Tuesday, March 15, 2011

Làm Người Là Khó- Đoàn Duy Thành 3

“… Từ việc làm không đàng hoàng chính trực, biết bao cán bộ cấp dưới bắt chước, sinh nhờn kỉ luật. Từ kỉ luật sắt thành kỉ luật “mỡ” đó chẳng phải là bài học xây dựng Đảng, xây dựng con người lãnh đạo, phải có đức, có tài để làm gương tốt cho đời nay và mai sau hay sao?…”
Chương 8
Cuộc đối chất có một không hai trong lịch sử đảng ta
Suốt hai năm ròng rã, từ khi tôi thôi uỷ viên khoá 6. Hàng tháng hoặc hai tháng tôi biên thư cho Bộ Chính trị và Ban Bí thư xin đối chất với những người có đơn vu khống chính trị tôi. Tôi nghĩ những người này không những loại được tôi ra khỏi chính trường, họ còn muốn làm “nhục” tôi nữa. Nên họ rêu rao do tôi khai man lí lịch phải ra khỏi các chức vụ. Nếu làm rõ ràng thì tôi còn phải khai trừ và đưa ra toà về tội làm “gián điệp” cho Pháp. Bởi vậy tôi phải kiên quyết đề nghị đối chất với họ. Đối với người làm hại mình, bên ngoài lại tỏ vẻ hàm ơn cho mình, bao dung cho mình, tôi cũng cần phải làm rõ trắng đen. Tôi nói rõ trong đơn, nếu lí lịch của tôi có chỗ khai man, tôi xin được “xử bắn”. Còn người vu khống tôi, chỉ cần thề trước khi đối chất là: “Nếu vu khống tôi, xin làm con chó là đủ”.

Nhưng nguyện vọng ấy mãi không được chấp nhận. Anh Đỗ Mười và một số đồng chí bảo tôi: “Lí lịch anh đã có văn bản của anh Võ Chí Công kết luận rồi, Đảng có đánh giá gì anh đâu mà phải đòi đối chất”. Tuy nói vậy, nhưng một số người vẫn vu khống, họ cũng không chịu cùng tôi đối chất.

Họ nói: “Vì bảo vệ Đảng mà họ nói thôi. Đối chất mất hết tình nghĩa giữa chúng tôi và anh Thành”.

Họ nói đạo lí “xanh rờn” như vậy nghe có “thấu tình đạt lí không” ? Tôi viết thư cho anh Lê Đức Anh nói: “Đề nghị anh chủ trì giúp, vì anh Mười đối với tôi và anh Tô Duy cũng khó nói...”

Anh Lê Đức Anh gặp tôi ở Quốc hội nói: “Việc này đã rõ quá rồi, không làm không được, tôi sẽ nói với Mười chủ trì giải quyết sớm”. Nhưng mãi cũng không thấy tổ chức đối chất. Anh Đỗ Mười gặp tôi bảo phía bên kia họ không đối chất.

Một hôm nhà tôi và tôi đến thăm anh Mười. Lúc đó nhà tôi thấy bức xúc quá, nên cứ vừa khóc, vừa đập bàn nói: “Anh phải chủ trì giải quyết cho nhà em. Nhà em phải hi sinh vào đất địch gian khổ, bị bắt, bị tra tấn, giam cầm khổ như thế nào. Nay họ vu khống cho nhà em là gián điệp quốc tế, các cháu đều là đảng viên cả, chúng sẽ nghĩ về Đảng ra sao? v.v..”.

Anh Mười quay sang bảo tôi:

- Tại sao anh Thành lại nói việc này với chị ấy? Việc này để tôi giải quyết. Cô ốm nên yên lâm chữa bệnh. Tại sao anh Thành lại nói với chị ấy trong lúc ốm đau.

Tôi hơi khó chịu, nói:

- Thưa anh Mười, việc này cả nước cùng biết, tôi sao giấu được nhà tôi? Anh bảo với Tô Duy có đào mả bố hắn lên cũng không tìm được tài liệu tôi bị bắt tháng 2-1951.

Anh Mười đứng phắt dậy đi ra tủ sách xem, không nói chuyện với chúng tôi nữa. Tôi rỉ tai nhà tôi: “Chạm nọc rồi”. Khoảng 5,7 phút đi vòng xem các tủ sách như tìm cái gì, anh Mười tỏ ra bực tức, nhưng không nói. Sau trở lại ngồi xuống nói với chúng tôi: “Cô cứ yên tâm để việc này tôi giải quyết”.

Chúng tôi đứng dậy xin phép anh Mười ra về.

Tôi nghĩ phải kéo những người này ra trận tiền, không để họ cứ ở chỗ tranh tối, tranh sáng trong xó tối, nhân danh bảo vệ Đảng để tiếp tục vu khống, làm “nhục” mình. Tôi bèn viết một lá thư gửi anh Mười và gửi rộng rãi các đồng chí Ban bí thư, Bộ Chính trị, các ban của Đảng. Tôi thôi không xin đối chất nữa, chỉ cần xác minh cho tôi bị bắt tháng 91951 không phải tháng 2-1951 là đủ. Lá thư đó lọt đến tay những người vu khống tôi, họ yên trí là tôi sợ đối chất, vì họ có nhân chứng sống như Hoàng Chữ, đã có thư gửi anh Đỗ Mười (phần trên đã nói nội dung bức thư). Họ hí hửng chỉ một nhân chứng sống Hoàng Chữ cũng đủ để đánh gục tôi. Còn ngày bị bắt tháng 2 hoặc tháng 9-1951 không còn ý nghĩa nữa. Lập tức những người vu khống kí tên xin đối chất với tôi, gồm 12 người. Sau anh Nguyễn Văn Bút, Phó Bí thư Thành uỷ xin rút. Vì hôm họp anh em kháng chiến “Đèo Voi”, anh Bút gặp tôi giơ tay bắt tay, tôi không bắt tay. Anh Bút vẫn nài tôi bắt tay. Tôi nói: “Anh phải hứa với tôi từ nay không tham gia với nhóm vu khống tôi”. Anh Bút đồng ý, tôi bắt tay anh Bút. Từ đó anh cự tuyệt và không tham gia với nhóm này nữa. Quan hệ giữa tôi và anh Nguyễn Văn Bút trở lại bình thường.

Hôm 19-6-2004 vừa qua, trong bữa cơm Thành uỷ và UBND thành phố Hải Phòng chiêu đãi chúng tôi, anh Bút lại kể lại tình bè bạn thân thiết giữa tôi và anh Bút cho mọi người nghe, (trong đó có đồng chí Trịnh Văn Sử, Phó Bí thư Thường trực, Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng cùng nghe). Anh Bút kể lại câu chuyện khi chúng tôi về chuẩn bị nhận chức Bí thư Quận uỷ Bạch Đằng và Ngô Quyền: “Trong lúc chờ đợi ở Đèo Voi, sống khổ sở mỗi bữa có một con cá phèn nướng, sáng tôi ăn đầu anh Thành ăn đuôi, chiều ngược lại. Có mấy cọng rau muống cũng chia đôi...”. Mọi người nghe rất xúc động...

Mãi đến ngày 26-2-1993 Ban Bí thư mới quyết cho tổ chức cuộc họp đối chất do anh Đỗ Mười, Tổng Bí thư chủ trì, có anh Nguyễn Đình Hương uỷ viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Bảo vệ Chính trị Nội bộ và 8 cán bộ Vụ trưởng, Vụ phó ban Tổ chức Trung ương, Ban Bảo vệ chính trị nội bộ đã tham gia cuộc đối chất xác minh vấn đề bị bắt, bị tù của tôi, và những đơn tố giác. Hải Phòng có đồng chí Lê Danh Xương, Bí thư Thành uỷ, đồng chí Trần Huy Năng, Uỷ viên thường vụ, trưởng ban Tổ chức thành uỷ cùng dự.

Về phía những người tố giác có 11 đồng chí.

1/ Tô Duy, nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Kiến An, uỷ viên thường vụ Phó Chủ tịch UBND Hải Phòng, Chủ nhiệm Uỷ ban vật giá Trung ương.
2/ Lê Quang Tuấn, nguyên Bí thư Thành uỷ Hải Phòng 1948, Giám đốc công an khu 3, Bí thư tỉnh uỷ Hà Bắc, Viện trưởng viện thi đua khen thưởng.
3/ Trần Đông, nguyên uỷ viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Thành uỷ Hải Phòng, Thứ trưởng Bộ Nội vụ (nay là bộ Công an).
4/ Nguyễn Mạnh Ái, nguyên Bí thư quận uỷ Ngô Quyền, cục Phó Cục bảo vệ Tổng cục chính trị QĐND Việt Nam.

Và 7 đồng chí khác là Nguyễn Thắng, Vũ Kính, Phạm Diệt, Vũ Tiến Long, Hoàng Hải, Hoàng Chữ, Phùng Văn Về.

Về phía nhân chứng cho tôi có 10 đồng chí: Lê Nghiêm, Quận uỷ viên quận Ngô Quyền, hoạt động trong nội thành, người trực tiếp đón tôi vào nội thành công tác, đồng chí Nguyễn Văn Nhuận, Bí thư chi bộ khu 7 thuộc quận Ngô Quyền là người đưa đón tôi đi hoạt động ở nội thành; cô Trần Thị Định cùng với chồng là đồng chí Bảo, là cán bộ của khu 7, nơi tôi qua lại ăn ở. Cô Định và chú Bảo còn ứng cho tôi mượn một cây vàng lấy tiền lo thẻ căn cước của tôi và đồng chí Đào Ái cho chúng tôi có giấy tờ của địch, đi lại trong nội thành hoạt động. Đồng chí Lê Công Thiên, Phó Bí thư huyện uỷ Kim Thành, huyện đội trưởng, đã giúp đỡ tôi về chữa bệnh ở Kim Thành. Các đồng chí Nguyễn Xuân Sâm, Nguyễn Văn Nghĩ, Nguyễn Tân, Vũ Quang Đạo, là những đồng chí cùng bị bắt và cùng bị tù với tôi ở nhà tù Đoạn Xá, Côn Đảo... Đồng chí Nguyễn Văn Linh, nguyên quyền Trưởng ti y tế Hải Phòng, cưới chị Phụng Dương ngày 8-7-1951, cưới tập thể với đám cưới anh Tô Duy cưới chị Lê Thu; anh Nguyễn Đình Hân, chuyên viên văn phòng thành uỷ, tháng 71951 còn ăn cơm với tôi ở văn phòng thành uỷ tại Hồ Lao Sơn Động Bắc Giang, trước khi tôi vào nội thành công tác.

Đến hội nghị đối chất vẫn còn vu khống trắng trợn

Đúng 8 giờ ngày 26-2-1993 hội nghị họp.

Đồng chí Đỗ Mười chủ trì hội nghị tuyên bố:

- Hôm nay tôi là Bao Công. Ai có ý kiến gì nói cho hết.

Sau đó anh Mười nói: Bị bắt tháng 2 hay tháng 9 có gì quan trọng nhỉ? Vấn đề bị bắt khai báo ra sao, trong tù hoạt động thế nào, mới là quan trọng chứ?

Tôi đứng lên báo cáo với anh Mười:

- Các anhđây không tìm thấy khuyết điểm của tôi khi bị bắt, khi bị tù, các anh ấy xoay sang việc tôi bị bắt tháng 2-1951. Trong lí lịch tôi khai bị bắt tháng 9-1951 như vậy chênh lệch nhau 7 tháng. Bảy tháng ấy tôi đi đâu? Chắc đi huấn luyện làm tình báo cho địch. Không đơn giản như anh nói đâu, anh Mười ạ!

Ban Tổ chức báo cáo là còn thiếu anh Hoàng Chữ. Tức thời anh Nguyễn Thắng, anh Vũ Tiến Long đứng dậy nói:

-Anh Hoàng Chữ không dám lên Hà Nội họp vì sợ anh Thành giết.

Anh Nguyễn Mạnh Ái cũng nói là anh Hoàng Chữ nói với anh Ái như vậy. Có mỗi một nhân chứng sống lại vắng mặt. Nhân chứng này viết thư trực tiếp cho anh Mười, nếu không có mặt thì còn chứng lí gì để đối chất? Trong lúc đó một cán bộ Ban tổ chức đứng dậy báo cáo với anh Mười: “Anh ta trốn đấy! Chứ ai giết mà anh ta sợ”. Anh Mười bảo anh Lê Danh Xương cho người tìm và dẫn bằng được anh Hoàng Chữ lên Hà Nội. Đồng chí Lê Danh Xương điện về Hải Phòng yêu cầu tìm mọi cách đưa anh Hoàng Chữ lên Hà Nội họp ngay.

Cuộc họp bắt đầu. Các anh Tô Duy, Trần Đông phát biểu trước, rồi đến các anh Nguyễn Thắng, Vũ Tiến Long, Phạm Điệp, Nguyễn Mạnh Ái. Họ phát biểu dài dòng đại để như: tôi đã 20 năm làm công an nên có kinh nghiệm chống gián điệp, âm mưu nọ, âm mưu kia. Họ không nêu được ý gì cụ thể cả, chỉ nghe dư luận v.v... Tôi có lúc khó chịu, có lúc xuýt bật cười. Tôi ghi chép kĩ, để khi phát biểu sẽ nói cho mỗi vị một trang. Tất cả đều chung chung. Có anh không nói, vì không biết gì cả, như anh Hoàng Hải, anh Lê Quang Tuấn họ đã định không phát biểu. Tôi nhắc anh Mười bảo anh Tuấn phát biểu, anh Tuấn mới phát biểu: “Đây là hội nghị của Đảng, nên cứ phát biểu chung, không nên hết phe này phát biểu rồi đến phe kia phát biểu” (chấm hết).

Lúc đó đã là 3 giờ chiều. Một cán bộ Ban Tổ chức Thành uỷ đưa anh Hoàng Chữ vào hội trường. Ngồi 5 phút, anh Mười bảo anh Hoàng Chữ phát biểu. Anh Chữ nói:

-Tôi xin lỗi đồng chí Đỗ Mười, đồng chí Đoàn Duy Thành, tôi chỉ nghe quân tôi nói, tôi không trông thấy đồng chí Thành mặc quần áo trắng, đọc nhật trình, không bị tra tấn gì, ngồi xem anh em bị tra tấn. Tôi nói như vậy là có sự tác động. Một lần nữa tôi xin lỗi đồng chí Tổng Bí thư và đồng chí Thành.

Rồi anh Hoàng Chữ ngồi xuống. Tôi liền hỏi: “Ai tác động?”. Anh Hoàng Chữ không trả lời. Còn anh Phùng Văn Về, cháu ông bà Ngời, ở ngõ Sỏi phố ga Hải Phòng là nhân chứng đã tuyên bố biết tôi bị bắt tháng 21951, đã cùng ăn, cùng ngủ với tôi ở nhà ông bà Ngời. Anh Về phát biểu:

-Tôi chưa gặp anh Thành lần nào, chỉ thấy cô, chú tôi nói là anh Duy bị bắt ở đây. Tôi nhớ là mùa nóng bức, tôi không nhớ rõ là ngày tháng nào cả.

Anh Hoàng Hải phát biểu:

-Tôi không biết gì cả. Các anh ấy nhờ tôi đưa anh Về lên đây giúp.

Đặc biệt là anh Vũ Kính, nguyên uỷ viên Thường vụ quận uỷ Ngô Quyền, phụ trách văn phòng từ khi mới lập quận, anh người Hưng Yên, thường vụ huyện uỷ Mỹ Hào, được điều sang Hải Phòng từ 1949. Anh cũng học Hán tự, cũng biết đạo lí của Thánh hiền. Anh biết tôi làm Bí thư quận uỷ, rồi xuống làm Phó Bí thư vì không phải là Thành uỷ viên.

Tháng 7-1951 tôi vào nội thành hoạt động, tôi gửi tài liệu và tư trang cho anh. Sau anh gửi tài liệu và tư trang của tôi cho anh Trần Phương (Phương xích) là Bí thư quận uỷ Ngô Quyền trả lại tôi. Anh Vũ Kính đã làm Chánh văn phòng Thành uỷ và đón tôi ở Côn Đảo về. Sau anh làm Phó Giám đốc sở Công an, rồi làm Hiệu trưởng trường trung cấp Công an của Bộ Nội vụ, trường đóng ở Hà Bắc. Tôi đã có ý định mời anh Vũ Kính làm chứng cho tôi, sau biết được anh đứng trong danh sách 12 đồng chí dự đối chất với tôi nên tôi không mời nữa, đợi xem ngày họp đối chất anh sẽ nói gì về tôi. Đến khi phát biểu, anh Vũ Kính chỉ nói một câu: “Tôi đến đây chỉ để chứng minh cuộc họp Ban chấp hành quận uỷ Ngô Quyền tháng 6-1951 là không có. Lúc đó tôi đi học ở trường Trần Phú”. Rồi anh Kính ngồi xuống không nói gì thêm. Tôi cũng hơi buồn cười, vì chẳng có ai nhắc đến cuộc họp (tháng 6-1951). Khi giải lao, tôi gặp anh Kính, nhắc lại chuyện cũ. Anh Kính bảo tôi: “Tôi còn nhớ tất cả, kể cả tháng 7-1951 tôi còn đưa anh ra Đồng Vành chụp ảnh, rồi đưa cậu Văn Te làm giấy chứng minh do Bang Trình Thuỷ nguyên kí” Tôi nói lại: “Tôi định mời anh làm nhân chứng cho tôi, nhưng thấy danh sách đối chất với tôi có tên anh rồi, nên tôi không mời nữa”. Anh lặng yên không nói gì.

Từ 3g30 chiều, 10 đồng chí bảo vệ sự thật cho tôi mới phát biểu. Trong lúc những người tố giác nói sai sự thật, các đồng chí phía tôi rất tức giận, như cô Định, đồng chí Thiện, đồng chí Vũ Quang Đạo. Họ giơ tay liên tục đòi phát biểu. Tôi ra hiệu cho họ cứ bình tĩnh, để các anh phía bên kia phát cho hết ý đi, mình phát biểu cũng không muộn. Cô Định tức giận đứng dạy phát biểu rất xúc động. Khi cô phát biểu xong, đồng chí Đỗ Mười ôm hôn cô và nói: “Tôi thương vợ chồng cô quá!”. Đồng chí Nguyên Tân (Văn Tân) tức giận nói: “ ...Chúng tôi đã bị địch giày xéo lên xác chúng tôi, các anh còn định giày xéo lên xác chúng tôi lần nữa hay sao?” Anh Vũ Quang Đạo, móc một mắt giả do anh làm “cooc-vê” đập đá ở Côn Đảo bị đá bắn vào mù mắt, nói “Tôi lấy một con mắt còn lại, bảo đảm rằng đồng chí Thành là một đảng viên kiên cường, đã cùng với anh Văn (Hiến), anh Lê Đình Thụ cùng các đồng chí trong Đảo uỷ Côn đảo vạch ra kế hoạch vượt đảo có một không hai trong lịch sử các nhà tù của đế quốc...”

Khi kết thúc hội nghị, đồng chí Vũ Quang Đạo nói với anh Đỗ Mười: “Hôm nay tôi đem cả thẻ đảng viên đến đây. Nếu anh kết luận khác là tôi trả thẻ đảng, để xin ra Đảng”. Anh Mười nói: “Đến thế à!”.

Đến 7 giờ tối, hai phía đã phát biểu xong, anh Mười nhìn tôi bảo:

-Đủ rồi, để tôi kết luận kẻo muộn. Anh Thành không cần phát biểu nữa.

Tôi xin phát biểu 5 phút, tôi nói:

-Tôi định phát biểu dài, tôi đã chuẩn phát biểu trả lời cho mỗi anh một trang, nhưng anh Mười bảo thôi, vậy tôi chỉ nói về anh Vũ Kính, anh Kính biết tất cả mọi việc của tôi, nếu anh nói hết sự thật cho các anh này biết, có thể không phải có cuộc họp này. Tôi kể lại đầu đuôi từ ngày thành lập quận, anh Vũ Kính ở đủ các thời kì tôi vào nội thành hoạt động. Tôi bị bắt, bị tù, ra tù, anh Vũ Kính lại đón tôi, nghe hết mọi chuyện thẩm tra, điều tra xác minh về tôi.v.v. Tất cả lời phát biểu của tôi, anh Kính đều công nhận là đúng. Tôi định nói thêm về anh Nguyễn Mạnh Ái một chút, nhưng anh Mười bảo tôi quá muộn rồi, để anh kết luận. Tôi ngồi xuống vừa suy nghĩ. Anh Vũ Kính có học Hán tự nên còn giữ được chữ “tín”. Còn anh Tô Duy, việc rành rành như “canh nấu hẹ”, như việc vợ chồng anh và chị Lê Thu cưới tập thể với vợ chồng anh chị Linh và Phụng Dương, anh Lê Xuân Thịnh và chị Kiệm, 5 người còn sống (trừ anh Thịnh đã hi sinh từ 1952) cớ sao anh có thể nói khác đi. Năm 1982 vợ chồng anh Tô Duy và chị Lê Thu còn xác minh lại với tôi là, họ cưới nhau 8-7-1951 ở Hồ Lao, có mặt tôi ở đó, rồi mấy hôm sau họ còn đến thăm tôi Anh Linh (Nghĩa), chị Phụng Dương, chị Kiệm đều chứng nhận tôi có mặt trong sự kiện trọng đại của ba đôi vợ chồng. Thế mà anh Tô Duy phủi tay để vu khống tôi bị bắt tháng 21951 chứ không phải tháng 9-1951, để ghép cho tôi 7 tháng vắng mặt là được địch cho đi đào tạo làm gián điệp. Anh Tô Duy còn bảo các anh em đi thẩm tra, bắt tôi phải tả lại đám cưới, nơi tổ chức đám cưới, trang trí như thế nào? Để bảo đảm tính trung thực của mình, tôi tả lại đầy đủ đám cưới cho cán bộ đi thẩm tra. Anh Tô Duy lại xoay ra việc khác, nói với cán bộ đi kiểm tra: “Cậu Thành đã đi điều tra tỉ mỉ nơi tổ chức đám cưới...”. Anh Tô Duy có biết đâu từ đó đến nay tôi chưa lần nào trở lại Hồ Lao, và cũng chẳng hỏi lại ai về việc này làm gì.

Thế mới hay có học cũng có hơn. Trong lúc làm việc với nhau ở quận, khi nghỉ làm việc ở Ràng Động, Minh Tân, Quì Khê, Minh Đức Thuỷ nguyên, hoặc Châu Xá, Kinh Môn... tôi và anh Vũ Kính hay đem Tứ thư, Ngũ Kinh ra bàn luận. Trong đó có chữ “tín”, Khổng Tử nói trong sách Luận ngữ. Trong một buổi Khổng Tử giảng bài cho học trò của mình có mặt Tử Cống, một trong 72 học trò giỏi của Khổng Tử. Tử Cống là nhà ngoại giao và chính trị. Ông hỏi đức Khổng Tử một câu về chính trị “Tử Cống vấn chính, Khổng Tử viết, Túc thực, túc binh dân tín chi hĩ” (Tử Cống hỏi về làm chính trị, Khổng Tử trả lời: Đủ lương thực, đủ binh lính, giữ chữ tín với dân). Tử Cống hỏi tiếp: Nếu 3 điều trên bất đắc dĩ phải bỏ một thì bỏ điều nào trước? Khổng Tử bảo: bỏ bớt binh lính. Tử Cống lại hỏi, còn 2 điều cũng bất đắc dĩ phải bỏ một thì bỏ điều nào? Khổng Tử trả lời: bỏ lương thực và giải thích: “Nhân sinh giai hữu tử, nhân vô tín bất lập” (Mọi người sinh ra phải có chết, nhưng người không giữ được chữ tín thì không thành người). Câu chuyện của Khổng tử nói với Tử Cống, chúng tôi rất tâm đắc, nên tôi nghĩ anh Vũ Kính dù có đứng trong danh sách 11 người, nhưng chỉ nói và công nhận sự thật để giữ được chữ tín”. Đó cũng là điều khó làm đối với một số người đã không giữ được chữ tín, mà còn bịa đặt, tráo trở lá mặt lá trái... là điều đáng suy ngẫm lắm thay!

Anh Đỗ Mười kết luận.

Trước khi kết thúc, anh Mười nói:

- Đề nghị anh Thành thôi không truy ngược lại nữa. Vì Đảng ta còn khó khăn”. Bản thông báo lời lẽ rõ ràng, nghiêm túc. Có đoạn viết “...Các đồng chí nghi vấn chính trị với đồng chí Đoàn Duy Thành là sai, không có căn cứ xác thực, yêu cầu các đảng viên phải nghiêm túc chấp hành kết luận của Ban Bí thư. Nếu đồng chí nào còn có ý kiến bảo lưu ở khía cạnh này, hay khía cạnh khác thì để lưu vào hồ sơ. Không đồng chí nào được nói khác kết luận của Ban Bí thư. Phải giữ vững nguyên tắc lập trung dân chủ và kỉ cương của Đảng”.

Thông báo này phổ biến đến các Tỉnh uỷ, Thành uỷ, Đảng uỷ trực thuộc Trung ương. Riêng Đảng bộ thành phố Hải Phòng và Đảng bộ cơ sở nơi đồng chí Đoàn Duy Thành sinh hoạt Đảng được phổ biến đến chi bộ (Đồng chí Đào Duy Tùng thay mặt Ban Bí thư đã kí).

Sau 3, 4 tháng, tình hình lắng dịu. Khoảng tháng 9-1993, có Hội nghị giữa nhiệm kì, bầu bổ sung Trung ương. Số đại biểu đi dự đại hội lần thứ 7 chỉ được triệu tập khoảng 70%, tôi không được triệu tập đi họp, dù tôi là đại biểu chính thức Đại hội Đảng lần thứ 7. Tôi không được cử đi họp là chắc chắn như dự đoán của tôi. Tôi cũng không biết chính xác số đại biểu dự hội nghị giữa nhiệm kì là bao nhiêu đại biểu. Nhiều đồng chí uỷ viên, có cả uỷ viên Bộ Chính trị nói với tôi, yêu cầu Trung ương mời tôi đi dự hội nghị giữa nhiệm kì và bầu lại vào Ban chấp hành Trung ương. Nhưng tôi đều cảm ơn và từ chối, không đặt vấn đề này ra làm gì nữa. Việc nó đã qua rồi, cho nó qua. Có đồng chí còn nói găng: “Cứ đến bắt đền ông Mười là ông ấy phải giải quyết”. Tôi nói lại: “Tôi đã nói với anh Mười, tôi chỉ đến xin công việc làm ích quốc lợi dân, còn xin chức vụ, quyền lợi không bao giờ tôi xin”.

Trong bản dự thảo thông báo của Văn phòng Trung ương về vấn đề của tôi, đưa cho anh Mười duyệt, anh chỉ gạch đi 2 từ: “hoàn toàn” ở câu: “Các đồng chí nghi vấn chính trị đối với đồng chí Đoàn Duy Thành là hoàn toàn sai”. Nay chỉ còn “là sai”. Nó cũng làm nhẹ khuyết điểm cho những đồng chí vu khống tôi một ít. Anh Đỗ Mười thừa biết là họ “hoàn toàn” bịa đặt. Sau một thời gian, họ lại tung tin: “Anh Đỗ Mười vội vàng, hồ đồ kết luận không chính xác về Đoàn Duy Thành”. Rồi họ đi “vơ bèo vạt tép” tin thất thiệt về tôi, như nhân chứng Nguyễn Văn Cấp, nguyên Bí thư Huyện uỷ Kim Thành nói là không có việc tôi về chữa bệnh ở Kim Thành. Tôi yêu cầu cho đối chất với anh Cấp. Anh Mười bảo: “Đối chất thế là đủ rồi. Vấn đề là để làm rõ bị bắt tháng 9 hay tháng 2-1951. Tháng 7-1951 cậu còn ở cơ quan văn phòng Thành uỷ. Còn dự đám cưới tập thể, bao nhiêu người làm chứng. Còn việc đi chữa bệnh ở Kim Thành tháng 2 đến tháng 5-1951 đã có anh Lê Công Thiệu làm chứng là đủ”. Tôi muốn đối chất với anh Cấp để vạch bộ mặt giả dối của anh ta. Vì tôi về chữa bệnh ở cơ quan huyện đội, anh Cấp cùng đồng chí Nguyễn Đình Củng, Chánh văn phòng đến thăm tôi ở nhà bà Kỉ, xóm Chùa, thôn Quê Phương, xã Bình Dân. Khi cơ quan huyện đội chuyển sang sơ tán ở Bãi Xuân Đám, Thanh Hà, ban đêm ngủ trên thuyền, anh Cấp còn đánh cờ tướng bằng trí nhớ với tôi v.v... Anh Cấp quen biết quá rõ tôi. Thế mà trong đơn tố cáo tôi, anh Cấp nói: “Tôi không biết anh Thành, tôi cũng không gặp anh Thành lần nào. Chỉ khi anh Thành làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng tôi mới biết...” Anh bị một số anh em tù Côn Đảo ở Hải Dương và đồng chi Lê Công Thiệu phản bác lại. Anh Cấp lại đến đồng chí Nguyễn Đình Củng xác minh việc anh ta đến thăm tôi và có ý vận động anh Củng nói là không có. Khi sinh thời, đồng chí Củng kể lại chuyện này với tôi. Tôi lại càng thấy đấu tranh nội bộ nếu không nghiêm, nó sẽ lây lan rất phức tạp.

Chính sau khi đối chất xong, các đồng chí Ban Tổ chức kiến nghị với anh Mười nên có hình thức kỉ luật với những người nói sai sự thật, nhưng anh Mười gạt đi.

Một số anh em trong số 11 người, đi phân bua với nhiều người, nói là vì việc chung phải làm. Có người còn nói với một đồng chí bạn thân của tôi là: “Mình phục vụ cho ông ấy (ý nói anh Mười), ông lại kết luận mình sai. Nay mình chỉ yêu cầu ông ấy sửa bản thông cáo, bỏ chữ “là sai” là chúng mình không làm tiếp nữa. (nghĩa là không vu khống ông Thành tiếp nữa)”. Cổ nhân đã răn dạy, cần phải nhớ: “Sinh sự, sự sinh; hà nhật liễu! (Sinh ra việc, gây sự với người ta, người ta phải gây sự lại, không ngày nào kết thúc được). Do đó người lãnh đạo vì dân, vì nước, phải biết vì lợi ích của nhân dân, phải chọn điểm dừng, chấm dứt sự việc. Chỉ biết có mình và quên việc người khác phản ứng lại ra sao, tất nhiên phải đẻ thêm chuyện, không biết giải quyết đến lúc nào cho hết. Đến nay thấy rõ hai phía đều đòi nợ anh Mười. Tôi đòi anh Mười phải trả lại những gì anh đã làm ảnh hưởng đến tôi, gia đình vợ con tôi. Còn phía bên kia họ đòi công phục vụ anh, hơn nữa đã không được trả công lại bị kết luận là sai. Cứ thế, và cứ thế... Từ việc làm không đàng hoàng chính trực, biết bao cán bộ cấp dưới bắt chước, sinh nhờn kỉ luật. Từ kỉ luật sắt thành kỉ luật “mỡ” đó chẳng phải là bài học xây dựng Đảng, xây dựng con người lãnh đạo, phải có đức, có tài để làm gương tốt cho đời nay và mai sau hay sao? Các con tôi, bốn trai, các cháu đã trưởng thành, đều là đảng viên và cán bộ trung cấp. Chúng biết suy nghĩ và đều có bản lĩnh. Các cháu không buồn, không nản lòng, chỉ cám cảnh cho những đồng chí của bố mình lại làm những việc đen tối, nhằm hãm hại bố mình một cách độc ác. Có một số nhà văn, nhà báo đến phỏng vấn các cháu, cháu Đoàn Duy Khương con trai thứ ba của tôi đã trả lời:

- Tôi biết bố tôi đã hi sinh cho đất nước, cho gia đình và chúng tôi như thế nào. Mẹ tôi và bạn bè của bố tôi kể lại cho chúng tôi nghe. Tôi tin tưởng sắt đá rằng bố tôi là người trung thành tuyệt đối với Đảng và dân tộc. Nhưng cứ giả thiết rằng bố tôi là “gián điệp quốc tế” thì tôi rất tự hào được là con một người thông minh nhất thế giớí. Vì tất cả các loại gián điệp thông minh và giỏi nhất thế giới, mà ta biết, họ đi làm gián điệp, phải thay tên đổi họ, phải bỏ vợ con gia đình ở quê hương, đi một nơi khác... Thế mà bố tôi làm “gián điệp quốc tế” vẫn sống đầm ấm với mẹ con tôi vẫn sống ở quê nhà với cái tên thật mà trong nước lẫn thế giới đều quen thuộc: “Ông Đoàn Duy Thành”. Như thế phải là người thông minh nhất thế giới mới che mặt được cơ quan chống gián điệp của ta chứ!

Đồng chí Đỗ Mười đã dùng rất nhiều cách để hạ uy tín của tôi. Có rất nhiều chuyện, tôi chỉ kể ra đây hai chuyện. Trước đại hội 7 trong cuộc họp bàn về nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khoá 7. Anh Mười đứng lên phát biểu: “Bây giờ mới khui ra Đoàn Duy Thành có 3, 4 nhà ở Hải Phòng...”. Đồng chí Nguyễn Đình Hương, Phó ban Tổ chức Trung ương phải đứng lên cải chính: “Anh Đoàn Duy Thành chỉ có một nhà ở Hải Phòng do thành phố thu xếp cho, chúng tôi đã đi kiểm tra. Khi về công tác ở Trung ương, anh Thành đã trả lại nhà cho thành phố”.

Câu chuyện thứ hai. Anh Mười nói với một số cán bộ thân anh Mười để họ làm cái loa nói theo: “Đoàn Duy Thành ôm chân Võ Văn Kiệt.”. Họ rêu rao chuyện đó hàng năm. Anh Lê Đức Thọ nghe biết chuyện này. Anh Thọ đã nói trong một cuộc họp: “Đoàn Duy Thành nó thèm ôm chân ai. Đến tôi, nó cũng cãi tới số”. Một hôm tôi gặp anh Mười, tôi bảo: “Anh bảo tôi ôm chân anh Võ Văn Kiệt? Anh biết đấy, ở cái đất nước này tôi không thèm ôm chân ai. Nếu có ôm chân là ôm chân anh. Tôi đề nghị anh không nên nói như vậy. Tôi quý trọng người có đức, có tài; lễ độ, tôn kính người biết lự trọng và đối nhân xử thế có nhân cách...” Từ đó anh Mười mới không nói nữa v.v...

Kể ra còn nhiều, nhưng tôi nghĩ những chuyện sinh hoạt tầm thường của cá nhân không nên kể.

Năm 1997, Đại hội Phòng Thương mại và Công nghiệp có dư luận nói là lần này tôi không làm chủ tịch và về hưu. Việc về nghỉ, với tôi, tôi đã nói nhiều rồi. Bao giờ Đảng và Nhà nước bảo nghỉ là nghỉ ngay. Tôi không xin. Không rõ ai nói đến tai nhà tôi, nhà tôi đến nhà anh Mười, xin cho tôi làm thêm khoá nữa. Khi nhà tôi về, tôi hỏi nhà tôi đi đâu. Nhà tôi bảo đi đòi nợ ông Mười. Tôi hỏi lại, đòi cái gì? Nhà tôi mới cho biết đến đề nghị anh Mười để tôi làm thêm một khoá nữa. Tôi bảo: “Anh đã bảo em nhiều lần, không nên xin anh Mười chức vụ quyền lợi gì”. Nhà tôi đứng phắt dậy nói: “Em đến đòi nợ ông ta. Ông ta đã làm anh khổ sở, quá thiệt thòi. Đến đòi được ít nào hay ít ấy... Anh để mặc em, lần này em phải làm cho ra nhẽ. Không để ông ấy bắt nạt mình mãi...”.

Mấy hôm sau, anh Mười gọi tôi đến bảo: “Cậu về làm đơn xin làm thêm khoá nữa”. Anh không nhắc gì chuyện nhà tôi đến gặp anh. Tôi bảo: “Anh bảo tôi làm đơn, anh có ủng hộ không? Nếu anh không ủng hộ, không sao đâu”. Anh Mười chỉ bảo “Cậu về làm đơn đi”. Tôi về suy nghĩ, bàn với mấy đồng chí giúp việc. Các đồng chí khuyên tôi nên viết đơn. Phòng Thương mại và Công nghiệp cũng rất cần tôi làm thêm khoá nữa. Còn tôi, tôi cũng nghĩ đến những công trình dở dang, cơ chế về vai trò của doanh nghiệp và doanh nhân chưa được thông qua, nếu tôi làm tiếp cũng là để hoàn tất được công việc. Tôi viết đơn gửi anh Mười và gửi đồng chí Nguyễn Văn An, Uỷ viên Bộ chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương.

Sau Đại hội Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, anh Mười đi một số nơi tại Hải Phòng, anh Mười nói: “Đấy, Đoàn Duy Thành xin tôi làm khoá nữa, tôi cho làm đấy”. Tôi nghe các đồng chí nói lại. Tôi bảo nhà tôi: “Anh Mười đã kể công với mình đấy”. Nhà tôi bực mình nói: “Mặc ông ấy, mình đòi được một ít nợ là được rồi”. Tôi bảo: “Nợ này được cái gì? Chỉ biết trước mắt phải làm bao nhiều việc cho doanh nghiệp, cho VCCI...”. Nhà tôi lại lí sự với tôi: “Được làm việc cho cách mạng, đem lại lợi ích cho mọi người chứ sao. Để người khác họ đến phá và thu vén hết cho cá nhân, thì công lao khoá trước của anh cũng mất hết...” Tôi cười vui và nói: “Tôi lại thấp mưu hơn cô”.

Đến giữa nhiệm kì khoá 7. Tôi lại thăm anh Mười. Dù anh đối xử với tôi thế nào đi chăng nữa, tôi vẫn giữ tình cảm anh em, đồng chí với anh. Lúc nào tôi cũng coi anh là Thủ trưởng. Anh kể cho tôi nghe, cuộc họp Trung ương giữa nhiệm kì này, anh xin nghỉ. Tôi hỏi ai thay, anh bảo tôi: “Lê Khả Phiêu”. Rồi anh giới thiệu quá trình của anh Lê Khả Phiêu, có đoạn đáng lưu ý và buồn cười với sự giới thiệu và giải thích này “Cậu Phiêu nó chiến đấu ở Bình Trị Thiên được rèn luyện 14 năm. Nó lên có thể giữ được hai khoá. Còn bảo nó hủ hoá thì mấy người còn hủ hoá quá nó!”. Tôi nói, phải giữ được hàng trăm năm chứ sao lại hai khoá? Còn đoạn sau tôi không bình luận. Khi nghĩ một Tổng Bí thư giới thiệu một Tổng Bí thư mới thay mình mà nói như vậy nghe không được. Không rõ anh Mười đã nói với bao nhiêu cán bộ về câu chuyện này? Tôi thấy cách giải thích đó không đúng tầm của một cán bộ lãnh đạo quốc gia...

Đến Đại hội 9, trong thời gian chuẩn bị nhân sự đại hội, tôi biết có nhiều phức tạp. Bộ Chính trị mời một số cán bộ cao cấp đến tham khảo ý kiến về nhân sự, trước khi đến họp tôi lại thăm anh Mười. Anh nói nhiều chuyện về nhân sự. Khi nói đến Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, anh Mười nói: “Cậu Phiêu bây giờ gái nó nắm hết rồi. Có đứa là CIA. Kì này phải thay người khác...” Tôi đã định nói một câu, nhưng suy đi nghĩ lại sợ anh Mười phật lòng, nên tôi không nói nữa. Câu tôi định nói là: “Nay chắc anh Lê Khả Phiêu hủ hoá hơn mấy người trước?”. Tôi thấy rất buồn, cán bộ chủ chốt không đào tạo, không qui hoạch, thay đổi vội vàng thì lòng Đảng không yên, lòng dân yên sao được?

Trong việc thay anh Lê Khả Phiêu, tôi đến dự hội nghị được một đồng chí cho biết: có một cán bộ thân với anh Mười, hỏi anh Mười sao lại làm như vậy. Anh Mười trả lời: “Nó lật tôi, tôi lật lại”. Tôi nghĩ trong nội bộ mà xử sự như vậy lộn xộn lắm!

Tôi nhớ lại, Đại hội 7, anh Nguyễn Văn Linh, Tổng bí thư sẽ nghỉ. Anh bảo tôi lại nhà chơi. Anh hỏi tôi giới thiệu ai là người thay anh. Rồi anh đưa vài người ra phân tích cho tôi nghe. Khi anh lại hỏi ý kiến. Tôi nói: “Như anh đã nói nhiều lần khi anh làm Tổng Bí thư khoá 6: Cán bộ không qui hoạch, không đào tạo, nước đến chân mới nhảy, như cầm đóm đi soi ếch... còn bây giờ tùy anh và Bộ chính trị chọn. Tôi nghĩ: “Cạn ao, bèo đến đất”; “Chọn bó đũa lấy cột cờ”, giữ được đoàn kết nội bộ, ổn định chính trị là tốt nhất. Còn các đồng chí mà anh giới thiệu, kẻ 8 lạng, người nửa cân, người được mặt này, yếu mặt kia, tùy anh lựa chọn. Tôi không dám tham gia cụ thể”.

Sắp hết đời chỉ mong được tự do nhưng vẫn không yên thân

Cuối năm 2002 mọi người đều biết là đến tháng 4-2003 tôi sẽ nghỉ hưu, sau Đại hội Phòng Thương mại và Công nghiệp VN. Một số nhà văn, nhà báo đến chơi. Trong các buổi đến chơi, các đồng chí cũng không đặt vấn đề phỏng vấn, chỉ đề nghị tôi trong đời hoạt động cách mạng có những gì còn đọng lại, mang dấu ấn vui buồn thì kể lại cho nghe. Trong các cuộc gặp gỡ cuối năm vui vẻ đó, tôi kể một số chuyện mà tôi tâm đắc nhất... Rồi các nhà báo về tự viết. Họ đưa lại tôi xem những sự kiện viết có chính xác không, còn văn vẻ, đầu đề bài báo do nhà báo, nhà văn viết, tôi không duyệt lại. Số báo có các bài khi xuất bản các đồng chí đều biếu tôi, nơi một bản, nơi 2, 3 bản, như các bài “Vị tướng của doanh nhân” báo Thế Giới Mới; bài “Thủ lĩnh của doanh nghiệp” của báo Tài chính; bài “Người say mê với sự nghiệp làm giàu” của báo Khoa học. Và một số báo khác.

Những bài báo trên là hoàn toàn sự thật 100% nhưng không hiểu sao anh Đỗ Mười lại tức giận đến thế! Anh không nói gì với tôi, nhưng qua nhiều nguồn tin tôi biết. Tôi nghĩ có dịp đến thăm, tôi sẽ nói cho anh Mười rõ là tôi không có ý định viết về mình. Ngay các nhà báo viết những bài trên, gần đây đến chơi và gọi điện cho tôi nói rằng họ viết hoàn toàn tự nguyện, không ai đề nghị, nhưng áy náy vì đã làm cho tôi phải phiền lòng. Tôi bảo không sao cả, quan trọng là sự thật.

Ngày 2-8-2003 anh Đỗ Mười bảo tôi đến chơi. Nhân đó tôi hỏi anh Mười sao không kỉ luật những người tái vu khống tôi trên tờ báo An ninh Thế giới?

- Tôi sẽ kiện ra toà về tội vu khống chính trị. Hôm nay tôi chính thức đề nghị với anh đồng ý cho tôi kiện.

Anh Mười vội vàng tìm máy gọi anh Nông Đức Mạnh, anh Phan Diễn, anh Trần Đình Hoan để nói chuyện. Nhưng ba anh trên đều đi vắng. Anh Mười nói chuyện với thư kí của ba anh, nhắc ba anh giải quyết sớm vụ việc của tôi, không để tôi đi kiện.

Sau đó anh ngồi nói chuyện với tôi, anh bảo: “Mình đã vo tròn lại, cậu lại rũ rối ra”. Câu nói đó tôi rất sửng sốt, không hiểu tôi rũ rối cái gì. Vụ anh Tô Duy vu khống tôi, từ ngày có kết luận của Tổng Bí thư tôi có nói gì nữa đâu. Chỉ khi họ tung tin anh Mười kết luận “hồ đồ”, “vội vàng”, ám chỉ anh Mười thiên vị tôi, tôi mới làm đơn xin đối chất lại, xoá kết luận cũ, giao cho một người chủ trì do phía anh Tô Duy giới thiệu, để khỏi mang tiếng cho anh Mười. Có thế thôi. Tôi có rũ rối gì đâu? Anh Mười nói: “Tôi nhận được miếng giấy con của anh Nguyễn Văn Trân (anh giơ ba đầu ngón tay ra, và nói bằng từng đây này), phản đối bài báo của cậu “Vị tướng của doanh nhân”. Tôi nghĩ liên quan gì đến anh Nguyễn Văn Trân về bài báo này nhỉ? Tôi ngồi suy nghĩ phân vân quá! Vì sao mấy bài báo nói sự thật vừa qua, lại dẫn đến bài báo của anh Tô Duy đăng ở trang 31 báo An ninh thế giới ra ngày 17-4-2003- trước ngày họp Đại hội Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam? Thật là khó hiểu...

Sau đó anh Mười bảo tôi thôi đừng kiện Tô Duy nữa: “Hai ông gộc, một Phó Thủ tướng, một Bộ trưởng đi kiện nhau làm gì”. Tôi nói tôi kiện thì anh và anh Võ Chí Công cũng phải ra toà làm chứng. Anh Mười bảo: “Thế cơ à”. Tôi cười và nói: “Luật của thế giới là vậy đấy. Còn ở ta các anh viết một lá thư, hoặc cho luật sư nói thay là đủ”. Anh Mười bảo tôi thôi đừng kiện nữa, sẽ bảo anh Nông Đức Mạnh giải quyết sớm. Còn việc nhập vàng hỏi chú Thuý, anh không nhớ. Tôi nghĩ việc nhập vàng anh “chửi” tôi hàng năm, anh lại không nhớ, thật là kì lạ! Tôi chào anh ra về. Anh tiễn tôi ra đến cổng, một cách thân mật.

Tối về nhà, tôi tiếp tục suy nghĩ. Mở lá thư của anh Tô Duy viết ngày 15-5-2003 gửi Bộ Chính trị, Ban Bí thư và anh Đỗ Mười, trang 4 có đoạn viết: “Đồng chí Đỗ Mười nguyên Tổng bí thư Trung ương Đảng, tố cáo bài báo đó chứa đựng nhiều điều bịa đặt, lừa bịp rất trắng trợn, để đề cao cá nhân Đoàn Duy Thành một cách hết sức lố bịch”.

Tôi lại nhớ buổi gặp anh Mười, khi tôi mới đến, anh Mười nói ngay: “Cậu Tài nó mới được phong anh hùng đấy!” Thoáng nghĩ tôi hiểu anh lại muốn động viên tôi (anh Tài cũng bị nghi oan khi ở tù như tôi, sau được thẩm tra kết luận tốt).

Khi tôi nói đến các bài báo mới đăng dịp tết năm 2002-2003 đều hoàn toàn là sự thật, chẳng có một việc nào bịa đặt, tôi chìa lá thư của anh Tô Duy ra. Anh Mười tỏ vẻ hơi bối rối, nói lảng sang chuyện khác. Vì lá thư này anh Tô Duy cũng gửi cho anh Mười. Tôi định đọc đoạn anh Mười nhận xét bài báo như đã nói trên, nhưng suy nghĩ tôi lại thôi. Vì anh mời tôi đến chơi chứ tôi không chủ động đến để “đôi co” với anh.

Mấy hôm sau chị Kiệm, nguyên Vụ trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (phu nhân đồng chí Lê Xuân Thịnh, nguyên Bí thư Thành uỷ Hải Phòng đã hi sinh ở Thái Bình) đến chơi kể lại chuyện mới gặp anh Mười. Chị kể: “Anh Mười nói: cậu Thành cũng có khuyết điểm. Tôi đã vo tròn rồi cậu Thành lại cho đăng báo tâng bốc mình quá mức. Việc nhập vàng là tôi bảo Cao Sĩ Kiêm nhập. Cậu Trần Phương và cậu Thành lúc đó tính đều sai cả. Tôi làm, tôi tính mới đúng, mới giải quyết được lạm phát, khủng hoảng kinh tế”. Chị Kiệm nói lại với anh Mười: “Tôi tưởng khuyết điểm gì, chứ nói quá mức thành tích thì không khuyết điểm để so sánh với việc anh Tô Duy đăng trên báo An ninh thế giới...”.

Sau khi tôi nghe chị Kiệm kể lại câu chuyện gặp anh Mười, tôi buồn cười về một đồng chí Thủ tướng vơ hết thành tích về mình, đổ lỗi cho người khác, nhất là nói sai sự thật:

1/ Khi tôi nhập vàng anh Cao Sĩ Kiêm còn ở Thái Bình.
2/ Việc anh Trần Phương tính ra sao tôi không biết.

Còn bài tính của tôi khi tôi làm Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, anh Mười đã tuyên bố 2 lần ở các phiên họp Hội đồng bộ trưởng và Thường vụ Hội đồng bộ trưởng là “làm theo bài tính của anh Đoàn Duy Thành”. Nay anh Mười nói với chị Kiệm là tôi tính sai hết. Tôi vừa buồn cười vừa suy nghĩ nói với chị Kiệm: “Đúng là nhân dục vô nhai. Mình là thằng đầy tớ dọn cỗ cho thầy ăn, mình chỉ đợi vét đĩa mà cũng không được vét đĩa, thầy lại đòi vét nốt...”. Tôi nhớ lại khi được điều về Hà Nội công tác, vội vàng khăn gói ra đi, nhà tôi sợ tôi ốm, cũng theo lên Hà Nội phục vụ chồng, giao cho bà ngoại trông nom các cháu ở Hải Phòng. Các cháu cũng đã lớn, đi làm việc nhưng vẫn ăn ở chung tại số 10 Đinh Tiên Hoàng. Nghe chú Xuân Khang, kĩ sư, nhạc sĩ kể lại mà tôi rơi nước mắt: “Đến gặp cháu Phương, cháu Trọng đang ăn cơm trưa, chẳng thấy có gì. Cháu Phương bảo cháu Trọng xem còn gì mang cho anh ăn cơm. Cháu Trọng bảo chỉ còn mấy con tôm, bà dặn để dành tối ăn...”. Tôi nhắc câu chuyện đó với nhà tôi, bảo nhà tôi lo cho các cháu đôi chút về đời sống. Nhà tôi gắt: “Lương chỉ có thế thì ăn thế. Nghe cái mồm chú Khang làm gì...”.

Trong lúc đó, không biết theo chỉ thị của ai, họ đem camera, đặt ở tầng hai nhà kế bên nhà số 10 Đinh Tiên Hoàng để theo dõi nhà tôi. Sau này tôi biết một chi tiết rất nhỏ: “Đặt camera theo dõi nhà ông Thành xem có di chuyển tài sản gì đi đâu không. Nếu có, báo ngay cho biết chuyển tài sản gì đi, nhất là ban đêm, sẽ ập vào bắt và khám nhà”. Theo dõi nửa năm chẳng thấy động tĩnh gì nên họ rút.

Phòng gác hai là của đồng chí Phan Văn, Giám đốc Sở Văn hoá được phân phối. Nhưng đồng chí Phan Văn về ở với con, phòng khoá cửa. Còn do ai cho mượn để đặt máy quay thì đồng chí kể lại chuyện này không cho tôi biết.

Họ nghĩ rằng tôi công tác ở Hải Phòng 36 năm, làm Chủ tịch và Bí thư Thành uỷ 7 năm, chắc vơ vét được nhiều tiền của lắm, nhiều tài sản quý hiếm lắm! Sau khi được nghe kể lại chuyện này, tôi rất buồn. Làm cho dân, cho nước, mình không vụ lợi một xu nhỏ, đối xử với mình lại như thế?

Mãi đến 1990, khi tôi nghỉ Bộ trưởng Bộ kinh tế đối ngoại và xin về hưu, một số công ti thuộc Bộ và địa phương đến thăm thấy Bộ trưởng tài sản chẳng có gì, đồng chí Mai Văn Dâu, Giám đốc Tổng hợp I của Bộ mang xuống tặng một cái Tivi cũ của Nhật bản; Công ti xuất nhập khẩu thành phố Vũng Tàu và tỉnh Đồng Tháp cho cái tủ lạnh và bộ Radio Cassette; Vợ chồng đồng chí Giám đốc công ti Huy Hoàng - Cẩm Nhung cho bộ Cassette 4 tầng mới nhất của Nhật Bản và 5 triệu đồng. Nhà tôi từ chối mãi không được. Chú Huy Hoàng và cô Cẩm Nhung nằn nì mãi, và nói: “Anh đã nghỉ rồi, đây là tình cảm, chị nhận cho”. Nhà tôi nhất định không nhận. Hai cô chú cứ để lại và ra về... Công ti Rau quả Hải Phòng cho nhà tôi một điều hoà cũ do Liên Xô sản xuất. Từ đó trong nhà chúng tôi mới có hàng “xịn” để dùng. Còn trước chỉ có một Tivi Neptun của Ba Lan sản xuất, một đài Hồng Đăng của Trung Quốc. Nghỉ Bộ trưởng, thành ra đổi đời về sinh hoạt.

Khi đương chức, một số anh em biếu quà bình thường, thì nhà tôi nhận, còn không nhận. Có người đi nước ngoài về cho mấy củ sâm cao ly, khách ra đến cổng rồi, nhà tôi còn đuổi theo trả lại. Năm 1993 tôi sang thăm Thái Lan. Biết anh Nguyễn Văn Linh mới đi thăm Italia về cùng nghỉ ở lầu trên khách sạn Principale Băng Cốc, tôi lên thăm anh. Anh kể chuyện đi thăm Italia cho tôi nghe. Rồi anh nhắc lại việc tôi xin từ chức, anh lại khóc, anh lại nói lại: “Tôi không cứu được anh”. Tôi bảo: “Tôi làm gì khiến anh phải cứu? Có ủng hộ tôi thì ủng hộ”. Tôi biết anh Nguyễn Văn Linh rất có tình cảm với Hải Phòng và với tôi. Anh lớn lên từ 6 tuổi đã ở với chú tại Hải Phòng. Qua nhiều năm công tác, tôi quen biết anh, lại cùng ở tù Côn Đảo, tuy anh là bậc đàn anh, lớp tù trước so với tôi nhưng mỗi khi anh em gặp nhau là chuyện trò rất sôi nổi... Các đồng chí tỉnh uỷ Hải Hưng kể lại với tôi, anh đến thăm Hải Hưng, nói chuyện với Tỉnh uỷ, anh cũng nhắc đến tôi một cách trìu mến và nói: “Trong Đảng ta, cán bộ cao cấp được thử thách, thẩm tra, xem xét kĩ nhất là đồng chí Đoàn Duy Thành...”. Có đồng chí hỏi anh: tại sao anh không bảo vệ được anh Thành? Anh trả lời: “Ba thằng đánh một, chẳng chột cũng què”. Tôi cũng chẳng tìm hiểu họ là ai, mặc dù một số đồng chí Tỉnh uỷ Hải Hưng nói rõ là anh Linh đã chỉ ra họ, tên là gì, nhưng tôi nghĩ tìm hiểu để làm gì? Mình theo tư tưởng và đạo đức của Bác Hồ, và đối nhân xử thế của Khổng đạo. Sách Luận ngữ đã chép, có một học trò hỏi Khổng Tử một câu về xử thế: “Dĩ đức báo oán hà như?”(Lấy điều đức để báo oán lại oán thù có được không?) Khổng Tử trả lời: “Bất nhược dĩ trực báo oan” (không bằng lấy điều thẳng để báo lại). Bởi vậy tìm hiểu chỉ thêm phải suy nghĩ. Một người đã quá đủ rồi, huống chi lại ba người đánh một! Tôi bỏ qua, chẳng nghĩ, chẳng nói làm gì, họ chỉ là người “góp cỗ chia phần” thôi. “Dậu đổ thì bìm leo” đó là thói đời.

Trước khi anh Nguyễn Văn Linh mất 25 ngày, tôi đến thăm anh ở nhà riêng, có các đồng chí Vũ Tiến Lộc, Nguyễn Hữu Hải, Phạm Gia Túc cùng đi. Lúc này anh yếu nhiều. Anh vẫn đi từ gác xuống, một tay bịt một bên mắt, một tay ôm bụng, tiếp chúng tôi hơn 1 giờ. Tôi tặng anh cuốn Côn Đảo một thời để nhớ, hồi kí của tập thể anh em tù chính trị Côn Đảo sinh sống ở Hà Nội. Anh cố vui để tiếp chúng tôi, nói nhiều chuyện trong nước và thế giới. Bất thình lình anh hỏi: “Tại sao lúc đó anh lại thôi Phó thủ tướng nhỉ?”. Tôi cũng bất ngờ. Tôi trả lời anh, tôi từ chức tại hội trường T78, anh chủ trì mà anh quên rồi à? Anh suy nghĩ một lát rồi nhớ ra: “Tại sao tôi lại cho anh từ chức nhỉ?”. Rồi anh lại khóc. Tôi vừa cảm động, vừa thương anh, không biết với anh chống đỡ được đến bao giờ bệnh ung thư đang hoành hành ở anh. Đau yếu thế, mà anh chỉ bàn việc, lo cho nước, cho dân. Bao điều suy nghĩ mà anh bộc lộ với tôi và các đồng chí cùng đi. Chúng tôi rất cảm động về con người cộng sản này. Hoạt động từ năm 13 tuổi, đến 16 đã bị bắt, bị tra tấn và đày đi Côn Đảo. Gần đây đồng chí Nguyễn Văn An, Uỷ viên Bộ Chính trị khi làm trưởng Ban tổ chức kể lại với tôi là: “Anh Linh là người mà bảo nghỉ là nghỉ ngay, rất vui vẻ, không khó khăn như những anh khác...”.

Kể từ sau ngày tôi từ chức, đến lúc anh Nguyễn Văn Linh qua đời, tôi gặp anh bốn lần. Lần nào anh cũng khóc mỗi khi nhắc đến việc từ chức của tôi. Còn tôi từ chức là vì lí tưởng và phẩm chất của tôi, giữ cho đảng ta nội bộ đoàn kết, tìm được người có tài -đồng chí để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đối với anh Nguyễn văn Linh, tôi biết ơn anh đã có tình cảm thực sự chân thành với tôi.

Và từ ngày 02-8-2003 tôi khẳng định được hơn 20 năm qua anh Đỗ Mười là nguyên nhân của mọi nguyên nhân gây rắc rối cho đời hoạt động của tôi.

Còn anh Tô Duy là người trung thành với anh Đỗ Mười, được anh Mười giao mọi việc, đã cung cấp tài liệu giả để anh Mười tin. Khi sự thật đã quá rõ ràng anh Mười không còn cách nào khác, phải kết luận là tôi đúng. Anh Tô Duy vừa không bằng lòng, vừa cố ý tìm chứng cứ để cho anh Mười tin mình đúng, nên đã táng tận lương tâm cứ nói tôi bị bắt tháng 2-1951, dù không có chứng cứ gì cả. Còn anh Mười cũng phải bảo vệ anh Tô Duy. Anh Tô Duy vì anh Mười mà làm. Bởi thế sự việc giải quyết không dứt điểm được. Tôi tự hỏi sự việc này còn kéo dài đến bao giờ? Đó là nguy cơ tiềm ẩn, gây rối ren trong nội bộ, gây bài học xấu cho hiện nay và mai sau về việc tranh chức, tranh quyền trong nội bộ. Còn tôi sống được đến hôm nay vì trong Đảng cũng còn dân chủ, cũng có những cán bộ trung thực, không a dua làm điều bất nghĩa.

Tôi nhớ năm 1996, tôi đến Paris dự hội thảo và dự triển lãm Việt Nam tại Pháp. Xong việc, tôi cùng đồng chí Bùi Việt Cường, đại điện Việt Nam ở Liên hiệp quốc đóng ở Geneve Thuỵ sĩ và ông Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư kí Hội Việt kiều ở Pháp, đến thăm người em con ông cậu tôi là Nguyễn Đức Riễm đã gần 90 tuổi. Hai vợ chồng chú Riễm đón chúng tôi, chú mừng rỡ nói: “Bác còn giữ được cái đầu đến thăm em là quý lắm rồi! Bên này người ta đồn bác là gián điệp quốc tế, em rất lo. Thế là chế độ cộng sản cũng còn công minh hơn phong kiến nhà Lê. Nếu không thì đã có vụ “Lệ Chi Viên thứ hai ở Việt Nam”. Tôi buồn cười hỏi: “Sao, ghê thế cơ à?” Tôi chẳng thấy gì đáng sợ. Tôi không lúc nào buồn và suy nghĩ ghê gớm như chú cả. Tôi vẫn làm việc bình thường”. (Chú Riễm là cơ sở tình báo của ta, từ 1954 đưa vào vùng tạm chiếm hoạt động, còn hoạt động như thế nào tôi không biết. Chú Riễm đã mất năm 2000).

Trong nước cũng nhiều người lo lắng cho tôi, nhưng tôi không kể làm gì cho thêm đau lòng. Mong sao từ nay trở về sau không còn có những con người như vậy, để Đảng ta vượt lên tầm của thời đại, để có một Đảng trong sáng tuyệt vời. Noi gương Bác Hồ để xây dựng Đảng, thì mọi việc sẽ thành công.

Còn đối với anh Đỗ Mười, tôi phải phục anh là người “siêu” trong việc che giấu nội tâm của mình.

Ngày 21-6-2003 trong thư tôi gửi Bộ Chính trị, Ban Bí thư, anh Đỗ Mười, anh Võ Chí Công, ở trang 7 tôi còn đánh giá: “Chắc cả nước ta ai cũng biết đồng chí Đỗ Mười là người thẳng thắn trung thực”. Nhưng mãi đến ngày 2-8-2003, hơn 20 năm, sự thật đã trần truồng, tôi mới khẳng định được, người đứng sau vụ án “gián điệp quốc tế” này, chính là đồng chí Đỗ Mười, nguyên Tổng Bí thư của Đảng ta. Đồng chí Đỗ Mười đạo diễn và chỉ đạo rất tinh vi, lúc cứng lúc mềm đối với tôi, làm cho đối tượng như rơi vào trận đồ bát quái, không xác định được phương hướng. Do đó, quá trình diễn ra vụ án nghi vấn chính trị lớn nhất đối với tôi, có rất nhiều đồng chí, kể cả hầu hết Uỷ viên Bọ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, lúc đó đặt câu hỏi với tôi: “Cần phải xem xét còn có nguyên nhân sâu xa gì nữa mà hơn một chục cán bộ chủ chốt Hải Phòng, không ai có chứng cứ cụ thể, lại dám kí vào đơn tố cáo? Anh cần xem xét kĩ việc này”. Tôi chưa trả lời được câu hỏi ấy.

Nhưng từ sau ngày 2-8-2003, tôi đã có thể trả lời câu hỏi này, khi đồng chí Trần Đình Hoan, Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, ngày 8-8-2003 đặt câu hỏi như nội dung trên. Xin thưa: “Tất cả là do đồng chí Đỗ Mười”.

Tháng 1-2004 đồng chí Nguyễn Đức Tâm, nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương lại đặt lại câu hỏi này với tôi, mà trước đây đồng chí đã hỏi tôi nhiều lần, tôi chưa trả lời được. Nay tôi đã trả lời chính thức đồng chí Nguyễn Đức Tâm: “Tất cả là do đồng chí Đỗ Mười”.

Viết đến đây tôi nhớ đến Nguyễn Trãi. Trước khi qua đời ông đã than rằng:
“Mọi chưng khắp chốn đều thông cả,
Bui một lòng người cực hiểm thay!”
Và, lời trăng trối cuối cùng của Phu-xích, Uỷ viên Trung ương Đảng Cộng sản Tiệp Khắc, tác giả tiểu thuyết Viết dưới giá treo cổ:

“Nhân loại hỡi! Ta yêu tất cả mọi người.

Hãy cảnh giác!”.

(còn tiếp)
Đoàn Duy Thành


“… Dù to hay bé tôi không quan tâm, miễn là nơi đó không ai thích và không muốn làm, không có tranh chấp quyền lực. Càng khó tôi càng thích làm, để thử nghiệm khả năng của mình…”
Chương 9
Con cá nó sống vì nước
- Chủ tịch phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI)
sống vì doanh nghiệp
Thuở nhỏ, trước năm 1945, thỉnh thoảng tôi theo bố mẹ đi xem hội, vào một số đình chùa. Tôi gặp từng đám người nghèo khổ phải đi ăn mày, ăn xin khách thập phương đến lễ hội. Người thì mù loà, người thì tàng tật, khố rách áo ôm, tay xách con, tay lạy van: “Lạy ông đi qua, lạy bà đi lại, cứu vớt chúng con. Con cá nó sống vì nước, con sống vì ông, vì bà...”. Cứ thế mà kêu xin. Câu “Con cá nó sống vì nước, con sống vì ông, vì bà”, cứ hằn sâu trong đầu tôi cho đến ngày sang làm Chủ tịch Phòng Thương mại trong một thế đứng không còn “tấc đất cắm dùi”, nói theo nghĩa bóng về hoàn cảnh tôi lúc đó.

Khi về Bộ Ngoại thương, nhập vào Bộ kinh tế đối ngoại, chẳng được bao lâu, lại nhập tiếp. Tôi sang làm Viện trương Viện Quản lí kinh tế Trung ương, đồng chí Cao Văn, quyền Chủ tịch UBND Thành phố Hải Phòng và một số anh chị em đồng chí thân thiết đến chơi, và nói: “Đến Vụ, Viện là đến ngõ cụt rồi...”. Đó cũng là câu cửa miệng của mọi người: “Xuống đến chức Vụ, Viện là về vườn”. Tưởng đó là câu chuyện chia sẻ tấm lòng cho người cùng đường, để khuây khoả nỗi lòng người tri kỉ, nhưng hoá ra thật. Tôi làm Viện trưởng Quản lí kinh tế Trung ương đang say sưa với công việc, sắp xếp bộ máy đi vào làm ăn, chuẩn bị dự án xây dựng một Viện quản lí kinh tế quốc gia, cả về qui mô xây dựng và nội dung nghiên cứu, nhưng chỉ được 19 tháng 20 ngày thì có quyết định sáp nhập vào Bộ Kế hoạch đầu tư. Từ một Viện ngang Bộ, trực thuộc Chính phủ, nay xếp ngang một Tổng cục trực thuộc Bộ, đương nhiên Viện trưởng phải đi nơi khác hoặc về nghỉ... “hết đất”.

Tôi bàn giao công việc với đồng chí Đỗ Quốc Sam, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch đầu tư và liên hoan hợp nhất vui vẻ cùng anh chị em trong Viện. Nhưng trong tâm tư lại thêm một nỗi buồn ghi trong kí ức, như bao cuộc phải chuyển công tác trong đời, từ địa phương lên đến trung ương. Nhớ lại những cuộc tiễn đưa, khi tôi từ Giám đốc Sở Thương nghiệp Hải Phòng lên làm Phó chủ tịch UBND thành phố, anh em tiễn tôi cùng nước mắt lưng tròng. Khi tôi rời ghế Bộ trưởng Bộ kinh tế đối ngoại, cán bộ công nhân viên đứng trên gác, dưới nhà, vẫy tay chào tôi rưng rưng nước mắt... Không hiểu họ nghĩ điều gì khi Bộ trưởng phải ra đi mà họ khóc?

Sau mấy ngày tôi được đồng chí Nguyễn Đức Tâm rồi đồng chí Võ Văn Kiệt mời lên giao nhiệm vụ mới - Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI).

Khi gặp đồng chí Nguyễn Đức Tâm, tôi đề nghị đưa đồng chí Tạ Cả, Thứ trưởng Thường trực sang làm Chủ tịch VCCI. Anh Tâm nói: “Phòng tách ra khỏi Bộ Thương mại, trực thuộc Trung ương. Là một tổ chức mới, có quan hệ quốc tế rộng lớn, anh nên nhận cho...”

Cũng như lần sang làm Viện trưởng, tôi đề nghị anh tìm cán bộ sở tại, nếu anh Tạ Cả không làm được. Anh Tâm nói ngay: “Tại chỗ làm sao có người?”. Tôi đề nghị anh xem các đồng chí các ngành trung ương có ai thích hợp thì điều về, nếu không có ai, đề nghị anh cho tôi suy nghĩ ít ngày và xem anh em ở Phòng họ có ưng tôi về đó không...

Mấy hôm sau anh Võ Văn Kiệt lại nhắc tôi về sớm để chuẩn bị Đại hội lần thứ II, tách Phòng ra khỏi Bộ Thương mại. Các đồng chí Đoàn Ngọc Bông, Phạm Chi Lan, Tổng Thư kí và Phó Tổng thư kí, chủ động đến nhà tôi báo cáo và xin ý kiến về tổ chức Đại hội.

Tôi vốn là Bộ trưởng Bộ Ngoại thương, đối với anh chị em Phòng Thương mại tôi đều quen biết, chỉ hiềm một nỗi mình xuống cấp lại chèn ép anh chị em, họ không có điều kiện thăng tiến, về tâm lí mà nói, chắc anh chị em cũng có suy nghĩ. Nên tôi rất do dự. Có đồng chí nghĩ tôi cho “Phòng” là bé nhỏ, thực sự nó chỉ là cấp Vụ. Cán bộ Bộ Ngoại thương còn đánh giá “Phòng” là “cái đuôi” của Vụ II (Vụ phụ trách thị trường các nước tư bản).

Tôi thì nghĩ khác. Dù to hay bé tôi không quan tâm, miễn là nơi đó không ai thích và không muốn làm, không có tranh chấp quyền lực. Càng khó tôi càng thích làm, để thử nghiệm khả năng của mình.

Hôm gặp đồng chí Cao Văn, tôi bảo: “Vụ, Viện chưa phải đã là kết thúc, “Trưởng phòng” mới là tột cùng”. Đồng chí Cao Văn nói từ Phó Thủ tướng xuống làm Trưởng phòng, mà vẫn làm được việc mới hay chứ! Tôi đi nhiều nơi họ cũng giới thiệu tôi là Trưởng phòng... Tôi nghĩ lại câu của người ăn xin: “Con cá nó sống vì nước, con sống vì ông, vì bà”. Tôi lấy làm tâm đắc, nhưng sửa lại: “Con cá nó sống vì nước, Chủ tịch sống vì doanh nghiệp”. Có doanh nghiệp thì Chủ tịch VCCI mới có chỗ sống. Chủ tịch VCCI sống, thì phải làm vì doanh nghiệp.

Tổ chức Đại hội lần thứ II xong, tôi được bầu làm chủ tịch VCCI. Khi đến nhận nhiệm vụ tại 33 Bà Triệu, với cái nhà cổ kính, là một trong bốn ngôi nhà cổ kính nhất Hà Nội được bảo tồn. Có 600 m2 nhà sử dụng cho 3 cơ quan của Bộ ở chung. Sau VCCI đền bù cho hai cơ quan khác chuyển đi, chỉ còn một cơ quan ở lại là VCCI. Nhưng cũng quá chật, Chủ tịch VCCI chỉ làm việc trong một phòng 10 m2, gần bên hố xí tập thể. Nhà văn Trần Bạch Đằng đến chơi bảo: “Chủ tịch VCCI chỗ làm việc như thế này không chấp nhận được”. Tôi trả lời: “Anh Tư ạ, anh là nhà nho, tôi cũng là nhà nho, anh nhớ Khổng Tử đã nói: Quân tử cố cùng...”. Anh Trần Bạch Đằng nói ngay: “Tiểu nhân cùng tư lạm hĩ”. Cả hai chúng tôi cùng cười. Tôi nói: “Anh Tư nhớ nhé! Khi tôi có phòng làm rộng và sang, anh đừng chê tôi nhé!”, anh Trần Bạch Đặng gật gật: “Không chê mà còn khen nữa”.

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trực thuộc lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ. Danh nghĩa bên ngoài là Tổ chức phi chính phủ (NGO), nhưng đặc biệt là VCCI tự lo liệu về ngân sách, không ăn lương của ngân sách Nhà nước, do đó đối với bên ngoài họ mới cho mình đúng là Tổ chức NGO của Việt Nam. Khi tôi nhận quyết định về công tác ở VCCI, tôi đã hình dung 3 việc lớn phải làm:
1/ Xây dựng cơ chế cho Phòng mà điều quan trọng nhất là xây dựng Điều lệ của Phòng, thông qua Đại hội và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đồng thời xây dựng bộ máy phù hợp với qui mô, chức năng, nhiệm vụ của Phòng đúng với điều lệ được duyệt.

2/ Xây dựng cơ sở vật chất cho Phòng, đó là cơ sở cho chủ nghĩa xã hội được thực hiện ở Phòng, đồng thời bảo đảm ngân sách của Phòng được ổn định, từng bước đi lên một cách vững bền.

3/ Phải xác lập cho được vai trò của doanh nghiệp trong xã hội, là lực lượng nòng cốt trong việc xây dựng nền kinh tế đất nước, bảo đảm cho mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của Đảng được vững chắc.

Để rút kinh nghiệm của các Phòng Thương mại và Công nghiệp thế giới, tháng 7-1993 tôi đi thăm Thái Lan và Singapore một tuần. Các bạn hoạt động đa dạng, phong phú, tổ chức nhiều loại hình khác nhau, nhằm thu hút nhiều doanh nghiệp vào tổ chức của mình. Có nước có nhiều phòng, nhiều hội, nhiều hiệp hội phi chính phủ. Sau kết hợp đi họp, đi hội thảo, đi làm việc, tôi đã nghiên cứu một số nước đã có Phòng Thương mại từ lâu đời như Nhật Bản, Pháp. Đặc biệt ở Pháp, Phòng Thương mại đã có cách đây 400 năm. Napoleon đã có sắc lệnh về Phòng Thương mại Pháp cách đây khoảng 200 năm, Phòng Thương mại quản lí nhiều trường đại học kinh tế thương mại nổi tiếng, kinh doanh cả hàng không và nhiều lĩnh vực khác.

Còn kết nạp hội viên, nơi thì tự nguyện, nơi thì bắt buộc. Như ở Pháp, sau khi được cấp giấy phép kinh doanh, doanh nghiệp phải đến phòng thương mại sở tại xin làm hội viên, do sắc lệnh về phòng thương mại qui định.

Đó là những việc làm của bạn, nước phát triển đã có hàng triệu doanh nghiệp. Ở Pháp và Nhật khoảng 20 người dân có một doanh nghiệp. Mỹ 10 người dân có một doanh nghiệp. Còn Việt Nam, những năm đầu thập kỉ 90, chưa có luật doanh nghiệp, khoảng 3.000 người dân mới có một doanh nghiệp. Nền kinh tế Việt Nam tuy có tăng trưởng, nhưng lực lượng làm cho kinh tế tăng trưởng với khối lượng quá nhỏ bé. GDP tính theo đầu người của họ đã là hàng vạn đô la Mỹ. Còn ta mới có vài ba trăm đô la. Đó là điều tôi trăn trở lo lắng cho sự phát triển của đất nước. Trong lúc nước ta thực hiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhưng tư duy về phát triển doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân còn có nhiều điều khác nhau. Nhiều người nhìn doanh nghiệp tư nhân với con mắt canh chừng, thành kiến, cho doanh nhân nói chung như những người ăn xài xa xỉ, ném tiền qua cửa sổ, trai gái, rượu chè... Ta có biết đâu họ đang tiết kiệm từng đồng để có vốn xây dựng xí nghiệp, công ti, nhất là doanh nghiệp tư doanh. Tất nhiên cũng có một số ít doanh nhân hư đốn, “Con sâu bỏ rầu nồi canh”, đối với những người này ta không chú ý giáo dục uốn nắn cho họ, mà có xu hướng muốn phơi bày trên báo chương.

Chúng ta không thấy rằng nước ta nghèo, nhân dân ta không có kinh nghiệm kinh doanh, làm giàu, bằng của nả của ông cha ta để lại. Đã nghèo, văn hoá lại thấp thì vừa không biết làm giàu, vừa hay ghen tị với những người khá giả hơn mình. Kinh nghiệm khi công tác ở địa phương, tôi thấy những cảnh như nhà hàng xóm nuôi được cá, chăn nuôi gà vịt sinh trưởng tốt, người hàng xóm không làm được, khó chịu, vứt thuốc sâu xuống ao và gà bị bệnh sang nhà hàng xóm, làm cho cá chết, gà “toi” mới thoả lòng. Khi lên Hà Nội, giữa những thập kỉ 80, tôi còn được nghe kể rằng ở trên này nhà mua được con gà làm thịt cũng phải gói lông lại, chặt thịt không dám dùng dao, thớt, mà phải dùng kéo cắt. Thịt ăn xong, xương và lông gà gói lại đem ra ngoài đê sông Hồng vứt đi, sợ người hàng xóm nhìn thấy. Đó là sự thật, chúng ta phải đi lên từ cuộc sống khó khăn của nhân dân sau bao năm chiến tranh, lại thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, tem phiếu kê khai phiền toái, hàng hoá không có, chia nhau mua từng bao diêm, sợi chỉ... Nó bị vật chất tác động vào tư tưởng, và tư tưởng đố kị ghen tị lặt vặt không thể tránh khỏi. Người lãnh đạo phải từng bước tìm ra phương pháp khắc phục.

Xác lập vai trò doanh nghiệp, doanh nhân trong xã hội

Từ những tình hình trên, với cương vị Chủ tịch VCCI, tôi từng bước đưa vấn đề này ra bàn bạc trong lãnh đạo VCCI, xác định rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của VCCI là đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, bảo vệ quyền lợi cho họ, kết hợp với các Bộ, ngành, địa phương, để tổ chức, xây dựng, đào tạo doanh nghiệp... tiến tới phát triển doanh nghiệp lớn mạnh, làm lực lượng chủ yếu trong phát triển kinh tế đất nước.

Để làm rõ vấn đề này tôi đã viết nhiều bài báo với nhiều nội dung khác nhau, nhưng đều nhằm làm cho xã hội nhận thức, đánh giá đúng vai trò doanh nghiệp. Tôi đã có các bài: “Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa”; “Làm thế nào để dân giàu, nước mạnh...” đăng trên báo Nhân Dân, báo Diễn đàn doanh nghiệp và nhiều tờ báo khác.

Để có sự xoay chuyển mạnh về tư duy, nhận thức xã hội đối với doanh nghiệp, tôi đã đề nghị với Thủ tướng Võ Văn Kiệt có cuộc gặp gỡ thân mật, đối thoại với doanh nghiệp.

Được Thủ tướng đồng ý, ngày 8-2-1995, lần đầu tiên giới doanh nghiệp được gặp mặt thân mật, trao đổi ý kiến thẳng thắn, dân chủ với Thủ tướng. Các doanh nghiệp rất phấn khởi. Thủ tướng cũng nắm được tâm tư nguyện vọng của doanh nghiệp, đã giải quyết kịp thời một số mắc mớ lớn với doanh nghiệp, làm cho không khí hồ hởi cởi mở giữa doanh nghiệp với Thủ tướng, với các Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan có quan hệ sống còn đến sự phát triển kinh tế đất nước, đến quyền lợi của công nhân, giám đốc xí nghiệp, công ti.

Qua các năm sau, đầu Xuân vẫn có những cuộc gặp giữa Thủ tướng và doanh nghiệp. Nhưng vì bận nhiều công việc, nên Thủ tướng Võ Văn Kiệt uỷ nhiệm các Phó Thủ tướng thay. Từ năm 1997, khi Thủ tướng Phan Văn Khải nhận nhiệm vụ, năm nào Thủ tướng Phan Văn Khải cũng gặp doanh nhân. Đồng chí Phan Văn Khải thường tâm sự với tôi là: “Đời tôi quan tâm đến hai việc lớn nhất là: phục vụ doanh nghiệp để phát triển doanh nghiệp và xoá đói, nghèo”. Thủ tướng, các Bộ ngành quản lí đã cùng quan lâm vai trò của doanh nghiệp, doanh nhân, các thành phần được đề cao, có vai trò trong xã hội, bớt dần những nhận thức không đúng về doanh nghiệp. Để tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho phát triển doanh nghiệp, Nhà nước cần phải có một luật cho doanh nghiệp. VCCI đã cùng các ngành, dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ, đề xuất với Quốc hội ra một luật về doanh nghiệp. VCCI đã cử hai Phó Chủ tịch là Phạm Chi Lan và Vũ Tiến Lộc, cùng Trưởng ban pháp chế Trần Hữu Huỳnh cùng nhiều chuyên viên, cán bộ, tham gia vào chương trình soạn thảo luật doanh nghiệp. Hội đồng cố vấn của Phòng cùng tham gia tích cực như ông Vũ Quốc Tuấn, ông Nguyễn Văn Trọng, ông Lê Văn Châu, ông Năm Nghị, bà Nguyễn Thị Hiền v.v... đã tham gia tích cực vào việc soạn thảo luật doanh nghiệp. Còn tôi đã có một số buổi đến báo cáo với Ban Thường vụ Quốc hội và các Uỷ ban của Quốc hội về vấn đề doanh nghiệp, tham gia vào Tiểu ban chuẩn bị Nghị quyết Trung ương lần thứ 5 khoá 9 về phát triển kinh tế tư nhân, v.v...

Khi trong Đảng, cũng như ngoài nhân dân đã thấy rõ tầm quan trọng của doanh nghiệp, Quốc hội đã thảo luận và thông qua luật doanh nghiệp với số phiếu ưng thuận rất cao, đánh dấu một bước ngoặt về phát triển doanh nghiệp, phát triển kinh tế của nước ta, góp phần rất quan trọng vào những năm khủng hoảng kinh tế khu vực Đông Á và Nam Á, giữ được tốc độ tăng trưởng trên dưới 7%. Trong khi các nước bạn, có nước mức tăng trưởng “âm”.

Kể từ năm 2000 số lượng doanh nghiệp mới đăng kí liên tục tăng nhanh với tốc độ chưa từng thấy. Cho đến tháng 9-2003 đã có 72.601 doanh nghiệp mới đăng kí (trong 9 năm 1991 - 1999 có 45.000 doanh nghiệp đăng kí), đưa tổng số doanh nghiệp đăng kí của khu vực tư nhân ở nước ta lên khoảng 120 ngàn doanh nghiệp. Số doanh nghiệp đăng kí trung bình hàng năm hiện nay bằng 3,75 lần so với trung bình hàng năm của thời kì 1991 -1999. Số doanh nghiệp mới đăng kí trong 4 năm (2000- 2003) ước cao gấp 2 lần so với 9 năm trước đây (1991 - 1999).

Thông qua hoạt động của mình, đặc biệt là hoạt động hợp tác với các Bộ, ngành, chính quyền địa phương, các hiệp hội doanh nghiệp và các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp khác, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã chú trọng tuyên truyền và khuyến khích tinh thần kinh doanh, tinh thần doanh nghiệp trong xã hội, khuyến khích và cổ vũ phong trào làm giàu, phong trào khởi sự doanh nghiệp. Chương trình “Khởi sự doanh nghiệp” được VCCI triển khai từ năm 1998 với sự hỗ trợ của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và Cơ quan hợp tác Phát triển Thuỵ Điển (SIDA), đã thu được kết quả khả quan. Chương trình đã phát triển được 252 tổ chức đối tác tại 42 tỉnh, thành phố, tổ chức đào tạo được 15.339 doanh nghiệp về kiến thức khởi sự và phát triển doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chương trình còn tạo ra 3.000 việc làm chính thức và 6.000 việc làm thời vụ cho doanh nhân và học viên tham gia chương trình. Điều quan trọng là thông qua các khoá đào tạo và tư vấn của chương trình, đã lạo được phong trào lập nghiệp bằng kinh doanh và khuyến khích nhân dân bỏ vốn đầu tư kinh doanh, đóng góp vào việc xoá đỏi giảm nghèo và phát triển kinh tế địa phương.

Trường cán bộ quản lí doanh nghiệp của VCCI mới thành lập được 5 năm (19992004) đã:

-Đào tạo tin học cho 5.150 học viên
-Đào tạo ngoại ngữ cho 2.783 học viên
-Đào tạo kinh tế quản trị 6.782 học viên
-Hợp tác đào tạo cho 1.581 học viên (từ cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ).

Hàng năm VCCI còn phối hợp với các ngành, các cấp, các trường... mở các lớp dài hạn, ngắn hạn, hoặc gửi ra nước ngoài đào tạo. Mỗi năm hàng chục ngàn doanh nhân được đào tạo theo phương pháp này.

Các hoạt động trên của Phòng có ý nghĩa là những bước chuẩn bị quan trọng về nhận thức và tâm lí xã hội cho sự ra đời và đi vào thực tiễn của Luật doanh nghiệp.

Để góp phần vào nhận thức kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong khi chờ đợi những tác phẩm lớn của các nhà lí luận và thực tiễn, tôi viết 4 tiểu luận để giúp các nhà doanh nghiệp và những ai quan tâm đến sự phát triển kinh tế của đất nước trong giai đoạn khó khăn phức tạp này, để họ nghiên cứu tham khảo, giúp cho người quản lí và người thực hiện cùng nhau góp sức vạch ra con đường tiến lên CNXH ở Việt Nam, từ một nước nông nghiệp đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện mục liêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.

Đó là 4 tiểu luận:

- “Những nguyên tắc vận hành cơ chế thị trường ở Việt Nam”;

- “Làm thế nào để thực hiện được mục liêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”;

- “Vai trò then chốt của doanh nghiệp Nhà nước”;

- “Đảng lãnh đạo kinh tế, đảng viên làm kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Bốn tác phẩm trên đã được nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản hàng vạn cuốn, để các doanh nghiệp, doanh nhân, các nhà nghiên cứu và độc giả ưa thích tìm đọc.

Những tác phẩm này về mặt lí luận thì không lớn, nhưng về thực tiễn đã giúp cho người đọc yên tâm, tin tưởng vào đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước để vững bước đi lên, làm giàu cho nhà, cho nước.

Để làm rõ vai trò vị trí xã hội của doanh nghiệp, VCCI đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo về chủ đề này ở Trung ương và các địa phương, tổ chức gặp gỡ đối thoại với các ngành liên quan như: công an, tài chính, ngân hàng, hải quan, thuế vụ v.v...

Những cuộc gặp gỡ, hội thảo, đối thoại trên đã giúp cho Doanh nghiệp thấy được những khuyết điểm tồn tại của mình. Đồng thời làm rõ được vai trò cực kì quan trọng của doanh nghiệp đối với sự phát triển kinh tế, phát triển xã hội, thấy rõ doanh nghiệp, doanh nhân là con đẻ của xã hội, mọi người có trách nhiệm bảo vệ, giúp đỡ nó, cùng với doanh nghiệp, doanh nhân và toàn xã hội là một mặt trận tiến công xoá đói giảm nghèo, xây dựng đất nước giàu về vật chất, giàu về tinh thần, về văn hoá. Như vậy hiện nay đã giảm bỏ rất nhiều rào cản gây khó khăn cho doanh nghiệp.

Để kinh doanh, buôn bán, sản xuất văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, không thể chỉ dựa vào kiến thức học tập của doanh nhân, công nhân viên chức tại trường, mà cần bổ sung những kiến thức, văn hoá bắt nguồn từ cội rễ dân tộc, kết hợp với văn hoá, văn minh thời đại. VCCI đã thành lập Trung tâm văn hoá doanh nhân để bổ sung cho mặt còn hẫng hụt của doanh nghiệp, doanh nhân.

Như sách kinh điển cách đây 5.000 năm, Kinh Thi đã nói: “Văn chất bân bân, nhiên hậu quân tử” (văn hoá và vật chất đầy đủ sẽ có người tử tê). Nếu chỉ có vật chất thôi thì con người mới thực có một nửa của mình. Đó là phần “con”. Còn phần “người” tức là ý thức, tư tưởng chỉ đạo cho phần “con” hành động, phần “người” phải được học tập, trao dồi những ý tưởng cao đẹp mà tổ tiên đã chắt lọc hàng bao thế kỉ mới có được, cộng với những nền văn hoá các nước, được hội tụ qua lựa chọn nghiêm túc, từ bên ngoài bổ sung cho nền văn hoá Việt Nam luôn luôn phong phú và hiện đại, làm cho “con người” hoàn chỉnh cả về vật chất và tinh thần, để người Việt Nam làm gì, ở đâu cũng không bị lạc hậu với thế giới. Con người Việt Nam luôn luôn thể hiện đạo đức, lương tri của loài người ở tầm cao.

Luật doanh nghiệp đã xác định vai trò vị trí của doanh nghiệp và doanh nhân. Tầng lớp doanh nhân có vị trí xứng đáng, góp phần cực kì quan trọng vào việc xây dựng đất nước. Tôi đã nhiều lần viết thành văn bản gửi lên Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, đưa doanh nhân vào trong 4 giai tầng chủ yếu trong xã hội là: “Công, nông, trí, doanh nhân”, vấn đề này đang được bàn bạc nghiêm túc trong Trung ương Đảng và các ngành, các cấp với những tin tức đáng mừng: thuận nhiều hơn nghịch...

Hai tờ báo và tạp chí: Diễn đàn Doanh nghiệp và VIB Forum, mỗi tuần mỗi tờ ra 4 kì, là những người bạn thân thiết của doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, là cẩm nang hành nghề, người bạn đường không thể thiếu của doanh nhân. Tất cả là để gắn Luật doanh nghiệp với doanh nhân, tiếp tục phát hiện những điều cần bổ sung và khắc phục khi thực hiện Luật doanh nghiệp.

Xây dựng cơ sở vật chất cho VCCI thực hiện xây dựng CNXH tại chỗ

Từ thủa thiếu thời, khi tham gia cách mạng, công tác 5 năm ở quê tôi Hải Dương, Kim Thành, 36 năm công tác ở Hải Phòng, rồi lên Trung ương, tôi luôn luôn nghĩ nước Việt Nam ta nghèo quá. Được giác ngộ cách mạng, làm việc và hiểu dần, tôi càng thấy thấm thía về ý chí tự lực lự cường của Bác Hồ. Tôi tự liên hệ với bản thân, đã luôn tự làm để sống, không ỷ lại. Sau này được đào tạo, học tập qua sách vở, và đi tham quan học hỏi ở bên ngoài, tôi thấy ở Việt Nam thiếu một vế “hành”, nặng về học văn tự đơn thuần, khi bước vào thực tế đời sống dễ bị động, dựa dẫm, theo lối công chức. Ngay trong gia đình tôi, từ cụ Đốc Khảm, cụ Khoá Thản, đến bố tôi cũng vậy, đều theo học thuyết Nho giáo. Những gì cụ Tán Thuật, cụ Cử Đức để lại như: học để hiểu để dạy học và làm thuốc, cứu dân độ thế là rất hay, nhưng khâu phát triển xã hội bằng kinh tế, các cụ hình như không nhắc tới, coi như: “Trời sinh voi, trời sinh cỏ”, hoặc “Đời cua, cua máy; đời cáy, cáy đào”. Các cụ ít chú ý đến “Toán, lí, hoá”, chỉ tập trung vào văn chương. Khi Pháp sang chiếm đóng nước ta; con em, những tầng lớp khá giả cũng chỉ học và thi vào các trường luật để ra làm quan, trường y để làm bác sĩ chữa bệnh, hoặc sư phạm, văn chương, lịch sử để đi dạy học. Còn các ngành nông nghiệp, công nghệ thực hành, ít ai nhập học. Những ngành quan trọng: cơ khí chế tạo, giao thông vận tải, hoá, vật lí... thì “mẫu quốc” (đế quốc Pháp) giữ kín, chỉ mở trường ở chính quốc. Chỉ một số người có ý chí, có tiền, thông minh, mới bén mảng sang chính quốc để thụ giáo. Nên tôi suy nghĩ rất nhiều, và nay vẫn tiếp tục suy nghĩ. Chúng ta giáo dục còn hạn hẹp, giáo điều, nghèo, lại không quan tâm dạy lí thuyết phát triển và thực hành trong các trường lớp.

Tư tưởng tiến công đã yếu, lí thuyết phát triển, lí luận cơ bản phần nhiều chỉ học “chay”. Bởi vậy cán bộ ta người khá về lí luận thì tổ chức thực hiện kém, người khá tổ chức thực hiện lại không hiểu lí luận. Có thể nói việc tổ chức thực hiện rất “tù mù”, không theo một tư duy hệ thống nhất định, nên kết quả hạn hẹp, lãng phí nhiều. Khi buông lỏng quản lí thì tham nhũng tràn lan.

Do đó, khi tôi về phụ trách VCCI, cũng xuất phát từ kinh nghiệm đã làm ở Hải Phòng, ở Bộ Ngoại thương và Bộ kinh tế đối ngoại, Viện Quản lí kinh tế Trung ương, theo cách nói nôm na (với ý đẹp) “Ngựa theo đường cũ” nghĩa là vẫn tự lực cánh sinh, xây dựng CNXH tại chỗ. Còn “Tiền đâu” luôn là thành ngữ “ở đầu mà ra”.

Tôi bắt đầu nâng cấp nhà 33 Bà Triệu, một ngôi nhà cổ kính và chật hẹp, giống như con “bọ hung”, trông rất buồn cười. Thế mà khi xin phép cải tạo nâng cấp lên cho đẹp, đích thân tôi phải đến thuyết trình việc này với một Hội đồng của Viện qui hoạch thành phố Hà Nội. Tôi nói: “Tôi chỉ làm cho ngôi nhà đẹp thêm và làm đẹp cho thành phố. Các đồng chí xem bản vẽ thì rõ”. Tôi được thông qua nhanh chóng không quá 90 phút. Về đến cơ quan lại gặp mấy bà người Úc, cơ quan bảo tồn di tích đến chất vấn: “Các ông vì ghét Pháp nên muốn xoá bỏ những di tích của Pháp để lại phải không?”.

Tôi trả lời: “Các bà nói đơn giản quá, Việt Nam là nước có truyền thống văn hoá, biết bảo tồn những cái gì là di sản quý giá của dân tộc mình và của thế giới. Hai bà cứ đợi xem. Khi nhà chúng tôi cải tạo nâng cấp xong nó sẽ đẹp hơn bây giờ nhiều. Và những cái gì là vẻ đẹp cũ vẫn được giữ nguyên”. Khi nâng cấp xong, tạp chí kiến trúc của Australia đã đăng một bài và ảnh cái nhà mới cải tạo nâng cấp, với những lời khen: “Chưa thấy một ngôi nhà cải tạo nâng cấp lại giữ được dáng cũ và tăng vẻ đẹp như vậy”.

Còn tiền, lấy đâu được 3,6 tỉ để cải tạo nâng cấp ngôi nhà từ 600 m2 sử dụng lên 2.200 m2, với một đơn nguyên mới, xây áp vào phía sau nhà, làm mất hẳn dáng con “Bọ hung”, thành một ngôi nhà 4 tầng, tuy nhỏ nhưng vẫn có vẻ bề thế hiên ngang đứng giữa ngã tư Lí Thường Kiệt và Bà Triệu. Các khách nước ngoài, nhất là Pháp và Mỹ rất khen, ngôi nhà cổ và đẹp. Ông Đô-na-hu, Chủ tịch Phòng Thương mại Mỹ, có trụ sở rất lớn, đối diện với Nhà trắng, khi ở 33 Bà Triệu ra về, còn đứng ngắm nhìn ngôi nhà này khá lâu. Cả hai ông bà đều khen ngôi nhà kiến trúc hài hoà, phía sau có điểm tựa bề thế!

Lúc đó là năm 1997. Tôi nói lần sau ông bà sang thăm Việt Nam tôi sẽ tiếp ông bà ở trụ sở mới, to đẹp hơn ngôi nhà này nhiều. Ông Đô-na-hu vội hỏi sao lại dời đi. Tôi trả lời ở đây quá chật hẹp với một Phòng Thương mại quốc gia, không đủ chỗ làm việc và điều kiện để trang bị phương tiện mới cho cán bộ công nhân viên sử dụng. Ông Đô-na-hu nói ngay: “Khi ông chuyển đến địa điểm mới, tôi sẽ sang thăm Việt Nam lần nữa”. Nhưng đến nay ông bà Đô-na-hu chưa sang thăm Việt Nam lần thứ hai.

Tôi nhớ lại năm 1994 phái đoàn Kedenrein của Nhật Bản do ông Toyoda Chủ tịch tập đoàn TOYOTA làm Chủ tịch sang thăm Việt Nam và thăm Phòng Thương mại Việt Nam. Để chuẩn bị cho đoàn đến thăm VCCI, ông Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam đến VCCI xem nơi tiếp đón đoàn. Xem xong ông Đại sứ bảo: “Nơi này không đủ tiêu chuẩn để tiếp đoàn Kedenrein Nhật Bản”. Tôi cũng thấy quá chật hẹp, điều kiện vệ sinh cũng kém, nên đành chuyển chỗ khác, bằng cách thuê phòng khách nhà Khách Chính phủ, số 12 phố Ngô Quyền để tiếp đoàn Kedenrein Nhật Bản do ông Toyoda dẫn đầu. Năm 2001, đoàn Kedenrein lại sang thăm Việt Nam do ông I-mai, Chủ tịch làm Trưởng đoàn và ông Nacarawa, Tổng thư kí. Họ tới thăm VCCI. Tôi tiếp đoàn ở số 9 Đào Duy Anh. Khi ra về, ông Nacarawa nói với tôi trụ sở của VCCI to và đẹp hơn trụ sở của Kedenrein ở Gotenba, dưới chân núi Phú Sĩ, (nơi tôi đã đến thăm 2 lần). Tôi cảm ơn và nói: “Trụ sở ở Gotenba vẫn đẹp và cổ kính hơn”. Số tiền có được 3,6 tỉ để nâng cấp ngôi nhà 33 Bà Triệu là do qui tụ được mọi nguồn tiền hiện có ở Hà Nội, các chi nhánh, nhất là chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh và một số công ti đóng góp. Trước đây do quản lí tài chính chưa có qui chế, mỗi nơi một cách, đơn vị nào thu nhập được nhiều thì sau lương, lại tiếp tục phân phối hàng tháng, hàng quý, có nơi hàng tuần cho anh em cán bộ công nhân. Nơi thì theo thâm niên, nơi thì theo tổ, nhóm, đơn vị nhỏ thu nhập được thêm cũng chia cho các thành viên.

Để khắc phục những tình trạng trên, từng bước tôi qui chế lại việc phân phối thu nhập. Lấy lương hàng tháng làm cơ bản. Vận dụng cho một tổ chức tự chủ về ngân sách. Nếu thu nhập và làm ăn khấm khá cũng không được quá chênh lệch với những cơ quan khác ở trung ương. Phát huy mọi nỗ lực của tập thể và cá nhân, làm tốt mọi công việc, tăng thu nhập cho ngân sách của Phòng, bảo đảm lương cơ bản và hàng năm thu nhập đều có tăng hơn năm trước cho mỗi thành viên. Nơi có điều kiện cũng như nơi không có điều kiện, đều làm việc ngang nhau, có thu nhập ngang nhau. Tránh tình trạng sử dụng tiền thu nhập của nơi có điều kiện đem phân phối bất hợp lí như năm 1996 (Trong lúc tôi đi công tác ở Tây Nguyên, các đồng chí đã duyệt một lúc cho chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh chia 526 triệu đồng, cho hơn 50 cán bộ công nhân viên. Có người được trên 23,6 triệu, có người không được đồng nào. Thế là sinh thắc mắc khiếu kiện. Khi tôi biết đã chia xong rồi. Tôi nghĩ thu hồi là đúng, nhưng tiền đã vào túi anh chị em rồi, đòi lại chắc ai cũng tiếc. Tôi thôi không đặt vấn đề thu hồi, nhưng phải kết thúc ngay từ đó, không được chia chác tuỳ tiện như vậy). Tôi nói rõ qui chế của Nhà nước, Bộ trưởng Tài chính cũng chỉ được phép duyệt chi dưới 500 triệu đồng, mà là chi cho công việc, không phải cho tiêu dùng, phân phối cá nhân. Thủ tướng mới duyệt từ 500 triệu đồng trở lên, mà phải dựa vào qui chế cho phép. Ta cần rút kinh nghiệm nghiêm khắc. Đơn vị, cá nhân nào thấy làm ra được tiền, do chính sách của Nhà nước đem lại, không biết dành dụm để xây dựng, tích lũy ăn hôm nay không lo ngày mai, khi “thất cơ lỡ vận”, nước đến chân mới nhảy, tránh sao khỏi hoạ (Nhân vô viễn lự, tất hữu cận ưu). Hàng trăm con người, rồi sẽ lên đến ngàn người, mà quản lí tài chính thế này, tất có ngày nhịn đói. Từ đó việc quản lí mới đi đúng qui chế đề ra.

Số tiền hàng năm do các nguồn thu được, chi lương, giải quyết phúc lợi, khen thưởng, hàng năm đều tăng. Nhưng điều quan trọng là phải tích lũy xây dựng cơ sở vật chất.

Sau khi hoàn thành nâng cấp trụ sở 33 Bà Triệu, Phòng tiếp tục xây dựng nhà 9 tầng mới ở số 79 Bà Triệu; Liên doanh với tỉnh Cao Bằng xây nhà Sao Bắc, số 4 Dã Tượng, Hà Nội.

Trong lúc đó Phòng chuẩn bị xây trụ sở mới ở số 9 Đào Duy Anh. Xây trụ sở mới phải chuẩn bị hàng chục tỉ, mới có thể khởi công một ngôi nhà có 10.000 m2 sử dụng. Đất đai đã có, còn vốn xây dựng phải huy động toàn lực của Phòng, từ các chi nhánh, các công ti, nhất là những công ti có thu nhập khá như công ti Sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ (đồng chí Ngãi) v.v... Mặt khác, Phòng giao cho đồng chí Phan Đức Thiện và Vũ Tiến Lộc bàn bạc với Công ti Toyota, hợp tác xây dựng bằng góp vốn xây nhà để thuê trong 10 năm, trả tiền trước sáu năm, bằng 1,7 triệu $US. Tôi vay của một công ti Nhật Bản được 180.000 USD với không lãi suất, vốn bao giờ trả cũng được. Nếu khó khăn thì công ti đó ủng hộ. Với số đô la và số tiền Việt Nam có được. Lãnh đạo Phòng quyết định khởi công xây trụ sở mới, số 9 Đào Duy Anh. Tiến hành khởi công tháng 31998. Hàng ngày, trừ những ngày đi công tác xa, tối nào tôi cũng đến hiện trường bàn bạc với bên B do đồng chí Hưng, Tổng Giám đốc Công ti VIC (Liên doanh Việt Nam - Cu Ba) và đồng chí Toàn, Phó Tổng giám đốc phụ trách. Hai đồng chí Hưng và Toàn giỏi về nghề nghiệp, nhiệt tình, có tấm lòng với VCCI. Còn tôi và đồng chí Phạm Gia Túc đại diện bên A cùng các đồng chí bàn bạc giải quyết những ách tắc, bảo đảm giao nhà cho Toyota thuê vào 16 tháng 8 năm 1998, (vì mỗi tháng chậm là mất 30.000 $US và còn phải bị phạt nữa). Ngôi nhà cao 8 tầng, diện tích sử dụng là 10.000 m2. Thời gian thi công chưa hết 10 tháng, với chất lượng, kĩ thuật, mỹ thuật bảo đảm như dự kiến. Đến nay đã tròn 6 năm giao nhà (phần thuê) cho công ti Toyota (16-8-2004). Một ngôi nhà lớn nhất của VCCI, hoàn toàn sở hữu của VCCI, không còn nợ ai một xu. Để xây dựng nó, đồng chí Đoàn Ngọc Bông hay nói là: “Tay không bắt giặc”. Tôi sửa lại một chút: “Có ít bột nhưng gột nên hồ tốt”. Nếu tính 5 nhà đã cho thuê (chưa kể Hải Phòng) hàng năm VCCI thu 15 tỉ đồng (chưa kể tầng 2 và tầng 8 nhà Đào Duy Anh làm siêu thị và bán hàng ăn uống, nộp lãi cho VCCI. Như vậy vừa có trụ sở sang trọng mà tăng thu cho ngân sách của Phòng. Đó chẳng phải là xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH của Phòng sao? Đó chẳng phải là điều vui lắm thay.

Tư duy của tôi là làm gì cũng cần chủ động, sáng tạo, tránh ỷ lại. Xin cấp trên là xin cơ chế, chính sách để làm. Còn xin ngân sách phải hạn chế đến mức tối thiểu. Vì nước nghèo, ngân sách cũng thu từ đồng tiền của dân nghèo mà ra. Dầu khí có khai thác được cũng chỉ đủ dùng cho việc mua dầu tinh để dùng trong nước. Mà dầu khí khai thác mãi rồi cũng hết. Ta phải làm ra giá trị gia tăng mới có tích lũy. Nên tôi rất suy nghĩ trước khi xin ngân sách Nhà nước. Khi ở Hải Phòng cũng vậy. Các công trình xây dựng cái nào địa phương lo được là không xin, để trung ương tập trung vốn làm những công trình lớn hơn. Đồng chí Vũ Đại, uỷ viên Trung ương, Bộ trưởng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước thường nói: “Chiều thứ bẩy, nếu muốn cải thiện, nghỉ Đồ Sơn, tắm biển, ăn hải sản thì tôi gọi điện cho ông Thành là được đón tiếp chu đáo. Thích nhất là khi ra về vui vẻ, ông Thành không xin bất cứ cái gì của Uỷ ban kế hoạch nhà nước. Đó là điều tôi thích nhất...”. Đồng chí nói nhiều lần cho nhiều người nghe. Tôi cũng được nghe trực tiếp vài ba lần.

Ý tưởng của tôi là mọi người phải tự vận động, hợp tác hỗ trợ nhau cùng phát triển. Còn đi xin ngân sách hoặc vay ngân hàng là chẳng đừng được mới xin và vay thôi. Có như vậy mới huy động được lòng ham muốn của con người thành động lực tạo ra vật chất cho mình và cho xã hội, mới có chủ nghĩa xã hội nhanh được. Do đó khi ở Hải Phòng tôi nêu lên “học thuyết” xây dựng chủ nghĩa xã hội tại chỗ, là vì những lí do trên. Đối với VCCI cũng vậy, tôi cũng từng bước xây dựng cơ sở từ Hà Nội, đến Đà Nẵng, Cần Thơ, Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, các nơi đều xây trụ sở làm việc khang trang, sạch đẹp, tạo thành một mạng lưới VCCI nối liền từ Bắc - Trung - Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ của Phòng tiếp xúc với doanh nghiệp được thuận lợi. Doanh nhân đến trụ sở Hà Nội hay ở các chi nhánh, được coi như ngôi nhà chung, có đủ phương tiện làm việc, tra cứu, nối mạng khi cần đến, đều được phục vụ. Mặt khác VCCI là một tổ chức NGO của một quốc gia, mới gia nhập với các tổ chức Thương mại quốc tế, cũng cần có bộ mặt tương xứng với một đất nước đang phát triển, tuy còn nghèo, nhưng với tầm chính trị thì đã đánh thắng hai đế quốc to. Mình còn kém xa các bạn quốc tế về phát triển kinh tế, nhưng độ dầy về bảo vệ độc lập, tự do, thì các bạn quốc tế đi đến đâu cũng muốn được tìm hiểu bản chất con người Việt Nam. Tục ngữ có câu: “quen nể dạ, lạ nể áo”, dù còn nghèo, nhưng cũng phải tiết kiệm, dành dụm xây dựng nơi tiếp đón khách; Hội thảo trong nước và quốc tế có nơi có chốn, để mọi người nhìn thấy phong cách làm ăn của một Việt Nam anh hùng. Cán bộ công nhân viên chức do vật chất tác động đến ý thức, nên từ làm việc đến ăn mặc, giờ giấc cũng nghiêm túc hơn. Tiếp khách ngoại cũng tự tin hơn, khi nghe thấy bạn khen nhà mình to đẹp. Khi tôi tiếp ông Chủ tịch Phòng Thương mại Đông Nam Á, người Phi-lip-pin, ông nói: “Phòng Thương mại ASEAN chỉ cần có một phòng như ở đây làm trụ sở cũng chưa có”. Tôi nghĩ ông ta khiêm tốn, nhưng đến trụ sở ở Phi-lip-pin tôi mới thấy nó bé thật. Tôi cũng cảm thấy vui vui về thành quả do mình và tập thể làm nên.

Nghĩ lại đất nước ta sau 17 năm đổi mới (kể từ Nghị quyết Đại hội 6 năm 1986), với số vốn nước ngoài đầu tư khoảng 30 tỉ đô-la Mỹ, cộng với đủ gạo ăn, có xuất khẩu, dầu khí khai thác bán dầu thô mua xăng dầu đủ sử dụng trong nước, và những giá trị gia tăng do trong nước làm ra tích lũy được, trong 17 năm qua chúng ta đã làm được nhiều việc, có bước tiến quan trọng, được nhân dân trong nước và thế giới công nhận. Nhưng vẫn còn là một nước nghèo. Tỉ lệ hộ nghèo còn cao, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa, nông thôn... Nếu được kiểm toán khách quan, toàn quốc, thì số thất thoát, mất mát rất lớn...

Giả thiết rằng, mô hình và cách tính toán của tôi trình Hội nghị Bộ Chính trị đầu tháng 2-1988, không bị phá bỏ, với cách làm của tôi ở Phòng Thương mại và Công nghiệp từ 1993-2003, chắc sự phát triển kinh tế của đất nước sẽ có bước tiến xa hơn. Ở phạm vi toàn quốc nó thuận lợi hơn gấp hàng 100 lần ở Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Nhất là tệ tham nhũng, bệnh HIV-AIDS, tha hoá biến chất, xây dựng không theo qui hoạch, rất lãng phí... chắc không trầm trọng như hiện nay. Vì có bài bản, có lí luận, tiến hành từng bước theo một hệ thống, mô hình thống nhất, từ trên xuống dưới, để chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Mô hình đó cụ thể từng bước đi, ai cũng có thể nhìn thấy nắm bắt công việc mình làm, rất thiết thực. Rất tiếc nó bị phá sản, trong bối cảnh 12/14 Uỷ viên Bộ Chính trị và Tổng Bí thư sơ bộ kết luận đồng ý và phát biểu riêng đã đồng ý với đề án tôi trình bày. Đó có phải là “vận” nước, hay “vận” người, thật tiếc lắm thay. Tác hại này lại chỉ do một Uỷ viên Bộ Chính trị to mồm, ăn nói “hung hăng”, luôn luôn coi mình cái gì cũng biết tất cả, lấy nhiệt tình làm đầu nhưng kiến thức hạn hẹp, với thành phần thợ thủ công (thợ sơn) nên luôn luôn cho mình là giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng để nói, do đó nhiều người nể nang và cũng nhiều người sợ, phải chiều ý vì cái tính “võ biền” như đồng chí Trường Chinh nhận xét.

Xây dựng cơ chế và bộ máy tổ chức cán bộ

Năm 1993, Phòng tách ra khỏi Bộ Thương mại, số cán bộ công nhân viên khoảng trên dưới 100 người, và một chi bộ 30 đảng viên trực thuộc Đảng uỷ Bộ Thương mại chỉ đạo. Cơ quan văn phòng khoảng 30 người, còn lại ở chi nhánh và công ti trực thuộc. Với nhiệm vụ to lớn vừa được Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Chính phủ xác định qua tổ chức Đại hội Phòng lần thứ II, sau 30 năm thành lập Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam mới tổ chức Đại hội. Anh chị em làm việc tại Phòng theo quán tính của 30 năm tồn tại. Tính năng động và đổi mới có hạn, chỉ muốn làm theo cách cũ. Một số anh chị em nghĩ rằng tôi đã 64 tuổi sang làm Chủ tịch mấy năm rồi về hưu, cũng không sốt sắng hợp tác làm việc, hoặc chỉ bàn “chùn”, không muốn tìm thêm việc để làm. Đại hội chi bộ có 30 đảng viên, cũng phải thuê phòng họp ở khách sạn Hoà Bình, trong một cái kho, có vài cái quạt trần cũ kĩ. Nhưng vẫn thuê, vẫn họp bình thường. Hai lần đến họp ở đó, tôi thấy rất lạ!

Trước hết là, sau khi Điều lệ Phòng Thương mại được Đại hội lần thứ II thông qua và được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn, dựa trên cơ sở của điều lệ, tôi cho xây dựng các qui chế làm việc, quản lí cơ quan, quản lí tài chính... đưa xuống cho cán bộ công nhân viên thảo luận góp ý kiến.

Tôi thành lập các ban nghiệp vụ, bỏ các phòng, thành lập Đảng bộ, đề nghị trực thuộc Đảng uỷ Khối kinh tế Trung ương, được cấp trên chấp nhận. Khó khăn ban đầu về tổ chức là thiếu cán bộ. Phải nâng cấp nhanh. Đồng chí Đoàn Ngọc Bông từ Tổng Thư kí lên Phó Chủ tịch, đồng chí Phạm Chi Lan từ Phó Tống thư kí lên Tổng Thư kí. Còn cấp phòng cũng được đưa lên cấp trưởng, phó ban. Có đồng chí phải kiêm nhiệm, chủ yếu là đề bạt từ dưới lên. Còn xin ở các ngành Trung ương về khoảng 10 đồng chí, bổ sung vào các nơi đang thiếu hụt. Bộ máy đi dần vào ổn định, hàng năm phát triển dần lên theo khối lượng công việc gia tăng. Về thông tin tuyên truyền, báo chí, từ một tờ tin, chuyển thành báo tuần, lấy tên là Diễn đàn Doanh nghiệp từ tháng 10-1993, mỗi tuần ra 4 số. Tiếp đến là Tạp chí VIB Forum cũng ra 4 số/tuần. Thành lập Trường cán bộ quản lí doanh nghiệp, Thư viện, Trung tâm nghiên cứu phần mềm về quản lí tài chính, thành lập thị trường điện tử, Trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMES), Văn phòng Giới chủ (người sử dụng lao động) v.v...

Công việc ngày càng đi vào nề nếp, anh chị em cán bộ công nhân viên làm việc rất nhiệt tình, từ các đồng chí Thường trực, đến các đồng chí trương, phó ban, chánh phó giám đốc công ti và trung tâm, đến toàn thể anh chị em trong khối VCCI từ Hà Nội đến địa phương. Tất cả đều làm việc hăng say, đoàn kết xây dựng VCCL ngày một lớn mạnh. Phòng đã tổ chức cho anh chị em học tập trong nước, nâng dần trình độ cho mọi người, một số được gửi ra nước ngoài đào tạo. Đến nay 85% cán bộ công nhân viên ở cơ quan văn phòng có trình độ đại học trở lên, Ban Thường trực và cán bộ trưởng, phó ban, trưởng phòng, phổ biến là có 2 bằng đại học, và biết một ngoại ngữ, một số có bằng thạc sĩ, tiến sĩ. Phương tiện làm việc cũng được trang bị tương đối hiện đại, công nghệ thông tin được dùng phổ biến trong cơ quan để làm việc, giúp cho kiến thức được sử dụng tốt vào việc phục vụ công việc của Phòng ngày càng có hiệu quả.

Về Đảng và tổ chức quần chúng, luôn luôn phát triển phù hợp với công việc và biên chế tăng. Đến nay Đảng bộ đã trên 200 đảng viên, dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ cơ sở có 11 đảng uỷ viên, có trên 20 chi bộ trực thuộc từ Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, đều trực thuộc Đảng uỷ VCCI quản lí theo ngành dọc.

Các đoàn thể như thanh niên, phụ nữ, công đoàn đều phát triển và làm nòng cốt trong phong trào thi đua, văn hoá quần chúng, thể dục thể thao, cải thiện đời sống cho mọi người. Chế độ lương, bảo hiểm xã hội ngày một hoàn chỉnh. Lương bình quân hiện nay là gần 2 triệu đồng/tháng. Bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho mọi người. Nếu tính từ 1993 khi tách ra khỏi Bộ Thương mại, lương bình quân là 420.000 đồng, thì nay tăng gần 5 lần. Việc đi nghỉ hàng năm cũng bắt đầu cho nhiều anh chị em đi du lịch nước ngoài như Thái Lan, Trung Quốc... Tính đoàn kết trong Đảng và quần chúng thì thông qua các hoạt động sôi nổi trong công việc và sinh hoạt văn hoá, thể thao thể dục, tạo điều kiện cho mọi người gặp gỡ, tiếp xúc, giao lưu kiến thức, văn hoá:. được gần nhau, tạo không khí trong cơ quan lúc nào cũng như ngày hội mà Lénine mong ước: cách mạng là ngày hội của quần chúng.

Trong điều kiện độc lập về ngân sách, không có tài trợ của ngân sách Nhà nước, nên việc chi tiêu luôn phải tiết kiệm, chi tiêu có mục đích, chi tiêu tạo ra giá trị gia tăng được khuyến khích. Còn chi tiêu, tiêu phí thì giảm tới mức thấp nhất.

Tôi có ý thức luôn luôn chuyển “lòng tham không đáy” cho công việc quốc gia, nghĩa là công việc của Phòng, còn cá nhân là “lòng tham phải có đáy” (nhân dục hữu nhai). Tôi luôn suy nghĩ việc này sang việc khác, nhằm phát triển doanh nghiệp. Nhiều anh chị em gặp tôi thường nói là: “luôn luôn bị giao công việc mới”, “Anh em suy nghĩ không kịp Thủ trưởng”. Quả thật như vậy. Tôi có thói quen không bao giờ làm theo đường mòn, rập khuôn, mà luôn luôn sáng tạo, nghĩ ra việc mới, hoặc học tập kinh nghiệm có hiệu quả của bạn. Còn ngồi chơi xơi nước, tán chuyện tào lao, là tôi rất sốt ruột, nhất là bới móc chuyện đời tư của người khác...

Đến nay tổng số cán bộ công nhân viên là 800 người. Đảng bộ 5 năm liền là Đảng bộ vững mạnh, trong sạch. Tôi thường nói với các đồng chí trong Đảng bộ “Được cờ, được giấy khen, bằng khen của Đảng bộ cấp trên là mừng. Nhưng chúng ta nhớ rằng Đảng bộ ở một cơ quan không có quyền hạn, ít quan hệ đến những việc: Xin, cho, cấp, phát... như cơ quan Nhà nước, chỉ có đi giúp đỡ, bảo ban, hướng dẫn... doanh nghiệp làm giàu, tạo mọi thuận lợi cho họ, bằng lời nói, giấy tờ hướng dẫn... nên môi trường cũng tạo cho Đảng bộ ta vững mạnh, trong sạch. Giả thiết ta cũng có quyền quyết định đến tài chính, quan hệ lợi ích sống còn của doanh nghiệp, chưa chắc chúng ta đã giữ được trong sạch. Do đó, Đảng uỷ phải tăng cường giáo dục cho đảng viên, chặt chẽ khi kết nạp, bảo đảm đủ tiêu chuẩn, nhất là tiêu chuẩn tự giác đứng dưới cờ của Đảng, dám hi sinh quyền lợi cá nhân cho quyền lợi dân tộc, kể cả tính mạng của mình. Có làm được như vậy mới luôn là Đảng bộ vững mạnh, trong sạch, xứng đáng với lá cờ của cấp trên trao tặng cho Đảng bộ ta”.

Những cuộc đi công tác nước ngoài và trong nước đáng ghi nhớ!

Thăm quê hương Lénine

Từ ngày lên công tác ở Trung ương, nhất là thời kì làm Bộ trưởng Bộ Ngoại thương, Bộ trưởng Bộ Kinh tế đối ngoại và Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, tôi thỉnh thoảng đi nước ngoài công tác. Mỗi cuộc đi, tôi đều đặt ra cho mình một mục tiêu nhất định. Đi ít nhưng được nhiều, giúp cho suy nghĩ vận dụng, bổ sung vào kiến thức của mình.

Tháng 3-1987 tôi sang Liên Xô lần thứ 2, họp khối SEV. Năm đó là năm rét nhất kể từ sau Đại chiến thứ II. Tôi đến thành phố Léningrad (nay là Saint-Petersburg) rét xuống âm 38 độ, âm 39 độ. Rét ơi là rét, mặc bao nhiêu quần áo cũng không đủ ấm. Khi đến viếng đài liệt sĩ vô danh của thành phố, phải chạy, mặc niệm 1, 2 giây, đồng chí hướng dẫn đã bảo phải vào xe ngay kẻo bị “cóng”. Các đồng chí Liên Xô nói rét năm nay bằng rét lúc quân phát xít Hít-le tấn công Léningrad, nên nhiều lính Đức đã chết rét. Trong lúc Liên Xô rét như vậy thì Việt Nam mùa đông nóng như mùa hạ, làm cho nhiều nơi mất mùa, vì chưa có giống lúa mới chịu nóng. Nạn đói năm 1987-1988 ở các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An trầm trọng, do mất vụ Đông Xuân vì khí hậu nóng.

Khi họp Hội nghị khối SEV về ngoại thương tôi cảm thấy ít bổ ích, thiếu tính phát triển tích cực, bị động với Bộ Ngoại thương Liên Xô. Đến họp như để chia phần viện trợ từ Liên Xô, còn các nước Đông Âu và Việt Nam như những thành phần phụ thuộc, điều chỉnh thêm bớt chút ít, khi được phân công xuất nhập trao đổi hàng hoá. Tôi nhớ lúc đó Việt Nam xuất ít, nhập nhiều, thiếu ngoại tệ (Rúp). Các đồng chí đại diện của ta ở khối SEV bảo tôi viết một thư tay cho đồng chí Aristov, Bộ trưởng Bộ Ngoại thương Liên Xô xin vay 100 triệu Rúp để thanh toán. Đồng chí Aristov bảo Ngân hàng MIB của khối SEV cho vay đủ 100 triệu Rúp. Tôi thấy dễ dàng quá. Tôi nghĩ, nếu khi tôi ở Hải Phòng có một triệu Rúp tôi sẽ làm giàu. Nay về Trung ương có 100 triệu Rúp trả nợ mua bột mì, kí một cái là đã ăn hết sạch. Dám cho Việt Nam 100 triệu Rúp làm vốn kinh doanh, sau một năm sẽ đẻ ra bao nhiêu lãi? Năm sau không phải vay nữa có tốt biết bao? Cứ vay nợ để ăn, “nợ chằng, nợ đụp”, biết bao giờ trả nợ cho xong.

Cuối năm 1987, đồng chí Aristov thôi giữ chức Bộ trưởng Ngoại thương. Năm 1989 đồng chí được cử làm Đại sứ Liên Xô tại Phần Lan. Năm 1989 tôi sang thăm Phần Lan, tôi đến thăm đồng chí Aristov, đồng chí Hồ Huấn Nghiêm, uỷ viên Uỷ ban Kế hoạch cùng đi trong đoàn với tôi, giúp tôi phiên dịch tiếng Nga.

Tôi đến Đại sứ Liên Xô ở thủ đô Hensinky, hai vợ chồng đồng chí Aristov xuống đón chúng tôi tại chân cầu thang máy, rất thân tình. Trong hơn 1 giờ đến thăm đồng chí Aristov, đồng chí rất cảm động, kể lại bao chuyện biến thiên trong đời mình. Đồng chí nói: “Hơn một năm bị mất chức Bộ trưởng, tôi như người mất hồn, mới sang làm Đại sứ được mấy tháng tại Phần Lan, mới trở lại bình thường. Được các đồng chí Việt Nam đến thăm, tôi và nhà tôi rất phấn khởi, ngay từ khi nhận được tin đồng chí đến thăm...”. Tôi tặng đồng chí một kỉ niệm nhỏ của Việt Nam, bức tranh sơn mài. Ra về tôi và đồng chí Hồ Huấn Nghiêm trao đổi với nhau, thấy các đồng chí Liên Xô cũng như đồng chí Aristov tình nghĩa và chân thành với Việt Nam quá! Một tình cảm của những người cộng sản.

Thăm quê hương Khổng Tử

Năm 1996 tôi được đồng chí Lí Thụy Hoàn, uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội nghị chính trị Hiệp thương Trung Quốc (Hiệp chính) mời sang Bắc Kinh dự hội thảo: “Trung Quốc và châu Á với thế kỉ 21” do đồng chí Giang Trạch Dân, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa; đồng chí Lí Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện; đồng chí Lí Thụy Hoàn, Chủ tịch chính Hiệp hội chủ trì.

Cuộc hội thảo trong 4 ngày. Khách nước ngoài được mời có 19 người gồm các ông Lí Quang Diệu, nguyên Thủ tướng Singapore, cựu Thủ tướng Đức Smith, cựu Thủ tướng Nhật Bản Nakasonê, Kissinger Mỹ, và một số vị khác. Cuộc hội thảo rất phong phú, có nhiều dự đoán sắc sảo. Có đoàn đi rất đông, như đoàn Mỹ tới 40 người. Đoàn Việt Nam có 3 người. Sau khi đi dự Hội nghị về, tôi đã báo cáo với Bộ Chính trị 32 vấn đề mà tôi rút ra từ cuộc hội thảo này.

Kết thúc hội thảo, Thủ tướng Lí Bằng hỏi tôi có đi tham quan địa phương nào để đồng chí cho thu xếp. Tôi nói: “Tôi là đồ đệ của Khổng Tử, tôi muốn đi thăm quê hương của Khổng Tử”. Đồng chí cho chuẩn bị ngay. Tôi đề nghị với đồng chí, tôi xin phép được đi với một số doanh nghiệp Việt Nam và Trung Quốc, mong đồng chí thông cảm. Nhưng Thủ tướng Lí Bằng vẫn điện cho tỉnh Sơn Đông đón tiếp tôi rất trọng thị.

Tôi nhớ hôm đến Bắc Kinh dự hội thảo, một đổng chí Vụ trưởng Bộ Ngoại giao ra đón ở sân bay. Về đến khách sạn Bắc Kinh, tôi thấy trải thảm đỏ, hoa, hai bên hai hàng đứng đón. Tôi nghĩ mình đi hội thảo như mọi lần, có ai đón đưa gì đâu, cứ đến khách sạn, phát biểu xong là về. Tôi ghé tai hỏi đồng chí Đào Duy Chữ và Vũ Tiến Lộc: “Bạn đón đoàn nào mà sang thế?”. Đồng chí Chữ bảo: “Bạn đón anh đấy!”. Tôi tưởng đồng chí nói đùa, hoá ra bạn đón tôi thật. Tôi vội sờ tay lên cổ, xem lại cravate, và quần áo cho chỉnh tề..., các đồng chí tặng hoa, mời vào phòng khánh tiết của khách sạn giải khát và bạn giới thiệu một vài nét ngắn gọn về cuộc hội thảo quan trọng này. Tôi đã có bài gửi sang Trung Quốc trước 6 tháng, bạn đã cho dịch sang tiếng Anh và Trung Quốc. Ngày mai vào hội thảo, tôi chỉ đọc bằng một trong hai thứ tiếng trên, tuỳ tôi lựa chọn. Tiếng Anh tôi khá hơn, chắc đọc sẽ lưu loát. Còn tiếng Trung tôi đọc và viết tốt, nhưng nói tiếng phổ thông rất kém. Nhưng chẳng lẽ đến Trung Quốc lại đọc tiếng Anh, tôi đành đọc tiếng Trung, dù phát âm không chuẩn thì bạn cũng vui hơn là tôi đọc tiếng Anh. Đọc xong bài phát biểu, đồng chí Chữ là người giỏi tiếng Trung, bảo tôi: “Riêng anh dũng cảm đọc tiếng Trung là đáng 10 điểm rồi!”. Cả ba anh em cùng cười.

Tôi đi Tế Nam, thủ phủ tỉnh Sơn Đông, một tỉnh lớn miền Duyên Hải, với 87 triệu dân, đông dân hơn nước ta, có nền công nghiệp phát triển, có bia Thanh Đảo nổi tiếng, đặc biệt có huyện Khúc Phụ, quê hương Khổng Tử, có núi Thái Sơn, có biển Bắc Hải. Khi sinh thời Khổng Tử thường dẫn đệ tử lên núi Thái Sơn vừa du ngoạn, vừa giảng bài cho môn đồ hoặc đi thuyền trên biển... Thành phố Tế Nam cách thủ đô Bắc Kinh 800 km. Chúng tôi đi bằng máy bay, sau đó đi ôtô khoảng hơn 70 km đến huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông thời Xuân Thu, cách đây hơn 2500 năm là hai nước: “Tề và Lỗ”. Khổng Tử sinh ở nước Lỗ nhỏ, nước Tề lớn và mạnh hơn nước Lỗ. Nhưng là có đạo, nên nước Tề cũng kiêng nể nước Lỗ.

Đoàn chúng tôi đến Tế Nam được tỉnh Sơn Đông đón tiếp chu đáo. Tối hôm đó đồng chí Chủ tịch tỉnh Sơn Đông chiêu đãi chúng tôi.

Hôm sau, chúng tôi đi thăm Khổng Miếu, Khổng Phủ và Khổng Lâm (Khổng miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, Khổng phủ là gia đình Khổng Tử. Khổng lâm là khu riêng hàng chục ha nơi an táng Khổng Tử và phu nhân, con trai Khổng Tử là Lí Ngư và cháu đích tôn là Tử Tư, người viết ra sách Trung dung. Tổng số có hơn 3.000 ngôi mộ).

Khổng Miếu xây từ đời nhà Tống. Khi Khổng Đạo được coi là quốc đạo của nhà nước Trung Quốc và từ đời thứ 34 con cháu Khổng Tử mới đến Khổng phủ ở. Khổng miếu cũng có diện tích bằng Cố cung (Thiên An Môn), rộng 73ha, xây dựng na ná như Cố cung. Có khác là hai bên tả vu, hữu vu ở Khổng miếu là bia ghi các đời vua đến đây tế Khổng Tử. Còn Cố cung là các quan triều đình làm việc.

Khổng miếu xây cao gần bằng Cố cung, chỉ thấp hơn một viên gạch, gọi là: “Kính Thiên Tử” xây thấp một chút bằng chiều dày viên gạch.

Toàn huyện Khúc Phụ chỉ có nhà 2 tầng và bắt buộc không được xây cao hơn Khổng miếu.
Nơi đây khách quốc tế đến tham quan, lúc nào cũng có hàng vạn khách du lịch ở khắp huyện Khúc Phụ. Các nhà nghiên cứu lịch sử, khảo cổ, nhà văn, nhà thơ, nhà báo... đi lại tấp nập, buổi trưa nằm la liệt ở Khổng lâm, Khổng miếu... để suy tư về một nhà tư tưởng vĩ đại phương Đông.

Trong Khổng miếu, ngoài tượng của Khổng Tử, đồ cúng tế, trang bị vừa phải như sinh thời của Ngài, không lộng lẫy như ở Cố cung. Đặc biệt có bức tường giả để giấu các bộ sách kinh điển như: Tứ Thư, Lục Kinh v.v... của cháu đời thứ 7 của Khổng Tử, để chống lại chủ trương của Tần Thuỷ Hoàng là “Đốt sách, giết học trò” (Phần thư, Khanh nho). Cái hầm giả là bức tường đó nay vẫn còn. Đến Khổng Lâm, nơi đặt mộ của Khổng Tử và phu nhân, rồi đến cháu đích tôn là Tử Tư, rồi mới đến Lí Ngư là con trai của Khổng Tử, thân sinh ra Tử Tư, vì Tử Tư được xếp vào bậc đại hiền, nên xếp mộ ở trước bố, gần với ông nội là đức Khổng Tử.

Khi Khổng Tử mất, hơn 3000 học trò của ông, nhất là 72 người hiền, những người học trò giỏi nhất, đến làm nhà ở bên mộ thầy ba năm. Riêng Tử Cống ở lại 6 năm mới về. Nhà Tử Cống hiện nay vẫn còn dấu tích các cây cổ thụ do các ông Tử Lộ, Tử Cống trồng, đến nay vẫn giữ được. Theo các hướng dẫn viên cho biết: “Nếu không có Thủ tướng Chu Ân Lai tích cực can thiệp và bảo vệ, thì khu di tích lịch sử vĩ đại này đã bị thời kì Cách mạng văn hoá ở Trung Quốc phá hết!

Đến nay con cháu của Khổng Tử về ở Bắc Kinh, không còn ai ở Khổng Phủ. Cháu đời thứ 80 của Khổng Tử đã sang Hà Nội tham quan và vào Văn Miếu thắp hương cho Khổng Tử. Rõ ràng Khổng Tử là một người thầy tiêu biểu của muôn đời, đã được UNESCO thừa nhận đúng như trong Khổng Miếu, ở đền chính bức đại tự rất to viết 4 chữ “Vạn thế sư biểu”.

Nước Lỗ quê hương của Khổng Tử, là nơi sinh ra rất nhiều danh nhân văn hoá nổi tiếng như Khổng Minh, Vương An Thạch, tể tướng Trung Quốc thời nhà Tống. Lại có núi Thái Sơn cao nhất vùng. Khổng Tử đã nói: “Đăng Thái Sơn nhi thiên hạ tiểu” (lên núi Thái Sơn, trông thiên hạ nhỏ bé). “Thiên hạ”, cách nói của thời kì phong kiến Trung Quốc, coi Trung Quốc là cả thế giới. Nay lên tham quan núi Thái Sơn đã có xe cáp treo, chỉ phải trèo núi khoảng 300-400m. Cao như thế mà các vua Trung Quốc hàng năm đến tế Khổng Tử lên đỉnh núi Thái Sơn. Vua Càn Long nhà Thanh là ông vua ba lần lên núi Thái Sơn tế đức Khổng Tử.

Trong chuyến đi thăm này tôi mới hiểu rõ tại sao Trung Quốc khi tổ chức cưới (và Việt Nam cũng vậy), dùng chữ “Song hỉ”. Trước đây tôi nghĩ đám cưới là của hai họ, nhà trai nhà gái, cùng vui nên dùng chữ “Song hỉ”. Chuyến đi Sơn Đông lần này tôi mới hiểu ngọn nguồn. Đó là một chuyện ngẫu nhiên, tình cờ và là vận may của Vương Tể tướng nước Tống. Ông học giỏi nhất vùng, cùng quê với Khổng Tử, sau này là người học giỏi nhất nước, làm đến chức Tể tướng Trung Quốc.

Chuyện kể rằng: Khi đi Bắc Kinh để thi đình, trên đường xa 800 km, ông đi qua một vùng trù phú. Ở đấy có một “Phú gia địch quốc” có cô con gái xinh đẹp. Phú ông muốn tìm người tài trong thiên hạ để kén chồng cho con gái. Phú ông cũng là người học rộng, uyên bác, muốn thử tài trong thiên hạ nên viết một vế câu đối, treo bên cái đèn lồng tả “Đèn kéo quân”, nội dung:

“Mã tẩu đăng, đăng tẩu mã, đăng tức, mã đình bộ” (nghĩa là: ngựa chạy theo đèn, đèn chạy theo ngựa, đèn tắt, ngựa dừng chân).

Ngài... “tân khoa” Vương An Thạch học giỏi nổi tiếng nhất vùng mà đọc đi, đọc lại suy nghĩ mãi, cũng không tìm ra được lời hay, ý đẹp, đối đáp lại... Ông đành bàn với những người phục vụ cùng đi: “Hãy về Kinh thi xong, tính sau”, mặc dù ngài “tân khoa” rất luyến tiếc người con gái đẹp, lẫn của cải giàu sang, và tự trách mình học giỏi, tài cao mà có một vế câu đối... lại không đối được, đành đi thẳng.

Đến Bắc Kinh, ông vào thi ròng rã hàng tháng. Cuối cùng ông đỗ “Tam khôi”, một trong ba người giỏi nhất thi đình (lấy tiến sĩ). Nhưng ông Vương chỉ đứng thứ ba, vì khoa này không có ai đủ điểm trúng Trạng nguyên và Bảng nhãn. Ông đỗ Thám Hoa. Khi kiểm tra lại (phúc khảo), Vua Tống cho gọi ông vào Triều và ra cho một vế câu đối, bắt ông đối lại. Cờ nhà Tống lúc đó có thêu con hổ ở giữa, nên vua ra vế câu đối có nội dung sau đây: “Hổ phi kì, Kì phi hổ, Kì quyển, hổ tàng hình” (nghĩa là: Hổ bay theo cờ, cơ bay theo hổ, cờ cuốn, hổ giấu mình).

Ngài Thám hoa mừng thầm trong bụng là mình gặp may, ông liền lấy vế câu đối của “Phú ông” đem đối lại, Vua khen hay, chính thức phê duyệt ông đỗ Thám Hoa, đứng thứ ba trong hàng Tam Khôi. Và đứng đầu tiến sĩ khoa đó.

Ông vinh quy, không quên qua nhà “Phú ông” dùng vế câu đối của vua ra để đối lại câu đối của phú ông. Phú ông rất hài lòng và gả con gái yêu cho quan Tân khoa Thám hoa Vương An Thạch. Hai vế câu đối trọn vẹn:
“Mã tẩu đăng đăng tẩu mã, đăng tức, mã đình bộ.
Hổ phi kì, kì phi hổ kì quyển, hổ tàng hình”.
Phú ông cho tổ chức đám cưới ngay tại nhà mình. Trong ngày tân hôn, quan Thám hoa nhận được cờ Tiệp của nhà vua phong cho làm Tể tướng (ngang Thủ tướng), phải kíp về triều nhận nhiệm vụ

Quan Thám hoa sung sướng, viết hai chữ rất to tặng bố vợ và gửi về gia đình: “Song hỉ”. Một vận may hiếm có: làm Tể tướng lấy vợ đẹp. Chữ nghĩa thông minh nhất nước mà phải nhờ 2 vế câu đối của người khác mới thành danh. Thế mới biết làm cả 2 vế câu đối thì dễ, còn phải đối lại vế câu đối của người khác là khó lắm thay!

Chẳng phải thế mà ngay trong nước ta, đời này lưu truyền đời khác, còn một vế câu đối vẫn chưa có nhân tài điền vào.

Ở làng Rồng huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương có vế câu đối: “Đình làng Rồng có cây gỗ rắn, đục ba năm chẳng cắn miệng xà, long lại hoàn long...”.

Hay ở làng Bo, Thái Bình có vế câu đối: “Con bò lang chạy vào làng Bo”

Hay hai câu đối của Đoàn Thị Điểm thách Trạng Quỳnh đối: “Da trắng vỗ bì bạch”, “Thằng Quỳnh ngồi trên cây cậy dái đỏ hồng hồng”.

Ngay đến Lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, khi sang sứ Trung Quốc, đến Hữu nghị quan (ngày nay), người gác cửa quan thấy quan trạng Mạc Đĩnh Chi đến muộn bèn ra một vế đối, dán ở bên cửa quan và khoá cửa lại: “Đáo quan trì, quan quan bế, nguyện quan khách quá quan” (đến cửa quan chậm, cửa quan đóng, xin quý khách trèo qua mà đi).

Câu đối khó quá, ngay người ra câu đối cũng chẳng đối được. Quan trạng Việt Nam lấy ngay ý đó viết nốt vế kia dán lên: “Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh, tiên đối” (Ra đối dễ, đối lại khó, xin ngài đối trước).

Vị gác cửa quan liền mở cửa cho Trạng nguyên Việt Nam sang Trung Quốc và cho là nhà thông thái nhất của Việt Nam. Chẳng thế mà Mạc Đĩnh Chi sang sứ Trung Quốc, đời Tống, đời văn hiến thịnh trị mà triều đình Trung Quốc đã tặng Mạc Đĩnh Chi là Trạng nguyên Trung Quốc.

Thăm quê hương Chúa Jesu và thánh Mohamad

Trung Đông còn ghi lại đậm nét quá trình lịch sử tiến bộ của loài người. Trung Đông lúc nào cũng có nhiều sự kiện, nơi tiếp giáp 3 lục địa chủ yếu của Trái đất: châu Á, châu âu, châu Phi. Và nơi đây từ xa xưa đã xuất hiện nhiều tôn giáo, chỉ sau đạo Phật của châu Á. Đó cũng là nơi xuất hiện một dân tộc tuy nhỏ bé nhưng khá thông minh, đã sinh ra chúa Jesus, Marx, Einstein.v.v... là dân tộc Do Thái, thông minh đến mức mà Hitler căm tức họ, đã giết 4 triệu người Do Thái trong đại chiến thế giới thứ II. Sau đại chiến, nhờ Mỹ, Anh và Liên hiệp quốc can thiệp họ mới được trở về mảnh đất quê hương của Jesu nay gọi là Israel, một đất nước có 7 triệu dân với diện tích khoảng 30.000 km2, còn khoảng 6 triệu dân vẫn đi kinh doanh buôn bán ở nước ngoài, nhưng hàng năm vẫn gửi về xây dựng đất nước hàng chục tỉ USD.

Tháng 7-2001, tôi dẫn đoàn doanh nghiệp Việt Nam gần 20 người sang thăm Israel. Đến đây mới thấy ý chí của người Do Thái và sự tranh chấp đất đai phức tạp giữa Palestine và Israel, cuộc đấu tranh giữa 2 đạo giáo Hồi giáo và Thiên chúa giáo. Nội bộ Thiên chúa giáo, Do Thái giáo và Tin Lành cũng rất phức tạp. Đến đây mới thấy hết tính phức tạp của tín ngưỡng, tâm linh, thần quyền.

Sau khi làm việc với Bộ Ngoại giao, Bộ Phát triển Đầu tư, Phòng Thương mại và Công nghiệp Israel, thăm một số xí nghiệp chế biến kim cương, xí nghiệp điện tử, chế biến điêu khắc các loại hình tượng bằng kim loại của các nghệ nhân nổi tiếng, thăm nơi trồng rau trên bãi sa mạc thiếu nước ngọt (vì cả nước Israel là sa mạc, nguyên liệu chỉ có một “biển chết”, biển không còn hoạt động và cạn dần, nước mặn đến 30 độ bom-bê. Thế mà vẫn tổ chức tắm ở đây, coi như tắm nước muối), đến thăm 5 ki-but (hợp tác xã) trong tổng số hơn 500 hợp tác xã, với gần 500.000 xã viên. Hợp tác xã sản xuất kinh doanh rất giỏi, ăn tập thể, ở tập thể. Chúng tôi đã đến ăn một bữa trưa do hợp tác xã chiêu đãi. ăn do khách tuỳ chọn, có khoảng hơn 30 món ăn mỗi bữa, và thay đổi luôn. Mỗi căn hộ 64 m2 cho gia đình 4 người, có sân vườn. Hàng năm sau khi chia lãi cho xã viên, mỗi xã viên được thưởng 5.000 USD để đi du lịch. Đi làm đều có ô tô chở đi. Chúng tôi đến thăm một ki-but nuôi cá cảnh xuất khẩu sang Nhật Bản doanh số 300 triệu USD/năm. Mọi người đi làm việc đúng giờ và vận hành máy móc, hầu hết là tự động hoá, như tưới nước cho cà chua, cà tía. Có máy tính cặp vào lá cây, khi cây thiếu nước, máy tự động tưới cho cây. Nhưng cũng có những khâu làm thủ công như bắt cá cảnh, đóng vào các công-ten-nơ có dưỡng khí, đưa ra sân bay, bảo đảm đến Nhật cá vẫn mạnh khoẻ.

Theo báo cáo của ông chủ nhiệm hợp tác xã thì đã có một số người không muốn làm ở hợp tác xã, muốn xin ra hợp tác xã để đi làm nơi khác, tự do.

Cả nước Israel có 3 thành phố lớn, Thủ đô là Ten-a-vip, cảng An- pha và thành phố Jerusalem còn đang tranh chấp giữa Palestin và Israel. Đoàn chúng tôi nghỉ ở Ten-a-vip. Cảng An pha là cảng nước sâu. Khi đoàn chúng tôi đến xem cảng, thấy hàng không mẫu hạm Mỹ chở đầy máy bay đậu ở cảng này.

Ngày cuối, chúng tôi đến thăm thánh địa Jerusalem. Chúng tôi đến thăm mộ chúa Jesu, cùng là dấu tích ông bị đóng đinh câu rút. Mộ ông và đền thờ ông được quản lí chặt chẽ. Dù thờ chúa Jesu, nhưng lại chia làm 3 tông phái khác nhau: Thiên chúa giáo, Do thái và Tin lành. Ba tông phái đều coi mình là theo chính đạo của chúa Jesu, và đều đòi trông coi đền thờ lẫn mộ chúa. Để bảo đảm không thiên vị, ba phái phải thuê một người theo đạo Hồi cầm chìa khoá trông coi ngôi mộ và đền thờ chúa Jesu. Tôi đến đây mới thấy con chiên của Chúa từ khắp thế giới đến đây làm lễ. Tấm đá Chúa Jesu nằm khi bị đóng đinh câu rút chết, luôn luôn sạch bóng, vì ai đến đây cầu Chúa đều cúi sát miệng liếm trên tấm đá, rồi vào đền thờ Chúa đứng hàng giờ. Người đông nghịt, nhất là ngày chủ nhật. Chúng tôi là khách tham quan cũng đứng hồi lâu để thấy những gì con chiên của Chúa tưởng nhớ người quá cố, người đã tử vì đạo, vì hạnh phúc cho dân lành.

Sau khi thăm mộ và đền thờ chúa Jesu, chúng tôi sang đền thờ thánh Mohamad và bức tường thờ thánh Mohamad, chiếu theo đường thẳng chỉ cách đền thờ chúa Jesu khoảng 400 mét. Nhưng cách hành hương, lễ bái hai bên khác biệt nhau. Giữa Hồi giáo và Thiên chúa giáo luôn luôn kình địch nhau. Mặc dù mục đích của hai vị Thánh này đều cứu loài người khỏi khổ đau, không còn đàn áp nhau giữa người và người. Thế mà do bị kích động của các nhà cầm quyền, cũng như những vị trưởng lão của 2 tôn giáo, mà các tín đồ không hoà hợp được. Hai giáo phái này đều có tổ chức, và là 2/3 lôn giáo lớn nhất thế giới. Họ đều nhân danh vì mục đích chung cao cả, là cứu loài người “khỏi đau khổ”, nên đã có những cuộc chiến tranh đẫm máu, như cuộc chiến tranh “thập tự chinh” và ngày nay vẫn còn tiếp diễn, kì thị, chém giết lẫn nhau.

Chúng tôi vào đền thờ Thánh Mohamad, rộng rãi trang nghiêm, thấy ít người vào hành lễ. Nhưng sang bức tường thờ Thánh thì đông như ngày hội. Những con chiên tứ phương đến, đều mặc quần áo cổ truyền của vùng Trung Đông, áo trắng, khăn trắng quấn trên đầu mỗi người. Cầu gì đều viết lên giấy, đặt trên bức tường, ghi rõ họ tên quê quán, nội dung cầu Thánh cho gì, rồi đập đầu vào tường 3 lần. Có người đập rất nhiều lần. Tôi hỏi bà hướng dẫn viên đập đầu mạnh như vậy nếu vỡ đầu thì sao? Bà bảo: đã có khăn che chắn. Lúc đó tôi mới hiểu cái khăn đội trên đầu là công cụ bảo hiểm cho cái đầu khi lễ thánh, cầu nguyện. Đồng chí Vũ Khoa, Tổng giám đốc Vinaconex hỏi tôi: “Mọi người đều viết giấy cầu nguyện, sao anh không viết”. Tôi bảo đồng chí Vũ Khoa: “Thánh Mohamad được cho là ngài thông minh nhất thế giới, sao ngài lại không biết tôi đến đây. Tôi chỉ vái ba vái là đủ”.

Chuyện đến thăm thành phố Jerusalem cổ kính, biết bao sự kiện, biết bao công trình xây dựng theo văn hoá Trung Đông. Nhìn sang dải Gaza, nơi đang có sự tranh chấp quyết liệt giữa Palestin và Israel thì tôi lại buồn cho Trung Đông, chưa biết bao giờ đến hồi chấm dứt. Đến hôm nay vẫn còn quyết liệt, bởi ai cũng muốn hơn, ai cũng muốn thắng, tuy lẽ phải lúc nào cũng thuộc về kẻ có sức mạnh. Không biết đến bao giờ chân lí thuộc về kẻ yếu?

Tối hôm chia tay, Đại sứ Mensua, đại sứ Israel tại Việt Nam, chiêu đãi toàn đoàn tại gia đình. Đại sứ Mensua là người dân tộc thiểu số, không phải gốc Do Thái. Ông là Đại tá chuyển sang làm ngoại giao, một người rất quý Việt Nam. Tối hôm đó ông mời 2 cụ thân sinh và các anh chị em con cháu đến đông đủ, hàng chục người cùng đến liên hoan với chúng tôi. Bà đại sứ đã sang Việt Nam cùng Đại sứ, nên nấu món ăn Việt Nam rất giỏi. Chúng tôi được chiêu đãi cả món ăn Israel. Một bữa tiệc rất thân thiết, đầm ấm như ở chính gia đình mình. Tôi rất nhớ cụ ông luôn luôn kể chuyện gia đình, đất nước, cho chúng tôi nghe, như những người thân ở xa về. Ông bà Đại sứ Mensua ân cần chăm sóc và dành cả thời gian đưa đoàn đi tham quan đất nước Israel. Ông hay nhắc đến việc Việt Nam tham gia ý kiến với Palestin và Israel mong họ thương lượng với nhau để hai nước sống hoà thuận. Việt Nam có rất nhiều kinh nghiệm về vấn đề này.

Thăm Hợp chủng quốc Hoa kì

Tháng 9-1994, Đoàn doanh nghiệp Việt Nam gồm 150 nhà doanh nghiệp do tôi làm trưởng đoàn sang thăm Hoa Kì, tổ chức triển lãm tại thành phố San Francico tại bang California. Lần đầu tiên có đoàn doanh nghiệp lớn sang Mỹ trong điều kiện hai nước mới bắt đầu lập lại quan hệ ngoại giao, nên hai bên đều có sự thăm dò lẫn nhau. Ban đầu đoàn gồm 250 người, có một số quan chức cao cấp là uỷ viên Trung ương Đảng cùng đi. Nhưng sau vụ bắt sò huyết của Đại sứ nước ta, phía Mỹ đưa lên báo chí, phía ta sinh lo lãng, rút đoàn xuống còn 150 người. Tôi cũng thấy buồn vì đã chuẩn bị hàng năm cho cuộc triển lãm. Doanh nghiệp đăng kí rất đông, đã phải cắt đi rất nhiều, nay lại giảm 100 doanh nghiệp, rất khó nói. Tiền thu rồi, vé máy bay, visa chuẩn bị gần xong, nay cắt ai, để lại ai, cứ phải thương lượng từng người rất vất vả. Nhưng rồi mọi việc cũng ổn thoả.

Đội tiền trạm sang San Francico trước đã chuẩn bị sẵn. Doanh nghiệp đem hàng hoá sang trưng bày, những hàng cồng kềnh đã được chuyển qua tàu thuỷ sang trước. Thành phố San Francico từ ông Thị trưởng đến công chức toà Thị chính đều giúp đỡ tận tình. Vì là tuần trăng mật, lại là lúc một số người Việt Nam ở Mỹ bị “cú sốc”, hai bên kí hiệp định bình thường hoá quan hệ, họ tổ chức các nhóm chống đối đi khắp nơi xuyên tạc cuộc triển lãm, và vận động nhân dân Mỹ tẩy chay. Truyền đơn, báo chí xuyên tạc cuộc triển lãm được đăng trên một số báo nhỏ địa phương. Còn các báo lớn đều ca ngợi cuộc triển lãm này. Việc bảo vệ cho cuộc triển lãm cũng được phía Mỹ tổ chức chu đáo, từ FBI đến an ninh của bang và thành phố cũng được huy động bảo vệ cho triển lãm.

Ngày khai mạc, lực lượng cảnh sát Mỹ bố trí vòng trong vòng ngoài bảo vệ. Từ sáng sớm bọn phản động đã thuê 2 máy bay cỡ nhỏ, kéo 2 khẩu hiệu: “Đả đảo cộng sản”... bay lượn khắp bầu trời thành phố San Francico suốt buổi sáng. Một khoảnh đồi nhỏ cách cổng vào nhà triển lãm khoảng 50 mét, có 75 người, đeo băng, khẩu hiệu, cầm cờ ba que đả đảo triển lãm, đả đảo Dương Kì Anh, trưởng ban tổ chức triển lãm. Tôi sang hôm khai mạc nên họ không biết tên. Đến hôm bế mạc họ mới biết. Họ là những dân di tản, thất nghiệp, bọn phản động thuê mỗi ngày 75USD, nhưng phải đóng quĩ của bọn phản động 25USD chỉ còn 50 USD/ngày. Người nào trông cũng gầy còm, chỉ có vài 3 tên chỉ huy là to béo. Họ bị cảnh sát Mỹ bắt buộc đứng vào một khu vực có dây chăng chung quanh, ra ngoài vòng dây là cảnh sát đánh ngay, nên bọn họ chỉ đứng hô đả đảo.

Chỉ được buổi sáng ngày hôm đầu, còn hôm sau vừa hô vừa cười, đùa vài phút rồi thôi. Họ còn lân la nói chuyện với anh em triển lãm và xin phép được vào triển lãm mua cơm ăn. Anh em hỏi tôi, tôi bảo: “Cứ cho họ vào mua, nhưng phải có điều kiện chỉ được đi người không, không được mang biểu ngữ, cờ, khẩu hiệu. Chúng tôi lại phải điều đình với cảnh sát Mỹ cho phép họ vào. Cảnh sát Mỹ khen ta nhân đạo. Còn họ, họ không cho vào. Bọn này vào mua nhanh rồi đem ra cho nhau ăn, không dám làm gì, và phân trần: “Chúng tôi không có việc làm, đi làm thuê, họ bảo sao làm vậy”. Anh em tuyên truyền giáo dục họ và dẫn họ ra khỏi cổng triển lãm, giao cho cảnh sát Mỹ. Họ lại ra chỗ đứng đã được qui định.

Để bảo vệ an toàn cho triển lãm, chúng tôi được Thị trưởng chỉ thị cho xe Harley đưa đi, đón về, rất chu đáo. Có 2 xe mô tô loại rất lớn với 2 cảnh sát đưa đi, đưa về.

Từ cổng triển lãm ra đến nơi ô tô đỗ, có 4 cảnh sát, cưỡi 4 con ngựa loại rất to đưa chúng tôi ra xe, giao cho kíp cảnh sát đi xe mô tô đưa chúng tôi về nhà nghỉ.

Trong 4 ngày triển lãm, doanh nghiệp Mỹ và người Việt Nam ở Mỹ đến xem rất đông. Hàng hoá của ta đem sang triển lãm bán hết trong ngày thứ hai, thứ ba. Các doanh nghiệp phấn khởi.

Cuộc triển lãm suôn sẻ, được Bộ Ngoại giao ghi vào báo cáo năm 1999 là 1/10 sự kiện lớn về đối ngoại. Sau triển lãm tôi đến nói chuyện tại cuộc hội thảo ở thành phố Seatle, Bang Washington State, giữa Mỹ và Trung Quốc; rồi đoàn đến tham quan nhà máy sản xuất máy bay Boeing. Lần đầu tiên có đoàn Việt Nam đến nhà máy, ông Tổng giám đốc tiếp và báo cáo với đoàn, cho đoàn quay phim của ta muốn quay đâu cũng được. Bạn bảo đó là ngoại lệ cho đoàn Việt Nam. Đoàn chúng tôi được lên xem chiếc máy bay Boeing 777 đầu tiên đang đóng dở. Bạn giới thiệu đó là loại Boeing chở khách tối tân nhất. Gần đây ta đã mua loại máy bay này chở khách. Tôi đã đi 4 lần, thấy nó tối tân và rất tiện nghi. Nhưng chở được ít khách hơn loại Boeing 747. Rời Washington, chúng tôi đi thăm thành phố New York, thăm thủ đô Washington, thăm Las Vegas, các thành phố phía nam nước Mỹ. Tôi đã có tất cả 18 cuộc nói chuyện với doanh nghiệp, với nhân dân Mỹ và một số quan chức Mỹ. Cuộc đi khá vất vả, được cái giao thông ở Mỹ thuận lợi, đi máy bay cũng như đi xe bus ở ta, cứ 30 phút có một chuyến, không đi chuyến trước thì đi chuyến sau, chỉ phải chờ, còn các thủ tục lên máy bay cứ có vé là lên ngay, không phải hỏi han kiểm soát gì cả. Vì thủ tục ở Mỹ họ kiểm soát rất kĩ khi nhập cảnh. Còn đã vào nội địa, người trong nước và nước ngoài như nhau, đi lại bình thường.

Sau 5 năm, 1999 tôi sang Mỹ lần thứ 2 để gặp gỡ các doanh nghiệp Mỹ, do ông Chủ tịch Phòng Thương mại Mỹ Dô-na-hu mời sang để giải thích vì sao Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ chậm được kí kết. Tôi cũng làm việc với Phòng Thương mại Mỹ và một số địa phương. Trong chuyến đi này đoàn chúng tôi có 55 người, hầu hết là doanh nghiệp.

Chúng tôi đi thăm 3 nước. Trước hết là thăm Cuba, dự hội chợ triển lãm quốc tế Lahavana. Trong những ngày ở Cuba, tình hình chính trị ổn định, nhưng kinh tế phát triển chậm, do Mỹ cấm vận, mặt khác việc quản lí của các đồng chí Cuba có phần chặt chẽ. Thí dụ tư nhân ăn uống chỉ có 12 ghế ngồi là tối đa. Thừa một ghế là bị phạt. Chúng tôi phải đến 4 nơi mà cũng không đủ ghế cho đoàn ngồi ăn một bữa, lại phải trở về khách sạn quốc doanh. Riêng du lịch phát triển, giáo dục học sinh được bao cấp hoàn toàn. Lương cán bộ công nhân, viên chức rất thấp, Bộ trưởng 20USD/ tháng. Cán bộ công nhân, viên chức 10 USD tháng. Tôi thấy anh chị em phục vụ vất vả. Tôi nói với anh chị em trong đoàn mỗi ngày người phục vụ đến phòng hãy cho mỗi người 1 USD. Các đồng chí phục vụ rất phấn khởi, khen Việt Nam rất tốt. Mình cũng nghèo, nhưng thấy bạn lại còn khó khăn hơn. Tôi gặp 3 đồng chí Bộ trưởng, trao đổi nên mở rộng cải cách đổi mới. Và giới thiệu kinh nghiệm đổi mới Việt Nam cho các đồng chí và cán bộ nghe.

Ở Cuba 3 ngày, sang thăm Canada, ở Toronto 2 ngày, chúng tôi đi đường bộ sang Mỹ, qua thác Niagra Fall đẹp nhất ở Canada, ngay biên giới với Mỹ. Chúng tôi đi ôtô về New York. Trên đường đi chúng tôi ghé thăm một làng cổ, người gốc Hà Lan đã nhập cư vào Mỹ hơn 200 năm, có khoảng 300 gia đình. Những người gốc Hà Lan này vẫn theo cổ truyền không dùng bất cứ cái gì dùng đến điện. Nhà đốt đèn dầu, đi xe ngựa, không dùng ti vi, radio, ăn mặc áo dân tộc, nhà hầu hết là một tầng, ở vào một khu vực. Khách đến tham quan nơi đây rất đông. Cảm thấy đến đây như vào một thung lũng, vì chung quanh đó có nhiều nhà cao tầng. Tôi hỏi người hướng dẫn viên được trả lời: dân ở đây chỉ đi gần, khoảng 100 km trở về, họ đi xe ngựa, xe đạp, đi bộ, không đi ôtô, máy bay những phương tiện có liên quan đến điện. Thế giới thấy lạ, khách du lịch tới tham quan đông, nên họ sống bằng nghề dịch vụ du lịch.

Đến thủ đô Washington, làm việc và dự hội thảo ở trụ sở Phòng Thương mại Mỹ, đối diện với Nhà trắng. Cuộc hội thảo có khoảng 10 Thượng nghị sĩ và Hạ nghị sĩ cùng dự. Nhiều vị phát biểu mong muốn sớm có Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ để quan hệ kinh tế giữa hai nước được toàn diện. Các doanh nghiệp mong muốn sớm vào Việt Nam đầu tư. Tôi phát biểu một bài và giải đáp những việc cần phải làm để sớm có Hiệp định song phương về Thương mại giữa 2 nước.

Sau đó tôi được mời đến nói chuyện ở Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quan hệ quốc tế (CISIS), của Kissinger, Bresinky, Carter. Có 3 ông trợ lí Bộ trưởng Ngoại giao và nhiều quan chức Mỹ đến nghe. Sau bài phát biểu của tôi các bạn Mỹ hỏi 26 câu, hầu hết là có nội dung tốt, thiết thực cho quan hệ tốt đẹp Việt Mỹ, nhưng cũng có 4 câu hỏi như có phải Việt Nam không thực hiện được chủ nghĩa xã hội bằng kế hoạch hoá tập trung, nay phải quay sang kinh tế thị trường không? v.v... Tôi trả lời: “Người Mỹ là những người thích nói thẳng, tôi cũng thích nói thẳng, chỉ có nói thẳng chúng ta mới dễ gặp nhau để hợp tác lâu dài. Tôi tự giới thiệu với các ngài, tôi là một người cộng sản “nòi”. Tôi phải nói rằng kinh tế thị trường nay còn hiệu quả là do loài người nhiều thế hệ tạo ra. Tôi từ trong bụng mẹ đã làm kinh tế thị trường, vì mẹ tôi đang vận hành cơ chế thị trường ở nước tôi lúc đó Cho nên tôi sinh ra trong kinh tế thị trường, kinh tế thị trường đối với tôi không xa lạ. Trước đây chúng tôi muốn xây dựng CNXH thật nhanh, để có hạnh phúc cho toàn dân. Nhưng kết quả không như mong muốn, không có hiệu quả, chúng tôi bỏ nó, trở lại vận dụng kinh tế thị trường do cha ông để lại, để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Có học thêm kinh nghiệm của các nước, như Mỹ chẳng hạn, có một nền kinh tế phát triển, vận dụng qui luật kinh tế có khác với những nước đang phát triển và có nhiều kinh nghiệm hay. Đó là sự trao đổi kinh nghiệm chung giữa các nước với nhau”.

Người Mỹ có tính hay “hợm mình” cái gì cũng muốn hơn người. Tôi nhớ lại dịp họp các doanh nghiệp, khối ASEAN ở khách san New World năm 2001, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có mời Thượng nghị sĩ John Kerry đến nói chuyện, đi cùng có đại sứ Mỹ Peterson... Nội dung bài nói rất hay. Nhưng đến phần cuối ông John Kerry nói: “Nước Mỹ phải lãnh đạo thế giới, nhưng đến nay chưa làm được nhiều”. Khi phát biểu lời cảm ơn, tôi đánh giá cao bài phát biểu của ông Kerry, những đoạn cuối tôi có ý kiến là: “Không nên dùng từ lãnh đạo thế giới mà là “hướng dẫn” thế giới. Vì dùng từ lãnh đạo thế giới chắc nhiều nước không đồng tình với Mỹ. (Hội nghị vỗ tay rất to, nhất là các đại biểu Malayxia). Nước Mỹ là nước giàu nhất thế giới, rất có nhiều điều kiện hướng dẫn giúp đỡ các nước nghèo. Khi được giúp đỡ một cách chân thành, họ thoát khỏi khó khăn, họ sẽ biết ơn nước Mỹ. Lúc đó nước Mỹ không cần nói lãnh đạo, họ cũng đi theo Mỹ và đặt nước Mỹ lãnh đạo họ. Như thế có tốt hơn không.”. Tôi thấy ông Kerry hơi ngượng, tôi nói thêm: “Nếu cách nói đó là thói quen của người Mỹ, thì các vị thông cảm với tôi”. Tôi theo dõi từ đó, các quan chức cao cấp của Mỹ cũng thấy ít nói đến “từ” này. Nay ông John Kerry là ứng cử viên Tổng thống của đảng dân chủ. Nếu ông trúng cử chắc ông sẽ bỏ hoàn toàn cụm từ “lãnh đạo thế giới”.

Những cuộc đi công tác địa phương đáng nhớ

Thời kì công tác ở Trung ương, tôi đã đi khắp các tỉnh thành phố trong nước, có tỉnh thành phố tôi đến làm việc nhiều lần. Tỉnh, thành phố nào tôi cũng rất có cảm tình. Các đồng chí lãnh đạo cũng như các đơn vị tôi đến thăm hoặc làm việc, đều để lại trong tôi nhiều kỉ niệm không bao giờ quên, những án tượng sâu sắc về con người và cảnh vật. Đến nay tôi đã về hưu, nhưng các địa phương vẫn quan tâm thăm hỏi, có tỉnh hàng năm đều có thư mời về thăm, hoặc nghỉ ở những danh lam thắng cảnh của địa phương, làm cho tôi suy nghĩ, luôn luôn lúc nào cũng thấy trách nhiệm với đất nước, với nhân dân.

Tôi không phải là nhà thơ uyên bác gì, nên không dám đến đâu cũng “vạch đá đề thơ”. Nhưng có vài lần ở ba miền, nhất là những năm 1987-1988, tôi về công tác ở tỉnh Đồng Tháp, đến đâu nhân dân cũng mến mộ cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh ra Hồ Chủ tịch. Nhiều người kể về công lao của cụ Phó Bảng, xây dựng phong trào cách mạng ở Cao Lãnh. Có người nói: “Chúng tôi chưa biết Bác Hồ thế nào, nhưng thấy cụ Phó Bảng là chúng tôi quý Bác Hồ”. Tôi cảm động mới làm đôi câu đối thờ cụ, nói lên tính kết nối giữa cụ Phó Bảng với Bác Hồ trong sự nghiệp xây dựng phong trào cách mạng và hoàn thành sự nghiệp cách mạng của cha con cụ đối với dân tộc Việt Nam. Đôi câu đối đó lan toả đi một số nơi, nên một số tỉnh tôi đến làm việc các đồng chí đề nghị làm cho một đôi để đặt ở nơi có ý nghĩa. Tôi nghĩ đến đâu cũng viết câu đối thì chẳng hay gì, sinh nhàm chán. Tháng 41989 tôi đến thăm Nghĩa Bình, đến thăm huyện Tây Sơn thờ vua Quang Trung. Tôi xúc động làm một đôi câu đối để ở đền thờ với nội dung:
“Bát thập tuế khởi sự binh nhung bất tri chiến bại.
Tam cửu niên băng hà cường tặc do khuất uy linh”
(Nghĩa là: “năm mười bảy tuổi, khởi binh đánh giặc, không biết thua là gì! Ba mươi chín tuổi mất, giặc dữ còn sợ oai nghiêm”).
Trước khi viết chính thức tôi có nhờ cụ Minh nhuận sắc. Cụ Minh bảo tôi bỏ “Thanh, Xiêm một hữu thất kinh” (quân Thanh quân Xiêm chưa hết sợ) vì nay ta đã hoà nhập với thế giới, những từ nhắc lại quá khứ, nêu rõ tên, nên bỏ. Cụ thay vào đó là: “Cường tặc do khuất uy linh”. Tôi đồng ý với cụ Minh.

Tháng 10-1989 tôi lên làm việc với tỉnh Vĩnh Phú, các đồng chí lãnh đạo tỉnh có đề nghị tôi viết một đôi câu đối ở đền Hùng.

Tôi nghĩ ở Nam Bộ tôi đã viết một đôi câu đối ở lăng cụ Phó Bảng, miền Trung có đôi câu đối ở đền thờ vua Quang Trung, ở miền Bắc cũng cần có một đôi câu đối của Thầy đồ “Đổi mới” xứ Đông để thờ Tổ. Tôi viết:
“Tứ thiên niên Hồng Lạc cố cương giang sơn thế việt
Lục thập triệu tử tôn cách mạng chế độ nhật tân”
(Nghĩa là: “bốn nghìn năm Hồng Lạc, sông núi, bờ cõi vẫn giữ vững, con cháu người Việt ở đời đời, chữ “Thế Việt” còn có nghĩa là Vượt đời”...)
Sáu mươi triệu con cháu làm cách mạng và đang đổi mới, chữ “Nhật tân” trích sách đại học của Tăng tử “Cẩu nhật tân nhật nhật tân, hựu nhật tân”. (đã mới rồi, ngày ngày càng đổi mới, tiếp tục đổi mới).

Tôi lại nhờ cụ Minh nhuận sắc, cụ đồng ý không thêm bớt chữ nào. Tôi đọc để xin ý kiến anh Trường Chinh, anh Nguyễn Văn Linh, hai anh đều tâm đắc. Anh Trường Chinh thích vế thứ nhất, nhất là chữ “Thế Việt”. Anh Nguyễn Văn Linh thích vế thứ hai, nhất là chữ “nhật tân”. Câu đối được treo ở những nơi trân trọng, những cũng có nhiều ý khen chê. Khen thì nhiều, chê ít nhưng “to miệng”. Đến mức Giám đốc Sở Văn hoá Thông tin Vĩnh Phú phải hạ xuống cất vào kho. Sau Bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Phú, đồng chí Nguyễn Văn Đăng bảo cứ treo trên đền chính và đề nghị con cháu cả nước ai có câu đối hay cứ đem đến đền thờ Tổ sẽ treo hết. Còn Bí thư Tỉnh uỷ Đồng Tháp, đồng chí Tư Hữu nói thẳng với mấy người đến chê bai, rằng: các đồng chí giỏi thì làm đem đến đây tôi sẽ khắc trên bia đá, còn chê thì ai chê chẳng được. Chúng tôi cần làm, chứ
không cần nói.

Câu đối ở đền thờ vua Quang Trung, ở Tây Sơn, Bình Định, chắc ở xa, ít người đến nên chưa thấy có ý kiến gì. Thế mới biết, làm người khó lắm! Cổ nhân đã nói: “Tố vi nhân nan, tận chỉ bút đầu can” (làm người là khó, viết 4 chữ đó hết giấy mực vẫn chưa hết khó) và đặt ra 4 câu thơ để nhắn nhủ người đời:
Xảo yếm đa lao, chuyết yếm nhàn.
Thiện hiềm nhu nhược, ác hiềm ngoan
Phú tao tật đố, bần tao tiện
Cần viết tham lam, kiệm viết kiên....
(Nghĩa là: “Khéo tay chê là vất vả, vụng về chê là lười biếng
Làm điều thiện, chê là nhu nhược; làm điều ác, bảo là ngoan cố.
Giàu có bị ghen ghét, nghèo chê là ti tiện.
Cần mẫn bảo là tham lam, tiết kiệm chê là keo kiệt”...)
Cho nên người đời mới than rằng: “Tối nhân nan”.

Đó là những cuộc đi công tác nước ngoài và trong nước mà tôi có nhiều ấn tượng sâu sắc nhất.

Bất cứ cuộc đi nước ngoài hay trong nước đối với tôi đều rất bổ ích và giữ lại nhiều kỉ niệm sâu sắc không bao giờ quên, với tình đồng chí, tình bạn bè, tình cán bộ với nhân dân, như nguồn cổ vũ động viên tôi suốt đời.

Đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn với Hải Phòng

Đồng chí Lê Duẩn trong những năm 1930 đã hoạt động cách mạng ở Hải Phòng và năm 1931 đồng chí bị thực dân Pháp bắt ở Ngõ Đá, Hải Phòng. Bởi vậy đồng chí Lê Duẩn có nhiều kỉ niệm với nhân dân và Đảng bộ Hải Phòng.

Sau những năm ra tù lần thứ nhất ở Côn Đảo về, đồng chí tiếp tục hoạt động ở miền Trung và các tỉnh miền Nam. Vào những năm 1939-1940 với cương vị là Uỷ viên Thường vụ Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, Uỷ viên Thường vụ Phan Đăng Lưu và Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định thành lập mặt trận phản đế Đông Dương, thay Mặt trận Dân chủ, chuyển hướng cuộc đấu tranh cách mạng sang một thời kì mới.

Năm 1940 đồng chí lại bị bắt và bị đày ra Côn Đảo lần thứ hai cho đến khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công. Đồng chí được Đảng và Chính phủ đón về đất liền, tham gia cuộc kháng chiến ở Nam Bộ.

Tôi là bậc hậu sinh, biết tiếng đồng chí Lê Duẩn bắt đầu từ khi tôi bị bắt và đày ra Côn Đảo, được các đồng chí Nam bộ kể về anh Ba (tên thân mật của đồng chí Lê Duẩn), tôi mới hiểu anh Ba qua những câu chuyện kể về tài năng và đức độ của anh trong tù, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở miền Nam. Một con người thông minh, sáng tạo, đã cùng Trung ương Đảng và Bác Hồ đưa cách mạng ở Nam Bộ vượt qua bao nhiêu khó khăn của thời kì “trứng nước” đến ngày thắng lợi. Anh đã hoạt động trên mảnh đất đầy gian khổ nơi có nhiều xu hướng chính trị và đạo giáo phúc tạp, nơi quân Anh rồi đến quân Pháp trở lại xâm chiếm nước ta lần thứ hai, ngay sau ngày nước ta tuyên bố độc lập 2-9-1945. Với tài trí thông minh, anh được quân, dân Nam Bộ gọi là “ông 200 bougies” hoặc “ông 500 Bougies”. (Sáng như bóng đèn điện 200-500 nến).

Tôi chỉ được nghe kể thế thôi, còn con người cụ thể thì mãi đến năm 1957 anh ra Bắc và xuống Hải Phòng nói chuyện với Hội nghị cán bộ, tôi mới biết anh. Lúc đó tôi chưa phải là cán bộ chủ chốt của Hải Phòng. Nhưng do muốn tìm hiểu một con người sẽ kế thừa sự nghiệp của Bác, khi giải lao tôi đến gần anh, hỏi chuyện việc anh ra miền Bắc gặp nhiều khó khăn ra sao. Anh thân mật kể cho nghe. Chúng tôi vây quanh và đặt ra nhiều câu hỏi. Anh sẵn sàng trả lời, vừa vui vẻ, vừa thân mật. Thấy anh khoẻ mạnh, tươi cười, nhưng hay nói nhanh, giọng Quảng Trị pha Nam Bộ rất khó nghe. Riêng tôi ở nhiều với anh em ba miền, nên nghe khá hơn, đôi khi phải “dịch” lại cho một số anh em cán bộ Hải Phòng có lúc nghe mà không hiểu được gì cả. Có anh em như đồng chí Hải, cán bộ Tuyên huấn, bảo chẳng ghi chép được gì. Nhưng tất cả vẫn thấy vui, vì được gặp anh Ba lần đầu, thái độ anh cởi mở, gần gũi anh em.

Từ đó, hàng năm anh thường xuống Hải Phòng 2, 3 lần để gặp gỡ cán bộ, thăm nội ngoại thành, nhất là từ khi chị Bảy Vân về công tác ở báo Hải Phòng, ba cháu nhỏ cũng về Hải Phòng, nên anh Ba luôn tranh thủ những ngày nghỉ về thăm chị Ba với các cháu. Mỗi lần về, anh đều dành thời gian thăm phong trào. Giữa những năm 60, tôi phụ trách Liên hiệp xã Tiểu công nghiệp và Thủ công nghiệp. Trong những buổi ra ngoại thành, sang huyện Thuỷ Nguyên, Thành uỷ giao cho tôi dẫn anh đi xem. Từ những chuyến đi này, tôi có điều kiện tiếp xúc, gần gũi với anh qua câu chuyện đến thăm các cơ sở.

Tôi nhận thấy người chuẩn bị thay Bác Hồ, không phải chỉ giỏi chống ngoại xâm, mà có tầm nhìn về kinh tế rất sáng suốt. Từ đó bắt đầu tôi mến anh Ba, và luôn muốn gợi những ý kiến suy nghĩ của mình để anh Ba giải đáp.

Có một số lần xuống xem hợp tác xã dệt thảm len xuất khẩu ở Thuỷ Nguyên, một lần xem hợp tác xã may mặc ở nội thành, một lần xem hợp tác xã nông nghiệp kiêm làm nghề thủ công ở An Hải, đã cho tôi ấn tượng sâu sắc về tư duy kinh tế của anh Ba.

Đến hợp tác xã dệt thảm len gia công xuất khẩu, anh hỏi tôi sao lại tập trung khung dệt cồng kềnh thế này vào một nơi? Sao không để ở từng nhà cho thuận tiện đi lại, năng suất sẽ cao, không phải làm thêm nhà để khung cửi? Còn tập trung chỉ là cơ khí sản xuất theo dây chuyền thì người ta mới tập trung... Đến hợp tác xã may mặc anh Ba còn chất vấn tôi: Tại sao máy khâu mà cũng vào hợp tác xã, để người ta làm cá thể có hơn không? Những câu hỏi liên quan đến đường lối làm ăn tập thể, tổ chức hợp tác xã mà anh Ba hỏi như vậy khó trả lời quá! Tôi báo cáo anh Ba đó là theo hướng dẫn chỉ đạo của Trung ương. Anh Ba vặn lại tôi: “Các đồng chí ở cơ sở sát thực tế, trên không sát, phải đề xuất chứ. Cứ làm mà không có ý kiến gì là không được”. Tôi suy nghĩ quá! Nhưng lúc này chỉ nên vâng, dạ, còn biết nói sao đây, khi phong trào hợp tác hoá đang lên mạnh. Đến hợp tác xã dệt thảm len xuất khẩu, có em bé gái 16 tuổi đang dệt thảm, anh Ba hỏi cháu có biết đồng đô-la là gì không? Cháu ngớ người ra. Tôi vội thưa với anh, tôi cũng chưa nhìn thấy đồng đô-la... Anh Ba phân tích ngay, làm xuất khẩu mà không hiểu đồng đô-la là gì là không được. Phải cho các cháu nó biết giá trị của đồng đô la. Anh vỗ vai tôi và bảo: “Còn đồng chí càng phải biết đồng đô-la là gì! Có thế mới hăng say sản xuất, làm ra hàng xuất khẩu để có đô-la xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Thật là ý “mới toanh” tôi thấy ở một nhà chính trị lỗi lạc nói ra. Tôi thấy thích mà cũng thấy lạ tai, vì các đồng chí khác kiêng kị, thành kiến với đồng đô-la, còn anh Ba lại say sưa nói về nó. Tôi nghĩ đây là con người có một tầm tư duy kinh tế khác thường. Tôi nghĩ sao anh Ba không làm cho các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị khác nghĩ như anh nhỉ?

Khi đến hợp tác xã nông nghiệp, anh hỏi tôi: “Đồng chí có biết thế nào là sản xuất lớn không?” Tôi đang ngập ngừng anh Ba nói ngay: “Sản xuất lớn không phải là tập trung vào hợp tác xã để nuôi, mà mỗi gia đình nông dân nuôi 40-50 con lợn, hàng trăm con gà thế là sản xuất lớn... Việc gì mà ngồi túm tụm hàng chục người thế kia thái rau, làm sao có năng suất, có hiệu quả được...”.

Qua những lần đưa anh Ba đi thăm phong trào hợp tác xã sản xuất, tôi thấy lí giải nhiều điều rất sáng sủa để phát triển sản xuất, xây dựng đất nước. Tôi không hiểu tại sao các ngành Trung ương không nói theo cách nói của anh, và theo ý kiến của anh? Tôi tiếp tục theo dõi và suy nghĩ về cái đầu sáng 500 nến trong chiến tranh chống Pháp và nay đang chống Mỹ, cái đầu ấy thể hiện trong kinh tế cũng rất sáng tạo, có lẽ sáng hơn 500 nến nữa.

Đến năm 1979 tôi làm Chủ tịch UBND Thành phố, tôi có điều kiện làm việc trực tiếp với anh Ba. Trong nhiều buổi đưa anh đi thăm cơ sở sản xuất, anh có nhiều gợi ý rất sáng, truyền cảm, truyền ý thức tự lực tự cường cho những người đi theo. Câu nói cửa miệng và đầu tiên khi bắt đầu câu chuyện thường là anh nhắc: Thành phố, Thành uỷ phải làm gì cho dân, phải hiểu được dân cần gì? Thành uỷ là phải lo cho dân, mỗi người ăn một năm bao nhiêu thịt, cá, bao nhiêu quả trứng. Thành uỷ phải biết hàng ngày nhân dân ăn gì? Chứ Thành uỷ cũng chung chung như Trung ương thì Thành uỷ làm được gì? Hoặc mỗi tỉnh, thành phố, phải coi mình như một nước nhỏ mà lo toan thay Trung ương. Thế giới có nước người ta chỉ có 1.000 km2 với mấy trăm nghìn dân, bé hơn Hải Phòng, người ta còn làm giỏi như thế. Thành uỷ Hải Phòng phải biến thành phố là Hồng Kông, Singapore thứ hai... Lần nào anh cũng nhắc, cũng nói một cách tâm huyết, thật thà, thẳng thắn với chúng tôi.

Trong những buổi làm việc với anh Ba, sau những ý kiến trực tiếp vào vấn đề chính xong rồi, anh Ba đều có những suy nghĩ lớn cho đất nước, muốn truyền đạt cho thế hệ sau, lớp trẻ chúng tôi. Trong các buổi nói chuyện anh rất dân chủ và lắng nghe ý kiến mọi người. Có những ý kiến anh tranh luận lại, nhưng thái độ cởi mở, thân thiết, không áp đặt.

Có lần tôi làm việc với anh ở Đồ Sơn, khi công việc chính đã được ý kiến anh chỉ đạo, anh nói sang quan hệ giữa nước ta và Trung Quốc. Rồi anh nói văn hoá của ta cao hơn Trung Quốc, và phê phán Khổng Tử coi thường cả mẹ. Tôi hỏi anh Khổng Tử nói ở chỗ nào? Anh bảo Khổng Tử nói: “Phụ nhân nan hoá” (người phụ nữ khó cải hoá). Rồi anh nói văn hoá của ta là: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương”... “Bầu ơi thương lấy bí cùng”... Còn Khổng Tử nói: “Kỉ số bất dục, vật thi ư nhân”, còn ta thì “Mình vì mọi người, mọi người vì mình” là cao hơn văn hoá Trung Quốc. Rồi anh phê bình Mao Trạch Đông và Khổng Tử cùng là “một giuộc”.

Tôi suy nghĩ tìm câu nói để anh Ba hiểu rõ về triết học của Khổng Tử khác với Mao Trạch Đông. Khi anh Ba dừng phát biểu, tôi thưa với anh:

- Mao Trạch Đông phê bình Khổng Tử mạnh mẽ lắm!

Anh Ba đứng dậy hỏi tôi:

-Ở chỗ nào?

Tôi thưa với Anh là sau khi Lâm Bưu chết, Nhân dân Nhật báo Bắc Kinh có 7 bài liền: “Phê Lâm, phê Khổng”. Anh lại hỏi: “Nội dung thế nào, sao tôi không biết?” Tôi báo cáo tường tận câu chuyện này, trong 7 bài báo trên để anh Ba rõ: “Vấn đề là khi sinh thời, Lâm Bưu có treo hai chữ đại tự ở giữa nhà mình, hai chữ đó là “Khắc Kỉ”, ý Lâm Bưu muốn mượn lời Khổng Tử để phê phán Mao Trạch Đông. Trong sách Luận Ngữ chép, khi học trò giỏi nhất của Khổng Tử là thầy Nhan Hồi hỏi Khổng Tử, làm thế nào thì làm được điều “Nhân” (”Nhan tử vấn nhân, Khổng Tử viết: Khắc kỉ phục lễ vi nhân”), Khổng Tử trả lời là phải nghiêm khắc với mình, thực hiện đúng lễ (pháp luật), thì mới làm được điều “nhân”. Sau khi Lâm Bưu chết, Mao Trạch Đông phê bình Lâm Bưu và phê bình Khổng Tử. Vì Lâm đã lấy câu của Khổng Tử dạy Nhan tử để phê phán gián tiếp Mao Trạch Đông là người coi thường pháp luật, điều lệ, nghĩa là kẻ bất nhân. Nên Mao phê cả hai: Lâm và Khổng. Tôi nói xong, anh Ba hỏi tôi: “Đồng chí học đến gì?”. Tôi thưa với anh là tôi đã học kĩ Tứ thư, còn Lục kinh, tôi học Kinh thi và Kinh Xuân Thu (Kinh trị quốc của phong kiến Trung Quốc). Còn Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Thư, Kinh Nhạc, tôi chỉ đọc qua thôi. Anh nói ngay: Tôi chỉ đọc Luận ngữ, Mạnh Tử (hai bộ sách này thuộc về Tứ thư gồm: Luận ngữ, Mạnh Tử, Đại học, Trung dung). Anh vui vẻ nói: “Thôi nghỉ ăn cơm, sáng mai đồng chí ra nói tiếp về Khổng Tử...”.

Sáng hôm sau tôi ra Đồ Sơn tiếp câu chuyện còn lại về Khổng Tử. Trước khi bàn đến Khổng Tử, anh Ba lại nhắc tôi những điều suy nghĩ sâu sắc của anh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Anh trăn trở nhiều điều của các nước anh em, nhất là Liên Xô và lí luận về chuyên chính vô sản, làm chủ tập thể... Rồi anh dừng lại, bảo tôi nói tiếp về Khổng Tử. Tôi báo cáo tiếp với anh về nhận thức của tôi đối với Khổng Tử, Tôi nói: “Khổng Tử sinh ra cách đây 2.500 năm, trong một chế độ phong kiến tập quyền mạnh ở Trung Quốc, nên Khổng Tử cũng không thoát khỏi hệ tư tưởng đó. Hơn nữa Khống Tử đã viết ra Kinh Xuân Thu để cai quản đất nước theo Triết học “Quân quân, Thần thần, Phụ phụ, Tử tử”. Nhưng Khổng Tử là nhà triết học vĩ đại lấy nhân nghĩa làm đầu, từ bỏ mọi quyền cao chức trọng, đi dạy học để giáo hoá nhân dân theo triết lí của mình. Còn sách Luận ngữ gồm 10 tập (đại toàn). Khổng Tử chỉ nói hai câu là mất lập trường giai cấp, theo quan điểm của ta hiện nay. Anh Ba hỏi 2 câu đó là gì. Tôi báo cáo anh là: “Phụ nhân nan hoá” như anh đã phê bình là Khổng Tử coi khinh cả mẹ. Còn câu thứ hai là: “Dân khả sử vi chi, bất khả sử tri chi” nghĩa là người dân chỉ sai khiến họ làm, còn không sai khiến họ học được, ý nói chỉ có người quân tử mới dạy bảo cho biết được. Trong điều kiện cách đây 2.500 năm ta cũng nên thông cảm với Khổng Tử.

Trong lễ giáo phong kiến, người phụ nữ Trung Quốc phải bó chân, chỉ ở trong nhà thì đúng là “nan hoá” thật. Anh Ba nghe nhưng không nói gì. Tôi nói tiếp ngay điều kiện bị trói buộc của thuyết duy tâm, duy thần, thế mà khi học trò của Khổng Tử hỏi về thờ thần linh, lần thứ nhất ông trả lời: “Vị năng sự nhân, yên năng sự quỉ”. (Thờ người chưa xong, làm sao thờ được quỉ thần). Lần thứ hai ông trả lời: “Kính nhi viễn chi” (Kính nhưng nên xa quỉ thần). Đó là tư tưởng của Khổng Tử có tiến bộ. Anh Ba đồng ý với tôi. Tôi phân tích thêm triết học của Khổng Tử ảnh hưởng rất lớn đến Việt Nam, nhất là điều nhân nghĩa. Chính do triết học phương Đông nổi tiếng ấy nên Nguyễn Trãi lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, đã phá tan quân Minh, giúp Lê Lợi dựng nên nghiệp lớn. Còn cuộc chiến tranh Mỹ và Việt Nam, sau ta giải phóng miền Nam không có tắm máu như kẻ thù rêu rao, là ta kế thừa điều nhân nghĩa truyền thống của dân tộc, đã làm cho việc thống nhất đất nước, được nhanh chóng và ổn định. Tôi nói thêm: “Anh Ba được cả thế giới và trong nước ca ngợi là nhà chính trị, nhà quân sự và là nhà hiền triết, mới kế thừa sự nghiệp Bác Hồ giao cho thành công”.

Tôi thấy anh vui lên, không có phản ứng gì, vì tôi còn e rằng anh còn thành kiến với triết học của Khổng Tử. Nhân đó tôi nói luôn: “Khổng Tử nói: “Kỉ sở bất dục, vật thi ư nhân” (nếu ta không muốn, ắt người chẳng ưa, không bắt người khác làm điều mình không muốn). Đó là lời nói khuyên nhủ cho dân trí còn thấp. Khi dân trí cao mới có thể làm được “Mình vì nọi người, mọi người vì mình”. Anh Ba không nói gì thêm. Từ những buổi đàm đạo về Khổng Tử với anh Ba, tôi theo dõi thấy anh Ba không phê phán Khổng Tử nữa và cũng không nhắc đến văn hoá ta cao hơn Trung Quốc.

Năm 1979, khi khởi sự bàn bạc việc khoán sản phẩm trong nông nghiệp với anh Bùi Quang Tạo, Bí thư Thành uỷ, chúng tôi bàn nhau kì này làm phải có kết quả để giải quyết vấn đề lương thực cho toàn quốc. Cần phải khẩn trương và thận trọng, tránh thất bại. Chúng tôi bàn nhau phải thuyết phục được 3 đồng chí chủ chốt trong Bộ Chính trị mới có thể thành công. Trước hết là anh Ba, anh Trường Chinh, anh Phạm Văn Đồng. Anh Tạo nói với tôi: Khó nhất là anh Trường Chinh, vì anh Trường Chinh đã phê bình nghiêm khắc tỉnh Vĩnh Phúc, và cũng đã phê bình anh Tạo ở Quốc hội. Tôi nói với anh Tạo: tôi sẽ chịu trách nhiệm báo cáo với cả 3 anh. Anh Tạo bảo nếu được như thế thì tốt và bảo tôi: “Anh thân với anh Ba, anh nên nói với anh Ba trước”.

Mấy hôm sau, tôi lên Hà Nội, xin gặp anh Ba. Anh Ba rất vui vẻ tiếp tôi. Tôi trình bày với anh 3 giờ liền toàn cảnh kinh tế Hải Phòng và cả nước, đặc biệt là kinh tế nông nghiệp sa sút, nhân dân bị đói lúa chín không gặt, đi buôn bán, mò cua bắt ốc kiếm ăn. Cán bộ công nhân viên chức Hải Phòng là khu vực phi nông nghiệp, có tháng thiếu lương thực hàng tuần, nhân dân kêu ca, ta táan... Cung cách quản lí hợp tác xã thì rong công, phóng điểm, tham nhũng. Nông dân đặt ca dao, hò vè phê phán lãnh đạo hợp tác xã như: Mỗi người làm việc bằng hai, để cho chủ nhiệm mua đài mua xe; mỗi người làm việc bằng ba, để cho chủ nhiệm làm nhà xây sân; trâu xanh ăn cỏ, trâu đỏ ăn gà v.v... Nghe xong anh Ba đứng dậy nói: “Tôi đồng ý. Làm ngay, làm ngay, không phải hỏi ai nữa...”, rồi anh phân tích cho tôi nghe về quản lí kinh tế. Mình từ sản xuất nhỏ đi lên, phải biết cách làm cho hiệu quả. Cứ áp đặt cách làm của người ta vào nước mình thì khó thành công lắm! Giáo điều là rất nguy hiểm. Tôi mừng quá, xin phép anh ra về, anh còn dặn: “Về bàn với cấp uỷ làm ngay, tôi sẽ xuống xem...” Tôi về báo cáo với anh Tạo. Anh Tạo vẫn chưa vui, tỏ vẻ vẫn lo lắng. Anh nói chỗ anh Trường Chinh, nếu phản đối là khó đấy. Tôi nói: “Tôi hiểu... nhưng được anh Ba đồng ý, ta cứ đem ra Ban Thường vụ và Thành uỷ bàn. Tôi sẽ báo cáo anh Trường Chinh xem ra sao. Chắc anh Trường Chinh cũng thấy rõ tình hình nông nghiệp, sau 15 năm sự việc ở Vĩnh Phúc, tư duy của anh Trường Chinh chắc cũng có sự thay đổi...”.

Ý kiến anh Ba đã giúp chúng tôi thêm quyết tâm thay đổi cách quản lí trong nông nghiệp. Anh đã chỉ đạo Ban Bí thư, mặc dù còn nhiều trở ngại, nhưng tháng 1-1981 anh Lê Thanh Nghị, Thường trực Ban Bí thư đã kí chỉ thị số 100 về khoán sản phẩm trong nông nghiệp đến nhóm lao động và xã viên lao động (thực chất là khoán hộ), mở đầu kỉ nguyên mới trong quản lí kinh tế, không những trong sản xuất nông nghiệp mà cả trong các lĩnh vực khác, đánh dấu bước đột phá cho thời kì đổi mới của Hải Phòng và cả nước.

Sau vụ lúa khoán đầu tiên, tháng 10-1980, anh Ba xuống tận hợp tác xã ở Hải Phòng xem kết quả. Anh đến hợp tác xã Trường Thành, Trường Sơn, các cánh đồng của Thuỷ Nguyên, An Lão, Kiến Thuỵ... Anh rất vui, động viên mọi người làm ra thóc gạo đủ ăn, và còn để xuất khẩu nữa...

Mỗi lần anh về thăm Hải Phòng, tôi có dịp làm việc với anh, càng thấy anh lúc nào cũng suy nghĩ để tìm ra giải pháp phát triển kinh tế đất nước. Đặc biệt anh chú ý nghiên cứu lí luận. Trong 2 năm tôi học tập lí luận ở trường Nguyễn Ái Quốc (khoá năm 19691971), những ngày anh làm việc ở Hà Nội, chiều thứ bảy hàng tuần, anh thường xuống Trường gặp giáo viên, học sinh trao đổi thảo luận.

Anh nêu những ý kiến mới ra để mọi người tham gia ý kiến. Tôi đã quen với cách làm của anh, nên trong những buổi làm việc xong ở Hải Phòng, tôi thường đem những vấn đề lí luận ra hỏi anh. Có lần tôi hỏi anh: Sao lại đặt vấn đề “Làm chủ tập thể” mà không đặt vấn đề “dân chủ”? Anh phân tích cho tôi nghe hàng giờ. Anh nói: “Dân chủ tập thể” nó thay cho “chuyên chính vô sản”. Nay đất nước đã độc lập thống nhất, phải làm cho mọi người được làm chủ đất nước, làm chủ ở từng xã, từng phường, đơn vị sản xuất, đơn vị công tác v.v... Nếu cứ nêu khẩu hiệu “chuyên chính vô sản” thì khi mình cầm quyền, ta chuyên chính với giai cấp phi vô sản, gây ra xích mích dân tộc suốt thời kì nọ sang thời kì kia. Khi xưa giai cấp tư sản chuyên chính với vô sản, nay họ mất quyền lại tìm cách chống chúng ta, phục hồi lại chuyên chính tư sản, cứ thế mãi... Ta phải biết giai cấp công nhân lãnh đạo để giải phóng dân tộc, giải phóng cho mọi giai cấp, mọi tầng lớp, làm cho mọi người được làm chủ đất nước, làm chủ xã hội... Như vậy tầm cao, tầm nhìn của giai cấp công nhân hơn hẳn quá khứ. Nên không cần nêu “chuyên chính vô sản” làm gì. Vấn đề này có ý nghĩa đoàn kết trong nội bộ Đảng, trong toàn dân. Đưa vấn đề “làm chủ tập thể”, những đồng chí muốn duy trì khẩu hiệu “chuyên chính vô sản” cũng dễ chấp nhận, tạo ra sự nhất trí cao. Còn dân chủ cho mọi người sẽ thực hiện từng bước, nó thuận với mọi người, đã được làm chủ tập thể rồi thì dân chủ cho mọi người là điều tất yếu phải đến. Anh nói đi nói lại rất say sưa như một cuộc giảng bài được học trò chú ý lắng nghe. Tôi cũng thấy phấn khởi về cách lập luận và lí giải của anh. Tôi thấy trong tư duy của anh đã chứa đựng nội dung dân chủ rất sâu sắc và tế nhị.

Trong các buổi đưa anh đi thăm cơ sở, anh kể lại cho tôi nghe những cuộc vận động nhân dân làm cách mạng. Cùng ở, cùng làm, cùng sống với dân, tôi cảm thấy lúc nào anh cũng đang sống trong lòng dân. Như câu chuyện mua gia cầm, mua thịt lợn nghĩa vụ... Tem phiếu phát cho dân, nhưng không có hàng bán, con phe tem phiếu cấu kết với mậu dịch viên xấu tuồn hàng ra ngoài, tôi kể cho anh nghe, và đưa anh đi xem thực tế ở các cửa hàng. Xem xong anh bảo tôi phải tìm cách quản lí khác. Tôi đề nghị bỏ nghĩa vụ của nông dân phải bán gia cầm, thịt lợn cho nhà nước; bỏ tem phiếu... Anh đều nhất trí rất nhanh. Anh nêu những vấn đề phải giải quyết đời sống cho cán bộ công nhân viên chức, trước hết là nâng cao năng suất chất lượng, hạ giá thành với việc nâng lương, rất nhiều ý kiến phong phú.

Riêng vấn đề giá, anh có nhiều ý kiến khác tôi. Nhưng qua nhiều lần trao đổi, anh nhấn mạnh giá trị sử dụng của hàng hoá, còn tôi nhấn mạnh đến qui luật cung cầu, sản xuất ra hàng hoá phải tiêu thụ được, nghĩa là chất lượng và giá cả phù hợp với túi tiền của nhân dân. Cuối cùng anh chấp nhận. Vì giá trị sử dụng cũng nhằm phục vụ người tiêu dùng, nhưng chỉ một mặt thôi thì lấy gì để tái sản xuất mở rộng xã hội chủ nghĩa, nên phải chú ý cả cung lẫn cầu. Anh đồng ý. Như vậy anh đã chấp nhận kinh tế thị trường với quy luật cung cầu.

Anh rất quan tâm đến phát triển công nghiệp, đặc biệt là ngành luyện kim và cơ khí. Anh luôn luôn coi ngành cơ khí là then chốt, là xương sống của nền kinh tế. Nên trong tiểu luận Dưới lá cờ vẻ vang… anh đặc biệt nêu vai trò của ngành cơ khí. Tôi rất đồng tình với anh cách đặt vấn đề của một nước đang phát triển. Nhưng lấy tiền đâu ra để xây dựng ngành công nghiệp? Anh mới có hướng chung về tích lũy XHCN, còn biện pháp vẫn hạn hẹp. Tôi nêu nhiều ý kiến đề xuất với anh, nói chung anh nhất trí, duy chỉ có vấn đề xuất khẩu sắt thép phế liệu để tích lũy, là anh gạt đi ngay một cách kiên quyết, mặc dù lúc đó Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã cho Hải Phòng xuất chuyến đầu tiên 2 vạn tấn sắt thép phế liệu.

Tôi phải lấy thực tế để thuyết phục anh. Trong các chuyến thăm cảng, thăm các đống sắt thép phế liệu, ca nô, sa-lan giải bản, để dọc bờ sông Cấm, từ bến Bính đến Quán Toan, tôi đưa anh đi xem. Đống sa-lan hỏng chất như đống núi con bên vụng Quynh bờ sông Cấm. Tôi cho dừng xe, dùng một cây gậy nhỏ, đập vào thành sa-lan và đống sắt thép phế phẩm, chúng bị oxy hoá gẫy tả tơi, thủng từng lỗ lớn Anh Ba đứng nhìn và suy nghĩ. Lúc ấy tôi mới nói: “Thép phế liệu lò luyện kim trong nước dùng rất ít, cứ để sau 6 tháng là oxy hoá mất 50%, vì nó là loại phế phẩm để ngoài trời, lại bên dòng sông nước mặn”. Anh Ba hỏi tôi làm thế nào để bảo quản được, để dùng cho luyện kim lâu dài? Tôi báo cáo anh là không có kho nào chứa hết được... Tôi tiếp tục đưa anh đi xem một số nơi khác. Đến trưa nghỉ ăn cơm, anh hỏi tôi còn cách nào bảo quản được không? Tôi báo cáo anh chỉ còn cách xuất khẩu lấy đô la, hoặc mua vàng gửi vào ngân hàng lấy lãi là có hiệu quả hơn cả. Khi cần tái nhập ta có ngoại tệ mạnh, nhập sắt thép phế liệu cho luyện kim. Hải Phòng đã thành lập công ti phá dỡ tàu hỏng xuất khẩu, bằng cách mua tàu nước ngoài đem về sông Bạch Đằng phá lấy sắt thép, và các loại vật liệu còn tốt ở trên tàu để xuất khẩu, hoặc bán trong nước lãi rất khá. Anh bảo tôi đưa đi xem. Tôi đưa anh đến cảng Cửa Cấm, nơi công ti đang phá dỡ các loại tàu, sà-lan nhỏ giải bản, ra Đình Vũ xem công nhân đang phá dỡ một con tàu mua của Bun-ga-ri, trọng tải 6.000 tấn, công nhân phá dỡ đang vận chuyển từng tấm thép lớn vào bờ... Anh đồng ý ngay cách làm này. Từ đó cả nước cùng xuất sắt thép phế liệu. Đến khi tôi nghỉ Bộ trưởng Bộ kinh tế đối ngoại, toàn quốc đã xuất được hơn 2 triệu tấn sắt thép phế liệu, thu về hàng trăm triệu $US.

Trong các lần đi xem quai đê lấn biển ở đường 14 Đồ Sơn, đi xem đường xuyên đảo... anh hay hỏi tôi về nước Nhật.

Năm 1978, tôi sang thăm Nhật Bản, tôi đã gửi cho anh một bản báo cáo về đất nước Nhật, anh rất tâm đắc cách đánh giá của tôi. Anh luôn luôn nhắc tôi phải học tập kinh nghiệm của Nhật. Anh còn nói khi bình thưởng quan hệ với Mỹ, anh sẽ đi thăm Nhật Bản và Mỹ. Rồi anh kể luôn cho tôi nghe về cách đánh giá của anh về nước Mỹ. Anh kể: Một đồng chí lãnh đạo Bộ Ngoại giao đi Mỹ về báo cáo với anh: cái gì Mỹ cũng xấu, kinh tế, xã hội... đều kém. Anh hỏi lại đồng chí cán bộ Bộ Ngoại giao: “Mỹ yếu thế mà tại sao Liên Xô, Trung Quốc... đều nể Mỹ? Đồng chí báo cáo thế thì làm sao hợp tác được với Mỹ?” Rồi anh bảo đồng chí đó về chuẩn bị lại, mai báo cáo tiếp. Hôm sau đồng chí đó báo cáo phù hợp với nhận định đánh giá của anh Ba về Mỹ. Anh nói tiếp: cán bộ ta hay nói để chiều ý kiến lãnh đạo, vì ta thường phê phán cái gì Mỹ cũng xấu cả, anh em sợ mất lập trường phải nói theo. Còn đây là báo cáo với lãnh đạo để chuẩn bị làm ăn với Mỹ mà báo cáo thế thì nguy hiểm quá!

Sau đó anh nói sẽ có kế hoạch thăm Mỹ sau khi hai nước bình thường quan hệ. Anh muốn quan hệ với Mỹ lập lại càng sớm càng tốt. Chính ý nghĩ đó nên khi đồng chí Fidel Castro, Tổng Bí thư Đảng cộng sản Cuba, mấy lần mời anh sang thăm Cuba, anh chưa đi ngay. Anh đợi sau khi bình thường quan hệ với Mỹ, anh sẽ đi thăm Cuba và thăm Mỹ cùng một chuyến đi. Vừa có ý nghĩa tạo thế cho Cuba, yêu cầu Mỹ bỏ cấm vận với Cuba, vừa tạo ra thế và lực Việt Nam - Cuba hợp tác với Mỹ, thì thuận lợi hơn cho cả hai nước, thay vì việc đi thăm Cuba ngay bây giờ.

Trong những năm cuối đời, đầu thập niên 80, anh xuống Hải Phòng luôn, hoặc tôi lên Hà Nội, đến nhà riêng anh để báo cáo công việc của Hải Phòng. Anh bàn với tôi về nhiều mặt công việc của đất nước. Tôi hết sức suy nghĩ về tư duy của anh. Tư duy ấy rất rõ về xây dựng kinh tế. Tại sao Bộ Chính trị không có tiếng nói chung với anh? Do Bộ Chính trị không hiểu ý anh, trình độ “bất cập” hay do tính bảo thủ quá nặng, không dám chống anh, nhưng vẫn luôn luôn làm trái ý tưởng của anh? Qua một câu dặn dò của đồng chí Đậu Ngọc Xuân, trợ lí lâu năm của anh Ba nói với tôi: “Anh Ba nói gì với anh, chỉ nên ghi nhớ, nếu làm theo ý kiến anh Ba là trên này “bẻ ghi” ngay đấy”... Tôi hiểu ý anh Đậu Ngọc Xuân, nên tôi thực hiện ý anh Ba có sự lựa chọn và làm rất tích cực và nhanh, đến khi trên Trung ương có phản ứng thì đã thành hiện thực, có hiệu quả rồi, “bẻ ghi” cũng không kịp nữa.

Một hôm tôi đưa anh đi xem nhà máy đóng tàu Phà Rừng, do Phần Lan giúp ta xây dựng. Khi đến thăm nhà máy, đồng chí phiên dịch tiếng Anh chưa đến, đồng chí giám đốc nhà máy dịch cho anh Ba, nói chuyện với chuyên gia Phần Lan. Khi anh Ba nói đến khai thác nguồn nguyên liệu hải sản, đề nghị Phần Lan giúp đỡ đóng các loại tàu đánh cá ra biển xa, đồng chí giám đốc báo cáo với anh Ba: “Tôi không đủ từ tiếng Anh để dịch câu này, đề nghị anh Thành dịch giúp”. Tôi bị động phải dịch, tuy không hay, nhưng cũng suôn sẻ.

Khi về qua phà Bính, anh bảo cứ để nhân dân cùng đi chuyến phà dành riêng cho đoàn xe của anh. Anh rất vui, thăm hỏi mọi người dân trên phà thân mật, chan hoà. Mọi người cùng xúm lại chào và xem Tổng Bí thư, bày tỏ lòng quý mến kính trọng.

Trưa ăn cơm ở nhà số 2 Bến Bính, nhà khách thành phố, anh hỏi tôi học tiếng Anh từ lúc nào. Tôi báo cáo với anh, tôi học từ lúc 41 tuổi, tự học là chính. Anh bảo tôi anh chỉ đọc được tiếng Pháp, còn tiếng Anh chỉ biết mấy câu chào hỏi thôi. Rồi anh nói: “Bộ Capitaliste (tư bản) của Marx, tôi đọc bằng tiếng Pháp ở Côn Đảo đấy! Biết được tiếng nước ngoài là rất tốt, hiểu được người ta nói, dễ thông cảm và hợp tác mới tốt...”.

Anh biết tôi cũng tù ở Côn Đảo, anh hay kể chuyện đấu tranh trong nhà tù cho tôi nghe, kể chuyện âm mưu của kẻ thù đối với người cách mạng khi bị chúng bắt. Anh nói: Thời anh ở tù còn dễ chịu hơn thời chúng tôi, tra tấn ít hơn, đối xử cũng khá hơn, sách báo gửi đến Côn Đảo tự do, nhất là báo Pháp, kể cả báo của Đảng cộng sản Pháp chúng cũng không cấm. Viết thư thoải mái. Còn thời chúng tôi thư viết giấy rộng, giấy hẹp cũng chỉ được 15 dòng. Trước đó chúng chỉ phát một cái “các” do chúng in sẵn, mỗi tháng được gửi về nhà một lần, người tù chỉ gạch những chữ không thích hợp, thí dụ: “Sức khoẻ: có hoặc không”. người tù gạch đi chữ “có” hoặc “không” theo ý mình. Đi lại, khám xét, phải cởi hết quần áo. Thời các anh, đi lại Khám nọ sang Khám kia được tự do. Gửi tiếp tế thoải mái, còn chúng tôi, chúng chỉ cho gửi 3 loại: đường, sữa, kẹo bánh. Tiền không được nhận tiền mặt, mua gì chúng mua cho theo quy định: đường, sữa, bánh kẹo giá rất đắt, nên không ai gửi tiền. Tù nhân gửi thư về gia đình chỉ bảo mua sữa và đường đưa vào ăn chung tất cả. Thực hiện chủ nghĩa cộng sản”. Anh còn bảo: “Thời các đồng chí gian khổ hơn chúng tôi...”.

Anh thường phân tích năng lực, sở trường cán bộ chủ chốt cho tôi nghe, nhất là từng Uỷ viên Bộ Chính trị đương thời. Anh khiêm tốn nói: “Mình có bao giờ dám nghĩ thay Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái Quốc tài ba lỗi lạc như thế,... ai dám nghĩ tới... Nên mình phải cố gắng làm tròn nhiệm vụ để thực hiện sự nghiệp Bác để lại”. Mỗi khi kể đến Bác, thái độ, lời nói của anh bao giờ cũng rất tôn kính. Một vài lần anh nói: “Tài ba như Bác Hồ, nhưng giáo dục đảng viên quần chúng thi đua, chỉ động viên tinh thần. Như thế chưa đủ, nhất là nay đã hoà bình trở lại, cần chú ý đến khen thưởng vật chất thì phong trào mới bền...”.

Anh đặc biệt chú ý đến đoàn kết trong Đảng, tránh mọi phe nọ cánh kia, giữa các miền, địa phương trong nước. Anh rất nghiêm khắc với những thái độ kì thị nơi này, nơi khác... Anh kể cho tôi nghe câu chuyện sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, một đoàn cán bộ phụ nữ miền Nam ra thăm miền Bắc, đi thực tế ở cơ sở, đến một số nơi dân còn nghèo quá, nên tiếp đãi không được chu đáo Khi đoàn về Hà Nội, có mấy chị báo cáo với anh là miền Bắc keo kiệt quá! Đến nhà đồng bào, họ không dám mời một bữa cơm v.v... Anh đứng phắt dậy phê phán: “Các đồng chí phải đi xuống cơ sở học tập lại. Nói thế là phủ nhận công lao to lớn của bà con. Cái quý nhất là con người ta đẻ ra, người ta hi sinh gửi con cháu vào Nam đánh giặc... sao lại bảo người ta keo kiệt? Lúc này còn khó khăn về kinh tế, người ta có thế nào cho ăn thế! Các đồng chí phải đi lại thực tế đi, mất lập trường lắm...” Anh nói lại với tôi rất say sưa: “Đấy, chị em đơn giản thế!”

Đối với tôi, anh dặn dò nhiều điều quý giá. Tôi tâm niệm làm sao thực hiện được ý tưởng của anh để lại. Nhưng thật là khó. Khi chuyển đổi nền kinh tế ta đã làm chắp vá, thiếu một cơ sở lí luận vững chắc để tiến lên chủ nghĩa xã hội, sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện và hợp tác, hội nhập quốc tế để tạo ra nguồn vốn xây dựng chủ nghĩa xã hội... Về cuối đời anh Ba, cũng có nhiều ý kiến khác nhau đánh giá về tư duy kinh tế của anh. Cũng có người cho anh Ba chỉ giỏi chỉ đạo chiến tranh bảo vệ tổ quốc. Còn về làm kinh tế thì bảo thủ, nóng vội, không thực tế, muốn đốt cháy giai đoạn.

Tôi là lớp hậu sinh, kém anh 22 tuổi, lại được tiếp cận với anh nhiều, từ thập kỉ 70 cho đến ngày anh qua đời. Tôi không dám có những nhận xét gì lớn về anh. Chỉ qua sự làm việc, và được anh chỉ bảo tận tình, tôi tiếp thu được cái gì thì nói cái đó. Theo chủ quan của tôi, anh Ba, đồng chí Tổng Bí thư của Đảng là người không chỉ giỏi về chỉ đạo chiến tranh, đánh thắng đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước, xứng đáng với sự tin cậy của Bác Hồ và toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Về kinh tế, với sự hạn hẹp về thời gian nghiên cứu, học tập, tuổi lại cao, mà còn minh mẫn đến thế, tư duy kinh tế của anh vẫn liên tục đổi mới, tự mình làm phong phú cho kiến thức của mình, tiếp cận với hiện đại. Theo thiển nghĩ của tôi, nếu chúng ta có một đội ngũ cán bộ có lí luận và thực tiễn, bắt kịp những suy nghĩ và thực hiện tư tưởng chiến lược chỉ đạo kinh tế sau ngày thống nhất đất nước của anh, tạo cơ sở vật chất cho anh sáng tạo, thì đầu “ông 500 nến” sẽ toả sáng hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Do đó nước ta sẽ có bước tiến nhanh hơn, và trong một số anh chị em chúng ta sẽ được xoá bỏ những mặc cảm về anh trong giai đoạn cuối đời của anh tôi: “Đánh thắng giặc ngoại xâm rồi là phải làm kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, trả ơn đáp nghĩa”.

(còn tiếp)
Đoàn Duy Thành


“… anh thở phào nhẹ nhõm, như vừa trút được một gánh nặng. Tôi báo cáo anh, tôi cũng thấy buồn, tôi không nghĩ con người đó lại là con người như vậy, buồn cho mình, buồn cho Đảng ta …”
Chương 10
Một số đồng chí uỷ viên bộ chính trị,
uỷ viên Ban bí thư thời kì đó,
đối với Đảng bộ và nhân dân Hải Phòng
Đồng chí Trường Chinh

Anh Trường Chinh làm Tổng Bí thư Đảng ta hai thời kì từ 1942-1956 và thời kì từ 9-1986 đến 12-1986, nhiều năm làm Chủ tịch Quốc hội và Chủ tịch nước.

Tôi nghe tiếng anh và biết anh từ lâu, nhưng trực tiếp làm việc với anh nhiều là từ khi tôi làm Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng rồi Đại biểu Quốc hội khoá 7 và khoá 8. Trong những năm chuẩn bị thực hiện khoán sản phẩm trong nông nghiệp, tôi đặc biệt quan tâm theo dõi hành động, thái độ của anh đối với khoán trong nông nghiệp. Vì anh là người nổi tiếng bảo vệ mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ, và đã có 2 bài đăng trên báo Nhân Dân năm 1966, phê phán việc làm khoán hộ ở tỉnh Vĩnh Phúc, do Bí thư Tỉnh uỷ Kim Ngọc đề xướng.

Tôi lại biết anh rất thận trọng trong nói năng, viết lách, ứng xử... Anh đã được mọi người thân quen đặt cho cái tên thân mật để gọi là: “Anh Thận”. Sau này thống nhất đất nước, các đồng chí miền Nam còn gọi anh là: “Anh Năm Trường Chinh”.

Tôi kém anh hơn 20 tuổi, nhưng tôi vẫn gọi anh bằng “Anh”, vì anh không thích gọi là “bác” là “Chủ tịch”. Anh gọi tôi bằng “đồng chí”. Trong những chuyến thăm Hải Phòng hoặc anh xuống nghỉ tại Đồ Sơn, tôi có dịp tiếp xúc với anh nhiều. Anh hay kể chuyện về những ngày bắt đầu tham gia cách mạng, sự học hành khi còn thiếu thời. Anh nói rằng: “Trước khi tiếp cận với chủ nghĩa Marx - Lênin, với đường cách mạng của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, anh giác ngộ về tinh thần yêu nước qua thơ, văn của Cao Bá Quát. Bởi vậy tôi có ấn tượng anh là nhà “Uyên thâm túc nho”, nhất là cụ thân sinh ra anh đỗ Tú tài (Cụ Tú Đễ).

Tết âm lịch năm 1980, anh xuống ăn Tết ở Hải Phòng. Ngày mồng một Tết lại là ngày sinh nhật của anh.

Chín giờ sáng tôi cùng một số cán bộ lãnh đạo Thành phố ra Đồ Sơn chúc Tết và mừng ngày sinh nhật của anh. Chúng tôi có tặng anh một tấm thảm len nhỏ, thêu: “Thánh Gióng cưỡi ngựa”. Tôi viết lại một đôi câu đối của Cao Bá Quát ở đền thờ Thánh Gióng tại Gia Lâm, Hà Nội, nội dung:
Phá tặc đãn hiềm tam tuế vãn,
Đằng vân do hận cửu thiên đê

[Nghĩa là: “Ba tuổi đánh giặc còn cho là muộn.
Bay lên chín tầng mây còn giận là thấp!”]
Tôi viết bằng chữ Hán, khi đưa đến anh, anh bảo tôi đọc và dịch sang tiếng việt. Anh nói: “Hay thế nhỉ!”, rồi anh bảo đúng là khí phách Việt Nam. Tôi vừa giật mình, vừa bất ngờ. Anh nói ngay, lúc nhỏ tôi có học một ít chữ Hán, sau này học ít chữ phổ thông Trung Quốc, nên không đọc được chữ cổ. Rồi anh lại kể về thơ Cao Bá Quát, do một số bạn học của anh biết chữ Hán dịch cho nghe; hoặc những bài thơ nôm của Cao Bá Quát đã viết sang chữ quốc ngữ. Anh khen Cao Bá Quát là người có khí phách, quán thế...

Sau đó anh hỏi tôi về sức học Hán Tự, tôi báo cáo anh, tôi đã học xong Tứ Thư, còn Lục Kinh tôi đã học Kinh Thi, Kinh Xuân Thu. Còn Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Thư tôi chỉ đọc qua thôi. Kinh Dịch nhiều chỗ khó lắm! phải hỏi bố tôi và bác tôi giảng cho mới hiểu. Sau đó tôi nói: “Hà Nam Ninh là đất văn học, nhất là từ khi Nam Định có trường Thi Hương, thì Nam Định nổi lên là nơi có nhiều người học cao, có hai “Tam Nguyên”. Anh liền hỏi 2 Tam Nguyên là ai, tôi chỉ biết cụ Nguyễn Khuyến ở Bình Lục, Hà Nam... Tôi báo cáo với anh còn cụ Trần Bích San quê ở Nam Định, 34 tuổi đã đỗ Tam Nguyên, 36 tuổi vua Tự Đức sai đi sứ sang Pháp. Việc không thành, cụ đã thắt cổ tự tử. Trước khi mất cụ Trần Bích San đã viết một bài thơ tứ tuyệt tự thán rất hay.

Anh Trường Chinh liền nói: “Thế mà tôi không biết cụ Trần Bích San”. Tôi báo cáo với anh cụ Trần Bích San mất sớm nên ít người biết. Còn thơ văn của cụ để lại nhiều, ta nên sưu tầm... Nhà tôi trước đây có nhiều bài thơ, bài viết, nhất là bài “Đình Đối” của cụ rất nổi tiếng. Tiếc rằng khi giặc Pháp chiếm ga Lai Khê tháng 12-1946, chúng đốt hết làng tôi, nên sách vở của gia đình tôi bị cháy hết. Anh Trường Chinh tỏ ra rất tiếc, và bảo tôi có nhớ bài thơ “Tứ tuyệt” của cụ Tam nguyên Trần Bích San, thì đọc cho nghe.

Tôi đọc 4 câu thơ đó:
Giá mã kì khu khởi nhất hành,
Cảm tương tâm sự khấu sơn anh,
Tây lương kĩ lưỡng thử như thử
Nam quốc sơn hà linh bất linh?
Tôi dịch cho anh nghe. Anh hỏi tôi có dịch thành thơ được không? Tôi nói dịch được nhưng không hay, xin phép anh hôm sau tôi sẽ dịch và báo cáo với anh. Hôm sau tôi ra Đồ Sơn báo cáo với anh bản dịch sang tiếng Việt của tôi:
Người ngựa ra đi luống gập ghềnh,
Xin cùng Thần Núi dãi tâm tình,
Giặc Tây ngoan cố là như thế
Non nước Việt Nam liệu có thiêng?
Anh khen dịch thế là đắt nghĩa, hay lắm!

Tôi lại nói theo thiển ý của tôi bài thơ này của cụ Tam nguyên Trần Bích San có bóng dáng của bài thơ “ Nam Quốc Sơn Hà” của cụ Lí Thường Kiệt. Anh Trường Chinh đồng tình và nói thêm: “Nhất là câu Nam Quốc sơn hà linh bất linh?”.

Anh bảo tôi Hải Dương cũ là đất văn học. Tôi thưa với anh: “Hải Hưng có hai lưỡng quốc trạng nguyên là cụ Mạc Đĩnh Chi và cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm”. Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm quê ở Vĩnh Bảo, Huyện Vĩnh Bảo trước năm 1947 cũng thuộc Hải Hưng. Cho nên trước đây đã có câu so sánh về học lành của hai tỉnh miền Bắc là: “Xứ Đông Cổ Am” (quê Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm. Khi xưa xã Cổ Am và xã Lí Học là một xã), “Xứ Nam Hành Thiện” (Hành Thiện là quê đồng chí Trường Chinh). Đồng chí Trường Chinh rất tâm đắc câu ví von đó:

“Xứ Đông Cổ Am
Xứ Nam Hành Thiện”

Trong những năm tháng vận động cho được sự đồng tình của 3 anh chủ chốt trong Bộ Chính trị là anh Lê Duẩn, anh Trường Chinh, anh Phạm Văn Đồng thì anh Trường Chinh là một điểm chúng tôi phải thuyết phục, vận động cho bằng được anh đồng ý. Anh Trường Chinh đồng ý thì mới có thể làm rộng ra cả nước, mới giải quyết tận gốc thiếu lương thực và đói khổ.

Qua tiếp xúc tôi thấy anh rất dễ gần, không khó khăn như một số đồng chí nói. Tôi mời anh đi thăm nhiều hợp tác xã nông nghiệp ngoại thành, đi thăm các khu quai đê lấn biển, nhất là thăm đảo Đình Vũ và đường xuyên đảo. Đi tới đâu anh chị em ở đơn vị báo cáo, anh rất chú ý lắng nghe, và thường nhắc đi, nhắc lại hai từ: “Hay nhỉ!” với nụ cười rất tươi. Anh chỉ hỏi những điều chưa rõ. Không thấy anh tranh luận, hoặc nêu vấn đề cho anh em thảo luận. Nhưng tôi thấy anh suy nghĩ nhiều. Trưa về ăn cơm tôi cũng thấy anh suy nghĩ... Ngay cả trong câu chuyện lúc nghỉ, anh vẫn hỏi tôi chi tiết về cuộc sống của nông dân, của công nhân, của bộ đội, của cán bộ viên chức. Những lúc ấy tôi cung cấp cho anh những số liệu cụ thể, thiết thực về đời sống của nhân dân, của cán bộ, công nhân, viên chức, lực lượng võ trang đóng trên địa bàn thành phố... Có những thời kì anh xuống làm việc hàng tuần. Tôi và đồng chí Hà Nghiệp, trợ lí của anh, đưa anh đi xem hết nơi này nơi khác. Cuối cùng là sau 5 lần xin ý kiến về khoán sản phẩm trong nông nghiệp, anh đã đồng tình. Không những thế anh còn động viên tôi. Anh nói: “Đồng chí đã nắm được lí luận, nắm được thực tế, đồng chí cố gắng làm để thành hiện thực cho cả nước”. Anh không những chỉ quan tâm đến khoán trong nông nghiệp, anh quan tâm đến sản xuất công nghiệp, đến thương nghiệp...

Nhà anh có giàn phong lan ở cửa rất đẹp. Anh chọn những giò phong lan đẹp nhất tặng cho quán Phong Lan hai lần. Lần nào anh cũng bảo tôi đến nhà và trực tiếp chọn phong lan tặng cho Hải Phòng đồng thời gửi thư cho cán bộ mậu dịch viên ở quán Phong Lan. Khi đi thăm quán Phong Lan, anh xem từng gian hàng và nói chuyện với anh chị em mậu dịch viên rất thân mật. Đến nay nhiều đồng chí như Vân Nam... còn nhớ nhiều kỉ niệm của Chủ tịch Trường Chinh với quán Phong Lan. Tiếc rằng quán Phong Lan nay không còn nữa, qua biến thiên phá đi hợp doanh không thành, nay nó trở thành vườn hoa trung tâm thành phố.

Anh còn có những chuyến đi thăm đảo Cát Bà, Cát Hải, thăm lực lượng Hải quân, thăm bộ đội quân khu 3 làm kinh tế “làm giàu đánh thắng”, thăm lực lượng tên lửa thực tập bắn tên lửa ở Quần Mục. Biết bao kỉ niệm của đồng chí Trường Chinh với Hải Phòng thời kì “đổi mới”. Anh Hà Nghiệp nhiều lần nói với tôi: “Anh Thận thay đổi tư duy nhiều là từ ngày Hải Phòng đổi mới, nhất là khoán sản phẩm trong nông nghiệp...”.

Tôi tuy là bậc đàn em, nhưng anh rất lắng nghe và trao đổi thân tình, bảo ban từng li tùng tí, qua những câu chuyện có nội dung giáo dục. Tôi đã viết về anh ở chương 6 và chương 7, tôi không lặp lại ở chương này. Tôi thấy anh là một nhà chính trị lỗi lạc, người học trò xuất sắc của Bác Hồ, người bạn thân thiết của anh Ba. Hai anh rất quý nhau và tôn trọng nhau. Những năm cuối đời của hai anh, tôi rất gần hai anh. Từ việc nhỏ đến việc lớn, các anh đều tạo cho nhau một sự thống nhất cao.

Nếu còn gợn lên một chút là chờ đợi, trao đổi cho thống nhất. Cả hai anh đều nói với tôi là giữ sao cho đoàn kết thật sự, cùng nhau xây dựng đất nước mới thành công. Mỗi việc tôi xin ý kiến, các anh đều hỏi lại ý kiến của nhau cho thống nhất. Tôi nghĩ 2 cái đầu đó cộng lại nó sáng 1000 bougies. Khi anh làm cố vấn Ban Chấp hành Trung ương, cứ 3 tháng một lần anh bảo tôi lại chơi, nói chuyện tình hình kinh tế thế giới, trong nước, cho anh nghe. Anh rất quan tâm đến mọi việc của quốc gia. Anh đúng là cán bộ mẫu mực mọi mặt, đã góp phần to lớn vào sự nghiệp đổi mới đất nước.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng

Trong các chương trước tôi đã nói nhiều về anh Tô (tên gọi thân mật của Thủ tướng Phạm Văn Đồng). Chương này tôi chỉ nêu một vài chi tiết về sự quan tâm của anh Tô đối với Hải Phòng.

Trong những năm kinh tế khủng hoảng của thập kỉ 80, mỗi khi xuống thăm và làm việc ở Hải Phòng, anh có nhiều suy nghĩ, tìm cách gì để thoát ra khỏi sự khủng hoảng kinh tế. Trong các câu chuyện tôi thấy anh hiểu sâu sắc về những lí luận kinh tế kinh điển của Marx - Lênin và một số nhà kinh tế tư bản. Nhưng anh ít đề xuất những vấn đề mới, chỉ nghe nhiều, suy nghĩ nhiều. Khi thấy bức bách thì lời nói da diết, dằn vặt... Tôi hỏi ý kiến anh về khoán sản phẩm trong nông nghiệp thì anh vui hẳn lên, và hỏi tôi: “Ý kiến anh Ba và anh Trường Chinh thế nào?”. Tôi báo cáo: “Anh Ba đồng ý và tỏ thái độ quyết tâm cho làm, còn anh Trường Chinh chưa trả lời, nhưng thái độ bình thường, còn tiếp tục đi xem tình hình nông nghiệp của Hải Phòng và một số tỉnh”. Anh ngồi suy nghĩ một lát rồi đứng dậy nói: “Làm lấy mà ăn mà cũng còn khó...”. Rồi anh cười vui vẻ nói : “Các đồng chí cố thuyết phục anh Năm, để thống nhất sớm...”. Như vậy là anh Tô đã đồng ý về khoán sản phẩm nông nghiệp cho nông dân, tôi rất mừng.

Đầu năm 1980, tình hình kinh tế cả nước rất khó khăn. Hải Phòng lại càng khó khăn, vì phải lo nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp. Nhưng lo hơn cả là cái ăn cho người, thực sự phải chạy gạo từng bữa. Xe Chủ tịch thành phố vừa ra khỏi nhà được vài chục mét, hai mẹ con một người làm thủ công nghiệp (diện phi nông nghiệp) ở Thuỷ Nguyên, không được đong gạo đã lăn ra trước xe Chủ tịch thành phố. Mọi người dân tò mò kéo nhau chạy lại xem sự kiện gì mà lại lăn ra trước xe Chủ tịch. Tôi cho đỗ xe lại, hỏi người đó thì được biết hai tháng nay huyện không có gạo bán cho họ. Tôi bảo bà ta về văn phòng Uỷ ban giải quyết. Khì bà ta đến văn phòng Uỷ ban, tôi mới biết là huyện không những không có gạo bán, mà còn thu sổ gạo của gia đình bà ta. Bà ta nói: “Gạo chưa có bán thì chịu, chứ sổ gạo là cuộc sống của gia đình, mất sổ chỉ có chết đói. Còn sổ, thiếu gạo còn đi vay hàng xóm được. Mất sổ rồi không ai cho vay cả”. Tôi điện cho Huyện bảo trả lại sổ cho bà ta. Huyện báo cáo lại: “Bà ta không chịu lao động, lại đi buôn, phá rối thị trường”. Tôi bảo Huyện trả lại sổ gạo, còn bà ta đi buôn bán vặt để kiếm sống thì gọi đến giáo dục, không nên thu sổ gạo. Thu sổ gạo tựa hồ cắt cái dạ dày của người ta là không được. Sau đó tôi bảo bà ta về huyện nhận lại sổ gạo. Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa, một đồng chí ở Văn phòng Chính phủ điện xuống hỏi tôi việc này thực hư ra sao? Tôi trả lời: “Do thiếu lương thực gây ra cả, cứ có lương thực là xong hết”. Tôi nói vui: “Có thực mới vực được đạo mà. Tôi đề nghị đồng chí báo cáo Thủ tướng cho làm khoán sớm là xong hết”. Đồng chí đó nói lại : “Hôm Thủ tướng gặp anh, thế là Thủ tưóng đồng ý rồi”...

Tháng 7-1980 anh Tô xuống Hải Phòng làm việc và nghỉ ít ngày ở Đồ Sơn. Tôi đưa anh đi xem Cảng, xem các đống sắt thép phế thải đổ dọc bờ sông Cấm từ Thượng Lí đến Quán Toan. Tôi đề nghị anh Tô cho xuất. Anh xem kĩ và sờ tay vào một sa-lan giải bản. Tôi lấy tay đấm vào thành sa-lan, những miếng thép đã oxy hoá rơi lả tả. Tôi báo cáo anh Tô, nếu để lâu sẽ oxy hoá hết, chỉ là đống đất, không phải sắt thép phế thải nữa, thiệt hại rất lớn.

Anh Tô hỏi tôi: “Xuất thì bao nhiều tiền một tấn?”. Tôi báo cáo anh, từ 70 đến 100 USD/tấn, tuỳ theo chất lượng. Anh bảo : “Tôi về Hà Nội sẽ tìm cách đáp ứng yêu của của đồng chí”. Tôi rất mừng. Đúng một tuần sau, đồng chí Nguyễn Văn Ích, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ kí một công văn, thừa lệnh Thủ tướng cho phép Hải Phòng xuất khẩu 2 vạn tấn sắt thép phế thải. Lần đầu tiên nước ta xuất khẩu loại hàng này. Sau đó lại được anh Ba đồng ý.

Cả nước đã xuất hết các bãi sắt thép phế thải để rải rác khắp nơi, làm sạch những quãng đường, những khu công nghiệp, những nơi bốt địch đóng dọc đường số 1 và các sân bay, bến cảng. Hàng triệu tấn sắt thép phế thải đã được xuất khẩu. Nhà nước thu nhập thêm ngoại tệ mạnh và có việc làm cho một số lao động đi thu gom sắt thép phế thải các nơi về bán. Tuy vậy cái gì nó cũng có mặt trái của nó. Do không quản lí chặt chẽ, nên một số người tham lam đi ăn cắp, phá cả những thiết bị còn sử dụng được, lấy sắt thép để bán. Thậm chí lấy cắp cả xích, còng ở nhà tù Côn Đảo đem đi xuất khẩu. Sau ta đã ngăn chặn kịp thời.

Thủ tướng Phạm Hùng

Các chương trước tôi đã viết đôi nét về anh Phạm Hùng. Cuộc đời cách mạng đầy kì tích của anh như một huyền thoại mà tôi chỉ được nghe kể. Mãi đến ngày hoà bình lập lại ở miền Bắc, năm 1958, anh là Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Trưởng ban chỉ đạo “Ba xây, ba chống”, còn tôi làm Chủ nhiệm công ti thương nghiệp Hải Phòng, sau đó làm Giám đốc Sở Thương nghiệp, khi đó, tôi mới có dịp gặp anh. Anh thường trao đổi với tôi về kinh nghiệm chống tham ô, móc ngoặc, kinh nghiệm “Ba xây, ba chống” và những vấn đề về lập trường tư tưởng của người cộng sản. Ở anh là tinh thần nói thẳng, nói thật, nói đúng suy nghĩ của mình. Sau này, khi anh được điều vào làm Bí thư Trung ương cục miền Nam, tôi ít khi được gặp anh, nhưng những lần gặp nhau ít ỏi đó, anh thường kể cho tôi nghe về tình hình đấu tranh của cách mạng miền Nam, của Nam Bộ anh hùng.

Sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất, khi tôi là Chủ tịch thành phố, rồi Bí thư Thành uỷ Hải Phòng thì anh là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Cứ vài tháng anh lại xuống Hải Phòng một lần, có tháng xuống 2 lần. Tôi đưa anh đi xem các công trình lấn biển, mở đường tại Cát Bà, Cát Hải; xuống các làng xã, phố phường tìm hiểu đời sống nhân dân qua phong trào mở ngõ hẻm, xây dựng nhà vệ sinh... mà lúc đó Hải Phòng là địa phương dẫn đầu cả nước. Anh rất phấn khởi nói: “Thế này mới là cách mạng, mới là chủ nghĩa xã hội. Nếu chỉ nói mà không làm thì không bao giờ có cả”. Anh rất muốn từ thực tiễn của Hải Phòng xây dựng các mô hình phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng cơ sở vật chất, kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội.

Tôi cũng đưa anh đi kiểm tra tình hình sản xuất nông nghiệp tại Tiên Lãng, Vĩnh Bảo, Thuỷ Nguyên, có đợt đi hai ba ngày liền. Khi đến cống thuỷ nông Thượng Đồng, Trung Trang, anh nói: “Phải gọi là cụm thuỷ nông đầu mối, là tổ hợp tưới tiêu mới đúng tâm cỡ của nó, không thể chỉ gọi là cống”. Anh về thăm nông dân làm khoán, cầm bông lúa trĩu hạt, anh cười rất tươi và nói với tôi: “Chắc chắn miền Bắc sẽ lo được lúa gạo. Miền Nam sẽ không phải đưa gạo ra miền Bắc nữa mà dành cho xuất khẩu”. Điều anh nói nay đã thành sự thật. Con số 34 triệu tấn lương thực và hơn 4 triệu tấn gạo xuất khẩu hiện nay đạt được thì thời đó có lẽ chỉ là giấc mơ. Chỉ có anh là dự đoán được.

Năm 1987, tình hình kinh tế xã hội rất khó khăn do mất mùa và không nhập khẩu gạo kịp. Ở Thanh Hoá và Nghệ An đã có người chết đói. Lúc đó anh là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và tôi là Phó, trách nhiệm của anh rất nặng nề. Ngày mồng 4 Tết đầu năm 1988, tôi đến nhà riêng thăm anh. Anh nói mà không cầm được nước mắt: “Tình hình khó khăn quá, tôi phải ở lại Hà Nội để chạy gạo ăn tết”. Sau Tết anh vào Nam để chỉ đạo lo vấn đề lương thực cho dân. Không ngờ mấy hôm sau thì chúng tôi được tin anh mất. Có lẽ do tận tâm, tận lực, trăn trở tìm giải pháp đưa đất nước thoát khỏi thời điểm khó khăn này, công việc đã vắt cạn kiệt sức lực của anh. Anh đã trở về bên Bác Hồ, Các Mác, Lê-nin, nhưng anh đã để lại lòng tiếc thương vô hạn cho đồng bào, đồng chí.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Anh Văn tên gọi thân mật của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tuy là nhà quân sự số một của Việt Nam, rất bận công việc chuyên ngành, nhưng anh Văn rất quan tâm nghiên cứu về kinh tế. Anh hay tâm sự với tôi: “Đánh thắng giặc ngoại xâm rồi là phải làm kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, trả ơn đáp nghĩa đối với người đã hi sinh cho tổ quốc, có thực lực xây dựng và bảo vệ tổ quốc...”.

Trong thời kì Hải Phòng bắt đầu đổi mới, anh thường xuống Hải Phòng xem các công trường có lực lượng võ trang tham gia như quai đê lấn biển, xem đường xuyên đảo, con đường không những chỉ có ý nghĩa về kinh tế mà còn có ý nghĩa lớn về quốc phòng. Anh ra Cát Bà, đi Tiên Lãng, anh vừa thăm hỏi bộ đội làm kinh tế, vừa xem xét bố trí lực lượng bảo vệ bờ biển. Đến đâu anh cũng gặp gỡ các chiến sĩ đang lao động hoặc đang đứng gác, trò chuyện thân mật như cha con trong gia đình. Anh em rất phấn khởi được gặp vị tướng tài huyền thoại mà họ nghĩ không bao giờ được nhìn thấy, nay lại còn được bắt tay, trò chuyện. Nhiều anh em chiến sĩ kể với tôi, sau khi Đại tướng đã ra về: “Chúng cháu nghĩ đi bộ đội chỉ mong sao được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp, không ngờ hôm nay được gặp Đại tướng thật, cháu mừng quá! Tối nay cháu phải viết thư về gia đình báo tin mừng cho bố mẹ cháu ngay...”

Anh đi sâu nghiên cứu tình hình nông dân và sản xuất nông nghiệp. Có lần anh xuống cả Mỹ Đức huyện Kiến Thuỵ cả một ngày. Sáng đi xem nông dân sản xuất, anh xem bà con nhổ mạ, cấy lúa, làm đất. Anh hỏi các “lão nông tri điền” rất tỉ mỉ. Mọi người vui mừng được đón Đại tướng xuống tận ruộng để thăm. Không những thế mà còn gợi ý cho bà con nông dân nên trồng cây gì, nuôi con gì cho có hiệu quả. Anh kể chuyện một số nơi anh đã thăm có kinh nghiệm tốt, anh phổ biến lại cho bà con. Mọi người rất phấn khởi.

Buổi chiều anh làm việc với cán bộ lãnh đạo xã tại trụ sở. Đồng chí Sự, Bí thư Đảng uỷ báo cáo công việc của xã, đặc biệt là kết quả khoán sản phẩm trong nông nghiệp, về năng suất lúa, về cải thiện đời sống cho nhân dân. Nghe xong, anh quay sang hỏi tôi: “Ông nghe học trò báo cáo có được không?”. Tôi báo cáo với anh, đồng chí Bí thư Đảng uỷ báo cáo thế là chân thật, có thế nào báo cáo thế (Anh Văn hay gọi đùa tôi là “ông thầy kinh tế”). Đại tướng rất ủng hộ chủ trương “Làm giàu đánh thắng” của Đại tướng Nguyễn Quyết, Tư lệnh liên Khu 3 (lúc đó Đại tướng Nguyễn Quyết mới là Trung tướng). Cho nên mỗi lần về thăm Hải Phòng anh lại sang thăm quân khu, hoặc ngược lại đến thăm quân khu 3, thế nào anh cũng ghé qua Hải Phòng thăm Thành uỷ, UBND Thành phố. Có lần vội về, anh ghé thăm tôi tại nhà riêng mấy phút rồi về Hà Nội.

Tôi nghĩ ít có vị tướng nào tuổi cao mà luôn luôn đáp ứng mong mỏi của quần chúng, nhất là đối với lực lượng võ trang. Đó là điều đáng quý “Để lại non sông một chữ tình” là thế! Đối với tôi, anh Văn hơn tôi 19 tuổi, tôi vốn là hậu sinh, đàn em của anh, nhưng mỗi khi gặp tôi anh đều bảo tôi nói về tình hình kinh tế trong nước và quốc tế cho nghe. Sau đó, anh có những nhận xét sắc sảo về tình hình kinh tế trong nước, cách làm ăn của ta có những ưu, khuyết điểm gì. Mỗi khi có những vấn đề kinh tế anh cần nói chuyện với tôi, anh thường gọi điện cho tôi và hẹn đến thăm. Nhưng bao giờ tôi cũng chủ động đến báo cáo với anh. Có lần anh đến thăm nhà tôi ở số 4 Nguyễn Khắc Cần, có cả chị Hà, phu nhân của anh cùng đi.

Anh chị ngồi chơi nói chuyện với vợ chồng tôi một lúc. Rồi anh bảo tôi lên gác xem nhà ông Thành có đẹp không. Tôi mời anh lên gác xem, anh bảo chị Hà ở lại ngồi chơi với nhà tôi, anh đi ra ngoài ban công nói nhỏ với tôi: “Manoeuvre politique” bấy giờ tôi mới hiểu. Có thế thôi mà anh phải thận trọng, phải lên gác và ra ngoài ban công, mà chỉ nói nhỏ thôi. Nay tôi xin phép anh, tôi nói to cho mọi người biết. Khi tôi đến chơi nhà, chị Hà hay nói với tôi: “Anh Văn thật thà lắm! Có gì anh bảo anh Văn giúp”. Tôi thưa với chị: “Tôi là học trò đến học anh, còn chị là giáo sư sử học, chị biết câu tục ngữ của tổ tiên ta để lại “Thật thà là cha quỉ quái”, chị không nên phiền lòng. Thật thà của anh sẽ để lại “Hồng phúc” cho các cháu”.

Những chương trước tôi đã nói về anh, có những tâm tư u uẩn trong cuộc đời hoạt động của mình vì có những người vu khống lí lịch anh...

Tôi rất buồn khi viết đến đây. Đáng lẽ Đảng ta phải biết bảo vệ những cái tốt đẹp của từng cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cao cấp. Phải coi đó là những báu vật quý hiếm, phải gìn giữ, dồn góp lại thành những viên hồng ngọc để con cháu đời đời noi theo. Còn mỗi người chúng ta phải giữ cho mình trong sạch, lại được tổ chức bảo tồn, thì những tấm gương đó sẽ tái tạo lại ở các thế hệ kế tiếp. Trong sáng, đẹp đẽ như Bác Hồ, đã là tấm gương cho chúng ta noi theo. Tại sao ta không biết làm như vậy, mà lại làm ngược lại. Thật là tiếc lắm thay!

Phó Chủ tịch Nhà nước Lê Thanh Nghị

Đồng chí Lê Thanh Nghị là một nhà cách mạng lớn của Đảng và Nhà nước ta, nguyên là Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Phó Thủ tướng Chính phủ, người kí Chỉ thị số 100/BBT tháng 1-1981 cho mở rộng khoán sản phẩm nông nghiệp trong cả nước.

Anh vốn xuất thân là một công nhân điện, tham gia cách mạng từ những năm 1930, anh hoạt đồng nhiều ở Hải Dương và Hải Phòng, nhất là thời kì tiền khởi nghĩa, anh phụ trách miền Duyên Hải, chỉ đạo khởi nghĩa Hải Phòng, làm Bí thư khu 3 thời bắt đầu kháng chiến, sau về làm Phó Bí thư Liên khu 3, Bí thư Liên khu 3. Anh lấy chị Thanh, người Hải Phòng, nên có mối quan hệ cách mạng và tình cảm gia đình với Hải Phòng rất thắm thiết. Trong những chương khác tôi đã viết về anh Lê Thanh Nghị, chương này tôi chỉ nêu một số điều về việc anh quan tâm đến phong trào của nhân dân Hải Phòng, đặc biệt của công nhân những năm 60, khi có phong trào “sóng Duyên Hải, gió Đại Phong”. Anh phụ trách công nghiệp, thường xuyên xuống Hải Phòng để chỉ đạo và đúc rút kinh nghiệm về thi đua yêu nước, dấy lên từ “Sóng Duyên Hải” làm điểm để phổ biến cho các thành phố và khu công nghiệp khác.

Những năm 70, 80 nhất là sau ngay giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, anh phụ trách kinh tế, công việc bận rộn, nhưng anh vẫn giành cho Hải Phòng sự quan tâm, nhất là khi khó khăn về lương thực cho công nhân. Anh ít nói, điềm tĩnh, suy nghĩ kĩ. Với địch thì rất kiên cường, không nhượng bộ một bước, nhưng với đồng chí, đồng bào, anh không to tiếng với ai bao giờ. Đồng chí Phạm Hùng kể lại cho tôi nghe về anh Lê Thanh Nghị khi cùng tù với anh Phạm Hùng ở nhà tù Côn Đảo. Anh Hùng kể: “Trong những buổi xếp hàng đi làm coóc-vê, hoặc vào phòng ngủ, anh Nghị bao giờ cũng đi trước hoặc đi cùng để đón đòn cho anh em. Địch đánh đập xua đuổi mọi người, anh cứ ung dung thư thái, đĩnh đạc, không bao giờ chạy. Địch càng đánh, anh càng đi thong thả, không nhìn ngang, nhìn ngửa, làm cho địch phải gờm. Các đồng chí khác cũng noi gương anh đi đứng đàng hoàng làm địch phải nể, bớt dùng roi vọt với anh em.”

Khi chuẩn bị làm khoán trong nông nghiệp, Thành uỷ Hải Phòng báo cáo Ban Bí thư, anh Nghị là Thường trực Ban Bí thư, anh chú ý lắng nghe, và đi xem tình hình sản xuất nông nghiệp. Tôi đưa anh đi xem nhiều nơi ở ngoại thành. Khi chuẩn bị ra Chỉ thị 100, Văn phòng Trung ương đã chuẩn bị đưa sang anh kí, anh còn gọi tôi lên nhà riêng để xem đi xem lại từng chữ. Lúc đầu dự thảo nói thẳng là khoán đến hộ gia đình, nhưng chữ “Khoán hộ” lúc đó rất kiêng kị coi như phạm “huý”. Anh bảo tôi tìm chữ gì thích hợp. Tôi bàn với anh Bùi Quang Tạo, anh Hữu Thọ, trao đi đổi lại, mới tìm được cụm từ có thể được nhiều người đồng tình là: “Khoán đến nhóm lao động và lao động xã viên” đưa lên anh Nghị xem. Anh nhất trí. Sau đó anh Nghị kí Chỉ thị 100/BBT tháng 1-1981.

“Vạn sự khởi đầu nan”, từ Nghị quyết của Ban Thường vụ Thành uỷ Hải Phòng ngày 27-6-1980 về khoán trong nông nghiệp, đến Chỉ thị 100/BBT cách nhau hơn 7 tháng mà biết bao khó khăn vướng mắc, chúng tôi suy nghĩ đắn đo bao tháng ròng và các anh ủng hộ khoán ở Trung ương cũng trăn trở suy nghĩ biết bao ngày đêm để giải quyết. Đói thì đói, nhưng chỉ sợ mất lập trường, mất chủ nghĩa xã hội, mà chủ nghĩa xã hội thì có ai đã hình dung ra được cụ thể như thế nào? Chỉ biết là phải làm cho mọi người sung sướng, hoặc như Marx nói về thời kì cuối của xã hội xã hội chủ nghĩa là: hàng hoá phải nhiều như nước trong nguồn chảy ra, mới tiến lên cộng sản được. Thế mà một nước nông nghiệp lại thiếu lương thực, đành chịu chết đói, chỉ vì sợ mất chủ nghĩa xã hội, phá vỡ hợp tác xã. Anh Nghị tâm sự với tôi: “Đánh giặc chết người, tù đày hi sinh gian khổ, chết chóc, thì thống nhất quan điểm lại dễ. Nay làm ra gạo ăn, không phải đi xin viện trợ, đi xin viện trợ là tôi phụ trách, tôi thấy khó khăn, mình đi lắm cũng ngượng, thế mà khó quá nhỉ?”.

Sau khi Chị thị 100 của Ban Bí thư ra được 6 tháng, anh Nghị gọi tôi lên hỏi tình hình thực hiện Chỉ thị 100. Tôi báo cáo là anh yên tâm, trúng rồi đó, quần chúng phấn khởi, lúa tốt lắm! Anh hỏi lại tôi: Sao họ nói quá thể, nhất là Ban Nông nghiệp Trung ương báo cáo, nhiều nơi phá bỏ bờ vùng bờ thửa đã qui hoạch... Họ kêu lắm!”. Tôi báo cáo anh: “Một số anh em chưa thông với Chỉ thị 100 của Ban Bí thư, nên hay tập hợp những mặt tiêu cực, đối khi còn nói vống lên... Anh yên tâm là tôi báo cáo đúng, không một chiều...”. Lúc đó anh Nghị mới yên tâm. Chị Thanh, phu nhân anh Nghị nói chen vào: “Mấy hôm nay anh lo lắm! Vì anh là người kí Chỉ thị 100, nếu sai họ sẽ đổ cho anh hết, hôm nay chú nói chắc vậy anh mới yên tâm”. Tôi xin phép về. Anh Nghị dặn có gì khó khăn phải cho biết ngay. Sau 3 tháng lên nói cho anh nghe kết quả.

Đúng như anh Tô nói: “Làm mà ăn cũng khó khăn thế đấy!”. Đến năm 1989, tôi làm Bộ Trưởng Kinh tế đối ngoại, kí chuyến xuất khẩu gạo đầu tiên, tôi đến báo cáo anh Nghị. Anh ngẫm nghĩ và rưng rưng nước mắt. Chị Nghị bảo “Bây giờ Ba phải vui chứ! Có gạo ăn rồi, lại có gạo xuất khẩu không phải đi xin nữa, sao Ba lại khóc...” (Chị Nghị thường gọi anh Nghị bằng Ba). Cuối năm 1990, gạo xuất được nhiều hơn, gần 2 triệu tấn, thì anh Lê Thanh Nghị của chúng ta qua đời. Một con người suốt cuộc đời lo cho dân, cho nước. Địch tra tấn, đánh đập, không một tiếng kêu, bình tĩnh, thản nhiên. Khi dân có gạo ăn lại khóc, khóc vì sung sướng, khóc vì 2 triệu người chết đói năm 1945 do nước mất nhà tan!

Chủ tịch nước Võ Chí Công

Những năm cuối thập kỉ 70 đầu thập kỉ 80, anh Võ Chí Công là Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng phụ trách Nông nghiệp và Thuỷ sản. Anh thường xuống Hải Phòng làm việc và tôi mới có dịp làm việc với anh Năm Công (tên gọi thân mật của đồng chí Võ Chí Công), con người nổi tiếng trong cuộc kháng chiến chống chiến tranh xâm lược miền Nam nước ta. Tại Liên khu 3, Khu 6 miền Trung anh hoạt động với chức danh công khai là Đại diện Đảng Nhân dân Cách mạng trong Mặt trận Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, với dáng vóc một nhà nông, khoẻ mạnh, dễ thương. Tôi gặp anh lần đầu đã thấy mến anh. Với giọng nói miền Trung, ngắn gọn, thẳng thắn, không dài dòng, đi ngay vào công việc.

Thời gian đó, Hải Phòng đang chuẩn bị khoán trong nông nghiệp. Với cương vị Uỷ biên Bộ Chính trị, anh ủng hộ ý kiến đề xuất của Hải Phòng rất tích cực. Anh nói rất đơn giản: “Để nông dân người ta cày cấy cho có gạo ăn và nộp thuế cho Nhà nước. Mỗi người có mấy sào bắc bộ có đáng là bao mà sợ họ trở thành địa chủ”. Tôi đưa anh đi xem sản xuất nông nghiệp hồi đó. Anh bảo: “Cứ để làm ăn như thế này thì đói triền miên... tôi sẽ về giúp Thành phố thuyết phục các ngành Trung ương ủng hộ Hải Phòng về khoán trong nông nghiệp”.

Khi Hải Phòng ra NQ số 24 của Ban Thường vụ Thành uỷ, anh Võ Chí Công rất hoan nghênh và ra sức tuyên truyền cho khoán của Hải Phòng. Khi có Chị thị 100 của Ban Bí thư, có cuộc họp sơ kết khoán sản phẩm nông nghiệp ở Hải Phòng và phổ biến Chỉ thị 100 của Ban Bí thư, về việc mở rộng khoán ra toàn quốc, được tổ chức tại Hải Phòng trong 2 ngày. Ngày hôm sau tổng kết hội nghị, đáng lẽ anh Tố Hữu Uỷ viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư sẽ xuống Hải Phòng tổng kết, nhưng vì bận nên anh Võ Chí Công thay mặt Bộ Chính trị và Ban Bí thư tổng kết hội nghị. Trong hội nghị này có một số đại biểu chưa thông với Chỉ thị 100 của Ban Bí thư, có ý kiến không tán thành. Nhưng khi tổng kết, anh Võ Chí Công nói: “Khoán là đúng rồi, các đồng chí đừng sợ. Nếu khoán làm cho trời sụp đổ, tôi sẽ chịu trách nhiệm.”. Ở những bước ngoặt lịch sử trong chiến tranh cũng như trong hoà bình xây dựng kinh tế, phải có những đồng chí dám quyết đoán như vậy mới đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng vượt qua được khó khăn, đặc biệt những lúc gay cấn, khắc nghiệt, nếu do dự kéo dài chỉ khổ cho nhân dân, gây tổn thất cho cách mạng.

Anh Lê Đức Thọ, anh Tố Hữu

Hai anh như hai ngôi sao đổi ngôi cho nhau. Anh Lê Đức Thọ nhà chính trị xuất sắc, nhà ngoại giao nổi tiếng ở Hội nghị Paris lại quan tâm làm thơ. Còn anh Tố Hữu nhà thơ cách mạng vĩ đại lại sang làm kinh tế. Hai anh có duyên nợ với nhau, tôi là người đứng giữa cũng được “thơm” lây và cũng bị “vạ” lây.

Về hai anh trong các chương trước tôi đã viết. Chương này chỉ kể vài chuyện về hai anh đối với Hải Phòng và cá nhân tôi.

Hai anh đều rất quý mến Đảng bộ và nhân dân Hải Phòng, nhất là thời kì đổi mới của Hải Phòng, hai anh đều quan tâm, có những lời khen động viên phong trào và cá nhân tôi rất chân thành.

Anh Tố Hữu lại có cả bài thơ “Mừng Hải Phòng” tôi đã nhắc ở chương trước. Ở đây tôi chỉ nói bài thơ có 12 câu này, đã có người phản ảnh sai sự thật và anh Lê Đức Thọ đã phê phán tôi tại Hội nghị các Trưởng ban Tuyên huấn toàn quốc, trước thềm của Đại hội Đảng lần thứ 6 (1986).

Năm 2000, tôi gặp anh Tố Hữu cùng đi họp ở Quốc hội. Anh Tố Hữu nhắc tới bài thơ “Mừng Hải Phòng”. Tôi báo cáo anh Tố Hữu: “Được anh khen mà tôi xuýt chết đấy!” Tôi kể cho anh nghe, anh bảo tôi: “Thế cơ à, mình không biết”. Anh Tố Hữu không những chỉ khen bằng thơ mà lúc đó anh là Phó Thủ tướng Thường trực, đi đâu, có gì hay, hoặc có điều gì không rõ, anh đều đến Hải Phòng phổ biến kinh nghiệm tốt, bàn bạc những vấn đề chưa sáng tỏ. Anh đi kiểm tra Hải Phòng từ nội thành đến ngoại thành, xem công trường quai đê lấn biển Đồ Sơn...

Tết âm lịch 1982, ngày 30, anh từ Quảng Ninh về, tôi mời anh ở lại ăn bữa cơm “tất niên” rồi sẽ về Hà Nội. Ăn cơm xong, trước khi ra về anh đọc cho tôi nghe bài thơ anh mới sáng tác ở Quảng Ninh “... Đêm 30 riêng một ngọn đèn; Dở, hay khôn, dại những chê khen...”. Anh bảo tôi góp ý kiến. Tôi không dám góp, vì ngôn từ và ý của anh đã chuẩn lắm rồi, tôi cho rằng bài thơ in ra sẽ có nhiều người khen về tâm tư thực của nhà kinh tế quốc gia, song chắc sẽ có người chê. Đúng như vậy, khi bài thơ in ra có nhiều ý kiến khen chê, có cả ý kiến xuyên tạc. Sau Tết anh gặp tôi, nhắc đến bài thơ đó. Anh bảo: “Đời là thế đấy, Thành ạ! “.

Anh Lê Đức Thọ sau khi nhận được bài thơ trọn vẹn 12 câu của anh Tố Hữu “Mừng Hải Phòng”, anh không nói gì, tỏ vẻ nghĩ ngợi. Mãi đến năm 1990 trước khi qua đời khoảng 30 ngày, anh Lê Đức Thọ bảo tôi đến chơi. Anh bảo các đồng chí bác sĩ, bảo vệ ra ngoài. Anh nói chuyện với tôi khoảng 40 phút, tôi vừa nghe vừa bóp tay cho anh, vì anh đang bị đau tay và vai bên phải do bệnh ung thư hành hạ. Anh rất tỉnh táo nói với tôi nhiều chuyện tâm phúc, mang tính dặn dò đàn em trước khi từ biệt cõi đời. Cuối cùng anh nói: “Ngay bài thơ của anh Tố Hữu mừng Hải Phòng, họ cũng phản ảnh sai sự thật... Thôi nhé cậu về”. Tôi bắt tay anh, đứng dậy chào anh ra về. Vài hôm sau anh vào bệnh viện 108 và qua đời. Trước khi anh mất 3 ngày, tôi còn vào bệnh viện thăm anh, anh chỉ gật đầu mà không nói được.

Tôi và anh Lê Đức Thọ có duyên gặp nhau khi đến thăm anh Lê Duẩn, tháng 5-1986. Khi tôi ở Hải Phòng đến thăm anh Lê Duẩn đang ốm ở nhà biệt thự số 10 Hồ Tây, thì gặp anh Lê Đức Thọ vừa ra khỏi cổng. Năm 1988 lần giỗ thứ hai ngày mất của anh Ba, tôi đến thắp hương cho anh, lại gặp anh Lê Đức Thọ ở giữa sân. Anh vừa vào thắp hương cho anh Ba xong. Tôi chào anh, hỏi thăm sức khoẻ anh, rồi tôi vào thắp hương cho anh Ba. Giáo sư, tiến sĩ Hồ Ngọc Đại, con rể anh Ba ra đón tôi. Hồ Ngọc Đại nói: “Anh Lê Đức Thọ vừa khen anh”. Tôi hỏi: “Khen thế nào?” Đồng chí Hồ Ngọc Đại nói: “Anh Thọ khen ba tôi chọn anh là chính xác”. Tôi suy ngẫm lại, sau Đại hội 6, anh Thọ quả có quan tâm đến tôi thật.

Các anh Nguyễn Duy Trinh, Trần Quốc Hoàn, Văn Tiến Dũng, Chu Huy Mân, Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Đức Tâm, Đồng Sĩ Nguyên, Hoàng Tùng, Vũ Oanh, Nguyễn Quyết, Lê Quang Đạo... cũng rất quan tâm đến cuộc đổi mới của Hải Phòng.

Anh Nguyễn Duy Trinh 30 Tết năm 1981 còn xuống Hải Phòng, bàn biện pháp tìm ra vốn để phát triển sản xuất, khai hoang lấn biển.

Anh Trần Quốc Hoàn, mồng 2 Tết năm 1982 xuống thăm và chúc Tết nhân dân Hải Phòng, xem khoán sản phẩm trong nông nghiệp kết quả ra sao. Anh bảo tôi: “Thiếu lương thực thì phải khoán thôi, sau này có đủ lương thực rồi phải nghĩ cách nào vừa có lương thực, vừa giữ được hợp tác xã”. Tôi báo cáo với anh: “có thực mới vực được đạo” có đủ lương thực ăn, nhân dân no ấm, được học hành sẽ nghĩ được nhiều cách làm tốt hơn, phát triển được sản xuất, lúc đó nông dân sẽ tự nguyện cùng hợp tác làm ăn, lúc đó hợp tác xã mới có thực chất và vững mạnh. Anh bảo tôi: “Thế thì tốt quá!” Tôi biết anh vẫn còn phân vân với khoán sản phẩm trong nông nghiệp.

Anh Văn Tiến Dũng, anh Chu Huy Mân, hai vị Đại tướng tuy rất bận công việc quân sự, nhưng hai anh hàng năm vẫn xuống Hải Phòng thăm đất cảng làm ăn. Có lần họp Trung ương, anh Văn Tiến Dũng bảo tôi sang sân bay Bạch Mai đi trực thăng với anh về Hải Phòng quan sát hệ thống phòng thủ bờ biển và khai hoang lấn biển của lực lượng vũ trang ở Vinh Quang, Tiên Lãng... Sau đó anh về quân khu 3, hôm sau đi thăm Cát Bà, Cát Hải, thăm một số hợp tác xã nông nghiệp ngoại thành. Anh rất vui về một thành phố công nghiệp đã tự túc được lương thực.

Anh Chu Huy Mân đi thuyền, lội bãi lầy ra thăm bộ đội đào kênh Cái Tráp, cắt ngang huyện Cát Hải, từ Lạch Huyện sang sông Bạch Đằng, rút ngắn hơn 20 km đường thuỷ từ Hồng Gai về Hải Phòng không phải qua sông Chanh, sông Ruột Lợn của Quảng Ninh và Thuỷ Nguyên, rất thuận lợi cho vận tải biển. Hải quân xuất kích ra biển cũng rút ngắn được khá nhiều thời gian. Anh Chu Huy Mân khen những suy nghĩ của lãnh đạo địa phương đã kết hợp kinh tế với quốc phòng rất chặt chẽ, một công đôi việc, tiết kiệm được xăng dầu, thời gian, sau này cảng Hải Phòng mở rộng ra biển thì lại càng có hiệu quả lớn.

Anh Nguyễn Thanh Bình là người luôn luôn suy nghĩ tìm cách cải tiến quản lí kinh tế và luôn luôn ủng hộ cái mới. Anh nhìn nhận vấn đề đổi mới rất nhanh. Anh lúc nào cũng bảo vệ những cán bộ dám nghĩ dám làm, dám khuyến khích động viên họ. Anh thẳng thắn phê bình tư tưởng bảo thủ, chế độ ban ơn, xin, cho, của một số cán bộ lãnh đạo lúc đó. Đối với Hải Phòng đổi mới, coi như anh ủng hộ tuyệt đối. Anh luôn luôn động viên giúp đỡ Hải Phòng đi lên, nhất là khi chuẩn bị làm khoán, có nhiều lực cản ghê gớm. Anh phê phán rất quyết liệt những hành động cản trở nhân tố mới ra đời.

Anh Nguyễn Đức Tâm, nhà tổ chức thận trọng và khiêm tốn. Anh nghiên cứu về cán bộ, hoặc đi thăm những nơi sản xuất, đến các công trình của Hải Phòng. Anh suy nghĩ cách làm, gợi ý nhỏ nhẹ cho địa phương suy nghĩ từng việc cụ thể, để thực hiện cho tốt. Anh làm tổ chức nên rất quan tâm đến quá trình hoạt động của cán bộ. Anh lo cho những cán bộ chủ chốt có được một lí lịch chân thực trong sạch, không còn hiện tượng man khai lí lịch, lừa dối tổ chức để lên chức lên quyền. Đối với cá nhân tôi, tôi biết anh theo dõi và nghiên cứu tiểu sử cá nhân tôi rất kĩ. Nên khi một số người xấu vu khống lí lịch tôi, anh thường đặt đi đặt lại câu hỏi rất nhiều lần với tôi: “Anh phải xem kĩ, đằng sau vấn đề này là vấn đề gì? Chẳng nhẽ hơn một chục cán bộ chủ chốt của Hải Phòng không có thù ghét gì với anh, họ chẳng có một chút chứng cứ gì trong tay, mà dám kí tên tập thể tố cáo anh, tại sao? Cần suy nghĩ tìm ra cho được nguyên nhân”. Tôi phải khất lại để suy nghĩ và tìm hiểu, không thể suy diễn bừa được. Đến ngày 2-8-2003 tôi đã tìm ra nguyên nhân để trả lời câu hỏi khó khăn phức tạp đó.

Tháng 1-2004, tôi gặp anh. Tôi tưởng bây giờ anh đã nghỉ, chắc anh cũng quên việc của tôi. Không ngờ sau những câu chuyện thông thường. Anh lại nghiêm nghị hỏi: “Cái việc anh Tô Duy, anh đã tìm ra cái gì ở đằng sau đó chưa?” Hôm đó tôi báo cáo với anh, tôi đã tìm ra rồi. Đó là anh Đỗ Mười, nguyên Tổng Bí thư của Đảng ta chỉ đạo anh Tô Duy vu khống tôi hơn 20 năm qua. Anh Tâm bảo tôi: “Có thế chứ, vô lí những con người đó tự nhiên lại kí và tố cáo dai dẳng. Khi tổ chức đã kết luận và đã chúng minh đầy đủ họ sai, nhưng họ vẫn làm, vậy phải có nguyên nhân sâu xa. Tôi làm tổ chức tôi hiểu điều đó rất rõ”. Rồi anh thở phào nhẹ nhõm, như vừa trút được một gánh nặng. Tôi báo cáo anh, tôi cũng thấy buồn, tôi không nghĩ con người đó lại là con người như vậy, buồn cho mình, buồn cho Đảng ta.

Anh Đồng Sĩ Nguyên, một nhà hành động thực tiễn. Anh luôn xông pha vào những nơi khó khăn gian khổ, từ tư lệnh Đoàn 559, bí hiệu của Binh đoàn Trường Sơn, phụ trách hàng nghìn km trong rừng sâu. Anh thường giới thiệu với tôi về động Phong Nha - Kẻ Bàng, và bảo tôi giới thiệu với bên ngoài và kêu gọi đầu tư. Tôi đã giới thiệu với khách nước ngoài về “Động” nổi tiếng của Việt Nam.

Tháng 6-2004 trong dịp vào dự Festival Huế, tôi đã đi thăm những nơi anh giới thiệu, như động Phong Nha - Kẻ Bàng, Nghĩa trang Trường Sơn, Mười cô gái ngã ba Đồng Lộc và đường Hồ Chí Minh đang xây dựng. Tôi đã đi hơn 200 km đường Hồ Chí Minh từ Quảng Trị - Quảng Bình - Hà Tĩnh, tôi lại suy ngẫm về con người anh Đồng Sĩ Nguyên, tuy tuổi già, vẫn nhận làm phái viên Chính phủ, chỉ đạo và làm cố vấn cho các công trình. Khi còn là Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng, Bộ Trưởng Bộ Giao thông anh thường về Hải Phòng làm việc với tôi. Anh em ý hợp tâm đầu, công việc bàn xong là quyết, là làm, không bàn đi bàn lại vòng vo mất thì giờ. Khi giải quyết công việc của Cảng, mở rộng đường 5, đường xuyên đảo Đình Vũ, đào kênh Cái Tráp... bàn đến đâu chúng tôi nhất trí với nhau rất nhanh và bắt tay vào việc.

Tôi biết anh khi anh là Phó Tổng Tham mưu trưởng, từ những năm 1964-1965, anh về bàn với Hải Phòng chuẩn bị mọi điều kiện chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc. Từ đó cho đến sau này lên Trung ương làm việc với anh trong Thường Vụ Hội đồng Bộ trưởng, tôi thấy lúc nào anh cũng năng nổ, bàn hết việc này đến việc khác, suy nghĩ cách làm cho có hiệu quả. Có đồng chí nói anh Đồng Sĩ Nguyên thuộc phái bảo thủ. Nhưng anh làm việc với tôi, cho đến hôm nay, tôi vẫn thấy anh là người hành động, ít bàn lí sự dông dài. Còn tôi ở Hải Phòng là một trong những địa phương đổi mới sớm nhất, những vấn đề như khoán trong nông nghiệp, bỏ tem phiếu, xoá bỏ chế độ bán gia cầm, lợn cho nông dân... tôi trao đổi với anh, anh rất đồng tình. Anh còn nói nông dân khổ lắm. Kháng chiến, hầu hết là nông dân ra trận. Vợ con ở nhà làm ruộng đóng góp lúa gạo cho chiến trường, hai sương một nắng khổ lắm! Nay bớt cho bà con thứ nào hay thứ đó. Nhưng anh có suy nghĩ kĩ, anh hỏi lại tôi: “Thế ông Thành đã nghĩ lấy gì cho bộ đội ăn chưa?”. Tôi đã phân tích về cách giải quyết cái ăn, cái mặc cho lực lượng võ trang và cán bộ công nhân viên. Anh nghe xong nói ngay: “Thế thì tôi giơ cả hai tay ủng hộ ông”. Rồi “khịt, khịt” vài ba cái, anh nói: “Ông nghĩ hay đấy, làm đi”. Tôi chưa thấy một lời nói, một việc làm “bảo thủ” của anh với tôi cả. Đến nay con người hành động Đồng Sĩ Nguyên vẫn đi bộ dọc Trường Sơn, để chỉ đạo một con đường dài hơn 2500 km, xuyên Việt. Tất nhiên đã có đường nhựa bóng lộn, chẳng nhẽ lại không đi ô tô. Tôi đã đi trên 200 km nhựa bê tông bóng loáng, một còn đường dài nhất xuyên qua Trường Sơn Đông-Trường Sơn Tây mang tên Bác. Tôi đi trên đoạn đường hơn 200 km, chỉ mong gặp anh Đồng Sĩ Nguyên để nói một câu: “Anh đã để lại dấu chân anh trên dọc con đường này trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Nay dấu chân anh để lại trên con đường nhựa dài suốt từ Việc Bắc đến đồng bằng Nam Bộ, đến Năm Căn, Cà Mau”. Xây dựng con đường này đã kết hợp kinh tế với quốc phòng, nhất là du lịch, rất hay. Tôi mới “cưỡi ngựa xem hoa” nhưng thấy những nhánh đường rẽ vào nghĩa trang Trường Sơn, vào Phong Nha - Kẻ Bàng rồi ra ngã ba Đồng Lộc, nói rõ nét ý tưởng của nhà hoạch định ra con đường huyền thoại này. Đi một đoạn đường ngắn mà thấy mình trẻ lại. Chỉ có điều là đường còn hẹp, nhiều đoạn không bắc cầu qua suối, đường phải uốn theo sườn núi ngoằn ngoèo, khúc khuỷu, làm cho tốc độ xe bị giảm nhiều.

Các anh Hoàng Tùng, Vũ Oanh, Nguyễn Quyết, Lê Quang Đạo. Khi ấy các anh là Uỷ viên Ban Bí thư, các anh là những người đầu tiên ủng hộ khoán trong nông nghiệp. Anh Hoàng Tùng lúc đó là Trưởng Ban tuyên huấn, anh luôn đưa những nhà báo ủng hộ khoán như: Hữu Thọ, Lê Điền, Thái Duy... theo sát tình hình Hải Phòng và có những bài báo đấu tranh nảy lửa trên báo chí để ủng hộ khoán. Anh Hoàng Tùng mỗi khi về Hải Phòng, thường bàn với anh Bùi Quang Tạo và tôi những cách xử sự của Trung ương, để làm cơ sở mở rộng khoán ra cả nước. Anh tha thiết với phong trào Hải Phòng về cả lí trí và tình cảm. Con người đã 2 lần làm Bí thư Thành uỷ Hải Phòng, mặc dù mỗi lần vài ba tháng trong những năm đầu cách mạng tháng 8 mới thành công. Đến nay anh Hoàng Tùng còn để lại nhiều kỉ niệm với Đảng bộ và nhân dân Hải Phòng.

Anh Vũ Oanh, tôi đã nói ở chương trước, anh say mê với đổi mới của Hải Phòng, nhất là nông nghiệp. Khi anh làm Trưởng Ban Nông nghiệp Trung ương, anh thường xuyên xuống Hải Phòng rút kinh nghiệm và góp nhiều ý kiến cho địa phương. Một tầm nhìn xa và tiên đoán sớm của anh là: “Khoán sản phẩm trong nông nghiệp là chìa khoá vàng.”. Nay nó không phải là chìa khoá nữa mà là “kho vàng”. Anh Nguyễn Quyết, khi anh là Tư lệnh, Chính uỷ quân khu 3, anh đã cùng Đảng uỷ quân khu đề ra phong trào “Làm giàu đánh thắng”, đã góp sức toàn quân cùng các địa phương khai hoang lấn biển, mở rộng địa bàn, bảo vệ miền duyên hải. Anh rất quan tâm giúp đỡ địa phương, bất cứ lúc nào Hải Phòng yêu cầu cái gì là Quân khu ủng hộ ngay, từ lực lượng lao động, đến phương tiện vận tải mà quân khu có. Anh đã đóng góp cho Hải Phòng trong những công trình lớn như đắp đê đường 14 Đồ Sơn, đường xuyên đảo, đào kênh Cái Tráp. Anh là nhà quân sự kì cựu, một vị Đại tướng, nhưng nhìn về kinh tế anh cũng có cái nhìn sắc sảo. Phải có kinh tế mạnh mới có quốc phòng mạnh. Khi làm Tư lệnh Quân khu, trong điều kiện kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, anh đã huy động quân đội làm kinh tế để bổ sung bữa cơm, cho chiến sĩ có lương thực, thực phẩm khá hơn, doanh trại xây dựng khang trang hơn, từng bước góp phần cải thiện đời sống cho lực lượng vũ trang, không chỉ trong quân khu mà cả nước.

Anh Lê Quang Đạo, anh theo sát tình hình khoán Hải Phòng chặt chẽ để ủng hộ, nhưng có nhiều lo lắng. Trong các cuộc họp Quốc hội, hễ anh gặp tôi là hỏi kết quả khoán ra sao? Trên Trung ương lắm ý kiến khác nhau lắm, anh thường thông tin cho tôi biết những ý kiến trái chiều để đề phòng. Anh hỏi thăm ý kiến các đồng chí chủ chốt trong Bộ Chính trị ra sao, nhất là ý kiến anh Trường Chinh. Anh lo ngại ở cái “post” đó. Hình như trước đây đã có thời kì anh làm Thư kí cho anh Trường Chinh thì phải (?). Tôi thấy anh biết rất chi tiết về tính tình và phong cách làm việc của anh Trường Chinh. Anh khuyên tôi phải lay chuyển được cái “post” quan trọng đó thì khoán mới thành công trong cả nước. Nếu không chỉ “khoán chui” thì kinh tế khó khăn vẫn y nguyên. Anh Lê Quang Đạo là con người cẩn thận, anh mỗi lần nói anh lại nhắc tôi: “Tôi chỉ thông tin cho anh biết thôi nhé, để chọn lựa cách làm việc cho kết quả”. Tôi hiểu ý anh.

Ngoài các anh tôi đã nhớ được, tôi nêu ở chương này, còn biết bao nhiêu đồng chí Uỷ viên Trung ương khác, như: đồng chí Hồ Nghinh, đồng chí Vũ Quang, đồng chí Trương Kiện... đã hết lòng ủng hộ Hải Phòng, để Hải Phòng bứt ra khỏi cơ chế kế hoạch hoá, tập trung bao cấp. Tôi rất biết ơn các anh vì sự nghiệp chung của đất nước. Có anh còn lo cho cả cá nhân tôi. Nếu khoán trong nông nghiệp không thành thì sao? Đó là những tấm lòng vì đất nước, vì tình đồng chí, thân thương, cùng nhau phấn đấu cho một Việt Nam giàu có, bảo đảm cho hôm nay và mãi mãi mai sau phải là: dân giàu, nước mạnh, ấm no, hạnh phúc.

(còn tiếp)
Đoàn Duy Thành


“… Sự tha hoá trong bộ máy công quyền mà các báo cáo của Chính phủ, của Quốc hội, của Đảng, kêu ca thảm thiết, nhưng nó vẫn cứ tồn tại ngày một nghiêm trọng …”
Chương 11
Kết luận
Ý thứ nhất: Người ta ở đời từ khi biết nghĩ cho tới tuổi trưởng thành, ai ai cũng mong sao được học hành đến nơi đến chốn, thành đạt, có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Chẳng ai muốn mình khổ cả. Tuy nhiên đời là biển khổ, khó ai tránh khỏi một lần rơi vào cái biển mênh mông đó. Nhưng được như vậy cũng lấy làm hạnh phúc lắm rồi.

Còn tôi, tôi thấy suốt đời mình là khổ, cho đến tận những năm tháng cuối bây giờ, tuy nhiều người cứ nói tôi có hậu vận tốt. Với tôi, xấu tốt cũng không mấy ý nghĩa, tôi chỉ mong làm được nhiều việc cho nước, cho dân, góp phần biến cái biền khổ đó thành ra biển sướng. Được vậy hạnh phúc biết bao!

Rất tiếc ước mơ đó từ tuổi vị thành niên của tôi đã không thực hiện được đến nơi đến chốn. Tôi tham gia cách mạng khi mới bước vào đời, được các đồng chí đi trước tuyên truyền dìu dắt, nhất là ông Đoàn Hữu Lộng, chú họ tôi, một người kiểu mẫu xứng đáng. Dù ông không tham gia cách mạng được hết cuộc đời, nhưng ông đã sống, đã giữ trọn đạo đức, phẩm tiết cho tới tận tuổi 89, rồi qua đời. Ông luôn là tấm gương lớn cho tôi noi theo: Không giả dối, không bon chen, chỉ mong góp phần xây dựng đất nước, sao cho nước giầu để mình sẽ cùng ở trong cái bể giầu đó mới thật thoả nguyện. Cứ ước mơ và ước mơ, hành động và hành động, cho tới tận cuối đời vẫn thế.

Gần hết cuộc đời với 58 năm đi làm cách mạng, tôi gặp rất nhiều người tốt, kẻ xấu, nhưng lúc nào tôi cũng lạc quan cho rằng số kẻ xấu kia sẽ ngày một hết dần, không thể cứ tồn tại mãi. Có thể sự lạc quan đó do được cách mạng giáo dục, đào tạo, nhất là chúng ta có tấm gương nhân ái của Bác Hồ vĩ đại để noi theo. Bởi vậy tôi có đức tin vào người đi trước, có sự tin tưởng vô tư vào lớp trẻ đi sau.

Gặp bất cứ trường hợp nào người ta không tốt, đối xấu với mình, tôi đều nghĩ đó là thiểu số, không đáng kể. Miễn sao số đông biết vì lợi ích của Tổ quốc dám hi sinh thân mình, hi sinh quyền lợi cá nhân để dành tất cả cho dân tộc. Không thể vì lẽ gì cả một dân tộc hi sinh hàng triệu con người để đổi lấy độc lập tự do hạnh phúc, mà có người lại xấu, lại ích kỉ hại nhân, hoặc bon chen, giành quyền lợi cho riêng mình hưởng thụ.

Ngày hôm nay ngồi viết những trang hồi kí cuối đời này, tôi cũng chỉ muốn thêm một chút nữa góp phần xây dựng Đảng, xây dựng đất nước phồn vinh, khắc phục những gì đang cản trở đất nước đi lên. Tôi lường trước những trang viết không chỉ mang lại lợi ích chung như tôi mong muốn mà biết đâu nó cũng có thể mang lại nguy hiểm cho tính mạng cá nhân người viết. Nhưng tôi xác định viết ra cho toàn Đảng, toàn dân khắc phục được khuyết điểm để tồn tại và phát triển, thì sự hi sinh nào cũng đáng giá. Nhất định phải có một biển sướng, không phải biển khổ! Nếu mình vẫn tồn tại được bơi vài giây phút trong đó cũng toại nguyện lắm rồi. Còn nếu mình không được hưởng thì sau này con cháu, họ hàng, bạn bè, chiến hữu cùng toàn dân tộc được bơi trong một biển sướng, như thế dù sống hay chết cũng là làm trọn nhiệm vụ với dân với nước!

Biết bao suy nghĩ dằn vặt trước khi tôi đặt bút viết tập hồi kí này sao cho “vừa đủ”, nghĩa là không dài quá, không ngắn quá, không nói thừa. Tôi chỉ nói lên một sự thật hiển nhiên trong cuộc đời tôi, cuộc đời ấy hơn một nửa thế kỉ chịu bao cam go mới có tư liệu thật, tư liệu sống để viết lại. Cuốn hồi kí trước hết tôi dành cho con cháu, đồng chí thân thiết, sau nữa dành cho những ai quan tâm đến thời cuộc, hoặc quan tâm đến tác giả, đọc để rút ra một chút gì có ích cho mình, hoặc đọc giải trí cho khuây khoả tuổi già, hoặc khích lệ lòng ham muốn cho tuổi trẻ. Được như vậy cũng là cách làm giàu và phong phú tư duy cho mọi người chứ sao? Đó cũng là một phần “biển sướng tinh thần” vô cùng quan trọng đối với những ai quan tâm đến sự nghiệp xây dựng cơ sở, vật chất cho chủ nghĩa xã hội chứ sao?

Ý thứ hai: Rút ra từ những trang hồi kí, người ta có thể thấy: Muốn thế giới tồn tại và phát triển lành mạnh được, đòi hỏi phải có những cái đầu trí tuệ mới có thể khắc phục biết bao nhiêu khó khăn, ví như:

- Về thiên nhiên: Trời đất xoay vần, nóng lạnh, bão tố, lũ lụt, mưa gió thất thường, không theo quy luật nhất định và con người không thể lúc nào cũng dự đoán, nắm bắt chính xác được. Điều đó không chỉ do thiên nhiên, mà còn do ý thức thiển cận, thiếu học vấn của con người cộng với lòng tham không đáng có, tất cả đã tác động vào thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường, làm thủng tầng ôzôn, gây ra nóng lạnh thất thường, băng giá, tuyết tan... khó lòng khống chế được.

- Về con người: Con người ta bản chất bao giờ cũng có hai phần: Phần Con và phần Người. Nếu không học tập rèn luyện, không có trí tuệ thì hành động cũng giống như súc vật. Thế cho nên để con người khác súc vật, mới gọi người là Con người, chứ không gọi con người là súc vật cao cấp. Đã là súc vật thì cao cấp mấy cũng không có phần Người như con người vốn có. Từ ngàn xưa con người đã biết muốn được sống hạnh phúc cho mình thì phải biết tạo cho người khác, cho đồng loại cùng sung sướng, gọi là tính nhân quần. Bởi thế các bậc chí tôn, hiền giả mới nghĩ ra bao nhiêu học thuyết, đạo lí, tìm mọi cách giáo dục, thuyết phục mọi người phải sống theo tính nhân quần ấy. Nhưng tiếc thay chỉ một số rất ít, và rất ít người đi theo, làm theo lời các bậc cứu thế đó. Còn lại số đông, nhất là những người có quyền, có thế, lại vận dụng những học thuyết cao cả để che giấu sai lầm của mình, lừa dối người khác, vụ lợi cá nhân.

Loài người qua kinh nghiệm đấu tranh, quảng đại quần chúng cũng ngày một khôn lên, biết tận dụng thế mạnh của mình, thế yếu của kẻ cầm quyền, rút kinh nghiệm sống còn: Không có cây gậy giữ thân thì không thể tồn tại được. Và những người cầm quyền cũng rút ra rằng dù mạnh mấy mà không có một cơ chế quản lí vững thì cũng dẫn đến: “Nhất đại vi quan, vạn đại vi dân”. Lúc đó sẽ như câu ca dao: Con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa. Bao giờ trời nổi can qua, con vua thất thế lại ra quét chùa.

Bởi vậy kẻ cai trị và người dân bị trị gặp nhau ở một điểm là phải tìm ra một khuôn khổ để cùng nhau tồn tại, ai cũng được bình đẳng, sung sướng. Cái khuôn khổ đó đã được các vĩ nhân qua nhiều thời đại cố gắng tìm ra, nhưng nó có mặt hay, có mặt dở, không cái nào trọn vẹn. Tất nhiên theo quy luật tiếp thu truyền thống những phát kiến sau thường có mặt tiến bộ, hợp lí hơn trước. Cho tới khi học thuyết của Marx ra đời, nó mang tính nhân văn cao hơn hẳn, có sức thuyết phục hơn hẳn.

Nhưng dù sao đó mới chỉ là học thuyết, chưa có thực tế kiểm nghiệm. Rồi Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 Lênin đã đem học thuyết vĩ đại đó áp dụng vào một đất nước rộng 1/6 địa cầu, là người có công rất lớn. Ông vận dụng sáng tạo học thuyết của Marx vào nước Nga, đem lại một số kinh nghiệm cho loài người. Việc Stalin lãnh đạo nước Nga làm nên chiến thắng kì diệu chống phát xít Đức là nhờ tinh thần quật cường của dân tộc Nga, kết hợp với tính quyết liệt, bất chấp nguy nan và thiên tài quân sự của người lãnh đạo tối cao làm nên. Hơn ai hết dân tộc Nga hiểu rằng phải đánh thắng phát xít Đức mới mong thực hiện được ý tưởng của Marx - Lênin. Đó là động lực tinh thần quan trọng, là quyết tâm biến ước mơ thành hành động của nhân dân Liên Xô. Khi thế chiến thứ hai kết thúc, vòng nguyệt quế với bao lời tung hô chiến thắng, đã tạo nên một đám mây đen che phủ trong đầu những người lãnh đạo đất nước rộng nhất thế giới này. Sự vinh quang làm cho họ mê mụ, hay phần lớn những cái đầu hạn hẹp kiến thức đã trút hết trí lực vào cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại rồi, nay số kiến thức dành cho việc xây dựng và phát triển đất nước đã không nhiều lại bị đám mây đen nói trên che phủ, nên suy tư cho kinh tế của các vị đã không đáp ứng được với thời cuộc.

Những vị lãnh đạo đó không còn đủ trí tuệ tìm ra con đường dẫn dắt dân tộc từng bước tiến lên xã hội chủ nghĩa, dân giàu nước mạnh, lại thêm lòng ham hố vinh quang, quyền lực, tạo ra sự “kiêu ngạo cộng sản”, nước lớn nước bé, dân tộc đa số, dân tộc thiểu số, khiến ngày càng đi xa với thực tế cuộc sống của dân. Đã vậy cuộc sống hoà bình sau bao năm hi sinh gian khổ sinh ra sự ham muốn hưởng thụ ở họ không có bờ bến. Việc làm cho tương lai, cho dân tộc đã bị coi nhẹ hoặc quên lãng, nhưng sự hưởng thụ vật chất cho cá nhân mình lại được đề cao, được quan tâm quá mức. Họ quên rằng với cuộc Cách mạng tháng 10, với cuộc chiến tranh vệ quốc có những mặt chưa được thấu tình đạt lí, còn bao việc phải làm, còn tồn dư sự thù hận trong nội bộ dân tộc. Trong khi đó những lực lượng đối kháng lại là những người thực tế, biết thân biết phận, xoay vào củng cố và phát triển lực lượng hùng mạnh, tìm những cái hay của chủ nghĩa Marx - Lênin để rút kinh nghiệm, vận dụng, đồng thời tìm những khe hở của Liên Xô và các nước Đông Âu tranh thủ phân hoá bằng mọi cách rất tinh vi. Đến khi chín mùi, họ làm cho nó tự đổ vỡ từ bên trong, không ai cứu vãn nổi. Bài học đó không bao giờ nên quên.

Đáng lưu ý là phe đối kháng không ngừng mở rộng dân chủ, đào tạo tuyển dụng người có tài, có đức để quản lí đất nước một cách tài tình. Còn Liên Xô và các nước Đông Âu thì trì trệ về lĩnh vực này. Đến mức ở Berlin, mấy hôm trước đồng chí Hônếchcơ, Tổng Bí thư Đảng Xã hội Dân chủ Đức, Chủ tịch Đông Đức, đón đồng chí Nguyễn Văn Linh sang dự quốc khánh, một ngày lễ có hàng triệu người tham dự, tung hô lời chào mừng nồng nhiệt nước Cộng hoà Dân chủ Đông Đức. Vậy mà sau một tuần đồng chí Nguyễn Văn Linh về nước, bức tường Berlin bị phá đổ, đồng chí Hônếchcơ bị bắt, bị đưa ra xử.

Còn ở Liên Xô thì 36 triệu Đảng viên Cộng sản đứng ngoài cuộc để Gooc-ba-chốp thao túng, muốn làm gì thì làm, cho đến khi đổ sụp cả thành trì cách mạng thế giới. Cho nên có thể nói sự nghiệp đất nước vững mạnh tiến lên, hay thụt lùi sụp đổ, một phần là trách nhiệm người đứng đầu nhà nước quyết định. Lên nhanh, đổ nhanh; xuống chậm, đổ từ từ cũng là do người đứng đầu. Nếu không chọn người đúng đầu có tài, có đức, quản lí đất nước có phương pháp khoa học, sáng tạo với một cơ chế chặt chẽ, thì chẳng khác gì dùng “đóm đi soi ếch”, phó mặc cho vận may rủi, thịnh suy, rồi tin vào quy luật “có thịnh, có suy” sẽ rất nguy hiểm. Nhiều nước người ta có cơ chế chính sách, có khuôn khổ pháp luật phù hợp, họ lại đào tạo, chọn lựa ra nhân tài lãnh đạo đất nước nên họ vẫn liên tục phát triển. Ta có khoa học biện chứng lại không làm được việc đó, thực là đáng tiếc.

Ý thứ ba: Việt Nam muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội bằng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, làm công cụ xây dựng và tích lũy tập trung vốn, muốn thế chúng ta cần phải dựa vào lí luận của Marx và tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng lấy học thuyết độc lập và hoàn chỉnh. Tham khảo kinh nghiệm các nước bạn cũng rất cần, nhưng tuyệt đối không được sao chép những điều mình tâm đắc vào văn kiện của mình, làm cho nó trở nên hữu danh vô thực, không có sức sống, không có khả năng thực thi. Bài học ấy muôn thuở chính xác kể cả trong chiến tranh lẫn trong hoà bình xây dựng. Khi nào ta thực sự sáng tạo là ta thành công. Trong bất cứ quốc gia nào, vấn đề xã hội bền vững được đặt lên hàng đầu. Xã hội nào không bền vững trên linh thần đoàn kết dân tộc, dân chủ thực sự với mọi tầng lớp nhân dân thì xã hội ấy có nguy cơ sụp đổ. Bởi vậy rất cần trên dưới đoàn kết một lòng, không ngừng trau dồi học tập, mở mang và nâng cao dân trí trên nền văn hoá truyền thống để toàn xã hội được hưởng thụ nền dân chủ đích thực.

Chúng ta đã có vị thế đáng tự hào nên trường quốc tế vì đánh thắng đế quốc Mỹ, một nước giầu mạnh nhất toàn cầu, hầu hết các nước khác đều nể sợ. Thế mà dân tộc ta đã chiến thắng. Cuộc kháng chiến thần thánh ấy góp vào kho báu lịch sử dân tộc như một tài sản vô giá. Có những người ngoại quốc chỉ muốn đến Việt Nam một ngày, để chiêm ngưỡng xem hình dáng lẫn trí tuệ người Việt Nam thế nào, mà dám đánh và đánh thắng đế quốc Mỹ. Đó là một lợi thế vô cùng quan trọng. Nhưng sau ba mươi năm chiến thắng, chúng ta không những không bồi đắp cho nó mà còn làm mất mát đi khá nhiều lợi thế của đất nước, làm xói mòn lòng tin của chính nhân dân ta, bè bạn ta. Trong những năm qua, nhất là sau những năm đổi mới, xã hội xuống cấp quá nhanh, chưa có báo cáo năm nào nêu được chỉ tiêu xã hội như chỉ tiêu phát triển kinh tế đáng phấn khởi, ngược lại năm nào cũng nêu tệ tham nhũng chưa khắc phục như một quốc nạn, rồi nghiện hút, SIDA chưa bao giờ giảm, chỉ thấy tăng... Đã vậy sự mất đoàn kết trong Đảng, trong dân ngày càng nghiêm trọng, ức hiếp dân để xảy ra khiếu kiện liên miên. Đi đến đâu, làm việc gì cũng gặp tệ nạn hối lộ, ăn chặn. Sự tha hoá trong bộ máy công quyền mà các báo cáo của Chính phủ, của Quốc hội, của Đảng, kêu ca thảm thiết, nhưng nó vẫn cứ tồn tại ngày một nghiêm trọng. Có thể nói phổ biến cán bộ viên chức nhà nước từ hành vi nhỏ đến lớn đều liên quan đến tham nhũng. Trong khi đó một nước tư bản gần kề chúng ta là Singapore mức tham nhũng trong viên chức nhà nước không quá 5%.

Nói thế để chúng ta tìm ra nguyên nhân mà xử lí những vấn đề xã hội đáng báo động trên. Mọi việc quy lại đều do con người tạo ra và do con người quyết định tất cả. Mới thấy vị trí con người có tầm quan trọng nhường nào. Quần chúng nhân dân bỏ lá phiếu bầu ra những người đại diện họ, lãnh đạo đất nước, nếu họ có trí tuệ, biết lựa chọn người tài đức, người tìm được biện pháp xây dựng cơ chế, xây dựng luật pháp, theo dõi bộ máy thực hiện luật pháp nghiêm túc, lúc đó người dân đỡ khổ. Nhược bằng họ kém trí tuệ không biết tốt xấu, bầu bán cho xong chuyện, “quan ba cũng ừ, quan tư cũng gật”, hỏi lấy đâu ra nhân tài phục vụ lại họ?

Đó là vấn đề muôn thuở, ai cũng biết, nhưng vẫn không làm được, hoặc cố tình không làm. Nhân dân lâu nay đã tạo ra những người lãnh đạo hầu như chỉ cần chức và quyền để vụ lợi cho riêng mình, còn nhiệm vụ phục vụ nhân dân làm qua quýt, che mắt thế gian.

Nhìn các nước quanh ta, những người lãnh đạo nổi danh như Đặng Tiểu Bình của Trung quốc; Lí Quang Diệu của Singapore; Mahathir của Malaysia họ đều tạo cho đất nước những bước nhảy vọt... mới thấy rõ vai trò cá nhân quyết định đến vận mệnh quốc gia như thế nào. Năm 1997, một buổi chiều tôi đến biên giới giữa Malaysia và Singapore thấy hàng ngàn hàng vạn người Malaysia sang lao động ở Singapore, xếp hàng qua cửa khẩu về nước. Thế mà năm 2003 họ đã kí hợp đồng thuê hàng vạn lao động Việt Nam sang Malaysia làm việc, vì lao động trong nước quá thiếu, chỉ 7 năm họ thay đổi lao động. Còn Việt Nam cứ thiếu việc, cứ phải đi làm thuê, trong hoàn cảnh chủ quan ta thuận lợi hơn hơn nhiều. Đó là điều cần học tập bạn. Giá mà ta có được người lãnh đạo đất nước tài đức, tạo nên bước ngoặt phát triển nhanh cho nhân dân đỡ khổ, không phải đi làm thuê cho nước ngoài thì đâu đến nỗi phải chịu bao cảnh nhục nhã, rắc rối đến với người đi lao động đã được phơi bày trên báo chí gần đây.

Ông cha ta nói “Một người biết lo bằng kho người biết làm” để đề cao vai trò nhân tài của mọi thời đại. Vì chính nhân tài mới là người tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho đất nước. Những nhà lãnh đạo nên luôn luôn chú trọng đến câu: “Bỏ sót nhân tài là có tội với quốc gia”, mà tổ chức tuyển chọn kĩ càng, công khai, chính xác. Không nên để đến Đại hội mới bàn ra tán vào, có khi người nỏ mồm, nịnh hót, gáy hay lại được tuyển lựa, người thầm lặng, thật thà, tài đức thật sự lại bị bỏ quên. Không phải ít những nhà lãnh đạo gặp vài lời nói trái ý mình đã vội vàng thành kiến, trù dập. Bởi thế họ chỉ thích người xu nịnh, lựa chiều (mà số người xu nịnh ít khi có tài, trình độ trí tuệ kém) kết quả có khi tuyển lựa phải người dốt nát. Nếu dốt lại nhiệt tình nữa thì như Thủ tướng Phạm Văn Đồng khi sinh thời đã nói: “Dốt nát cộng với nhiệt tình thành phá hoại”. Nhỡn tiền chúng ta cũng thấy điều đó ở một vài người rồi. Đó cũng là bài học quý cho việc chọn lựa nhân tài vậy.

Nhưng nếu nhà nước may mắn đã chọn được nhân tài, lúc ấy lại cần một sự tin cậy trao phó cho họ nhiệm vụ lãnh đạo đất nước, không can thiệp. Bởi vì họ có hệ thống tư duy thống nhất, nếu bị xen vào, bị ức chế đôi khi sẽ làm phá vỡ kết cấu kế hoạch, hỏng cả đại sự quốc gia. Kết thúc tập hồi kí này, tôi mong nó góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp xây dựng Đảng, xây dựng đất nước. Tôi ao ước sao mọi người đi đâu cũng có thể ngẩng cao đầu tự hào là người Việt Nam văn minh, giàu đẹp, có văn hoá, có trí tuệ. Muốn làm được thế phải thực hiện lời Bác Hồ đã dậy: “Muốn có chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Lời nói đó nghe nhiều cũng quen tai, nhưng thực là chí lí, làm được khó lắm. Cho nên ta phải chịu nghe, chịu nhắc lại để thấm nhuần câu nói của Bác. Nhiều năm qua tôi cứ suy ngẫm mãi thấy nó quả là sâu sắc, quả là thâm thuý! Bác lo xa cho Đảng cho dân tộc biết chừng nào! Nếu chúng ta không bồi dưỡng giáo dục cho có con người xã hội chủ nghĩa thì chủ nghĩa xã hội sẽ xa vời, chẳng khác nào cái bánh vẽ.

Làm người đã khó, làm người xã hội chủ nghĩa còn khó hơn nhiều, chúng ta chỉ có cách duy nhất quyết tâm vượt qua mọi trở ngại và làm cho được, như các cụ xưa đã dạy:
Thế thượng vô nan sự
Nhân tâm tự bất kiên
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã Việt hoá tài tình và súc tích câu thơ như sau:
Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Chúng ta cần bền gan vững chí làm theo lời Bác dạy.
Viết từ ngày 3-2-2004,
viết xong ngày 25-8-2004
Đoàn Duy Thành

PHỤ ĐÍNH
1
Thư của ông Đặng Văn Việt
yêu cầu không trù dập ông Đoàn Duy Thành
Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2005
Kính gửi:
Bộ Chính trị
Ban chấp hành Đảng cộng sản Việt Nam
Gần đây đồng chí Đoàn Duy Thành có viết một cuốn Hồi kí cá nhân kể về cuộc đời riêng và đời công tác của mình. Sách chưa đưa ra cho Nhà xuất bản, chỉ mới đánh máy photo vài trăm bản biếu bạn bè. Đồng chí có tặng tôi một cuốn ! Tôi có xem qua thấy viết dài dòng, nhiều kể lể không cần thiết cho mọi người, tính văn học ít, đặc biệt có đoạn nói nhiều về quan hệ với đồng chí Đỗ Mười, bị trù úm, vùi dập. Tuy không phải là một cuốn hồi kí hay những đặc biệt có đoạn quan hệ với đồng chí Đỗ Mười, làm nhiều người tò mò tìm xem. Có lẽ vì vậy, có bạn chỉ trích và phô tô 25 trang cuối, còn để lại không xem 3-400 trang khác.

Gần đây tôi được biết có một cuộc họp để lên án ông Đoàn Duy Thành, để vận động thi hành kỉ luật dưới 4 hình thức (cảnh cáo, khai trừ, phê bình, trắng án) về 7 tội danh (vi phạm luật xuất bản, làm lộ bí mật quốc gia, gây mất đoàn kết, đả kích cá nhân lãnh tụ, bịa đặt một số vấn đề không có thực tế, để tầng công...).

Hội nghị thảo luận, bỏ phiếu kín và cuối cùng tuyên bố kết quả: "11/13 trắng án (vô tội), 1/13 cảnh cáo, 1/13 phê bình"...

Hội nghị ra về, đa số đảng viên phấn khởi vì đã cứu Đảng khỏi một sai lầm, bậy bạ, làm mất uy tín và thanh danh của Đảng, còn phái đoàn cấp trên thì tiu nghỉu xách cặp lên xe buồn vì không thực hiện được chỉ thị cấp trên, buồn vì nỗi bất lực không hoàn thành nhiệm vụ sau bao công sức, thời gian điều tra, nghiên cứu. Có đồng chí cay cú quay đầu nói với: "Nếu đảng viên không đồng ý, thì Bộ Chính trị có quyền tối hậu - bất chấp !"

Đã là một đảng viên, lâu năm trong Đảng, tôi có ý nghĩ: Mình đã về hưu, tuổi cao, không muốn dây vào những vấn đề chính trị phức tạp. Nhưng, đã còn là Đảng viên, thì phải có trách nhiệm, phải tỏ thái độ chính trị của mình trước Đảng, trước những diễn biến của thời cuộc, tôi thấy cần góp một số ý kiến với Bộ Chính trị:

1. Một cuốn hồi kí cá nhân, mới viết xong, chỉ mới photo vài ba trăm bản, lưu hành nội bộ cho bạn bè, chưa có liên hệ với các nhà xuất bản, chưa có liên quan gì đến luật xuất bản, mà đã gọi là vi phạm luật xuất bản. Rồi đây hàng vạn người viết hồi kí, viết gia phả cho con cháu, sẽ phải cẩn thận kẻo phạm vào luật xuất bản!

2. Làm lộ bí mật quốc gia: ở các nước văn minh, sau 30-40 năm, người ta cho phép công bố những bí mật quốc gia. Cuốn sách của ông Đoàn Duy Thành không đả động gì đến đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, chỉ có một đoạn nói về quan hệ gay gắt giữa ông Đoàn Duy Thành và ông Đỗ Mười... có gì gọi là bí mật quốc gia !?

3. Vấn đề làm mất đoàn kết nội bộ: tôi thấy cuốn sách của đồng chí Đoàn Duy Thành chỉ có gây mất đoàn kết với đồng chí Đỗ Mười, vì ông bị ông Đỗ Mười trù úm; còn đối với cả đất nước Việt Nam, trong nước cũng như ngoài nước, đồng chí Thành không gây mất đoàn kết với bất cứ ai.

4. Vấn đề đả kích lãnh tụ cấp trên: Tôi thiết nghĩ: đồng chí Đoàn Duy Thành là một cựu Phó Thủ tướng, đã là một Trung ương uỷ viên, nay về hưu là một phó thường dân. Còn đồng chí Đỗ Mười, có lần là Thủ tướng, là Tổng bí thư Đảng, là Trung ương uỷ viên, nay cũng đã nghỉ hưu, cũng là một phó thường dân như ai. Chưa bao giờ đất nước Việt Nam tôn vinh đồng chí Đỗ Mười lên là anh hùng, là lãnh tụ.

Hai phó thường dân, đã nghỉ hưu, nói chuyện cũ với nhau, nếu có điều gì đúng sai, làm không vui lòng nhau, thì nên gặp nhau, trực diện đối đáp, cãi cọ nhau, nếu cần mời cấp trên chứng kiến, chỉ 1-2 tiếng là xong ngay. Nếu là thời các "Ngự lâm quân" có thể tổ chức 2 hiệp sĩ đấu kiếm, hay bắn súng... chỉ cần 1 phút là xong, không cần gì mà phải huy động đến các ban, ngành của Đảng, cả tổ chức Nhà nước, cả Bộ Chính trị để giải quyết một việc đấu đá của 2 phó thường dân!

Đồng chí Đoàn Duy Thành có nói: "Tôi mới nói chỉ 20% việc của đồng chí Đỗ Mười". Nếu có một cuộc họp đối chứng để đồng chí Đoàn Duy Thành nói nốt 80% còn lại cho đồng chí Đỗ Mười hiểu thêm về mình và rút kinh nghiệm, thì...

5. Về chế độ Thái thượng hoàng: Dưới thời Lí - Trần của lịch sử Việt Nam, có chế độ Thái Thượng hoàng: vua cha nhường ngôi cho vua con để an nhàn nghỉ tuổi già, nhưng vẫn có mắt theo dõi, đật dây dìu dắt vua con.

Việt Nam có câu "Quan nhất thời, dân vạn đại", thế mà ở đời này, một số vị đã về hưu, nhưng vẫn luyến tiếc một thời làm quan, nên muốn "Quan vạn đại, dân nhất thời".

Chế độ đồng cố vấn đã lỗi thời, bị xoá bỏ, nay được thay thế bằng chế độ "Thái Thượng Hoàng" bất thành văn. Người dân đen không hiểu vì sao, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, có hội họp lớn đều có đầy đủ các chức sắc đã nghỉ hưu: Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Võ Văn Kiệt... với những lời xầm xì không hay...

Tôi nghĩ: "Tre già - măng mọc", Mỗi thế hệ đều có sứ mệnh và trách nhiệm riêng với lịch sử - để cho nó làm - nó chịu trách nhiệm. Vì sao cứ phải kè kè cưỡi lên đầu bọn trẻ !? bắt lớp trẻ luôn phải cúi đầu xin ý kiến các bố già ?!

Tôi nghĩ, những đồng chí lão thành đã về hưu thì nên giữ đúng vị trí của mình. Lúc còn trẻ, còn sung sức, gánh vác việc lớn, có khi còn phạm nhiều sai lầm nghiêm trọng, huống hồ này tuổi đã cao đã yếu, trí óc hạn chế, văn hoá lại thấp, lượng thông tin không đủ, lấy đâu ra trí tuệ để tiếp thu cái mới của thời đại đang phát triển, mà đất nước thì đang tụt hậu quá xa với những quốc nhục quốc nạn.. ? Trong tình hình thời đại như ngày nay với trí tuệ trì trệ của tuổi già có khi chỉ phát huy tác dụng "cố vấn" bậy làm cản bước tiến của dân tộc mà lớp trẻ đang muốn xoá những bài học lịch sử chưa xa thời đại chúng ta là mấy.

Việc đồng chí Đoàn Duy Thành, nếu không phải là thi hành chỉ thị của đồng chí Đỗ Mười thì không ai bỏ công, bỏ việc để làm một việc vớ vấn này. Ngược dòng lịch sử, nhớ đến anh Trần Độ, chỉ vì xin ý kiến... mà đồng chí Đỗ Mười đã thét lên: "Cho nó chìm xuống bùn đen"; cả 4 chữ “Vô Cùng Thương Tiếc” cũng cấm chỉ trên các vòng hoa... thì đâu còn là đậm đà với "bản sắc văn hoá dân tộc" ? với... "nghĩa tử là nghĩa tận"... với một đảng viên công thần suốt đời vì sự nghiệp giải phóng dân tộc?

Tôi nghĩ: các lớp trẻ phải có tính độc lập, biết dựa vào ai, tin cậy vào ai, có vậy mới đưa đất nước tiến lên; chỉ biết dựa vào mấy cây gỗ mục nát, tàn lụi, thì cũng chỉ đưa đất nước đi vào con đường lụn bại.

Chế độ Thái Thượng Hoàng phong kiến đã lạc hậu, nay còn phong kiến hơn cả chế độ phong kiến... thì rất là không phù hợp quan điểm phát triển xã hội của học thuyết Mác. Một học thuyết mà một số người cộng sản còn tôn vinh là "đỉnh cao của trí tuệ loài người", mà lại có "chế độ Thái Thượng Hoàng" thì thật là mỉa mai, nếu chưa nói là phản, là chống chủ nghĩa Mác Lênin.
Kết:
a) Trong khi đất nước đang có nhiều việc lớn, Bộ Chính trị nên tập trung trí tuệ, tài năng lo xây dựng đất nước. Lắng nghe ý kiến của đảng viên, lão thành cách mạng, những người có tâm huyết, mạnh dạn đổi mới, tiếp thu cái mới. nếu chỉ nghe những lời xu nịnh, bợ đỡ, bảo thủ, Đảng sẽ mất vai trò tiên phong, trở thành sức cản của xã hội.

b) Việc chưa thực thi ý đồ trả thù vặt của đồng chí Đỗ Mười là một may mắn cho đảng, nếu không sẽ xẩy ra một vụ Trần Độ thứ 2, một đốm lửa châm vào thùng thuốc súng sẽ gây một tai hại không lường hết (rút kinh nghiệm vụ bạo loạn đang xẩy ra ở Pháp).

c) Một cuốn hồi kí cá nhân, chưa xuất bản... đã bị tịch thu, bị cấm, bị lên án, hăm doạ kỉ luật, thì còn gì là chế độ dân chủ ? Quyền con người tối thiểu bị vi phạm nghiêm trọng, - cả nước sẽ không thể chấp nhận một lề lối lãnh đạo quá lạc hậu.
Huống hồ thế giới nhìn vào cái dân chủ Việt Nam làm thế nào cho Việt Nam gia nhập WTO.
Việc nhỏ đang làm bỏ việc lớn, tôi xin nhắc một lời thơ:
Quan nhất thời, dân vạn đại,
Ghế quan, ai ngồi xin chớ thờ ơ
Thương dân, dân lập đền thờ
Hại dân, dân đái ngập mồ thối xương
Hay:
Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ
Nay kính,
Đặng Văn Việt
125 D - Minh Khai
ĐT: 6.334.249
2
Lời tự bạch của tác giả
về cuốn hồi kí Làm người là khó
Đoàn Duy Thành


Hồi ký Đoàn Duy Thành: Làm Người là khó

Diễn Đàn xin giới thiệu với bạn đọc toàn văn hồi kí LÀM NGƯỜI LÀ KHÓ của ông Đoàn Duy Thành.

Sinh năm 1929, ông đã tham gia Khởi nghĩa tháng tám 1945. Trong kháng chiến chống Pháp, ông bị bắt và giam ở Côn Đảo. Từng giữ các chức vụ chủ tịch Uỷ ban nhân dân Hải Phòng, bí thư Thành uỷ Hải Phòng, Bộ trưởng ngoại thương, Phó chủ tịch Hội đồng chính phủ (nội các Phạm Văn Đồng và Phạm Hùng), uỷ viên Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam.

Cuốn sách này đã được in và "lưu hành nội bộ", không được phép xuất bản chính thức, nhưng đang được phổ biến khá rộng rãi dưới hình thức in chụp và trên mạng internet.


Bài phát biểu của Đoàn Duy Thành tại cuộc họp chi bộ
Bài phát biểu tại cuộc họp chi bộ về cuốn hồi ký "Làm người là khó"

Hà Nội, ngày 22 tháng 11 năm 2005

1. Mục đích tôi viết cuốn Hồi ký là nhằm góp phần xây dựng Đảng, xây dựng đất nước và xây dựng con người, nhất là con người của xã hội xã hội chủ nghĩa, nó mang tính triết học, nên mới đặt tên Hồi ký là "Làm Người là khó".

Để đạt được mục đích trên, thông qua cuộc đời hoạt động của mình trong gần 60 năm, tôi đã chọn ra những sự việc gắn liền với phong trào cách mạng của quần chúng và cá nhân tôi, với nhân dân và với những đồng chí cán bộ cùng hoạt động cách mạng.

Người xưa đã dạy: "Nhân vô thập toàn" từ những người dân bình thường cho đến vĩ nhân, không ai có thể là con người trọn vẹn, hoàn chỉnh mà phải thông qua học tập, rèn luyện suốt đời, mới mong giảm thiểu được những sai sót, khuyết điểm ở mức tối đa. Do đó, ta không nên tuyệt đối hoá bất cứ ai, có như vậy mới dám: "Nhìn thẳng vào sự thật" như cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh khi sinh thời thường nói.

Xuất phát từ mục đích của cuốn Hồi ký và việc làm nghiêm túc của mình, ngay từ khi chuẩn bị viết hồi ký, tôi đã báo cáo với Tổng bí thư Nông Đức Mạnh và Trưởng ban tổ chức Trung ương Trần Đình Hoan.

Sau khi viết xong tôi đã đưa đến Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia in giúp, từ ngày 18/10/2004. Nhưng sau 6 tháng không được trả lời, theo quy định của Nghị định số 79/CP ngày 6/11/1993, điều 8 "Trong thời hạn 30 ngày kể từ khi nhận được bản thảo, Nhà xuất bản phải trả lời cho tác giả".

Để kịp phục vụ cho Hội nghị Trung ương lần thứ 12 khoá IX, cuối tháng 4/2005 tôi làm tại nhà riêng 300 cuốn đóng gói thành sách cho lịch sự, đầu tháng 5/2005 ngày mồng 10 tôi gửi cuốn Hồi ký tới đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, ngay sau đó tôi gửi tiếp cho đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các đồng chí Uỷ viên Trung ương phụ trách ngành tại thủ đô Hà Nội và một số Thành phố lớn, tổng số khoảng 80 cuốn, gồm 74 đồng chí. Có một số đồng chí xin thêm 1, 2 cuốn. Cùng thời gian này tôi gửi tặng một số đồng chí nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ viên Trung ương cùng khoá với tôi, và một số bạn bè, người thân trong gia đình. Khoảng 20 giờ ngày 21/5/2005, đồng chí Phan Diễn - Uỷ viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư gọi điện thoại cho tôi nói: "Ngày 22/5/2005 vì bận không đến dự đại hội thành lập Hội Khoa học Phát triển nguồn nhân lực và nhân tài Việt Nam, chúc Hội nghị thành công". Sau đó đồng chí Phan Diễn có trao đổi với tôi về cuốn Hồi ký, đồng chí có nêu một số điểm không có lợi khi cuốn Hồi ký đó phát hành rộng rãi...". Tôi có báo cáo với đồng chí Phan Diễn, tôi chỉ in có 300 cuốn và đã ghi "Lưu hành nội bộ", nay còn một số, nếu thấy có hại, đề nghị đồng chí cho người lại nhà tôi ngay trong đêm nay chứng kiến, để huỷ toàn bộ số Hồi ký còn lại" (tôi nói ý chính, còn cuộc nói chuyện trên điện thoại khá dài).

Ngày 1/7/2005 Văn phòng Trung ương Đảng có giấy mời tôi đến làm việc từ 8 giờ đến 10 giờ 15’. Đồng chí Phan Diễn chủ trì, có đồng chí Nguyễn Khoa Điềm - Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương, Trưởng ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, đồng chí Phạm Quang Nghị - Bộ trưởng Bộ Văn hoá, đồng chí Ngô Văn Dụ - Chánh Văn phòng Trung ương. Đồng chí Dụ không phát biểu, 3 đồng chí phát biểu chủ yếu là phê phán khuyết điểm việc xuất bản cuốn Hồi ký; tôi phát biểu lại là tôi không sai phạm gì. Cuối cùng đồng chí Phan Diễn nói: "Đề nghị anh Thành không làm gì thêm nữa. Anh báo cáo còn 18 cuốn, chúng tôi không thu".

2. Việc gây hoang mang tinh thần tư tưởng ảnh hưởng xấu, nhất là những nhân chứng đối với cuốn Hồi ký của tôi.

Việc đầu tiên là đột ngột chấm dứt Hợp đồng thuê Hội trường số 9 Nguyễn Cảnh Chân để họp đại hội thành lập Hội Khoa học Phát triển nguồn nhân lực và nhân tài Việt Nam. Đại hội sẽ họp vào ngày 22/5/2005; ngày 20/5/2005 Ban Tài chính Quản trị Trung ương yêu cầu chấm dứt Hợp đồng, bất khả kháng, sẽ bù thiệt hại cho bên thuê. Ban Tổ chức rất lúng túng, phải chạy đi khắp nơi, may mà khách sạn DAEWOO cho thuê hội trường, nhưng giá gấp 4 lần ở số 9 Nguyễn Cảnh Chân, nhưng đến nay cũng chưa được đền bù thiệt hại.

Việc thứ hai: Đảng uỷ khối Kinh tế Trung ương ép Đảng uỷ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam không cho con trai thứ ba của tôi là Đoàn Duy Khương là Thường vụ Đảng uỷ không được tiếp tục ứng cử vào Ban chấp hành Đảng uỷ khoá mới.

Con trai cả của tôi là Đoàn Duy Linh là Phó Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Phòng đang nằm trong quy hoạch, bị tuyên bố xoá tên trong danh sách quy hoạch không được dự kiến vào Ban chấp hành Thành uỷ Hải Phòng sắp tới.

Đối với tôi, tung tin rất rộng rãi là tôi bị quản thúc, có công an mật giám sát 24/24 giờ. Ai đến nhà tôi bị theo rõi... vì đã đưa vào "ống ngắm" của công an v.v...

Việc thứ ba: Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương và một số Ban Tuyên giáo tỉnh, thành phố cho cán bộ đi một số tỉnh, thành phố, cơ sở nói chuyện và lên án cuốn Hồi ký của tôi, đặc biệt là viết bài in trong Tạp chí Tư tưởng Văn hoá và Thông báo nội bộ tháng 8/2005, Ban Tuyên giáo Thành uỷ Hà Nội trang 19, loại tài liệu thứ bẩy, ghép Hồi ký của tôi vào loại bài của Bùi Tín, tuy không nêu đích danh, nhưng người đọc đều biết là cuốn Hồi ký của tôi. Có nghĩa xếp tôi vào loại "phản động" như Bùi Tín. Nên rất nhiều bạn bè trong cả nước viết thư, gọi điện thoại cho tôi, người thì động viên, người thì lo lắng cho tôi...

Đặc biệt nghiêm trọng hơn là anh Nguyễn Văn Thuận - Bí thư Thành uỷ Hải Phòng người được anh Đỗ Mười đỡ đầu đã tổ chức 3 cuộc họp lớn nói là để phổ biến Nghị quyết Trung ương lần thứ 12, nhưng tập trung nói về cuốn hồi ký của tôi có 5 sai phạm nghiêm trọng, bị thu hồi và bị thi hành kỷ luật. Cho cán bộ tuyên giáo và cán bộ công an xuống quận, huyện, xã... xuyên tạc cuốn Hồi ký của tôi và nói tôi đã trốn ra nước ngoài. Việc làm này đã bị nhiều đảng viên và quần chúng phản đối có văn bản gửi lên các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước và các cơ quan có trách nhiệm. Do đó đồng chí Nguyễn Khoa Điềm và đồng chí Hồng Vinh - Trưởng phó Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương xuống Hải Phòng tổ chức 2 cuộc họp lớn đề phổ biến lại Nghị quyết 12 của Ban chấp hành Trung ương khoá IX.

Những việc làm hoang mang về tinh thần và tư tưởng trên đã ảnh hưởng đến một số người liên quan đến cuốn Hồi ký của tôi. Thí dụ: đồng chí Vũ Oanh - Nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị có dùng từ "mót" nói về anh Lê Đức Thọ, nay cải chính là không nói. Trước khi viết Hồi ký, tôi đã cẩn thận xác minh lại từ "Mót" với anh Vũ Oanh. Anh Vũ Oanh còn phân tích cho tôi nghe là "Anh Thọ lúc đó cho là sau anh Lê Duẩn, chỉ có anh Lê Đức Thọ làm Tổng bí thư mới xứng đáng", nay anh Vũ Oanh từ chối, không nói từ "mót" với tôi, thế mới biết tâm lý sợ liên quan, chỉ có từ "mót" với ý nghĩa "mong muốn", có thế thôi mà cũng sợ, sự mong muốn để phát triển của xã hội và cá nhân thì ai chẳng có, nói có xấu gì đâu đối với từng con người. Tôi gửi tặng anh Oanh cuốn Hồi ký sớm nhất, anh khen hay, không nói gì đến từ "mót" cà (khi tôi hỏi lại anh Vũ Oanh từ "mót", tôi không nói để viết Hồi ký).

Chị Lê Thị Kiệm vợ đồng chí Lê Xuân Thịnh - nguyên Bí thư Thành uỷ Hải Phòng đã hý sinh năm 1952 ở Thái Bình tôi có gửi bản thảo cho chị xem trước, chị khen rất hay, không góp ý kiến gì, khi có bản chính thức tôi gửi biếu chị Kiệm một bản, chị đọc lại vẫn khen rất hay. Nhưng đến khi Hồi ký của tôi bị ghép vào loại "ngoài luồng" cùng vào loại bài phản động của Bùi Tín thì chị Kiệm từ chối việc không biết ông Trần Phương, ông Cao Sĩ Kiêm là ai cả, nên không nói chuyện với anh Thành về việc này. Còn 4 người khác, cũng sợ liên luỵ nên không nhận. Riêng anh Hoàng Minh Thắng còn chân thành, anh Thắng đến nói với tôi: "Hai việc tôi nói về anh Thắng là đúng, còn việc nói "xin anh làm Bộ trưởng, tôi nói là không nhớ".

Tôi trả lời: "Tùy anh nói thế nào cũng được". Tôi chỉ biết là tôi viết trong hồi ký là hoàn toàn sự thật, không bịa đặt.

3. Những sự việc Tổ công tác 338 nêu lên là:

a) Vi phạm luật xuất bản 1993, điều 5; việc này tôi đã giải trình ở phần đầu rồi, tôi không phạm luật.

b) Một số nội dung sai phạm chính sách, chỉ thị của Đảng, việc này trước khi viết tôi đã đọc kỹ các văn bản mới nhất của Đảng, đối với những sự việc tôi viết không có gì sai phạm.

c) Nói nội bộ mâu thuẫn, hạ bệ lẫn nhau, mất đoàn kết đó là sự thật, nhưng tôi chỉ nói qua một số việc nhằm làm cho cán bộ, đảng viên rút kinh nghiệm để tự sửa mình, không được phép làm như vậy, nhất là cán bộ cao cấp. Còn việc mất đoàn kết, tranh giành quyền ở các cấp các ngành trong cả nước thì ai mà chẳng biết. Các đồng chí ở Uỷ ban Kiểm tra còn biết hơn tôi nhiều.

d) Tự đề cao mình, đánh giá thấp Bộ Chính trị, đó là nói không chính xác, tôi đánh giá rất cao các đồng chí Bộ Chính trị, tôn trọng các đồng chí, nếu có nói một việc nào về đồng chí đó, thì rất là đời thường. Thí dụ: như anh Linh khóc 4 lần là sự thật là sự thật của một đồng chí Tổng bí thư rất có cảm tình với tôi, nên khi nhắc đến việc "Từ chức" của tôi về nội tâm thế nào không ai biết được, nhưng thể hiện bên ngoài là khóc, thấy rõ một tình cảm sâu sắc với đồng chí, đó là lẽ thường của con người. còn nói anh "Đần" là chị Huệ vợ anh Linh nói, còn tôi khen anh thông minh, đó là câu chuyện rất lý thú về tính khiêm tốn của một vợ Tổng Bí thư, cũng cho tôi là nói xấu anh Linh, thì tôi cũng không biết trả lời ra sao...?

Hay nói: tôi nói xấu Bác Hồ, thông qua lời nói của anh Lê Duẩn thì tôi thấy ý này là quá suy diễn, mà không thấy đây là cái vấn đề triết học, vật chất quyết định ý thức, khi nước còn nghèo thì Bác kêu gọi thi đua yêu nước để đánh giặc ngoại xâm, khi hoà bình xây dựng cần thưởng vật chất cho người có công, đó là tình hình thay đổi, thì cách làm thay đổi sao lại bảo tôi nói xấu Bác Hồ. Một số việc khác cũng chỉ là suy diễn chủ quan.

Còn nói tôi đề cao cá nhân, tôi chi viết lại công việc thực tế đã làm với tập thể. Tôi còn khoảng 10 việc về thành tích cá nhân tôi không nói như: Khen thưởng Huân huy chương; Thương binh. Trong tù anh em gọi tôi là "Vua chịu đòn", Tạp chí lịch sử Đảng đã đăng bài của đồng chí Văn - Tân nói về sự kiện này; Phóng viên Pháp đến phỏng vấn tôi: "Tại sao không theo Bảo Đại mà theo Hồ Chí Minh", tôi đã chỉ thẳng vào tấm ảnh của Bảo Đại trả lời là: tên bù nhìn (Fantoche), đã ồn lên một thời ở nhà thương Chợ Quán Sài Gòn; Suốt đời làm từ thiện, cuối đời còn đồng nào tích luỹ được thì xây dựng thư viện với 5.700 cuốn sách, đã được nhà văn Hữu Giới viết thành sách xuất bản tháng 9/2005 v.v... để phục vụ cho nhân dân xã tôi và vùng lân cận đến đọc và mượn sách.

e) Tôi phủ định Hội nghị đối chất là hoàn toàn không đúng, mà chính anh Đỗ Mười cho anh Tô Duy viết bài báo trên tờ An Ninh Thế giới đề ngày 17/4/2003, trang 31 với đầu đề: Trở lại bài báo "Về cuộc vượt ngục lớn nhất trong 113 năm lịch sử nhà tù Côn đảo", đăng trên An ninh thế giới số 316, 317 ra ngày 6 và 13/2/2003 đã phủ định toàn bộ cuộc họp đối chất chính do anh Đỗ Mười chủ trì, không những thế mà còn phủ định luôn cả kết luận số 897-NQ-NS/TW ngày 01/10/1984 do đồng chí Võ Chí Công ký. Chính sự việc này, tôi mới xác định được việc anh Đỗ Mười chủ mưu cùng anh Tô Duy dựng lên vụ án gián điệp, đã làm khổ nhục tôi suốt 20 năm, đến ngày 2/8/2003 tôi mới biết.

f) Việc vợ tôi, cô Phí Thị Tâm đốt hết Huân, Huy chương, giấy khen của cả 2 vợ chồng, là do vào lúc thế cùng, lúc o ép dọn nhà, nên uất ức đã không làm chủ được bản thân, đã đốt tất cả, nay cô Phí Thanh Tâm đã qua đời, đáng lẽ các đồng chí cần thông cảm với sự đau khổ đó của một người phụ nữ, không nên nhắc lại và coi như một khuyết điểm thì thật không nên.

g) Vấn đề nhập vàng, đề nghị các đồng chí xem văn bản ở Văn phòng Trung ương từ tháng 8/1987 đến 1990 chắc còn tài liệu lưu về việc này. Các nhân chứng còn nhiều. ở Bộ Ngoại thương (Sau là Bộ Kinh tế Đối ngoại) có cả một tổ phụ trách việc này, do đồng chí Đinh Phú Định - Thứ trưởng, đồng chí Uyên - Vụ trưởng Vụ Xuất nhập khẩu phụ trách. Đồng chí Võ Văn Kiệt là Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Bộ trưởng, khi đồng chí Phạm Hùng qua đời, đồng chí Võ Văn Kiệt làm quyền Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng một thời gian; đồng chí Vũ Ngọc Phương, đồng chí Nhật Hồng v.v... là những cán bộ thực thi việc nhập vàng. Thế mà ngày nay theo báo cáo của Tổ công tác 338 là anh Đỗ Mười nói không có việc nhập vàng, anh Trần Xuân Giá - Chủ nhiệm Văn phòng cũng xác định là không có việc nhập vàng. Thực tế thời kỳ nhập vàng là anh Hồ Ngọc Nhường làm chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, chứ không phải anh Trần Xuân Giá.

Nhiều địa phương nhập vàng, đặc biệt là các tỉnh phía Nam, còn phía Bắc chỉ có Hà Nội nhập, Hà Nội cũng nhập vàng làm nhiều lần (trong hồi ký của tôi đã nói rõ). Một câu chuyện rất ngắn, nhưng đáng suy nghĩ, do anh Trần Văn Hiển, nguyên Bộ trưởng Bộ Nội thương, tháng 9/2005, kể với tôi như sau: "Đ/c Cao Sĩ Khiêm nói với anh Hiển: ông Mười tự nhiên gọi điện thoại cho tôi (Cao Sĩ Khiêm) hỏi: tôi bảo cậu nhập vàng phải không" anh Hiển không hỏi lại đồng chí Cao Sĩ Khiêm trả lời ra sao câu chuyện ngắn này chắc mọi người cũng hiểu nội tâm anh Mười ra sao. Tôi đề nghị Trung ương cho đối chất việc nhập vàng với anh Đỗ Mười, và một số sự việc khác mà tôi chưa viết trong Hồi ký.

Còn một số việc trong dự thảo báo cáo của Tổ công tác 338, nó trùng lặp với sự phân tích trên của tôi, và tôi thấy là những chi tiết nhỏ trong hàng trăm sự kiện trong hồi ký của tôi. Tôi chỉ xin nói lại một lần nữa là tôi không có sai phạm gì trong viết cuốn Hồi ký của tôi. Mong được các đồng chí Tổ công tác 338 và các đồng chí trong chi bộ thấy rõ sự thật, việc làm nghiêm túc của tôi, vì sự nghiệp xây dựng Đảng, xây dựng đất nước. Còn nói dư luận quần chúng như dẫn chứng báo cáo của Ban Tuyên giáo Thành uỷ Hải Phòng thì thật là không khách quan. Sau một thời gian gây hoang mang tinh thần, tư tưởng trong Đảng và trong quần chúng đối với cuốn Hồi ký của tôi, coi như "Tài liệu thù địch". Đây là cuộc "Khủng bố tinh thần" thì mọi dư luận, ý kiến về cuốn Hồi ký của tôi là không khách quan, ngay đồng chí Vũ Oanh, nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị còn dao động, cải chính lời nói trước của mình, thì những cán bộ, đảng viên, quần chúng còn ai dám nói khác với một số cán bộ Tuyên giáo. Tất nhiên cũng có nhiều người trung thực đã dám phê phán cách làm áp đặt, đã khiếu nại lên Trung ương, nên mới có lần phổ biến lại Nghị quyết 12 của Ban chấp hành Trung ương khoá IX ở Hải Phòng. Tôi đề nghị đó là một kinh nghiệm, muốn thực sự cầu thị, lấy được những ý kiến trung thực để xây dựng Đảng, xây dựng đất nước, cần khách quan, không gây bất cứ sức ép về tâm lý. Càng không nên có những hành động vi phạm pháp luật như kéo dài việc phê chuẩn Điều lệ của Hội Khoa học Phát triển nguồn nhân lực và nhân tài Việt Nam, đã gần 6 tháng kể từ ngày họp Đại hội 22/5/2005, nên Hội không có dấu và không có tài khoản để thực thi công việc của Hội, mặc dù mọi thủ tục với cơ quan hữu quan của Đảng và Nhà nước đã hoàn tất. Nhưng Bộ Nội vụ kéo dài không giải quyết theo quy định của pháp luật. Đó cũng là sức ép tinh thần đối với hội viên và cộng tác viên của Hội. Thể hiện cách làm của chúng ta thiếu chặt chẽ, chín chắn, thận trọng. Không nên vội vàng. Nó cũng là những điều cần rút kinh nghiệm của một Đảng cầm quyền, một Đảng đã dày dạn đấu tranh cách mạng hơn 75 năm. Chúng ta cần đĩnh đạc, đàng hoàng, xử lý các vấn đề minh bạch, công khai, có lý, có tình để thuyết phục lòng người.

Tóm lại: Cuốn Hồi ký của tôi nó ví như bốc một đơn thuốc cho một con bệnh, có hai cách, nếu theo "Bá đạo" thì bốc "Triệt ngược", còn tôi bốc theo "Vương đạo" là: "Tứ thuận thanh tiêu" làm cho người ốm khỏi bệnh, người không có bệnh thì khoẻ lên, người khoẻ rồi thì càng khoẻ hơn nữa. Do đó, những người chống chế độ ta ở nước ngoài, họ rất căm ghét Hồi ký của tôi, từ Mỹ sang úc... Họ xuyên tạc, vu khống rất trắng trợn. Chắc các đồng chí đã đọc trên Internet.

Còn ở trong nước nếu tư duy của chúng ta thông thoáng, công khai, minh bạch, khách quan, công bằng, lắng nghe ý kiến của nhau thì chắc chắn cuốn Hồi ký của tôi không có gì ghê gớm cả, chỉ là chuyện thật đời thường.

Xin cảm ơn các đồng chí./.

Ghi chú:
Tôi viết bài phát biểu này chưa được đọc toàn văn Thông báo của Tổ công tác 338. Đến Hội nghị tôi mới được nghe đọc toàn văn Thông báo, khá dài.
Bản Thông báo đọc sau bài phát biểu của tôi trong cuộc họp chi bộ.
Khi kết thúc cuộc họp là thu lại ngay. Do đó tôi sẽ có văn bản phát biểu của mình về bản Thông báo này.

Hà Nội, ngày 22 tháng 11 năm 2005
người ghi chú ký tên
Đoàn Duy Thành
____________________________


Hồi ký Đoàn Duy Thành - Chương 11
Sunday, 17. August 2008, 02:12
Culture
Kết luận. Ý thứ nhất: Người ta ở đời từ khi biết nghĩ cho tới tuổi trưởng thành, ai ai cũng mong sao được học hành đến nơi đến chốn, thành đạt, có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Chẳng ai muốn mình khổ cả. Tuy nhiên đời là biển khổ, khó ai tránh khỏi một lần rơi vào cái biển mênh mông đó. Nhưng được như vậy cũng lấy làm hạnh phúc lắm rồi. Còn tôi, tôi thấy suốt đời mình là khổ, cho đến tận những năm tháng cuối bây giờ, tuy nhiều người cứ nói tôi có hậu vận tốt. Với tôi, xấu tốt cũng không mấy ý nghĩa, tôi chỉ mong làm được nhiều việc cho nước, cho dân, góp phần biến cái biền khổ đó thành ra biển sướng. Được vậy hạnh phúc biết bao! Rất tiếc ước mơ đó từ tuổi vị thành niên của tôi đã không thực hiện được đến nơi đến chốn. Tôi tham gia cách mạng khi mới bước vào đời, được các đồng chí đi trước tuyên truyền dìu dắt, nhất là ông Đoàn Hữu Lộng, chú họ tôi, một người kiểu mẫu xứng đáng. Dù ông không tham gia cách mạng được hết cuộc đời, nhưng ông đã sống, đã giữ trọn đạo đức, phẩm tiết cho tới tận tuổi 89, rồi qua đời ông luôn là tấm gương lớn cho tôi noi theo: Không giả dối, không bon chen, chỉ mong góp phần xây dựng đất nước, sao cho nước giầu để mình sẽ cùng ở trong cái bể giầu đó mới thật thỏa nguyện. Cứ ước mơ và ước mơ, hành động và hành động, cho tới tận cuối đời vẫn thế. Gần hết cuộc đời với 58 năm đi làm cách mạng, tôi gặp rất nhiều người tốt, kẻ xấu, nhưng lúc nào tôi cũng lạc quan cho rằng số kẻ xấu kia sẽ ngày một hết dần, không thể cứ tồn tại mãi. Có thể sự lạc quan đó do được cách mạng giáo dục, đào tạo, nhất là chúng ta có tấm gương nhân ái của Bác Hồ vĩ đại để noi theo. Bởi vậy tôi có đức tin vào người đi trước, có sự tin tưởng vô tư vào lớp trẻ đi sau. Gặp bất cứ trường hợp nào người ta không tốt, đối xấu với mình, tôi đều nghĩ đó là thiểu số, không đáng kể. Miễn sao số đông biết vì lợi ích của Tổ quốc dám hy sinh thân mình, hy sinh quyền lợi cá nhân để dành tất cả cho dân tộc. Không thể vì lẽ gì cả một dân tộc hy sinh hàng triệu con người để đổi lấy độc lập tự do hạnh phúc, mà có người lại xấu, lại ích kỷ hại nhân, hoặc bon chen, giành quyền lợi cho riêng mình hưởng thụ. Ngày hôm nay ngồi viết những trang hồi ký cuối đời này, tôi cũng chỉ muốn thêm một chút nữa góp phần xây dựng Đảng, xây dựng đất nước phồn vinh, khắc phục những gì đang cản trở đất nước đi lên. Tôi lường trước những trang viết không chỉ mang lại lợi ích chung như tôi mong muốn mà biết đấu nó cũng có thể mang lại nguy hiểm cho tính mạng cá nhân người viết. Nhưng tôi xác định viết ra cho toàn Đảng, toàn dân khắc phục được khuyết điểm để tồn tại và phát triển, thì sự hy sinh nào cũng đáng giá. Nhất định phải có một biển sướng, không phải biển khổ! Nếu mình vẫn tồn tại được bơi vài giây phút trong đó cũng toại nguyện lắm rồi. Còn nếu mình không được hưởng thì sau này con cháu, họ hàng, bạn bè, chiến hữu cùng toàn dân tộc được bơi trong một biển sướng, như thế dù sống hay chết cũng là làm trọn nhiệm vụ với dân với nước! Biết bao suy nghĩ dằn vặt trước khi tôi đặt bút viết tập hồi ký này sao cho “vừa đủ”, nghĩa là không dài quá, không ngắn quá, không nói thừa. Tôi chỉ nói lên một sự thật hiển nhiên trong cuộc đời tôi, cuộc đời ấy hơn một nửa thế kỷ chịu bao cam go mới có tư liệu thật, tư liệu sống để viết lại. Cuốn hồi ký trước hết tôi dành cho con cháu, đồng chí thân thiết, sau nữa dành cho những ai quan tâm đến thời cuộc, hoặc quan tâm đến tác giả, đọc để rút ra một chút gì có ích cho mình, hoặc đọc giải trí cho khuây khoả tuổi già, hoặc khích lệ lòng ham muốn cho tuổi trẻ. Được như vậy cũng là cách làm giàu và phong phú tư duy cho mọi người chứ sao? Đó cũng là một phần “biển sướng tinh thần” vô cùng quan trọng đối với những ai quan tâm đến sự nghiệp xây dựng cơ sở, vật chất cho chủ nghĩa xã hội chứ sao? Ý thứ hai: Rút ra từ những trang hồi ký, người ta có thể thấy: Muốn thế giới tồn tại và phát triển lành mạnh được, đòi hỏi phải có những cái đầu trí tuệ mới có thể khắc phục biết bao nhiêu khó khăn, ví như: - Về thiên nhiên: Trời đất xoay vần, nóng lạnh, bão tố, lũ lụt, mưa gió thất thường, không theo quy luật nhất định và con người không thể lúc nào cũng dự đoán, nắm bắt chính xác được. Điều đó không chỉ do thiên nhiên, mà còn do ý thức thiển cận, thiếu học vấn của con người cộng với lòng tham không đáng có, tất cả đã tác động vào thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường, làm thủng tầng ôzôn, gây ra nóng lạnh thất thường, băng giá, tuyết tan... khó lòng khống chế được. - Về con người: Con người ta bản chất bao giờ cũng có hai phần: Phần Con và phần Người. Nếu không học tập rèn luyện, không có trí tuệ thì hành động cũng giống như súc vật. Thế cho nên để con người khác súc vật, mới gọi người là Con người, chứ không gọi con người là súc vật cao cấp. Đã là súc vật thì cao cấp mấy cũng không có phần Người như con người vốn có. Từ ngàn xưa con người đã biết muốn được sống hạnh phúc cho mình thì phải biết tạo cho người khác, cho đồng loại cùng sung sướng, gọi là tính nhân quần. Bởi thế các bậc chí tôn, hiền giả mới nghĩ ra bao nhiêu học thuyết, đạo lý, tìm mọi cách giáo dục, thuyết phục mọi người phải sống theo tính nhân quần ấy. Nhưng tiếc thay chỉ một số rất ít, và rất ít người đi theo, làm theo lời các bậc cứu thế đó. Còn lại số đông, nhất là những người có quyền, có thế, lại vận dụng những học thuyết cao cả để che giấu sai lầm của mình, lừa dối người khác, vụ lợi cá nhân. Loài người qua kinh nghiệm đấu tranh, quảng đại quần chúng cũng ngày một khôn lên, biết tận dụng thế mạnh của mình, thế yếu của kẻ cầm quyền, rút kinh nghiệm sống còn: Không có cây gậy giữ thân thì không thể tồn tại được. Và những người cầm quyền cũng rút ra rằng dù mạnh mấy mà không có một cơ chế quản lý vững thì cũng dẫn đến: “Nhất đại vi quan, vạn đại vi dân”. Lúc đó sẽ như câu ca dao: Con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa. Bao giờ trời nổi can qua, con vua thất thế lại ra quét chùa. Bởi vậy kẻ cai trị và người dân bị trị gặp nhau ở một điểm là phải tìm ra một khuôn khổ để cùng nhau tồn tại, ai cũng được bình đẳng, sung sướng. Cái khuôn khổ đó đã được các vĩ nhân qua nhiều thời đại cố gắng tìm ra, nhưng nó có mặt hay, có mặt dở, không cái nào trọn vẹn. Tất nhiên theo quy luật tiếp thu truyền thống những phát kiến sau thường có mặt tiến bộ, hợp lý hơn trước. Cho tới khi học thuyết của Marx ra đời, nó mang tính nhân văn cao hơn hẳn, có sức thuyết phục hơn hẳn. Nhưng dù sao đó mới chỉ là học thuyết, chưa có thực tế kiểm nghiệm. Rồi Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 Lênin đã đem học thuyết vĩ đại đó áp dụng vào một đất nước rộng 1/6 địa cầu, là người có công rất lớn. Ông vận dụng sáng tạo học thuyết của Marx vào nước Nga, đem lại một số kinh nghiệm cho loài người. Việc Stalin lãnh đạo nước Nga làm nên chiến thắng kỳ diệu chống phát xít Đức là nhờ tinh thần quật cường của dân tộc Nga, kết hợp với tính quyết liệt, bất chấp nguy nan và thiên tài quân sự của người lãnh đạo tối cao làm nên. Hơn ai hết dân tộc Nga hiểu rằng phải đánh thắng phát xít Đức mới mong thực hiện được ý tưởng của Marx -Lênin. Đó là động lực tinh thần quan trọng, là quyết tâm biến ước mơ thành hành động của nhân dân Liên Xô. Khi thế chiến thứ hai kết thúc, vòng nguyệt quế với bao lời tung hô chiến thắng, đã tạo nên một đám mây đen che phủ trong đầu những người lãnh đạo đất nước rộng nhất thế giới này. Sự vinh quang làm cho họ mê mụ, hay phần lớn những cái đầu hạn hẹp kiến thức đã trút hết trí lực vào cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại rồi, nay số kiến thức dành cho việc xây dựng và phát triển đất nước đã không nhiều lại bị đám mây đen nói trên che phủ, nên suy tư cho kinh tế của các vị đã không đáp ứng được với thời cuộc. Những vị lãnh đạo đó không còn đủ trí tuệ tìm ra con đường dẫn dắt dân tộc từng bước tiến lên xã hội chủ nghĩa, dân giàu nước mạnh, lại thêm lòng ham hố vinh quang, quyền lực, tạo ra sự “kiêu ngạo cộng sản”, nước lớn nước bé, dân tộc đa số, dân tộc thiểu số, khiến ngày càng đi xa với thực tế cuộc sống của dân. Đã vậy cuộc sống hòa bình sau bao năm hy sinh gian khổ sinh ra sự ham muốn hưởng thụ ở họ không có bờ bến. Việc làm cho tương lai, cho dân tộc đã bị coi nhẹ hoặc quên lãng, nhưng sự hưởng thụ vật chất cho cá nhân mình lại được đề cao, được quan tâm quá mức. Họ quên rằng với cuộc Cách mạng tháng 10, với cuộc chiến tranh vệ quốc có những mặt chưa được thấu tình đạt lý, còn bao việc phải làm, còn tồn dư sự thù hận trong nội bộ dân tộc. Trong khi đó những lực lượng đối kháng lại là những người thực tế, biết thân biết phận, xoay vào củng cố và phát triển lực lượng hùng mạnh, tìm những cái hay của chủ nghĩa Marx - Lênin để rút kinh nghiệm, vận dụng, đồng thời tìm những khe hở của Liên Xô và các nước Đông Âu tranh thủ phân hóa bằng mọi cách rất tinh vi. Đến khi chín mùi, họ làm cho nó tự đổ vỡ từ bên trong, không ai cứu vãn nổi. Bài học đó không bao giờ nên quên. Đáng lưu ý là phe đối kháng không ngủng mở rộng dân chủ, đào tạo tuyển dụng người có tài, có đức để quản lý đất nước một cách tài tình. Còn Liên Xô và các nước Đông Âu thì trì trệ về lĩnh vực này. Đến mức ở Berlin, mấy hôm trước đồng chí Hônếchcơ, Tổng Bí thư Đảng Xã hội Dân chủ Đức, Chủ tịch Đông Đức, đón đồng chí Nguyễn Văn Linh sang dự quốc khánh, một ngày lễ có hàng triệu người tham dự, tung hô lời chào mừng nồng nhiệt nước Cộng hòa Dân chủ Đông Đức. Vậy mà sau một tuần đồng chí Nguyễn Văn Linh về nước, bức tường Berlin bị phá đổ, đồng chí Hônếchcơ bị bắt, bị đưa ra xử. Còn ở Liên Xô thì 36 triệu Đảng viên Cộng sản đứng ngoài cuộc để Gooc-ba-chốp thao túng, muốn làm gì thì làm, cho đến khi đổ sụp cả thành trì cách mạng thế giới. Cho nên có thể nói sự nghiệp đất nước vững mạnh tiến lên, hay thụt lùi sụp đổ, một phần là trách nhiệm người đứng đầu nhà nước quyết định. Lên nhanh, đổ nhanh; xuống chậm, đổ từ từ cũng là do người đứng đầu. Nếu không chọn người đúng đầu có tài, có đức, quản lý đất nước có phương pháp khoa học, sáng tạo với một cơ chế chặt chẽ, thì chẳng khác gì dùng “đóm đi soi ếch”, phó mặc cho vận may rủi, thịnh suy, rồi tin vào quy luật “có thịnh, có suy” sẽ rất nguy hiểm. Nhiều nước người ta có cơ chế chính sách, có khuôn khổ pháp luật phù hợp, họ lại đào tạo, chọn lựa ra nhân tài lãnh đạo đất nước nên họ vẫn liên tục phát triển. Ta có khoa học biện chứng lại không làm được việc đó, thực là đáng tiếc. Ý thứ ba: Việt Nam muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội bằng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, làm công cụ xây dựng và tích lũy tập trung vốn, muốn thế chúng ta cần phải dựa vào lý luận của Marx và tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng lấy học thuyết độc lập và hoàn chỉnh. Tham khảo kinh nghiệm các nước bạn cũng rất cần, nhưng tuyệt đối không được sao chép những điều mình tâm đắc vào văn kiện của mình, làm cho nó trở nên hữu danh vô thực, không có sức sống, không có khả năng thực thi. Bài học ấy muôn thuở chính xác kể cả trong chiến tranh lẫn trong hòa bình xây dựng. Khi nào ta thực sự sáng tạo là ta thành công. Trong bất cứ quốc gia nào, vấn đề xã hội bền vững được đặt lên hàng đầu. Xã hội nào không bền vững trên linh thần đoàn kết dân tộc, dân chủ thực sự với mọi tầng lớp nhân dân thì xã hội ấy có nguy cơ sụp đổ. Bởi vậy rất cần trên dưới đoàn kết một lòng, không ngừng trau dồi học tập, mở mang và nâng cao dân trí trên nền văn hóa truyền thống để toàn xã hội được hưởng thụ nền dân chủ đích thực. Chúng ta đã có vị thế đáng tự hào nên trường quốc tế vì đánh thắng đế quốc Mỹ, một nước giầu mạnh nhất toàn cầu, hầu hết các nước khác đều nể sợ. Thế mà dân tộc ta đã chiến thắng. Cuộc kháng chiến thần thánh ấy góp vào kho báu lịch sử dân tộc như một tài sản vô giá. Có những người ngoại quốc chỉ muốn đến Việt Nam một ngày, để chiêm ngưỡng xem hình dáng lẫn trí tuệ người Việt Nam thế nào, mà dám đánh và đánh thắng đế quốc Mỹ. Đó là một lợi thế vô cùng quan trọng. Nhưng sau ba mươi năm chiến thắng, chúng ta không những không bồi đắp cho nó mà còn làm mất mát đi khá nhiều lợi thế của đất nước, làm xói mòn lòng tin của chính nhân dân ta, bè bạn ta. Trong những năm qua, nhất là sau những năm đổi mới, xã hội xuống cấp quá nhanh, chưa có báo cáo năm nào nêu được chỉ tiêu xã hội như chỉ tiêu phát triển kinh tế đáng phấn khởi, ngược lại năm nào cũng nêu tệ tham nhũng chưa khắc phục như một quốc nạn, rồi nghiện hút, SIDA chưa bao giờ giảm, chỉ thấy tăng... Đã vậy sự mất đoàn kết trong Đảng, trong dân ngày càng nghiêm trọng, ức hiếp dân để xảy ra khiếu kiện liên miên. Đi đến đâu, làm việc gì cũng gặp tệ nạn hối lộ, ăn chặn. Sự tha hóa trong bộ máy công quyền mà các báo cáo của Chính phủ, của Quốc hội, của Đảng, kêu ca thảm thiết, nhưng nó vẫn cứ tồn tại ngày một nghiêm trọng. Có thể nói phổ biến cán bộ viên chức nhà nước từ hành vi nhỏ đến lớn đều liên quan đến tham nhũng. Trong khi đó một nước tư bản gần kề chúng ta là Singapore mức tham nhũng trong viên chức nhà nước không quá 5%. Nói thế để chúng ta tìm ra nguyên nhân mà xử lý những vấn đề xã hội đáng báo động trên. Mọi việc quy lại đều do con người tạo ra và do con người quyết định tất cả. Mới thấy vị trí con người có tầm quan trọng nhường nào. Quần chúng nhân dân bỏ lá phiếu bầu ra những người đại diện họ, lãnh đạo đất nước, nếu họ có trí tuệ, biết lựa chọn người tài đức, người tìm được biện pháp xây dựng cơ chế, xây dựng luật pháp, theo rõi bộ máy thực hiện luật pháp nghiêm túc, lúc đó người dân đỡ khổ. Nhược bằng họ kém trí tuệ không biết tốt xấu, bầu bán cho xong chuyện, “quan ba cũng ừ, quan tư cũng gật”, hỏi lấy đâu ra nhân tài phục vụ lại họ. Đó là vấn đề muôn thuở, ai cũng biết, nhưng vẫn không làm được, hoặc cố tình không làm. Nhân dân lâu nay đã tạo ra những người lãnh đạo hầu như chỉ cần chức và quyền để vụ lợi cho riêng mình, còn nhiệm vụ phục vụ nhân dân làm qua quít, che mắt thế gian. Nhìn các nước quanh ta, những người lãnh đạo nổi danh như Đặng Tiểu Bình của Trung quốc; Lý Quang Diệu của Singapore; Mathia của Malaysia họ đều tạo cho đất nước những bước nhảy vọt... mới thấy rõ vai trò cá nhân quyết định đến vận mệnh quốc gia như thế nào. Năm 1997, một buổi chiều tôi đến biên giới giữa Malaysia và Singapore thấy hàng ngàn hàng vạn người Malaysia sang lao động ở Singapore, xếp hàng qua cửa khẩu về nước. Thế mà năm 2003 họ đã ký hợp đồng thuê hàng vạn lao động Việt Nam sang Malaysia làm việc, vì lao động trong nước quá thiếu, chỉ 7 năm họ thay đổi lao động. Còn Việt Nam cứ thiếu việc, cứ phải đi làm thuê, trong hoàn cảnh chủ quan ta thuận lợi hơn hơn nhiều. Đó là điều cần học tập bạn. Giá mà ta có được người lãnh đạo đất nước tài đức, tạo nên bước ngoặt phát triển nhanh cho nhân dân đỡ khổ, không phải đi làm thuê cho nước ngoài thì đâu đến nỗi phải chịu bao cảnh nhục nhã, rắc rối đến với người đi lao động đã được phơi bày trên báo chí gần đây. Ông cha ta nói “Một người biết lo bằng kho người biết làm” để đề cao vai trò nhân tài của mọi thời đại. Vì chính nhân tài mới là người tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho đất nước. Những nhà lãnh đạo nên luôn luôn chú trọng đến câu: “Bỏ sót nhân tài là có tội với quốc gia”, mà tổ chức tuyển chọn kỹ càng, công khai, chính xác. Không nên để đến Đại hội mới bàn ra tán vào, có khi người nỏ mồm, nịnh hót, gáy hay lại được tuyển lựa, người thầm lặng, thật thà, tài đức thật sự lại bị bỏ quên. Không phải ít những nhà lãnh đạo gặp vài lời nói trái ý mình đã vội vàng thành kiến, trù dập. Bởi thế họ chỉ thích người xu nịnh, lựa chiều (mà số người xu nịnh ít khi có tài, trình độ trí tuệ kém) kết quả có khi tuyển lựa phải người dốt nát. Nếu dốt lại nhiệt tình nữa thì như Thủ tướng Phạm Văn Đồng khi sinh thời đã nói: “Dốt nát cộng với nhiệt tình thành phá hoại”. Nhỡn tiền chúng ta cũng thấy điều đó ở một vài người rồi. Đó cũng là bài học quý cho việc chọn lựa nhân tài vậy. Nhưng nếu nhà nước may mắn đã chọn được nhân tài, lúc ấy lại cần một sự tin cậy trao phó cho họ nhiệm vụ lãnh đạo đất nước, không can thiệp. Bởi vì họ có hệ thống tư duy thống nhất, nếu bị xen vào, bị ức chế đôi khi sẽ làm phá vỡ kết cấu kế hoạch, hỏng cả đại sự quốc gia. Kết thúc tập hồi ký này, tôi mong nó góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp xây dựng Đảng, xây dựng đất nước. Tôi ao ước sao mọi người đi đâu cũng có thể ngẩng cao đầu tự hào là người Việt Nam văn minh, giàu đẹp, có văn hóa, có trí tuệ. Muốn làm được thế phải thực hiện lời Bác Hồ đã dậy: “Muốn có chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Lời nói đó nghe nhiều cũng quen tai, nhưng thực là chí lý, làm được khó lắm. Cho nên ta phải chịu nghe, chịu nhắc lại để thấm nhuần câu nói của Bác. Nhiều năm qua tôi cứ suy ngẫm mãi thấy nó quả là sâu sắc, quả là thâm thuý! Bác lo xa cho Đảng cho dân tộc biết chứng nào! Nếu chúng ta không bồi dưỡng giáo dục cho có con người xã hội chủ nghĩa thì chủ nghĩa xã hội sẽ xa vời, chẳng khác nào cái bánh vẽ. Làm người đã khó, làm người xã hội chủ nghĩa còn khó hơn nhiều, chúng ta chỉ có cách duy nhất quyết tâm vượt qua mọi trở ngại và làm cho được, như các cụ xưa đã dạy: Thế thượng vô nan sự Nhân tâm tự bất kiên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã Việt hóa tài tình và xúc tích câu thơ như sau: Không có việc gì khó Chỉ sợ lòng không bền Chúng ta cần bền gan vững chí làm theo lời Bác dạy. Viết từ ngày 3-2-2004, viết xong ngày 25-8-2004.

1 comment:

  1. Trí nhớ siêu đẳng....Bái phục ông Đoàn Duy Thành...Xin lạy ông ba lạy

    ReplyDelete