân vật xưng tôi trong tác phẩm. Độc giả chẳng những lĩnh hội được câu chuyện mà còn thấu hiểu cả những trải nghiệm, suy tư, những cơn sóng tâm hồn của nhân vật kể chuyện. Có thể xem đó là những đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật. Hình thức này cũng khiến cho dòng tâm tư nhân vật hiện lên “tươi rói” trên trang sách. Tiêu biểu nhât cho hình thức này là truyện ngắn Cánh đồng bất tận. Như ta đã biết Cánh đồng bất tận chỉ dài gần 60 trang vậy mà số lần nhân vật Nương, xưng “tôi” dừng lại tái hiện những tâm tư của mình lên tới 15 lần, mỗi lần một suy nghĩ, một trạng thái cảm xúc khác nhau. Trong dòng suy nghĩ triền miên của nhân vật “tôi” thì nỗi nhớ chính là những lớp sóng tâm trạng miên man, cồn cào và giằng xé trong tâm hồn “tôi”. Mỗi lần nhớ, mỗi lần thương, mỗi lần đau “tôi”thường bộc bạch, mổ xẻ suy nghĩ của chính mình.
Bắt đầu từ nỗi nhớ má “suốt nhiều năm sau đó, tôi không dám nhớ má, bởi ngay khi vừa nghĩ đến má thì lập tức hình ảnh ấy lại hiện ra”. Không hề tức giận khi bị cha đánh đòn, “tôi” chỉ ngồi đó tìm ra nguyên nhân xuất phát những trận đòn đó: “Và tôi tự nhớ lại coi hồi sáng này, hồi trưa này mình đã làm gì giống má, kho cá bỏ quá nhiều tiêu? Hay vì tôi buộc tóc nhong nhỏng”; “Tôi cảm thấy mình thất vọng đến rã rời. Những thói quen, những cái gì liên quan đến má tôi phủi gần sạch rồi, nhưng làm sao tôi có thể bỏ được hình hài nầy”.
Rồi khi đứa em trai từ chối sự trưởng thành, ghê tởm những hoạt động sinh lí xác thịt Nương muốn giúp em mà không làm gì được bởi “Tôi muốn kêu lên, tiếc là sự thất học khiến tôi không thể diễn đạt bằng lời. Tôi không chắc chắn lắm nhưng tình dục và xác thịt không xấu xa, không đáng bị khinh bỉ, không phải là nguyên nhân đến cuộc sống nầy với những đổ vỡ nầy…”.
Sau này khi Điền đã bỏ đi theo chị mỗi khi qua những xóm kinh, Nương “thường ngóng lên bờ xem có được gặp chị với Điền không”. Những lúc đó Nương nghĩ: “không biết em tôi có đuổi kịp chị hay vẫn tiếp tục kiếm tìm. Không biết nó đã đánh thức được bản năng, đã tìm thấy nhục cảm, đã thèm muốn chưa. Không biết nước mắt của nó đã khô chưa hay vẫn rỉ từng giọt máu tươi”.
Đến đoạn người cha nhắc tới chuyện lấy chồng thì trong đầu Nương xuất hiện hàng chục câu hỏi tự vấn. Những suy nghĩ của Nương bật ra như lời đối thoại với chính độc giả, với trời, với đất và với chính bản thân mình: “Tôi biết lấy ai trong số đó? Lấy một người cắm mặt xuống đất, mệt nhừ với vườn ruộng để mỗi khi giáp hạt tôi nghe thấy tiếng cạo cơm cháy của con, tiếng muỗng dừa vét gạo dưới đáy mà rát bỏng trong lòng? Hay tôi sẽ chọn một người chăn vịt, mê mỏi với chuyến đi xa, sống hờ hững tạm bợ, thấp thỏm với rủi ro và đến một lúc nào, tôi ôm con nghe đêm của mùa gặt thật dài với tiếng rúc rích của người chồng già nua. Tôi lấy ai bây giờ, một người thợ gặt? Một anh chạy đò?” .
Đến tận khi truyện đi đến đoạn kết thì Nương vẫn không ngừng bộc lộ những dòng suy nghĩ chảy tràn của mình: “Trời ơi, tại sao tôi không nhận ra điều đó ngay lúc ấy…”. Ttong hoàn cảnh hết sức thương tâm đó Nương nghĩ: “Ước gì cha tôi hiểu để mà thanh thản”.
Người đọc không thể ngờ được 17 tuổi mà Nương lại có những dòng suy nghĩ, những câu tự vấn sâu sắc đến thế về cuộc đời. Quá khứ, hiện tại, tương lai nó cứ đồng hiện, chất chứa thành một khối trĩu nặng với đầy đủ những sự day dứt cho quá khứ, dằn vặt về hiện tại, lo lắng cho tương lai. Sự trưởng thành, già dặn quá sớm của nhân vật chỉ có thể giải thích được bằng chính cuộc sống không người dạy dỗ, sống cuộc sống xa cách con nguời, không được sự quan tâm của cha cũng chẳng được sự chăm sóc của mẹ. Bao nhiêu sự trăn trở, lo âu về cuộc sống không biết giải bày cùng ai cho nên nhân vật luôn sống với những dòng suy nghĩ triền miên là điều tất yếu.
Khi gặp người đàn bà ở xóm Bàu Sen, lúc đầu cha “trút vẻ lầm lũi” vốn có. Sau đó khi đã rủ chị bỏ nhà, bỏ quê để theo cha thì vừa mới đi được một đoạn đường cha quăng chị lại “cười dữ dội,đau đớn, hoang dã, cay đắng, nghiệt ngã. Cái cười thật dài, riết lấy khuôn mặt cha, làmmắt cha hơi lồi ra, ánh lên như có nước”. Càng ngày cha càng “xanh xao, lạt lẽo, ngơ ngác và cô đơn”... Qua lời kể của đứa con gái, tâm lí người cha càng ngày càng ghê sợ “không còn một chút cảm xúc nào, nét mật tràn ngập những rắp tâm, chưa gặp mặt đẫ tính chuyện phũ phàng”. Nhưng sau tất cả những điều đó đứa con gái vẫn hiểu rằng bên trong tâm hồn cha là “một hố sâu thăm thẳm, bến bờ mịt mù, chơi vơi, dễ hụt chân”.
Qua đây ta thấy Nguyễn Ngọc Tư đã khéo léo linh hoạt tìm ra những phương thức sát hợp nhất thể hiện sắc nét nhất dòng tâm trạng, cảm xúc, những suy tư, trăn trở... trong nội tâm của từng nhân vật. Nội tâm vốn là là yếu tố không dễ nắm bắt nhưng với tài năng, sự nhạy cảm và tấm lòng gắn bó sự chân thành của chính bản thân mình với tất cả mọi người, Nguyễn Ngọc Tư đã dễ dàng đột nhập, khám phá nội tâm từng nhân vật để người đọc hiểu, thông cảm và trân trọng những tất thảy con người đó. Qua việc đi sâu khám phá nội tâm của các nhân vật Nguyễn Ngọc Tư như thêm một lần nhắc nhở người đọc, giúp người đọc có thêm được một kinh nghiệm sống, mỗi người chúng ta nên có được một cái nhìn quân bình hơn trong cuộc sống này.
Như vậy từ việc đặt nhân vật vào trong các tình huống có vấn đề, từ việc miêu tả ngoại hình, mô tả hành động, dựng lên những đoạn đối thoại và đặc biệt là việc khám phá đời sống nội tâm của nhân vật... Nguyễn Ngọc Tư đã xây dựng lại những hình tượng nhân vật của mình trong tính toàn vẹn nhất trước mắt người đọc. Thật vậy, từ thế giới nhân vật của mình, Nguyễn Ngọc Tư đã dễ dàng chuyển tải được toàn bộ những ý đồ nghệ thuật sâu xa của mình
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Ngọc Tư, (2005), Cánh đồng bất tận, (tập truyện), Nxb Trẻ
2. Hoàng Phê (chủ biên), (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
3. Trần Đình Sử (1999), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục
4. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên), Từ điển thuật ngữ văn hoc, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000.

No comments:

Post a Comment