Sunday, March 6, 2011

Dường chân trời thì xa-Nguyễn Ngọc Tư

đường chân trời thì xa
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư
Tôi gọi chị là Thu Cúc, một nhân vật trong phim “Thu Cúc đi kiện” nổi tiếng của đạo diễn Trương Nghệ Mưu. Chị quạt nón cười hỏi Thu Cúc là ai, trong phim hả, trời ơi, phim thì chị đâu có rảnh mà coi nó tròn méo ra làm sao.
Chị ghé quán nước anh tôi, mỗi đầu tuần, với cái giỏ nặng trĩu trong tay. Trong giỏ có chừng nửa ký chanh giấy, vài trái dừa khô, dăm ba nải chuối già cui. Chanh thì để lại cho chúng tôi, còn chuối, còn dừa, chị phải đảo một vòng qua chợ. Mắc rẻ gì cũng bán, cho kịp giờ làm việc buổi sáng, bởi chị còn phải ghé vài cơ quan công quyền để thắc thỏm đưa thêm mấy lá đơn, hỏi thăm lượt đơn thưa trước đã có ai đọc, có ai giải quyết chưa?
Chị không biết cô Thu Cúc nào đó bên Tàu, na cái bụng bầu ọc ạch đi đòi công lý cho chồng, bởi phim ảnh trở nên xa xỉ khi chị cùng chồng con phải quần quật kiếm sống bằng đủ mọi nghề, hái rau, kiếm củi, đào đất mướn… Cuộc sống trở nên nhọc nhằn hơn từ dạo hàng xóm tráy khoáy dẫn nước mặn vào nuôi tôm đúng lúc lúa trên năm công đất nhà chị đã no đòng đòng. Ruộng nhà chị nhiễm mặn, lúa quéo ngọn, chết queo. Tiếc của, tức mình, chị đi… kiện, sau khi đã giáp mặt ông láng giềng, sau khi biết không còn tình nghĩa gì để níu kéo khi người ta trơ tráo bảo, “Tui dẫn nước vô ruộng tui, mắc mớ gì ruộng chị. Thích, thì kiện”.
Chị nhờ con viết đơn trên giấy học trò, tự mình đem ra tỉnh. Chồng chị đã nhận chở đất lên liếp cho mấy nhà trong xóm, đấy là việc của anh, kiếm tiền. Chị đi, bằng tất cả sự ngây thơ và nồng nhiệt, chỉ biết là quyết đòi lại số lúa đáng lẽ bây giờ đã nằm trong bồ nhà chị. Lúa, với chị là tất cả, là học phí cho con, là cái giường mới thay cho bộ vạc đã ọp ẹp, là tấm áo cho chồng, là mớ tôn để lợp lại chái hiên.
Chị vốn không biết con đường đi đến công lý rất dài, mệt mỏi. Nó không phụ thuộc hoàn toàn vào phần phải, ý chí, hay quyết tâm của chị. Nhiều khi con đường bị ngắc ngứ bởi ông A, chị B nào đó bận đi… du lịch dài ngày. Nhiều khi phải trở lại từ đầu bởi cô văn thư ngớ ngẩn “Chị về làm lại cái đơn khác, không biết đơn trước tôi để ở đâu rồi…”. Nhiều khi muốn khóc bởi câu nói vô tình của anh cán bộ, “Vì vài chục giạ lúa cũng đi thưa, mắc công chị, mà cũng mắc công tụi tui, phải xử lý chuyện không đáng gì…”
Nhưng với chị thì đáng, chị quẹt nước mắt, nói chắc như đinh đóng cột, “chừng nào chưa giải quyết cho thỏa, tui theo tới cùng”. Để có sở phí đi lại, chị hái chanh, bẻ trầu, chắt mót những thứ bán được trong vườn đem ra chợ. Trao mớ chanh cho chúng tôi để lấy chút tiền, chị xin ly nước lạnh. Lúc đói lòng thì ăn xôi, không gấp cũng không cần đi xe ôm, ‘lội bộ tà tà cũng tới”. Thấy chúng tôi ái ngại, chị cười, “lúc đầu còn nghĩ đòi mấy chục giạ lúa cho bỏ tức, bây giờ không nghĩ tới lúa nữa, mà chỉ mong mấy ông nhà nước làm sáng tỏ, rạch ròi phải trái, đúng sai”. Tôi buồn, chị thậm chí không biết (hay không dám) dùng từ “công lý”, mặc dù những điều chị nói đích thị là công lý. Vì thấy nó cao xa? Vì thấy nó là thứ khó với tới?
Tôi buồn, bởi những Thu Cúc giữa đời, nhiều quá. Đến cơ quan tiếp dân, đến toà án, đến uỷ ban… hay gặp các chị, các thím đứng ngồi. Anh bạn làm thẩm phán cho tòa dân sự tỉnh phân tích vui, sở dĩ tỉ lệ phụ nữ đi kiện nhiều hơn nam giới là vì họ giỏi chịu đựng, kiên trì, mềm dẻo và dễ khóc, dễ làm lung lạc người khác. Lại thấy buồn, vậy thì cái vũ khí sau cùng xem như không có tác dụng, bởi công chức nhà nước là những người không dễ mủi lòng.
Nên có người đã đến được đường chân trời, có người vẫn rị mọ xa xa. Sức sống không vì thế mà kiệt, người không vì thế mà bỏ cuộc. Có chị dặn tòa, có xử thì cho hay trước chừng nửa tháng, tui rọc lá chuối bán mới có tiền đi. Có thím xin hoãn phiên xử lại, chờ đến mưa, “lúc đó rau rác nhiều…”. Rất nhiều đường để đến điểm hẹn của công lý, nhưng có con đường nào nhọc nhằn bằng đi tát những vũng cá cạn trên đồng không? Anh bạn thẩm phán hỏi tôi, rồi trầm ngâm, “lên tòa ngày ngày, nhờ những Thu Cúc “made in đậm đặc Viet Nam” này, mà tâm hồn tôi bớt chai sạn, để còn cảm giác rưng rức, chua xót, thanh thản, nhẹ nhỏm, vui vui”.
Tôi không biết nữa, nếu cần tìm những cảm xúc cho mình, tôi thích nhìn những chị, những thím ngồi soi kiếng, chải tóc, hay gội đầu ngoài sàn nước, thích những người phụ nữ ngồi khâu vải vụn làm mền dưới thềm trưa.
Tôi thích nhìn các chị nằm trên võng, đưa con, hát vọng cổ thật hiền. nhưng cuộc đời lắm khi buộc các chị phải cặp nách xấp đơn từ ra đường, đi lêu lêu trong nắng, mỏi mê trong uất ức, trong chờ đợi, hy vọng…
Cũng đành…
Chi tiết
Tạp văn
Ngiyễn Ngọc Tư

Sáng nay lại khổ sở vì chi tiết.
Hăm hở vác máy ảnh, giấy bút lại cơ quan tiếp dân, không gặp nhân vật đâu, chỉ thấy vài người dân cặp nách giấy tờ, bồn chồn đứng nép bên cổng, vẻ chờ trông. Một lão nông liên tục đổi chân trụ. Chị phục vụ chắc đã quen với mấy cảnh này, nên chỉ mời cà phê cho mỗi mình nhà báo. Cô ngó ngoài sân, thấy cồn cào, như thể những giọt cà phê nghi ngút khói kia từ phin rơi thẳng xuống lòng chứ chẳng phải vào ly. Cuối cùng nhân vật cũng tới, chực thấy anh qua cổng thì bài báo của cô lập tức rụi ngọn, như bị hắt nước lạnh. Không, chính xác là bị cây tăm đang đỏng đảnh ngoắc ngoắc trên khóe miệng nhân vật chọc thẳng vào mắt.
Nói cho cùng thì cây tăm không có lỗi, nó được tạo ra là để xỉa răng, nhưng nhiều lúc nó biến thành biểu tượng của sự phè phởn, thoả mãn, vô cảm. Một người có cởi mở, nhiệt thành đến đâu, cái tâm tốt đến đâu, cũng bị đè bẹp bởi bề ngoài vô duyên và vô tình khi cây tăm cứ nhịp theo lời nói. Cô nghĩ vậy. Cô xách xe ra về, tự trách mình hay làm hư việc bởi những chuyện không đâu.
Chi tiết “hành” cô không phải lần đầu. Có lần xuống địa phương, hăm hở lặn lội trên những con đường quê vòng vèo, thấy những đứa trẻ đi học về ngoi ngót trong mưa thương quá, nhác thấy anh chủ tịch xã cười khoe tám cái răng bịt vàng choé, bỗng thấy mệt muốn ngất đi. Có lần đi mua mấy hộp sữa cho con, thấy chị bán hàng chửi người ăn mày xoi xói, cô bỏ đi mua chỗ khác. Có lần đi Đất Mũi thấy người ta xây ở đó một nhà rông kiểu… Tây Nguyên, cô hết muốn quay lại. Có lần định viết gương người tốt việc tốt một cán bộ Đoàn, nhưng ngặt nỗi anh này hay khệ nệ cái cặp táp dày ù, móng tay thì để dài. Có lần …
Cô tự làm cuộc sống của mình mệt ngoài. Nhưng không từ bỏ được, vì ngấm nỗi buồn chi tiết trước khi vào nghề viết lách. Cô dở toán bởi thầy dạy toán hay giơ tay ra bộ đếm tiền vào đầu tháng, làm thót ruột mấy đứa học thêm. Cô ghét tham gia những cuộc thi của trường chỉ vì câu nói “làm cho có phong trào để cuối năm trường mình được xếp loại khá” của người phụ trách. Có những quán cà phê cô chỉ đến một lần, nhưng lần đó bị tra tấn bởi thứ nhạc kiểu như “Em biết tôi yêu em mà em từ chối tôi làm tôi đau, tôi thương, tôi buồn” (chú thích: thấy dài ngoằng vậy chứ chỉ là tên của bài hát thôi). Thần tượng nhà thơ nọ nhưng bắt gặp cọng bún khô queo vắt trên bộ râu ông, cô buồn hết mấy bữa. Cô hay rước bực dọc vào mình, chỉ vì tấm panô tróc sơn loang lổ ở quãng trường, tiếng chuông điện thoại bằng giọng con gái ỏng ẹo, hay lá cờ xiêu vẹo trên cổng cơ quan… Đáng ra được thanh thản, nhưng cô cứ rối bời.
Cô hay tự lừa dối mình rằng, ta là người phóng khoáng. Té ra không phải, cô rất trọng tiểu tiết. Có lần gặp lại người yêu cũ, cô ngồi nhắc lần gặp đầu tiên, mắt anh lúc đó, miệng anh cười lúc đó, tóc anh lúc đó. Và kiểu áo anh hay mặc, những câu anh thường nói… Cô ngó anh, cười bảo, đi đâu, gặp mùi nước hoa cũ, là em nhớ, ngày xưa thơm bựng trên áo anh. Mỗi câu nói như một mũi kim buốt vào lòng, cô cảm giác vậy. Anh ta ngẩn ngơ, vậy a, vậy à, rõ ràng, chi tiết làm anh ta anh ta xúc động đến thảng thốt. Cô đọc được sự bối rối của một kẻ không nhớ ra những gì người khác nhớ, tăm tắp.
Rốt cuộc dường như chỉ phụ nữ là nhớ đằm, nhớ sâu…
Những chuyện không đâu
Buồn buồn nói chuyện buồn chơi
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

1. Gặp cậu lần nào cũng ngó mình, rưng rưng, con Lam của cậu cùng tuổi với bây. Tuổi Tỵ. Tết này là ba mươi tròn. Rồi cậu lặng đi, trợn trạo nuốt ngụm trà như vừa uống nước mắt.
Đứa em họ có cái tên làm mình phải ghen tị hoài, bởi cảm giác Lam là cái gì đó rất êm đềm, dịu dàng, bảng lảng, mỏng manh, như lụa, như sương như khói, chẳng phải như tên mình, thô dày, nặng nề và có vẻ thách thức. Nghĩ vậy, nên đau nhói đôi lần, khi thấy Lam è ạch kéo xuồng qua đập, khi Lam trầm mình dưới bến sông làm bờ kè chống lở.
Lam lấy chồng sớm, ngày cưới mình, Lam đã hai con. Hiếm hoi, dịp cúng giỗ gặp nhau, giật mình khi Lam gọi mình bằng chế, đúng theo vai vế. Chưa đến nhà Lam nhưng cảm giác đã đến rồi, cũng lần dọc theo con sông miên man, rẽ vào mấy dòng kinh quanh co, sẽ đến một xóm nhỏ buồn buồn, với những hàng cau, bụi tre buồn buồn. Nhà cột cặm, hơi thấp, cũng buồn buồn. Cho đến một ngày buồn buồn, Lam tìm đến cái chết.
Mọi người vật ra, ngơ ngác, món nợ chưa đầy hai mươi triệu + bà mẹ chồng hơi khó tính + những mùa tôm cứ thất bát nối đuôi nhau + buồn = cái chết. Đơn giản như một bài toán trẻ con. Lam nằm lạnh ngắt, dửng dưng, hai đứa bé đứng ngơ ngác nhìn những người lớn đang thương khóc, mà chẳng hiểu làm sao họ khóc. Cảm giác của mình về một cái tên dường như đã sai ngay từ đầu, Lam dường như là lam lũ, cơ cực, cong oằn, cả cái chết cũng là cơn bão quăng quật tả tơi những người ở lại.
2. Diễm cũng hưởng dương hai mươi chín tuổi. Đứa bạn sung sướng từ lúc lọt lòng, nghe nói chưa bao giờ đi chân không trên đất. Học trường điểm từ hồi mẫu giáo, cấp một hai ba cũng vậy, vào đại học cũng thuộc loại danh tiếng, xênh xang. Chưa ra trường, gia đình đã thành lập một công ty kinh doanh máy văn phòng lớn, với đầy đủ nhân sự, chờ Diễm về. Công việc không chê được, người yêu cũng tuyệt, đúng chuẩn đẹp trai để thương nhớ, giàu có để lấy làm chồng.
Nên hôm Diễm than buồn mình đã bật cười, trời ơi, Diễm mà buồn thì mình biết làm sao. Diễm cười, héo hắt như người ta đơm sẵn nụ cười ở đâu đó, và Diễm lấy gắn vào môi. Một cơn buốt lạnh chạy dọc sống lưng, mình đã từng cười như thế, đúng là Diễm buồn, buồn như một căn bệnh. Không phải là buồn như mình vẫn thường rêu rao, “Trời ơi, sao không ai rủ tui nhậu, tui buồn muốn chết rồi nè”. Bệnh buồn là hổn hợp của những đổ vỡ, ngơ ngác, thảng thốt, vu vơ, ngớ ngẩn, lạc lỏng, mất mát, vô nghĩa, không phương hướng. Những cái buồn không nắm bắt được. Mù mịt. Vây bủa. Không biết lối nào để thoát khỏi nó.
Từ những buồn rời, không tan được vì thiếu lửa, buồn kết thành băng. Diễm chọn cái chết. Đơn giản hơn cả bài toán đơn giản nhất. Cái chết chỉ là buồn + buồn + buồn + n buồn + vô tận buồn. Hôm tới tiễn nhau, mẹ Diễm không nói, chỉ nhìn mình, ánh mắt nhói lên, “tại sao lại là con mình, sao không là con bé xấu xí hom hem và phá phách, phiền phức này?”. Mình muốn giận bà, mà giận không xong, chỉ thương ngập lòng.
3. Những cơn buồn đã vùi Lam, Diễm vào đất cũng đã từng làm mình hoang hoải, điêu đứng, liêu xiêu. Như đã dìm một lớp người trẻ khác vào biển buồn, một thứ cạm bẫy mới, rất đáng sợ. Ở đó, những lời động viên, an ủi, công việc, tiền bạc… đều không có tác dụng, chúng chìm lỉm. Ai đó buông xuôi, ai đó vịn được bờ. Bến bờ là một cái gì đó tình cờ, đôi khi kết thành từ những vớ vẩn, bờ của mình là một thí dụ. Một loài cây trổ bông xanh. Một cao nguyên biền biệt đá, người sống trên đá, chết trên đá, cây cỏ mọc trên đá. Một vùng cát trắng khô cằn, những đàn bò gầy quắt mỏi mê tìm cỏ dưới cái nắng rát bỏng… Mình đã được đến những nơi ấy đâu? Mình đã trải nghiệm cảm giác … làm sui, nỗi đau nhói khi tiễn con về nhà chồng đâu? Những nỗi đau của người đời, mình chưa kịp viết. Và còn quá nhiều người mình chưa được gặp, còn nhiều cuốn sách hay (mà dạo này lại có quá nhiều sách hay), nhiều bộ phim chưa xem…
Đến một ngày, đứng bên một dòng sông lạ, hay gấp lại một cuốn sách, thấy rưng rưng biết ơn chúng, có chúng nên qua bão buồn mình còn sống sót.
Và còn nhìn thấy màu xanh đã thẫm lại của tuổi ba mươi. Dù con đường đi đã vắng vài bóng người quen, họ mỏi mê, họ không đi tiếp nữa. Mình vẫn một mình bước tới.

Mưa Vĩnh Hưng
Tản văn
Nguyễn Ngọc Tư

Đám mây đen ướt sũng nước nằm chắn ngang phía con đường đang vút tới, như một cánh cửa đóng sập xuống. Vĩnh Hưng đằng trước. Cột cây số nói vậy. Nhưng sấm chớp thì nói đi nữa sẽ gặp mưa ướt mèm, có đáng không?
Bạn đã đối diện với câu hỏi đó hàng trăm lần trong đời, "Có đáng không?". Gã đó có đáng cho ta ba chấm (*) không, chuyện đổ vỡ nhỏ đó có đáng cho ta buồn không, thất bại đó có đáng cho ta ngã gục không… Và "có đáng không" nhiều lúc được hiểu như "nơi đó có gì hay mà ta phải cực thân dữ vậy?". Đó là những khi bạn trên đường gió bụi, phải dắt chiếc xe cán đinh thất thểu đi tìm chỗ vá, phải nằm queo trong căn phòng trọ mốc meo không điện không nước cửa không chốt gài, phải thấy mình đang ngun ngút bốc hơi trong nắng lửa, và gió cát tát vào mắt…
Do dự vặn vẹo làm bạn mệt phờ, nó muốn bạn bỏ dở cuộc đi, ru ầu ơ chăn gối ấm ví dầu tắm nước nóng… Có khi nó thắng. Cũng có khi bạn kháng cự bằng tất cả những gì bạn có, đây này đồi chè đây này suối nước nóng, và những cánh đồng triền miên hoa cải, nhưng nhiều lúc bạn chỉ có mỗi cái tên, một chấm nhỏ trên bản đồ. Và từng ấy cũng đủ. Những Khâu Băng, Rừng Lạnh, Khau Phạ, Cành Nàng, Đồng Bụt, Thứ Mười Một… Những cái tên gợi cảm, xa xăm, sâu thẳm như được gọi lên từ một miền trời khác. Những cái tên khiến bạn thèm ăn chúng, hít thở chúng. Những cái tên mời mọc bạn lên đường và giữ bạn trên đường.
Và bạn chưa bao giờ thất vọng, ngay cả nơi đó khô rốc gió Lào, lèo tèo vài hàng quán nhỏ, bụi mù đỏ và không một bóng cây. Có lẽ thất vọng thường đi kèm lời hứa, nhưng bạn hầu như chẳng nhận được lời hứa nào. Chúng chỉ như bảo, tôi đây, đến với tôi đi, tôi có gì á, tới đây rồi biết. Như Vĩnh Hưng, không thể hiện chút gì về mình ngoài cái tên cheo leo nơi biên giới. Ở chỗ cách Vĩnh Hưng bảy cây số, thực sự cái bạn đang có chỉ mưa là mưa. Không, tận hai cơn mưa, chúng kẹp bạn ở giữa. Tạt vô một căn nhà bên đường trốn ướt, bạn vuốt nước mưa trên mặt, thấy Có Đáng Không nhăn nhở chập chờn.
Nhưng nó biến mất tăm, kể từ bạn ngó ông già đang nằm ngủ bộ vạc trước nhà. Chân buông thõng xuống, cái quần cộc rộng lồng gió phất phơ, hồn nhiên để lộ những cơ bắp chảy nhão. Ông già ngáy đều, nghe trong mưa có tiếng lật phật của môi. Bộ điệu nhẹ nhỏm như thể giấc ngủ đến rất tình cờ, như thể ông già đang ngồi đợi ngắm mưa thì buồn ngủ quá nhẹ nhàng lăn ra vạc, bỏ trời đất bơ vơ.
Cửa nhà mở toang. Ghé đụt mưa cả buổi chỉ có một chị ló đầu ra ngó, cười tươi rồi lại biến mất, bên trong tiếng trẻ con ríu ran. Ông già nằm không cục cựa, giấc mơ trưa trôi giữa cơn run rẩy của đất trời. Con chó nằm cạnh cái tủ thờ chỉ ngóc đầu lên ngó rồi gối đầu lên chân lim dim. Mấy cây bàng xòe tán che kín mặt sân, lá rụng chở mưa xuống đất cho mưa đỡ đau.
Bạn nín thở rón rén bỏ đi. Bạn sợ chút nữa đây con chó sẽ sủa những âm thanh hằn học và ông già bị đánh thức, trẻ con trong nhà sẽ ùa ra hỏi hau háu ủa dì ở đâu mà đi tới đây, Vĩnh Hưng chán thí mồ mà chơi gì? Tụi nhỏ sẽ không bao giờ tin bạn tìm được thiên đường ở đây, ngay nhà chúng.
Tụi nhỏ không bao giờ hiểu cái cảm giác thanh bình này đáng giá bao nhiêu, và bạn phải đi xa bao nhiêu mới gặp. Có những nơi trên dãi đất này, nó đẹp không phải vì cảnh đẹp. Bên ngoài thềm nhà đó cũng là xóm làng mênh mông, đi lòng vòng cả buổi bạn không gặp một nét mặt thăm dò, không nhìn thấy sự dè dặt, thù hằn, không có ai dõi mắt theo, không một tiếng động nào chát chúa. Bình yên lẩn khuất trong từng nắm mưa lâm thâm, trong bộ điệu lừng khừng nửa trôi nửa dừng của mấy chiếc tắc rán giữa sông, trong cái barie chỗ vọng gác biên giới được anh lính biên phòng nào lơ đãng kéo chếch lên, như không còn gì ngăn cách ta và bạn, trong mưa này. Vài bà già làm công quả trong chánh điện chùa Nổi đang rị mọ lau mấy cái chân đèn, bỗng có bà dừng tay bồn chồn bới củ tỏi lại búng tóc sương, khi nghe tiếng ho từ ngôi nhà sàn bên kia màn mưa - chỗ ông thầy trụ trì chùa đang ở. Chẳng hiểu sao bạn nghĩ tới một mối tình thầm, man mác, trắc trở. Chắc tại mưa khiến xui…
Lúc trở về ngang qua cái nhà mà mình khi nãy ghé qua, thấy bộ vạc trống trơn. Chắc là ông già nghe lạnh nên tỉnh dậy mất rồi. Vĩnh Hưng như một giấc mơ, chỉ mưa là thật…
(*) …

Áo rách và nắm bụi
Tản văn
Nguyễn Ngọc Tư

Hai thằng nhỏ leo qua rào, một đứa bị kẽm gai cào rách toạc áo. Cái vết rách hình chữ L bên hông nó thò ra mảng da đen thùi lùi, đen đến nỗi cảm giác làm thâm kim luôn cái áo màu cam lợt. Xui rủi là tôi cũng có mặt ở đó, và đang chụp hình chúng và chú thích hiện lên trong đầu ngay khi màn trập máy ảnh chưa mở, “qua một hàng rào kẽm gai của resort đang xây dở…”.
Nhưng cái chú thích cùng tấm ảnh dường như đã cháy xém trước ánh nhìn trừng trừng của đứa bé kia. Nó chửi thề ô bô lô a ba la rồi hỏi bộ giàu là giỏi lắm sao? Bỗng dưng tôi thấy mình cầm máy ảnh là có tội, ăn mặc tử tế là có tội, tôi trắng hơn nó cũng là có tội. Và tôi có tội vì đã đến hòn đảo thiên đường này chơi, nên người ta mới xây cất chỗ nơi đón tôi, nên áo thằng nhỏ rách.
Bây giờ là cuối tháng mười một ta, gió biển thổi bề nào cũng lạnh. Thằng phong phanh ái ngại nói với thằng (đã) phong phanh mà còn rách, má mầy đánh đòn cho mà coi. Tôi nhớ mình hồi xưa trèo cây làm xước cái áo len mới, lúc về đi lùi vô nhà, phòng khi má đánh thì chạy cho lẹ. Cái áo lành lặn thời niên thiếu là cả một gia tài. Như đứa trẻ xứ biển này đây.
Thằng áo rách vẫn còn đứng nấn ná mếu máo hoang mang bên rào. Bạn nó đã chạy về trước vì tới giờ cơm. Nỗi sợ, nhớ tiếc làm cho những tia lửa trong mắt nó dịu lại khi tôi lân la lại bâng quơ gợi chuyện nọ kia. Hỏi nhà nó khoát tay về phía xóm nằm bên kia bãi cát, nom cái nhà nào cũng giống hệt cái nào, giống cả những cuộn khói còm nhom đang bay lên.
Bãi cát đó người ta cũng sắp rào lại để xây một trung tâm thương mại của đảo. Nghĩa là con đường ra ngoài bãi biển của tụi nhỏ ngày càng bị ngăn lại bằng nhiều lớp rào gai tường cao hơn. Nó kể mấy tháng trước chiều nào nó cũng dắt em ra ngoài bãi biển để đút cơm, “cho con nhỏ vọc nước là đút nhiêu nó cũng ăn hết, ở nhà dễ gì…”. Thằng áo rách kể và kể, về đứa em nhỏ và bọn trẻ trong xóm, về những cuộc chạy chơi vui đến rã rời và có vài đứa suýt chết đuối, về những con cá trôi dạt mà nó lượm được đem về muối chiên ăn thum thủm bùi bùi.
- Con chó Phèn của nhà tui chôn ở đó.
Giờ bãi biển, nơi con chó “khôn như quỷ, lúc sắp chết còn biết chảy nước mắt” đang nằm yên nghỉ, đã thuộc về những người xa lạ.
Và mai đây bầu trời cũng thuộc về người khác, khi tòa lầu mọc lên và ngăn trở mọi tầm nhìn. Tôi nghĩ vậy khi nghe thằng nhỏ ba hoa nói nếu leo lên mấy cây dương chỗ gần nhà nó, là có thể thấy được hòn Rái Nhỏ tuốt luốt ngoài khơi. Nó vừa kể vừa mân mê chỗ áo rách, như không làm sao quên được cú xé tàn nhẫn làm lạnh buốt mấy cái be sườn bén ngót. Bìa vải nào cắt vào tay nó mà cơn oán giận quay trở lại, thằng nhỏ đẩy tôi về bên kia biên giới bằng bóng tối trong mắt nó, “chị cũng phe tụi nó…”. Tụi nó ở đây là hàng rào gai hay chủ của hàng rào gai?
Chữ phe của nó làm tôi nhớ ông cậu họ già nua của mình, có lần gằn giọng hỏi bây coi coi vầy là mây che phía nào? Câu hỏi, cũng là kết luận của một câu chuyện xóm làng mà ông già đang uất giận. Mấy nhà máy thủy sản làm ô nhiễm nguồn nước nuôi trồng quanh đó, kêu than mấy năm trời không ai giải quyết nên một bữa bà con kéo lại công xưởng nói chuyện phải trái. Mười lăm phút sau khi mọi người vẫn còn nhao nháo đừng ngoài rào thì nhà chức trách tới xua tan tác. Mây không đứng giữa để đôi bên đều râm mát đều được tưới tắm mà dường như nghiêng hẳn về một phía không một chút giả vờ xuề xòa.
Bây cũng phe tụi nó, ông già nói vậy rồi bỏ đi một nước, khi nghe tôi ngập ngừng cái câu “bà con mình cũng có chút không phải…” mà tôi đã phải xóc cả rổ lời để lựa ra những cái nhũn nhặn, mơ hồ nhất. Lúc đó tôi tự hỏi từ bao giờ xuất hiện những ranh giới và tôi buộc phải chọn hoặc đứng về phía này hoặc phía kia, không được ở giữa?
Như thằng nhỏ rách áo ngay từ đầu đã mặc định tôi thuộc về phía những kẻ lấy mất bãi biển của nó, vì tôi được ra đó chơi mà không phải leo rào. Chỉ cần trả tiền thôi, thứ mà đứa bé kia không có. Thằng nhỏ rạch ròi tới mức bỏ tôi lại, nó băng sang bên kia đường một mình.
Và khi chiếc xe hơi màu trắng sữa ngang qua tung đám bụi cát chia cắt hẳn tôi và thằng nhỏ, tôi đã kịp thấy nó hốt một nắm vỏ ốc ném vói theo, kèm theo một cái đá gió rất khẳng khái. Sau những vòng bánh xe thản nhiên quay có mấy tiếng chửi thề của chính thằng nhỏ lả tả rơi.
Ủa sao tôi thấy buồn thấy đầy dự cảm bâng quơ? Ủa sao tôi không thấy hành động của thằng nhỏ tuyệt vọng như đã từng, khi nhìn theo bóng ông cậu mình lúi húi chống gậy đi trong chiều muộn?

Đi chợ chợ xa
Tản văn
Nguyễn Ngọc Tư

Lần chiếc xuồng ra khỏi rạp xuồng lúc trời vẫn còn tối mịt, bà già nghe sương nhểu từ những đuôi lá dừa nước xuống vai mình. Con nhỏ ngồi đằng mũi vít vít cây dầm xuống nước quẩy chủm quẩy chủm, âm thanh hớn hở như nó đang hớn hở: bữa nay bà ngoại cho nó đi chợ. Nó sợ bị bỏ lại, nên dậy theo bà già từ ba giờ sáng. Phụ bà nhúng nước mấy bó ngò gai, húng lủi… lạnh móp cả đôi tay. Mùa chướng sờ đâu cũng lạnh, ờ mà thật ra, là cái gió lạnh đang hiện diện cùng khắp, nó sờ mình.
Chếch bên trời còn một mảnh trăng. Xuồng cứ nhắm bên phải trăng mà đi. Bà già chèo gấp rãi, sợ đụng chợ trưa khó bán mua đã đành, tìm một chỗ ngồi cũng khó. Sương thấm ướt cái khăn rằn đội đầu. Con nhỏ nằm ngủ queo rồi, nằm giữa cà vung trầu và buồng chuối chín bói chim ăn mất mấy trái. Vài chiếc xuồng đi chợ sớm khác đuổi kịp nhau, hỏi han râm ran chuyện lúc thóc, mùa màng. Nghe bên kia nói vô bồ được trăm hai mươi giạ mà nhà tới mười miệng ăn, bà già thở dài thương cảm, như đang thương chính mình.
Bà già cảm thấy hơi lạnh dù chèo mệt, người rịn mồ hôi. Người quê, những cơn lạnh đến rồi đi đôi khi không vì gió. Trời hửng thì con nhỏ bị đánh thức bởi tiếng nhạc phát ra từ dãy nhà cất ven sông. Mới đầu thì nhà họ còn thưa, rồi san sát dần, ồn ả sáng lóa dần.
Chợ.
Đây là lần đầu tiên con nhỏ đi chợ bằng đường sông. Nó nhìn phía sau những ngôi nhà chen chúc nhau nhón chân trên nước nghe ngạc nhiên hết sức. Trông chúng lộn xộn, gần gũi, dung dị như như ở một xó quê nào vậy. Có người bưng gàu mên nước ngồi chồm hổm bên thềm rửa mặt. Có trẻ con cởi truồng tắm sáng. Có ông già chống gậy ra cửa sau tựa vào cây gậy ngó mông lung. Cá khô xỏ xâu phơi trên sào quần áo, những giẻ lau đủ màu sắc giắt gần đó, phơ phất như đuổi chim trên ruộng. Những xô chậu, những lu khạp, những cái võng treo xiên xẹo… Đằng lưng của chợ nhìn thân thiện với người quê, con nhỏ thích.
Nhưng cửa sau thì không phải chỗ bán mua, chợ phải là mặt chợ kìa. Chỗ đó lộng lẫy và sáng loáng làm con nhỏ cảm thấy hai bà cháu mình trở nên nhỏ thó và lem luốc. Dãy nhà lầu bên kia đường cao, đến nỗi bóng chúng ôm hết cái chợ chồm hổm đến nửa buổi sáng thì mặt trời mới chạm vào đôi dép cũ đã vá tèm lem của con nhỏ. Nắng lên, đôi dép xấu xí hơn. Không gian tràn ngập thứ ánh sáng như nôn nả dồn đuổi, như xua người ta về với ruộng vườn xanh bóng cây. Ở đây, mọi thứ đều chói gắt lấp lánh. Cả tô hủ tiếu mà đứa trẻ chợ kia ngồi ăn cũng lung linh lạ thường. Con nhỏ cảm thấy mình dòm miệng đứa kia hơi lâu, tự mắc cỡ ngoảnh đi chỗ khác.
Chợ trưa dần. Bà già vẫn còn mười một ốp trầu trong cà vung. Vài chị mang guốc lóc cóc lại, kêu thím ơi coi như chẵn chục đi, tôi mua hết. Con nhỏ lạ lắm, lạ suốt từ sáng giờ. Nó học lớp một trường làng, sự thật mười một không thể là mười được, hai con số ấy khác nhau. Như hồi sáng ngoại nói nải chuối ba trăm đồng, khách nài hai trăm rưỡi đi cho chẵn. Con nhỏ thấy rõ ràng sự chẵn của khách không chẵn chút nào. Nhưng khách đã dợm bước để chứng tỏ mình cái quyền tối thượng của mình: quyền đi chỗ khác, quyền ngoảnh mặt, quyền được đúng. Bà già chịu thua.
Nhưng bà già không cay đắng, quạu quọ… bà ung dung, thanh thản. Từ hồi bằng con nhỏ bà đã theo người lớn đi chợ, đã được dạy rằng người quê không có quyền định giá món hàng mình làm ra. Và giá của những rau những lúa không bao giờ đứng yên, chúng chạy thót tim theo cơn nắng sáng, mưa chiều. Pin đèn không vậy. Cây kim may tay cũng không vậy.
Con nhỏ rồi sẽ phân biệt được thôi, khoai mì và bột ngọt khác nhau không chỉ vì chúng là khoai mì và bột ngọt. Chúng khác xuất thân. Giờ thì bà già dẫn con nhỏ đi ăn hủ tiếu. Chị bán quán vét hết mấy thứ trên bàn thì vừa tròn tô hủ tiếu, dù nước súp đáy nồi sắc mặn như kho. Bà già chỉ nhá gói xôi và ngồi ngó cháu đang ăn ngon lành, tô hủ tiếu đầu đời của nó. Lấp lánh và muốt, đó là cảm giác của nó về tô hủ tiếu, và khi trả tiền nó nhận ra mình vừa ăn nửa cà vung trầu. Biết nói sao, vừa lảo đảo say vừa ràn rụa cay.
Đường xuống bến đậu xuồng xuyên thấu qua lòng một tiệm tạp hóa, bà già nói nhà này hồi trước ở xóm mình, loạn lạc quá mới tản cư ra đây. Hèn chi gặp nhau cứ nghe giòn chuyện xóm làng đồng áng. Hèn chi họ bày hàng hóa lủ khủ lềnh khênh mà không chút dè chừng những khách quê bao bận lên xuống bến, như thể đã thuộc lòng sự ngay thẳng của nhau. Con nhỏ ngẫm ngợi trong lúc chờ bà già loay hoay mua dầu hôi nước mắm, đường mía, ống khói đèn chong, ống chỉ đen … Tất nhiên bà già không quên chai dầu gió bôi cho đỡ nhức đầu và mấy lọ Tế Chứng Thủy trị đau bụng. Tất nhiên con nhỏ không quên đòi mua đôi dép mủ mới. Thấy bà ngoại lúi húi mở kim tây lấy tiền trong túi trái, con nhỏ biết rằng những món trong vườn sáng nay không đủ đổi lấy mấy thứ lặt vặt này. Bà già vừa bù thêm một phần tiền lúa.
Buổi chợ đầu đời mãi mãi ám ảnh con nhỏ, hai mươi tám năm sau khi nó ngồi nhớ lại, vẫn thấy mình đi chợ về te te lấy sách ra ngồi học, bởi không muốn lớn lên trồng trầu và rau húng lủi. Vẫn nhớ trong tô hủ tiếu đầu tiên mà mình được ăn, có dư vị trầu cay xé họng. Và đi bằng xuồng chèo thì chợ của người chợ xa lắm, rất xa, xa…

Mùa phơi sân trước
Tản Văn
Nguyễn Ngọc Tư

Hồi con nít thích đi xe đạp về nhà ngoại bằng con đường xóm cặp mé sông Rạch Rập. Đường đất dầm dãi suốt một mùa mưa, chừng gió chướng thổi về mới ráo tạnh bùn lầy. Đến Chạp thì những chân trâu cũng bị bôi xóa hết, có thể đạp xe thong dong mà thỏa thuê nghiêng ngó.
Mùa Chạp đi bảy cây số không nghe mỏi. Gió chướng khoác lên làng mạc một vẻ mơ màng, đường uốn lượn theo sông, và dòng chảy đó thẳm suốt thoắt ẩn thoắt hiện sau những lùm cây hoang dại. Dọc đường thấy Tết lấp ló khắp nơi, trên sân nhà người, trên những giàn phơi.
Người nhà quê hồi mình con nít toàn người nghèo, sân nhà quê hồi ấy cũng rặt sân đất, nên nhà nào cũng cặm cái giàn trước nhà, suốt sáu tháng mưa sân chìm trong nước cũng có chỗ mà đem phơi củi, hay gối, chiếu. Những ngày hửng nắng trên giàn luôn có thứ gì đó ngóng nắng, khi cám mốc, khi thì mớ bột gạo thừa trong lúc làm bánh, khi thì mớ cơm nguội hay mớ lá dừa khô dùng để nhen lửa, mấy trái đậu bắp già làm giống cho mùa sau… Phơi trên giàn mọi thứ khô mau, vì nắng ngun ngút trên mặt, gió lộng phía lưng. Những nhà có sân rộng người ta còn phơi lúa trên giàn, lúa khô đem vô bồ được mấy hôm đã thấy trên mặt sân săm sắp nước lúa rày đã lấm tấm xanh. Qua nhà nào có trẻ nhỏ gặp những tấm chiếu manh con con nằm uống nắng.
Càng gần về cuối năm giàn phơi càng bận rộn. Dầu dãi oằn mình suốt năm, giờ trên giàn bày ra những món ngon chuẩn bị cho cuộc hội hè. Bánh phồng vừa quết xong, củ kiệu mới trộn đường xong, mứt gừng mới ngào nửa lửa… thứ nào cũng ưa nắng. Nhưng cá khô mới là ưa nắng nhứt hạng, mới cần thứ nắng ròng ròng như thắp lửa, thứ nắng như cháy trên đầu. Mùa Chạp cá làm đìa người ta lớp rọng lớp làm mắm để ăn dần dần cho tới mùa lúa sau, mớ xẻ làm khô ăn Tết. Mùa đìa kéo dài cả tháng nghĩa là lúc nào giàn phơi cũng những con cá nằm nhuộm nắng cho đỏ au da thịt.
Mùa Chạp thể nào cũng gặp người ta ép chuối khô. Chuối xiêm chín cây sẵn ngoài vườn, lột vỏ phơi một nắng, rồi đem ép mỏng. Không như cá khô rủ rê bọn ruồi nhặng đến mức phải đốt nắm nhang cắm nơi đầu gió để xua đuổi chúng, mật chuối tươm ướt rượt chỉ mê dụ quyến rũ lũ ong. Kéo tới dập dìu, lảo đảo bay đậu như say, những con ong sa đà ở giàn phơi cho đến khi những miếng chuối ép mỏng bắt đầu khô quắt, vàng óng như vừa nướng trên than hồng. Chuối phơi đủ nắng có thể ăn tới ra Giêng, mật lặn vào trong vừa ăn vừa tợp miếng trà, hoặc ngào qua với khóm, me… đem dầm nước đá uống cũng ngon thấu trời.
Vậy là nước miếng mình ứa ra, trên từng mét đường về nhà ngoại. Tâm hồn mệt nhoài với những món ăn cực kỳ mời gọi trong sân thiên hạ. Đang thèm tô cơm nguội chan nước dừa ăn với khô lóc nướng thì bỗng nghĩ giờ phải có thịt kho Tàu để ăn với dưa kiệu nhà kia, rồi cái hủ mắm tép dầm nắng sát hàng rào làm mình nhớ nhung chuối chát, khế chua cùng với gừng xắt mịn thì mâm mứt tắc đỏ au đằng kia làm mình lịm chết một cách lim dim như tụi kiến.
Chân rõ ràng không mỏi, nhưng tâm rã rời, cứ chạy theo đeo đuổi miết trên những giàn phơi. Hụt hơi, chới với. Có lần về nhà kêu má Tết này làm những món này này, những món mà mình nhìn thấy mang theo trên suốt chặng đường từ nhà ngoại về. Má cười, người ta có đâu có nghĩa là mình phải có.
Mình dại hơn cả tuổi mười ba, không hiểu câu đó mấy, nên vẫn muốn má bày thật nhiều thứ trên giàn phơi nhà mình, chớ không phải còm nhom chút dưa kiệu, dưa hành, chút chuối khô… Nên Chạp sau mình vẫn nhắc, má lại nói ta đâu cần phải có cái mà người ta có.
Cũng may qua mỗi Chạp mỗi mùa phơi mình mỗi lớn, bài học của người của ta má không nhắc nữa, mình bỗng bâng quơ nhớ. Nhận ra trên giàn cũng phơi những thân phận người. Ngó qua khoảng sân đã rợp những cây mồng gà, vạn thọ biết ai ăn Tết lớn ai chịu đìu hiu, như ngó qua cái sào phơi quần áo biết nhà ai đông nhà ai đơn chiếc, ai khá giả ai nghèo. Nắng gió khiến mọi niềm vui nỗi buồn bày ra như một cuộc diễu hành, không che giấu khách qua đường. Căn chòi của bà già chèo đò hay chở mình qua sông trống mãi, cho đến ngày cuối Chạp bỗng trên đống củi có phơi vài tàu lá chuối, biết tối nay trên sân nhỏ bà sẽ ngồi canh nồi bánh tét đến giao thừa. Mình bỗng nghe nhẹ nhỏm khi nhìn theo bóng nhỏ đưa chiếc đò về bên kia sông.
Chật vật mấy, cuối Chạp cũng có cái đem phơi, đem nhuộm nắng, cũng có bụi bông vạn thọ, và bông trang bông lồng đèn nở rực rỡ trên rào…

Gáy người thì lạnh
Tản văn
Nguyễn Ngọc Tư

Bạn định vị trên điện thoại rằng nhà bạn gần một trung tâm dưỡng lão, cứ tới đó đi, bạn sẽ đứng chờ. Xe ôm thả tôi xuống chỗ buồn hiu đó cả buổi, tôi lựng khựng tìm hoài mà không thấy ông già lòng khòng xương xẩu đâu. Và khi tha thẩn ở cuối đường tôi bỗng nhớ mình đã qua đây, đã đi về phía con hẻm vuông góc với chỗ tôi đang đứng, chui vào căn nhà tuềnh toàng của bạn, mười năm trước. Tôi hôm ấy run rẩy như con mèo ốm o bị ướt, khi tới nhà ông Đồng gió, Nhớ khói mà tôi đã ngưỡng mộ lâu rồi. Để lần đầu tiên biết nhà văn cũng có hai mắt một mũi như mọi người, cũng hài hước, cũng lơ tơ mơ, cũng nghèo…
Cái hồi ức mười năm làm tôi hơi hoảng, mười năm qua tôi đã đi tới đâu, tận những chân trời nào, sao không thăm lại? Tôi loay hoay với câu hỏi đó khi ngồi chơi với vợ bạn, để đợi bạn đang vẫn còn ngóng đón tôi đâu đó ngoài đầu hẻm. Đến sắp gặp nhau rồi mà lẻ vẫn đuổi theo vẫn so le, trục trặc. Nối lại loay hoay như thể đã bị đứt lìa lâu quá…
Trong nhóm bạn già mà tôi hay lân la, bạn trẻ nhất. Mỗi lần gọi điện cho bạn, và nghe bên kia hịch hạc bảo, “ê nói nghe nè…”, như hai đứa trẻ con thầm thì, như bạn không cách tôi hai mươi lăm tuổi đời và hai trăm cây số.
“Ê nói nghe nè, mầy viết ác vừa vừa thôi, tao không chịu…”
“Ê nói nghe nè, có cái truyện trên Văn nghệ được lắm, sao không đọc? ”
Tôi không mảy may nghi ngờ việc bạn sẽ còn rầy rà tôi đến vài ba chục năm nữa, dù nhiều lần bạn nói bâng quơ ê nói nghe nè dạo này sao tao nghĩ nhiều về cái chết, làm như đã đi gần tới nó nên ngửi được mùi thấy mờ mờ dung nhan nó rồi. Tôi nghe có chút dửng dưng, chuyện đó thường thôi, thậm chí đôi khi tôi còn rờ đụng nó mà. Bỗng có bữa đầu dây bên kia bỗng rã rời, “ê nói nghe nè, tự dưng tao thấy đời buồn hiu, mậy…”.
Tôi ngớ ra trong giây lát, bởi chưa từng nghĩ bạn cũng buồn. Hồi biết bạn tới giờ lúc nào cũng gặp nhau giữa bạn bầy đông đúc, trong tôi mặc định bạn là con người của hội hè, tạo ra hội hè. Cứ cất tiếng “ê nói nghe nè, làm vài ly đi…” thì ai nấy hồ hởi đáp lời ngay. Cái chất hào sảng, chịu chơi của dân miền Tây mà phải chịu nỗi một mình thì vô lý.
Nhưng giờ quanh bạn thưa đi những tiếng vọng. Những cuộc rượu nếu có chảy về phía ông, cũng bằng một hình thức khác. Nhiều khi nhậu nhẹt bọn tôi đã lấy bạn ra làm mồi cho đỡ lạt miệng. Bọn tôi nhắc chuyện bạn thấy đồng nghiệp bị vợ bạc đãi nên bất bình nhảy ra bênh, ngoay đầu đánh chị kia cho chừa ai ngờ ông chồng nổ xung thiên cự lại “sao mầy đánh vợ tao?”. Hay chuyện hết tú tài bạn định đi vào cứ theo cách mạng, ngồi chờ tàu đò lâu quá tự dưng thấy… nản, bạn quay về bị chính quyền Sài Gòn bắt lính, ngót bốn năm làm anh binh sĩ ngồi bàn giấy, một bữa pháo lạc bầy tiễn về nhà với gương mặt có vết sẹo dài. Hay chuyện bạn giấu tiền dưới mấy cục gạch tàu lót nền, định xài riêng mà quên biệt, chừng xây lại nhà người ta thấy tiền rải đầy dưới đó. Hay chuyện bạn buồn ngủ quá mà tiếc cảnh vật đường xa nên bôi dầu gió vào mắt cho chúng đừng ríu lại. Hoặc chuyện bạn bỏ quên cái mắt kính trong phòng vệ sinh nữ, hồi đại hội.
Những câu chuyện ngộ nghĩnh ba hư bảy thực về bạn làm bữa rượu bỗng ngon hơn với những tràng cười nghiêng ngã, cười đến chảy nước mắt ra… Ôi ôi ông ơi bọn tôi vui quá. Sau phút giây ràn rụa ấy, bỗng ràn rụa trong tôi cái ý nghĩ ở trong một cái nhà nhỏ bừa bộn chật chội nằm trên hẻm nhỏ giữa lòng thành phố Long Xuyên, biết đâu chủ nhân của những huyền thoại đang uống rượu một mình.
Tôi vẫn hay thấy tuổi già của mình khi soi vào bạn. Bỗng trái tính trái nết, bỗng bạn bè đâu hết, thấy lẻ cả ở trong nhà mình. Đau đáu nỗi đời không biết nói với ai nên sà vào cuộc vui nào cũng tuôn cho đã cơn thèm, nào văn chương nào tôn giáo, nào cái ác nhiễu nhương… Xưa góp vui người ta gọi mời, giờ góp ưu phiền người ta ngại rủ lại chơi, thành ra bị bỏ rơi, thành ra bọn tôi cứ luẩn quẩn đi theo cái vòng cô đơn vô tận.
Hết duyên rồi. Như chữ bạn vẫn thường dùng khi nói về cô bạn thân hồi trước. Phụ bạc luôn len lỏi trong máu của mỗi người. Và những cuộc bỏ rơi nhau vẫn đang xảy ra ở đâu đó.
Từ ngày biết bạn cũng hay buồn, chập chờn mãi trong tôi hình ảnh một ông già mở ti vi cho nó oang oang và ngồi uống rượu một mình. Tới nhà chơi bỗng thấy may là bạn còn có sách ở bên, quơ tay đâu cũng đụng, mắt ngó đâu cũng thấy, chân đi đâu cũng vấp. Bạn vẫn ham, vẫn như đói ngấu mỗi khi gặp bất cứ cuốn sách nào. Tôi không còn thấy xa xót bồn chồn. Mang theo cuốn tản văn của Sandor Marai đọc lúc dọc đường, tôi để lại cho bạn. Cuốn sách này sẽ ở mãi đây, ngay cả khi tôi đã quay lưng đi khỏi.
Một cuốn sách thì cả khi chìa gáy ra, người ta cũng nhận được một cái gì đó ấm áp, trao gửi.

Rạch Rập
Tản văn
Nguyễn Ngọc Tư

Tên thì rõ ràng là rạch, nhưng đoạn chảy gần chợ người ta lại gọi kinh, và dòng chảy bị bóp nghẹt bởi hai dãy nhà sàn san sát. Rạch Rập chảy sâu về phía Nam thì rộng dần ra, qua những ruộng vườn xanh ngắt nghe trẻ con rủ nhau tắm sông tụi bây ơi.
Hồi tôi bảy tuổi, đó là con sông rộng nhất trần đời. Nhất là những buổi chiều tần ngần nhìn ông ngoại chống xuồng đưa má qua sông, rồi má một mình lội men theo bờ ruộng lên lộ xe, đi thêm gần chục cây số nữa, là đến nhà. Cái tổ đó tôi chui rúc cho đến năm bảy tuổi, cái tuổi cần tới trường mà ngoảnh đi ngoảnh lại trường nào cũng xa, đường nào tới chữ cũng bị mưa nhấn chìm ngoi ngóp. Má đưa tôi về ở với ngoại, trường học cách nhà ngoại chỉ một mảnh vườn, còn gì tiện bằng. Chủ nhật tôi tha thẩn chạy chơi ở đâu cũng ráng dỏng lổ tai ngóng bên sông coi có ai kêu ới lên không. Phía đó lao xao có nghĩa là má vô thăm, có khi đi cùng ba, cùng anh hay chị. Buổi má ra về, chắc thấy nắng úa dần trên đám lá dừa nước trước nhà ngoại chưa đủ cho tôi mủi lòng, mấy con bìm bịp còn đem rải tiếng kêu rầu rĩ lên mặt sông đang đầy cho buổi tiễn đưa sầu sâu thêm nữa.
Chắc hồi ấy tôi hơi buồn, nên ký ức về sông Rạch Rập cũng khoác một vẻ buồn thẳm suốt. Với những rặng dừa nước, những cây bần, cây vẹt mọc nghiêng nghiêng chểnh mảng ven bờ. Những hàng đăng đó lơ phơ chồi sậy, những cái vó cất gác chếch lên hóng gió sau một đêm sũng nước. Những chiếc ghe hàng bông neo lại bên rặng mắm nấu cơm chiều om lên vài lọn khói còm nhom. Hai bên sông nhà cửa lưa thưa, núp ló sau những bụi rậm mọc hoang những ô rô, chùm gọng, ráng, choại...
Sông buồn đến có thể ngửi được, khi ngồi ngoài bến. Thoảng trôi lại mùi của những cái bập dừa ngâm trong nước lâu ngày, mùi lá ráng mục nát, mùi sình non đùn trên ổ con chù ụ, và mùi những bông tra, bông quao nằm chới với trên bãi chờ nước lớn để bắt đầu cuộc đi hoang.
Một dòng sông lẻ, chảy hiền, dáng vẻ hơi hiu quạnh như thể ở bên rìa đời, không nhiều người biết không nhiều người lại qua nhưng nó vẫn sống tất tả một đời sông. Cũng chảy ngược xuôi mê mãi, cũng nhiều tôm cá, cũng nước ngầu ngầu phù sa, cũng nước lớn tràn bờ, ròng phơi bãi. Mỗi lần vớt chiếc dép còn mới, con búp bê nhựa bị mất tay, hay cái bình trà mất nắp… tôi vẫn chờ đợi một ngày nào đó sông sẽ đem tới cho mình phần còn lại của chúng. Bà ngoại kể những năm chiến sự ác liệt, ra sông gặp một đoạn chi người tấp vô ven đó là chuyện thường. Một năm sau cái Tết Mậu Thân, bà ngoại vẫn không ăn tôm cá ngoài sông vì ghê sợ chúng đã từng sống nhờ vào những mảnh người trôi dạt. “Là máu thịt đồng bào mình…”, ngoại ngậm ngùi. Trận đó thương vong lớn, kẻ khuất sông đưa về đồng bãi, kẻ sống sông che chở trong lòng, nhiều người không rút kịp ngụp lặn dưới những dãy nhà sàn tồi tàn lụp xụp, lần lượt cũng qua khốn khó.
Những câu chuyện kể của ngoại đã có tác dụng đáng kể, nó tác dụng ngay lập tức lên trí tưởng tượng phong phú của tôi, ngoại khỏi phải giữ chằng chằng cháu bà lén xuống sông tắm nữa. Nó sợ.
Nên Rạch Rập với tôi vừa thân thiết vừa bí hiểm, vừa thương vừa giận. Những ngày bên sông im lìm không tiếng ới, tôi đòi ông ngoại cho tập chèo xuồng. Ngoại cười, tướng chỉ cao hơn cây cột chèo mà đòi chèo… rồi ngùi ngùi hỏi nhớ má hả, để ngoại chở về. Ông ngoại chèo giỏi, nghe nói hồi chiến tranh ông chèo đi công tác hàng trăm cây số cũng thường. Và quãng đường gần tám cây số đường sông giữa nhà và nhà ngoại, giữa những chuyến đi về, tôi học làm người.
Đi xuồng phải ngồi day lại, nhìn nhau. Vì sao hả, vì cái lưng con người ta là ngó buồn nhứt hạng. Ông ngoại tôi nói vậy khi cười cái tướng tôi ngồi đằng mũi nhóc mỏ ngóng như chó chờ xương. Bỗng nhớ tới lưng má mình mỗi khi qua sông và chìm lút trong đám lức trên đường mòn. Tôi ái ngại xoay mặt lại về phía lái, mới hay áo ông ngoại ướt đầm, mà trước đó tôi còn cằn nhằn ông chèo chậm, ngồi mỏi quá chừng vẫn chưa tới nhà má.
Bài học nhỏ về sự vô tâm đó, và cái lưng gây buồn ám ảnh tôi, nhất là những lúc nhìn lưng ấy ơi ấy à xa khuất. Tôi còn mang theo nhiều thứ nữa từ con bé bảy tuổi ngày xưa, từ những chuyến ngồi xuồng cà tịch cà tang xuôi sông Rạch Rập. Con bé nhận ra nôn nóng cũng chẳng ích gì, sao không thử cảm nỗi lẻ loi của cái chị kia đang chèo một mình cất cái mũi xuồng lêu đêu đi giữa dòng gió, thử ngửi sự hiu quạnh của ngôi đình Tân Hưng nằm lút dưới những tàng cây rợp tối, thử nhìn mây trời mà tưởng tượng mơ mộng, thử học mót chút nào sự khoáng đạt của sông…
Quãng đường đó dễ chừng hơn mười lăm năm tôi không quay lại. Khi đi khỏi nó tôi vẫn chưa biết chèo, ông ngoại nói chuyện chèo chống con nít không phải làm. Rạch Rập nước vẫn chảy, mỗi lần cắt ngang dòng để đi qua thắp nhang cho ngoại, lại nhớ chiều dọc mà hai ông cháu từng đi, nhớ những chòi vó, rạp xuồng nằm núp ló trong tán cây, nhớ tiếng hỏi han hổn hển của những người quen đi ngược chiều.
Dòng sông chỉ chảy qua đời tôi hai năm chẳn, nhưng đã mặc định mãi mãi trong tôi rằng, sông thì buồn. Tôi té xuống sông Tiền, đi thuyền trên sông Hàm Luông, ra chơi giữa sông Hồng, thò chân xuống sông Nho Quế, nghe Sereprok sôi réo… thì vẫn không nguôi được cảm giác buồn của sông. Muôn thuở. Của chia cắt, của thầm lặng, của những cuộc luân lạc gần như bất tận, của sự cho đi, chỉ có cho đi.

Chụp ảnh gia đình
Truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư

Vào thời khắc cha quét váng nhện trên mảng tường tróc lở vôi và nhận ra trong nhà không hề có một tấm hình chụp chung nào chứng tỏ đây đang có một gia đình thì con đang lội mạng, nấn ná chỗ lễ đính hôn của một cô hoa hậu. Mùi xa hoa nào của buổi tiệc làm mũi nó dún lại trên gương mặt chảy dài thẩn thờ. Và cuộc gọi của cha đến khi nó đã chuyển qua chơi Bejeweled, những viên đá sặc sỡ vỡ vụn không làm nó nguôi đi chuyện cái áo đầm cô dâu kia mặc giá mười hai ngàn đô. Trời đất.
Về chụp hình cả nhà mình, cha nói hào hển, thở thì gần mà giọng hụp hửi ở đâu đâu, như đang ngoi ngóp dưới hồ. Thằng nhỏ thảng thốt hỏi lại, vụ gì cha? Về. Chụp hình. Cha gằn giọng và trước khi cúp máy, chọi qua thêm cục ngơ ngác nữa. Gấp.
Cái quán cà phê thằng con ngồi cách bến xe bảy cây số, cách sân bay mười hai cây, và cách bến tàu năm trăm mét. Tới những chỗ ấy thì sẽ cách nhà ngót ngét bốn trăm cây. Đường không phải là quá xa, chẳng lâu lắc gì cho lắm nhưng thằng con còn phải tốn cả tháng để hỏi đi hỏi lại, có đúng là cha kêu mình về để chụp hình không?
Gì thì chụp hình không giống một lý do, con không thể hình dung nổi chuyện phải bỏ công ăn chuyện làm đi hàng trăm cây số chỉ để toe miệng ra cười bên cạnh hai ông bà già và một con chó cũng già trong khi ông thợ chụp ảnh chổng mông đếm một hai ba. Thằng con nghĩ mẹ bệnh, nhà cháy, một người họ hàng thân cận nào đó cưới hoặc qua đời, hoặc đám giỗ ông bà nội ngoại mới là những cái cớ có thể chấp nhận được.
Bạn Tí cũng biết bông Cẩm Chướng nhà mình mà, tánh như nước nóng đổ dái. Ổng đang cằn nhằn nhức xương chuyện gián gặm nát cái hình hồi cưới má đây nè. Má nói, không quên đệm vào cái thở dài chừng ba thước tám. Những cái thở dài của má luôn xa vắng, trên điện thoại càng xa, như từ kiếp nào nối máy tới. Chỉ chữ bạn là ấm áp.
Má gọi con bằng bạn vào một hôm con không cho má coi cái nhọt trên mông nữa. Hồi đó con mười ba tuổi, giọng vỡ và trên người bỗng dưng mọc nhiều lông, đến nỗi nó nghĩ cứ đà này năm sau mình thành khỉ vô rừng leo cây ăn chuối mất. Nó sống trong nỗi hoang mang kinh khủng, chịu đựng một mình loay hoay một mình chống chọi một mình. Má thấy rõ ràng con ngày một xa, ra khỏi tầm với của mình, dù nó vẫn đang ngồi dặt dẹo chê cá tanh cơm lạt trước mặt mình đây. Má hỏi thăm khắp bạn bè, mượn mấy quyển sách tâm sinh lý về đọc, rốt cuộc xin được một chữ “bạn” đem về xài với con. Má đổi cách xưng hô, kêu bạn ơi bạn à suốt nhưng cũng chỉ mở được một tí đủ cho má hé mắt nhìn vào cái thế giới vừa hổn tạp vừa buồn cười, vừa ngượng ngập vừa ngớ ngẩn đó, mà không thể lách mình qua.
Lúc đó cha đang đi chiếu bóng lưu động ở những xóm làng xa tít mù tắp, heo hút tới nỗi cảm giác gió thổi cũng phải vói. Lúc đó cha đang bắc loa rao về bộ phim sẽ chiếu tối nay, đang lắp máy chiếu, trèo cây mắc dây nhợ, căng phông màn… cũng có thể đang xuôi ghe từ nơi này sang nơi khác, cái máy Kohler tàn tạ cứ cả ngày chạy cà tịch cà tang trên sông sông rạch rạch. Buổi sáng của cha bắt đầu bằng việc tìm nguồn nước sạch để đánh răng, và giọng nói sang sảng của cha sẽ mở ra ban tối, ra rả trước buổi chiếu phim, với những thông báo chính sách mới của nhà nước, hay phương pháp chống rầy nâu hay kêu gọi đóng thuế nông nghiệp mùa này.
Những năm sau đó, trong lúc con mệt mỏi trước việc tại sao thằng nhỏ giữa hai đùi nó cứ ngóc lên bất thần giữa buổi học mà không có một cơn cớ nào rõ ràng, thì cha đang hồng hộc rượt theo cái phông vải bị giông tốc cuốn đi, đang phơi mấy cái phim sắp mốc. Trong lúc con hôn vào ảnh Jennifer Lopez và nghe nửa dưới ướt nhoe nhoét thì cha đang tát nước ghe. Đội chiếu bóng lại nhổ sào đi bãi mới.
Lần xây lại nhà cha về luôn hai tháng, thằng con cứ thảng thốt mỗi khi đụng độ cha trong nhà tắm, Ủa, sao cha ở nhà lâu vậy?. Thậm chí nó còn vô tình nói ra câu thắt họng hơn nhiều, trời đất, tới bữa nay mà cha cũng chưa đi sao?. Cha bần thần đến ngón chân út cũng bần thần, thấy cái sự vắng mặt của mình trong nhà này có gì đó không hợp lẽ đời cho lắm.
Nhưng cha không coi vài cái thảng thốt của con không giống như một lý do để bỏ đội chiếu bóng, và những chi tiết chảy máu mắt mà cha vẫn thường gặp như bữa cơm con chỉ dọn hai cái chén, đi học về nhìn thấy giày cha nó hỏi má ơi có khách nào ghé nhà, muốn chạy chơi đâu đó cũng xà quần đi kiếm má để hỏi dù cha ở sờ sờ ra đó… cũng không phải là lý do có thể buộc chân cha lại.
Chỉ khi đội chiếu bóng giải tán cha mới thôi lang bạt. Làm anh công chức xà quần với hai mét vuông bàn giấy đã khó, làm người trong nhà còn khó hơn. Có tối cha cằn nhằn, “áo em sao mà nhiều nút quá trời đất, mở xong hết ham…”, sáng sau má đem chiếu gối ra phơi, bên xóm người ta tủm tỉm cười, nói thím muốn ông chồng đỡ nóng ruột thì mặc cái đầm ngủ, tốc cái một là lên tới đầu, xong ngay. Má mắc cở quá ẩy cha ra ngoài ngủ chay cả tuần, sau cho vào chỉ vì cha gọi cửa không bao giờ xuống giọng, cả xuống giọng cũng không giống xuống giọng.
Cha gần như mất khả năng thầm thì, ông oang oang sang sảng nói chữ nào chữ nấy bự chảng quen rồi. Con cứ giật mình thon thót mỗi khi cha kêu tóc dài quá nhìn thiếu văn hóa, ăn bận rách rưới như một kẻ vô học, một lớp trẻ như vầy thì đất nước này còn có hy vọng gì… Cái quần jean mà nó bỏ công ra mài cho sờn cho bạc chỉ mặc lần đó, rồi thôi.
Cũng may, trường đại học đã rủ rê thằng con đi xa. Cũng may vừa lúc nó cảm thấy nhà ba người thật là chật đi đâu cũng vấp ánh mắt cũng bị vướng ánh mắt cũng ngợp trong ánh mắt thì nó có hội bỏ chạy tới một nơi cách đó ba trăm bảy mươi lăm cây số. Rất khoảng khoát.
Thằng con tận hưởng sự tự do mà cuộc đời ban thưởng. Hè thì đi mùa hè xanh dạy tụi con nít thổi bong bóng, hì hục xuống rạch vớt lục bình, bắc những cây cầu không phải ai qua cũng được. Lễ lạt khoác ba lô đi bụi lên rừng rú. Phủi cái đít thâm sì chai ngắt chào từ biệt trường đại học rồi cũng vậy, thằng con vẫn nhảy việc và đi miết, chỉ Tết mới về nhà, nói ba điều bốn chuyện xong chạy chơi mất biệt. Một bữa nó nhận ra cha đã biết thầm thì, khi hỏi chuyện vợ con bồ bịch gì tới đâu rồi mậy, sao không thấy dắt về chơi. Má cười nói ổng già hết hơi rồi, huyết áp bữa lên bữa xuống, oang oang sao nổi.
Lạ là thằng con không quen với một ông cha thầm thì. Cũng như hồi nhỏ không quen thấy cha ở nhà hơn ba ngày liên tục. Nhiều lúc nhìn cha đem phơi những cuộn phim kỹ niệm mốc xì như thể được quay suốt dưới mưa, mặt Nguyễn Chánh Tín cũng như Thương Tín, Lâm Tới, mặt của Thanh Lan cũng như Thúy An đều rổ hột mè chi chít… con cảm thấy tuyệt vọng vì không làm sao chấp nhận được những ngớ ngẩn cũ kỹ này.
Như vụ chụp hình.
Cũng có lần cả nhà mặc đồ đẹp định đi tiệm Bạn Trẻ chụp hình chung, má nhắc lại, bạn Tí nhớ không, năm đó là năm cọp, nên họ trang trí một rừng tre có cây mai ở giữa, có con cọp giấy ló đầu ra. Bạn Tí sợ khóc quá xá, dỗ hoài không được nên mất hứng, không chụp nữa. Thằng con nói chuyện xưa như cái bánh dừa sao con nhớ được, má ơi công chuyện ngập đầu con đây. Má nói nhanh đuổi theo một đứa toan bỏ chạy, ráng thu xếp lẹ về một chuyến cho bông Cẩm Chướng vui, nghen bạn nghen. Lời tuôn qua môi xong, má bỗng thấy mình như con bò cứ ợ cỏ lên mà nhai đi nhai lại, càng nhai càng lạt miệng quá chừng. Đầu dây bên kia không vọng một tiếng vang. Sau lặng phắt là một tràng dài tít tít tít.
Trên vách vẫn trống hoác, vôi vữa lớp rụng lớp ố vàng thành những hình thù quái đản. Cha pha ấm trà ngồi mường tượng nào rồng nào rắn nào khủng long, cảm giác nhà này như hang ổ của thú hoang. Uất quá cha đi lục tung lên thì lượm được hình má hồi mười tám tuổi nghiêng đầu xỏa tóc, cha hồi bốn mươi hai tuổi đang đứng chống nạnh bên máy chiếu do phóng viên báo Sài Gòn chụp, con hồi năm tuổi mặc cái áo lòi rún, đầu trọc đơm đầy ghẻ chóc. Không đọc được mối dây liên hệ nào giữa những tấm ảnh hiếm hoi này.
Lại gọi điện cho thằng con. Nó nói hay cha má rủ con Phèn ra tiệm chụp hình trước đi, con gởi cái ảnh con về, người ta đem ghép lại là cả nhà bên nhau, y như thiệt… Nói tới đó thằng con có hơi giật mình vì chữ “rủ” gắn với con Phèn hình như không hợp lắm, nhưng má coi Phèn như người còn gì, má biết Phèn yêu ánh trăng thích ăn đầu cá lóc nướng trui thích được tắm bằng sunsilk siêu mượt… trong khi cứ liên tục ép con mình ăn món cà chua dồn thịt. Ký ức đôi lúc trở nên bội bạc, làm má ngỡ sở thích của con không bao giờ thay đổi. Trời đất, mọi thứ đang biến dạng chóng mặt, một phút thôi đã đủ cho con bồ cũ trở thành gái có chồng, đủ cho máy bay trở thành máy sấy, đủ cho con gà sống trở thành gà sắp chết với chữ dương tính in rành rành trên giấy xét nghiệm… Có cái gì đứng yên đâu, huống chi chuyện thằng con ham ăn cà chua dồn thịt đến nỗi mắc nghẹn trợn trừng trợn trắng đã xảy ra mười ba năm trước.
Những hồi tưởng lùng nhùng xẹt qua đầu thằng con khi nó đang đong đếm coi ba chữ “rủ con Phèn” có mỉa mai có ẩn chứa tị hiềm không thì bỗng bên kia cha hạ giọng thầm thì, “nói vậy cha chết mầy mới chịu về hả con?”. Thằng con nghe đuối lưỡi, ui chao là sợ cái kiểu thầm thì như nghiến ngầm lại như nghèn nghẹn này. Thì về.
Nó nói với con bồ, ba anh đau. Đọc thấy con nhỏ há miệng ra định đòi đi theo, thằng con cắt cơn liền, không nghiêm trọng lắm, như vô viện nằm dưỡng sức ít bữa thôi mà. Lúc gặp sếp thì cơn cớ phải về quê ít bữa đổi thành chú qua đời. Thấy đỡ áy náy hơn vì nó không có chú. Thằng con không tin là người ta khi biết sự thật về quê chụp hình mà không cười té ghế, không mỉa mai viện cớ đi chơi à, không buột miệng nói bộ khùng sao?
Khùng. Thằng con cũng cảm thấy vậy khi xa lăn bánh. Quá trời khùng, ý nghĩ đó quăng quật nó như xô nó xuống xe ngay cửa ngõ thành phố. Để tiếp tục ngồi lại nó cố hình dung ra không khí rộn rã ở nhà, chắc con Phèn cũng nôn nao lo không biết răng cỏ xếu xáo vầy có còn tiệc tùng được mấy, chắc là má kêu cha chở đi chợ mang về một đống đồ ăn mà hồi Tết con ưa. Đó, hai người họ chỉ có thể nắm giữ được con của thời quá khứ trong khi nó đã trôi tuột đi rồi.
Nắm rịt lấy cái khoảnh khắc thằng con gọi điện cho hay nó đã lên xe, cha má đinh ninh cuối chiều sẽ tóm được nó. Nhưng những gì xảy ra trên quãng đường dài hàng bảy giờ đồng hồ nằm ngoài tầm với. Thấy ngồi ngó đếm từng cột cây số qua cũng tẻ nhạt, thằng con rải tin nhắn ra đầy xe, than chưa chi anh đã nhớ em rồi cho con bồ ruột, ra vẻ quan tâm nhỏ ơi dậy chưa ăn sáng chưa cho con bồ sơ cua, hỏi thằng bạn thân hồi đại học đã về cồn Tre nuôi cá bè, hỏi ê ngoắc tao không, đi ngang nhà nè. Đứa kia kêu ghé tắm sông đi, mùa này nước trong con gái trong thị xã ra cồn tắm đông lắm.
Khi thằng con chuồi xuống vệ đường như con lươn khẽ uốn người trườn đi êm ái, nó nghĩ chụp cái ảnh cũng đâu có lâu lắc gì, tối đa là hai mươi phút, kể cả xảy ra vài trục trặc một trong ba người và con chó nhắm mắt, hoặc ai đó không cười, hoặc ai đó lơ đãng ngó đi chỗ khác. Rốt cuộc màn trập máy ảnh vẫn mở và đóng xạch, lưu giữ mãi khoảnh khắc cả nhà ở bên nhau. Rốt cuộc cũng có bằng chứng thuyết phục họ là một gia đình.
Rốt cuộc thì thằng con cũng về dù nấn ná ở bãi sông có đông con gái mặc nguyên quần dài áo dài xuống tắm, dù có dừng lại ít chục phút hóng hớt vụ xe tải đâm chìm ghe lúa ở dọc đường. Tấm ảnh đã được treo lên, che bớt khoảng loang ố và tróc lở, vá đỡ cái hoang vu.
Không ai cười trong đó. Má không cười vì mới gãy răng cửa. Ba không cười vì đầu gối sưng như cột đình và trặc lọi bàn chân phải. Con chó không cười vì chó không biết cười hoặc có cười cũng không giống như cười. Thằng con không cười vì mãi nghĩ sao lúc xương xẩu cha và má va lộc cộc xuống mặt đường thì ở cồn Tre tim nó không nhói lên một tiếng nào không chút linh cảm nào, hay đã có mà nó mê chơi không nhận ra? Sao không ai nói nó nghe về cú té nhào của hai ông bà già trong lúc quay đầu xe ở chợ?
Hôm ấy cha vẫn thầm thì trong điện thoại khi thằng con gọi về nói đã ghé dọc đường chơi rồi.
Ừ chơi vui đi…
Cũng cần có thời gian cho mấy vết thương bớt sưng. Để còn chụp hình. Níu được nhau lúc nào hay lúc đó, đời đầy những rủi ro…

Tìm người như thể…
Tản văn

Nguyễn Ngọc Tư

Bạn chở mình, hai đứa đi đám cưới cách thành phố một buổi sáng. Tám mươi cây số không phải là xa đến mức tốn cả buổi, nhưng phải lụy mấy cái phà, phải dừng lại chụp ảnh, phải ngó nghiêng ngắm cảnh, mà quà quê bán bên đường hay đưa tay ngoắc mình ghé lại, nào cà na ngào đường, nào cốm dẹp, nào chuối nếp nướng. Bạn bảo trưa ăn cưới xong đi tới nhà thằng bạn ruột nhậu chơi. Theo mô tả thì người bạn của bạn cũng dân giang hồ hào sảng, kiểu “chí cốt cầm ra chai rượu cốt”, mình háo hức lắm. Mình chẳng phải người xứ này cũng không liên quan gì tới đám cưới trưa nay, mình chỉ đeo theo để ngắm cảnh bên đường người bên đường nắng gió bên đường, một hảo bằng hữu kiểu vậy ngu sao mình bỏ qua. Mình cười bảo với bạn, “anh sao em vậy, đi đâu cũng được, miễn có người hay hay…”.
Sau này mình nghĩ là do mấy chữ “hay hay” kia mà hôm đó bọn mình đi một bữa đã đời, mỏi rã. Bạn bảo chưa bao giờ lại phải đi xe máy hai trăm năm mươi cây số chỉ trong một ngày, bởi đời bạn chẳng mắc dịch mắc gió gì mà phải gấp gáp vội vàng vậy. Bạn của bạn nằm rải rác khắp nơi, đi tới đâu cũng hội hè, tấp vào chơi chán thì xách xe đi tiếp. Nhưng hôm đấy mình là khách, như thường lệ, chủ muốn đãi khách cảnh sắc đẹp nhất, món ăn ngon nhất, muốn giới thiệu những người tử tế nhất.
Nhưng cái anh lãng tử vườn cách đám cưới hai mươi cây số không biết đã đi đâu mà đóng cửa nhà, gọi điện thì một chị giọng Hà Nội lịch sự trả lời rằng anh ấy không liên lạc được. Bạn mình không hề nao núng chút nào, có sao đâu, đi thêm vài chục cây số nữa lại có một thằng lãng tử khác. Và bọn mình đi miết đi miết tận chạng vạng, chỉ vì những tay chơi miệt ruộng miệt núi người thì đã say mèm, người bận chở vợ đi chùa người đã đi qua biên giới nhậu bò cạp núi rang muối với bà con bên đó. Những lời mời mọc réo gọi suốt dọc đường thì lại làm bạn đắn đo, ui ngán cha già đó nhậu say hay chửi bới chính quyền, ui ông kia dân chính trị nòi tâm hồn khô queo ngồi lâu chán thấy mồ tổ, ui nhà đó thằng chồng thì được nhưng con vợ thích đọc thơ lắm… Suy cho cùng thì đó không phải là những người hay hay, và bọn mình tiếp tục tìm kiếm.
Mình thấy mỏi rã. Cứ tưởng thấp thoáng trước mặt là bến cuối rồi, sắp được tắm táp sắp nằm dài trên giường để cho lưng thẳng lại thì lại nghe tin báo não nề, anh lãng tử núi đã say đến nỗi lay không dậy. Không lẽ chỉ bọn mình hai đứa ngồi nhìn nhau chán ói, không lẽ chỉ một đứa uống còn đứa kia ăn rồi tiu nghỉu chia nhau đi ngủ?
Vì những sự “không lẽ” đó, nên cố đi thêm vài chục cây số nữa, với cái lưng sắp gãy, mặt mũi đầy bụi và mắt cay xè, đi với một nỗi mòn mỏi không cùng, bến cuối (thật sự là cuối) của ngày hôm nay có còn ai? Đường sao mà dài khi mưa bắt đầu giăng bẫy trên con đường lổn nhổn ổ voi ổ lạc đà, chìm lút trong vắng ngắt trong bóng tối.
Rốt cuộc thì bạn cũng tìm được ba người bạn, để cùng ngồi ăn tối cho mình vui. Mình bật ngửa ú ớ, tức không chịu được. Bởi mình cứ đinh ninh là bạn cần tìm người quen để vui, để ôn lại lần nhậu trước, để có người đối ẩm đâm mây chém gió đến tận sáng hôm sau, như bạn vẫn thường tự hào, tao chơi mút mùa Lệ Thủy.
Vỡ lẽ ra thì đã muộn, bọn mình đã bỏ lỡ một dặm dài hơn hai trăm cây số. Bạn nói xế này đi ngang qua một mâm nhậu của mấy ông già trải đệm ngồi xếp bằng ở một cái sân gạch gần đầu cầu, bạn ham ghé chơi muốn chết mà không dám nói. Mình cũng vỗ tay kêu đúng đúng đúng, lúc đó em cũng thèm nhiểu nước miếng được sà vào ngồi cùng với họ. Cái đất miền tây này đâu có sá gì chuyện lạ quen. Uống vài ba ly rượu là thành người trong nhà, là mở lòng mở dạ, là vui hết cỡ. Mình muốn ngồi đó, hít thở cho đã cái dân dã của họ, từ mùi thuốc gò se giữa đôi tay chai, mùi mồ hôi trên những nếp khăn bâu áo, mùi phèn trên những bàn chân… tất cả đang cất tiếng kể những câu chuyện mùa màng đồng bãi. Là đà trong một tầm rất thấp, vẳng lại mùi lá ủ, mùi tấm đệm ẩm, mùi sình non mấy con trùn cơm đùn lên len qua những khe gạch vỡ làm năm ba mảnh. Và rượu nếp cay tê đầu lưỡi đã được làm dịu lại bởi vị chua mặn của món cá linh dầm me non, đói thì cơm cháy bùi ngùi với ơ kho quẹt, ngon thấu trời mà chủ nhà cứ áy náy “đạm bạc qua bữa vậy”. Bụng no, lo chi không kiếm được một chỗ nằm trên sàn nhà mát rượi, gió lộng cả phía lưng mình.
Và hôm đó không chỉ có mấy ông già ấy tụm năm tụm bảy kiếm cớ nhậu tiễn chiều, hội hè dân dã bày ra ở bên đường nhiều lắm. Bọn mình không hiểu nhau, lúc ngang qua họ cả hai đều ém nhẹm những trùng trình xáo động ở trong lòng, mải miết tìm người mịt mù ở đâu đằng trước.
Mà trời đất ơi, chỉ cần dừng chân lại, sẽ thấy người…

Khói trời lộng lẫy

Truyện

Nguyễn Ngọc Tư


1

Nghe tiếng mưa khi mưa hãy còn xiêu xiêu ngoài sông, rồi mưa băng qua bờ lá có căn chòi hoang ở phía Nam cồn, ào vào bãi đất xơ rơ những thân lau sậy cháy, giờ thì mưa đã dội trên mái nhà, trượt theo những đuôi lá mục mưa thả mình vào đất. Khe vách rách rã chẻ mỏng những ngọn gió ướt, chém ngọt qua người, lạnh rởn lỗ chân lông.

Tôi lụi hụi ngồi dậy đắp mền cho thằng Phiên. Tấm mền ngắn ngủn, mong ấm cổ thì hở chân, che kín đôi chân thì phong phanh vai trần. Lại chạm tay vào nó như thường chạm khẽ trong đêm. Có lúc thằng nhỏ hơi mỉm cười, có lúc nó càu nhàu rồi lăn sát vách mùng, có khi nó quạu quọ gạt tay tôi ra. Nó phản ứng kiểu nào tôi cũng vui bởi ý nghĩ, nó còn ở bên tôi.

Nhưng khuya nay, khi tay tôi vờn trên cái mũi lấm tấm mụn của Phiên, khi cái đầu gối xương xẩu của nó co lại thúc vào sườn tôi đau nhói, vẫn cảm giác thằng nhỏ đang rời đi xa lắm rồi. Nó đi trên chiếc xáng cơm cùng những gã đàn ông lạ. Chiều qua, chiếc xáng đã nhổ neo rời khỏi cồn. Nhưng mưa mùa triền miên cùng với những cơn giông gió cũng không ngăn được nó quay lại, càn rướn vào rặng ô rô rách bươm.

Và không có gì ngăn gã đàn ông trên chiếc xáng kia tới tìm tôi, với vẻ nham nhở thường ngày, hỏi tôi suy nghĩ tới đâu rồi. Nham nhở như gã của ba ngày trước, khi chìa ra một vuông báo cũ ố vàng và khiêu khích hỏi tôi có gì để đổi không. Mảnh giấy nhỏ nhoi ngó chừng vô nghĩa nhưng gần như tôi không có gì đáng giá đánh đổi, ngoài chính tôi. Gã chỉ chờ đợi điều đó thôi, khẽ cười đắc thắng.

Nhưng tôi câm lặng không phải vì tuyệt vọng mà vì những bức ảnh trong bài báo phất phơ trên tay gã. Ba tôi, Anh, và tôi của ngày hai mươi ba tuổi. Tấm hình tôi dán trong bộ hồ sơ xin việc, mặt quang quẽ, tóc vén lên vành tai, nhìn thẳng, hơi mỉm cười nhưng mắt tối. Trên bài báo, ba cái ảnh nằm gần như cạnh nhau, nhưng hai người kia đang tuyệt vọng tìm tôi. Ngày trên trang báo dừng lại ở mười ba năm trước.

Ngày hai mươi ba tháng tám. Không biết bữa đó tôi với Phiên đang ở trên chuyến xe đò nào trong một lộ trình trốn chạy. Ngày hôm đó, có thể chúng tôi đang ôm nhau ngủ còng queo trong một toa xe lửa hôi sặc cứt gà, một phòng trọ mốc meo, có thể chúng tôi đang ngồi tàu đò, lúc đi qua cái cồn xanh mịt những rặng dừa nước, rặng bần có ai đó thở dài ứ hự, “cho tui nhiêu tiền cũng không lên cái cồn Bần này ở, buồn thấy mẹ…”, tôi liền kêu tàu ghé lại. Anh tài công xửng vửng, chắc hôn vậy, chắc chỗ này không, tôi gật đầu cười, bồng Phiên bước lên bờ, nói về tới nhà rồi, cưng ơi.

Chiếc tàu de khỏi bờ lá, Phiên vẫn đang ngái ngủ trên vai tôi, không biết rằng từ nay nó sẽ sống một cuộc đời khác, với cỏ cây, với sông nước, và vài ba nóc nhà thưa thớt của xóm cồn.

2

Khoảng cách ngàn cây số cũng không ngăn được những chiêm bao. Có thể ban ngày tôi thường nhớ, khi ngó cỏ cây, nhìn những người xóm Cồn í ới giúp tôi lợp nhà, ven vách, nhìn Phiên lửng đửng đi từng bước trên đất… tất cả đều quen thuộc. Như những gì cất giữ ở Viện di sản thiên nhiên và con người.

Mỗi chiêm bao là một lát cắt, một cảnh phim dang dở về nơi đó. Có khi tôi thấy vía mình ngập ngừng đi vào một tòa nhà cũ chìm lút trong một khuôn viên um tùm cây cỏ. Qua mấy bậc tam cấp gãy nứt nối với khoảng hành lang hơi tối có vài căn phòng khép cửa. Cuối lối có mảnh sân rộng nằm giữa tòa nhà, nắng sáng rót lưng chừng. Nhiều tấm pano được treo trên bốn bức tường vây quanh, giăng giăng những khẩu hiệu, bên này là “giữ gìn cái đẹp của nhân loại như giữ nhịp đập trái tim mình”, “Cái đẹp thường mong manh và tàn nhẫn, chúng ta sẽ chạm vào điều kỳ diệu giữa cơn đau”, bên này là “cần có một tâm hồn lớn để cảm thụ những cái đẹp cuộc đời”. Chữ nào cũng chắc nụi, lớn lao.

Vía tôi bị chữ hù, cứ hí húi đong đếm coi tâm hồn mình bao lớn, rồi vía thấy một dòng chữ khác được đắp nổi lên tường, “Không có gì là mãi mãi, hãy cất giữ thế giới này”. Vía tò mò, hồi nhỏ tới giờ chỉ biết đất nước muôn năm, anh hùng muôn năm. Ở đây họ nói không có gì là mãi mãi.

Tò mò quá, vía đẩy cửa vào.

Và trong những chiêm bao hao khuyết tôi từng đêm, những cánh cửa của tòa nhà Viện di sản thiên nhiên và con người luôn mở ra rất chậm, sau tiếng kèn kẹt là vùng ánh sáng chói lòa, như thể phía tôi là bóng tối.

Khi đó thằng Phiên lăn sát vào tôi, hay chân nó đập xuống giường trong lúc trở mình làm tôi thức giấc, ký ức vẫn tiếp tục mở ra những cánh cửa, mở ra những rung động, bất ngờ. Một vài căn phòng giống như biển, ngay lập tức khiến tôi chìm sâu, ngộp thở, nhưng tôi hoàn toàn không muốn vùng vẫy, chạy trốn. Lý do đôi lúc chỉ vì trong đó có người đàn ông giống như một người nào đó tôi đã gặp trong đời, một người tôi đã mất dấu.

Nhưng người đàn ông phỏng vấn tôi hôm xin việc không tỏ ra chút nào quen biết, anh ta hờ hững và xa lạ, lơ đãng khép mở hồ sơ trên tay, lơ đãng hỏi một câu lơ đãng, em có kinh nghiệm gì?

Trời, kể hết chắc tới mai. Tôi đã từng rửa chén và phục vụ ở nhà hàng, sơn tường nhà, phát tờ rơi, chăn trẻ con, xé vé ở rạp chiếu phim… và tôi còn có khả năng tươi cười, bất kể hoàn cảnh nào. Nhưng chẳng hiểu sao khi anh gác chân còn lại lên bàn, tôi lại nói ra một kinh nghiệm kỳ lạ:

- Tôi lắng nghe người ta nói.

- À, vụ này hay nghen, vậy chớ em nghe làm sao?

Tôi nhìn mấy tờ giấy bay lắt xắt trên bàn, và nghĩ mình có quyền nói dóc là trực đường dây nóng cho sản phẩm dầu gội hay thuốc diệt muỗi abc nào đó. Nhưng tôi ngước lên, cố bắt chước vẻ giễu cợt của anh ta, làm bộ điều tôi nói ra đây không quan trọng, “cũng lâu lâu rồi, tôi có làm bồ mướn”.

À, người đàn ông không biến sắc, anh ta làm như mới nghe nói tới nghề này lần đầu, nói lạ quá, em kể thêm chút nữa đi. Tôi dùng hết vẻ thản nhiên mà tôi vơ vét được, thuật một câu chuyện mà tôi biết nó chán òm. Có lúc không tìm ra học phí, bạn bè nói làm bồ mướn cũng có tiền, rồi giới thiệu cho tôi một anh. Chúng tôi gặp nhau không đem quá khứ theo, không có cả tên, gọi anh ơi em ơi như mặc nhiên tên họ là Anh tên tôi là Em. Những cuối tuần, tôi nín thở chờ điện thoại run lên và Anh nói sẽ đón. Chúng tôi đi ăn, uống, đi tới những cái quán nước vắng người để ngồi chơi. Có khi anh nói, tôi nghe. Có khi Anh không nói gì thì tôi im lặng, im lặng cũng là cách lắng nghe. Cao trào của mối quan hệ này là một lần Anh bật khóc nên tôi cho mượn vai. Tóc Anh hơi rối làm cổ và má tôi nhột ran, cả người tê dại, nhưng tôi cố chịu, vì tôi là bồ mướn. Nên vai này coi như được trả tiền rồi.

- Chúng tôi… không đi xa.

- Đi xa là đi đâu? – Lại giễu cợt.

- Từ eo tôi trở xuống.

Tôi quyết định dừng câu chuyện ở đó, giữ đoạn cuối trong lòng. Sau bữa cho mướn vai, tôi bỗng nghĩ, thôi kệ, đi xa cũng được, nhưng Anh không bao giờ gọi nữa. Không có tăm tích nào trên đời, như một giấc mơ vậy. Tôi buồn xanh xương. Không bao giờ tôi hình dung mình gặp lại giấc mơ xưa trong căn phòng này, vẫn gương mặt phớt đời, vẫn cái nhìn ngạo nghễ, và vẻ lạnh lẽo xa xôi.

Tự dưng, tôi thèm muốn tìm được một công việc nào đó ở đây, quét lá cây trong vườn cũng được. Buổi phỏng vấn là một cơn nín thở, và òa vỡ khi người đàn ông xốc xấp giấy tờ lại, bắt tay tôi:

- Từ giờ cô sẽ lắng nghe thiên nhiên nói.

Cái kiểu bắt tay cũng hờ hững, đầy vẻ ban ơn. Tôi không thấy phiền chút nào hết. Tôi vui muốn chết.

3

Chuyện đời tôi được người xóm Cồn đồn đoán, thì thầm rằng, yêu một người bị gia đình phản đối, tôi bất chấp trốn nhà theo anh ta, sinh thằng Phiên, rồi bị anh ta bỏ, không biết đi đâu về đâu, tôi tạt qua xóm Cồn ở tạm, chờ ba má tha thứ tôi sẽ dẫn con về. Chưa bao giờ tôi kể, nhưng ánh mắt u tối của tôi, thằng nhỏ đang lẽo đẽo dưới chân tôi, kiểu cười tránh những câu hỏi khó, tất cả đã nói thay.

Rằng tôi tới đây chờ đợi một sự lãng quên, giống ông Sáu Câu từng chịu án giết người, giống chị Thắm lẩn tránh những đòn ghen của bà vợ lớn, giống chị Thiện bỏ lại ở quê chồng con và món nợ hụi hè … Những người mà họ nợ dù tình cảm hay tiền bạc, biết họ ở đây, nhưng không ai đuổi theo. Cái cồn nằm giữa dòng sông Mê mênh mông, tự nó như một chốn lưu đày.

Chân trời chỉ nước và cây, mặt trời mọc trên sông rồi lặn vào sông, bờ Bắc bờ Nam nhiều bụi rậm mọc hoang lẫn trong những chòm cây cối. Chiều nào bìm bịp kêu, nắng chìm lỉm theo. Tôi hay nhìn về đó, tự hỏi người ta còn tìm kiếm tôi không?

Một ông già vác cần câu đi qua, hỏi tôi, nhớ nhà hả cô?

4

Tôi nhớ vài căn phòng, ám ảnh và xao động, như kho lưu trữ của Viện di sản thiên nhiên và con người. Nhà kho rộng, nhiều cái tủ kệ cao đến tận trần nhà, chạy song song tạo nên những lối đi hun hút. Trên kệ người ta xếp hàng ngàn khay dữ liệu, tất cả được ghi chú bằng những ký hiệu lạ lùng. Những thiết bị nghe nhìn đặt rải rác ở các góc phòng. Khi tôi chạm tay vào chúng lần đầu tiên, bằng tất cả nôn nóng tò mò và bối rối, tôi chỉ có thể nghĩ, chắc mình chết ở đây luôn quá.

Nhốt mình trong đó suốt một tuần, và sau này, khoảng thời gian nghỉ giữa những chuyến đi, tôi gần như chọn kho lưu trữ của Viện là chỗ trú chân, vạ vật. Tôi luôn thấy tiếc nuối khi rời đi khỏi căn phòng đó như hay tiếc nuối khi rời khỏi mộ mẹ tôi. Khi lục lọi những khay này, tôi đã dòm ngó qua khay bên cạnh, bên đó không biết có cất giữ những hoa lau óng muốt dưới nắng, có đàn cò trắng bay qua trăng chiều, mớ lục bình rách nát trôi ra cửa biển.không biết có ông già rớt nước mắt thổi khèn vờn quanh bà già trong phiên chợ… Lẫn giữa sự háo hức là nỗi tuyệt vọng, có thể hết đời này tôi sẽ chẳng bao giờ thưởng thức hết những hình ảnh, âm thanh đẹp đẽ và rung động của cuộc sống đang được lưu lại nơi này.

Họ vẫn đang làm đầy nó lên.

Và tôi sẽ làm đầy nó lên.

Hồi làm bồ mướn, có lần tôi lén lấy điện thoại thu tiếng nói Anh, buồn buồn lấy ra nghe chơi. Mà nghe lần nào cũng có cảm giác đói, đoạn âm thanh ngắn là tiếng muỗng chao leng keng trong ly cà phê đá, và Anh lơ đãng hỏi, “đói bụng không?”, tôi nhớ khi đó mình đã ứa nước mắt, giả vờ cúi xuống cột dây giày. Tôi hay cảm động với những câu hỏi như đói bụng không, ăn gì chưa…

Công việc của tôi ở Viện cũng gần giống vậy, tìm kiếm và ghi chép những âm thanh, hình ảnh giản dị của cuộc sống được cho là có giá trị, đáng lưu giữ. Nó có thể như một cái phim tài liệu nhỏ có mở đầu và kết thúc, hay chỉ là lát cắt bất chợt của mưa, gió, của lá rụng hay những bông hoa lăn trên cát…

Tôi rời căn phòng nhỏ trên tầng thượng cư xá sinh viên, nơi tôi làm ổ bốn năm học và thêm một năm tìm việc. Nhiều đêm buồn quá, tôi giả làm tượng phơi sương, rình coi những đôi chim heo yêu nhau, lá cờ bay bên tai rười rượi. Hôm gom mớ hành lý hẩm hiu cùng di ảnh của mẹ đi, tôi ghi lại tiếng cờ bay, coi như là mẫu đầu tay, mang về Viện. Anh trưởng phân ban của tôi râu tóc rối bời, lúc nào cũng bỏm bẻm nhai kẹo cao su, nghe xong anh vạch bụi râu ra cười, “Buồn hen nhỏ, nghe cô đơn dã man, đâu đem duyệt thử coi…”. Tôi luôn chờ đợi những cơ hội nhỏ nhoi đó, được tới gặp anh Viện phó mà tôi thương thầm, với lý do chính đáng. Và vẫn như mọi khi, anh này giễu cợt, chậm rãi và tàn nhẫn, làm tôi chết mê chết mệt.

- Kiếm sọt rác nào xấu nhất quăng cái này vô, xong đi tìm cho tôi những gì sắp mất, ngoài kia nhiều lắm…

Tôi gật gật làm ra vẻ đã hiểu rồi, nhưng “ngoài kia” chính xác là ở đâu? cái gì sẽ mất?

Có nhiều câu hỏi người ta tốn cả đời để trả lời, thí dụ như câu “Anh có thương em tới chết mới thôi không?” Tôi nghi ngờ mẹ tôi đã từng hỏi cha tôi câu này, hồi còn con gái. Cha tôi thấy khó nói quá, thôi cúi xuống khóa môi mẹ tôi cho rồi, có ai vừa làm chuyện đó vừa nói được đâu. Tôi thò đầu ra đời, mẹ mừng húm, tưởng tình yêu trả lời. Nhưng cha tôi cùng chiếc xe tải bèo nhèo bán cây giống chỉ quay lại xóm Chiếc vài lần, thưa, thưa dần và cha tôi không tới nữa, khi tôi bốn tuổi. Tôi bắt đầu hỏi một câu dễ òm, “mẹ ơi, cha con đâu?”, mẹ ngó ra sân, nói con chuồn chuồn đẹp quá. Cũng có khi mẹ chỉ vào vách và nói thằn lằn cụt đuôi kìa con. Tôi rượt đuổi theo những vu vơ của mẹ suốt thời thơ ấu, cho đến khi ngơ ngác đội khăn tang đi trong một đám ma ít người đưa, vẫn không nhận được lời đáp. Tôi hay nghĩ, nếu hôm đó chiếc xe khách không hất mẹ văng bên đường, chắc chắn buổi tối lại mẹ sẽ kể cho tôi nghe chuyện về cha tôi. Nhưng buổi tối bị bỏ lỡ, câu hỏi đó vẫn được day đi day lại, và tôi trả lời theo cách của mình. Như khi mợ tôi tỏ ra hờn giận, “nhà hết gạo rồi, chừng nào ba mầy về dẫn mầy đi?” tôi cười nói trưa nay con không ăn cơm, hồi sáng ăn mấy củ khoai còn no quá chừng. Như những lần sắp nhập học, mợ nhắc, “không biết chừng nào ba mầy quay lại…”. Tôi nhẹ nhỏm cười, hồi hè con đi làm kiếm được ít tiền, con tự đóng tiền trường được, mợ khỏi lo… Nói trớt quớt, nhưng mợ hài lòng.

Hồi đó tôi đã biết một câu hỏi có năm bảy kiểu trả lời, giản dị nhất là toét miệng ra cười, khỏe nhất là kêu “đi hỏi ổng”, phức tạp nhất là đi mấy chặng xe lớn nhỏ tới một chợ xã lún trong bụi đất đỏ, gặp một người đàn ông tóc vuốt dầu mướt rượt bảnh bao, thảnh thơi ngồi chơi bài “tiến lên”, góc nhà có hai đứa nhỏ đang cự nự. Vợ ông trạc tuổi hơn mẹ tôi, bưng ra cho tôi ly nước hột é, hỏi em cưng kiếm ai ở chợ này, tôi ngó người đàn ông nói, dạ cháu cũng quen sơ sơ thôi, giờ mưa quá nên hết quen rồi. Năm đó tôi mười bốn tuổi, đã bắt đầu tự mình tìm kiếm câu trả lời, những khi thấy lòng thắc mắc.

Giờ tôi đang thắc mắc cái đẹp nào đang và sắp mất. Để tìm câu trả lời, tôi bắt đầu rời khỏi thành phố, bắt đầu những chuyến đi xa. Vì thành phố đã xua đuổi thiên nhiên đi xa.

Tôi thường tần ngần ở ngã ba, không biết mình nên bắt đầu từ đâu. Chung quanh tôi quá nhiều vẻ đẹp, đừng nói dấu mưa xoi khuyết những viên gạch trần, hoa bìm bìm lợp tím rịm cả một chòm cây, vạt rừng bướm bay như trấu vãi… với tôi, cây cỏ cứt heo mọc bên đường cũng đẹp. Nhưng những vẻ đẹp này trong kho lưu trữ Viện đã chật đầy, tôi vẫn phải loay hoay.

Một bữa, khi rửa đôi giày bê bết bùn sình bên sông Ba Bẩy, tôi nghĩ, không biết dòng nước này đang mang bụi đường này chảy về đâu, sao mình không theo nó thử coi. Nước cứ men theo bờ bụi chảy hoài cong cong quanh quanh, có đoạn nhập vào nhánh sông khác rồi lúc sau lại rẽ. Những biến hóa bất ngờ cứ xỏ mũi dắt tôi đi, dòng chảy lúc cuống quýt lúc nhởn nhơ, hoa cỏ bên bờ, những xóm làng bên bờ… Có tối tôi nằm ém gần bụi chùm gọng hàng giờ, chỉ để chờ con bìm bịp trong đó cất tiếng kêu cho bầy đom đóm hết hồn bay lên lả tả. Có trưa ngồi coi nước lên, thấy vài sự sống tình cờ từ những trái mấm đi hoang kẹt trong miệng hang của con cá thòi lòi, bén rễ luôn ở đó; một trái dừa chuột khoét trôi ngang qua, chở theo con chàng hiu ngồi thom lom, mặt nó buồn vô phương, như thể hỏi rồi đời đưa ta giạt về đâu?

Dọc đường, gặp người tôi cũng xáp vô làm quen. Tôi theo những người chài cá chốt giấy, tường thuật luôn một vụ giỡ chà, rồi nhảy qua chiếc xuồng be chín có cắm tàu lá dừa làm buồm cho gió đẩy đi, lai rai với ông già vừa uống rượu vừa ung dung cầm lái. Tôi còn rình được thằng nhỏ vừa thót lên cất vó thì cái quần đùi giãn dây thun bị tụt, nó quýnh quáng buông càng vó chụp quần lại, làm cái vó úp trúng chiếc xuồng chèo ngang qua, tiếng rầy la dậy động.

Tôi về nói bên mộ mẹ, lúc này con làm mấy chuyện tào lao lắm, mắc cười lắm. Mẹ tôi im lặng, kiểu của mẹ dù sống hay chết, dù chung quanh mẹ người ta đang nhộn nhạo nói cười. Ngày tôi bỏ quê đi ngôi mộ còn nằm tuốt ngoài đồng, giờ thì lọt thỏm giữa một xóm nhà, muốn ra thăm phải chen bên hè của một quán nhậu có rèm che. Đi qua lần nào cũng có người níu lại, kêu cầm mớ tiền rồi đem cái mả đi, chớ giờ người ma lộn xộn xà ngầu, hết phân biệt nổi. Đi qua lần nào cũng có cô nào đó giòn tan than í nhột nè quỷ sứ anh, tiếng đàn ông cười khơ khơ anh khát sữa lắm cưng ơi, lẫn trong tiếng nôn ói ồ ồ đằng sau.

Dòng kinh trước nhà ngoại tôi người ta chặn lấp, những chỗ còn lại thành những ao tù đầy nước, ai đó cắm bảng “cho mướn nền”. Tôi sực nhớ ra thân phận của con sông Ba Bẩy tôi vừa đi qua. Bèo thôi trôi, chỉ còn người trôi, chắc chắn có mấy cô í nhột nè quỷ hà. Di sản của con sông chỉ là hình ảnh mà tôi vừa nhặt nhạnh được.

Và những vẻ đẹp được nhốt trong phòng lưu trữ của Viện là những tiếng kêu thét tuyệt vọng, bất lực trước mất mát, sự run rẩy của nỗi buồn, bởi quá nhiều thứ ta sẽ không bao giờ thấy lại ngoài đời. Anh đạo diễn phim sẽ tới đây để tham khảo những âm thanh của khu rừng nguyên sinh ngàn năm tuổi cho bộ phim mới. Tôi sẽ đưa cháu mình tới, chỉ cho chúng biết kia là chim sẻ, kia là núi, còn đây là chiếc xích lô, xe thổ mộ hồi xưa ngoại từng ngồi, hơi xóc tí nhưng hay lắm, thơ mộng lắm… Cứ vậy, tôi hình dung mông lung, rồi bỗng dưng ăn gấp thở gấp ngủ gấp. Tôi muốn nhanh tới những dòng sông, cánh đồng khác. Chỉ khi nào nhớ anh sếp ngạo mạn, tôi mới trở về cơ quan, bước vào căn phòng anh, xổ ra bàn mấy chục mẫu, ngẩn ngơ lén ngó anh ta rồi quay ra.

Có khi anh ngó lom lom, chui vô chỗ nào mà gai quào rách con mắt vậy?

Có khi anh nói, hèn chi mấy sạp giày ngoài chợ bán buôn ế ẩm…

Tôi ngúc ngoắc cái ngón chân thò ra khỏi chiếc giày rách, cười rưng nước mắt, bước ra ngoài, nghĩ, trời ơi ảnh dễ thương hết sức. Rồi tôi đi ngủ, cốt giữ nước mắt lại. Tỉnh dậy nhiều khi thấy có tấm áo đắp trên người, chắc ai đó đã vào, thấy tôi nằm chò co khó coi quá. Cái dáng nằm, như nhiều người nói, toát ra một nỗi buồn. Tự mình cuộn vào, ôm ấp, tự che chở, tìm hơi ấm của chính mình.

Nhứt thấy tôi ngủ một lần, cậu ta nói tôi như con cá Bảy Trầu, sống khép mình ở những chân ruộng sâu, ẩn náu trong rong rêu và rạ nát. Nhứt là cộng tác viên của Viện, mê đắm những cái xóm làng miên man bên bờ sông Ngó Ý, nơi cậu chạy đò máy xuôi ngược mỗi ngày. Mỗi tháng một lần Nhứt lên thành phố chở cá giống, ghé Viện, khoe với bất cứ ai cậu gặp, “chuyến này mẫu của em khẳm xuồng luôn”. Mẫu của Nhứt gợi cảm, sôi nổi như chính cậu. Con rắn mối thì thụt trong bộng dừa mục rã. Những rạp cưới được trang trí bằng lá dừa, bẹ chuối, lá đủng đỉnh, bông lồng đèn… Những gàu lá, gàu miểng dừa đặt cạnh những khạp nước mưa trong lẻo, đặt ngoài hiên đỡ khát người qua đường. Một con nhỏ bưng tô canh măng hầm thịt vịt đi trên đường làng, nước canh đầy quá, đi nửa chừng nó húp bớt, qua nhà kế bên nó đưa tô măng cạn queo cho thằng nhỏ kia, thẹn thùng nói, má tao cho má mầy canh…

Tôi thích tính Nhứt hồn nhiên, nên khi lang thang, Nhứt gọi điện thoại nói cuối tháng này em lên chơi, tôi lại thu xếp trở về. Ngồi nghe Nhứt sôi nổi, “đó đó, lúc đó em núp bên mé mương nghen chị, ô rô nó đâm đau dã man luôn, nhưng quay được cảnh hai thằng nhỏ tắm sông ở truồng đo chim tự nhiên như vầy, sướng…”. Sau đó, Nhứt sẽ mời tất cả mọi người trong Viện đi nhậu, bằng tiền thù lao mà cậu ta mới nhận được, chèo kéo cho bằng được, “Bảy Trầu đi cho vui…”. Tôi thích biệt danh đó, nghe như trên tôi có có năm anh chị, dưới tôi còn vài đứa em, không phải tôi trơ trọi một mình.

Món quà của Nhứt tôi mang theo. Tôi tên Trầu, thứ bảy, mẹ của thằng nhỏ một tuổi rưỡi tên Phiên.

5

Chỉ có một đám giỗ ở xóm Cồn, trùng với ngày tôi với Phiên đặt chân lên đó. Người ta nhắc, năm trước cô Trầu nhớ hôn, thằng nhỏ con cô mới biết đi lũn đũn, năm nay nó nói sõi, chạy không sót chỗ nào. Lúc nhìn ra sân, thấy Phiên ạch đụi rượt con vịt xiêm cồ, è ạch cố cưỡi lên, rồi té lăn quay ra đất, tôi ngỡ ngàng kêu thầm, trời đất, một năm rồi sao?

Một năm. Chín lần cười trừ khi người ta hỏi, sao trôi giạt tới chỗ này. Một lần đốt cỏ hoang làm rẫy. Năm lần gieo và thu hoạch trên những giồng rau. Một lần bị rít cắn. Một lần cuốc phập vào chân tuôn máu. Tám lần thằng Phiên ấm đầu, sổ mũi, ho. Bốn lần hết gạo nấu cơm, phải giả đò đợi đến bữa qua chơi nhà khác, chờ ai đó mời lơi là nhào vô ăn chực. Ba lần quá giang xuồng đi chợ cách Cồn hai cây số đường sông, ba lần Phiên nhìn thấy người đông. Ba lần bỏ quên thằng nhỏ ở nhà hàng xóm, lúc nhớ ra chạy đi tìm thì nó đã ngủ queo rồi.

Mười năm sống một mình trở thành thói quen. Tôi thường đi băm bổ làm Phiên rớt lại đằng sau, thường ăn cơm bằng dĩa, rúc ngủ chèo queo nơi góc mùng… Nhưng giờ tôi đã là mẹ thằng Phiên, tôi luôn dặn mình điều đó. Làm mẹ thì nên thường xuyên hôn hít nó, ôm ghì nó quay vòng cho đến khi cả hai chóng mặt quá nằm bẹp xuống đất, thổi vào mấy chỗ nhột của nó cho nó cười nắc nẻ, dành cho nó những trái chín cây ngon nhất, cuộn nó vào lòng lúc nửa đêm… Mẹ tôi đã từng làm vậy cho tôi.

Và mẹ thì không bao giờ để con mình thiếu ăn. Tôi theo ông Sáu Câu đi câu.

Ông già kỳ lạ đó có hai cái chòi cất trên cồn. Chòi phía Tây nằm sát mé sông, mỗi khi nước rông, hay lũ lớn nhấn cồn lún xuống, chòi còn trơ trọi nóc. Ông già chuyển lên sống ở chòi phía Đông, vốn ở lưng chừng, nhưng giờ cũng chấm chân vào mép nước. Và trong cái chòi lá quật quăng tơi tả, ông đối mặt với dòng sông, ngồi câu bất kể những ngày mưa dầm tối tăm trời đất.

Ông không mê câu, ông không sắm chiếc xuồng đi tìm cá như những người kiếm sống trên sông mà chờ cá tìm mình. Vì ông hay thèm giết người, đây cũng là lý do ông ra cồn Bần ở, khi mãn tù. Ở đây, nếu sự ham muốn đó trỗi dậy, ông phải lội qua sông, hay chờ tàu đò đi ngang. Có khi tàu tới thì ông ngủ quên dưới bóng mát mấy cây bần. Có khi lội chạm bờ kia thì ông mệt rã rời, tạnh nguội cơn khát máu. Nằm thở một lát, ông lội ngược lại cồn.

Người xóm Cồn kể có ngày ông qua sông đến ba bận. Kiếm được cây cần câu, ông không phải lội tới lui nữa. Tôi hỏi:

- Chú còn muốn giết người không?

- Còn chớ, hận thâm căn cố đế mà. Lúc nào muốn quá thì xách câu ra, dặn trong bụng, chừng nào dính được con cá mới được đi nghen. Rủi, có bữa mới thả câu thì thấy nó rị phao.

- Rồi sao?

- Thì bắt cá nướng trui. Ăn no quá đâm ra buồn ngủ, đâu có muốn đi nữa.

Ông già cười. Tôi tập hỏi để tôi trở về con đàn bà hai mươi chín tuổi, chớ không phải bà già chín mươi hai. Một phần, ở cái đất Cồn này, mỗi lần hỏi đều nhận được câu trả lời, hoặc gần với câu trả lời. Hỏi chị Thiện nhớ chồng không, chị cười khậc khậc, nhớ có cái chân giữa của ổng hà. Hỏi chị Thắm sao đem son phấn thả sông, chị nói ở đây chỉ có mỗi thằng Thơ khùng, chưng diện nó cũng đâu có coi. Người tên Thơ đó sống một mình, không già không trẻ, suốt ngày ràng cái radio cạnh lỗ tai, mở đài rột rẹt rột rẹt cả khi đi ngủ, có bữa đi ngang qua thấy anh đứng một chân dưới gốc cây trứng cá, hỏi anh làm gì, anh nghiêm nghị, “Ta là vịt đang học tiếng người”. Hỏi ông Sáu đã giết ai, ông già ngó ra sông, để lời rớt khỏi môi như một giọt rượu chảy ngược qua cái răng gãy, “Con vợ tôi…”. Và có khi tôi chưa hỏi, ông đã nói, “Thứ đó không phải để câu cá”. Đó là lúc tôi nấn ná gần cây cần câu nhỏ ông dựng ở góc chòi đã lên nước bóng ngời, sợi nhợ mỏng nối với một lưỡi câu lớn không ngạnh, thẳng như dấu chấm than.

Ông già đã bao nhiêu lần thả câu này vào sông chờ tạnh cơn thèm muốn tìm giết gã tình địch đã làm gia đình tan nát, khiến ông nhúng tay vào tội ác, tôi tự hỏi lúc nắm đoạn cần câu lạnh buốt, neo lưỡi câu thẳng đuột xuống nước. Ngồi hàng giờ bên cạnh thằng Phiên đang giang tay phơi rún ngủ, tôi tưởng mình đang chờ nó thức dậy để hai mẹ coi cùng về nhà, nấu cơm chiều. Ông già day lại móc mồi, bâng quơ hỏi, cô thấy không an sao?

Tôi nói không, nhưng nhận thấy câu trả lời đó rất bất công với ông, tôi sửa lại, à mà có, cháu sợ mất thằng Phiên.

6

Cảm giác mất mát trở nên thật rõ ràng khi làm việc ở Viện di sản thiên nhiên và con người.

Ông già bảo vệ ở cổng Viện có lần nói nụ cười cô Di như cái áo, mặc để giấu mớ bề bộn trong lòng, chắc có đôi ba chỗ bị thương. Thêm một lý do tôi thích những ông bảo vệ, họ biết tôi về khuya hay sớm, biết bữa tối tôi ăn xôi hay bánh mì, biết tôi có áo mới, biết tôi vừa cắt tóc, biết cả ít chuyện riêng tư, “cái cậu chạy đò tên Nhứt gì đó, chắc thương cô Di mà cô không để ý, nên lúc này không thấy lên nữa…”

Tôi giật mình, chắc không đâu. Nhứt không tới Viện nữa bởi những xóm ấp ven sông trong lòng Nhứt không còn. Lúc đầu Nhứt còn nhăn nhó lác đác, than vãn lai rai khi cái đình thần Thạnh Hưng xây lại, sơn phết như “tuồng hát bội”, khi người ta làm cửa cho những ngôi nhà vốn bao đời mở phơi lòng, khi người ta dẫn nhập nước mặn vào đồng... rồi thì một bữa Nhứt tới chơi, nói, đi nhậu chị ơi, lần này nữa thôi…

Nhứt không tới nữa. Ấn tượng cuối cùng về Nhứt là cậu ta quăng ly rượu vô vách quán bể nát, chửi thề, “Quê tui còn mẹ gì, giống như cái biển vậy …”. Điều đó làm Nhứt khác chúng tôi, Nhứt không chịu nổi sự mất mát. Còn người ở Viện đối mặt với mất mát hằng ngày, hàng giờ, ở trong nó, ăn nó, uống nó. Họ buộc phải lựa chọn, hoặc không yêu bất cứ gì, hoặc tập chai sạn trước nỗi đau. Cách nào thì dẫn con người về một chỗ: vô cảm. Họ có thể giẫm lên những mầm cây vì tin rằng những cái cây này không bao giờ sống sót được mười năm tuổi, khi cái xóm nghèo đang chực hờ gần đó. Họ có thể nhấm nháp rượu rắn với chim sẻ nướng dù biết đó là những con cuối cùng, họ đã giữ cuộc đời chúng bằng tiếng hót, bằng hình ảnh chúng sà xuống sân như một bầy lá rụng… và đem cất trong Viện, là xong.

Tôi không còn thích ra quán ngồi. Hồi đó tôi nghĩ đây là dịp mình gần anh Viện phó, được chào hỏi những đồng nghiệp có khi chỉ mới gặp lần đầu. Tôi vẫn chưa mở được tất cả những cánh cửa trong Viện giữa những chuyến đi về. Hiếm hoi trong những bữa tiệc tùng quen được chị Hát lỡ thời, say đắm những cơn gió trời thích anh Đê bên phân ban con người nhưng anh này lại mãi mê đeo đuổi vẻ đẹp lem luốc của những người thợ mỏ. May mắn ngồi chung với một anh khét tiếng tắm ít, suốt ngày giang nắng cùng những người đàn bà quang gánh. Mẫu của anh rất hay, những người phụ nữ có đôi vai lệch và bên vai áo sờn, những đôi chân gân guốc vồng lên vì chịu nhiều sức nặng. Những cuộc gặp cũng đôi khi xảy ra trên đường, có bữa lang thang trong chợ trung du, tôi lén sổ lồng cho mấy con nhồng bị người ta bày bán, lúc bỏ chạy tự dưng nghe tiếng xe máy sau lưng, ai đó kêu lên xe anh chở, tôi nghĩ lỡ anh ta là người bán nhồng thì sao, mình đâu có ngu. Người đó thấy tôi cắm đầu chạy hoài, kêu lớn, “dân di sản nè…”. Ủa vậy hả, tôi hí hửng nhảy lên xe ôm eo anh, nghe đằng trước rầy vói lại, “em đúng là con nít, làm chi uổng công vậy em, mấy con chim trước sau gì cũng bị bắt lại…”. Tôi nghĩ trong lúc thở dốc, phải biết vầy mình chạy bộ luôn cho rồi.

Người của Viện đông, nhưng họ cũng như tôi, đi níu kéo những mong manh, chỉ khác, họ hay đi cùng nhóm, thực hiện những chuyên đề về làng nghề, những trò chơi dân gian, hay nghệ thuật làng. Lâu lâu, thấy phòng đã lâu im ỉm bỗng dưng hé cửa, bật đèn, biết có người về, tôi ló đầu vào làm quen. Sau đó nhậu nhẹt, khen nhau và chê nhau. Cái anh hay theo mấy cô thôn nữ đội nước lên đồi cát chê anh nằm vùng trong những hẻm lao động đem về mấy cái mẫu tầm thường, lem luốc. Anh này cười nói đẹp đâu phải là mấy cô gái mặc áo dài đi qua cầu khỉ, đẹp là mồ hôi, là da sạm, tay chai. Rồi thì gió qua đồng cỏ là cái đẹp xa xỉ và vô nghĩa, một cánh đồng xanh mạ, hay rẫy bắp đang trổ cờ hay hơn nhiều. Rồi thì bồ câu là vứt đi, chim đồng chim bãi mới đẹp. Rồi thì rừng núi mới kỳ bí, mới nhiều tầng nhiều vỉa cần khai thác, chứ đồng bằng toang hoác, còn gì mà người ta chưa chạm vào đâu. mấy anh phân ban thiên nhiên nói không con nào tàn phá gây hại như con người, đi tới đâu thiên nhiên lụn bại tới đó. Mấy anh phân ban con người sôi máu, vậy thì anh từ chối làm người rồi, con người mà không đẹp thì có gì đẹp nữa.

Lúc đó tôi ngồi rất gần họ, mông bẹp lên xác kẹo cao su của họ, mặt dính dấp nước bọt của họ, mắt thấy vũng ghèn và những bợ rau trên răng của họ, tôi bỗng nghĩ mười năm trước hẳn họ vẫn còn rất đẹp, họ còn biết run rẩy, xốn xang, đau nhói trước cuộc đời, nhưng không ai giữ vẻ đẹp của những người giữ gìn vẻ đẹp, cũng như không ai lãnh đạo lãnh đạo những người lãnh đạo, không ai chiến đấu cho những người chiến đấu. Bỗng dưng cái sự gấp gáp trỗi dậy, tôi sực nhớ mình cần đi tới sông kia, suối nọ. Bỏ cuộc chơi giữa chừng, ai đó càm ràm, nhỏ này đi như điên, không mệt hả?”

Tôi xốc ba lô lên vai ngoái lại cười, mệt sao được, em có tới bốn cái chân.

7

Suốt một mùa mưa, tranh thủ nước trời tôi cắm mặt vào rẫy. Mây treo phía lưng tôi mỗi ngày năm bảy tiếng đồng hồ. Trong khi tôi cuốc giồng này thì giồng rau muống đã vượt khỏi gang tay, bên kia cải vừa gieo hạt, nhưng những cây còn sót lại đã lên ngồng. Tôi giành đất với lau sậy, lấn từng giồng, từng giồng. Sao cho mỗi khi xóm Cồn có xuồng đi chợ là có mớ đồ rẫy tôi gởi theo. Và với Phiên mỗi chuyến xuồng về là một cuộc hội hè với bánh kẹo, quần áo mới.

Tôi chờ bí ra trái. Tôi chờ ổi ra trái. Tôi trồng những cây lâu năm. Đôi khi tự thấy hành động này cũng giống như ông già Sáu ngồi bên sông với cần câu lưỡi chữ i, tôi đang neo cặm mình vào mảnh đất này, nuôi Phiên lớn.

Người xóm cồn đi qua rẫy tôi nói, cô Trầu làm lụng như có tới bốn tay. Ểnh người, một tay chống nạnh, một tay đấm lưng, tôi lặng đi, nhớ đứa bạn tên Lam.

Hồi học cấp Ba, khoảng giáp Tết, Lam giới thiệu tôi và đội sơn nhà của chú nó. Phần việc của tôi là lon ton bên dưới, Di ơi lấy giùm thùng sơn, Di, lấy cho cây cọ, giấy nhám đâu rồi, Di và Di, dời thang. Tôi rất thích được kêu Di ơi suốt. Tôi thèm muốn mình được gọi tên, đến nỗi có lần mướn thằng nhỏ bán vé số, nói nó kêu Di ơi đi tôi trả năm ngàn. Nó nói vậy tui làm má bà hen, rồi chống nạnh riết róng, “Di, mầy trồi đầu về đây tao biểu coi…”. Thấy tôi trào nước mắt, nó cụt hứng, càu nhàu, “thôi bà khùng quá bà ơi, tui lấy tiền của bà chi...”

Nên tôi ưa làm sai vặt, khoái cảm với những lời rầy rà la mắng. Đi sơn tường càng thích vì khi lơ lửng trên cao người ta hay kêu tên tôi. Lam hay ghé qua công trình của chúng tôi, nói tiện đường… Mọi người cười, sao không nói thẳng là mê gái, mậy? Tôi lừ đừ không ngó tới, miết giấy nhám vào vách tường loang lổ. Tôi không thích Lam nhà giàu rảnh rổi, mới lớp mười một mà đòi yêu đương. Tôi ghét cái tên không biết là trai hay gái, ghét chiếc xe máy tiếng nổ như xé vải. Tôi ghét Lam cha mẹ đủ đầy, thậm chí còn dư mấy má nhỏ ở quận hai quận tám. Tôi ghét cái đầu tóc dày hất ngược bồng bềnh, ghét luôn nước da trắng và cái mũi thẳng, ghét như thể trời lấy hết của tôi để ban cho Lam.

Lam biết, nhưng nó vẫn thích tôi, cuộc sống của một thằng con trai muốn gì được nấy không phải lúc nào cũng gặp một thách thức thú vị như vậy. Một bữa đúng lúc Lam đảo qua nói vo ve, tôi dời cái thang chữ A ra ban công, thang nhôm chạm vào dây điện trung thế làm tôi chết giấc.

Lúc tỉnh dậy tôi đã sống cuộc đời khác. Người ta kể Lam vì cứu tôi nên đôi tay bị cháy, có thể phải tháo khớp tận vai. Có vẻ như ông trời đang lấy của Lam để chia chác, mà tôi biết làm gì với một đôi tay nữa, chỉ một thôi đã quá nhọc nhằn rồi.

Nhưng tôi không có chọn lựa nào, Lam đã cho rồi, tôi phải nhận. Thăm Lam khi vừa tỉnh dậy, nó khóc, tôi mếu máo nói, “thôi đừng buồn, tui sẽ lấy Lam làm chồng”. Lam ngoẹo đầu qua bên vách, cố giấu cơn khóc dữ dội hơn, khóc mà không có tay để giấu mặt, không có tay để lau nước mắt. Hồi đó, báo chí ca ngợi Lam như một anh hùng, nhiều cơ quan tới tận giường tặng bằng khen, tặng tiền, tặng nước mắt cảm thương. Lam trả lời tám cái phỏng vấn, nói tôi không hối hận.

Lam nói không hối hận. Nhưng mắt nó nói tôi hối hận. Mặt nó nói tôi hối hận. Đôi tay áo trống rỗng phơ phất của nó nói tôi hối hận. Tôi chưa bao giờ thấy nỗi buồn nào giống vậy, buồn vì đã làm việc tốt. Buồn vì đã tốt. Những lần tôi tới chơi, vui thì Lam để tôi đẩy xe đưa nó ra vườn, buồn thì nó đuổi thẳng, về đi, tui không cần thương hại. Tôi chối nhưng ánh mắt tôi đã phản bội, nó nói rõ ràng, tôi thương hại. Không bao giờ mắt dám nhìn thẳng vào đôi vai trụi trơ.

Tôi cố dặn mình hãy nhìn vào đó công bằng như nhìn một người lành lặn, công bằng như nhìn thằng bạn mà mình căm ghét, hãy cười ha ha và nói đáng đời mầy, ai kêu mày giàu, mày sung sướng, giờ ráng chịu. Những buổi tối làm việc ở nhà hàng, tôi cắt cánh gà, nhìn vào cái thân mình trụi lủi của nó, thấy không có gì là khó. Nhưng Lam không phải con gà, hay cái cây bị tỉa nhánh. Và nếu quyết định gắn bó suốt đời, thì chúng tôi sẽ làm tổn thương nhau trong lúc nhìn nhau, âu yếm nhau, liệu chúng tôi có chịu được không, tôi nghĩ nát cả tuổi mười bảy. Lam nói không được đâu, nó nói bằng cách nhảy từ ban công tầng ba xuống. Tôi bắt đầu sống bằng hai người, nhưng việc đó cũng làm tôi tàn tật.

Nghe câu chuyện này, anh Viện phó kêu, thôi khóc nhiều rồi, từ giờ em nín đi. Nhưng tôi đâu có thấy mình đang khóc.

8

Chuyện của Lam, tôi kể Anh nghe trong một tối trời mưa. Cúm rúm trong một căn lều ở bìa rừng, lớp lá mục dưới chân ngấm ướt, phải ngồi chồm hổm, hai chân tê rần, tôi lóng ngóng hết ngó Anh lại nhìn ra cửa lều bóng đêm đã bịt kín.

Anh ở quá gần. Với tay là tới. Bồn chồn, bối rối, sốt ruột không che giấu được, Anh đánh mất vẻ kiêu bạc, ngạo ngược thường ngày, tôi ao ước phải chi mình là lý do, chứ không phải vì cánh rừng năm hai trăm năm tuổi này.

Năm sau, người ta sẽ san phẳng chúng và trồng lên một khu công nghiệp lớn nhất nước. Chúng tôi được lùa tới đây, làm chuyên đề rừng, mong vớt vát được chút gì trước khi nó biến mất. Nên tôi được đi công tác cùng anh, chuyến đầu tiên, đêm đầu tiên. Nhưng không phải lần đầu tiên tôi nhìn thấy sự vật vã của một “con nghiện rừng”, một biệt danh mà trong giới ai cũng biết. Cái hôm nào đó, khi Anh mướn vai tôi để vùi yếu mềm vào đó, cũng có cánh rừng qua đời.

Nên dù giờ Anh vẫn giả lơ, vẫn giữ vẻ lạnh lẽo như chưa từng thuê tôi làm bồ, dù nhiều khi cả tôi cũng hoài nghi, biết đâu người giống người thôi. Chỉ khi tôi mở tất cả những khay dữ liệu mang tên Anh, tôi biết chắc đây là người tôi tìm. Mẫu của Anh nhiều lần làm tôi suýt rớt nước mắt vì tuyệt vọng. Vẻ đẹp của những tán rừng lúc nào cũng chực bứt ra khỏi máy móc, đòi sự sống, đòi hơi thở, đòi không khí trong lành… Nghĩ, nếu ai đó đã yêu đến vậy thì không thể yêu con người nữa.

Nên Anh có kiêu hãnh hơn, lạnh lùng, mai mỉa hơn tôi cũng không ngạc nhiên chút nào. Chỉ thấy lạ khi con người đó trở nên đa cảm trước sự mất mát. Mười lăm năm Anh làm việc ở Viện, bỗng yếu mềm như một đứa mới vào nghề, trong một tối mịt mùng mưa.

- Nghe lời tôi, em đừng yêu bất cứ gì.

Tôi nghĩ thầm, sao làm được ta, mình có tới hai trái tim mà.

- Trời đất, em yêu luôn những cái đã mất rồi.

- Kể tôi nghe đi, em đã mất gì?

Tôi cười, nhưng cười không phải là một câu chuyện để nghe. Giữa cô quạnh, không có chiếc xe nào chạy qua, không có người nào đi qua, tôi không có gì vớ lấy để đắp những hố thẳm trong tôi lại.

- Sao em không nói? Em nghĩ trên đời này có người nào muốn nghe em hơn tôi sao? Anh hỏi.

Ngay giây phút đó, tôi không bao giờ mặc cái áo cười trước Anh nữa. Tôi là tôi, trơ trụi xơ rơ, gân guốc bụi đời, và rửa mặt mỗi ngày bằng nỗi muộn phiền bảng lảng. Quá nhiều chuyện tôi muốn kể Anh nghe, nhưng tôi bắt đầu từ Lam, người khiến tôi đi nhanh, sống gấp. Như nàng Sheherazade của thiên truyện Nghìn lẻ một đêm, tôi để dành vài câu chuyện cho lần sau, sợ không biết nói gì vào dịp thứ hai, đêm thứ hai.

Lúc đó tôi không nghĩ sẽ cùng Anh đi tận những đất trời. Lúc đó thì tình yêu là chiêm bao. Bởi sáng sau thức dậy ở cái bìa rừng đẫm nước, Anh lại là ông sếp dày dạn, thông minh, giỏi giang mà lạnh trơ. Một bữa tôi theo những triền sông tìm những lò rèn, lò cốm, những vườn trầu, cau còn sót lại… ham quá không hay chuyến đi đã dài hai mươi bảy ngày. Về Viện, anh đón tôi bằng ánh mắt rát mặt, giận dữ nói “sao em không đi luôn đi?”. Mà kỳ thiệt, anh lại kéo tôi ôm vào lòng.

Khoảnh khắc đó tôi đã biết âm thanh đẹp nhất của cuộc sống là tiếng của một người nói yêu một người. Tôi mới vừa nghe xong. Nhưng tôi phải tỏ ra không cảm động gì cả, khi rời khỏi căn phòng đó, khi gặp một đồng nghiệp ái ngại hỏi, “bị sếp giũa te tua rồi hả?”. Tôi cúi đầu buồn tủi cho giống như cô nhân viên ít thâm niên xốc nổi, hay mắc lỗi vừa bị ông sếp khắt khe rầy rà. Thành phố giống như một sàn diễn lớn, và chúng tôi đang cố tròn vai.

Những lần về thành phố lúc cuối tuần, giống như diễn viên chờ tới lượt mình ra đèn, tôi vạ vật ngồi quán ở ngã tư Sương, uống một ly cà phê đá cùng bảy ly trà đá, ngồi từ sáng tới chiều, mong bắt gặp Anh chạy xe qua để nhìn mặt, vậy thôi. May mắn thì sẽ thấy Anh đi dạo cùng gia đình, đứa con cao nhòng nên phải khoanh tròn trong lòng ba nó, đằng trước. Vợ Anh ngồi sau thổi nhẹ một câu nói nào đó vào vành tai chồng. Chị là tiến sĩ xã hội học, đẹp và thông minh. Tôi đọc những bài viết sắc sảo của chị in trên báo, thấy chuyện chị không nhận được tình yêu trọn vẹn của Anh chỉ vì lúc mặn nồng chị luôn mở mắt nhìn, thiệt là lý do vô duyên. Anh thì không nghĩ điều đó là ngớ ngẩn, “tôi cảm giác như cô ấy đọc tôi, dò xét tới gan ruột tôi. Ngay cái lúc con người bản năng nhất, thì cô vẫn lý trí, vẫn suy nghĩ”.

Tôi cũng thường suy nghĩ lắm, khi quấn nhau, khi mê miết da thịt nhau đến tan thành khói, thành nước. Tôi nhớ mẹ, ước phải mẹ còn sống, mẹ sẽ dạy tôi biết giữ gìn và chờ đợi, tôi sẽ yêu từ từ. Chuyện mở khuy áo hay không làm tôi bối rối cũng nhiều, bỗng nghĩ không nên hoãn tới cuộc gặp sau, khi tôi đã mất Anh một lần mà không biết tìm đâu, khi chỗ chúng tôi ở, nơi chúng tôi tới hay vừa rời khỏi, mọi thứ đang đứng bên bờ vực diệt vong, và chúng tôi sẽ cùng nhau bao lâu? Nhưng dù là lần cuối cùng tôi áp môi lên môi Anh thì tôi sẽ đẹp đến phút cuối cùng. Tôi không muốn “phải chi…” một điều gì đó về Anh, sau khi đã dai dẳng hối tiếc, phải chi tôi đừng có lẻo đẻo theo mẹ hỏi về cha tôi, phải chi trước tai nạn Lam nói gì tôi cũng ừ…

Yêu nhau phải đến trăm lần cuối. Tôi hầu như về Viện rất vội, nộp mẫu, thanh toán những khoản phí, tôi lại khăn gói lên đường. Giữa thành phố tôi ngày càng ngơ ngác, nên có bữa kêu anh xe ôm từ bến xe về cơ quan, anh này chạy lòng vòng qua tám ngã tư ba ngã bảy, nhưng tôi chỉ trả tiền bằng đoạn đường ngắn ngủn mà tôi biết, thấy anh định há miệng ra cự nự, tôi cười, ủa, tôi tưởng anh chạy lòng vòng là vì anh thích tôi. Bữa khác về cơ quan gặp một người đàn ông đang đứng tra khóa vào ổ, tôi khều vai ông, lộn phòng rồi chú ơi, đây là phòng viện trưởng đó. Ông già ung dung cười, “Thì chú là viện trưởng mà. Cháu mới vô làm hả?” Tôi bật ngửa, dạ cháu làm được năm rưỡi rồi. À, ra vậy… Ông nói bằng cái giọng ung dung, lúc nào cũng ung dung, rót trà ung dung kể chuyện nằm viện vừa qua, ung dung bấm ngón tay, còn bốn tháng mười bảy ngày nữa ông mới nhận quyết định hưu, vội gì.

Sự ung dung, chậm rãi làm nhiều cấp dưới sốt ruột, trong đó có Anh. Người ta ung dung trong lúc thiên nhiên vẫn không ngừng biến mất.

May nhờ hẹn hò khiến cho nỗi chờ đợi trong Anh dịu cơn quay quắt. Hẹn hò hay lắm. Người này đón ở con đường người kia chắc chắn sẽ qua, rất xa thành phố. Vẫy đúng chiếc xe tình yêu đang ngồi, rủi trên xe đó có người quen với chúng tôi, một trong hai đứa sẽ nói, “trời, trùng hợp quá, anh (hay cô) đi đâu vậy?”, rồi ai đó xuống dọc đường. Hành trình có trắc trở chút đỉnh, nhưng rốt cuộc chúng tôi cũng được lang bạt với nhau.

Có bữa đi tới cái thác có mỏm đá trông giống đầu con voi, ai đó đắp thêm cái ngà bằng bê tông cho người ta khỏi mắc công tưởng tượng, Anh cười chua chát, “Con người trừng trị thiên nhiên bằng cách hạ nhục, hủy hoại nó. Còn thiên nhiên trả thù bằng cách nào em biết không? Nó biến mất”. Tôi trân trọng những lời này cũng như câu “anh yêu em”, ghi nhớ dài lâu, cảm kích như đứa học trò ngưỡng vọng ông thầy giỏi.

Có bao nhiêu tình tôi yêu hết, tật tôi vậy, xưa thích cây kẹp tóc mà mẹ mua cho, lỡ để mất, tôi cắt tóc ngắn luôn. Một bữa tôi rủ Anh ghé qua một cái quán nước vùi giữa bụi đất đỏ, gặp người đàn ông tóc chải mướt ngồi đằng trước, miệng ngoắc ngoắc cây tăm, vuốt ve âu yếm mấy con gà nòi. Vợ ông cỗi cằn, héo quắt bưng cái bụng bầu nhọn lểu với hai ly nước mủ gòn ra, xởi lởi khoe, “trước đẻ toàn con gái, giờ mới kiếm được con trai nè, ông chồng mừng húm…”. Tôi day qua ngó người đàn ông, thấy mình tệ hơn mấy con gà, bàn tay đó đã lần nào ve vuốt tóc tôi? Nghĩ vậy, nên níu Anh đứng dậy đi, chân bước chới với.

Coi như đó là câu chuyện cuối cùng liên quan tới nhân thân tôi. Nhưng vua vẫn để Sheherazade ở bên mình, bởi vua yêu nó không phải vì những câu chuyện của nó. Vua yêu tâm hồn xanh xao của nó, yêu những quạnh hiu được che giấu bằng vẻ ngoài mạnh mẽ, yêu sự giản dị và và vẻ đẹp rực lên bất chấp bao nhiêu mất mát. Yêu vì khi khám phá tận cùng nhau, bỗng thấy nỗi đau, niềm đam mê, sự vơ vất, hoang mang của người kia cũng giống mình. Yêu vì khi vua kể chuyện đi rừng, những dã hương, chiêu liêu, sến mũ … đã tuyệt vong nó không bao giờ ngủ gật, luôn háo hức mở tròn con mắt, dạ dạ, ui trời, vậy hả anh, tiếc quá… Nó cố giấu tuyệt vọng ứa ra đầu lưỡi, như một hôm nào còn làm cô bồ mướn, nó nhìn thấy ở người đàn ông này một nỗi cô đơn vô tận. Khi đó, Anh thuê nó vì cần một người nghe. Anh kêu cứu cho rừng trên tivi, báo chí, trên những diễn đàn, hội thảo, nhưng rồi chỉ còn mình nó nghe, chia sẻ, nhưng chỉ nó nhỏ nhoi thôi thì có ích gì?

Nên Anh vẫn quay quắt chờ đợi, một lúc nào đó, tiếng nói của Anh sẽ làm thay đổi hàng triệu người. Có lần Anh rủ tôi ghé tạt ở nhà hàng bên đường, chị chủ quán trạc tuổi Anh, là người quen cũ, đã chớm đẫy đà, mà đằm thắm kinh khủng. Mừng đến mắt như cháy ngút lên, nhưng vẫn đằm thắm, “coi anh vui hơn hồi trước”. Chị hỏi thăm năm ba người quen có còn ở Viện, hỏi thăm những đứa con đang học lớp nào, hỏi thăm rừng Chớp, thủy tùng Lac Deo… còn hay mất, hỏi thăm cái suối lần mình bị kẹt lại vì lũ quét còn hay mất, hỏi thăm những người hát dân ca trong bộ tộc Tai Nát còn hay mất? Câu nói, nụ cười quấn quýt. Một hồi thấy có đứa nhỏ rớt ra ngoài câu chuyện của hai người, Anh day sang tôi nói, trước Trúc làm ở cơ quan mình. Tôi cười nói, dạ, em biết rồi. Ở kho lưu trữ của Viện nhiều lắm những mẫu mang tên chị, gắn bó duy nhất với vùng đất Thổ Sầu.

Nhưng mẫu của chị, và của Anh nữa, đã dừng lại ở mười hai năm trước. Mười hai năm trước, người ta bắt đầu tới vùng thảo nguyên Thổ Sầu xới tung nó lên khai thác quặng, nơi đó biến thành một đại công trường. Chị đưa đơn nghỉ việc. Anh từ giã rừng, nhận chức viện phó người ta đã từ lâu mời mọc. Anh cưới cô bạn học, con gái của thứ trưởng. Bước vào đường quan trường, Anh muốn đi tắt, muốn chạy mau mau đến cái ghế viện trưởng, rồi bộ trưởng, Anh sẽ vào hội đồng thành phố, hội đồng trung ương, Anh sẽ cứu được những cánh rừng bằng tiếng nói của mình. Anh sẽ giữ được chúng bằng quyền lực. Hơn ai hết, Anh hiểu cái mà Viện đang gìn giữ là vẻ đẹp không hoàn hảo, chúng đã chết một phần, chúng không có cảm giác trên da thịt, không có mùi, vị… Chúng là sự níu kéo vô vọng của con người.

- Chờ đợi làm anh sắp chết, may nhờ em…

Tôi xỏ những ngón tay khô cứng của mình vào mái tóc dày của Anh. Lại nghĩ, có thể đây là lần cuối cùng tóc Anh xước nhói vào những ngón tay này. Chút nữa biết đâu có một cuộc gọi từ thành phố, Anh sẽ được thứ Anh muốn được. Và sân khấu đó sẽ giữ Anh lại, vì Anh đã là nam chính rồi, tôi cứ thì thụt mãi vai nữ tì, lâu lâu mới dạ dạ chạy ra.

Và tôi sẽ tội nghiệp lắm, khi xó xỉnh nào cũng có kỷ niệm với Anh. Nhà trọ nằm trên dốc Mùa Sương, nơi tôi mở chiếc khuy đầu, phiên chợ chúng tôi tháo cũi cho hai con khỉ bị người ta xách dao rượt chạy trối chết, nơi kẻ trước kẻ sau è ạch đẩy chiếc xe máy xẹp bánh trên hàng chục cây số đường rừng, và thung lũng Khơi Ma một ngày mưa giông ngợp ngụa, tôi nói, anh ơi, em có thai rồi.

9

Phiên lớn từ bữa nó treo toòng teng trên võng hỏi, “mẹ ơi, sao anh Thơ khùng có ba, còn con hong có?”.

- Có chớ con, ai cũng có ba hết.

Ngay lập tức, trên môi thằng nhỏ có câu hỏi khác đã thập thò, và dấu chấm hỏi quăng ra bỗng như xóc ngược cái móc nhọn vào cổ tôi, nghe đau đến trợn trạo miếng cơm, “vậy ba con đâu?”

Phiên không bao giờ để tôi nợ lại bất cứ câu hỏi nào của nó. Mà nó thì hỏi cho tôi nghẹt thở, cứng họng mới thôi. Nhưng tôi không muốn ngăn nó lại, bởi hỏi cũng là một vẻ đẹp. Mẹ ơi nước dưới sông chảy chừng nào mới xong, sao con chuồn chuồn này màu đỏ mà con kia lại đen, sao con chó Vện cũng già lại không có tóc bạc giống như ông Sáu? Trả lời muốn đứt hơi rồi, nhưng vừa dứt tiếng nó đã nhảy tọt vào câu hỏi mới. Hỏi và tin, và thích đào bới tận cùng.

Hồi nhỏ tôi cũng tin có tận cùng. Nhưng mẹ tôi không có tận cùng nào cho tôi, bởi trong lòng mẹ cũng bị tình yêu bỏ lửng một câu trả lời. Lớn lên tôi đánh mất vẻ đẹp hỏi, tôi dần từ bỏ nó, xa lánh nó. Bởi càng lớn càng hoang mang trước cái gọi là tận cùng, hoặc không có tận cùng hoặc tận cùng là cái gì đó mơ hồ, nhưng buồn. Cảm giác đó tôi trải qua rồi khi đi tìm cha tôi, lần đầu.

Giờ Phiên cũng đi tìm ba. Tôi kể có một người cha gánh trọng trách bảo vệ những đôi tay đẹp, những loài cây quý, những cái cây tỏa hương từ phiến gỗ chứ không cần đến hoa. Người xấu muốn cướp đôi tay của trẻ con để chúng khóc mà không có gì lau nước mắt, muốn đốn cây về chụm củi cho lửa… thơm. Anh ta phải chiến đấu với người xấu bao giờ xong mới về, mà có thể mãi mãi không về vì ngày càng có nhiều người xấu. Thằng Phiên ngồi mặt chảy ra, quần xoắn cao tới bẹn, đầu gối vượt khỏi lổ tai, ngẩm ngợi, “tội nghiệp ba con thiệt, chắc ổng nhớ con…”.

Người xóm Cồn khen thằng Phiên có nhiều nét giống tôi, nhưng những khi kỳ cọ cho nó bên dòng nước, tôi chỉ xuống mặt sông xao động, nói, giống ba in hệt. Nó sung sướng lắm, “trời, vậy là ba cũng đen thùi lùi vầy hả?”.

Tuổi lên sáu Phiên nhận được từ tôi một món quà hơi đặc biệt, những chữ cái đầu tiên. Cái ca. Trái cà. Con gà. Nó không đến trường, một phần vì cồn không có trường. Nhưng bên kia sông có. Tôi không đưa Phiên qua vì nghi ngờ trường học làm những đứa trẻ biến mất. Tôi đã thấy trẻ con đi vào đó, và trở ra như những người lớn mệt mỏi, muộn phiền. Tôi giữ cho tuổi thơ Phiên đẹp như Phiên có. Hoang dã. Trong veo.

Thằng Phiên chấp nhận điều đó, vì qua sông có thể bọn người xấu nhận ra nó là con của chàng dũng sỹ, và bắt nó để ép chàng đầu hàng. Mà bên sông người ta không cho con nít tự ý vào nhà người khác, lục cơm nguội của người khác ăn, ngủ trên giường người khác… Họ không thích con nít nhấc chân như con chó vện, đái vô những bông bí, làm tụi nó héo quéo. Ở Cồn thì chuyện đó là bình thường, không sao hết.

Nhưng thằng Phiên hay nghĩ ngợi. Lúc suy nghĩ nó sẽ lấy cọng lông gà ngoáy lổ tai, lim dim khoái cảm, sau đó nó gật gù, nếu đái vô bông bí thì bông bí sẽ ngộp thở, tội nghiệp. Tội nghiệp là câu đầu môi của thằng nhỏ. Chúng tôi không ăn những con cá nhỏ vì tội nghiệp, không nhổ cải đi bán vì tội nghiệp và kết quả là tôi có một giồng bông cải thắp nắng lộng lẫy giữa mùa mưa, khi trong túi lép kẹp tiền. Và những con cá mang bụng trứng no tròn sẽ được chúng tôi trả lại cho sông. Mấy bà tiên đi ngang Cồn, thấy Phiên tốt bụng quá nên tặng nhiều quà, những khi nó ngủ. Lúc thức dậy đã thấy trên vạc có cây viết chì, hay những cục kẹo xanh đỏ, cục đạn cu li, mấy củ khoai nóng hổi còn mặn bụi tro… Đôi khi nó giả bộ nhắm mắt ngủ để rình coi mặt bà tiên, nhưng tiên biết nó thở làm sao mới là ngủ thiệt. Ngủ giả thì tiên ghé làm gì.

Tôi lặng nhìn Phiên đẹp qua tuổi thơ bận rộn của nó. Buổi sáng đi dài xóm ngửi mùi khói bếp coi nhà nào có đồ ăn ngon nó sẽ ghé chơi. Sau đó tới giờ radio ca cải lương nó sẽ nghe với Thơ khùng, sẽ đứng một chân hay đứng bằng cả bốn chân tay, tùy hôm đó cả hai là vịt hay chó. Ngủ trưa lang chạ ở đâu đó, bất cứ giường nào võng nào của bất cứ ai, thức dậy nó sẽ tới chòi chơi với ông Sáu. Trên đường di chuyển giữa chỗ này qua chỗ nọ, gặp nhãn lồng chín nó ngoẹo đầu đớp ăn luôn trên cây như chim trao trảo, khỏi phải thò tay hái mắc công. Nó thử coi ổi chua hay không cũng bằng cách này, nhá cái răng chó nhọn hoắc lên những trái vẫn đang lủng lẳng trên cành, thấy vừa thì ăn, còn chát sẽ bỏ đó chờ thêm ít bữa. Vừa ta bà ăn chơi vừa ngó trời, thấy chuyển mưa nó chạy về nhà giúp tôi gom củi đem cất trong bếp, bắt mấy con gà con vô nhà.

Có khi nhìn thằng Phiên nằm ngủ, mấy con gà con cũng khoanh tròn trên bụng nó, tôi tự hỏi có gì đẹp hơn vậy. Có gì đẹp như trẻ con, gà con, như mạ vừa nhú lên, cỏ vừa vượt đất. Xanh lấm tấm. Xanh chưa thẳm. Mong manh.

Phiên càng mong manh. Nó thường ngoái lại cái chợ chúng tôi vừa rời khỏi, hí hửng xài luôn tiếng chửi thề vừa mới học ở đó, “má nó, cục kẹo này ngon tàn bạo…”. Phiên thích ríu ran kể những chuyện giang hồ nó nghe được từ những chiếc ghe hàng bông tấp vô Cồn nấu cơm hay tránh giông, nó thường đứng dưới những cây bần quỳ già cỗi, ngó về bên kia bờ, đã thấy lốm đốm những mái nhà thay cho màu xanh của những bờ lá rậm. Ở đó có đứa con gái hay theo mẹ qua đây mua đồ rẫy về bán lại, con nhỏ lanh chanh, hay nhỏng nha nhỏng nhảnh kêu Phiên, “quỡn đứng đó làm gì, xách giùm cái này coi...” Thằng Phiên lúng búng chạy mất, nhưng lén ngó theo khi xuồng họ đã buông bờ.

Nó thấy cái cồn Bần này dường như không đủ. Nó cô đơn, và không thể che giấu điều đó, giống như tôi.

10

“Đồng cỏ bạn đang dạo chơi một ngày kia sẽ biến mất. Dòng sông bạn đang tắm một ngày kia sẽ biến mất. Tiếng chim hót ban mai một ngày kia sẽ biến mất. Những người thân yêu của bạn một ngày kia sẽ biến mất. Bạn có muốn giữ lại tất cả những gì mà bạn nghĩ là đẹp nhất, tinh tế nhất, quý giá nhất của thế giới này? Hãy tới làm việc với chúng tôi…”. Mẫu rao tuyển nhân viên vừa đa cảm vừa bí ẩn của Viện di sản thiên nhiên và con người khi đến tay tôi là một mảnh giấy gói thuốc Bắc, phảng phất mùi cam thảo. Tôi cất rất kỹ. Vào năm thứ ba làm việc ở Viện, có nhiều đêm tôi lấy ra đọc đi đọc lại, như nuốt trộng chúng, lục cục ở cổ họng, thấy đau.

Đó là quãng thời gian tôi sắp làm chuyên đề về thời thơ ấu của con người. Tôi muốn dõi theo một đứa trẻ từ khi sinh ra, khi toan tính, cám dỗ, vật chất chưa làm phai đi chất thánh thiện của nó. Tôi viết đề cương sau một thời gian đi xa hơn mọi cuộc đi xa. Tôi đón bất kỳ chiếc xe nào, vì những chuyến xe rời thành phố không mang anh theo nữa. Tôi cười nhiều hơn, và khi gặp anh bởi những chuyện buộc phải gặp, thấy cái nhìn ngạo nghễ đã hao hớt bởi sự dằn vặt, tôi buồn. Vì tôi đã giỡn với anh, hơi vô duyên khi một hôm nào nói, anh ơi, mình có con rồi.

Một mối tình có trăm kiểu bắt đầu, cũng nhiều cách kết thúc, một trong những cách đó là cô gái nói, anh ơi, anh sắp làm cha đó nghen. Tình yêu chấm hết ở một cái vẫy tay không hẹn gặp, ở một phòng khám sản khoa kín đáo, hay ở một đám cưới bỡ ngỡ, vội vàng. Khi tôi nói câu đó, tôi giả đò rất bâng quơ, nhẹ nhỏm, nhưng rủi quá, đang nai nịt máy móc để lội qua suối Nang Oi sùng sục nước, nên trong lúc quàng chéo sợi dây dù lên vai, tôi kịp thấy vẻ bất an, bối rối và bàng hoàng, đến nỗi tôi nghĩ, mình vừa nói mất cánh rừng nào sao ta, một người sinh ra tương đương với một mảnh rừng bị mất? Tôi tính khi qua bờ bên kia sẽ ôm bụng ngặt ngẽo cười, “người ta nói giỡn mà có người tưởng thiệt, haha …”.

Nhưng lúc qua suối tôi gặp một tai nạn, gọi là nhỏ vì tôi chưa chết, gọi là lớn vì tôi suýt chết, nước đã dìm trôi một quãng, rồi quăng quật vào một gờ đá nổi bên bờ. Tôi thấy đau đớn rã rời, người ướt ròng, khóc như vắt nước mắt. Không phải vì sợ hãi, không phải vì mớ máy móc chuyên dụng đắt tiền đã ướt mèm, tôi khóc vì đã sang bờ nhưng không thể cười và nói em giỡn anh ơi….

Anh không dỗ, vơ vất ngó quanh vì anh biết lý do tôi khóc.

Chúng tôi chia tay nhau.

Thành phố mừng húm, nó níu tay anh lại. Những cuộc gặp thưa vắng đã làm an ủi cả hai. Lần cuối cùng gặp anh là hôm tôi trình bày đề cương “thơ ấu đời người…”. Tôi gõ vào cánh cửa và đẩy nhẹ nó, thấy buồn, khi đây không phải là cánh cửa quen mở ra căn phòng quen gặp một người quen. Nó không có tiếng kêu kèn kẹt đầy bí hiểm như sắp mở ra một kho báu tuyệt vời. Phòng viện trưởng rộng hơn, sang trọng hơn với những chiếc ghế bọc nhung, lạnh lẽo, ngăn nắp, đèn nhiều hơn và Anh cô đơn hơn. Khi biết địa chỉ đứa trẻ tôi chọn để làm chuyên đề, Anh tần ngần:

- Em hy vọng gì khi tới đây? Có thể sẽ rất buồn…

- À, em có vài thắc mắc ở đó…

Tôi bỏ lửng vì thấy nó hơi riêng tư, liên quan tới tình yêu của mẹ tôi mà. Anh không hỏi nữa. Không biết dự cảm nào mà hôm đó anh bắt tay tôi rất chặt, làm tôi đau quá. Tôi tự hỏi sao khi đi giữa dòng suối ngầu sôi kia, khi thấy tôi chới với, anh đã chụp tay tôi rồi, cũng chặt như vầy, nhưng anh đã buông, anh thả những ngón tay anh cũng nhanh như khi nắm vậy. Tôi đã chìm ngay lúc ấy, dù sau đó anh sực tỉnh rướn theo, chới với tìm. Giữa dòng nước hung hăng, có con nhỏ chết trôi. Vào khoảnh khắc đó anh đã nghĩ gì, nghĩ gì, nghĩ gì? Tôi tự đưa ra nhiều giả thuyết, nhưng kiểu nào cũng có chút liên quan tới lời nói đùa kia, nó giống như sương mù làm con đường anh đi trở nên mù mịt. Anh mất bình tĩnh, muốn vùng vẫy rũ bỏ.

Giờ tự tôi khép tôi lại. Vừa kịp đón chuyến xe chiều đi tới một vùng đất đỏ, một quán nước quen, nơi có bé trai vừa chào đời, đứa em cùng cha khác mẹ với tôi.

11

Tôi thấy Phiên lần đầu khi nó mới hai mươi hai ngày tuổi. Tay chân nó ngắn khụi, tóc ít, da đầu mịt vảy cứt trâu. Nó ngủ nhiều, bú nhiều, bụ bẫm căng tròn, chân tay như mấy đoạn củ sen gắn lại, nhìn đâu cũng thấy ngấn đầy.

Tôi ghi lại hình ảnh mụ bà dạy Phiên cười nhoẻn trong giấc ngủ. Nó đái bổng lên trời. Nó mơn man vú mẹ. Trán nó lấm tấm rôm sẩy. Cổ nó bị hăm đỏ. Nó nhảy mũi hoài. Tôi thu tiếng khóc của nó lúc nửa đêm, tiếng nó mút sữa…

Tôi ở lại luôn nhà của cha tôi, gọi ông là chú Tư. Giữa kỳ làm chuyên đề, có lúc tôi đi công tác một nơi khác, lúc quay lại, ông hay hỏi “ba má cô cũng mạnh giỏi?”. Tôi gật đầu. Ông vui khi biết một viện tầm quốc gia chọn thằng nhỏ con mình làm nhân vật của họ. Trong ký ức ông không còn hình ảnh nào của tôi, đã đứt bằn bặt. Tôi không lấy điều đó làm buồn, vì năm đứa con gái lớn lên bên ông mà đôi khi còn bị lẫn lộn tên. Ông không yêu con gái, ông bà nội tôi cũng không yêu con gái, họ sinh con gái để chăm chút ông, cho ông cưỡi chơi, bắt nạt, trút những giận hờn. Họ khâu nút áo khi ông đánh nhau bị đứt, họ chịu đòn vì đã để ông trèo cửa sổ đi chơi. Ông không bao giờ là người có lỗi, vì ông là đứa con trai duy nhất của nhà buôn gạo nổi tiếng. Cả khi sự sản đó tàn rụi cũng không phải vì ông tiêu xài hoang phí, họ đổ lỗi cho thời cuộc. Tôi chắp vá những lời kể thảng hoặc, bất chợt từ những người sống quanh ông, cố hiểu tại sao ông lại dè sẻn tình thương từng giọt từng giọt một.

Ông dành dụm và chờ đợi. Phiên ra đời, ông xô ngang mọi trò vui chơi, suốt ngày luẩn quẩn loanh quanh chỗ Phiên nằm, ngây ngất nựng nịu, ngây ngất hôn hít, ngây ngất nói chỗ nào nó cũng giống ông, coi, tới nhảy mũi cũng giống… Những lúc đó tôi nghĩ, bữa nắn mình chắc mụ bà làm giữa chừng thì hết đất, hoặc làm đến đấy thôi thì bà đi ăn cơm, xong quên phứt luôn. Phải cố thêm nữa, chỉ cần gắn chút đất nhỏ xíu như trái ớt, tôi sẽ thành một đứa bé trai. Cha tôi sẽ ở lại. Tôi sẽ lớn lên trong vòng tay ông. Như cha Phiên thường ôm ghì nó, dụi mặt vào bụng nó, vào nách nó, trầm trồ đôi môi đỏ của nó.

Phiên dần lớn mà tôi vẫn chưa bớt ưu phiền. Những lúc lượn lờ quanh nó với chiếc Saisomat chuyên dụng, tôi thường chua chát nghĩ, không ai còn giữ chút ký ức nào về thời bé bỏng của tôi. Mẹ, ngoại tôi đã chết rồi, cậu mợ thì lườm nguýt cái hoang thai từ khi nó còn nằm trong bụng. Họ hàng, làng xóm xiêu lạc từ khi xóm nhỏ ngoại ô trở thành phố xá. Không ai nhớ da thịt tôi đã từng ấm mùi lửa than và thơm dậy sữa, không ai nhớ tôi đã đẹp như thế nào khi nằm mút tay và mằn chơi những ngón chân mình. Tôi có từng ăn đất không? Có từng đái dầm? Hay khóc mớ?

Tôi đã trôi đi không tăm tích giữa cuộc đời này, thỉnh thoảng có ai đó níu lấy rồi buông bỏ. Giờ tôi lại đi dành dụm một ký ức rực rỡ cho Phiên. Mỗi tháng cha nó nhờ tôi chụp cho tấm ảnh, “để sau này nó lớn nó coi, chà, chắc nó mắc cười dữ lắm…”. Những mẫu tôi làm ông nhờ tôi in sang thêm một bản. Phiên lên một tuổi, cái quán nhỏ kiêm ngôi nhà chật chội đó vẫn còn không khí hội hè, một bà vợ vui vì không bị buộc phải sinh con, không phải tự è ạch đi bộ tới nhà bảo sanh bởi lỡ chửa em bé gái; mấy đứa con vui không bị đánh chửi, la rầy vì lỡ làm con gái.

Tôi gần gủi hết thảy tụi nó, trừ Trang. Chỉ vì Trang nhỏ hơn tôi ba tuổi. Chỉ vì cha bận bồng ẳm Trang nên không thèm quay về xóm Chiếc với tôi. Trang không làm gì tôi hết, nó còn không biết tôi là ai, nhưng khi nhìn nó tôi hơi giận. Hai mươi bốn tuổi, Trang dẫn đầu một bầy con gái chưa chồng. Cha nó coi đó như một gánh nặng, và ông trút vào Trang. Hàng ngày ông xúc xiểm cái mũi xẹp “như cục bột quăng lên mặt cái phẹp”, ông chì chiết nụ cười nó “vô duyên vô dùng”, ông căm ghét mớ tóc xoăn của nó “lúc nào cũng rối bời như con khùng, ai dám lấy…”, như thể nó chắc chắn sẽ ế chồng.

Trang bỏ nhà đi ngay trong đêm chuẩn bị thôi nôi thằng em út. Cha tôi vẫn tỉnh bơ hối vợ ông nấu xôi chè, tỉnh bơ bưng thằng nhỏ Phiên đòng đưa trên võng, nhẹ nhỏm như ông vừa mất con gà, hay thua một ván bài. Có sao đâu. Người đàn ông này chưa từng trãi qua cảm giác mất mát.

Ngồi tiếp một tay đãi mớ đậu trắng tôi nghe cay đắng đầy ứ miệng. Tôi hầu như không nuốt nổi chúng. Tôi thấy mình ở đây thiệt vô lý hết sức nói. Tại sao tôi chọn thằng nhỏ nhà này để làm chuyên đề khi có hàng ngàn đứa trẻ khác? Tôi tìm kiếm, hy vọng gì ở đây?

Một bữa tôi gởi toàn bộ máy móc, những mẫu mình có về Viện bằng đường bưu điện, cả những mẫu thô chưa xử lý, lọc âm thanh... Lẫn lộn trong mớ đó hẳn có tiếng đập muỗi lép bép và tôi rủ, “buồn quá, chị ẳm Phiên đi chơi nghen…”.

Thiên nhiên trừng phạt con người bằng cách biến mất, tôi chưa bao giờ quên Anh từng nói vậy. Tôi cũng bắt đầu hành trình biến mất, cùng Phiên.

Tháng Bảy năm đó mưa nhiều. Mấy bà già chung chuyến xe nói cử này ở trên trời có cặp vợ chồng gặp lại nhau nên họ khóc tối tăm trời đất. Họ hỏi tôi, “mưa gió vầy bồng con đi đâu vậy bây?” Tôi cố giải thích thằng nhỏ này là em trai tôi, họ cũng ờ ờ nhưng chẳng có vẻ gì tin. Tuổi chúng tôi cách biệt quá lớn, mặt tôi lại đầy uẩn khúc. Tôi nghĩ, chuyện để Phiên làm con tôi cũng tốt cho việc bỏ trốn. Lúc đầu nựng nó kêu con ơi con mà mắc cỡ muốn chết, mà tê tái muốn chết, mình sẽ làm mẹ kiểu gì đây.

Có lần Phiên hỏi, hồi mẹ đẻ con chui ra chỗ nào, sau khi thấy chó vện đẻ mấy con chó con, lũ gà mái đẻ ra mấy cái trứng… tôi cười, nói tôi đẻ ngang hông, nó cứ rờ bụng tôi tìm sẹo. Tôi thương nó bằng những người đàn ông tôi thương cộng lại, dù đôi lúc tôi không phân biệt được, tôi mang Phiên đi cho cha tôi biết đau, hay vì giữ gìn vẻ đẹp trong veo của nó không cho nó trở thành bản sao của ông, không để những cám dỗ của cuộc đời làm tha hóa chất người, hay tôi mang Phiên đi để cho anh thấy quyền lực cũng mong manh lắm, vui cho buồn người ta lấy lại cho người khác, bằng chứng là Anh sẽ bị rầy rà lên xuống dù người gây tội chỉ là một nhân viên nhỏ nhoi của Anh.

Ở xóm Cồn không ai một lần nghi ngờ chuyện tôi là mẹ Phiên, ngay ngày đầu tiên ẳm nó đi ngang qua đám giỗ đó người ta gọi, “trời đất, hai mẹ con sao lạc tới xứ hoang vu này?”. Tôi có quên Phiên ở nhà họ thì chỉ nhận lời trách cứ nhẹ nhàng, “cái cô này hồn vía không biết bỏ đâu…”

Chưa bao giờ có ai hỏi như gã đàn ông xa lạ kia hỏi:

- Thằng nhỏ này là con em, thật sao?

12

Cho tới khi chiếc xáng cơm rướn vào nằm thở khói ở bãi cồn, thì mảnh đất này chính thức nói lời mất mát. Tôi đã từng coi nó như khu bảo tồn của những vẻ đẹp, quý giá hơn những gì được lưu trữ ở Viện di sản thiên nhiên và con người. Bởi tất cả đang sống và đang thở.

Mười bốn năm, nhiều gia đình dọn tới rồi đi, họ coi như chốn nương náu tạm bợ. Vì tạm bợ nên họ không quay quắt vun vén, tranh giành. Đất ai lấy được của lau lách nấy trồng. Cửa để thả, suồng sã với gió và nắng trời, mùa mưa tới chỉ che hờ hững cái rèm bằng cao su rẻ tiền, hết mùa rách nát. Chị Thiện này nhận được món quà của thời gian - sự quên lãng - hớn hở về nhà, thì có chị Thiện khác chạy giạt tới, cũng thường nhón ngó về quê.

Ở đây, một nồi chè đậu xanh cũng múc cho cả xóm. Đi qua nhà sẽ có người ới lên trong sương sớm, “mới bửng sáng thím (hay cô) đi đâu vậy?”, thật ra đó chỉ là một câu chào theo kiểu xóm giềng quan tâm nhau. Tôi thích kiểu chào kỳ lạ này, cảm động như ngày xưa thằng bán vé số kêu bớ con Di. Tôi mê sự đáo để của thím Tư Đình, bữa chú uống rượu say, thím bóp nát trái chuối chín lòn vô giữa đùi chú, lúc tỉnh dậy chú nghe lạnh chỗ đó, sượng trân túm hai ống quần nhảy ào xuống sông. Tôi thích chị Thắm những ngày sực nức mùi xà bông thơm, cười ỏ ẻ khoe, “bữa nay rằm, bà lớn đi chùa, ông chồng hứa qua chơi…”. Tôi đếm từng ngày để chờ ba Thơ khùng ra thăm con, ông dắt anh ra mé cồn, tắm rửa kỳ cọ, lục cục kể chuyện nhà trong khi thằng con trai cứ ngoái nhìn cái radio đặt ở một chỗ khô ráo gần đó, “con Bé Út lấy chồng rồi, phải bây đừng có khùng thì tao cưới nó cho bây, giờ con nít chạy đầy nhà…”. Ở đây, tôi thấy bình yên những khi ngồi câu trong chòi ông Sáu, đôi lúc nằm ngủ quên ở đó, để tóc và hơi thở chảy tràn quanh ông, có khi gác tay lên đầu gối ông mà không gợn lên chút nhục dục nào.

Kẻ ông già căm giận đã nằm sâu dưới ba tấc đất. Ông vẫn ở lại đất Cồn, có lúc tôi nghĩ, biết đâu vì hai mẹ con tôi. Những khi ông trút cá vào xô đựng của tôi, hay chơi xích đu lơ với thằng Phiên, bò ra bắn đạn cu li, làm diều cho nó thả… tôi hình dung Phiên sẽ cô đơn đến mức nào nếu không có người này. Mọi trò chơi trẻ con đều cần đến hai người. Đá dế cũng cần tay vỗ, mới vui.

Nhưng hơn ai hết, tôi biết không có gì vĩnh viễn. Sự biết này làm tôi hay buồn, khi ta ngồi cạnh nó, ta ở trong nó, cùng với nó, nghe thấy, chạm được nó, nhưng ta cũng đang mất nó, từ từ.

Ta không bao giờ mong muốn nhưng lại có cảm giác chờ đợi, vì biết nó đang đến. Người đàn bà mặn mà của xóm Cồn tắm xà bông thơm thường hơn, gọi Thơ khùng tới chơi thường hơn, và anh chàng ràng cái radio kè kè bên lổ tai có bữa nằm ngửa xãi lai dang rộng chân tay nói, “tui đang làm con chồng học tiếng người”. Ba anh Thơ hết hồn, dọn anh đi tới một chỗ hoang dã khác, chỗ yên tĩnh để anh làm con gì cũng được, miễn đừng làm con chồng, tổn hao sức khỏe.

Đất Cồn vắng đi một người đẹp. Một tâm hồn miển nhiễm với những vui buồn, tranh đua, khao khát. Người không thêm không bớt, vui vẻ với thế giới của mình trong chiếc radio, với một nửa trí khôn. Phiên nhớ Thơ, cuộc đi đó làm nó bắt đầu ngửi được mùi mất mát. Nó hay đứng xơ lơ bìa cồn ngó mênh mông. Trong tầm mắt nó, những chiếc xáng bắt đầu ngược xuôi gào rú, hút cát từ lòng sông, bất kể đêm ngày. Dòng chảy thay đổi đã ăn mòn đôi bờ, sông càng mênh mông. Đất cồn bị nước nuốt chửng từng mảng, sóng đánh vỡ tan bờ lá, đất lở mang theo những cây bần đã cho cồn cái tên Bần.

Và căn chòi của ông Sáu lặng lẽ biến mất trong một tối tháng ba lặng gió. Nó mang theo ông già rắn rỏi giỏi lặn lội. Tôi đau nhói bởi ý nghĩ, ông đã để mình chìm. Chiều hôm trước, một đám người tắm sông gần chỗ chúng tôi ngồi câu, ai đó chớt nhả với tôi, “em ơi, ở chung với ông già thì em làm đàn bà sao được, xuống đây với anh đi…”. Tôi thấy ngọn câu của ông chao đảo. Mà tôi không biết nói gì với họ, mười mấy năm sống đất Cồn, tôi dường như không dùng tới những từ ngữ bốp chát, nặng nề. Sượng câm, tôi đứng lên về, và hình ảnh cuối cùng về ông Sáu mà tôi có khi ngoái lại là lưng ông bỗng cong khẳm, cảm giác hình như vai ông đổ xuống, run run.

Thằng Phiên khóc mướt, trong mớ nước mắt đó, tôi biết nó khóc cho những cổ tích đã chết rồi. Những bà tiên cũng chết ngắc. Nó đã khẩn cầu mấy ngày đêm liền, không tiên nào mang ông Sáu với anh Thơ khùng quay lại.

Tôi thấy mình đang mất Phiên. Mất từng ngày, khi cơ thể Phiên bắt đầu thay đổi, nó bể tiếng, nhổ giò. Nó choáng váng, ngây ngất với những khám phá trên người mình, từ chính mình. Nó không còn tắm truồng nữa, ngượng ngập và cô độc. Trên cồn, cả con chó xà mâu cũng có bạn tình, Phiên chỉ một mình. Một vài đứa trẻ đã theo cha mẹ đến đây, kết bạn kết bè với nó. Bỗng một sáng người ta nhổ nhà đi mất, nhổ đám trẻ theo cuộc đi mù mịt.

Trong nỗi thiếu thốn, khi chiếc xáng cơm khai thác cát sông ghé qua, thả những gã đàn ông xa lạ lên bờ, họ nấu nướng, tắm giặt, họ treo võng ngủ, họ nhậu nhẹt hát ca... Phiên nhanh chóng gắn bó với họ. Nó tò mò nghe họ nói chuyện đàn bà, chuyện những thành phố không bao giờ tắt đèn. Nó xuống xà lan chơi cát ướt, biểu diễn tài lặn lâu trong nước, tài treo ngược trên cây. Và một bữa đòng đưa thân mình trên nhánh ô môi, nó kể họ nghe về cha mình, sau đó khóc nức nở khi thấy họ bò lăn ra cười.

Đã thưa vắng những câu hỏi mẹ ơi mẹ à, thằng Phiên lẳng lặng tìm hiểu tại sao những gì tôi nói đều không đúng. Nó ngoáy tai liên tục. Và tôi cũng liên tục để cơm khét, cá cháy. Tôi làm bể chén. Tôi thấy mình nghèo quá, mình chỉ có tình thương. Tôi chỉ có thể hứa những lời hứa nghèo, chừng nào hái bí mẹ mua cho con bộ đồ mới, chừng nào con lớn mẹ sẽ cho đi chơi thành phố, chừng nào kiếm nhiều tiền mẹ mua chiếc xe đạp cho con chạy lòng vòng cồn chơi. Hoặc lời hứa mịt mù kiểu như “nghe lời mẹ rồi mẹ thương…”.

Nhưng gã đàn ông trải đời trên chiếc xáng, người có mấy cái răng bịt vàng và nụ cười chói lóe nhăn nhở chỉ cần nói, “Ê nhóc, mai qua chợ nhậu không, bên đó có mấy đứa con gái hết sẩy…”, ngay lập tức những hứa hẹn của tôi đã giảy chết. Chúng quá giản dị, tẻ nhạt và đơn điệu. Tôi thấy mình hơi tuyệt vọng khi làm bộ ngang qua đó, giận dữ nói, “thằng con tôi còn con nít khờ ịt, mấy anh đừng làm hư nó. Phiên, về !”. Trong một khoảnh khắc khi gã đàn ông vuốt ánh mắt trên cổ mình, tôi nhận ra mười bốn năm qua tôi vẫn là đàn bà. Và đẹp.

Lần đầu tiên tôi căm ghét mình. Gã bắt đầu tới lui ve vãn. Chiếc xáng tạt qua cồn thường hơn, rủ rê nhiều xáng cơm, xà lan khác. Dân xóm Cồn hớn hở bưng rau trái ra bán. Chị Thắm hớn hở tắm xà bông thơm, ngồi ngoài sân tỉa chân mày, chị tỏ ra buồn lòng khi chủ chiếc xáng ngậm cái tăm chỉ dừng lại nói mấy câu ởm ờ, rồi vượt qua đám sậy thưa tới nhà tôi. Có đôi lần ghé lại, gã đã hỏi em nhớ tôi không, với ánh nhìn tràn đầy hy vọng. Tôi ước gì có thể trả lời, hoặc ngọt ngào rằng, em nhớ muốn chết, hoặc hứ nguýt xa xôi, sao không đi luôn đi… Và gã sẽ bớt nhẫn tâm.

Nhưng tôi không còn gì cho gã hết, dù là giả đò. Gã vẫn tin có ngày tôi khuất phục, vì gã điều khiển được thằng nhỏ Phiên, bởi những hứa hẹn hấp dẫn, đầy ma lực và cám dỗ. Gã biết đứa con trai mới lớn muốn gì, biết đứa con là điểm yếu của bà mẹ. Một bữa gã phát hiện ra tôi có điểm yếu khác, từ tờ giấy báo lót dưới đáy rương giữ gìn những kỷ vật của gia đình gã. Tôi ở đó, nằm xẹp dưới mớ đầu tóc mượn, bộ răng xương.

Gã đến tìm tôi.

13

Chiếc xáng tháo ra khỏi cồn rồi, Phiên về đứng dựa cửa ngó tôi lui cui trong bếp:

- Chú Sở kêu gã mẹ cho ổng.

- Vậy sao?

- Con nói mẹ con ghét chú. Ổng nói, mấy ngày nữa chú quay lại là mẹ thương liền.

Rồi Phiên hỏi, thiệt không mẹ. Tôi nói không, chú đó giỡn chơi thôi. Rồi thấy mắc nghẹn, ứa nước mắt. Phiên giờ hay dùng ba chữ “thiệt không mẹ?”. “Người ta nói con không có ba, thiệt không mẹ?”, “Người ta nói trên đời này không có tiên, thiệt không mẹ?”…nghe nhói lên sự hoài nghi, ngờ vực. Lòng tin vào tôi đã hao hớt.

Bữa cơm chiều bỗng lặng đi trong tiếng đũa khua, tiếng muỗng cạo nhói đít nồi. Trên mâm chỉ có cá rô kho khô mặn quắt với vài ngọn bí luộc. Cơm nhảo như cháo. Chỉ vì khi vo gạo, tôi nhìn thấy mình trong lu nước chênh chao. Tôi không còn là đứa con gái trên bài báo nằm nơi túi áo. Mười bốn năm dài hơn tôi cảm thấy. Những người cùng có mặt trong bài báo đó, có còn không?

Cha tôi còn sống không, còn mỏi mòn tìm kiếm và hy vọng, hay đến lúc chết vẫn không biết được con trai ông đã bị bắt đi bởi con gái ông. Tôi đọc bài viết cũ lần thứ hai, thứ ba, và nhận ra Anh không hé lộ gì về nhân thân của tôi hết. Rừng cần anh giữ bí mật đó để giữ chúng. Lỗi quản lý không nghiêm để nhân viên phạm tội nhỏ hơn lỗi tạo điều kiện để nhân viên phạm tội.

Phóng viên chụp ảnh Anh tiều tụy ngồi ở bàn làm việc của mình, mực phai nhòe nhoẹt. Tôi nhớ, phía lưng Anh có tấm bản đồ tự nhiên rất lớn, choán hết cả một bức tường. Anh có bao giờ đứng trước nó và nghĩ tới tôi như tôi vẫn nhớ Anh từ cái chấm nhỏ nhoi trên đường kẻ ngoằn ngoèo màu lam - màu của những dòng sông. Tôi ngày ngày ngồi ở đó buông cái lưỡi câu chữ i và đôi khi thấy mình đang đợi, trời ơi sao người ta không tới tìm mình, còng tay, trói gô lại, dí súng vào đầu mình? Nhưng có một sự thật khiến tôi không đưa Phiên qua bên sông và la làng giữa chợ, “thằng nhỏ này tôi bắt cóc nè, bớ bà con ai rảnh rỗi bắt tôi giao cảnh sát giùm”, sự thật là không ai tìm tôi cả, họ chỉ tìm thằng nhỏ tên Phiên, nó mới là điều họ cảm thấy mất mát, không phải tôi.

Nên tôi giữ rịt Phiên ở chỗ đìu hiu này. Nên tôi không ngạc nhiên khi thấy nước mắt cha tôi ràn rụa trên mảnh báo. Phóng viên kể lại câu nói duy nhất của ông, “tôi chỉ cần thằng nhỏ, tôi sẽ đổi bằng tất cả gia tài của tôi, mạng sống của tôi…”. Rủi là lúc đó tôi ẳm thằng Phiên trốn chui trốn nhủi, tờ báo không đến tay, phải đọc được biết đâu tôi đã đưa nó về và nói, thưa ông, tôi chỉ cần một lời xin lỗi.

Mảnh báo trong túi áo cựa quậy nhói ran, chừng ngó lại thì gạo ngâm lâu trong nước rã nát.

Ngoài sông, những chiếc xà lan vẫn chà đi xát lại làm xây xước mặt nước, vẫn kêu rú khoái trá, tục tằn man rợ khi sục những cái vòi vào thân thể sông, hút mòn xương máu nó, phơi tan hoang lòng nó. Làm xói lỡ bờ bến cuối cùng, lấy đi của tôi những thương yêu cuối cùng. Tôi không thể để tôi cũng mất. Tôi đặt mảnh báo cũ trước mặt Phiên, và kể cho nó nghe một câu chuyện. Tôi không muốn bất cứ ai kể và nó chạy về mếu máo hỏi, thiệt không mẹ, thiệt không?

- Người này là cha tụi mình - Tôi chỉ vào tấm ảnh lem luốc. Phản ứng duy nhất của Phiên là câm lặng. Khoảnh khắc đó tôi nhận ra em trai tôi cũng khiếm khuyết, tật nguyền. Phiên gần như không biết biểu lộ sự giận dữ, bàng hoàng, đau đớn… dù trong nó có tất cả cảm giác đó, bị chúng quăng quật trong lòng. Tôi không dạy nó cách đương đầu với những sự thật phũ phàng, thậm chí nó còn không biết cuộc đời này có thể tồn tại điều gì, ai đó xấu xa giống như tôi.

Thằng Phiên bỏ đi tìm ai đó có thể giúp nó biết giận dữ, phẩn uất như một con người đúng nghĩa. Ngoài kia vẳng lại tiếng khạc nhổ, tiếng nói cười ánh ỏi, tôi biết Phiên sẽ tìm được người, một người rất sẵn lòng nói cho nó biết nó đã bị tôi tước đoạt đi nhiều như thế nào. Một mái nhà yên ấm đông đúc với người cha hết lòng cưng chiều, những ngôi trường, những món đồ chơi hấp dẫn, những đứa con gái dễ thương, một cuộc sống tiện nghi hiện đại với những quán net, tiệm game dập dìu trên đường… Cái thế giới bên kia sông mà Phiên đã bỏ lỡ mười bốn năm đó mới thật sự là thiên đường. Và tôi đánh cắp.

Tôi biết trong bóng tối rập rờn trên những gương mặt người, gã đàn ông thua cuộc sẽ dồn cả sự giận dữ của mình vào Phiên, làm nó chật căng, nổ tung. Phiên của tôi đang nghĩ cách nào trừng phạt người chị nhẫn tâm của nó. Nhưng Phiên không biết điều đó cũng làm nó trở nên nhẫn tâm. Tôi không cam lòng, vẻ đẹp thiên thần mà tôi giữ gìn mười bốn năm qua không thể mất bằng cách như người đời thường đánh mất.

Quờ quạng trong bóng tối như một người mù, va đập vào trống không đau điếng, tôi lần dò vào bếp, bắc ấm nước lên cái cà ràng và nhóm lửa. Tôi chụm rất nhiều củi, chờ nước kêu ấm, nghĩ gió thổi hướng này chắc Phiên không thể nào bắt mùi được những nếp lá mục bắt đầu le lói cháy. Tôi đứng trong khói và tự hỏi, làm sao giữ được vẻ đẹp lộng lẫy này của khói, với mùi trứng kiến cháy cùng những con mối ú mềm, mùi lửa bén vào chiếc trái khế con rụng xuống nằm khô trong máng nước, mùi lửa liếm láp lên chiếc lông gà, cái quạt tàu cau giắt trên vách, chiếc chiếu đã đứt mất mấy sợi dây trân, và khói bắt đầu sẽ sàng bén vào những sợi tóc…

Khói này, là món quà cuối cùng tôi tặng em tôi. Nhưng khi nắm chúng lại, tôi chỉ nghe những ngón tay mình xỏ vào lòng tay của chính mình.
Những hạt mầm định kiến

Nguyễn Ngọc Tư

Vào một ngày mưa gió ủ ê không hiểu sao chị thủ thư mỉm cười nói có mấy cuốn sách này mới về hay lắm. Ngó qua một lượt thì thấy nhiều cuốn của Quỳnh Dao và nhân tướng học. Truyện chị Dao quá sức chịu đựng của mình, riêng nhân tướng học thì mình xếp vào dạng không nên đọc, mình nhìn thấy sự rủi ro xảy ra khi mình có thể ghét bỏ một người nào ngay khi vừa gặp mặt, chỉ vì một nốt ruồi nằm đâu đó trên mặt anh ta. Và mình sẽ day dứt dài dài nếu như vì tướng pháp của chân mày, cái mũi, giọng nói… mà mình quay lưng bỏ đi một nước.
Tướng tùy tâm sinh, tướng tùy tâm diệt, tướng tốt xấu là ở cái tâm con người. Chị thủ thư chắc vừa nghiền ngẫm sách xong, liên hệ với một số thí dụ ngoài đời, rồi nên khoái chí đọc vanh vách. Cái ý nghĩ ta có thể đọc được người đời cũng khá là hoan lạc. Mình bất ngờ trước việc chị ấy hôm nay nói quá hai mươi âm sắc, đến nỗi chỉ cười cười. Trong lòng mình mầm nghi kỵ mọc đầy, chỉ cần tưới tắm loại tư tưởng tướng pháp này, bảo đảm một phút sau sẽ đâm chồi nảy lộc những thứ thành kiến cuộc đời. Mà, thứ đó mình đã thừa mứa.
Có lần đi xem mắt một người giúp việc giùm bạn, lúc về mình chỉ nhận xét cụt ngủn, “có sơn móng tay”. Bốn chữ đó làm cơ hội làm việc của chị kia vụt tắt. Một người sơn móng tay thì có chịu được lam lũ không, và lam lũ nghèo túng sao lại sơn móng tay, là ý nghĩ bọn mình gặp nhau ở chỗ : sơn móng tay là đặc ân của người nhàn hạ, sao chị ta có thể... Và đôi khi cảm thấy khó khăn khi đối thoại với người có màu son chói, hoặc cổ áo trễ tràng, hoặc giọng nói lanh lảnh cao, hoặc cái cười the thé… mình tự hỏi, cái gì đang ngăn cản, đang che mắt, đang trì níu ?
Mà định kiến có đáng tin đâu, nhiều lần nó đã nhiều lần phản bội mình. Gần nhất là đi lạc đường, hỏi một anh hầm hố chằng chịt hình xăm trên người và anh nở nụ cười nhăn nhở nói đi Vĩnh Xương thì đi hướng kia. Mình không tin, chui vào một con đường bị mưa bao phủ, lúc quay lại ngã ba đó ướt như chuột lột, thấy anh nọ vẫn ngồi chéo nguẩy uống cà phê, miệng ứa ra nụ cười ta đây tha thứ cho tha nhân đấy.
Cũng vào quãng hơi gần gần, mình ghét cay ghét đắng chị thủ thư. Ghét muốn bứng muốn nhổ gương mặt nặng chình chịch như đeo cối xay bột kia, ghét cái kiểu cằn nhằn nhấm nhẳn như thể tụi học trò kia nấn ná trong thư viện lâu là để xé sách của chị (giữ) ra nấu cơm, ghét mắt luôn lườm lườm như cả thế gian này là trộm cắp. Cảm giác nếu lấy cành củi khô cọ vào người chị, lập tức củi bốc cháy, chẳng cần bùi nhùi. Mình sẽ nuôi cái sự ghét ấy cho tới hết đời, nếu không kịp trông thấy đôi bàn tay chị (và tự hỏi tại sao trước giờ mình không nhìn thấy đôi tay đó, cái gì che mắt mình đi ?). Sách tướng pháp có trang nào viết về tâm tính của một người có đôi tay rướm máu vì bị nước ăn lâu ngày, đôi tay bợt bạt và những móng tay còi cọc thối đen ? Mình không đọc loại sách đó, chỉ chắc chắn rằng chị sống vất vả. Thì ra mình đã bỏ phí hai năm trời lui tới mà không biết chị nửa khuya phải dậy ngồi bào bắp chuối đem bỏ mối, kiếm thêm chút tiền phụ thêm khoản lương còm cõi, để nuôi hai đứa em vào đại học. Bốn mươi tuổi vẫn thui thủi đi về, vai không gánh mà oằn, trưa vắng chạnh lòng khi trẻ con qua ngõ để rớt lại những tiếng cười trong trẻo.
Thời của ba má mình, cái sự ghét thương nhau đơn giản là địch ta, là lễ giáo và những thứ xoay quanh nó. Thời mình ghét dễ, thương khó. Lên mạng thấy những cuộc tranh cãi triền miên, mạt sát triền miên mà ớn. Nào là tôn giáo, sắc tộc đã đành, ghét nhau còn vì người Nam kẻ Bắc, người quê kẻ thị thành. Ghét vì anh yêu máy ảnh hiệu Ca, còn tôi chỉ say đắm Ni. Anh mù quáng mê điện thoại Ai, còn tôi thấy loại đó là thứ khoe mẽ đồng bóng. Vậy là ném nhau bằng mọi ngôn từ bén nhọn nhất. Đến nỗi mình nghĩ ngữ pháp tiếng Việt cần phải đảo ngược, ai của cái gì. Không phải cái gì của ai.
Làm sao đi tới lòng nhau khi mắt bị che tai bị bịt và mũi nghẽn đặc bởi những định kiến vu vơ kiểu vậy. Gò má đó chứng tỏ là chị đó không tốt đâu. Cái kiểu ăn mặc buông thả đó thì cô kia cũng không tử tế đâu. Nói chuyện bỗ bã vậy chắc không phải người có học đâu. Vì một vài chi tiết không thuận mắt, mình gạt họ đi không đắn đo. Người sống lủ khủ ngoài kia, phủi sạch người này mình bắt đầu cuộc tìm kiếm khác, sợ gì.
Một bữa mình thử không phủi nữa, mình trù trừ đứng lại cười với chị thủ thư bảo cái áo hôm nay đẹp, chiều có hẹn với anh nào sao ? Và chị cười đáp trả mình sau bảy lần mình cho cười đi mà không hề nhận lại gì, bảo bữa nay sách mới về kho nhiều lắm.
Ấy mà chị ấy ơi, em chỉ khao khát đọc người khác bằng đôi mắt của chính mình nằm đâu đó, không hẳn là trên mặt.

Hiểu lầm nhỏ về gia tài của cô gái nhỏ

Truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tư

"Chút tui lấy cái quý giá nhất của con nhỏ ho lao đó xài đỡ…", thằng Giang Hồ Con nói, thèm khát tươm ra mắt ướt ròng khi nó ngó vuốt theo bóng đứa gái chấp chới vào con hẻm tối. Ông già đang ăn bữa chiều với cháo trắng cùng trứng muối, chực nghẹn. Ông nạt nhỏ, giọng đuối như sắp khóc :
- Bậy, mầy. Con nhỏ đó coi bộ hiền. Tội nghiệp…
Nhưng dân giang hồ tuyệt không biết tới hai từ "tội nghiệp…", nhất là thằng Giang Hồ Con. Hồi mới lảng vảng ở địa bàn này, nó vỗ ngực xưng Năm Thẹo, Bảy Búa... Những cái tên oai hùng rùng rợn đó là nó tự sáng tạo cho kêu, cho thấy trong người nó chỉ chảy độc một dòng máu lạnh. Nhưng có vỗ ngực xưng ông trời thì với ông già từng dầm dề sương gió đường phố, thằng nhỏ vẫn là Giang Hồ Con. Bằng chứng là nó đang đói meo từ sáng giờ, sau khi lên xuống bao nhiêu xe buýt. Vào một ngày người ta bỗng dưng đầy cảnh giác, chẳng để lộ chút sơ hở nào. Vào một ngày chỉ một gói xôi năm ngàn đồng bạc còn kiếm không ra để lót lòng cho qua bữa, đừng nói tới chuyện teo phê tê mê.
Buồn tình, Giang Hồ Con vạ vật chỗ ông già, bòn mót từng điếu thuốc. Khói không đủ no. Nhưng không đủ tắt đi dục vọng bỗng dưng bùng cháy trong người nó. Thằng nhỏ túng tiền, không tiền thì làm gì cho hết cái đêm thênh thang này ? Tình cờ đứa con gái kia chạy xe qua, tình cờ Giang Hồ Con nhìn thấy chút le lói của niềm vui chiếm đoạt. Nó liếm môi rạo rực nhắc lại lần nữa, lấy cái quý giá nhất của con nhỏ.
Đó là đứa con gái xanh, mảnh như nhánh trúc. Mỗi lần thấy con nhỏ đạp xe từ con hẻm Từ Hải tuôn ra là ông già thót ruột, cảm giác chút xíu nữa gió bụi trên đường Kiều sẽ làm cô tan vụn. Nhưng cô không tan, chỉ ngày càng gầy gò do vừa học vừa làm ở xưởng tàu hủ đâu đó trong hẻm. Cả lúc đi học con nhỏ cũng tranh thủ kiếm tiền thêm bằng cách chở theo lặc lè mấy giỏ tàu hủ, sữa đậu nành bỏ mối. Hôm nào nó cũng cắm đầu đi le te, ngang qua ông già theo kiểu tờ giấy quyến bay, lắt lay lắt lay. Mấy đứa giang hồ la cà ở chỗ ông già nhận xét "con đó bịnh ban" hay “con nhỏ ho lao”.
Nhờ cái dáng vẻ bệnh hoạn mà con nhỏ sống yên trong con hẻm dân giang hồ hay lai vãng. Ở đây khuất tối, chằng chịt, nhiều ngoắt ngoéo nhiều ngách trổ phức tạp... nhưng không ai để ý đứa con gái có vẻ lặng lờ trong suốt nhạt nhòa chẳng ra đẹp xấu.
Không may, đứa con gái đó chẳng tàng hình được mãi. Trong túng quẩn răng vắt không ra bợn cơm, không biết làm gì cho đỡ buồn tay buồn chân một thằng giang hồ vừa kết án cho cô. Dù trước đó không lâu khi ngó đôi tay trắng dởn của con nhỏ do thường ngâm trong nước tẩy, nó nói " thấy hết muốn ăn thịt chuột…".
Ông già thắt ruột như mỗi ngày ngó cô ùa ra gió bụi.Con nhỏ chẳng phải quen biết thiết thân gì với ông. Chỉ là mỗi ngày ông nhìn thấy nó ít nhất hai lần, vị chi một năm ông gặp nó bảy trăm ba chục bận, chắc chắn nhiều hơn. Có lần con nhỏ dắt xe tới vá chỗ ông. Bữa đó ông hỏi hai câu và con nhỏ trả lời hai câu nhưng gom lại không được miếng nào. Hỏi bây học trường nào. Trả lời : Trường đại học. Hỏi trọ ở chặng nào. Trả lời trong hẻm. Nhưng con nhỏ chỉ nói nhiêu thôi, như thể nói làm nó mệt. Nhưng lúc quay đi bỗng nó kêu bữa nào chú vô nhà con nấu lẩu mắm ăn chơi. Nhà con đằng trước có chữ “định đẳng cấp quý tộc” với “Mì Caloso – hương vị tuyệt vời”. Định là khẳng định đó, nhưng chữ khẳng bị rách rồi…
Con nhỏ không nói tên, cũng không cho hay là trong hẻm có tới sáu cái nhà dừng vách bằng hương vị mì gói tuyệt vời và định đẳng cấp quý tộc (vì nhiều lý do không khẳng được, bởi vướng thùng rác hay bị quảng cáo yếu sinh lý dán chồng lên…). Có năm đứa sinh viên làm thêm ở ba xưởng tàu hủ, cả năm đứa đều mỏng dờn. Một bữa mon men vô hẻm tìm, không biết con nhỏ ở đâu ông già đứng ngẩn ngơ rồi quay ra, nghe ngột ngạt trong mắt, trong cổ họng.
Ông cảm tình với con nhỏ, bởi gần chục năm vạ vật ở đất này chưa ai mời ông tới nhà chơi. Giang hồ không, dân tử tế thì dè dặt với ông bởi ông chơi với… giang hồ. Không, chính xác là ông kiếm sống nhờ vào tụi nó : những giang hồ bệ rạc, những du đãng hết thời. Ban ngày Bảo tàng trong kia mở cửa, ông ne nép bên gốc cây với tủ thuốc lá và cái pit - tông vá xe, đêm tới ông chiếm dụng mái hiên bảo tàng làm nhà làm quán với rượu trắng và vài món cá khô, trứng vịt lộn, đậu phộng rang… Giang hồ tép riu la cà nhậu nhẹt ở chỗ ông lấy dũng khí trước khi đánh quả hay ăn mừng thắng lợi sau đó. Phạm trù thắng lợi cũng mênh mông, có lúc tụi nó gặt được nhiều món nữ trang lấp lánh có lúc thắng lợi là lết được cái thân về dù cả người tả tơi thương tích. Khi đó ông già đem bông băng thuốc đỏ ra bán với giá cắt cổ. “Máu con người ta đâu có rẻ, tụi bây…”, ông nói vậy trong lúc vuốt cho phẳng phiu mấy tờ giấy bạc nhoe nhoét máu, cho vào túi quần đang mặc, sau đó cài năm cây kim tây, dù ông biết giang hồ đè ông ra cướp bất cứ lúc nào.
Nhưng giang hồ không làm vậy, cư dân lai vãng hẻm Từ Hải cũng có thứ đạo nghĩa riêng. Nhiều khi tụi nó cần ông ngồi đó, cho có người hoặc gợi nhớ những hình bóng thâm tình đã xa xôi… Nhất là nửa đêm về sáng, sau khi bay xong nằm ườn thiếp đi trên chiếc chiếu rách dưới bàn tay tẩm quất điêu luyện của ông già cô độc. Lúc nào cũng có vẻ buồn bã lủi thủi cúi gằm. Ging hồ với ông già tuyệt không có cái gọi là tình nghĩa. Tiền trao rượu múc. Giang hồ nói chuyện “làm ăn” cũng không sợ bị lộ, dù tiếng lóng ông già rành sáu câu. Trà trộn giữa tụi nó lâu ngày ông biết mình phận mỏng lắm. Người ta có thể bỏ mạng bởi “có cái mặt thấy ghét” theo con mắt thẩm định của giang hồ, chuyện đó ông chứng kiến rồi. Ông muốn tiếp tục kiếm sống ở cái vỉa hè này được chừng nào hay chừng ấy, để tìm kiếm một người, để nói lời xin lỗi…
Ông không biết cách nào ngăn thằng Giang Hồ Con lại, dù tội nghiệp cho đứa con gái đó. Đứa con gái từng rủ ông tới nhà chơi. Đứa con gái vẫn cung cúc chở tàu hủ sữa đậu nành đi bỏ mối khi húng bạn cùng trang lứa với nó đêm đêm thành bướm mọc cánh bay ra những khách sạn bên kia đường kiếm tiền son phấn hay học phí kỳ hai.
Con Giấy Quyến sẽ nhàu nhừ khi thằng ôn dịch này đụng vào. Ông già nghĩ vậy khi nhìn vào cánh tay lông lá u sù đầy dấu kim của thằng du đãng. Kéo ghế ngồi gần nó, ông thủ thỉ vài câu chuyện vẩn vơ, cốt là câu giờ. Bỗng dưng ông nghĩ biết đâu thâm tình làm cho con quỹ trong thằng nhỏ này thôi trỗi dậy, nên giả đò bâng quơ hỏi, "Ông bà già mầy sống đâu ? Hỏng chừng má mầy đang chờ cửa…". Chưa hết câu mà hối hận rào ra làm đuối lưỡi, ông ngờ rằng những lời đó làm thằng nhỏ bỏ đi sớm hơn. Giang Hồ Con xô ghế đứng lên, nói khuya rồi, tui tà tà vô hẻm chơi đây. Sau mỗi bước chân cái lưng quần nó lại tụt thêm một chút, phô ra hai múi đít lỏng thỏng thâm sì. Nó cần làm gì đó vui vui, bữa nay buồn quá.
Ông già thẩn thờ đứng nhìn theo thằng Giang Hồ Con. Nó hát ngêu ngao "Ngày lấy chồng em tưng tưng tưng tưng…" bằng thứ giọng phấn khởi náo nức. Rồi thì con hẻm chỉ còn tiếng huýt sáo của nó ngắc nga ngắc ngéo trên mảng hàng rào người ta cắm đầy miểng chai nhọn hoắc.
Ông già Khô Mực hay còn gọi là Ê Tẩm Quất hay Ê Vá Xe đã sống ngót chục năm trên đường phố, đã từng thấy máu không biến sắc, vết chém nào cũng đã ngó qua… bỗng hoang mang. Trong thinh lặng ông nghe nước chảy leo lẻo bên dưới miệng cống. Âm thanh nước chảy luôn lừa mị ông, lúc nào cũng róc rách trong veo bất kể màu nước đen ngòm bốc mùi hôi thối. Tiếng nước nhẩn nha, lòng ông cồn cả, cảm giác như hồi chiến nằm trốn lính trong rừng mà ngóng về ấp chiến lược. Mấy đứa em và người con gái ông thương kẹt lại trong đó. Người sau này là vợ ông, và đã không còn ở bên ông từ đêm tân hôn cô thấy chồng mình hì hụi tìm dấu máu tươi trên giường cưới.
Chiều hôm sau khi quay trở lại chỗ ông già, thằng Giang Hồ Con nhăn nhở khoe lượm con ho lao quá dễ. Ông già nín lặng, ông biết tấm vách gá bằng thùng giấy và những tấm nhựa quảng cáo không ngăn nổi một cuộc cướp đoạt, giày vò. Đứa con gái đó sáng nay đã đi qua chỗ ông. Đi bộ. Hai tay xách hai giỏ tàu hủ đậu nành lặc lè xao xác. Chân xà bát. Vai oằn cô độc. Mất mát. Chắc con nhỏ đau đến nỗi không ngồi lên yên xe đạp được, ông nghĩ vậy, cái thằng bất nhân quá…
Giang Hồ Con không đọc được vận rủi của mình trong sự im lặng của ông già. Nó không ngờ có một tối đang không ông già vấp té hất cái pít tông ngun ngút lửa vô trong lòng nó. Thằng nhỏ không hiểu sao dây giày của nó lại bị vướng vào nhau. Cũng không hiểu ông già quýnh quíu kiểu gì mà đi lấy rượu dập lửa. Càng khó hiểu mấy chữ ông grừ grừ trong họng, "chết chết, thôi rồi, cháy tiêu cái công cụ cưỡng hiếp con gái nhà lành rồi…"
Đâu ! Hồi nào đâu ?! Nó chỉ lấy của con nhỏ chiếc xe đạp thôi mà, đó không phải thứ quý giá nhất của con nhỏ nghèo mạt đó thì là gì là gì ? Ông già mắc dịch tưởng là gì, giữa cái thời buổi đảo điên này…

Mộ Gió
Truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tư

Hồi ấy chị lên mười ba, em nhỏ hơn hai tuổi.
Mười bảy tháng Mười năm đó, ba má đi đám giỗ, để hai chị em lại nhà. Lúc xách cặp chèo ra cửa má ngoái lại dặn chị :
- Ở nhà coi chừng em...
Chị dạ. Má rải lời dặn dò nằm lển nghển khắp nơi. Chị ngó ngoài sân thấy “Coi chừng ông trời chuyển mưa thì đem củi vô nhà“ và ”Đóng cái cổng rào lại” đứng dựa hàng bông lồng đèn kêu cọt kẹt, bước vô nhà vấp “Lấy chổi rơm quét mạng nhện trên bàn thờ” và “Nhà hết gạo rồi, con lội bộ lại đằng tiệm mua nấu đỡ” thì nằm nép trong góc bếp. Ở sàn lãn gió thổi xập xòe làm “Còn mấy con cá rô đem kho tiêu” đập đuôi xao xác vách thùng.
Một mình chị làm bao nhiêu chuyện đó cũng xong, nhưng em cứ cà nhổng chạy chơi với chuồn chuồn thì ức. Ba hay nói phải chia việc mà làm, “mỗi người có một bổn phận...”. Con trai kiếm cá con gái hái rau, con trai ra ruộng rẫy con gái vùi đầu trong xó bếp. Bao giờ con trai trở thành đàn ông nó có bổn phận đưa tay đánh, còn con gái (giờ đã là đàn bà) thì giơ thân ra chịu đòn. Vụ đó ba không dạy, hai chị em tự biết thôi.
Những bài học về bổn phận chị thuộc nằm lòng, nên khi em đòi đi tiệm mua gạo thay vì bắc ghế quét mạng nhện bàn thờ, chị buộc lòng gật đầu. Làm chị phải nhường em.
Chị thích được đi tiệm để săm soi mấy cây kẹp tóc thèm chơi. Nhưng tiệm cũng là thiên đường của em, với những cục kẹo sặc sỡ như những cái bong bóng sặc sỡ. Dù mỗi lần em đi tiệm dường như răng lại mòn hơn, dù em hay chểnh mảng kiểu như mua đường cát về tới nhà thấy cát nhiều hơn đường, còn lẫn lộn thêm mấy con cuốn chiếu. Bữa trước đi mua đậu trắng em về với cái túi không, đậu chảy theo cái lỗ thủng rải dọc đường như cô công chúa Mỵ Châu để lại dấu vết cho chồng. Bữa trước nữa em lội sông mang gạo về, má phải đem mớ gạo ướt mèm xay bột.
Sẽ xảy ra vài kịch tính ở quãng đường giữa nhà và tiệm tạp hóa bà Tư Mốt: một nhánh cây gãy lộ ra ổ ong mật, một con diều của ai đó mắc kẹt trên đọt so đũa, một tiếng chim hót nghe gần... cũng làm chân em chậm lại mươi phút hay vài giờ hay hết phim, nếu nhà bà Tư Mốt đang mở một cái phim võ thuật kiểu như Ngôi chùa Thiếu Lâm tự.
Nên trưa ấy quá bữa rồi mà gạo chưa về tới nhà, chị tưởng em còn hóng hớt đâu đó. Cái mẻ kho nằm nguội ngắt chờ cơm.
Nhiều ngày sau đó, khi xóm nhỏ nháo nhác vì một cư dân mười một tuổi đã biến mất, chị vẫn nghĩ em đang chơi đâu đó. Chị giận sôi những người đã tỏ ra thất vọng khi không tìm thấy thi thể em, ở ngoài đồng hay dưới đáy sông. Một câu đố không tìm ra câu trả lời, ông trời cà chớn quá.
Nhiều tháng sau đó, khi ba má vẫn vật vã rã rượi, chị vẫn nghĩ em đi chơi đâu đó sẽ về. Cho tới khi má rọi cái ảnh em hồi mười tuổi đặt lên bàn thờ, đứng chung với mấy ông bà già u mặc. Trong ảnh, em mặc áo thun vàng đồng phục của đội bóng nhi đồng trường lúc đang nhận giải ba cấp huyện, mặt em nghiêng về trái khoe mụt ruồi lớn như con ve chó, giống như hình ảnh cuối cùng của buổi sáng ấy chị ngó thấy em chạy vù đi.
Cái ảnh là kết cuộc cho những chờ đợi nhưng hi vọng đã bay hơi theo ánh mặt trời. Má sực nhớ biết đâu thi thể thằng nhỏ trôi ra biển hay bị kẹt dưới chân cầu nào, rồi âm thầm tan rã. Biết đâu giờ hồn nó vất vơ vất vưởng đói ăn. Ba má bắt đầu kêu em về trong những bữa cơm. Có lần chị quên không dọn dư ra một cái chén, ba bợp tai chị cắm đầu, nói “đã kêu mày coi chừng em rồi mà...”.
Coi như chị đã được định tội xong, và định sẵn cho mọi lỗi lầm dù chẳng mấy liên quan như chuột cắn ổ gà, dông làm ngã cây đu đủ... Nếu mỗi lần đau trên người chị mọc sợi lông, thì những lần má ngồi khóc bên sông, những lần ba buông đũa giữa bữa cơm bởi tiếng bầy trẻ trai đi bắn chim ngang nhà, những cái tết lặng lờ qua, những khói nhang tối tối, những lần giở quần áo em ra giũ bụi... đã biến chị thành con khỉ.
Và nếu mỗi lần đau là một giọt nước, một hạt cát thì chị thành sông, thành đồi cát năm ba mươi tuổi.
Chị sống một mình. Mỗi khi định cười giòn thì chợt nhớ mình đã để mất đứa em. Mỗi khi định lấy ai đó làm chồng thì nhớ trong cơn mê sảng má thảng thốt kêu Võ, Võ ơi. Mỗi khi định sống cho ra con người thì nhớ ba lúc lâm chung vuốt mãi mắt mới chịu nhắm.
Chị vẫn tin em đi chơi đâu đó. Nhà vẫn cặm trên nền cũ, vườn cũ, kiểu cũ. Cây nào chết thì trồng lại y giống cây đó. Đoạn rào nào gãy thì được thay giống hệt. Chị chôn chị chỗ buổi sáng em guộn mấy tờ giấy bạc mua gạo vô dây lưng quần cộc xanh dương, áo màu xám tro lấm lem mủ chuối vẫy tay rẽ trái chạy vù về phía tiệm tạp hóa bà Tư Mốt. Lúc đi em không đóng cửa rào làm mấy con gà đi qua nhà hàng xóm bươi tơi bời giồng cải họ mới gieo.
Một bữa chị qua hàng xóm mượn trẻ con nhổ tóc ngứa, đang ngủ gà gật, đang lúc hờn hờn cái thân mình chẳng có đứa nhỏ để sai vặt, chợt nghe bên nhà chó sủa. Chị hỏi vóng qua hào ranh. Người đó ngập ngừng:
- Cho tôi hỏi nhà chú Mười Hưng.
- Phải rồi, nhà ba tui đó, cậu kiếm ai?
- Em Võ nè, chị Hai...
Người đó nói vậy. Chị không biết cách nào mình đã về đến nhà, bay, hay bò lết, hay nhảy ào xuống hào càn qua những dây rau muống. Chỉ biết chị phải về sụp xuống trước bàn thờ, để thưa:
- Đó, ba má thấy chưa, con đã nói là thằng Võ đi chơi mà...
Chị quỵ ở đó rất lâu, tóc xấp xải trải xòe ra đất, lưng khum khum như một ngôi mộ. Chị không hỏi em đã đi đâu, chẳng ích gì... Đàn ông rong ruổi đường xa, đàn bà vạ vật ngồi canh cửa, đời phân công vậy mà...
Nắng bên cầu

Nguyễn Ngọc Tư

Buổi sáng hôm H bị kẹt lại bên cầu cửa khẩu Na Mèo, nắng mai trong vắt. Trong đến nỗi khi hắt lên mặt H, bộ râu quai nón đã nứt mầm nhuộm nắng ngã màu xanh. Cũng có thể do mặt H đang tái tê. Bạn Lào không cho H vào, dù anh nói tiếng Việt liến láu như chúng mình nhưng anh chẳng phải người Việt. Muốn qua Lào mà không cần thị thực thì chỉ còn cách quay về Hà Nội sau đó đáp máy bay sang Viêng Chăn. Mọi người bàn nhau ai qua biên giới được thì đi tiếp, H quay lại một mình. Lúc rảo bước qua cầu thấy bóng mình bỗng lạnh, trong lòng chợt vang lên một câu hát của ông Duy, "Nắng ngừng bên chiếc cầu biên giới…". Bên kia cầu H tươi cười vẫy tay lần nữa, ra vẻ trục trặc này chẳng đáng là bao, dù sắp phải đánh một đường vòng xa thẳm.
Mình bỗng nhớ tới đất nước H, tới cây cầu biên giới nằm giữa hai miền Nam - Bắc, bị chia cắt mấy chục năm rồi vẫn và chưa có dấu hiệu gì hứa hẹn sẽ đi tới lòng nhau. Mình đã từng muốn khóc, muốn… làm thơ khi đứng nhìn cây cầu lở dở đó. Giờ thêm một cây cầu biên giới khác cứa vào mình một nỗi gì ly biệt.
Tưởng mình đa cảm vậy là vì H, sau này mới hay hoàn toàn không phải. Vì biên giới và những cây cầu biên giới. Lúc đứng nhìn chúng hoặc đi qua chúng, mình có một cảm giác bùng nhùng phức tạp, chẳng biết được đó là hoang mang hay háo hức, bị dứt lìa hay đang được nối liền, đến hay đi… Chỉ dám chắc một điều, đó không phải là cảm giác bình yên. Có lần định qua Hồ Kiều, giữa cầu mình tự dưng muốn quay lại vì nghĩ tới cuộc chiến tranh biên giới xảy ra cũng lâu rồi. Cơn đa sự nổi lên bất tử ghì níu chân mình, đi hết cầu mà mệt muốn đứt hơi.
Cây cầu khỉ bắc qua biên giới chỗ chợ Gò - Tà Mau thì ngắn ngủn chừng năm, bảy thước cũng chẳng làm mình nhẹ nhỏm hơn. Dù đứng ngay đầu cầu là anh lính biên phòng Campuchia hay cười và cười hay, ưa nhìn đến nỗi mình rên[1] lên vì thích. Nhưng tình cảm chỉ đến mức đó thôi, đây là biên giới. Đường biên giới là dòng kinh nhỏ nước đục ngầu do ghe buôn tấp nập, thậm chí không có cầu mình cũng có thể lội sang được, thậm chí mình đã qua nước bạn,[2] đứng gần anh lính đến nỗi nghe được tiếng gió lật phật trên cổ áo, ngửi thấy mùi nắng quánh đặc trên tóc anh… nhưng mình vẫn cảm thấy ngăn cách. Phải là người Việt thể nào mình cũng chọc ghẹo à ơi, chụp hình cái nụ cười đẹp kinh khủng đó lâu lâu giở ra tơ tưởng một ngày nào gặp lại, nhân tiện mơ mộng một thiên tình sử ối a là ngang trái. Tơ tưởng không có nghĩa là thực hiện, nhưng cả tơ tưởng mình cũng ngại lấy anh lính ấy làm vai nam chính, dù anh ta không mắc mớ nợ nần gì với những oan hồn bị Khmer đỏ thảm sát ở Lương Phi - Ba Chúc. Trong lòng mình dường như có một biên giới lớn hơn, dày đặc rào giậu hơn đường biên giới hiện hữu kia.
"Ở đây nước không biên giới", người bạn bản xứ đưa mình đi đưa tay khoát một vòng rộng nói, "mùa lũ nước dâng trắng trời, tràn đồng hết". Tay chị mở ra một không gian mênh mông ngút ngát, gió không biên giới và bầu trời cũng không. Dưới kinh, hàng trăm con vịt cứ lội nhởn nhơ bờ này rỉa cánh bờ kia, đạp mái đạp trống rượt đuổi nhau tán tỉnh vô tư như thể đang cười cợt con người sao cứ phải biên giới và biên giới và biên giới, mắc mệt…
Vịt cười cũng phải, mà nói coi khinh cũng không quá lời. Cách nhà mình chừng bốn mươi cây số đường chim bay, là Bình Hưng. Đó là một khu di tích cũ gần như bị xóa hết dạng hình, chỉ còn mỗi một cây cầu biên giới đứt gãy trụi lủi, hoang hoải giữa lau sậy. Nằm giữa nơi gọi là biệt khu Hải Yến ngày trước, cây cầu nối giữa nhà giam trại lính và một bãi đất trống - một hố chôn tập thể. Tù nhân nào bị đưa qua cầu mãi mãi không quay lại. Cái ranh giới sống - chết được người ta gọi là cầu Vĩnh Biệt. Từng có bao nhiêu cây cầu giống như vầy trên mặt đất này, mình tự hỏi.
Gió thổi qua những bờ sậy vàng cháy xao xác như những tiếng thở dài, than ôi con người ứ hự con người…
…thì quét lá đa

Nguyễn Ngọc Tư

Đã từng có ngôi chùa ở đây, trên cái nền bây giờ chợ tự nhóm này…
Bạn nghe kể nhiều lần nhưng coi xưa như cổ tích. Mấy bữa rày cổ tích thành sự thật, người ta nói chợ sắp dời đi để trả đất lại cho Hội người Hoa xây chùa. Người bán người mua xôn xao trước viễn cảnh rất chi là tan tác. Mấy bà bạn hàng dặn bạn, chừng không có chỗ ngồi, tụi chị gánh đồ đi bán dạo cưng nhớ mua ủng hộ nghen. Bạn mủi lòng gật đầu, nông nổi vậy ai lại bỏ nhau. Mà sao bà đó rơm rớm vậy kìa…
Bạn gắn bó với cái chợ chồm hổm này đã ba ngàn sáu trăm năm mươi ngày (tức là mười năm, quy đổi vậy cho tăng phần… thăm thẳm). Mười năm chân quen những lối đi ướt chèm nhẹp, những cái thềm xi măng lở lói gập ghềnh. Mười năm những chị bán cá, rau chứng kiến bạn già đi, bằng chứng là chuyện bạn trả tiền mà quên lấy cá hoặc lấy cá mà quên trả tiền, hoặc từ bên nhà chạy qua đứng ngẩn ngơ mà không nhớ ra mình muốn mua gì… xảy ra thường xuyên hơn. Họ thuộc lòng bạn như người trong nhà, biết bạn thích ăn gì để mời một câu cực kỳ gợi cảm, "bữa nay có năn bộp mới nhổ nè", tức thì bạn te te qua. Phía bạn cũng thông thuộc từng thân phận, biết chị nào làm mẹ từ năm mười lăm tuổi, chị nào sắp qua hàng bốn mà chưa chồng, biết ai tỉnh ai khùng…
Một bữa những kẻ thuộc nhau bồi hồi nói lời từ biệt, mai kia có thể gặp lại, có thể không, ai biết…
Chỉ bé Tím là điềm nhiên ngồi hút thuốc phì phèo. Bé sống trong góc chợ, nhà bé là cái giường gãy hai chân và được chấp lại bằng mấy cái đòn gánh gãy. Mớ đòn gánh đó bé Tím từng dùng để gánh nước thuê cho mấy người ngồi chợ, lúc đầu ngày. Buổi đó thì bé bận rộn vô phương kể, nào là tỉa tót, lặt lá úa giúp mấy sạp rau, nào là chạy đi mua tô hủ tiếu giùm thím kia, mua nước đá muối tôm giùm cô nọ, mài dao kéo… Tàn chợ bé Tím xách chổi quét sạch sẽ, rồi ngủ cả buổi chiều. Ban đêm bé thức chơi với thằn lằn chạy trên mái tole, hoặc đếm mưa hoặc giết muỗi, hoặc hút thuốc và nhả khói.
Tím có mười tám cái không, như không có tuổi, không người thân, không trí khôn, không quá khứ… Bé thích mọi người gọi bé Tím. Thấy bé da nhăn tóc bạc nên có lần bạn kêu chị Tím, bé nhảy dựng lên nói bà đừng có khi dễ tui, đừng thấy tui nghèo mà làm nhục tui. Có lần mua cho Tím cái bánh cam, Tím kêu đem về cho má bà ăn đi. Chỉ tặng thuốc lá là Tím khoái. Ổ của bé ám khói và tàn thuốc như trấu vãi.
Cái ổ đó sẽ tan hoang nay mai, bé Tím vẫn tỉnh trân. Chợp họp chợ tan như thể không ăn nhập gì với bé, sấp ngửa mưu sinh càng không nhằm nhò, bé ngồi trên cái sạp bỏ hoang cố tạo hình trái tim bằng khói thuốc. Trong nháo nhác ai đó sực nhớ cái thân phận xiêu lạc này, nháo nhác hỏi, mai mốt tụi tao đi hết rồi lấy ai nuôi mầy. Bé nói tui xin bà sư cơm ăn, lo gì.
Bé không biết phải cần có thời gian để chợ quá độ lên chùa.
Một sáng chợ tan hoang như có cơn lốc xoáy nào cuốn đi tứ tán hết, những lều bạt, sạp hàng và những cô chị thím giọng dẻo hệt kẹo kéo (khi đụng chuyện thì ngay lập tức bỏ kẹo đi chỉ chơi kéo bén ngót thôi)… Chỉ mỗi bé Tím còn ở lại, với cái không thứ mười chín : không biết đi đâu về đâu với ai.
Bé hơ hãi lôi cái giường khuyết tật đi tới lui, rốt cuộc hết cả ngày mới dựa được cái hàng ba một nhà nghèo trong hẻm. Nhưng bé không lo buồn mấy, giờ bé có cả một gia tài : mấy tấm cao su chưa rách có thể dùng che mưa nắng, vài khúc cây còn tốt chắp chân giường là hết sảy, một cái kệ xếu xáo ai đó để lại. Buổi chạng vạng bé ra bãi chợ trống không đốt lên đống lửa từ những cây củi vụn, rồi chống nạnh đứng ngu ngơ, chắc nghĩ sao lâu quá nhà chùa không tới cặm cột, trồng đa, để bé quét lá đổi bữa…
Phật ơi nhanh lên với, trước khi nhờ ngài cứu rỗi tâm hồn, có người đang cần được cứu rỗi cái bụng lép. Bạn nghĩ vậy khi đứng ở cửa ngó ngẩn cái chợ hoang tàn trong lúc thấy nhung nhớ cả cái bà bán thịt bò vẫn thường cân thiếu…

Dư vị thời đứng ngó
Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư

Bà thím bán gỏi đu đủ ở góc chợ giờ đã quen mặt mình. Cũng như mình quen cái cách bà dùng tay không xếp mấy lát da heo mỏng dính lên mặt dĩa gỏi, đúng cái tay vừa đếm tiền và gãi đầu xong. Lúc đó mình tần ngần tần ngần, như ước lượng coi có mấy ký lô vi trùng sinh ra từ bàn tay đen quéo đó, bao nhiêu vôi làm cho sợi đu đủ giòn tới chừng này, bao nhiêu con ruồi từng ghé qua đây...
Nhưng tới khi bà thím chan nước mắm ớt cay xé vô cái dĩa gỏi tươi rói kia thì mình không nghĩ tới điều gì khác nữa, nước miếng rỉ ướt mèm rồi, ăn thôi.
Hai lăm năm trước, với mình, đó là món ngon nhất trần đời.
Mình vẫn nhớ cái gánh gỏi đu đủ của nhà cô giáo Tý bán ở mảnh sân sau trường. Chắt mót thì mỗi tuần hai lần mình được làm khách hàng của cô. Ngồi lên cái ghế cây nhỏ xíu, bưng dĩa gỏi cũng nhỏ xíu ngấu nghiến cọng đu đủ cuối cùng, ăn miếng da heo mỏng đến nỗi có thể làm đứt tay người ta, húp nước mắm (chủ yếu là muối) tới giọt cuối cùng… thấy mình sao mà sang. Những ngày còn lại buổi ra chơi mình sẽ đi ngang qua đó, thời may nếu đứa bạn nào sộp và có tấm lòng nhân ái thì "bao" cho một dĩa. Không cũng không sao, mình chỉ cần liếc qua màu đỏ nhạt của đu đủ, trắng ngà của da heo và chút xanh của mớ rau răm rắc trên mâm là sướng rồi.
Má mình dạy lúc người ta ăn mà mình đứng ngó lom lom không được, người ta cười con nhỏ chết thèm. Nên những ngày không có tiền ăn vặt, mình thường chơi nhảy dây. Mệt chỉ muốn uống nước, không thấy thèm ăn. Nhưng mùi nước mắm pha chanh ớt của món gỏi đu đủ thường đeo đẳng theo mình, trên áo của đứa bạn nọ hoặc phảng phất trên tóc đứa kia. Mình chống chọi lại cơn lũ nước miếng vô cùng vất vả.
Những bữa má cho tiền dằn (đáy) túi thì mình lại dằn vặt kiểu khác. Mình thật không biết chọn giữa nửa khúc bánh mì chan nước sốt cà hay dĩa gỏi đu đủ tai heo. Thời may dĩa gỏi nhiều lần thắng cuộc, vì mình khoái ăn mặn (lúc đó đã biết câu cha ăn mặn con khát nước nhưng mình chớ hề nghĩ rồi mình sẽ có con, tưởng làm con nít hoài hoài chớ).
Giờ mình hay nghĩ mình sẽ không thòm thèm, hoài nhớ món gỏi đu đủ đó nếu đã được ăn nó mỗi ngày (bằng đũa chớ không phải bằng cách đứng xa xa… ngó). Chuyện ăn uống nhỏ nhặt này biết đâu làm lệch lạc cả một con người. Lý do nào mà mình ghét người giàu có phải vì tụi bạn khá giả sống bên kia cầu Phán Tề được ăn mặc no đủ hơn mình? Cứ coi tụi nó cầm ổ bánh mì chật căng những viên xíu mại thịt khìa hay chéo nguẩy ngồi ăn bún riêu là mình ghét lắm. Mình tuyệt không chơi với đứa hôm nào cũng tới lớp với vệt cà phê sữa đóng vành trên mép. Mình cũng chẳng ưa đứa hay trải ra bàn những cây viết chì đầy màu sắc, những cuốn tập trắng tinh... Tất nhiên là mình vô cùng ghét những đứa ăn gỏi đu đủ da heo sáu bữa trong tuần. Ý thức giai tầng của mình rõ ràng hơn bao giờ hết.
Mà cái món sang cả gì cho cam, gỏi đu đủ có lẽ chỉ đứng sau khoai lang nướng hay bắp luộc… về sự bình dân, giản dị. Đu đủ hườm chín (mỏ vịt) xắt sợi, da heo luộc chín đem thái mỏng, sang hơn thì có vài con tép luộc chẻ đôi, ít đậu phộng, gì thiếu được nhưng không thể thiếu nước mắm pha chanh ớt. Gánh này ngon hơn mâm kia ở chỗ đu đủ giòn hơn, da heo béo hơn sự đậm đà vừa miệng của nước mắm pha. Cũng đừng quên ớt, thứ ớt hiểm cay xé, vừa ăn vừa chắt lưỡi hít hà, nồng như ai thổi tro nhóm lửa trong mũi.
Mình giờ sắp hai thứ tóc, đã thưởng thức những món ngon nhất trần đời khác, nhưng mình không bao giờ bỏ qua khi đã nhìn thấy gỏi đu đủ. Ăn cho thời đứng ngó, thời thương khó. Và bà thím kia có chui tận góc chợ tối om, mặt mày có nhăn nhó, tay có gãi đầu cũng đừng hòng đẩy mình nhảy qua quán bánh lọt giò heo hay bún nước lèo. Gì chớ gỏi đu đủ mình có thể ăn mỗi ngày, và mỗi lần đôi ba dĩa, không chừng…
Những lúc cảm thấy món gỏi hơi mặn và có chút đắng, mình không hề rầy rà bà thím, vì biết những dư vị đó chỉ mới phát sinh khi trôi qua cổ họng mình, khi cái thời xa xắc bỗng quặn quặn trong lòng. Sau trận trả thù đời thấy khát nước gần chết (nhân tiện nhận ra nuôi hận phải chăng là tự tàn phá chính mình?)
Một bữa nọ ăn như là ăn thôi, mới hay món này cũng ngon quá chớ…

Chậm từng giọt chữ…
Nguyễn Ngọc Tư

Có lần ngồi nói chuyện văn chương với Già, ông nói bây giờ người ta đọc nhiều nhưng không đọc kỹ… Bạn thấy nhột ran, thấy trong hai chữ "người ta" đó có mình. Những lần Già nhắc tới cuốn sách nào đó bạn hớn hở kêu đọc rồi, nhưng nhắc một đoạn trong đó thì bạn không nhớ. Những lần bạn ngắc ngứ không gọi được tên một nhân vật. Những lần bạn quên tên tác giả hoặc nhớ tác giả thì quên tên sách. Những lần bạn khen cuốn sách X đó hay những hay làm sao thì bạn không diễn tả được. Giống như lướt đi trên những mối tình hờ hững, đã từng yêu nhưng có lẽ thiếu đậm sâu, đến nỗi chả nhớ nốt ruồi cô ấy nằm ở đâu.
Già thì khác. Tám mươi sáu tuổi Già vẫn giữ cách đọc sách kỳ lạ. Mỗi chữ trong sách với Già là thưởng hớp trà, ngụm rượu. Nên còn gì sướng bằng trà rượu ngon. Già xướng một câu, chắc lưỡi hít hà một cái, gật gù khen quá đã. Có những đoạn văn bạn đã từng lướt qua trên trang sách giờ qua ngữ điệu duyên dáng của Già bạn thấy ngỡ ngàng, tươi mới bao nhiêu. Và bạn thấy lạ lùng bao nhiêu khi ngó Già đọc lại một câu văn tâm đắc, dù Già dùng hai chữ "thấy ghê", sau khi rướn cái cổ gầy gò nhăn nhúm nuốt nước bọt.
Già nói thấy ghê, nhưng không phải chê, mà nghe trong đó sự ngưỡng mộ, nể nang, thán phục. Già hay thảng thốt "thấy ghê" sau mỗi câu văn hay ho mà Già đã đồng cảm đến mức thuộc nằm lòng. Mà Già thì thuộc nhiều câu dài lắm, kinh điển lắm, phức tạp lắm… đến Sông Đông êm đềm chữ như rừng vậy nhưng Già vẫn có thể tỉnh bơ đọc một đoạn nào đó, bằng trí nhớ mẫn tiệp, bằng tình yêu văn chương, bằng sự trân trọng sách, bằng cách đọc thật chậm, nâng niu từng câu chữ.
Chống chế rằng cái thời Già sống sách hiếm hoi, nên người ta quý sách, người yêu sách coi sách như miếng ăn, hơi thở. Nhưng cái thời cầm sách đọc mà sợ hết qua rồi, giờ sách đầy rẫy, đẹp, sang… không đọc nhanh thì tiếc. Và đọc sách như một công việc, không phải thú chơi. Trong bạn bè của bạn, có nhiều người đọc sách để điểm tin trên báo, đọc sách để khoe (rằng đã đọc), đọc sách để học viết, đọc để… kể lại. Nên ai cũng mau mau cho đến trang cuối cùng. Lâu lắm rồi bạn không còn nhấm nháp từng trang sách, như bụi lục bình trôi nhẩn nha trên sông, lúc tấp bờ này khi dạt vào bụi nọ. Bạn cũng đam mê, cũng nghiến ngấu mà như là nghiến ngấu bánh mì kẹp thịt, tô phở… không phải ngồi nhẩn nha vừa thổi vừa gỡ lớp vỏ cháy khét của củ khoai lùi.
Bạn cảm thấy bệnh sống nhanh sống gấp dường như đã di căn đến thú nhàn nhã cuối cùng của mình, xộc vào thành lũy cuối cùng. Và chỉ khi gặp Già, ngồi giữa căn nhà lấp ló trong vườn dừa của Già nghe Già đọc một đoạn văn của Hemingway, Lỗ Tấn, Lev Tolstoi… thì mới cảm thấy thật rõ ràng. Chỗ Già gì cũng chậm, nước trà rót chậm, điếu thuốc cháy chậm, tiếng nước mương vườn chậm rãi chảy, và giọng Già nhẩn nha mà nghiêm cẩn, "Hằng năm, tôi đợi mùa thu tới, để buồn…" (*).
Văn chương va vào Già thì sống dẳng dai. Những vẻ đẹp của trang sách vẫn tồn tại ngay khi không còn tồn tại trên những tờ giấy úa. Ngó bộ chắc phải dạy sắp nhỏ lại, nên có bữa Già khẽ khàng lôi ra một tờ báo cũ in một truyện cũng cũ của Già, biểu bạn đọc. Mà không được đọc thầm đâu, phải thành tiếng thành câu. Chữ nào bạn đọc sai Già nhắc chừng chừng trong lúc khói thuốc bảng lảng vờn trên mặt. Bạn quen đọc thầm, giờ giọng cứ vấp dúi dụi trên trang báo dày những chữ, đến truyện ngắn thứ hai đã cảm thấy mệt đứt hơi, muốn nhanh cũng không nhanh được.
Kết quả của buổi chiều làm bài tập đọc đó là bạn nhớ dẳng dai một câu trong cái truyện ngắn xa xưa của Già, "Viết thơ cho nhau và tìm thăm nhau là việc làm của những kẻ yêu nhau quá ít còn đang sợ hãi chuyện quên nhau. Tình yêu của tôi không hời hợt thế"
Vậy nên, thưa Già, nếu lâu lắm thưa vắng tin nhau, cũng không có nghĩa bạn nhỏ này đã quên Già rồi…

Đôi bữa làm mây…
Nguyễn Ngọc Tư

Bữa đó bạn đang trên đường xứ lạnh chơi, à không, là họp (nhưng ở xứ mình họp với chơi có khác mấy đâu??). Dự định chớm khuya sẽ đến nơi. Hội nghị khai mạc vào sáng hôm sau, chiều có chương trình tắm suối buổi tối đốt lửa trên đồi. Đọc báo thấy bảo nơi đó nhiệt độ đang xuống thấp, và những bạn đồng hành trên xe hớt hãi hỏi nhau đã mang theo đủ áo lạnh chưa?
Ngồi bên trái bạn là một thằng nhỏ mắt ướt tai to chừng mười, mười hai tuổi. Đó là một thằng bé mơ mộng, nó hay tì trán vào kính xe ngó nghiêng xóm làng phố xá trôi đi ngoài kia. Bạn đã có thời như thế, nhưng giờ đi xe bạn chỉ ngóng về phía trước, phía bạn sẽ đến hoặc phía có cái màn hình ti vi đang phát dở một vở tấu hài... Chợt đứa nhỏ níu tay bạn hỏi, dì ơi, quẹo theo đường đó là đi tới đâu? Bạn dòm theo tay nó, đó là một con đường không có vẻ gì đặc biệt, cũng hàng quán lèo tèo cũng cây cối xanh xao cũng xe cộ vội vàng. Thấy chẳng huyền bí hiểm trở như những lối mòn trên sườn núi, cũng không ra dáng mời gọi quyến rũ như những con đường có nhiều cửa hàng mua sắm sáng láng. Tóm lại là đường chẳng có đặc điểm nào khiến người ta phải thắc mắc nó đi mải miết những đâu. Nhưng thằng nhỏ tỏ ra quan tâm, nó nhắc lại câu hỏi một lần nữa. Bạn không biết, bèn lấy bản đồ ra coi. Bản đồ chỉ vẽ một con đường mảnh như sợi chỉ bay bâng quơ trong gió, như một mạch máu nhỏ mà không thêm thông tin gì. Bỗng bạn xao động, bỗng bạn cũng muốn biết con đường đó đi về đâu, như hồi bạn trạc tuổi thằng nhỏ và hay thổn thức hỏi bầy chim trời kia bay về đâu, nơi đâu là ở cuối cơn gió, chiếc ghe hàng bông kia từ đâu tới, con hẻm rối bời này sẽ trổ ra khúc đường nào?
Bạn quyết định xuống xe. Một mình. Và chênh chao một lúc khi nhìn theo chuyến xe có thằng bé mơ mộng nhòe dần trên đường. Quay trở lại ngã ba, chờ cả buổi rốt cuộc một chiếc xe đò ọp ẹp cũng đưa bạn vào con đường lạ. Đi miết miết thì tới Lạt Mốt - một xóm chài. Biển đằng trước mặt. Hết đường. Hỏi một cô gái bán chuối nếp nướng sao lại gọi là Lạt Mốt, cô ngẩn ra cười rồi day qua hỏi một ông già vá lưới. Ông già ngơ ngác cười hỏi bà già đang phơi cá khô. Bà già tần ngần ngẫm ngợi cũng lắc đầu chịu thua, nói chắc ông Chín biết, ổng già nhất xứ này. Nhưng ông già đã đi dự đám cưới của thằng cháu cố ở thành phố, phải mai mới về.
Trong nỗi xao xuyến không cơn cớ, bạn nghĩ thôi thì ở chơi tới mai, chờ ông già Chín về để hỏi coi sao chỗ này lại có tên Lạt Mốt. Thời gian chờ đợi, bạn đi theo đám trẻ con lem luốc xóm chài bắt còng bắt cua tắm truồng đánh trận nên chẳng mấy chốc cũng trở nên lem luốc. Đi ngang cuộc rượu có mấy ông rủ xáp vô nhậu lai rai ca nghe vọng cổ dài dài. Bạn len lỏi vào bếp của những người đàn bà xứ biển ăn vụng món cá thòi lòi kho nước cốt dừa, mắm còng cơm nguội… Đêm xuống, bạn nằm xãi lai trên sàn những ngôi nhà thả cửa đón gió trời ngủ một giấc đã đời. Chỉ một lần chực nhớ đến cuộc đi đã bỏ dở của mình nhờ người ở Ban tổ chức gọi điện hỏi chị ơi đã đi tới đâu rồi. Câu trả lời rơi ra khỏi môi bạn rồi bị chìm lỉm giữa tiếng sóng trùng khơi, mát lành êm đềm như cái lưỡi dài của con chó liếm lên một vết thương còn tươi.
Bữa sau người bạn lâng lâng như lên cơn sốt nhẹ. Bữa sau, tới cuối chiều ông già Chín về. Nghe hỏi ông cười môi run phần phật, nói hồi nhỏ ông nội ta có kể, nhưng ta quên rồi, chuyện đâu có quan trọng gì nhớ làm khỉ gì cho mệt. Thôi, vô đây uống bậy vài ly cho ấm bụng, nói chuyện trời nghe chơi. Tối mịt rồi, gấp chi… Mai về.
Và áo lạnh đem tặng lại cho bà già xóm biển để dành mặc vào mùa bấc, bữa ra đi.
Và bạn vẫn còn nghe rung động đến hoài. Cái xóm chài Lạt Mốt ấy không có phong cảnh hữu tình núi xanh thác trắng. Bãi biển chỉ toàn sình, cả nước biển cũng đục ngầu phù sa. Gió tanh tanh mùi cá khô phơi không đặng nắng. Chợ lèo tèo họp đến quá trưa thì vãn, để cả không gian đìu hiu cho ruồi nhặng ò e. Lạt Mốt không có gì đặc biệt nhưng có lẽ cách bạn đến với nó đặc biệt.
Nên bạn nhớ, nhớ lần buông bỏ, ngẫu hứng, túc tắc la cà như mây. Nhớ cú rẽ trái khỏi một cuộc đi đã được sắp xếp hoạch định từng chi tiết. Nửa đời bạn đã bị vây bởi một kế hoạch lớn với muôn vàn kế hoạch con, nhưng từ khi tạt qua Lạt Mốt, đôi khi bạn thay đổi hành trình lên chuyến xe bất kỳ, chỉ vì màu rèm che đẹp, vì anh tài xế có nụ cười hay hay…
Như anh chồng mẫu mực trên đường đi đón vợ đã thoáng phải lòng nụ cười của nhan sắc ngược chiều.
Như đứa trẻ trên đường đi tới lớp học hè dừng lại ngó nghiêng một cánh diều…

Bụi đường nháo nhác…

Nguyễn Ngọc Tư

Bạn chiêm bao thấy mình nằm chết trên một con đường. Thật ra cũng có thể coi là ngủ, vì điệu bộ khá giống nhau: nằm thanh thản im lìm. Bạn chọn chết vì nó có lý hơn (chỉ thấy người điên mới nằm giữa đường mà ngủ, hic). Và vì duy lý nên bạn không cho là điềm báo, tỉnh dậy chỉ nghĩ, té ra ta sợ đường sá đến nỗi bị ám cả trong mơ.
Một khảo sát gần đây cho thấy thời gian người ta ngủ trên giường bằng với thời gian đi trên đường, bạn nghĩ họ mô tả phần nào đời bạn. Cuộc sống gì mà cứ mở con mắt ra là dắt xe rời khỏi nhà, rồi cứ chạy nháo nhác. Có trăm việc phải chạy: đưa đón con, tới chợ, tới quán cà phê bù khú với bạn bè, tới cơ quan, đi công tác, về quê… Một bữa ngó đồng hồ công-tơ-mét phát hiện ra mình đi mỗi ngày ngót năm mươi cây số. Phải chi đường trường thoáng đãng thì còn vẩn vơ ngó lau sậy, phải ngoạn mục như con đường chênh vênh ngoắt ngoéo bên miệng vực, như đường xuyên rừng bướm bay như vãi, hay như con đường chạy thẳng tắp bên dưới tán cao su mùa lá rụng… thì hay quá, bạn đi miết cũng không biết chán là gì. Nhưng cung đường ngày ngày bạn phải len lỏi ngược xuôi chỉ loanh quanh trong thành phố với những đoạn bị đào xới, những ngã tư nghẽn cứng xe, những quãng chìm trong nước… Khói khỏi phải nói, bụi khỏi phải tả, ồn ả khỏi phải than.
Thành ra đi đường là một việc mệt nhọc và cơ cực. Tỉnh táo lắm giỏi giang lắm mới né khỏi nước miếng của người đi trước, mới không xảy ra va quẹt, không cán phải xác chuột hay một đống cơm cặn nát, không bị kẹt cứng giữa đám đông, hay sụp vào một ổ trâu… Về tới cỗng nhà mới dám thở hắt ra tin mình còn sống. Một mình mạo hiểm đã sợ, nhưng mỗi ngày bạn vẫn phải chở trẻ con theo. Che chắn bề nào cũng thấy rủi. Sợ cả cái cùi bắp, vỏ dưa hấu mà người ta vô tư rải trên mặt đường, bởi bánh xe tránh được thì bạn cũng vấp vào câu hỏi của trẻ con, sao người lớn không tốt như lời mẹ dạy… Đôi buổi đón con tới trước nhà rồi mới sực nhớ suốt quãng đường về mình không nói câu nào với thằng nhỏ, trời đất! Chung một xe mà đi như những thực thể cô đơn.
Khi đó thằng con bạn đầu mới vô mẫu giáo. Giờ nhà bạn có thêm đứa trẻ nữa, lịch trình đón đưa mỗi ngày mỗi dài thêm. Than rằng đời ta không hơn cái giấy gói bánh mì, xao xác mãi trên đường, nhừ tử nát thành bụi rồi vẫn bám đường mà xao xác. Ba năm trước đi Sài Gòn chơi, gọi chị bạn cà phê chị từ chối gọn, "chị đã lỡ về nhà rồi em ơi…" bạn nghe giận lắm, không ngờ giờ mình đã trở thành bản sao, nghĩ tới chuyện lộn ra đường nghe ngán ngược, như chị Kiều bị cụ Du cho gặp lại anh Trọng, sau những trầm luân(*).
Bạn nghĩ một phần do mình già, chớ hồi trẻ khoái xách xe ra đường tí tớn. Hồi trẻ đường phố là hơi thở, lầm lỗi gì mà nghe má dọa cấm không cho đi đâu thì sợ lắm, thà chịu bị đánh chục roi còn hơn. Nhưng những con đường xưa không còn nữa, những con đường nhỏ nằm mơ màng dưới bóng cây. Nhà thấp. Hàng quán thưa. Cỏ liếm láp bên lề. Chuông xe đạp leng keng vừa đủ để vui tai. Bụi đất đỏ cuộn là đà sau chiếc dép mòn bén lẹm của người gánh ve chai. Buổi tan trường trên đường lô xô áo dài, nón lá.
Giờ thành phố cũng còn một vài con đường còn sót chút đỉnh thơ mộng cũ, đôi khi bạn cũng vòng qua đó dù không có công chuyện gì. Thằng bạn nhỏ hết hồn khi nghe con mẹ nó cao hứng hát ử ừ ư, chứ ngày thường ra đường mặt mẹ quạu đeo sẵn sàng sừng sộ…
Ngán ngẩm nào ám khói vô bộ não đến cả chiêm bao cũng thấy nằm buồn xo giữa đường. Nhưng có vài lần giấc mơ ấy lặp lại. Lúc đó bạn buộc phải nằm một chỗ trong nhà gần hai tháng trời, ban đêm khi mọi người ngủ hết nghe tiếng xe máy chạy qua nhà để lại một vệt âm thanh dài và ấm, bỗng dưng bạn như nhìn thấy góc đường có bà già thường ngồi bán xôi vò, thấy một chú mặt mũi bậm trợn hồng hộc đuổi theo và kêu cô ơi quên gạt cái chống chân kìa và ở chỗ chốt đèn đỏ có anh cảnh sát giao thông đang thổi bong bóng giùm cho tụi trẻ con…
Chiêm bao đó bạn giải mã bằng chữ nhớ. Xa mới nhớ, lẽ thường…
(*) Sao tui không thấy đó là kết thúc có hậu, trời?????

No comments:

Post a Comment