Sunday, March 6, 2011

Sông nước Hậu giang và Nguyễn Ngọc Tư

Sông nước Hậu giang
và Nguyễn Ngọc Tư


Kiệt Tấn

phù sa nước đục khó dòm
nhớ anh em khóc đỏ lòm con ngươi




Nắng Hậu giang mưa Tiền giang
Nhìn nhau mà lệ rớt hai hàng
Câu ca vọng cổ chìm trong tối
Mùi mẫn còn rung dưới nguyệt tàn

Từ Ngọn đèn không tắt qua đến tập truyện Giao thừa, Nguyễn Ngọc Tư đã bỏ bớt được tính chất học trò trong cách kể chuyện và ngay cả trong lối viết. Tư trở nên già dặn hơn. Truyện kể cũng đơn giản thôi, nhưng mạch lạc hơn. Tập Giao thừa gồm 17 tựa truyện cho 161 trang. Thể văn nói chuyện linh hoạt tự nhiên, không cường điệu ồn ào. Văn gắn bó với đời sống, chơn chất, không sần sùi ngổ ngáo như lối viết “mới” hiện nay. Cách nói thành thật hiền hòa, không xốc táp ngang ngược. Người đọc không thấy ở Tư cái cố gắng “làm văn chương”, không có những câu văn thời thượng, trau chuốt, không có những kiểu nói om sòm mà rỗng tuếch. Bình dị. Đơn giản. Dễ hiểu. “Có sao nói dậy”. Vậy thôi. Mà tại sao phải nói rắc rối? Nhiều khi nói rắc rối là nhằm để che đậy một sự trống rỗng, một cái dốt đặc nào đó ở mình. Cho nên phải “rắc rối hết cỡ nói!” cho thiên hạ tá hỏa và phục lăn? ”

Trong tập Giao thừa, phần lớn bài viết có truyện – có chút truyện, hay gọi là… Đôi khi bài viết được dựng lên quanh một chi tiết, quanh một tình cảm thương ghét, quanh một quyến luyến, một quan tâm, để ý, “có cảm tình” giữa các nhân vật trong truyện. Chẳng hạn: Giao thừa, Bởi yêu thương, Chuyện vui điện ảnh, Hiu hiu gió bấc, Một mối tình, Nhớ sông…

Đọc vài ba truyện khác nhau, có cảm tưởng Tư mê cải lương, mê điện ảnh, và cũng có thể là mê làm đào hát luôn không chừng (?) Có gì mà lấy làm lạ? Đã làm dân miền Nam mà không biết mê cải lương, không biết mê vọng cổ là một thiệt thòi lớn! Truyện Bởi yêu thương nhắc tới gánh hát rã khiến cho người đọc ngậm ngùi. Hồi xưa, nhà tôi ở cạnh rạp hát nên tôi cũng đã từng chứng kiến hai ba gánh hát cải lương nhỏ rã gánh tại chỗ vì trời mưa ế khách. Rồi đào kép, hề diễu, người đờn, con nít lân la đi xin cơm ăn trong xóm. Nhưng cũng nhờ láng giềng cô bác thương tình nên không một ai bụng đói. Tình nghĩa đùm bọc đặc thù của người miền Nam. Mưa Tiền giang nắng Hậu giang. Những tay hảo hớn sống ngang tàng. Trái tim hào hiệp bao trời đất, Bốn biển anh em rượu rót tràn...

Ngoài mê cải lương, còn có cảm tưởng Tư bị ám ảnh bởi tên gọi của các nhân vật. Những cái tên trở đi trở lại trong nhiều truyện khác nhau, như Ông Chín, San, Xuyến, Điệp, Diệu, Giang... Tưởng chừng như những nhân vật đó có thật trong đời sống. Họ bị phăng cuốn trong dòng đời bất cưỡng, quanh quẩn trong rạch ngòi Hậu giang chằng chịt, nay được Tư phân cắt thành những mẩu truyện ngắn. Biết đâu chừng khi nối liền hết lại, những mẩu truyện ngắn này sẽ kết hợp thành một truyện dài mạch lạc, một bức tranh đời éo le, lâm ly, ngang trái.

Còn một thứ không thể nào thiếu được trong tất cả các truyện của Nguyễn Ngọc Tư. Đó là sông nước: sông bốn phía, nước tư bề! Quơ chỗ nào cũng đụng nước, ngó chỗ nào cũng thấy sông. Nước là nền, sông là dòng cho ngòi bút của Tư triền miên tuôn chảy, cuốn theo những chữ nghĩa đầy ắp tình người như phù sa lợn cợn. Sinh đẻ ở miệt Hậu giang, gắn bó với cuộc đất Cà Mau như Tư thì cũng không thể nào khác hơn được. Dứt sông là dứt hơi thở, cạn nước là cạn máu huyết. Là mất hết cái lẽ sống còn. Tư đặt tựa truyện: Dòng nhớ (tr. 47). Nhớ gì? Nhớ sông (tr. 154). Nhớ sông, nhớ nước, nhớ da diết, nhớ dai dẳng, nhớ muốn khùng, nhớ muốn điên. Nhắm mắt vẫn thấy, hôn mê vẫn thấy. Thấy hoài thấy hủy.

Truyện Dòng nhớ: Một người đàn ông (gọi là ba) trốn nhà theo chung sống với một người đàn bà (gọi là dì) trên ghe thương hồ. Hai người có con với nhau, nhưng rủi ro đứa con nhỏ bò lọt sông chết chìm. Người đàn ông nghe theo lời má, bỏ sông lên bờ cưới vợ khác (gọi là má). Và tiếp theo đó, thỉnh thoảng dì trở lại neo ghe trên bến cũ để ngóng ba, người chồng giờ đây đã vuột khỏi tầm tay mình. “(...) chuyện xảy ra lâu rồi, nhưng người ta vẫn còn nhớ, vẫn còn cắm sào trước bến nhớ ba tôi, vậy mà biểu ba tôi quên cái rụp thì làm sao quên được” (tr. 51). Cắm sào thì cắm sào, đậu bến thì đậu bến, nhưng “người ta nhớ thương đứt ruột có thể chạy ào lại để gặp nhau, nhưng vì lương tâm không làm được, đành ngồi đây ngó lên, ngồi ở trên ngó xuống” (tr. 56)

Còn người đàn ông trên bờ cũng không ngớt ngóng ra sông mà nhớ người thuở trước. “(...) đêm đêm cả nhà đi ngủ, ba tôi ngồi hút thuốc trên bộ vạt kê trước nhà, chống rèm lên, ngó ra sông” (tr. 50). “Những đêm đó, ba tôi hút thuốc dữ, cứ nhìn chong chong ra ngọn đèn đỏ ối, nhỏ nhoi, buồn hiu ngoài kia” (tr. 51) Tâm can rời rã, tuy có mặt đó mà cũng đồng thời vắng mặt: “Ông đang ở đây nhưng tâm hồn ông, trái tim ông, tấm lòng ông chảy tan vào dòng nước tự lâu rồi” (tr. 50)

Bằng lối viết dung dị, Tư đã làm bật sáng lên được cái tương tư của hai người tuy cách mặt nhưng không xa lòng. Tương tư đôi chốn tình ngàn dặm, Vạn lý sầu lên nối tiếp mây…[1] Cái thương nhớ tơi bời hiện lên theo từng hình ảnh rõ nét, khắc khoải theo từng chữ viết dung dị mà đúng tận tâm can.

Rồi người đàn bà bỗng dưng bỏ bến sống đi biệt, không còn bao giờ trở lại bến xưa cắm sào mong ngóng nữa. Và cuối cùng người đàn ông chết trong mong đợi, thi thể vùi chôn ở vườn nhà. Người vợ cho dù có hờn ghen hừng hực cũng thấu hiểu được tấm tình khắng khít giữa ông chồng bền lòng và tình địch bền dạ của mình. “Má tôi vẫn không ngừng tìm dì, hỏi để làm gì, má tôi nói để cho dì hay và nói với dì, nếu sống mà không gần được, chừng nào chết, mời dì lên nằm trên đất vườn tôi” (tr. 57). Người đàn bà muốn giúp cho chồng mình chấm dứt dòng nhớ. Nhưng liệu được chăng khi dòng sông vẫn còn đó, con nước vẫn trôi hoài, vẫn trôi xa tắp về miền bất tận. “Đó là nỗ lực cuối cùng má tôi làm để chấm dứt cái cảnh ba nằm bên má mà hồn vẫn hướng về những dòng sông miên man chảy” (tr. 57).

Những dòng sông… Ôi! Những dòng sông… khiến chợt nhớ thơ Nguyễn Bính: “Sông đụng đâu sông, sông gặp sông, Thuyền xuôi theo nước, nước theo dòng. Người về người gặp quê người đó, Ta gặp ai đây giữa bụi hồng?”

Và những dòng sông, những dòng nhớ của Tư vẫn cứ tuôn chảy miệt mài, len lỏi trong khắp cùng ngõ ngách Hậu giang. Cuối cùng, dòng nhớ biến thành một nỗi nhớ mong khắc khoải: Nhớ sông, bài viết chót trong tập Giao thừa. Mà không nhớ sao được, khi cả cuộc đời ba, cả cuộc đời má, cả cuộc đời hai con mình đều gắn bó bền chặt với sông nước. “Bây giờ hỏi lại, Giang nói không có con kinh, con rạch nào mà ghe chưa đi qua, không có đường ngang ngõ tắt nào mà ông Chín không biết. Xuôi dòng, ngược dòng, con nước kém, con nước rong... Không ai nói với ai, nhưng cả nhà ông đều nghĩ, chắc là sống như vầy hoài, như vầy mãi thôi. Chị em Giang đùa nhau, sau này lấy chồng ra riêng, ba cho mỗi đứa một chiếc ghe” (tr. 156)

Giang tự nó nghĩa là sông, cái tên như một định mạng trói buộc từ đời nào với rạch ngòi. “Giang không hiểu sao mình nhớ hoài, nhớ ràng ràng cái ngày đó. Cho nên qua vàm lần nào, Giang đều kéo con Thủy ra, Giang chỉ, má chết chỗ này nè” (tr. 156). Má trợt sào té đầu đập vào cái gờ sắt, đôi chân còn bíu vào ghe, rồi cả thân người hụp vào lòng sông, chìm lĩm. Vợ chết, ông Chín vẫn tiếp tục chở hai đứa con gái đi bán hàng bông xuôi ngược trên khắp các ngả sông ngòi. Thủy mê đất từ hồi nhỏ, từ thuở còn bồng. “Giang nhắc, ờ phải em ham đất lắm, hồi nhỏ ghe đậu bến nào chế cũng coi em bắt mệt, cứ xoay lưng là em chổng mông cạp đất ăn ngon lành” (tr. 159). Chế là tiếng Tiều châu để gọi chị mình.

Rồi cái mộng ước định cư trên đất liền của ba đã (hay gần như) trở thành sự thật: Giang lên bờ, lấy chồng tên Thuấn ở Đập Sậy, có đất làm ruộng. Những tưởng một khi đã lên bờ định cư rồi là quên được sông. Nhưng liệu quên được không? Thỉnh thoảng ông Chín ghé qua nhà Thuấn thăm con gái và nhậu tì tì với thằng rể tốt bụng. “Ghé Đập Sậy, Giang đòi ông Chín ở lại một đêm, cho Giang xuống ghe ngủ với con Thủy. Giang than nức nở, “Trời ơi con nhớ ghe quá trời đất đi”. Xuống ghe, Giang đưa tay rờ rẫm từng món hàng, từng miếng sạp” (tr. 157). Rưọu vô ngà ngà, Thuấn than thở với ông già vợ của mình: “Thường thì cơm nước, quét dọn xong, để hở ra giờ nào Giang lấy xuồng chèo đi giờ ấy. Trời đất, nó đi đâu? Thuấn cười chua chát, “Hổng biết, nó chèo khơi khơi vậy đó ba à, con cũng nghi bậy trong bụng, có bữa con rình đi theo, vợ con chèo đã đời rồi nó buông chèo lủi vô đám lá, lấy tay vịn, ngồi ở đó. Rồi chèo về, vậy à” (tr. 158).

Trời ơi! Nhớ tới nước này thì phải gọi là ghiền mới phải. Nhớ sông! Hay là ghiền sông, ghiền nước, ghiền bơi, ghiền chèo, ghiền cái mui ghe, ghiền cái sạp nằm, ghiền con sóng lăn tăn, ghiền dòng phù sa ngầu đục, ghiền tiếng nước khua bì bõm? Mà một khi đã ghiền tới mức này là kể như hết thuốc chữa. Chỉ còn nước trả Giang lại cho sông nước mà thôi.

Xếp quyển Giao thừa lại, người đọc tự hỏi Giang có phải là người con gái thứ tư trong một gia đình nào đó ở miệt Cà Mau xa mút tí tè, nơi tận cùng đất nước: Cô Tư. Tư. Nguyễn Ngọc Tư, cô gái Hậu giang có cái nhìn hiền hậu, có nụ cười thắm thiết và nước da bánh ít mặn mòi?

Mưa Hậu giang nắng Tiền giang
Cô em kẹp tóc bịt răng vàng
Cẩn tim xanh đỏ càng quê lắm
Mắt liếc khua theo guốc rộn ràng...


Mưa Hậu giang nắng Tiền giang
Bến sông san sát những nhà sàn
Võng trưa kẽo kẹt em tôi hát
Gió đưa bông thắm nở về chàng

“Ầu ớ… Gió đưa gió đẩy bông trang, Bông búp về nàng bông nở về anh… Ầu ơ…” Nhà sàn, loại nhà nửa trên bờ nửa dưới nước, dựng trên những chưn cột rắn rỏi đóng chặt xuống lòng sông, sàn lót bằng ván. Nhà sàn rất phổ thông ở vùng sông nước đồng bằng Cửu Long, như Bạc liêu, Cà Mau, Cần thơ, Vĩnh long, Mỹ tho…

Mãi đến khi bước chân vào Tạp văn của Nguyễn Ngọc Tư, Trăm năm bến cũ con đò tôi mới bắt gặp lại được chiếc võng đưa và mái nhà sàn ở miệt phù sa của Tư. “Cửa sau nhà tôi trông ra sông. Tôi thường ví đó là một khung tranh, có lúc nó hiện lên những chiếc tàu cao nghệu, hùng hục đi qua, che khuất cả dãy nhà sàn bên kia sông…” (tr. 163)… “Chỗ tôi ngồi có chiếc võng con giăng ngang căn chòi de ra mép nước” (tr. 165). Nhà sàn còn đó, con đò còn đó, võng giăng còn đó, mà tiếng “ầu ơ” ru em đã vỗ cánh bay đi mất biệt tự lúc nào. Có lẽ kể từ sau năm 75, kể từ lúc Tư chào đời và ngủ đưa trên võng, không còn ai nhớ hát ru con bằng những câu ca dao “ầu ơ ví dầu” nữa.

Thời tản cư ở Bạc Liêu, lúc tôi 5 tuổi, ghe ba má tôi trôi giạt xuống tận vùng Đầm Chim, Đầm Dơi. Thỉnh thoảng ba tôi nhắc tới tên sông Trèm Trẹm ở miệt Năm Căn, tôi không nhớ rõ mình đã có lần đi qua con sông đó hay chưa. Cho tới lúc Tư bơi xuồng ba lá đưa tôi đi thăm chợ nổi ở Cà Mau, tôi mới biết chắc là mình đang thả trôi trên dòng sông Trẹm. “Giữa chợ nổi Cà Mau, cảm giác như gặp được những khu vườn của miệt sông Tiền, sông Hậu, như nhìn thấy những rẫy khóm, rẫy mía miên man dọc trên miền sông Trẹm quê mình” (tr. 136). Ở Bạc Liêu, Cà Mau, rất đông người Triều châu chuyên nghề làm rẫy – với những tiếng gọi nhau rất là chệt “Tiều”: tỉa, hia, chế, số, tùa củ, tùa nứng… (Nói Quảng nói Tiều!) Sông Trẹm, dòng sông ngầu đục đã chảy vào rẫy thơ của Lâm Hảo Dũng thời chinh chiến “Ấy dòng sông Trẹm xưa nay, Còn thương cây mắm rễ cài trên không. Lênh đênh em một chiếc xuồng, Đời tôi lính trận cỏ bồng chân mây”. Đời trai thời loạn. Một cuộc binh đao. Một cơn máu lửa tơi bời. Bao nhiêu người đã vĩnh viễn nằm xuống trên xứ sở tang thương vì bom đạn? “Hận người con muỗi vo ve, Nên trong cuộc chiến bạn bè giết nhau. Ấy dòng sông Trẹm trôi mau…”

Hãy chậm dầm bơi lại để đi vào cái chợ nổi của Tư và bắt gặp Chút tình sông nước. “Nằm giữa lòng thành phố Cà Mau, quãng cuối sông Gành Hào, đứng trên cầu nhìn về phía mặt trời mọc, người ta có thể nhìn thấy một dãy ghe rập rờn xao động cả mặt sông, những cái chân vịt gác chổng lên loang loáng dưới mặt trời” (tr. 134). Tư thích nói về những cái chợ nho nhỏ họp nhóm chùm nhum ở miệt ruộng rẫy, những cái chợ chộn rộn đầy ắp tình nghĩa, thương mến, thân thuộc, nơi mà mọi người gần như đều biết hết mặt nhau. Chẳng hạn cái Chợ bên đường ở một làng quê hẻo lánh nào đó… “Như người phụ nữ chân quê, chợ nhỏ nhoi, hiền hậu, trầm tính dịu dàng (…) Buổi sáng sao mà dậy mùi thơm nồng hăng của rau húng lủi, húng cây, rau cần nước, cần rừng” (tr. 39) Nhưng gà vịt, cá tôm, rau củ trong vườn nhà bày ra đó chỉ để mong bán được, trả giá thấp cao, trông chừng, hoặc canh ngó thôi sao? Không, không! đâu phải chỉ có bao nhiêu đó. “Chị em chụm lại rôm rả với nhau chuyện chồng con, chuyện hàng xóm, ruộng lúa, vườn cây… (chuyện xóm quê mà, nói biết chừng nào cho hết)” (tr. 39) Khách từ phương xa tới và có dịp qua ngang chợ, hãy để ý. Hãy để ý cho tận tường, hãy ngó cho thiệt kỹ, hãy hít thở cho thiệt nồng nàn đi rồi sẽ thấy…

Nắng Tiền giang mưa Hậu giang
Xe lam về tới miệt Ba Càng
Ruộng khô thổi nóng lùa chưn tóc
Tóc em thơm phức mùi dưa gang

Nhưng liệu nói như vậy mà đã bày tỏ hết được tấm lòng của mình chưa? Chưa! Tư còn có thêm một cái chợ nữa: Chợ của má. “Tôi gọi những cái chợ ruộng dân dã này là chợ của má. Bởi nó hiền lành, lam lũ như má. Bởi chợ nhỏ nhoi, khiêm tốn như má, nhưng nó mang một cái hồn sâu, mênh mông lắm nên người ta nhắc nhở hoài, thương hoài như thương… má vậy” (tr. 151). Trong chợ của má, những người buôn thúng bán bưng là những ai? “Họ là những người gắn bó máu thịt với cảnh chợ quê này không chỉ vì mưu sinh mà là mối gắn bó thiêng liêng. Không có rau, không đi chợ, đâm… buồn. Có người lặn lội đi bán từng trái bình bát chín, không đủ tiền xe thì đi bộ, “miễn sao đỡ ghiền chợ” (tr. 153). Ở thành thị người ta ghiền quyền lực, ghiền tiền bạc, ghiền karaôkê, ghiền bia ôm, ghiền xăng nhớt, ghiền ma túy thì ở miệt ruộng rẫy này, người dân quê họ… ghiền chợ! Một loại ghiền rất tốt cho sức khỏe và càng thắt chặt thêm tình nghĩa xóm làng.

Đi vào thế giới Tạp văn của Nguyễn Ngọc Tư, người ta bắt gặp một trời một biển tình thương và gắn bó. Và cũng chính vì bởi gắn bó liền tay liền ruột với đất đai mà người dân quê phải gánh chịu biết bao là phũ phàng cay đắng, biết bao là nợ nần chồng chất, biết bao là thất vọng ê chề. Đôi ba người tự tử, rất nhiều người bắt buộc phải bán rẻ đất nhà mà ngậm ngùi bỏ xứ ra đi trong hờn tủi và nước mắt. Rồi sẽ thấy.

Tạp văn chia làm 35 tựa trải đều trên 186 trang. Cũng như trong ba tập truyện trước của Tư, trên trang nào của Tạp văn cũng bắt gặp thường trực chữ nghĩa và cách nói miền Nam, đặc biệt là miệt Hậu giang của Tư. Đếm không xuể, kể không hết. Bút pháp cũng vẫn là giọng văn nói duyên dáng nhuần nhuyễn và tự nhiên của Tư. Lối viết này tạo cảm giác thân quen, gần gũi. Tuy nhiên, cũng nên cẩn thận, chọn lọc kỹ và dùng chữ cho chính xác. Vì nếu cứ viết phóng túng đẩy đưa theo hứng khởi, lối “văn nói” sẽ rơi vào sự dễ dãi, cẩu thả, làm mất đi phần đóng góp cần thiết và quý giá của người viết: sự sáng tạo. Một khi sáng tạo mất rồi thì tính cách văn chương của bài viết cũng sẽ mất luôn, không còn lôi cuốn được người đọc nữa.

Hai thể loại Tư thường dùng nhứt là tùy bút và ký sự. Đề tài khá đa dạng: tiếc thương những vùng đất cũ, bàng hoàng trước những đổi thay sau “giải phóng”, lãng đãng những kỷ niệm về bạn bè ngày xưa, ám ảnh bởi cái nghèo xơ xác dai dẳng của người dân quê, phẩn uất trước thái độ tắc trách và nạn tham nhũng của cán bộ nhà nước. Cái tính chất văn chương ở các tập truyện Giao thừa, Cánh đồng bất tận đã phải tạm gác qua một bên. Cũng dễ hiểu thôi. Chạm trán từng giây từng phút với thực tế cam go, khắc nghiệt, gai góc, thử hỏi còn ai hơi sức đâu mà thẩn thơ vớ vẩn “Hôm nay trời nhẹ lên cao, Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Trong thời khắc hiện tại, người dân quê bắt buộc phải đối đầu với những khó khăn sờ sờ trước mắt và bắt buộc phải nhận thức “Hôm nay trời nặng lên cao, Tôi buồn “tôi hiểu” vì sao tôi buồn”! Đọc Tạp văn mới thấu hiểu được cái thực trạng thê thảm của người dân quê miền Nam sau “giải phóng”.

Bắt đầu Tạp văn là một cuộc hành trình trở lui về dĩ vãng, khi trời Trở gió. “Thoạt đầu, âm thanh ấy sẽ sàng từng giọt tinh tang, thoảng và e dè, như ai đó dứng xa ngoắc tay nhẹ một cái, như đang ngại ngần không biết người xưa có nhớ ta không” (tr. 7). Cơn gió gì mà lạ vậy? Và cứ hiu hiu như vầy hoài sao? “(…) bây giờ (nó) lớn thành một dòng gió, xấp xải, cuống quýt xốc vào tấm tôn bên chái đông đã bị đứt đinh từ mùa trước. Cồn cào. Nồng nhiệt. Mà thiệt dịu dàng. Ôi! Gió chướng” (tr. 7). Cơn gió chướng mùa trước , cơn gió chướng năm ngoái đã trở về thổi vào cõi lòng xốn xang của Tư những niềm nhớ không nguôi.

Tận cùng phương Nam đất nước, nơi mang địa danh Cà Mau, một mũi phù sa nôn nả lấn tràn ra biển Thái bình, Đất mũi mù xa. “Nơi ấy, những ngôi nhà đều không cửa, nhà mở toang cho gió nam vào, chướng tới, bấc qua, nhìn nhà là hiểu người, chân thật đến bày cả gan ruột” (tr. 11). Làm nhớ những ngôi nhà không cửa do chính bàn tay thợ mộc của ba tôi và anh hai tôi chung sức dựng lên ở Bạc Liêu, ở Vĩnh long. Một truyền thống Hậu giang còn giữ được. “Người Đất mũi sao mà hiền từ, mến khách thấu trời thấu đất vậy không biết, dường như sống giữa bao la trời, bao la biển này, người ta phải học cách thương nhau để khỏi cô độc” (tr. 14). Tùy bút Đất mũi mù xa của Tư là một bài viết vô cùng nồng nàn thắm thiết về phong tục và con người đất Cà Mau. Khiến nhớ muôn trùng.

Gió chướng còn đem về thêm cho Tư một nỗi nhớ khác nữa. Nhớ cái đầm nước mênh mông thuở trước, bây giờ đã xa. Xa đầm thị Tường. “Đầm Thị Tường là vùng đầm nước mênh mông với diện tích mặt nước hơn bảy trăm héc ta, quãng rộng nhất gần hai cây số, rộng tay mạnh dầm như dân xứ này, từ bờ nam sang bờ bắc mất hơn một ngàn lát dầm, từ bờ tây sang bờ đông nhìn mút mắt” (tr. 20). Người dân đầm Thị Tường chuyên sống bằng nghề đánh lú cá tôm. Mà cá tôm hồi thời trước thiếu gì, ê hề, ăn mệt nghỉ. Và một khi đã có mồi ngon rồi thì tất nhiên là phải có nhậu nhẹt. Cư ngụ chung quanh đầm là “những người hào sảng đậm đặc chất nam bộ. Đàn ông nhậu một mâm thì đàn bà cũng một mâm. Đàn ông say thì ca vọng cổ, (…) đàn bà say chỉ nhảy múa cho vơi hơi rượu đi” (tr. 24) Rất nhiều người từ đầm đã ra đi để thành lập những xóm nổi tiếng là kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thời trước. “Nguời dân móc ruột mình ra mà nuôi cán bộ, sống chết với cách mạng” (tr. 24) Sống thì không biết sao, chớ chết thì thấy rõ trước mắt. Chết để nuôi hy vọng cho những ngày mai tươi đẹp huy hoàng, chết trong niềm mơ ước một tương lai xán lạn rực rỡ cho con cháu mình mai sau, dĩ nhiên. Để rồi coi. Nhưng còn cái đầm? Đầm Thị Tường bây giờ ra sao? “Chuyện cá tôm nhiều vô kể quanh năm, chuyện một chiếc xuồng con với vài tay lưới có thể nuôi cả gia đình đã quá xa vời. Chuyện xuồng đi tới đâu cá nược đuổi theo đến đấy chỉ còn là cổ tích” (tr. 25). Phải. Cổ tích, nhưng mà là một cổ tích kết cuộc không có hậu. Buồn năm phút! Hay buồn năm ngày, năm tháng, năm năm? Buồn dài dài… Buồn mút mùa lệ thủy!

Nhưng khét tiếng chống Pháp và “chống Mỹ cứu nước” đâu phải chỉ có mỗi một mình cái Đầm Thị Tường. Còn một cái xã oanh liệt khác nữa. Nó là một trong ba xã vây quanh đầm. Ở đó cũng có toàn là dũng sĩ cứu nước, và toàn là bà già giết giặc hết trơn chớ bộ. Thiếu gì. Đếm không hết. Ở đâu? Thì ở Hưng Mỹ chớ đâu. Người dân Hưng Mỹ can trường và trung kiên số một. “Nhớ những người dân áo vá, tay lấm chân bùn nhưng một lòng theo Đảng, theo cách mạng. Nhớ hàng ngàn cái hầm đào dưới những vườn dừa bạt ngàn mà người Pháp người Mỹ không tìm được lối vào vì miệng hầm nằm trong trái tim mỗi cụ già, em nhỏ” (tr. 43) Đó thấy chưa? Nói có trật chút nào đâu. Tới em nhỏ cũng là “con nít giết giặc” luôn nữa, huống hồ là mấy bà già và mấy ông già!

Nhưng bây giờ thì sao? Xã Hưng Mỹ le lói tới mức nào sau cái ngày “giải phóng” năm 75? “Ba mươi tháng tư này nữa là tròn 29 năm hòa bình. Con đường quốc lộ về ngang qua xã vẫn ca hoài bài “Đường chỉ đẹp những khi còn… dang dở”. Xã có 3911 hộ, đã ngót 251 hộ nghèo, 13 ấp thì một ấp rưỡi chưa có lưới điện” (tr. 43). Chỉ tiêu mà đạt đến mức đó thì quả thực là cao cấp, còn thành tích thì hết sức là hoành tráng, vậy còn đòi hỏi gì nữa cơ chứ? “Bây giờ đất này còn nghèo hơn trước, cái nghèo lừa mị người xứ xa, lừa mị những ông quan kinh lý ưa kiểm tra lớt lớt” (tr. 44). Kiểm tra lớt lớt là kiểm tra như thế nào cơ chứ? Này! Định xúc phạm và phá hoại Nhà nước đấy phỏng? Nhà nước đang bù đầu để xử lý một vấn đề lớn lao và trọng tâm vô cùng là vấn đề giáo dục. Vậy thì yêu cầu đường sá, điện nước lẻ tẻ làm chi mà lắm thế? “Hỏi cô con gái tên Trang đã học tới lớp mấy rồi, cô cười, nghèo quá, mấy anh em em hổng ai biết chữ” (tr. 45) Không biết chữ thì phải đi học chữ lấy một mình. Nhà nước đâu thể học chữ giùm cho nhân dân được! Nhưng đâu phải chỉ có mỗi một cái “hổng ai biết chữ”. Hưng Mỹ còn có rất nhiều cái “hỏng có” khác nữa. “Hồi đó Thị Tường có “ba không”, không theo giặc, không bỏ Đảng, không bỏ cách mạng. Bây giờ thì “tùm lum không”. Không gạo, không tiền, không cá, không rau cỏ…” (tr. 47) Này này! Hết phá hoại Nhà nước, bây giờ còn định bôi bác chế độ đấy phỏng?

Tới đây xin mở ngoặc nói về một hiện tượng đang xảy ra ở đất nước ta. Khi đi karaôkê, kể từ Đà lạt ra tới Huế, ở đâu các em nhỏ hậu phương cũng đều xổ ra toàn là giọng miền nam. Ngay cả tiếng “Huệ” cũng lai giọng nam kỳ. Tò mò “hỏi người em nhỏ lạc loài từ đâu?” Em thì nói từ Chợ Gạo, Mỏ Cày, Bến Tranh, Chương Thiện… Em thì “thành thật khai báo với cách mạng”, em là em nhỏ Bến Tre, Giồng Trôm, Đồng Tháp, Cái Nhum… Toàn là những vùng ủng hộ kháng chiến ngày trước. Và toàn là gái miền Tây. Bật ngửa! Và khi em Chợ Gạo cất giọng mũi nhão nhẹt dân dã để lâm ly biểu diễn karaôkê thì vẫn cứ nhứt định là “anh cầm tầm vông vạt nhọn, em cầm dao phay sáng ngời, hai đứa mình phom phom chạy qua cầu khỉ quyết chí diệt thù, phất cao lá cờ cách mạng…” khí thế vô cùng hùng dũng. “Rằng quen mất nết đi rồi!” Cái “tiếng xấu” mà các cô gái miền Tây phải hứng chịu này, Tư cũng đã có dịp nói phớt qua trong Kính thưa anh nhà báo! Khi bạn bè hỏi em gái từ đâu đến, em gái đã chẳng đặng đừng, lí nhí, thẹn thò thưa thốt: “Thưa, em ở Cà Mau” (và tôi làm sao tránh được ánh mắt cười cợt, nghi ngại của người thị thành khi biết tôi là gái miền Tây)” (tr. 105). Đóng ngoặc.

Trở lại Hưng Mỹ. Lần này, sau khi đọc kỹ Ngậm ngùi Hưng Mỹ lần nữa, thấy ở đoạn kết Tư cũng có nhen nhúm lên một chút hy vọng trong lòng bà con ta đó chớ. “Nghe mấy ông thầy coi nước nói năm nay tôm tép khá lắm đây (…) Không biết có phải là những lời an ủi, vực nhau đứng dậy rồi bị đồn đại ra không, nhưng tôi biết ơn mấy ông lắm lắm, khi nhen lại cái khát vọng sống trong lòng người Hưng Mỹ. Ờ, sống để mà bước tới” (tr. 50).

Từ xưa đến nay, hy vọng vẫn luôn luôn là liều thuốc trị được bá bịnh – trừ bịnh ỉa chảy dĩ nhiên! Chú Hai sạt nghiệp vì đổi qua nghề nuôi vịt, nhưng ác thay, lại trúng nhằm mùa dịch cúm gia cầm. Nợ ngân hàng lút đầu. Vậy mà trong nhà vẫn không ngớt tiếng cười rộn rã. “Rầu cũng nghèo mà cười cũng nghèo, sao mình hỏng cười, hỏng hy vọng cho đỡ khổ hả cô?” (tr. 113) Chí lý! Thiếm Hai duy vật biện chứng Mác Lê như vậy rất là chí lý, nghe lọt lỗ tai hết cỡ nói. Dân Hậu giang ta bao giờ cũng lạc quan... hết thuốc chữa. Vì có sao đâu? “Lúa thất thì hy vọng trúng mùa sau, giá rẻ như bèo thì cứ đinh ninh năm sau sẽ được giá. Lứa này tôm chết thì chờ lứa sau, lúc thả bọc tôm nhỏ như cây kim xuống đầm, vẫn mong mai này còn gặp lại chúng” (tr. 113/114). Tư chợt bừng mắt trước một điều hết sức hiển nhiên – hiển nhiên tới mức người ta không để ý, như cái không khí mình đang thở chẳng hạn. “Tôi nhận ra rằng, nông dân mình xưa rày có món đặc sản “độc” lắm, nhờ món đó mà họ sống từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ đời này sang đời khác. Đó là “hy vọng” (tr. 113)

Hết vớt tôm chết thì tới chôn vịt sống. Hết cúm gia cầm thì có liền “bão tôm” thổi tới “từ tốn, lặng lẽ, mà bào mòn sức chịu đựng của con người”. Lo gì! “Vớt từng con tôm nhỏ bằng ngón tay út lên lòng rưng rức, đứt ruột (...) Có ai làm gì nó đâu mà nó chết, mình quý nó còn hơn mạng mình nữa mà? (...) Má tá hỏa khi biết hầu hết tôm giống trên thị trường không hề được kiểm dịch” (tr. 118) Này! Đừng có vu oan cho Nhà nước nhé cô Tư! Nhà nước ta ngày đêm không ngừng lo lắng đào sâu giải pháp cho nhân dân. Nhà nước không ngừng quy hoạch, không ngừng chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Người khác chỉ rành có sáu câu, chứ Nhà nước ta thì rành tới sáu câu... rưỡi. “Người dân bao đời gắn bó với cây lúa bây giờ nôn nả cho nước mặn vào đồng để nuôi tôm” (tr. 99). Cũng hợp lý thôi. Cây lúa cần nhiều nước ngọt mà thu hoạch lại quá ít ỏi thì thay nước mặn vào! Còn chờ gì nữa? “Chỉ mới một mùa tôm (đầu) thôi, bác à, nhưng đó là mùa tôm người nông dân vùng chuyển dịch vắt kiệt mình ra trước bao nỗi cực nhọc, buồn vui” (tr. 116) Vắt kiệt? Cô đừng có quá nhời chứ cô Tư. Đã vắt kiệt rồi thì làm sao vẫn cứ còn vắt hoài được hoài? “Chuyện tôm chết nông dân đã rành sáu câu rồi, chỉ khác, đây là năm thứ tư tôm chết, nghĩa là năm thứ tư nông dân Cà Mau vắt kiệt mình trong nỗi lo đói nghèo” (tr. 108). Năm thứ tư? Tội nghiệp quá nhỉ? Nhưng ba bốn năm nay chịu đựng nổi, chắc bà con nông dân ta vẫn hãy còn đủ hy vọng để mà lướt qua năm thứ năm. Và không chừng còn “dư sức qua cầu” luôn năm thứ sáu.

Mùa “bão tôm” từ tốn và nạn tôm chết hà rầm dàn trải lê thê trên nhiều bài viết của Tư trong Tạp văn: Ngậm ngùi Hưng Mỹ, Thư từ quê, Đi qua những cơn bão khô, Chờ đợi những mùa tôm, Gió mùa thao thức... Trong cảnh cùng quẩn, người dân quê ngước nhìn lên “trên” để mong cứu giúp. “Trên” đây không phải là “trên Trời” hay “ơn Trên”, mà là “ở trên”. Rồi “ở trên” mới ra tay ban phép mầu ra làm sao? “Mấy ông Nhà nước không nghĩ ra cách nào cứu tụi tui, để vầy hoài, hai năm nữa không chết đói cũng chết vì trộm cướp cho cô coi, bần cùng sanh đạo tặc, ông bà mình dạy vậy” (tr. 108) Làm gì mà lo xa quá vậy? Mới chỉ có bấy nhiêu đấy thôi mà bà con đã kêu trời như bộng! Cũng tại bà con hết đấy chứ. “Báo chí than bà con mình thiếu thông tin, thiếu hiểu biết rầm trời, các chú “ở trên” nhằn, bà con mình nóng vội quá” (tr. 118) Thì lỗi tại bà con rành rành đây này! “Thuở đời nay, năm nào mấy ổng cũng lên ti vi kêu năm này phấn đấu đạt năng suất cao hơn năm trước, khuyến khích giống mới này trúng hơn giống cũ, vậy mà làm ra hột lúa trần thân, bán không có giá, mấy ổng đổ thừa tại nông dân làm cho cố mạng nên bán không được” (tr. 184) Nhưng đổ thừa như vậy cũng đâu có trật. Làm chi mà làm cho cố sát, ai mà ăn dộng cho hết. Hơn nữa, bây giờ bà con ta lại còn bày đặt “phấn đấu” với lại “năng suất” năng siết rùm beng. Hồi xưa ở Cờ Đỏ, má tui cũng có một thời cày thuê cấy mướn, nhưng đâu có biết “phấn đấu” với “năng suất” là cái khỉ mốc gì! Vậy mà vẫn có gạo ăn hoài hoài.

Bà con cứ đòi hỏi Nhà nước phải có bổn phận đối với nhân dân. Chớ còn cái bổn phận của nhân dân đối với Nhà nước bà con để nó ở đâu? Bộ quăng nó cho chó ăn hết rồi hả? “Khi đôi bàn tay gầy guộc của tôi vuốt lại những tờ bạc lẻ nhàu nát lem luốc mồ hôi, dầu nhớt... để nộp thuế cho đằng phường, nghĩ tới mấy vụ tham nhũng động trời ngay tại quê mình, nghĩ tới những bữa tiệc vung vinh tiền triệu, chắc cái mặt tôi buồn hết biết, mà tôi còn khóc, hổng chừng...” (tr. 166) Thôi mà Tư! “Lau mắt đi em, đêm đã khuya rồi, buồn chi nữa em?” Tư hãy bắt chước cái lạc quan kinh niên của má mình. “Ai biểu làm nông dân làm chi. Chỉ hy vọng mấy ông “ở trển” làm cách nào cho dân bớt khổ, má tôi nhấn mạnh, bằng cái giọng hết sức tin tưởng, “Mấy ổng hứa rồi...” (tr. 185). Đó thấy chưa! Ngày nào mà mấy ổng còn hứa thì bà con ta vẫn còn có “quyền” hy vọng. Hy vọng dâng cao, hy vọng miên man, hy vọng tràn trề, không biết để đâu cho hết. Vậy thì bà con còn than cái nỗi gì? “Thôi thôi... Đủ lắm rồi! Xin đổi giùm cho tuồng khác. Thành thật cám ơn đồng chí”.

Khi bị vây kín bốn bề bởi những khó khăn của đời sống, người ta thường có một phản ứng rất tự nhiên để bảo tồn lấy mình: chạy trốn! Bỏ đi nhậu, đi karaôkê, đi du lịch. Hoặc coi phim bộ, đi ăn tiệm, đi gặp gỡ bạn bè, nói chuyện tào lao, đàn đúm ca hát. Nếu không làm gì được hết thì người ta chạy trốn thực tại bằng cách lùi sâu vào cõi không thực. Thả hồn về những kỷ niệm đẹp ngày cũ. Về những ký ức có bóng mát cỏ cây, có tiếng nước vỗ lách tách, có tiếng lá khua tâm sự rì rào. Về những dòng sông thương nhớ, về những đò xưa bến cũ, về những cuộc tình dang dở bây giờ đã mây trôi...

Nắng Tiền giang mưa Hậu giang
Sông Mỹ đò đưa bến Vĩnh Tràng
Bên chùa tôi đã ôm em siết
Xa rồi còn tiếc chuyến đò ngang

Cái phản ứng để tự vệ của Tư trước những bức bách của đời sống cũng vậy thôi. Trong đời Tư cũng đã từng có những dòng sông cũ, những bến đò xưa, những Trăm năm bến cũ con đò. “Trăm năm để lỡ hẹn hò, Cây đa bến cũ con đò khác đưa”. Một bến đò cũ nào đó để Tư thả hồn mình về đó nổi trôi, hầu dìm bớt đi những nỗi muộn phiền đang vây khổn tư bề. “Bến đò nằm cạnh nhà. Có thể nghe được tiếng bước chân người xoèn xoẹt lại qua, nghe mũi đò chạm lịch kịch vào bến, và tiếng chèo chém ngọt vào mặt nước những lát cắt dày. Và nhiều khuya nghe tiếng gọi đò xao xác (...)” (tr. 163). Rồi tự hỏi biết đâu chừng mình đã nghe lộn tiếng gì thành tiếng gọi đò của ai đó . “Đêm nghe tiếng ếch bên tai, Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò”[2] . Khách đi đò cũng khác nhau lắm. Có khi là những người phụ nữ đi chợ sáng lấy đò trưa trở về bên kia sông. Có khi là đám học trò đứng ngồi lóc nhóc trên đò qua bờ bên này để tới trường. “Có người qua đò rồi quay về, có người không trở lại. Bến đò cũng là nơi nhiều đứa con gái qua sông lên thành phố rao bán mình trong những “chợ vợ”, để lại mấy thằng con trai chiều chiều ra bến đón đã đời mới ngơ ngác, trời ơi, mình đang chờ ai đây?” (tr. 166). “Chiều chiều chim vịt kêu chiều, Bâng khuâng nhớ bạn chín chiều ruột đau...” Dứt một cuộc tình. Tàn một đời trai. Rồi đời trinh nữ. Khóc đi em!

Dòng sông cũ, con đò xưa đã êm đềm đưa Tư lâng lâng vào Đôi bờ thương nhớ. Chiều qua, Tư nhận được thư của bạn mình báo sẽ cố thu xếp trở về cố hương thăm nhà. “Rồi bạn kể ra một dọc những cảnh moi từ ký ức cũ, nào là những tàn cây trứng cá đằng góc sân, hàng điệp đỏ gie mình ra mé nước che cái bến, mấy chiếc xuồng ba lá buộc dập dềnh vào chân cầu” (tr. 123) Bạn xa xứ vậy mà đã 12 năm rồi. Mười hai năm đã trôi qua, biết bao là vật đổi sao dời trên cái xứ sở nát tan này. Và cũng biết bao là đổi thay trong công cuộc vá víu lại đất nước. Vì vậy, khi thấy bạn mình nhắc nhở những cảnh xưa mà bạn còn nhớ, Tư đâm lo ngay ngáy cho bạn mình. “Nhà cũ của bạn tôi nằm đâu? Cái xóm nhỏ nhìn ra sông, đón nắng từ sông, uống gió từ sông đó bây giờ đâu? Thở dài. Những ngôi nhà trống huơ, hoang tàn, trơ trơ gạch ngói, cái còn cái đã ngụp một nửa dưới nước...” (tr. 124). Khi thư bạn nhắc lại cảnh cũ người xưa, Tư cũng thầm tiếc và ước ao mình có được phép mầu để dựng lại ngôi nhà cũ, trồng lại hàng điệp đỏ, trồng lại cây trứng cá lá mềm năm xưa, và còn nhiều thứ khác nữa... Nhưng rồi Tư bỗng giựt mình chợt nghĩ lại. “Tỷ dụ như tôi làm được những điều phi thường ấy thì bạn của tôi ơi, cái hồn quê, hồn đất năm xưa đã không còn. Mà tánh bạn cũng như tôi, khăng khăng hoài: “Hoa nào đẹp bằng hoa tuổi nhỏ, Ổi nào ngon bằng ổi năm xưa”. Kỷ niệm của những ngày tuổi trẻ vô giá” (tr. 128). Chẳng những vô giá mà lại còn hết sức cần thiết nữa. Ôm vào lòng mình kỷ niệm dĩ vãng (và ôm luôn cả hy vọng tương lai) như cái phao nổi, hầu giữ cho mũi mình còn lé đé trên mặt nước trong hiện tại để mà thở. Cũng được! Cũng tốt thôi!

May mắn thay! Trong lúc Tư còn lặn hụp chới với giữa dòng kỷ niệm ngoài khơi thì còn có được một người đứng trụ hai chưn rất vững trên đất liền để mà... lạc quan. Phải! Có thiệt. Và Tư đã gặp con người lạc quan đó: nhỏ Bèo! “Má ơi! Con quạ nó đứng chuồng heo, Nó kêu bớ má bánh bèo chín chưa?” “Chín rồi! Đừng có kêu nữa, coi chừng tắt tiếng!” Bèo! Một nhỏ bạn lâu quá chừng không được giáp mặt. Mà giáp mặt rồi thì sao? “Bèo rối rít mời tới nhà chơi, mà, cái giọng của con bạn, trời ơi, nó tươi rói, giòn tan, sung sướng, tự hào (...) Rồi nó cười hực hỡ, rạng rỡ, như thể nhà nó là một thiên đường“ (tr. 60) Một thiên đường! Thiệt sao? Cái nhà của con nhỏ đó ra làm sao mà nó le lói quá cỡ thợ mộc vậy? “Ai dè nhà nó nằm tuốt trong con hẻm Cỏ sau lưng siêu thị. Đó là một con hẻm dài, hẹp te, tối tăm, sình bùn ọp ẹp, ngoa ngoắt (...) điệu này, tới cuối hẻm, chắc nhà chỉ còn bằng cái miễu Ông Tà” (tr. 60) “Hoàng hôn dần xuống, tiếng chuông chiều dần dần vẳng xa, em Bèo xanh lướt nhẹ gót hồng từ từ trôi sâu vào hẻm Cỏ tím, để rơi lại sau lưng mình một mùi hương vương vấn của cỏ nội hoa đồng...” Tuyệt! Thơ mộng ngất ngư. Lãng mạn thấu trời! Vậy mà chê con người ta là chê ra làm sao? Còn cái nhà của cô nó hoành tráng tới mức nào mà dám chê nhà con người ta một cách không có cơ sở và dấu ấn gì hết trọi vậy? “Nhà tôi nằm ngang chợ phường, quay lưng với sông, ngửa mặt đón bụi đường, trong nhà không lúc nào ngớt tiếng xe, tàu chạy (tôi ngồi viết văn ở đó, giữa tiếng động chói gắt khủng khiếp của tàu xe, tiếng nhạc nhùng nhằng từ xe kẹo kéo, tiếng những người đàn bà bên chợ cá cự cãi nhau)” (tr. 61/62). Có vậy thôi à? Vậy mà cứ tưởng đâu nhà cô là một thiên đường vô cùng cao cấp, đáp đúng tiêu chuẩn ISO và đầy đủ hết mọi chất lượng quốc tế chớ. Làm con người ta hết hồn, thiếu chút nữa té lăn cù dưới đất!

Con nhỏ Bèo có lời tha thiết như vậy, nhưng khi lò dò quanh co, quẹo mặt quẹo trái cho tới hết cái hẻm Cỏ để bước vô được thiên đường của con nhỏ Bèo rồi thì thấy nó ra làm sao? “Mái lợp bằng lá cũ mèm, ngửa cổ đã thấy lấp lánh trời sao. Nước bưng ra để cái cộp, khách chưa kịp uống lá mục đã rớt vào, nên nước nghe thơm mùi lá lắm” (tr. 61) “Hà! Cái lầy mời chế dẩm xà há!” Tuy nhiên, biết đâu nhờ uống được nước trà có pha mùi lá lợp nhà thâm niên của nhỏ Bèo mà Tư ngộ được thiền và ngộ được luôn cái “Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc” của người xưa? “Tôi tới chơi một lần tự dưng buồn, nghe thất vọng quá trời đất, nghe trong lòng có một chút ghen hờn. Con Bèo học hành lở dở, nghề nghiệp cũng chẳng cao sang, sao nó lại ngộ chữ “tri túc”, còn mình thì không?” (tr. 61) Phải nói “chưa” thì đúng hơn là “không”. Cần phải kiên cường học tập cách mạng thêm nhiều hơn nữa, cần phải khởi nghĩa thêm nhiều bận nữa, may ra. Bởi lẽ, “biết đủ thì là đủ”, chớ biết tới mức nào mới là đủ bây giờ? Rồi nghĩ tới nghĩ lui gần nát óc, Tư mới gẫm ra: “Tôi chân thành cảm ơn những cuộc đi xa, nó làm cho tôi biết nhớ nhà, ờ, miễn là nhà-của-mình, thôi thì, sao cũng được” (tr. 63). Trong thâm tâm mỗi người, ai cũng thiết tha có được Một mái nhà. Là cái chắc!

Bước ra đường gặp con nhỏ Bèo lúc nào cũng tích cực lạc quan và lúc nào cũng sẵn sàng cất tiếng cười tươi rói thì sức mấy mà buồn nổi! Mà Tư cũng hên lắm nghe. Ngoài con nhỏ Bèo vui vẻ kinh niên ra, Tư còn có thêm được Một người bạn không biết viết văn. Và cũng không bao giờ biết buồn luôn: Nguyệt! Bữa Tư đang uốn tóc ở tiệm cạnh nhà, cái đầu chơm bơm, tóc tai cuốn từng cuốn như chả giò thì bà tiên Nguyệt thình lình giáng thế. Bất ngờ gặp nhau, mừng thôi hết biết. Khi Tư “thành thật khai báo với cách mạng” là mình làm nghề viết văn, Nguyệt “à” lên một tiếng cảm thông rồi chia sẻ nỗi niềm với Tư bằng một cái giọng hết sức là tội nghiệp xót xa: “Vậy à, ờ, ráng đi, ai biểu hồi nhỏ mầy giỏi văn làm chi”. Lời của nó thiết tha đến nỗi làm tôi tin rằng mình tội nghiệp thiệt, thấy thương quá đi. Người không viết văn sướng hơn mình nhiều” (tr. 52) Vậy à? Nguyệt tỏ vẻ chê cái nghề viết văn, còn nó, nó có làm được chuyện gì “khá” không? “Nó giỏi giang, chu đáo, làm việc nào ra việc ấy (chắc là vì không biết viết văn như tôi?). Nấu món nào chồng cũng thích, bạn bè chồng tới nhà hai năm sau còn nhắc bữa ăn cá lóc luộc mẻ nghe ngon tới bây giờ” (tr. 52). Được lắm. Nấu nướng như vậy rất là đáng khen. Nhưng về mặt nghệ thuật, cái sở thích, cái “gu” của nó có “siêu” lắm không? “Nó nói nó không thích phim Mỹ, khó hiểu lắm, hổng giống phim Đài loan, coi lần nào cũng khóc muốn chết” (tr. 53)

Tới nhà bạn chơi, đưa mắt ngó lên cái kệ sách lèo hèo thấy không có quyển nào mang tên tác giả Nguyễn Ngọc Tư, nhà văn “nhớn” bèn hỏi chớ bạn ta đọc sách gì? “Nguyệt kể ra nào là “Tình như mây khói”, “Yêu mãi người ơi”, “Mai em theo chồng”... loại sách vừa dễ hiểu vừa có chữ bự coi không mỏi mắt” (tr. 55). Dĩ nhiên! Tại sao phải kiếm chuyện khó mà làm? Tại sao phải kiếm chữ nhỏ mà đọc cho lòi con mắt? Rồi than mệt. Mệt cầm canh!

Nguyệt kiếm cách gặp gỡ bạn bè lu bù. Còn Tư thì bận viết văn (làm đại sự!) Khi bận viết thì đành gác chuyện đi chơi với bạn qua một bên. Khi rảnh rang tìm bạn để chơi và để nhậu (dô! dô!) thì chẳng có ma nào. Buồn năm phút! Và trong một phút hoang mang, nàng chợt ớn lạnh rùng mình ba cái rồi lắng nghe cô đơn chầm chậm lấn vô cái tâm hồn tội nghiệp nhỏ bé bằng cỡ bàn tay năm ngón của mình. “Nguyệt thì chẳng bao giờ cô đơn như thế. Nó để dành cả một tâm hồn không vướng bận để quan tâm, chia sẻ, chu toàn hết thảy chuyện lặt vặt của cuộc đời. Còn tôi...” (tr. 56) Còn tôi thì sao? Bộ tính xuống vọng cổ sao đây cô Tư? Nói trước đi cho người ta hờm sẵn để mà phựt đèn màu đúng bon cho nó ăn rập. “Còn ta... Ta phải chịu bấy nhiêu điều đau khổ cay đắng như dày vò như cấu xé cho tan nát mảnh tơ (ơơờ)... lòng!” (Phựt đèn!) Ủa, bộ tưởng vậy mà hổng phải vậy hả? “Còn tôi thì đang đứng trên biển văn chương mênh mang chưa thấy đâu là bờ bến, đường đời cũng dở sống dở chín, chưa đâu tới đâu, hai vai không trọn vai nào” (tr. 56) “Chưa thấy đâu là bờ bến”? Bộ bỏ quên ống dòm ở nhà rồi hả Tư? Mà cũng nên coi chừng và bảo trọng lấy thân mình nghe Tư. Cứ đứng hoài trên biển văn chương thì bảo đảm sẽ bị dính mực tèm lem. Và hơn nữa sẽ còn bị ướt hết quần áo rồi cảm lạnh, ách xì nhảy mũi um sùm đó nghe.

Khi làm cái nghề đi biển hết sức phiêu lưu, thỉnh thoảng Tư cũng kiếm người thân để trút bớt bầu tâm sự, xả bớt ra một đôi lời cho nó nhẹ nhàng... (quá trời mây!) Đó là Lời cho má của Tư. Thỉnh thoảng về quê thăm má, Tư than thở “làm cái nghề viết văn cô độc, cực khổ quá má ơi”, má tôi lặng lẽ buồn hiu. Buồn vì không hiểu văn chương, không thể dìu dắt, nâng đỡ tôi trên con đường nhọc nhằn đó, nhưng má không hay rằng má giúp tôi nhiều lắm” (tr. 155) Tư hằng tin như vậy. Và sẽ vẫn còn vững tin như vậy nữa, tin triền miên, tin dài dài, lòng tin không hề hao hớt đi theo ngày tháng. Tư luôn luôn tin rằng “Vẫn còn những ngày dài phía trước, mai tôi sẽ về thưa với má, dù tôi nói câu này hơi trễ tràng nhưng có còn hơn không, rằng chưa có bao giờ má tôi dạy tôi viết văn, nhưng những gì tôi viết ra đều mang hơi thở cuộc sống mà má trao tặng” (tr. 158).

Ai cũng có một bà mẹ để mà ôm ấp, để mà thương, để mà nhớ. Đối với tôi, tiếng “má” gợi hình ảnh những “bà già quê hương”, những bà già có làn da nhăn nheo thơm tho mùi đất, có bàn chân nứt nẻ phù sa, có trái tim từ bi vô lượng, trái tim đó đã bơm máu vào cuống rún tôi từ lúc tôi còn nhỏ xíu, lớn chưa bằng đầu ngón tay. Má tôi là một trong những bà già quê hương đó.

Nắng Hậu giang mưa Tiền giang
Nắng mưa mưa nắng chín mùa màng
Vòm cao tre trúc nghiêng nghiêng bóng
Trâu nghé lim dim núp nắng chang

Đối với tôi thì là vậy. Nhưng đối với Tư, tiếng má gợi lên hình ảnh gì? “Má tôi là nông dân, suốt quãng thời gian cầm bút, mỗi khi tôi viết về người nông dân tôi lại nghĩ tới má. Trong tôi hiện lên một khuôn mặt sạm đen nửa đêm thao thức, nghe gió về lo lúa đang trổ ngoài đồng bị lép hạt” (tr. 154). Mà đâu phải chỉ có lo suông vậy thôi. Má làm quần quật cả ngày. Làm từ sáng sớm tới trưa, từ trưa tới chiều, từ chiều tới sẫm tối. Có khi ban đêm cũng làm luôn. Làm ruộng, trồng rau, tưới rẫy, làm giàn cho dưa leo, mướp, đậu rồng, xới đất, lên giồng, xách nước... Bấy nhiêu công việc đó theo ngày tháng đã dần dần biến hai bàn tay má trở thành “cục mịch, với những đốt xương thô mà sàng gạo như múa trong trưa vắng (...) Kẽ tay má đầy những mảng nước ăn, đau nhức tới từng đốt xương sao má không than hả má?” (tr. 154/155). Đã là dân quê mà lại còn làm ruộng thì tới mùa cày cấy, má phải lội bùn, lội nước vô cùng vất vả. Lội năm này qua tháng nọ. “Đôi chân ấy từ mười tuổi đã biết khóc. Chân má ngắn, ngón ngắn, chỉ rộng bề ngang nên nhìn nó to bè bè” (tr. 182). Ngó thấy bàn chưn má sần sùi nứt nẻ Tư cũng xót ruột lắm. Thỉnh thoảng Tư bỏ ra chút thơì giờ để chăm sóc cho má. “Lâu lâu, như buổi tối nay, tôi nơ chân má lên cắt móng cho má, lại thấy móng dày thêm sớ, phèn che bít cái phần hột gạo đục ở trong, vàng hoe hoe vàng. Dưới gan bàn chân, chai nhiều chỗ, phía gót thì nứt nẻ như đồng khô mùa hạn. Gió trở bấc, chỗ nứt tứa máu, lại nứt sâu hơn” (tr. 182/183). Hồi nhỏ, tôi không để ý coi bàn chưn má tôi ra làm sao, nó có trần ai như vậy không. Chớ bàn tay đục đẽo của ba tôi thì ly kỳ lắm! Ô dề kịch cợm thì chẳng nói gì. Đằng này, móng tay của ba tôi nó dày mo, không có kềm đục nào mà cắt cho nổi. Chỉ còn nước lấy cưa thợ mộc ra mà cưa vòng vòng – như người ta cưa sừng nai vậy đó. Mạt cưa và móng tay rớt ra cả đống. Chịu thua ông già!

Quanh năm suốt tháng loay hoay với lúa gạo nên má Tư gắn bó cả cuộc đời mình vào cây lúa. Theo má tin, “lúa có linh hồn. Không biết má trao cho đám lúa còn non nớt kia bao nhiêu tình thương yêu, bao nhiêu hy vọng (...) Bà có tình thương yêu ruột ràng vào cây lúa, bà tin tưởng mạnh mẽ vào kinh nghiệm nắng sương mấy mươi mùa ròng rã của mình. Để coi, tính mùa này nữa, má tôi làm ruộng suốt 38 năm” (tr. 180). Ba mươi tám năm má gieo mạ, má trồng lúa, má chăm sóc lúa, má gặt lúa, má gánh lúa, má đập lúa, má tải lúa... Cực quá là cực! Bởi lẽ đó mà suốt nhiều năm qua, má chỉ mơ ước có mỗi một cái máy vừa gặt lúa vừa đập lúa. “Khi mà đồng đất đã biền biệt bóng trâu, bạn chịu khó đẩy xuồng trên ruộng cạn, tải từng bó lúa như ba má tôi dưới nắng hè. Má tôi đã bao nhiêu năm rồi đẩy vơi vơi trời biển” (tr. 181). Làm nông dân cả một đời cực khổ, má sống chết với ruộng, với lúa, với từng hột gạo. Bởi lẽ đó, khi nghe ông Y thâm lạm chục ngoài tỉ, má buồn khủng hoảng luôn. “Quen nết nông dân, bà tính, được số tiền đó bà phải làm ruộng chắt mót suốt... đời. Lúa rẻ rề, một giạ vài chục ngàn, mấy ông “ở trển” làm mất tính ra hàng tỉ tỉ giạ chớ ít đâu” (tr. 183). Hàng tỉ tỉ giạ bị thất thoát! Còn ai bụng dạ nào mà tiếp tục sống chết nhọc nhằn với lúa, tiếp tục nghèo xơ nghèo xác, tiếp tục lặn lội năm này qua năm khác, mùa này qua mùa khác, rốt cuộc nghèo vẫn hoàn nghèo.

Nhưng má chỉ nhọc nhằn có một mình ên má thôi sao? May mắn thay, má có một đứa con gái chí hiếu và đảm đang số một. Tư đã từng sát cánh theo má lặn lội vất vả, khổ “cực trần ai khoai củ” trên khắp các kinh rạch, để đi bán gạo bằng xuồng. Có khi kinh rút nước, lạch cạn teo chỉ còn lại bùn. Vô phương bơi xuồng. Bèn nghĩ ra cách tải gạo tải cám bằng xe đạp. Tư rành cái vụ này lắm! Đủ thứ sáng kiến. Nhưng “ai khen tôi giỏi lòng má tôi cũng đau, vì đã để tôi dang dở con đường học tập”“ (tr. 157). Rồi có lần Tư theo má đi mua so đũa về để bán lại ngoài chợ quê, cũng vẫn bằng xuồng. Khi về xuồng phải vượt qua một con đập. Nhằm lúc mưa nhiều, đập xả nước kinh tràn ra như thác, lăm le nhận chìm chiếc xuồng khẳm lừ. “Má chống chỏi đằng lái, tôi nhảy ào xuống nước nắm mũi xuồng kéo đi, qua đập, ướt như con chuột, má khen tôi giỏi mà sao nước mắt má rươm rướm vậy?” (tr. 156).

Thấy người ta đi theo chủ trương chuyển dịch sản xuất, nuôi tôm kiếm được nhiều tiền quá, má cũng muốn chuyển sang nghề nuôi tôm để thử thời vận. Nhưng rồi “bão tôm” thổi tới, tôm chết như rạ. Tuy nhiên, má cũng vẫn cứ thử nữa. Thử nữa, năm này qua năm khác, và Chờ đợi những mùa tôm tới. Bởi lẽ “Má và con tin rằng, dù lần lữa rồi thì những mùa tôm sẽ tới. Nó sẽ tới để thay đổi số phận, cuộc đời mỗi người (...) Những con người lam lũ cực nhọc cả đời xứng đáng được trả côn” (tr. 122). Với tấm lòng ngay thẳng quê mùa chất phác suốt cả đời mình, má luôn luôn hằng tin như vậy. Vái trời cho niềm tin của má trở thành sự thật trong tương lai. Một tương lai thiệt gần, trong lúc má hãy còn sống. Còn sống để cho con kịp về thăm.

Con cũng muốn về thăm lại má
Thăm dòng sông Hậu nắng lưa thưa
Có cây dừa lão thân gầy quá
Đứng khóc theo mùa con nước đưa... [3]

Cám ơn Tư đã ân cần dẫn dắt tôi về thăm lại miền đất Hậu giang, nơi Tư và tôi đã sinh ra và lớn lên một thời. Cám ơn Tư đã đưa tôi tới thăm Ngọn đèn không tắt ở cái Xóm Rạch nhỏ nhít, đưa tôi đi đón Giao thừa trong một chợ tết còn ngổn ngang dưa hấu và hoa xuân. Tư cũng đã dắt tôi lội bộ rã chưn băng qua Cánh đồng bất tận. Và cuối cùng Tư đã đưa tôi tới gặp gỡ bà con mình trong Tạp văn để thấu hiểu và cùng chia sẻ những nhọc nhằn, những khó khăn mà người nông dân tay lấm chân bùn phải đối đầu trong cuộc vật lộn với những bất trắc của thời tiết, của đời sống, của mưa gió từng mùa, từng năm, từng tháng, từng ngày. Đi với Tư trong chuyến viễn du, tôi cũng đã có dịp khám phá lại những trận nắng Tiền giang rát da, và những cơn mưa Hậu giang rượi mát. Cám ơn Tư, cám ơn Tư.

Trong cuộc hành trình này, tôi chợt nhận ra giữa Tư và tôi có nhiều điểm tương đồng. Tư thương loài vật, tôi cũng thương loài vật. Tư có vịt xiêm Cộc, con vịt mù, và chim bìm bịp. Tôi có vịt xiêm Đại bàng, em vịt vàng nhỏ và một con chim sáo rất khôn, lần nào cũng bay xuống đậu lên vai lúc tôi đi học về. Tư có bà mẹ quê với bộ mặt sạm đen và bàn chưn chai nứt. Tôi có bà già quê hương với nụ cười tre trúc và bàn chưn nứt nẻ phù sa. Và còn nhiều thứ nữa, như viết văn, như lo chuyện trên trời dưới đất, như nhớ sông nhớ nước, như thương cây mắm tiếc cây bần chẳng hạn. Không thấy Tư nói về những mối tình đầu hay tình cuối của mình. Còn tôi, tôi có Hoa, nụ hôn đầu tiên bên bờ sông Định tường. Tôi có Tuyết, người tình quán nước Tiền giang thuở học trò, người con gái đã cùng tôi chia sẻ những nhục cảm đầu đời, hoan mê, chết giấc.

Nhờ Tư, thình lình tôi sực nhớ lại hết những người đã ân cần dìu dắt tôi đi suốt một quãng đường dài đầy bất ngờ, cho tôi nhận ra rằng, dù tôi có vấp ngã nhiều lần, cuộc đời này vẫn hết sức vồn vã, hết sức nồng nàn, hết sức đẹp đẽ. Những người thân, những cô gái đã cùng tôi chia sẻ một thời những cuộc tình hừng hực, những mái nhà ấm cúng, những bữa cơm đạm bạc, những vui buồn lớn nhỏ, giờ đây đã nằm sâu trong lòng đất. Lần nào về thăm quê hương, tôi cũng cố lặn lội đường sá trắc trở để được tới quỳ lạy và thắp một nén nhang tưởng niệm trên mộ ba má mình. Nhưng mộ của Tuyết, tôi không biết nó nằm nơi nào, và cũng chưa hề một lần tới thăm. Trải qua biết bao cuộc binh đao ngụt trời lửa sắt, biết bao cuộc tang thương vật đổi sao dời, ngôi mộ vùi chôn thân thể dấu yêu một thời ôm ấp, giờ đây chắc chỉ còn là một nấm đất mòn lạng hoang tàn...

Mưa Hậu giang nắng Tiền giang
Nhiều đêm không ngủ dạ mơ màng
Nhớ người nhớ đất mùi quê cũ
Ôi nắng Tiền giang mưa Hậu giang!


Bagnolet, ngọai ô Paris
Tháng mười 2007

Kiệt Tấn
Không gian… của Nguyễn Ngọc Tư

Nguyên Ngọc


Tôi vừa xuống Cà Mau. Và tất nhiên bây giờ Cà Mau… tức là Nguyễn Ngọc Tư. Thậm chí - tôi xin lỗi hết cả bà con Cà Mau, và xin lỗi cả Tư nữa - quả thật không biết nếu như không có Nguyễn Ngọc Tư thì Cà Mau có còn hoàn toàn là Cà Mau bây giờ không. Tất nhiên vẫn là Cà Mau, nhưng sẽ là một Cà Mau có thể nhỏ hơn một chút, thiếu hơn một chút, thiếu cụ thể điều gì thì cũng thật khó nói, nhưng rõ ràng là sẽ thiếu, thiếu một điều gì đó đang làm cho không gian Cà Mau không rộng và sâu, xa, gần và hiện đại được như bây giờ khi có cô nhà văn ấy.



Tôi gặp Nguyễn Ngọc Tư ở Cà Mau lần đầu là cách đây đâu khoảng mươi năm (vừa rồi cô ấy xác nhận lại trí nhớ của tôi, cô bảo cô xin về làm ở hội Văn nghệ Cà Mau đến nay vừa đúng mười năm). Bữa đó ngồi với anh chủ tịch hội (anh ấy bây giờ vẫn là chủ tịch hội), tôi nói linh tinh những chuyện gì đó không thể nào nhớ được nữa. Thỉnh thoảng lại thấy có một “con nhỏ” chạy vô chạy ra rót nước, đôi lúc dừng lại một chút chừng lắng nghe chúng tôi. Và hình như hơi cười. Bây giờ nghĩ lại lo quá, không biết bữa đó mình có bốc đồng nói linh tinh những gì to tát hùng hồn về văn chương không. Bởi vì “con nhỏ rót nước” đó chẳng bao lâu sau sẽ là… Nguyễn Ngọc Tư.

Thật tình khi Tư bắt đầu được dư luận chú ý tôi cũng không nhớ rõ “con nhỏ rót nước” bữa đó lắm, chỉ loáng thoáng hình ảnh một cô gái trẻ rất quê, mặt mày cũng không lấy gì làm sáng sủa, hình như là mặc chiếc áo xanh, suốt buổi chỉ chạy lên chạy xuống châm nước, sau đó chạy đi đâu đấy hơi lâu, chắc là ra ngoài phố đặt tiệc cho anh chủ tịch hội tiếp khách thủ đô về… Những lần gặp Tư sau này, lúc ở Hội An, lúc Sài Gòn hay Hà Nội, cũng chỉ chào qua năm ba câu, ở những cuộc hội họp long trọng ồn ào ấy Tư rất ít nói, ít xuất hiện, thường lủi thủi một góc vắng, ngồi sau một cây cột to chẳng hạn, vẫn rất quê, và không như nhiều người viết trẻ thường thích làm quen đôi khi đến sấn sổ với những ông già đã nổi tiếng. Tôi để ý chưa bao giờ Tư tỏ ra muốn bắt quen với tôi, gặp nhau tôi hỏi câu gì thì cô trả lời câu ấy, rất ngắn, đại khái cũng chỉ những chuyện bâng quơ về sức khoẻ, đang viết gì, có hay ra ngoài này (Hà Nội) không, trong ấy (Cà Mau) bây giờ thế nào, anh A hay chị B có còn ở vị trí nào đó không… Vậy mà, tôi biết, hình như chúng tôi có hiểu nhau, rằng cái sự ồn ào, hào nhoáng kia chẳng có nghĩa lý gì, cả cái hội hè kia nữa, cũng là để mà chơi đấy thôi, văn chương là một cái gì đó rất khác, vừa bình thường vừa bí ẩn, riêng tư và… cô độc, cô đơn hơn rất nhiều… Rồi đến cái vụ Cánh đồng… Tôi đã có lần nói rồi, và lần này xin nói lại, và trước khi nói tất nhiên phải xin lỗi tất cả những người cầm bút: Để mà tính chuyện đi ra thế giới, tức là cái mà người ta gọi là mở rộng không gian văn học, và như thế cũng tức là không gian đất nước, ra với thế giới, với bàng dân thiên hạ, tức là cái sự bây giờ được gọi một cách nghiêm trang và hơi lo sợ là “hội nhập”, mà không phải sợ bất cứ ai hết, thì theo tôi trong văn học hiện đại ta có thể có mấy cái: Số đỏ của Vũ Trọng Phụng là một, một số truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp là hai, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là ba, và nay là Cánh đồng bất tận. Tôi nói thế này mà không sợ quá đáng đâu: Với Cánh đồng bất tận, văn chương ta bước vào toàn cầu hoá hôm nay một cách đàng hoàng, cùng và ngang bằng với những giá trị nghệ thuật và nhân văn của toàn cầu, chẳng phải nể ai hết. Nó đưa văn chương, và như thế cũng là con người của ta, ra toàn cầu, để cho toàn cầu biết rằng ta cũng là con người chẳng hề thua gì họ.

Chuyện Cánh đồng… bị đánh tơi bời như thế nào, ai cũng biết rồi. Tôi thậm chí còn biết không chỉ ở cấp tỉnh lẻ và trong những người làm công việc gọi là văn hoá tư tưởng, mà cả một số người làm văn chương hẳn hoi nữa kia. Và tôi còn biết, rất cụ thể, một vị chức sắc cao vòi vọi, từng không hề tiếc lời chửi bới nó cực kỳ thậm tệ. Cũng chẳng có gì lạ. Một số người, kể cả người cầm bút nữa, không hiểu gì văn chương cũng là chuyện thường. Và cũng không ai bắt một vị có chức quyền loại lớn phải hiểu thấu văn học. Có lẽ điều đáng nói, đáng kể hơn nhiều lại là ở ngay một số người… bênh vực Cánh đồng... Họ hăng hái, nhiệt tình, sôi nổi, cả hùng hổ nữa bênh vực Cánh đồng... bằng cách ra sức la to lên rằng ai kia mắng mỏ con nhỏ thì cứ chịu khó xắn quần cởi dép về đây mà coi, “cánh đồng” ở cái xứ này còn tệ gấp trăm lần “cánh đồng” của Tư… Nghĩa là rất buồn, và tôi biết Tư cũng buồn lắm về điều này. Họ yêu Tư, quý Tư, nhưng cũng chỉ đến mức hiểu Tư là một nhà văn rất hiện thực của Cà Mau, của miền Tây, là một cây bút dũng cảm dám nói lên những sự thực tăm tối và đau lòng đang còn tràn lan trên vùng đất đẹp và đáng yêu biết bao này. Họ phẫn nộ vì những kẻ “đánh” một cây bút to gan dám nói lên tất cả sự thật. Tư buồn không phải vì những người đánh cô đến té tát. Cô buồn vì những người yêu cô mà chẳng phải vì những điều cô đau đáu muốn nói về cuộc đời. Nguyễn Ngọc Tư nào có muốn nói về một Cà Mau, một miền đất. Chẳng qua cô gửi vào cái khung cảnh ấy, trên đất đai ấy, mà cô quen cô thuộc hơn bất cứ nơi nào trên thế gian này, một kiếp người, những kiếp người, hạnh phúc nhọc nhằn và đau khổ muôn đời của con người, cái chất thiên thần và quỷ sứ trộn lẫn bất trị, không gì không bao giờ chữa nổi trong con người. Và cô làm ra cái sản phẩm đã đưa văn học ta ra khỏi tình thế cám cảnh tỉnh lẻ của cái thời kéo dài “văn học phục vụ”, “văn học đi thực tế”, “văn học bám sát đời sống thực tế”, văn học “mũi nhọn mũi tà”… Nó đưa văn học trở lại là văn học, thế thôi, chẳng của gì hết. Và vì vậy, nó khiến văn học ta, cả chúng ta nói chung nữa, cũng “toàn cầu hoá” như ai. Nó tạo không gian mới cho chúng ta hít thở kiểu mới cùng thiên hạ…

Tôi xuống Cà Mau và được Nguyễn Ngọc Tư dẫn đi chơi, xuống Mũi (để xem một cái mũi đất Cà Mau đang bị bê tông hoá!), vào rừng U Minh để được lội giữa những rừng tràm tuy đã xơ xác nhiều so với những lần tôi đến trước đây nhưng thiên nhiên vẫn mạnh lắm, con người tàn bạo thế vẫn chưa tàn phá nổi hết rừng, chưa xoá đi hết được cái hoang dã mãi mãi lạ lùng của U Minh… Đi chơi với Tư ở Cà Mau rất thú, rất khác những lần gặp cô trong các cuộc hội họp văn chương. Bây giờ là một Nguyễn Ngọc Tư rất Tư, hình như có gầy hơn đôi chút so với những lần gặp trước, trông lanh lợi và sành sõi hẳn ra, sẵn sàng hiện đại nữa, hơi “ngầu” một chút, đôi lúc cũng ồn ào rồi chợt lắng đi, rất lặng, rất riêng, thậm chí có gì đó như chừng hơi khinh khỉnh... Tôi hiểu, người viết văn nào cũng vậy, cô gái tài năng này càng vậy, tinh ý một chút có thể cảm thấy cô vẫn giữ một khoảng cách với tất cả những gì đang diễn ra quanh mình, cái khoảng cách có lẽ chỉ những người sáng tác mới biết và hiểu được, vừa nhập cuộc đến cùng, vừa vẫn tách ra cô đơn, sự cô đơn không có nó thì không bao giờ thật sự có sáng tạo nghệ thuật. Cô đơn và lúng túng mãi giữa cuộc đời. Ở gần Tư và trong không khí này, hình như “ngửi” ra được cái mùi rất người và rất đời đó, nó làm cho cô ấy quả thật sự là một nhà văn, một nhà văn đã làm cho văn học ta ngang hàng với bất cứ ai, bởi vì, vậy đó, hình như nhà văn là người được sinh ra để mãi mãi nói lên cái lúng túng mãi mãi không sao thoát nổi của kiếp người. Ông già kỳ cục và cô con gái cũng kỳ cục không kém của ông trong Cánh đồng bất tận đấy, chẳng phải là họ quá lúng túng cái lúng túng của kiếp người, rất người đó sao?

… Ngồi trên vỏ lãi chèo vào rừng U Minh, Tư nhẹ nhàng báo tin cho tôi biết chỉ mấy ngày nữa cô sẽ chính thức thôi việc ở hội Văn nghệ tỉnh, mọi thứ đã xong, chỉ còn thủ tục ra đi. Vẫn sống ở Cà Mau nhưng làm một việc gì đó khác ở Sài Gòn. Im lặng một lát rồi cô nói tiếp, có lẽ cô sẽ dừng viết tạp văn một thời gian. Cũng như một cái hũ rượu ấy mà, cô bảo, ngày nào mình cũng giở nắp ra, miết rồi nó bay hơi hết, cho đến khi nhạt thách. Cô muốn chôn sâu nó một thời gian, có lẽ sẽ là dài, để cho nó sánh đặc lại. Ôi cái con nhỏ rót nước cho anh chủ tịch trang trọng tiếp khách ngày nào, hoá ra đấy mới là người biết nén không gian lại cho đến đặc sánh, để cho nó thật sâu và rộng ra, có sâu và rộng như vậy thì rồi ta mới có được cái không gian gọi là “toàn cầu” cùng thiên hạ. Cái không gian mà ta vẫn tưởng chỉ có thể tạo nên được bằng kinh tế, hay chính trị, hay gì gì đó...

Tôi về Cà Mau thăm Nguyễn Ngọc Tư, và tôi yên tâm rằng ta có thể “toàn cầu hoá” cùng thiên hạ, có thể có được không gian ao ước với đầy triển vọng và thách thức ấy, chẳng lo gì. Khi văn học, cũng là văn hoá, đã đi được một bước như vậy...

Những ngày cuối cùng của năm 2007

Nguồn: Sài Gòn Tiếp Thị, 1-2-2008

Bản gốc của tác giả
(Bài đã đăng trên một Tạp chí Xuân Mậu Tý)

Cái rầu bất tận
của Nguyễn Ngọc Tư

Kiệt Tấn


chiều chiều chim vịt kêu chiều
bâng khuâng nhớ bạn chín chiều ruột đau



Nắng Tiền giang mưa Hậu giang
Mưa kín chân mây nắng rộn ràng
Lòng mong nắng đến chờ mưa tới
Mưa nắng trong tôi nghĩa đá vàng


Tôi thả những dòng thơ này trên sóng nước phù sa sông Tiền sông Hậu từ cuối thế kỷ trước. Tới đầu thế kỷ sau tôi mới đón nhận được, qua văn chương, những trận nắng dữ tợn miệt Tiền giang và những cơn mưa hiền hậu miệt Hậu giang trên da thịt mình. Tập truyện ngắn Cánh đồng bất tận và quyển Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư đã ấm áp lọt vào vòng tay ân cần của tôi vào tháng sáu năm 2006, nhân dịp tôi về thăm quê hương. Thời gian đó ở miền Nam trời mưa hoài mưa hủy, mưa dai mưa dẳng, mưa dầm mưa dề, mưa không dứt hột. Mà mỗi khi mùa mưa tới, mỗi khi mưa xuống là tôi thèm yêu, thèm được thất tình, thèm được chết vì quá yêu một cô gái nào đó. (Mà sao không thể là Nguyễn Ngọc Tư, dù chưa một lần tạn mặt?)

Tôi đọc miên man Cánh đồng bất tận (CĐBT), gối kê đầu giường. Tôi mê mải đọc Nguyễn Ngọc Tư (Nguyễn Ngọc Tư) trong những chuyến xe đò chở tôi xuôi ngược trên những con đường quê hương. Mưa Tiền giang nắng Hậu giang, Trời cao đất rộng chiếc diều băng. Cò bay thẳng cánh đo đồng ruộng, Chín cửa ra khơi mộng hải bằng. Những câu văn đậm tình sông nước, cuồn cuộn phù sa của Nguyễn Ngọc Tư làm nhớ bài thơ Tiền giang Hậu giang của tôi đã viết cách đây hơn mười năm. Nắng Hậu giang mưa Tiền giang, Nhìn nhau mà lệ rớt hai hàng… Dạt dào… xào xạc… bì bõm…

Tôi sinh đẻ tại Bạc liêu có biển nhãn lấn tràn minh mông, mút mắt. Thời đó, phong trào chống Pháp bắt đầu bộc phát. Tới năm 9 tuổi tôi theo gia đình lên định cư ở Vĩnh long sông nước tư bề, vào trung học. Từ miệt đồng ruộng phì nhiêu tôi dời lên miệt vườn hoa lá sum suê, um tùm bốn phía. Tôi được nuôi dưỡng bằng không khí thơm tho bùn đất và những dòng máu thắm đỏ phù sa, chằng chịt như sông ngòi quấn quít đồng bằng Cửu long. Chín con rồng biển đã cưu mang tôi từ lúc tôi mới tượng hình, có chút xíu, lớn chưa bằng đầu ngón tay.

Tư cũng chào đời tại Bạc liêu (Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư, trang 189), vùng đất có rừng bần lấp loáng sáng trăng những đêm rằm trong trẻo. Một năm sau “giải phóng” 75. Đến năm 4 tuổi thì Tư trôi giạt về Cà mau, để rồi quấn hết chưn tay mình mẫy của mình vào cuộc đất này như đôi tình nhân nguyện thề từ muôn vạn kiếp. Cỏ mọc bờ giếng cheo leo, Lâm chung có bậu hiểm nghèo có qua. Sinh ra từ đất Hậu giang, Tư vẫn cứ một dạ thủy chung với cuộc đất này. Từ rừng bần sáng trăng, Tư trôi giạt về tử thủ vùng đất ngập nước có rừng mắm khua động dưới từng nhịp chèo, từng mái dầm bơi xới dòng phù sa ngầu đục “Bạc liêu là xứ quê mùa, Dưới sông cá chốt trên bờ Tiều châu”. Xứ quê mùa thì sanh ra giọng nói quê mùa: “Bắt con cá gô bỏ dô gổ, nó nhảy gồ gồ gột gột” Hoặc “Gầu ghĩ gâu ghia ga gậm gạp. Gờ gâu gâu gụng gờ gún gún gung ghinh”. Tình cờ tôi và Nguyễn Ngọc Tư đã ràng buộc nhau bởi đất đai, bởi sông ngòi, bởi cá tôm và cách nói của miền nước nôi sông Hậu hiền hòa từ hồi nào không biết. Có lẽ nhờ vậy mà tôi cảm nhận được tận tường hơn những gì tuôn chảy ra dưới ngòi bút của Tư chăng? Mưa Tiền giang nắng Hậu giang, Phù sa lớp lớp bón đồng bằng. Thương hồ kết nghĩa cùng châu thổ, Hò ớ tan hòa theo nước trăng…

Đọc hết CĐBT, tôi gặp lại cái tình bà con đậm đà của người Hậu giang, gặp lại cách cư xử ân cần tử tế, gặp lại lời nói cục mịch, gặp lại dòng sông con rạch ngầu đục, gặp lại tô mắm kho thơm phức, cọng bông súng dòn rụm, gặp lại cái không khí ôi sao mới là quen thuộc! Quen thuộc... nhưng mà buồn. Buồn vì những hoàn cảnh khắc nghiệt, éo le, ngang trái. Buồn vì những lỡ làng, cách biệt, hắt hủi. Buồn vì những đổi thay khiến cho con người nơi đây vơi bớt đi lòng tử tế, vơi bớt đi cái tính tình chơn chất và lòng tin cậy nguyên thủy. Cái buồn man mác dàn trải trên khắp các truyện kể. Buồn, nhưng vẫn tiếp tục đọc.

Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư cũng là những câu truyện kể --tôi chỉ còn nhớ loáng thoáng. Càng đọc tôi càng thấm nặng cái buồn. Rất buồn! Buồn muốn lâm bịnh. Và lại thêm ngột ngạt, ngao ngán. Cho tới lúc tôi đành bỏ dở nửa chừng. Buồn quá, chịu hết nổi. Tôi buông sách bỏ đi theo bạn bè nhậu nhẹt giải khuây, đi bia ôm, karaôkê, trà đình tửu quán. Rồi dần dà nguôi ngoai. Tôi lãng quên dần dần... Vai mang bầu rượu chiếc nem, Mãng say quên hết lời em dặn dò... Và rồi tôi cũng bỏ quên luôn quyển Tạp văn của Tư lại quê hương. Tư mà biết được chắc buồn. Buồn năm phút!

Rồi một năm qua, hai năm qua... Cho tới một bữa nọ có cô cháu tình cờ chợt quăng câu hỏi lớn lên không trung (rớt xuống u đầu!): “Sao chú là cây bút miền Nam mà chú không viết về cô Nguyễn Ngọc Tư, cũng là người miền Nam như chú?” Tôi thêm: “Hơn nữa Tư lại là người miệt Hậu giang, cũng như chú!” Ờ hả, sao kỳ vậy? Tôi biểu cô cháu tìm cho tôi các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư để tôi đọc lại. Biết đâu chừng sẽ có hứng viết một bài về Nguyễn Ngọc Tư. Không phải một bài thuộc loại phê bình văn học (bỏ đi tám!) mà là một bài theo kiểu “điểm sách” nhằm giới thiệu ngòi bút và các truyện ngắn đặc sắc của Nguyễn Ngọc Tư với bạn đọc. Người viết sẽ không lên tiếng thay cho tác giả mà sẽ để cho chính Nguyễn Ngọc Tư trực tiếp nói lên cảm nghĩ của mình qua các trích đoạn rải rác trong các tác phẩm. Người viết tránh suy diễn ý nghĩ của tác giả, hầu bảo toàn sự trung thực của sáng tác, đọc và cảm nhận như thế nào thì cứ viết y chang như vậy, không thêm không bớt, cho nó giữ được cái “truyền thống” ăn ngay nói thiệt, cục mịch quê mùa “con cá gô nhảy gồ gồ gột gột” của miệt Hậu giang ta.

Lần này tôi có được trong tay 4 tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư, tất cả đều do nhà xuât bản Trẻ Sài gòn ấn hành. Tôi sẽ tuần tự đọc theo thứ tự thời gian vào lúc tác phẩm xuất hiện lần đầu, hầu theo dõi diễn biến cách dựng truyện và bút pháp của Nguyễn Ngọc Tư theo thời gian. Tuy nhiên, để quân bình việc trình bày, bài viết sẽ được chia làm hai phần:

Bài 1, Cái rầu bất tận của Nguyễn Ngọc Tư, sẽ đề cập tới hai tác phẩm sau:
. Ngọn đèn không tắt (2000, in lần 4/ 85 trang)
. Cánh đồng bất tận (2005, in lần 5/ 213 trang)
Bài 2, Sông nước Hậu giang và Nguyễn Ngọc Tư, sẽ điểm hai tác phẩm còn lại:
. Giao thừa (2003, in lần 1/ 161 trang)
. Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư (2005, in lần 1/ 193 trang)


***

Nắng Tiền giang mưa Hậu giang
Sông Tiền Mỹ thuận đợi đò sang
Cần thơ sông Hậu sang đò nữa
Chở xuống Cà mau ngập chuyến hàng

Hãy lấy chuyến xe đò sớm nhứt về Cà mau thăm Nguyễn Ngọc Tư khi trời còn mát mẻ. Về thăm Tư để coi Ngọn đèn không tắt của Tư nó có còn tiếp tục cháy nữa hay không, và nếu còn cháy thì coi coi nó sáng tới mức nào.

Trước khi giở tập truyện mỏng 85 trang này, tưởng cũng cần nhắc lại bối cảnh lịch sử cận đại của đất nước ta để đặt dấu mốc cho những cái nhìn cá biệt đến từ nhiều phía. Tôi thuộc thế hệ sanh ra trong những năm 40 nên lãnh trọn 30 năm chiến tranh đằng đẵng trên cái đất nước yêu dấu tang thương ngậm ngùi này: chiến tranh Pháp Việt (1945-54), chiến tranh Mỹ - Quốc - Cộng (1954-75). Kết thúc bằng ngày 30 tháng tư 1975, Cộng sản Bắc Việt xô quân chiếm trọn miền Nam – mà phe thắng trận gọi là ngày “giải phóng” (!) – và áp đặt chế độ cộng sản trên toàn lãnh thổ. Để rồi hơn 10 năm sau, bắt buộc phải Đổi Mới, chạy theo kinh tế thị trường của khối tư bản hầu bảo vệ Đảng ta khỏi bị nhân dân nổi loạn vì thiếu thốn mọi bề, đứng lên lật đổ. Chào đời sau “giải phóng”, tuy không trực tiếp nếm mùi chiến tranh, nhưng thế hệ của Tư cũng bắt buộc phải gánh chịu hậu quả tang thương đổ nát nặng nề trên khắp cùng đất nước mà cuộc chiến tranh dài nhất thế kỷ 20 đã để lại.

Ngọn đèn không tắt, tiêu đề cho toàn tập, cũng là tựa của bài viết đầu tiên khi người đọc bắt đầu bước vào thế giới chơn chất thiệt thà của Tư. Tại sao ngọn đèn không chịu tắt? Tại vì người ta muốn duy trì cho nó cháy hoài. Ngọn đèn đó là cái tinh thần khởi nghĩa khi xửa khi xưa, đã lâu lắm rồi, có lẽ từ hồi thời thuộc địa Tây. Nhưng muốn duy trì cho nó cứ tiếp tục cháy hoài thì hằng năm, tại cái Xóm Rạch nhỏ xíu này, xã tưng bừng dựng cờ đỏ chói và gởi thơ mời các cựu lão ông tới ủy ban để “nói chuyện khởi nghĩa”

Ông Hai Tương trong xóm được mời tới đều đều để nói chuyện hằng năm vì ông đã tham gia khởi nghĩa và có thành tích lớn từ hồi nẵm. Vì nay ông đã già yếu nên Tươi, cô cháu nội nhỏ tuổi (học lớp chín) được đặc phái đi theo để chăm sóc ông nội mình.

“Con Tươi ngồi chắt nước cơm ngoài sau bếp, than trong bụng: “Mấy chuyện đó kể muốn thuộc lòng rồi, bắt kể hoài, bộ mấy ổng hổng chán sao?” (trang 9). Nhưng có sao đâu! Cô gái nhỏ dù sanh sau đẻ muộn, nhưng vì đại cuộc, cũng đã cất tiếng trả bài sang sảng trước bà con ta để khơi lại ngọn lửa khởi nghĩa đang có mòi tàn lụn của ông cha mình – dù sao cũng là anh hùng cứu nước hay là bà già giết giặc hết trọi đó chớ giỡn chơi sao! “Cô gái nói lời của ba cô năm trước, nói lời của ông nội cô năm trước, năm trước nữa. Cô nói lời của lịch sử. Mà lịch sử là thứ không thay đổi” (trang 17) Quá đúng! Đúng hết sẩy. Cô gái đã chinh phục được cảm tình và sự chăm chú của ủy ban và bà con trong xóm có mặt tại bữa họp do xã tổ chức. “Nhưng trong lời cô có cái nhiệt tình tuổi trẻ, trong mắt cô có màu đen sẫm của vốc đất bãi bùn, và cô dựng xương thịt cho cuộc khởi nghĩa bằng nét mềm mại của người con gái nên câu chuyện của cô rất sâu sắc và thu hút người khác” (trang 17). Hoan hô! Hoan hô em nhỏ! Rồi đang “khởi nghĩa” nửa chừng, câu chuyện bỗng đâm hơi bắt sang chuyện thêu thùa áo gối của Thầy (cầm đầu khởi nghĩa) chung với bà nội mình hồi trưóc – chi tiết lạ lùng mà không một ai biết được. Nhưng may thay, cô gái nhỏ đã kịp thời lèo lái mọi người quay trở lại cái “tuồng ruột” của mình để giữ cho ngọn đèn khởi nghĩa đừng có đứt bóng bất tử. Cô kéo mọi người hướng trọn hết tâm can tới lời trăn trối của Thầy: “Thầy biểu mấy chú, à không mấy chú giữ đèn hải đăng cho nó đừng tắt. Và khi chiếc tàu chạy vào Xóm Rạch rồi, ngọn hải đăng vẫn cứ nhìn theo cháy hoài, cháy hoài, cháy hoài...” (trang 19). Dĩ nhiên cây hải đăng phải cháy hoài cháy hoài mới nuôi được ngọn lửa hy vọng trong lòng bà con Xóm Rạch. Vì hy vọng, từ xưa tới nay, vẫn nuôi cho người ta sống. Sống để mà tiếp tục... hy vọng. Và rồi đây sẽ có ngày hy vọng cũng mệt mỏi buông tay cho bà con trong xóm chết đuối trong chờ đợi mỏi mòn. Hay là khi ngọn hải đăng “khởi nghĩa” tắt rồi, bà con ở cái Xóm Rạch nhỏ nhít này sẽ lặng lẽ chết âm thầm trong bóng tối lịch sử.

Nhưng bánh xe lịch sử vẫn cứ ngon trớn lăn tới trên con đường một chiều, không một ai cản nổi. Một khi kinh tế khá lên rồi thì Cách mạng bắt đầu phân phát ân sủng cho những người “khởi nghĩa” có công lớn: cất nhắc cho làm chức lớn tương xứng với công lao của mình. Đúng theo cái đường lối mà một đàn anh lãnh đạo đã đề ra: “Mấy em theo mình cực khổ từ trước tới nay cũng đã mệt lắm rồi. Phải cho mấy em nó hưởng một chút!” Cũng bình thường thôi. Mà một khi có quyền rồi thì người ta muốn có tiền, thiệt nhiều tiền – cũng rất bình thường. Muốn có thiệt nhiều tiền thì người ta bèn tham những hoặc thâm lạm công quỹ – cũng rất bình thường. Đó là bối cảnh cho truyện Nỗi buồn rất lạ (tr 31): Ngày xưa Tư Đờ vốn là một tay du kích nổi tiếng lì. “Tụi Ngụy ngoài chợ Rạch Ráng nghe nói tên Tư Đờ là thiếu điều té đái” (tr 35). Nay thắng trận rồi, Tư Đờ được Cách mạng ghi ơn cử làm giám đốc công ty xuất nhập khẩu. “Không biết thế nào, công ty ông ta thâm hụt mấy tỉ mà ông thì ngày một giàu” (tr 36). Mấy tỉ đây là tỉ đồng Việt Nam chớ không phải là tỉ đô la Mẽo đâu nghen - đừng có nghèo mà ham! Đổ bể, Tư Đờ bị bắt và đi tù – rất bình thường? Nhân vật nhà báo xưng “tôi” về nói lại với ba mình vốn là đồng chí du kích đã từng sống chết với Tư Đờ cả chục năm hồi thời kháng chiến. “Biết bao nhiêu lần tụi giặc càn vô vùng căn cứ Xóm Xẻo, tụi tao đánh giạt hết. Tao nè, Tư Đấu (Đờ?) nè, bác Mười Mực của mầy nè... bây giờ đứa còn đứa chết” (tr 36). Bởi lẽ đó, khi nghe con mình nói là Tư Đờ đã xộ khám, ba nhứt định không tin, mặc dù thằng con cứ nhắc khéo: “Làm kinh tế mà ba, đâu liên quan gì tới chuyện đánh giặc. Sẩy chân là chuyện thường” (tr 36). “Cái thằng này! Mầy nói cái gì mà kỳ cục vậy mậy? Tao nghe không có lọt lỗ tai!”

Bởi lẽ đó, mặc cho ai có nói gì thì nói, ông già vẫn cứ một mực không chịu tin. “Bây nói vậy, chớ làm lớn ai cũng hư hết sao? Tao coi ti vi, coi tụi bây viết, hễ làm giám đốc là phải có bồ, phải tham lam tiền bạc, phải ăn chơi. Tao hổng chịu” (tr 37). Thằng con cắt nghĩa nữa, ông già vẫn cứ gạt ngang: “Nhưng tao muốn nghe thằng Tư Đờ nó nói, nói thẳng thắn, thật thà, nó phải nói với tao sao mà tới nông nỗi như vậy, nó phải trả lời bà con Xóm Xẻo, chỗ bà con cưu mang nó mười mấy năm trời” (tr 42). Ông già không hiểu nổi cái sự thể đồng chí anh hùng cứu nuớc Tư Đờ oanh liệt của ông ngày xưa mà giờ đây xộ khám à? Không hiểu cũng phải, vì bây giờ ông vẫn còn tiếp tục cày ruộng, gặt lúa, tiếp tục “đầu tắt mặt tối, mưa nắng dầu dãi, nghèo vẫn hoàn nghèo” (tr 40). Có lẽ vì không hiểu nổi nên ông già đành phải níu vào một cái lý do, một cái cớ nào đó để mà tự an ủi, cho dù là một cái cớ hết sức mơ hồ, một cái lý do hết sức vu vơ. “Làm lớn, cũng khổ tâm lắm... Câu cuối cùng ông buông xuống, nhẹ như một tiếng thở dài” (tr 42). Và khi câu này đã buông xuống rồi thì giữa ông già và thằng nhỏ, ai buồn hơn ai? “Khi chuyến tàu chạy tuyến Cái Nước xa rồi, sao tự nhiên tôi buồn, buồn quá! Nỗi buồn này nặng hơn, trong suốt và nhiều gai nhọn hơn nỗi buồn của ba tôi” (tr 42). Giữa ông già và thằng con, ai mới thiệt sự là người thất vọng, và thất vọng ê chề? Dù không chi li, nhưng bằng một cách khéo léo qua lối kể truyện, Tư vạch cho thấy tâm lý các nhân vật của mình một cách tài tình. Nỗi buồn của thằng con, một nỗi buồn nặng nề, trong suốt và nhiều gai nhọn.

Tuy nhiên, trong cái không khí thất vọng não nề và buồn hiu đó, Tư cũng cố gắng đẩy ngòi bút mình vào một niềm vui lớn: đợt xóm kéo điện về. Trang 39 nhắc lại cái ngày lịch sử đó: “Cái xóm nhỏ oai hùng, cái xóm nhỏ nghèo quê tôi hai mươi sáu năm sau giải phóng người ta thấy được ánh điện đầu tiên trong đời. Người già Xóm Xẻo uống trà quạu thức sáng đêm nhìn bóng đèn điện cho đã con mắt” (tr 39). “Đã” như vậy mà đã “đã” chưa? Chưa! “Cái ánh sáng làm cho người ta tự tin lên. Còn tụi con nít bị đánh quắn đít mà dỗ hoài vẫn không ngủ được, tụi nó tưởng còn ban ngày” (tr 39). Tuy khóc mà là khóc trong niềm vui, khóc trong niềm hoan lạc của cái Xóm Xẻo nhỏ nhít mà thân thiết cật ruột. Và nhứt là oai hùng! Cái chi tiết nhỏ nhoi ngộ nghĩnh mà hết sức tuyệt vời!

Tập truyện đầu tay NĐKT của Nguyễn Ngọc Tư được viết bằng loại mực tím than còn thơm mùi học trò. Bút pháp có những cái vụng về dễ thương mà lúc càng viết nhiều về sau này, đôi khi người ta thầm tiếc hùi hụi cái chất “học trò” bây giờ đã mất đó. Như một trinh nữ ngồi buồn nhớ lại, và chắt lưỡi... “Hỏi anh anh nói học trò, Sao em lại thấy anh cỡi bò hôm qua?” Truyện kể còn lan man, lộn xộn, thiếu mạch lạc và chưa thành hình rõ rệt. Đại khái, vẫn còn “Ngổn ngang” như một cái tựa truyện của Tư (tr. 60) trong NĐKT.

Tuy nhiên, ở thời buổi đó, ở cái tuổi đó, Tư viết như vậy kể như cũng đã là “được” lắm rồi.

***

Nắng Hậu giang mưa Tiền giang
Bạc Liêu ghiền cốm dẹp Sóc Trăng
Chắc Băng cọp rống Đầm Dơi hú
Ai đâm Hà bá miệt Năm Căn?

Đi vào thế giới của Nguyễn Ngọc Tư, thỉnh thoảng chợt bắt gặp lại những địa danh tưởng chừng như đã mất tiêu trong cơn lốc lịch sử phừng phừng lửa sắt vừa qua: Đầm Chim, Đầm Dơi, Chắc Băng, Cạnh Đền, Gành Hào, Năm Căn, U Minh, Trèm Trẹm, Mút Cà Tha… Rồi những tên đất, những tên rạch, những vàm, những xẻo, những làng, những xóm… ôi thôi kể sao cho hết! Đối với những người thuộc địa phương khác thì những cái tên đó vô cùng xa lạ, hờ hững. Nhưng đối với những người đã từng lội bùn và tắm nước đục Hậu giang thì nó thân thiết vô cùng. Tên sông tên đất vang dội trong lòng như tiếng vượn hú không nguôi trong cánh rừng già. Hay tiếng mái dầm chợt đập chát trên mặt nước sông trong buổi chiều sẩm tối. Như một tiếng nhắn nhủ, như một lời mời gọi: “Về thăm! Về thăm em đi anh!”

Hãy thả chiếc xuồng nhỏ ba lá bơi vào Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư. Sẽ bắt gặp những doi đất nhô xa, những rừng mắm um tùm, những rừng tràm đặc khít, đám mái dầm vươn cao, lùm ô rô gai góc, những đàn cá lội nhởn nhơ, những bầy vịt chạy ùn ùn trên ruộng đồng xa tắp. Những cánh đồng... những cánh đồng... và những cánh đồng... Những cánh đồng không tên, chỉ được ghi nhớ bằng một chi tiết nho nhỏ, một kỷ niệm lạ lùng còn giữ được từ nơi đó. Bằng không sẽ không có cách gì nhớ nổi. “Bây giờ, gió chướng non xập xòe trên khắp cánh đồng Bất Tận (tên này tôi tự dưng nghĩ ra)” (tr. 208). Bằng linh tính bén nhạy, bất thần Tư tìm ra được tên gọi cho cánh đồng minh mông mình đang đi qua: Cánh đồng bất tận. Bất tận như một nỗi buồn. Như một buổi chiều chạng vạng trời mưa lâm râm, ngồi ngó trời đất minh mông mà rầu rĩ một mình. Cánh đồng bất tận. Hay là “Cái rầu bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư?

Mưa Hậu giang nắng Tiền giang
Nhiều đêm không ngủ dạ mơ màng
Nhớ người nhớ đất mùi quê cũ
Ôi nắng Tiền giang mưa Hậu giang!

Tập truyện Cánh đồng bất tận, 213 trang, chia làm 14 bài viết. Có 5 bài đã xuất hiện trong tập Giao thừa: Cái nhìn khắc khoải, Hiu hiu gió bấc, Cuối mùa nhan sắc, Nhớ sông, Dòng nhớ.

Bắt đầu CĐBT là một cuộc tìm kiếm trên khắp hang cùng ngõ hẹp của ông già Năm Nhỏ. Cất tiếng gọi lớn: “Cải ơi!” (tr.7). Ông Năm tìm kiếm lăng xăng đứa con gái của mình. “Lúc nhỏ Cải mười ba tuổi, một bữa mê chơi làm mất đôi trâu, sợ đòn, nó trốn nhà” (tr. 8). Rồi trong cuộc tìm kiếm vô vọng, một đêm nọ ông Năm chợt biến thành “Tên trộm đãng trí”: ông đi ăn trộm trâu của người khác. Bị bắt, nhân lúc được phỏng vấn trên đài, ông nhắn nhe cầu may với con gái mình: “Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè, nhà mình ở Cỏ Cháy đó, nhớ không? Về nhà đi con, tội má con vò võ có một mình. Con là trọng chớ đôi trâu có nhằm nhò gì... Về nghe con, ơi Cải...” Nhưng Cải có nghe được tiếng gọi tuyệt vọng của ba mình không? Cải có hồi tâm mà trở về với má mình không? “Về đi về đi, Cải ơi Cải!”

Gió đưa cây cải về trời, Rau răm ở lại chịu lời đắng cay. Sau khi “Cải ơi!” đã về trời rồi thì tiếp theo là truyện Thương quá rau răm (dĩ nhiên), với cái cù lao Mút Cà Tha xa lắc - người miền Nam có thói quen nói “mút chỉ cà tha” để diễn tả cái gì kéo dài quá mức hoặc xa mút tí tè. Trên cù lao có ông Tư Mốt rất là chí tình với cuộc đất Cà Tha. Nhưng vì đời sống quá khó khăn và nguy hiểm, mọi người dần dần bỏ cù lao mà ra đi hết. “Và họ từ giã cù lao. Ông Tư Mốt ờ ờ ra chiều thông cảm, vẻ mặt cố tỏ ra không buồn nhưng hàm râu xuôi xị. Họ ngoắc đò đi rồi chú còn đứng mãi trên bến, nghĩ giận đám trẻ cù lao đã được học hành nhưng chẳng đứa nào chịu quay về” (tr. 19) Cũng thường thôi. Một hiện tượng “bỏ cuộc đất” quê mùa mà ra đi đã xảy ra đều đều khắp mọi nơi, ra đi khi ánh sáng “văn minh” lấn tới.

Kịp thời Văn từ đâu trôi giạt về. Chàng thanh niên được đặc phái tới làm việc tại trạm xá cù lao. Ông Tư Mốt và cô nhỏ Nga tìm đủ hết mọi cách chìu chuộng người từ xứ lạ tới để cầm chưn. Nước ròng trong rạch chảy ra. Em chào anh đi học ở xa mới dìa. Nhưng rồi rốt cuộc Văn cũng im ẩn bỏ cú lao mà lẵng lặng ra đi, không một lời từ giã. Trong một thoáng chùng chình, ông Tư Mốt tự hỏi: “Bên ngoài cái đất Mút cà tha dường như đã có sự thay đổi lớn. Thí dụ như con cá, lá rau, hạt gao mến thương của người cù lao không ràng buộc được một con người (như đã từng rịt chân ông lại), thì cái bóng nhỏ nhoi của đứa con gái đang tuyệt vọng đứng ngóng chờ dưới bến không có ý nghĩa gì sao? Tuyệt không đáng gì à?” (tr. 25). Câu hỏi quăng xuống bến nước Mút cà tha chìm lĩm biệt tăm, không thấy ai lên tiếng trả lời. Như vậy thì chắc là tiêu tùng rồi nhỏ Nga ơi! “Anh đi em một ngó chừng, Ngó sông sông rộng ngó rừng rừng sâu”. Sao nỡ để rau răm ở lại cù lao một mình chịu lời cay đắng?

Sang truyện khác: Không ai biết ông tên gì. Ông làm nghề nuôi vịt chạy đồng. Ông lùa bầy vịt lên một cánh đồng vừa mới gặt xong. Khi bầy vịt đã ăn mót hết lúa gặt rơi rớt trên ruộng rồi thì ông lùa vịt tới một cánh đồng khác. Rồi cứ vậy... cứ vậy... Trong bầy vịt của ông có con vịt xiêm tên Cộc rất khôn và hiểu được ông nói gì. “Ông kêu: “Cộc, biểu!” Con Cộc chạy lại, vẫy nước và cọ đầu vào bắp đùi đen bóng của ông” (tr. 50).

Một buổi chiều muộn, chợt ngó thấy một người đàn bà mặt mày buồn so ngồi dưới bực cỏ đợi tàu, ông quạt chèo cho ghe ghé lại. “Ông biểu chị xuống ghe cho quá giang. Chị vẫn khóc: “Tui biết đi đâu mà quá giang bây giờ. Hay... làm ơn cho tui theo anh đêm nay nghen”. Ông suy nghĩ rất lâu và trả lời một câu nhỏ xíu...” (tr. 52). Tuy nhỏ xíu mà lại đổ nợ lớn. “Thùng thùng trống đánh ngũ liên, Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa”. “Đôi chân đàn bà dè dặt bỏ xuống đầu ghe, con Cộc cúi đầu không nói không rằng lùi lũi lại tính mổ một cái vô chân chị mừng chơi nhưng ông la: “Cộc! bị đòn nghe mậy!” (tr. 52).

Người đàn bà (cô Út) về tá túc, và phụ tiếp bếp núc trong căn nhà lá cũ mèm của ông – căn nhà mà năm ba tháng ông mới về một lần. Mái lá có bốc lên chút khói xanh um uốn éo cũng bớt lạnh lẽo và đỡ buồn. Rồi cảm tình qua lại giữa hai người có con Cộc làm chứng. Rồi thời gian qua... Rồi mùa lúa chín tới. Rồi bọn thợ gặt kéo về. Trong đám thợ gặt có tình nhơn cũ của cô Út. Và cô Út đành đoạn lìa bỏ căn nhà lá ơn nghĩa cũ mèm để đi theo tiếng gọi của lòng. Bỏ người đàn ông ở lại một mình buồn hiu như cũ. Với con Cộc khôn dàn trời, dĩ nhiên. Nhái kêu chiều xế dưới mương, Thiếp đà an phận còn thương nỗi chàng.

“Ông ngồi lại, bồn chồn. Hồi lâu, ông nói như chỉ nói với mình: “Mai mốt mình đi nữa hen Cộc?” Con vịt cạp mắt cá ông, đi thì đi, tui đâu ngán!” (tr. 61). Rồi ông già ngó con Cộc, con Cộc ngó ông già, bốn mắt nhìn nhau chẳng nói một câu. Chợt có ngọn “gió lùa lao xao trên những tàu lá chuối. Tiếng lá khô vỡ giòn giống hệt bước chân ai vậy. Ông không nén được, mắc ngoái nhìn” (tr. 61). Rồi ánh flash lóe lên và đồng thời “rắc” một tiếng! Gã thợ chụp hình giải thích: “Và tôi đã chụp chân dung ông trong cái ngoái nhìn khắc khoải đó” (tr. 61).

Chỉ với một chi tiết nhỏ của cái nhìn có ngấn nước ở khóe mắt trên tấm ảnh mà Tư đã viết được một truyện ngắn độc đáo, Cái nhìn khắc khoải (tr. 49). Tuy khắc khoải nhưng có xen lẫn một chút diễu cợt nhẹ nhàng, một chút chọc phá duyên dáng. Cười, mà bùi ngùi. Tư làm nhớ tới cái sắc sảo và tinh tế của Võ Phiến. Nói thế, nhưng chưa ngòi bút nào đi xa hơn Võ Phiến trong công việc quan sát, mô tả và thưởng thức những tình tiết chi li trong đời sống thường nhật. Ngoài ra, giọng văn của VP và Nguyễn Ngọc Tư thuộc hai miền khác nhau: một Bình Định, một Cà Mau. Tuy nhiên, cho dù đang còn ở trong cuộc đất Cà mau, giọng văn của Tư trong CĐBT đã pha lẫn những tiếng không thuộc miền đất Hậu giang. Một sự chuyển hướng? Cũng giống như mọi người đã lần lần bỏ cù lao Mút Cà Tha mà ra đi trong niềm tiếc nuối của ông Tư Mốt và nhỏ Nga?

Bỏ đi. Như một định mạng khắc nghiệt, bỏ đi là một hành động nòng cốt xảy ra đều đều trong truyện của Tư. Bỏ nhà: Cải ơi! Bỏ cù lao: Thương quá rau răm. Bỏ người, bỏ vịt: Cái nhìn khắc khoải. Bỏ chồng: Một mối tình. Lại bỏ chồng và bỏ đi: Biển người mênh mông. Bỏ trốn: Một dòng xuôi mải miết. Bỏ ghe: Nhớ sông. Bỏ tùm lum, bỏ dài dài: Cánh đồng bất tận. Bỏ người yêu, bỏ bến: Duyên phận so le, Dòng nhớ. Chợt nhớ thơ Nguyễn Bính: “Bỏ thuyền bỏ bến bỏ dòng trong, Cô lái đò kia đi lấy chồng. Vắng bóng cô em từ dạo ấy, Để buồn cho những khách sang sông...” Dặn hờ: “Tư ơi Tư! Đừng có bỏ đi bất tử nghe Tư! Buồn lắm đó nghe! Buồn nát cả tâm can. Buồn như “rót lệ vào tim” (điệu này chắc tui chết!). Đừng có bỏ đi bất tử nghe Tư!”

Mưa Tiền giang nắng Hậu giang
Ngày đi binh lửa rưới điêu tàn
Ngày về Bình Thủy miền quê ngoại
Biết có hiền hòa như xưa chăng?

Bỏ đi. (Bỏ đi Tám?) Như đã nói, bỏ đi gần như là một ám ảnh ray rứt không thể nào thiếu vắng được trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư. Biển người mênh mông (tr. 99) cũng theo thông lệ đó mà thôi. Má bỏ đứa con rơi của mình (Phi) để theo ba. Phi sống với bà ngoại. Đang học nửa chừng, Phi thôi học, bỏ đi (lại bỏ đi!) theo đoàn hát. Khít vách Phi có ông già Sáu Đèo làm nghề bán vé số mới dọn về mướn một căn để ở. Lúc dọn làm mất hết mất thùng cạc tông đựng mùng mền quần áo nên ông Sáu chỉ còn vỏn vẹn có một bộ đồ duy nhứt dính da.

Một bữa trời trở chướng, ông Sáu nhức mình nhức mẫy nên nhờ Phi qua nhà cạo gió cho ông. Nhắc chuyện xưa, ông Sáu kể “hồi trẻ, ông sống toàn trên sông, ông có chiếc ghe, hai vợ chồng ông lang thang xứ này xứ nọ (...) nước ngược cắm sào đậu lại thổi cơm, bìm bịp kêu, nước bò lên bãi ông cho ghe ra bến. Cuộc sống nghèo vậy mà vui lắm” (tr. 108). Ông Sáu kêu vợ mình bằng “cổ”. Phi cạo mạnh, ông Sáu rên đau, Phi hỏi đau chỗ nào, ông trả lời: “Ừ, cái chỗ này, chú mày không làm qua hết đau được đâu. Ông già Sáu mếu máo chỉ về phía tim. “Cổ đi rồi. Sống khổ quá nên cổ bỏ qua. Cổ lên bờ, không từ giã gì hết, bữa đó đúng là qua bậy, qua nhậu xỉn quá trời, rồi cũng có cự cãi mấy câu, cảnh nhà không con nên sanh buồn bực trong lòng, qua có hơi nặng lời, cổ khóc. Lúc thức dậy thì cổ đã đi rồi” (tr. 109).

Kể từ lúc vợ lìa ghe lên bờ và bỏ đi (lại bỏ đi!) mất biệt, ông Sáu cũng bỏ ghe. Không phải để lấy vợ khác làm ăn mà là lên bờ đổi nghề bán vé số và lặn lội khắp bốn phương trời để tìm kiếm vợ mình. “Tìm em như thể tìm chim, Chim ăn biển bắc đi tìm biển đông”. “Qua đã tìm gần bốn mươi năm, dời nhà cả thảy ba mươi ba bận, lội gần rã cặp giò rồi mà chưa thấy” (tr. 109). Rồi sau một đêm rượu đưa tiễn dưới trăng (như đưa tiễn tráng sĩ Kinh Kha sang sông Dịch hành thích bạo chúa) ông Sáu lại lên đường gian nan đi tìm “cổ”. Ông giao con bìm bịp lại cho Phi nhờ nuôi giùm. Nhiều bữa, bìm bịp kêu thê thiết cả đêm làm Phi không ngủ được. “Phi giở cửa lồng, con bìm bịp đập cánh xao xác, đứng niểng đầu nhìn anh buồn lắm, sao anh ngồi đây mà tía tôi đâu? (...) Tía thấy tao buồn nên để mầy ở lại, nhưng rồi lúc ông già bé nhỏ ấy buồn, ai kêu nước lớn cho ổng nghe?” (tr. 110). “Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi, Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê”

Rồi ông Sáu có tìm gặp lại vợ mình sau bốn mươi năm lặn lội? Hai người sẽ chung sống bên nhau hạnh phúc như xưa, trên một chiếc ghe thương hồ khác, với một con bìm bịp khác để nó kêu báo hiệu nước lớn cho ông Sáu xô ghe lên đường? Không rõ. Chỉ biết kể “từ đấy, ông Sáu Đèo chưa một lần trở lại. Từ đấy, giữa biển người mênh mông, Phi gặp biết bao nhiêu gương mặt, cùng cười đùa với họ, hát cho họ nghe, cùng chạm ly uống đến say...” (tr. 111). Và Tư đã thòng một câu kết: “Biển người thì mênh mông vậy...” (tr. 111).

Trong tập Giao thừa, Tư cũng đã thòng một câu kết tương tự trong truyện Đời như ý: “Làm gì có chuyện đời như ý?” (GT, tr. 66). Những câu kết đại loại như một “phán xét cuối cùng” này, thiết tưởng nên để cho độc giả tự suy gẫm lấy thì tốt hơn. Nếu thực sự tha thiết với ý đó, Tư có thể viết một cách khác để kết việc.

Ngoài cái “tuồng ruột” một người bỏ đi, một người tìm kiếm, qua truyện BNMM Tư cho thấy lòng tin cẩn của mình đặt vào cái bản năng chân thật hồn nhiên của muông thú, như bìm bịp chẳng hạn – còn con người thì nói chi! Cái lòng tin này của Tư cũng được thể hiện qua vịt xiêm Cộc trong Cái nhìn khắc khoải và con vịt đui trong Cánh đồng bất tận. Có cảm tưởng Tư thích sống chung đụng với thú vật, thích sống trà trộn với thiên nhiên, với đất đai, với sông nước. Tự muôn đời, đó vẫn luôn luôn là những nguồn an ủi lớn lao sau những lần va chạm não nề với loài có lý trí (hiu hiu) và với cái gọi là (le lói) văn minh.

Sau khi vượt qua Biển người mênh mông, người đọc lọt vào Cánh đồng bất tận, tựa cuối của tập truyện mang cùng tên của Nguyễn Ngọc Tư. Cánh đồng này dàn trải từ tr. 155 đến tr. 213, cộng 59 trang, có thể coi như truyện vừa – không dài, không ngắn. Chỉ nghe cái tên truyện thôi cũng đã thấy mỏi chưn. Oải! Mệt thấy rõ! Tuy nhiên cũng cứ đi thử coi nó ra làm sao. Để coi cánh đồng nó “bất tận” tới mức nào ở cái vùng đất Cà mau bùn phèn bát ngát này.

Nắng Hậu giang mưa Tiền giang
Đầm Dơi tay ngoắc cánh chim ngàn
Mơi mốt về Cà mau ăn Tết
Hưng Mỹ hăng mùi pháo nổ ran

Bắt đầu là một cánh đồng. Tiếp theo là một cánh đồng thứ hai. Rồi lại một cánh đồng nữa… tiếp giáp một cánh đồng khác nữa… khác nữa… « Cánh đồng không có tên. Nhưng với tôi và Điền, chẳng có nơi nào là vô danh, chúng tôi nhắc, chúng tôi gọi tên bằng những kỷ niệm mà chúng tôi có trên mỗi cánh đồng. Chỗ chị em tôi trồng cây, chỗ Điền bị rắn cắn, chỗ tôi có kỳ kinh nguyệt đầu tiên… » (tr. 159). Cho tới một bữa nọ nhân vật nữ, Nương (hay là Tư?) tự dưng nhận thức ra… « bây giờ gió chướng non xập xòe trên khắp cánh đồng Bất Tận… » (tr. 208). Phải rồi! Cái tên sao mà đúng quá đúng: Cánh đồng bất tận! Vì cánh đồng này có bao giờ chấm dứt ở một chỗ nào đâu. Đi hoài, đi hoài. Vẫn còn cánh đồng.

Bây giờ đi vào CĐBT, Tư đã có một số kinh nghiệm trong công việc đưa đẩy ngòi bút của mình. Tư không viết như hồi cái thuở ban đầu (lưu luyến ấy) của Ngọn đèn không tắt, nghĩ gì viết nấy, không cần sắp xếp, lộn xộn. Hoặc như trong Giao thừa, truyện kể đơn độc, một dòng. Tư đã biết đưa đẩy ngòi bút của mình trở ngược trở xuôi trong thời gian, trong ký ức. Đã biết lúc nào thì cho nhân vật nào xuất hiện, cho chuyện gì xảy ra. Đi sâu hơn nữa vào tâm lý nhân vật. Biết dàn dựng cốt truyện, chọn lựa bút pháp. Đọc lôi cuốn. Và kết thúc gọn nhẹ. Đẹp. Có tiến bộ tốt rõ rệt. Một điểm son.

Trên CĐBT xuất hiện nhân vật đầu tiên: cha (Ủa! bộ ở cái mũi Cà mau tận cùng miền Nam này, bà con ta đã bắt đầu gọi ba bằng cha hết rồi sao?) Cha và hai con mình, một gái (Nương), một trai (Điền) sống trên ghe làm nghề du mục, nuôi vịt chạy đồng. Khởi thủy, cha làm nghề mộc, thường xa nhà. Má, người đàn bà đẹp nhứt xóm, trắng tươi như bông bưởi, ham mê vải vóc. Để đổi lấy xấp vải đỏ, má khứng chịu cho tên buôn vải dày vò thể xác mình. Rất tình cờ, từ kẹt bồ lúa hai con chứng kiến. Lở dở, má bỏ hết đồ đạc lại nhà và trốn sang xứ khác để khỏi phải chịu đựng nhục nhã với chồng con. Nhưng rốt cuộc người chồng cũng biết. Ông đốt nhà, đốt hết đồ đạc vợ để lại rồi dắt hai con xuống ghe sống đời du mục, nuôi vịt lùa. Mối hận đầy ứ trong tim. Hận vợ. Hận hết thảy đàn bà trên đời.

Để băng bó và rịt thuốc cho vết thương mình, người đàn ông trả thù. Trả thù không phân biệt, trả thù trên bât cứ người đàn bà nhẹ dạ nào đã trót nghe theo lời ông dụ dỗ mà trao thân. Ông dày vò, cắn xé họ hả hê, khinh bỉ, kiêu ngạo. Một người, hai người... Rồi năm người, mười người... Xong, ông vứt họ lên bờ như một băng vải nhớp nhúa đã giúp ông tạm rịt vết thương mưng mủ của mình. Càng kinh nghiệm về đàn bà, ông càng sắp đặt kỹ, càng thâm hiểm hơn. “Với những người đàn bà sau này, cha tôi tính toán rất vừa vặn, sao cho vừa đủ yêu, vừa đủ đau, vừa đủ bẽ bàng, và bỏ rơi họ đúng lúc” (tr.189).

Những cuộc trả thù của cha đã từ từ thấm độc vào cơ thể thằng con trai mình hồi nào không hay. Tới tuổi mười sáu dậy thì, Điền có những triệu chứng bất thường. Trong thế giới của Điền, giờ đây có thêm một người đàn bà từ bên ngoài lọt vào, đầy ứ sức sống, lồ lộ, ám ảnh: Sương, một cô gái đĩ “du mục” được cha con Điền tình cờ cứu thoát sau khi bị đánh ghen một trận nhừ tử. “Điền yêu chị, nhưng tình yêu đó khiếm khuyết mất rồi. Sau giấc ngủ dài, bản năng nó không trở dậy. Trái tim nó chỉ là một hòn than nhỏ, không thể hâm nóng lại cơ thể ngả màu tro” (tr. 200). Trong cơ thể đứa con trai, một ngọn đèn trời ban sẵn cho mỗi người đã tắt: bản năng tình dục. Cái bản năng đã thúc đẩy má nó ham làm đẹp, đã xúi giục tên buôn vải thèm muốn thân thể trắng muốt của má, cái bản năng đã thúc đẩy Sương bước vào nghề làm đĩ. Tuy nhiên, trong cơn bão trốt phăng cuốn hết mọi người quanh mình, cái linh tính tự nhiên vẫn khiến cho Nương thầm nghĩ: “Tôi không chắc lắm, nhưng dục tình và xác thịt không xấu xa, không đáng bị khinh bỉ, không phải là nguyên nhân đẩy chị em tôi đến cuộc sống này với những đổ vỡ này...” (tr. 193)

Đời sống du mục với bầy vịt ốm nhom vẫn tiếp tục buồn bã trôi xuôi trên đồng không mông quạnh, vắng bặt tiếng người. Như vậy vẫn chưa đủ. Dịch cúm gia cầm thình lình từ trên cao úp chụp xuống bầy vịt chạy đồng như một màng lưới đan khít, vô phương đào thoát. Mọi người giương mắt thao láo chứng kiến cuộc tàn sát tập thể, bất lực. “Xuyên qua những lớp đất bầy nhầy, tôi nghe vịt của tôi vẫn còn thoi thóp, chúng đau đớn vì những cái cổ gãy, rồi quặt quẹo, chúng hỏi vì sao tụi người ta lại ác. Rồi thinh lặng. Trong cái im ắng đến rợn người, tôi nhận ra tiếng của con vịt mù, có lẽ vì không sợ tối, nên sự sống kéo dài (...) Tôi tiếc thôi là tiếc sinh linh nhỏ bé đã thấu được tim mình” (tr. 197/198). Một nhận xét tinh tế, đầy ắp xúc cảm và chan chứa xót thương.

Để cứu vãn tình thế, Sương tự ý nạp mạng cho hai nhân viên được nhà nước đặc phái tới cánh đồng hoang để kiểm tra và tổ chức cuộc tàn sát tập thể. Sáng hôm sau ngất ngư trở lại ghe, bị cha diễu cợt độc ác, Sương đã chua chát ngó thẳng vào bộ mặt người đàn ông chai đá, để rớt từng lời một với Nương: “Má cưng ác một, nhưng người cha này của cưng ác tới mười.” Rồi Sương bỏ đi. “Thằng Điền xách nước về, nó cuồng lên hỏi chị đâu. Tôi chỉ con đường kinh xao xác hoa cỏ dại. Em tôi chạy hồng hộc về phía đó” (tr. 204)

Sương bỏ đi. Điền cũng bỏ đi. Mọi người bỏ đi hết. Chỉ còn đứa con gái ở lại với người cha trơ trơ của mình, đôi mắt không ngừng mong ngóng, lòng đầy ắp những câu hỏi thảng thốt: “Không biết tối nay thằng Điền có được mệt nhoài úp lên chị, hay vật vạ ở đâu đó, bên vách buồng (hay một tấm ri đô bằng vải), đau vật đau vã nghe hoan lạc chảy thành những dòng rên xiết, kêu thét” (tr. 205) Câu hỏi thất lạc giữa đồng không mông quạnh. Để Nương ở lại chèo queo một mình trong lòng ghe tối đen không ngừng chao lắc.

Dù bị trục trặc lớn, cuộc đời du mục vẫn gắng gượng tiếp diễn trong nhàm chán. Và Nương vẫn tiếp tục lớn lên theo thời gian. Cho tới thời kỳ trổ mã con gái, đẹp hẳn ra. Đẹp hấp dẫn. Đẹp não nùng. Đẹp bắt mắt. Đám thanh niên trên cánh đồng bắt đầu kiếm cớ lảng vảng quẩn quanh. Và cha cũng bắt đầu để ý tới đứa con gái của mình. “Không cần gương, tôi nhìn thấy hình bóng má trong mắt người đối diện. Trước ánh nhìn của cha, tôi cảm giác mình soi xuống dòng nước đêm” (tr. 206).

Cuộc sống nuôi vịt càng lúc càng khó khăn, sinh ra giành giựt, tranh lấn, cưỡng đoạt. Bắt đầu có những trận đánh nhau hung tợn, đánh nhau chí tử để tranh giành miếng ăn. Cho tới một bữa nọ... Một biến cố quyết định cuộc đời Nương thình lình từ trên cao ụp xuống như đám mây chì đen nghịt. “Ba người họ ập tới từ phía sau, quây lấy tôi, quần áo vẫn còn đẫm bùn, mặt mũi sưng sỉa. Những thằng con trai hơi ngỡ ngàng khi nhìn thẳng vào tôi, một đứa gầy gò trạc tuổi thằng Điền lau dãi ròng rãi trên khóe miệng, thảng thốt, “Con nhỏ đẹp quá, mày” (...) Và món hàng bị ghì ngửa trên mặt ruộng bì bõm nước” (tr. 210). Nghe tiếng kêu cứu tuyệt vọng của con gái mình, cha hoảng hốt nôn nả chạy ngược trở lại, xông thẳng vào đám côn đồ, tay chân vung đánh loạn đả. “Một tên côn đồ ối lên một tiếng, bụm lấy mắt, vừa kêu rên vừa chửi bới ngậu xị. Không đánh trả, nó có cách trừng phạt khác, nó đè nghiến, giữ cho mặt ông hướng về phía tôi. Và bọn chúng thay phiên nhau, giữ cho cha chỉ một tư thế đó” (tr. 211).

Rồi...

Người đọc thấp thỏm theo dõi cuộc cưỡng hiếp dai dẳng diễn ra trên cánh đồng hoang vắng cho đến cuối truyện. Và bồi hồi đón nhận thông điệp mà người con gái bất hạnh (hay Tư?) muốn nhắn nhủ với giống người hung hăng đang gieo rắc tội ác trên Cánh đồng bất tận.

Nắng Hậu giang mưa Tiền giang
Nuôi tôi khôn lớn phù sa vàng
Mơi tôi về đất xin cho rắc
Xuống con sông Cửu nhúm tro tàn

Bài Cái rầu bất tận của Nguyễn Ngọc Tư chấm dứt ở dòng này. Bài thứ hai, Sông nước Hậu giang và Nguyễn Ngọc Tư sẽ đề cập đến hai tác phẩm còn lại: Giao thừa và Tạp văn.

Bagnolet, ngọai ô Paris
Tháng mười 2007

Kiệt Tấn
Nguyễn Ngọc Tư:
Tôi như kẻ đẽo cày giữa đường
Võ Đắc Danh thực hiện
(Người Đô Thị, số 35)

Khác với Cánh Đồng Bất Tận, Gió Lẻ của Nguyễn Ngọc Tư từ khi đăng tải nhiều kỳ trên Sài Gòn Tiếp Thị cho đến khi xuất bản thành sách, đã có nhiều sự cảm nhận khác nhau. Đó cũng là một vấn đề thông thường trong đời sống văn học, đặc biệt là đối với một tác giả trẻ được xem là người của công chúng như Nguyễn Ngọc Tư. Dù cho cảm nhận ở góc độ nào đi chăng nữa, thậm chí khắc khe, lo ngại thì cũng là một tình yêu, sự quý mến mà công chúng dành cho cô.
- Gió lẻ, từ khi đăng tải nhiều kỳ trên Sài Gòn Tiếp Thị cho đến khi in sách, Ngọc Tư đã đón nhận sự phản hồi từ phía bạn đọc như thế nào?
Tôi cười khi bạn bảo, đọc lần thứ hai mới hiểu. Tôi cười khi bạn nói, nó giống như bài thơ. Tôi cười khi bạn bảo, nó chẳng giống tôi chút nào. Tôi cười khi bạn nói, sao không viết truyện nào vui vui, gì mà buồn quá… Đứa con này đã ra đường rồi, người ta nhìn nó và cảm nhận nó, đối xử với nó thế nào không còn nằm trong tầm tay tôi.
- Sáng nay tôi ngồi với anh em đồng nghiệp trong quán cà phê Bông Giấy, Ngọc Tư lại trở thành sự quan tâm, bàn luận của mọi người. Có người nói qua Gió lẻ, thấy Ngọc Tư vượt hẳn lên so với CĐBT về phong cách và ngôn ngữ, có người không đồng tình, cho rằng qua Gió Lẻ, Ngọc Tư không còn là đặc sản của một vùng đất đã làm nên Nguyễn Ngọc Tư. Từ phong cách, ngôn ngữ, chi tiết . . . đã mất đi bóng dáng của CĐBT, trong khi hai nhà văn lão thành Sơn Nam và Trang Thế Hy suốt một cuộc đời chẳng những không thay đổi mà càng làm đậm thêm phong cách. Ngọc Tư có suy nghĩ đến điều nầy?
Xin hỏi lại, Gió lẻ không còn bóng dáng của CĐBT hay bóng dáng tôi? Bởi nếu cần bóng dáng của CĐBT thì tôi không cần viết một cái bản sao CĐBT khác. Còn bạn đang nhắc tới bóng dáng tôi thì CĐBT không đại diện duy nhất cho tôi. Mười năm tôi viết những cái mà người ta thích, giờ tôi viết những gì chính mình thích. CĐBT, hai ông Sơn Nam và Trang Thế Hy cũng không thích đâu. Mà, đem tôi so sánh với hai cây đại thụ này thì chẳng phải là … ăn hiếp tôi sao? Cứ mỗi lần cái cây nhỏ này ra một nhánh mới, mọi người lại kêu lên, nhánh này không ổn, nó làm cho cây nhỏ không giống cái tàng của mấy cây kia. Sao bạn nghĩ rằng tôi muốn lớn giống hệt như hai nhà văn mà tôi yêu quý?
- Có chút hiểu lầm ở đây: Bóng dáng CĐBT ở đây là phong cách, là ngôn ngữ, là giọng điệu của Nguyễn Ngọc Tư. Cũng không ai bắt cô phải giống hai nhà văn lão thành của chúng ta. Ý tôi muốn nói có những nhà văn giữ suốt đời một phong cách viết, một giọng điệu kể chuyện, trong khi Ngọc Tư qua CĐBT và Gió Lẻ là hai Ngọc Tư hoàn toàn khác nhau? Và, theo Ngọc Tư thì viết cái mà người ta thích với viết những gì chính mình thích đã tạo nên hai phong cách đó?
Bạn thấy có hai tôi khác nhau sao? Lạ thiệt, mấy hôm trước, một người bạn tôi lại bảo với Gió lẻ tôi chưa thóat được (sao bạn ấy lại nghĩ là tôi muốn thoát?), vẫn là tôi của năm xửa năm xưa ấy. Điều đó có nghĩa, cách cảm thụ của mỗi người có chút khác nhau. Tôi như một kẻ đẽo cày giữa đường, ai qua cũng ngó nghiêng chỉ trỏ một tí. Cái tôi thấy buồn không phải vì những lời chân thành của bạn, mà là tôi thấy mất tự do. Mọi người cứ gào thét đòi tự do sáng tác, nhưng lại băn khoăn trước việc cô ta viết như cô ta thích.
- Ngọc Tư muốn nói gì qua hai từ Gió lẻ được dùng để làm nền cho câu chuyện?
À, tôi thích gió. Nó thơ mộng, bảng lảng, khó nắm bắt. Tôi lớn từ xứ gió, mà gió Nam gió chướng gì cũng đẹp, nên bị ám, viết gì cũng cho gió thổi. Thật ra tôi có thể viết Nắng lẻ, hay Mây lẻ, nhưng những thứ này không… lạnh, khi tôi đang nói tới cái cô độc hiu hắt của cuộc đời.
-Thật tình mà nói, CĐBT đã lôi cuốn mọi tầng lớp bạn đọc, từ tiểu thương, nông dân, sinh viên, trí thức, văn nghệ sĩ . . . tùy theo trình độ của mỗi người mà có cách cảm khác nhau. Ở đó, người ta thấy một Nguyễn Ngọc Tư gần gũi, mộc mạc mà sâu sắc. Từng chi tiết, từng cử chỉ và từng lời thoại của các nhân vật mang đậm màu sắc của một vùng đất. Nhưng Gió lẻ, nếu so với CĐBT thì có một khoảng cách rất xa, rất kén chọn người đọc bởi thủ pháp “montage” và sự phù phép về chữ nghĩa?
Cho đến câu hỏi này là tôi đã thực sự nhìn thấy một bi kịch, là bạn đọc cứ trải chiếu ở cái chỗ cánh đồng bất tận và muốn tôi ngồi uống rượu mãi ở đó. Trong khi tôi muốn đi và thực sự đã đi rồi. Tại sao tôi cứ lẩn quẩn ở cánh đồng đó trong năm năm, mười năm và hai ba mươi năm nữa, mà không được đi uống rượu, ngắm cảnh ở không gian khác. Tôi biết, cái chỗ tôi muốn tới và thích tới không đông đảo người chờ đợi và chúc tụng, nhưng tôi tự hào là mình cũng chịu dời chân khỏi cái hào quang cũ mà đi.
- Không ai muốn Ngọc tư ngồi nhậu mãi một chỗ, Ngọc Tư có thể nhậu từ trên rừng xuống biển, nhậu từ Bắc vào Nam, hoặc xa hơn nữa, nhưng dù nhậu ở đâu thì cũng nhậu theo kiểu của Nguyễn Ngọc Tư?
Vẫn cứ khô khoai và rượu nếp à? Vẫn cứ xếp bằng trên chiếu? Tháng trước qua tôi lỡ ngồi ở Lào, nên tôi không nhậu được bởi ở đó tìm không ra khô khoai, cũng chẳng rượu nếp. Tháng trước nữa tôi nằm ở Tam Đảo, bạn đi cùng chỉ mang theo rượu mà không có khô khoai, vậy là tôi ngồi không, chết thèm?! Tôi muốn tùy nghi, sống và viết, theo đúng như bản chất thất thường vô chừng của mình. Tôi biết không ít người đang băn khoăn bởi ý nghĩ, họ đã mất tôi rồi. Nhưng tôi đi đâu đó không có nghĩa là không quay lại. Con cá quẫy để khỏa bèo vì nó cần thở ở một khoảng rộng hơn. Tôi cũng vậy.
- Xin hỏi một câu hơi vô duyên, điều gì khiến Ngọc Tư viết Gió Lẻ, một câu chuyện dường như không có không gian và cả thời gian?
Ủa, có phải phóng sự ký sự đâu mà phải nhất định có không gian thời gian? Tôi đã từng gặp những câu hỏi kiểu như, viết cái truyện đấy thì nguyên mẫu ở đâu? Trời, tôi nói dóc kiếm tiền mà. Lần này tôi nói dóc hơi… quá, giống như kể lại giấc mơ
Hồi nhỏ tôi mê phim kiếm hiệp, truyện kiếp hiệp, có mấy anh chàng hiệp khách cứ rày đây mai đó, gặp ai yêu nấy, gặp ai đánh nấy, tôi khóai. Hai năm gần đây, tôi cũng thường hay đi, đi bụi, gặp tối thì ngủ, gặp đói thì ăn. Và thời gian phần nhiều trên những chiếc xe đò, tôi nghĩ về một câu chuyện về cuộc đi bất tận của những người không tên tuổi…
- Gamzatov từng nói:“Văn học không có ranh giới, nhưng nhà văn phải có quê hương”. Và chính ông đã làm cho cả thế giới nầy biết đến cái làng Đaghextan nhỏ bé của ông. Với những tác phẩm đã qua, Ngọc Tư đã tạo nên dấu ấn trong lòng bạn đọc cả trong và ngoài nước về một vùng đất. Có bao giờ cô nghĩ rằng mình sẽ làm đậm thêm dấu ấn đó không hay tiếp tục dắt bạn đọc đi nhậu khắp cùng trời cuối đất?
Trời, lại một ông già vĩ đại nữa. Tôi không biết bạn nghĩ về lời của ông nhà văn ấy thế nào, nhưng tôi hiểu câu đó theo cách tôi đang làm. Tôi 31 tuổi, điều tôi quan tâm không phải là cái thành tựu vĩ đại mà ông ấy có, tôi chỉ nghĩ, khi ông trạc tuổi tôi, thì ông làm gì và nghĩ gì, vật lộn với cuộc viết lách như thế nào? Tôi muốn biết ông ấy đã từng làm – cách - nào để có được sự vĩ đại đó. Có hoang mang không? Có băn khoăn không? Có mệt mỏi không? có trống rỗng không? có dò dẫm tìm đường không? có thấy chật chội không?
- Xin cảm ơn Ngọc Tư về cuộc trò chuyện qua mạng nầy. Chúc Tư tiếp tục “mẹ tròn con vuông” cả hai nghĩa!

Đăng trên Người Đô Thị, số 35

Đã đăng trên Kỷ Yếu Sinh Viên Khoa Học Toàn Quốc, Huế 2008

No comments:

Post a Comment