Sunday, March 6, 2011

Trói buộc-Nguyễn Ngọc Tư

Trói buộc

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư

Có một bữa bạn nhận được thư tôi, trong đó viết rằng, “tôi có chuyến làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh, nếu bạn không bận việc gì thì chúng ta gặp nhau, uống cà phê, nói chuyện đời chơi”. Thằng bạn tôi đọc thư tôi, lòng đầy nghi hoặc, không tin là tôi viết, bởi theo đúng phong cách quen thuộc của tôi, thì thư viết phải viết như sau: “sẵn tui đi mần việc tại Sài Gòn, nếu ông không mắc công chuyện thì hai đứa mình gặp, uống chút xíu gì đó, nói trời chơi…”.

Với bạn, thì tôi và mớ ngôn từ đậm đặc chất phương ngữ là một. Tư duy theo thói quen, như người đẹp thì phải gắn với đại gia, mà đại gia luôn gắn với những trò ăn chơi, mánh khoé; công an là phải chơi mặt ngầu, nghệ sỹ phải lòe loẹt một tí, te tua một tí hay ông nông dân chắc chắn hiền lành, tử tế… Và tôi, một bữa vui nào, bứt những ngôn từ địa phương lủng lẳng quanh mình, bạn không nhận ra.

Bạn kêu lên, đau đớn lắm, bạn nói, có phải là cô không, cô có còn là con nhỏ viết văn của vùng đất Nam Bộ? Tôi không còn nhận ra cô nữa. Cô khác quá. Cô muốn gì? Bản sắc vùng miền của cô đâu? Bạn nghĩ (chắc lại theo thói quen), bản sắc vùng miền gắn liền với ngôn từ, phải “ngộ”, phải “quá hén”, phải “vậy nghen”, phải “chèn đét ơi”… Và những người viết như tôi phải viết vậy, nếu muốn nói đến con người, đất đai Nam Bộ.

Tôi đã tưởng vậy. Nhưng những va chạm, những cú sốc, những biến chuyển tâm lý, những tế bào của sự già cỗi bắt đầu xuất hiện, tôi tự dưng viết khác đi một chút. Cũng muốn lùi lại, cũng muốn trong trẻo, cũng muốn hồn nhiên quá hà, nhưng thời gian còn làm đổ cả núi. Tôi nhận ra ngôn từ, đặc ngữ của địa phương thực chất chỉ là phương tiện chuyển tải ý tưởng và câu chuyện của tôi. Nam Bộ trong tôi không phải là màu da, là giọng nói, mà là tính cách hoang dã, bỗ bã, ngang tàng… thì Nam Bộ trong văn tôi cũng là một cái gì sâu xa trong bản chất. Những ngọn gió, những cánh đồng, những dòng sông, những con người vừa tốt vừa xấu, những ngổn ngang của đất, của người, những nỗi buồn và nỗi vui. Một nhân vật có tính cách hết sức Hà Nội mà gắn cho nói những ngôn từ miền Tây Nam Bộ thì giống như phim Việt Nam ta, tiếng một đường, mặt mũi tay chân một nẻo. Thay vì nói, trời ơi, tôi đau buồn quá thì chỉ cần một ánh mắt, một nét mặt dại đi, là đủ. Nói tôi đau buồn là không tự tin vào sự đau buồn mà tôi diễn tả, mà cũng không tin người khác có thể cảm nhận được nó. Phương ngữ, là một cái áo, tôi muốn bỏ qua cả lớp áo đó, để tận mắt thấy trên mảnh đất này, người đời đang lạnh hay ấm, vui hay đau qua làn da, qua từng vết tím, từng cái se lại của lỗ chân lông. Tôi còn muốn xuyên qua chúng, thấu thị tận tâm hồn, như một người hành hương về chốn tâm linh không cần bất cứ phương tiện nào, chỉ bằng đôi chân trần. Rất ngỡ ngàng, theo cái cách này, tôi thấy mình viết chưa ra, chưa tới cái bản sắc Nam Bộ. Không níu phương ngữ nữa, tôi chới với, loay hoay.

Tôi nhận ra, mình tự trói buộc mình vào ngôn ngữ vùng miền quá lâu. Sống chật đã lâu, ra trước mênh mông người ta hoảng hốt. Tới mức, trong lúc vùng vẫy, từ ngữ rơi xuống chỗ nào, nơi ấy, tôi thấy mình trong suốt.

Vậy thì bạn mình ơi, tôi không buồn gì nếu bạn không nhận ra khi tôi mặc một chiếc áo khác, bởi tôi đã mười năm ngộ nghĩnh hồn nhiên nhảy nhót ca hát trong mớ ngôn từ lạ lẫm, đầy sức sống của mình. Đó là hình ảnh đầu tiên mà bạn cảm nhận, mang theo, giống như mối tình đầu. Nhưng tôi buồn, vì bạn đã không tin, không cố gặp tôi giây lát, để nhận ra hơi thở của tôi, mùi nắng khét trên tóc tôi, gương mặt buồn bã của tôi, những lỗi ngớ ngẩn mà tôi thường hay mắc phải, cái cách nhìn đời, hay một ngón tay tôi gù lên vì vết thương hồi xưa.

Cả những chi tiết nhỏ đó, cũng không gây cảm giác gì quen thuộc nơi bạn nữa, thì bạn hãy giận tôi. Cũng đành…
Ván cờ
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

Anh ngụ cư ở xóm này đã bốn năm. Cũng chừng ấy năm anh hầu cờ cùng ông già. Anh không mê cờ, nhưng mê cô cháu gái ông, ngay lần gặp đầu tiên, anh nhìn thấy cô đang buộc tóc. Tay cô thon dài, muốt túm mớ tóc nhỏng tên, để lộ cái gáy cũng thon, nà nuột chập chờn dưới những sợi tóc con. Thích đến nao lòng, nhưng chỉ là thương yêu thầm lén, anh lấy cớ qua chơi cờ với ông già, để tranh thủ ngó mong.
Ông già biết tỏng bụng dạ của thằng bạn cờ. Ông thấy đối thủ có những nước đi lãng nhách, hớ hênh mỗi khi vẳng từ sau bếp tiếng cười giòn của cô cháu gái. Có lần bị vây đánh quá, ông ấm ức, nên kêu cháu ngoại đem ra bình trà nóng, nhìn con cờ xớ rớ, run rẩy trong tay thằng nhỏ, ông cười thầm, ai biểu dại gái, cho mầy chết nè con. Nhưng ông cũng nổi tiếng là khó tánh, thủ cựu nên ngay lập tức, ông đằng hắng e hèm khi thấy ánh mắt thằng nhỏ cứ soi vào cái gáy trắng trẻo kia. Gặp người khác, ông đã đuổi thẳng. Anh may mắn, vì những ngày sống lang thang, làm bạn với ông Từ cao cờ giữ miếu Bà Chúa Xứ, cũng học được ít nhiều. Và cái lối chơi biến hóa, lúc thâm trầm, lúc táo bạo, khi phóng khoáng khi lại nghiêm cẩn, chặt chẽ của anh làm ông già ngây ngất. Một đối thủ giỏi.
Nên ông già vừa giữ vừa buông, nhử như bắt vịt con câu nhấp cá mẹ rồng rồng, cắn răng (nói cho văn vẻ vậy chứ ông già còn cái răng nào đâu mà cắn) cho anh nghiêng ngó. Nửa năm, anh đã kịp quen mùi tóc, kịp nhớ bước chân, kịp thương đuôi mày. Một dịp tình cờ anh nghe phớt qua ông già nói với cô cháu ngoại “cái thằng đó tánh cũng được nhưng gốc gác không có, lại nghèo quá…”. Lẫn trong câu nói là tiếng gậy gõ lọc cọc trên nền bê tông, ông già thường làm vậy mỗi khi tỏ thái độ cương quyết. Anh biết ông già nói tới mình, anh về căn nhà trọ nằm gác tay lên trán, bàn tay phụ hồ chai sạn này sao xứng để cầm bàn tay non nhuốt kia ? Nhưng vẫn dè dặt, hy vọng. Cho đến một ngày hay tin cô gái sắp lấy chồng. Trời sập cái rầm, vụn vỡ, nát bét hết những giấc mơ.
Buồn đến dại đi, đến xiêu cả đôi chân, trắng dờ con mắt, nghe câu hát “tình yêu như vết cháy trên da thịt người” mà buột miệng, sao nói trúng dữ vậy trời. Nhưng buổi chiều từ công trường về, anh lại qua nhà ông già, bày ra cuộc cờ mới. Những con cờ trong tay anh táo bạo hơn, liều lĩnh hơn, ngạo mạn hơn, nhưng cũng có lúc dại đi, ngập ngừng. Ông già có chút ngẩn ngơ, những nước cờ cho thấy lòng thằng nhỏ này đang đau, đáng lẽ nó phải giận mình, không thèm dòm mặt mình cỡ nửa năm chớ.
Những ván cờ chiều vẫn tiếp tục bày ra, bất chấp nắng mưa, bất chấp những nỗi lo cơm áo, bất chấp lòng đau, bất chấp cô gái đã theo chồng từ tháng Giêng gió bấc. Ông già lủi thủi đi vào đi ra trong căn nhà vắng, buồn hiu, trông cho mau hết ngày, cho mau đến chiều, ông bắc ấm nước, châm bình trà, ngồi ngó ra đường, xao xuyến ngóng bóng người quen bước qua cổng. Đấu thủ giỏi ông già không thiếu, nhưng chẳng ai có lối chơi giống anh, ngẫu hứng và hoang dã như ngọn gió. Có bữa, anh từ công trường về muộn, ông già thắt thẻo ra đón tận đầu đường, nhác thấy anh, ông thiệt thà kêu lên, tao ghiền mầy quá trời, nhỏ.
Anh chỉ cần có vậy, chỉ chờ có vậy. Anh đã thắng một ván cờ lớn. Anh đã làm cho ông già không thể sống thiếu anh. Có được chiến thắng này, anh không bỏ sót một chiều nào, để ngồi chơi cờ với ông. Anh đưa ông già vào một thói quen bất di bất dịch. Nhiều khi từ công trường về, mệt rã rời, có bữa nhậu nhẹt say mềm, anh vẫn ráng ngồi chơi vài ván. Nhưng khó nhất, là anh phải che giấu mối hận trong lòng mình, bởi những người chơi cờ giỏi luôn đọc được ý nghĩ của đối thủ. Anh không biết mình lấp liếm bằng cách nào mà ông già không hay biết, thằng nhỏ này đang căm hận, bởi câu nói nghe lóm được một hôm nào, thằng nhỏ này nghĩ, cô gái đó hẳn cũng thương mình, có tình ý với mình, nếu không thì cô đâu có rón rén thò đầu ra khỏi cửa buồng cười với anh, nếu không thì cô đâu có kiếm cớ quét sân mỗi chiều để tiện cho anh nhìn, nếu không thì cô đâu có đỏ mặt khi vô tình anh chạm vào tay… Chỉ tại ông già cản ngăn, ép uổng.
Và anh cũng không biết tại sao mình lại kiên trì cho một kế hoạch trả thù đến vậy. Có lẽ, cuộc tình tan vỡ đã để lại trong lòng anh một khoảng hẫng, khoảng rỗng không, và mối hận với ông già là điều duy nhất anh có thể níu lấy, tựa vào mà sống tiếp. Những lúc nghĩ tới cái ngày anh từ tốn buông từng con cờ lăn long lóc trên đất, và rất chậm rãi, ngạo mạn, anh lạnh lùng mỉa mai, “tôi không thể chơi cờ cùng ông được, bởi vì tôi nghèo, tôi không gốc gác, tôi thân sơ thất sở, tôi thấy không xứng…”, anh tưởng tượng mặt ông đã tái dại đi. Và mỗi chiều phai, ngồi nhìn về phía dãy nhà người ta cất cho thuê, ông già mỏi mòn, hoang vắng, tuyệt vọng. Còn anh, không cần ăn gì cũng thấy sướng, thấy no nê.
Anh định kết thúc ván cờ vào một ngày gần, nhưng ông già đã bỏ cuộc. Ông ra đi vì một cơn đột quỵ. Anh ngơ ngác. Những buổi chiều từ công trường về, anh để nguyên bộ đồ lấm lem bùn đất, xi măng, đứng dán rất lâu vào cánh cổng đã đóng chặt. Anh nhớ ông già khủng khiếp, nhớ từng sợi tóc, từng nếp nhăn, từng mảnh da khô bong lên lùi xùi trên mặt. Nhớ ông già luôn kẹp con cờ vào giữa ngón trỏ và ngón giữa, dịu dàng, hờ hững, nhớ ông dù cao hứng cỡ nào thì con cờ cũng được đặt rất khẽ khàng, nhớ ánh mắt ngậm ngùi nhìn theo con tốt bị ngựa của anh loại ra khỏi cuộc chơi, nhớ cái vẻ sướng rơn mà cố che giấu, kìm nén, nên chỉ hơi ve vẩy hàm râu mỗi khi ông lật ngược được thế cờ. Anh nhớ mùi dầu cù là Con Hổ trộn lẫn mùi băng phiến nơi cổ áo quăn queo.
Anh không còn nhớ câu nói nào xa xưa nữa. Một mình bày ra một ván cờ hoang vắng, trong anh tràn ngập nỗi buồn.

Đãi bạn
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

Nhỏ bạn lấy chồng, ngày cưới tôi không xin nghỉ được, đêm đãi bạn buộc phải đi. Bữa đó mưa đủ kiểu, khi tôi ra xe thì mưa nhỏ, lâm râm, bụng nghĩ, ông trời thương mình rồi. Nhưng ông trời ngạo nghễ cười, sức mấy mà ta chiều bây, vậy là mưa ào tới, nó đón tôi ở một khúc quanh trên đường, rồi thì dìu dặt mưa, mưa dìm con đường lún mãi vào làn nước. Tới nhà bạn thì ướt ngoi ngóp.
Tới nhà bạn, ngồi lau tóc, bỗng nhớ ra, hình như lâu lắm rồi mình không đi những buổi tiệc kiểu này. Bà con, bạn bè cưới thì đợi đúng giờ cái thiệp tới nhà hàng, nhào vô ăn. Nhiều lúc ra về mà quên coi cô dâu mặc áo cưới màu gì. Lần gần nhất là thằng em cô cậu lấy vợ, cũng đã ba năm trước. Một buổi tối đãi bạn lạt lẽo. Thứ ăn đặt sẵn ở nhà hàng. Dàn âm thanh cứ dội vào tai vào óc vào tim mấy bài nhạc đám cưới “Ôi vui quá xá là vui..”. Ngồi giữa đám đông mà xơ lơ xáo láo, chẳng biết nói gì, có nói cũng không ai nghe được tiếng ai, đành cắn hột dưa chịu trận. Sáng sau thì chảy máu cam.
Nhưng tôi không tiếc gì ít giọt máu đó mà chẳng chịu quay lại những đêm đãi bạn khác. Chỉ là cái cảm giác chán, nhạt, rỗng không, vô vị. Vì vậy mà bạn cũng bất ngờ, khi thấy cái cây làm biếng (tụi nó gọi tôi vậy) đã mọc quá nhiều rễ ra khỏi nhà. Bạn không biết đãi bạn (hay cả ngày nhóm họ) với tôi như mối tình đã phai rồi. Gặp lại một cái tên quen thuộc, nhưng diện mạo và tâm hồn gã đã khác xưa. Cho nên ngồi ngay trong lòng gã tôi đi thương nhớ gã.
Nhớ cái hồi gã hay làm tôi xao xuyến bởi những cái thiếp mời nhỏ xíu, nằm gọn trong lòng tay. Người cầm thiếp đến thường là bạn trong xóm, rất thẹn thùng, dặn thêm, đãi bạn, nhớ tới chơi nghen. Sao mà không, chỉ hai tiếng “đãi bạn” thôi đã làm lòng tôi rộn lên rồi, đã gợi lên biết bao nhiêu hình ảnh. Những miếng mận, cóc, ổi nhỏ xíu, trái xơ ri nhỏ xíu được đính quanh trái khóm đã được gọt vỏ, tỉa tót rất đẹp bày ở giữa bàn. Còn có mấy dĩa hột dưa, mấy dĩa bánh bò, bánh bông lan, bánh kẹp. Bọn tôi, vừa bước qua thời con nít, nhưng lại chưa đủ chững chạc (!?) để dự tiệc cưới chính thức nên được giành cho một buổi tối xí xớn, cắn hột dưa, mời nhau miếng mận nhỏ xíu, thẹn thùng hỏi, “bạn tên gì lận?”. Tụi con trai thì chỉ một bài, “bạn ở đâu lận, sao tui thấy bạn quen quá hà”. Sau đó, để nuốt cục mắc cỡ vào bụng, cả bọn uống… nước ngọt, uống đến môi đỏ rực lên (do nước rẻ tiền, nhiều phẩm màu, chứ lúc đó làm gì có pepsi, hay coca cola), sau đó nhà bếp sẽ mang cháo khuya ra. Và bọn tôi ra về, lao xao dài theo xóm, lẫn trong tiếng chó sủa vang là tiếng đàn ca vẳng từ đám cưới. Bài “tình anh bán chiếu” liêu xiêu dằng dặc theo gió làm xốn xang những đứa trẻ mười tám tuổi, cái ngày mình lấy chồng, có ai đến hát bài này để nuối tiếc một cuộc tình thầm lặng không?
Trong ký ức tôi, cái gã mang tên “đãi bạn” là hiện thân của những bồi hồi. Từ nhận thiếp mời, là chộn rộn lo không biết hôm đó mình… mặc bộ đồ gì, tặng bạn món quà gì. Mà những món quà xưa đó nhớ lại buồn cười không chịu nổi, bức tranh sơn mài nhỏ đôi uyên ương đậu nhánh mai, quyển album hình, hay có khi là cái… đồng hồ treo tường rẻ tiền, nhiều tới mức đôi vợ chồng son chẳng biết làm gì với chúng. Quà vớ vẩn, cho một buổi tiệc vớ vẩn nhưng là tất cả sự xao động. Nên buổi tối trước cưới cả ngọn gió cũng xốn xang. Man mác. Bâng quơ. Phải rất dịu dàng mới bắt được một cái nhìn buồn, mới thấu nỗi lòng gởi vào tiếng ca, mới nhận ra người đang ngổn ngang với chính mình. Ai đó sắp từ giã những ngày rong chơi, ai đó sắp xa mãi mối tình câm, ai đó vơ vẩn tự hỏi bao giờ thì đến lượt mình mang thiếp mời đi khắp xóm. Và ai đó ngồi nhìn người đang day diết hát bài chia biệt, chỉ cần người ấy ngoái nhìn lại phía sau lưng, sẽ gặp một ánh mắt thiệt buồn.
Nhưng người đó không quay lưng lại. Và nhỏ bạn tôi đòi uống rượu. Đó là cái ký ức rõ ràng nhất của những đêm đãi bạn, tất nhiên, cũng phải kể thêm lần đầu chạm tay ai ở lối rẽ vào nhà. Lãng mạn, thơ mộng dã man.
Cho nên bây giờ tôi chỉ biết ngồi… cắn hột dưa để nhớ về “gã” mà tôi yêu hôm xưa. Tối nay, “gã” ngồi uống bia trong lúc vài ca sỹ của dàn nhạc thuê về ca mấy bài tình ẻo uột mà mặt trơ trơ. Mưa tạnh lâu rồi. Tôi định về. Nhưng thằng bạn học cứ rủ ở lại thêm chút nữa, chút nữa, chút nữa thôi. Coi bộ nó say, nên đòi hát. Và lần đầu tiên kể từ khi biết nhau, một thằng kỹ sư cơ khí khô khan, héo hắt với cặp kính cận dày như đít chai, tôi mới nghe bạn hát. Dở ẹt. Vì nghẹn ngào, “Tôi đưa em sang sông. Chiều xưa mưa rơi âm thầm…”.
Trời ơi, hình như cái “gã” mang tên “Đãi Bạn” vẫn còn là cái “gã” mơ mộng, man mác, dù thời gian đã làm “gã” thay đổi, sang trọng, bệ vệ, xa cách hơn. Nhưng mãi mãi, “gã” vẫn làm người ta bồi hồi, xao xuyến, vẫn mang ý nghĩa của một đêm đưa tiễn, người tiễn người, người tiễn mình, ta tiễn ta…. Muộn rồi, nhưng có còn dịp nào nữa để hát “người ta đã có đôi rồi, chiếu chăn đâu ấm bằng người tình chung”?
Tôi ngồi liếm đôi môi rát, mai mình sẽ chảy máu cam. Nhưng trong cái tiệc đãi bạn tối này, có người chảy máu trong lòng nữa kia.

Mờ mờ nhân ảnh
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

Đáng lẽ tên nhân vật này là Nguyễn (lúc này Nguyễn là tên thịnh hành, chẳng phải các vị lãnh đạo cao cấp của mình hầu hết đều là Nguyễn đó sao, chẳng phải quá chừng đông nhà văn, nhà thơ trên đất nước này đều là Nguyễn đó sao!), nhưng nghĩ lại, gọi là Harry Potter là hợp lý. Lý do: chẳng ai gắn bó với kính như chàng phù thủy dễ thương nổi tiếng này. Câu chuyện như sau: bữa nọ, vì yêu thầm nhỏ bạn xinh đẹp, Harry quyết định bỏ kính qua một bên, cho… có vẻ đẹp trai, phớt đời, sương gió. Chàng ta mặc cảm với cặp kính mọt sách của mình. Chàng ta dùng bùa chú nhốt cái kính vào chiếc hộp có 2 tỉ ổ khóa với 2 tỉ chìa khóa được trộn lẫn vào nhau.
Từ giã một cuộc đời rực rỡ, Harry bắt đầu sống với đôi mắt xuống cấp trầm trọng, mờ mịt, tầm nhìn xa chưa đầy… một mét. Hồi nào giờ Harry chưa nhìn đời lung linh như vậy. Bây giờ thì tha hồ mơ mộng. Những phố, những nhà bỗng chênh chao như trong khói nắng. Qua sông, thấy sông chìm lãng đãng dưới sương. Rác xao xác trên đường cũng chẳng khác gì lá vàng đang hát khúc ca về cội. Đời ít màu sắc, không chói gắt, mọi hình khối trở về với sự đơn giản nhất, ít chi tiết nhất. Quá hay.
Chàng phù thủy suốt ngày chỉ lo học hành, đánh đấm đã biết thẫn thờ, mộng mị. Mắt lúc nào cũng dịu dàng, mơ màng. Coi đá bóng, ti vi cách chừng hai mét nhưng chỉ thấy áo trắng, áo đỏ chạy tới chạy lui. Vài người bỗng đẹp lên một cách ngỡ ngàng vì được lược bỏ một số chi tiết thừa, chẳng hạn như mặc áo chim cò, quần thì rách lai, tóc tai bờm xờm...
Bỏ kính, tai Harry tự dưng cực quá chừng. Nó phải lắng nghe, cảm thụ, phân tích những xấu đẹp của đời. Không ám ảnh bởi vẻ đẹp của người ca sĩ, của sân khấu lộng lẫy, tim Harry chẳng thèm run rẩy trước một tà áo xẻ cao, chỉ còn nao nao vì thanh âm thuần khiết của những bài hát quá chừng hay. Harry bồi hồi phát hiện ra mình có khả năng nhận biết tiếng từng bước chân trên những bậc thang, phân biệt được những tiếng cười ở phía xa xa, có cái cười nhiều thanh âm vỡ, lạc đi, có tiếng cười lạt nhách, có tiếng cười hể hả, phơ phởn, xủng xoảng và có tiếng cười buồn như cái ho khan... Tiếng cười mở ra những phận người.
Mắt mờ, Harry sống chậm hơn. Cậu thường mở cửa sổ, nghe gió run rẩy trong vòm cây bên dưới, những viền lá chạm vào nhau khẽ khàng, rụt rè, tê dại như lần đầu tiên người ta chạm môi nhau. Cách một bờ rào, xóm hẻm đã không còn ở đó nữa, hiện thực hơi lùi lại... Những mái nhà lem nhem khói, chắp vá bằng những tấm tôn, tấm nhựa rối nùi bỗng chỉ là bức tranh màu nước, hơi xa, chỉ tiếng chửi thề, tiếng trẻ con rượt đuổi nhau, tiếng rao, xoong chảo khua, tiếng khạc nhổ... là xao động. Giống như có người bịt mắt Harry, cậu nghe hơi thở phập phồng nóng bừng sau gáy, ngửi được mùi dầu gió trên tay, cảm nhận được khuôn mặt đó, nhưng cậu không thấy, hay thấy bằng cách khác, bằng tinh tế, bằng nhạy cảm, bằng nỗi nhớ, bằng tâm hồn của chân tóc và đầu những ngón tay.
Bằng cả những giác quan còn lại. Cái mũi xấu xí cũng thôi mặc cảm. Nhờ nó, và mùi bắp nấu, Harry biết bên hẻm, người đang sấp ngửa với cuộc mưu sinh. Bên ấy, khói đang lên, những ngọn khói ban đầu thì mảnh, khẽ khàng, dùng dằng, sau cuộn lên day diết. Lên cao, gió khuấy loãng khói chỉ còn là những cái gợn xanh xao. Cậu ta nhìn thấy khói, bằng ký ức những ngày rỗng không, viết không xong, đọc sách không xong, chán người và cậu đã ra đây nhìn khói. Trong khói có mùi bắp nấu ngọt lành.
Cái kính dày như đít chai vẫn nằm im trong hộp. Từ khi rời nó, Harry hiền lành kỳ lạ, dịu dàng kỳ lạ, trên môi cậu luôn sẵn một nụ cười. Cứ thấy lờ mờ bóng người lại nhoẻn cười, vì lẫn lộn những người quen và không quen, không cười thì sợ phụ nhau. Nên một bữa tụi phù thủy hắc ám đi ngang qua chàng phù thủy nhỏ, bỗng hết hồn khi thấy cậu ta cười cực kỳ thân thiện, dễ thương. Cả câu bùa chú tàn khốc nhất cũng không làm cho kẻ ác rối bời như một nụ cười thương yêu, nồng hậu.
Cả Harry cũng ngỡ ngàng nhận ra, không nhìn đời khắc nghiệt bằng mắt nữa, bỗng dưng dịu lại những vết thương lòng.
Mẹ

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư

Con nhỏ mười lăm tuổi, nổi bật trong xóm hẻm bởi gương mặt dễ thương, hoàn cảnh éo le, cha chết, mẹ đi lấy chồng khác, con nhỏ sống cùng ngoại già. Mà không, chính xác thì một nửa ở với ngoại, một nửa ở ngoài đường. Con nhỏ đi chơi vô phương.

Có dạo thấy mình hơi mập, mặc đồ mất đẹp, con nhỏ đi mua vòng về lắc. Con nhỏ càng lắc eo càng to. Chạy bộ cũng không ăn thua. Người nhà nghi ngờ dẫn con nhỏ đi bác sỹ, vô phòng khám nó hỏi, chú ơi, có thuốc gì cho con ốm bớt hôn, mập quá, tụi bạn con nói con giống… heo.

Chẳng có phương thuốc nào cho vòng eo vượt trội nữa, con nhỏ có bầu. Xóm hẻm dậy động, bàn tán xem tác giả là thằng nào mà ác nhơn. Nhưng bó tay, bởi con nhỏ còn không biết. Mỗi chiều nhìn con nhỏ ểnh cái bụng đứng tựa bức tường đầu hẻm vô tư ăn cánh vịt chiên, dầu bết ra tèm lem trên khoé miệng, lòng tôi bỗng quặn đau, trời ơi, trẻ con như vầy mà phải làm mẹ rồi. Ai nỡ lòng…

Người lớn không nỡ lòng, tất nhiên, nên họ toan tính kỹ, chờ con nhỏ sinh xong là đem đứa bé cho người ta ngay. Gia thế nhà đó cũng khá, người coi bộ hiền. Cho, còn có thêm chút tiền. Con nhỏ gật đầu chịu liền, cho thì cho. Nó hết hồn khi nghe người lớn dọa, trẻ con sẽ trói tay trói chân mẹ ghê lắm, không mong gì còn được đi chơi. Gì chớ, không thể đi chơi thì chết còn sướng hơn. Bữa con nhỏ sinh, buổi sáng nó còn đi ngồi Karaoke với bạn, nửa chừng, nó xin dầu gió thoa bụng, cằn nhằn không biết hồi sáng này ăn cái gì mà bụng đau quá chừng. Vậy cũng xong. Mấy bà già trong bệnh viện nói nó đẻ như gà, dễ ợt. Người xanh lướt, đau đớn, nhưng con nhỏ vẫn cười lỏn lẻn khi thấy tôi vào thăm, “chế coi, cái chân nó nhỏ xíu mà hồi còn nằm trong bụng nó đạp mạnh dã man”. Nâng thằng bé trên tay, tôi buộc miệng, “Chèn ơi, em bé thấy cưng quá hén, đẹp thiệt, đẹp quá chừng”. Người lớn đứng gần đó đá vào chân tôi. Người lớn sợ tôi khen rồi mẹ trẻ con nắm níu con, dù sự thực ràng ràng trước mắt, thằng bé đẹp như trong… lịch Tết. Ai đi qua đi lại cũng trầm trồ. Nhưng rủi thiệt, sau câu nói vô tình của tôi, con nhỏ bỗng năn nỉ, để cho em bé ở với con thêm một ngày nữa hén, rồi hãy kêu người ta lại bồng đi.

Sau này, người lớn tiếc nuối, nói vì một phút yếu lòng mà họ bị dụ. Để đứa bé lại, suốt đêm đó mẹ trẻ con không ngủ, cứ nắn tay, rờ chân, lật lưng ra săm soi từng bớt đen bớt đỏ của con. Đứa bé cũng chẳng ngủ yên vì mẹ cứ hôn hít khắp mình, hôn cả lên đuôi mày, cuối mắt, hôn từng lọn tóc mỏng, từng ngón tay non. Lặng lẽ. Sáng sau, người xin đứa bé hí hửng tới sớm mang theo chút tiền hậu tạ, con nhỏ quăng tiền ra cửa, vừa giãy khóc vừa chửi bới dậy động cả khoa Sản. Nó chồm lên choàng qua đứa bé, nước mũi chảy kéo dây kéo nhợ lòng thòng. Người trong căn phòng cũng quay mặt đi, quệt nước mắt. Chẳng ai còn có thể mang đứa bé ra khỏi vòng tay mẹ-mười-sáu-tuổi.

Cả xóm hẻm nín thở coi con nhỏ nuôi con. Ngộ, thằng nhỏ chắc nụi, cùi cụi, dù mẹ nó hay bỏ đi chơi. Mỗi chiều ngó qua đầu hẻm, tôi vẫn thấy con nhỏ ngỏn ngoẻn ăn vịt chiên nhưng tay kia đã cầm sẵn trái cóc muối, tôi lại quặn lòng, lại thắt thẻo gọi trời. Có lần gặp nhau trong quán nhậu, cố làm ra vẻ bâng quơ, tôi hỏi, “bỏ con cho ai mà lang thang ở đây ?”, con nhỏ cười toe, “Má tui giữ, tui đi tiếp thị bia để kiếm tiền mua sữa cho con tui uống. Nhưng mai tui chuyển qua làm ở tiệm mat xa rồi. Khách cho nhiều tiền lắm”. Hồn nhiên không chịu nổi. Tôi cười, lại tỏ ra bâng quơ, “làm mấy nghề đó người ta cười…”. Con nhỏ thản nhiên nhìn tôi, nhưng có tiếng khách gọi ở bàn bên kia, con nhỏ chạy đi, vồng ngực nhảy dựng, lúc quay trở lại, nó nói, “chuyện gì miễn là có tiền, tui làm tuốt, tui làm nuôi con mừ. Người ta cười đã đời rồi người ta cũng nín”.

Sau câu nói đó, gặp mẹ - mười - bảy vừa đi đường vừa ăn kem, không hiểu sao tôi chẳng kêu trời nữa, chẳng còn thắt thẻo lo lắng cho đứa bé con. Bỗng trong xóm hẻm đồn ầm ra, con nhỏ đang yêu, đang sống chung với một thằng nhỏ hớt tóc. Hai đứa hay giành ăn với nhau nên hục hặc suốt, nửa đêm nghe chửi bới lộn gan lộn ruột, sáng sau thấy chở nhau trên xe đạp, con nhỏ này ôm eo ếch thằng nhỏ tình tứ, sát vo, cười ỏn ẻn.

Xóm hẻm lại nín thở nhìn con nhỏ yêu. Xóm hẻm chật quá, đông đúc quá, nên phận người cứ bày ra, không quan tâm cũng không được. Thấy thằng bé con mới ba tuổi nói chưa rành mà đi ăn sáng một mình, hỏi ai không đau đáu. Một bữa gặp nhau ở gánh xôi đậu, hỏi bâng quơ, chừng nào lấy chồng đây, con nhỏ ngước lên, giọng lạnh lùng, “Xù rồi. Tui cho de rồi. Thằng mất dạy đó đánh con tui…”. Tôi lặng đi trong một thoáng, có sợi dây thần kinh nào đó bị tê đi, tôi quên luôn việc con nhỏ còn thích nhảy dây, ăn quà vặt, nói lớn, chạy tí tởn trước đám đông. Tôi quên nó mới tròn mười tám tuổi.

Con nhỏ trong mắt tôi bỗng lớn vút lên. Cao tới mức để nhìn thấy cái trán dồ bướng bỉnh lấm tấm mụn của nó tôi phải ngẩng đầu.

“ta vô tình đi lướt qua nhau...”
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

Ba buổi chợ vắng chị. Thằng con tôi thắc mắc, không biết bạn con - dì Hiền đẹp thiệt đẹp đâu rồi. Góc chợ này tôi lui tới từ thằng nhỏ mới đi nhà trẻ, bây giờ nó sắp tốt nghiệp… mẫu giáo. Bây giờ thì người trong chợ thằng nhỏ coi là bạn. Và nó đang níu tay tôi hỏi bạn đẹp của nó.
Tôi nhìn vào cái chỗ đã được lấp bằng một khuôn mặt khác, mà bồn chồn. Tôi nhớ giọng nói chất phát, nụ cười trong vắt, giòn tan, tôi nhớ trên đầu chân mày trái chị có một nốt ruồi, và trán chị có rất nhiều tóc con, lòa xòa. Bàn tay chị trắng bợt vì tiếp xúc với nước ngày này qua ngày khác, bàn tay ấy thường trao cho con tôi những chú cá con còn sống, thằng nhỏ đem về nuôi trong cái ly… cà phê của ba nó. Như thế đã là quá đủ, với một người dưng, tôi nghĩ vậy. Bỗng chiều nay tôi phát hiện ra mình nhớ chị như nhớ người chị gái ruột thịt, mà buồn chưa, tôi không biết gì về chị hết.
Nhà chị ở đâu? Hoàn cảnh sống ra sao? Bữa cơm có thường tươm tất không? Con chị lớn bằng nào? Tụi nhỏ đó hẳn buồn vì mẹ chúng suốt ngày ngồi chợ? Tụi nó có học hành đàng hoàng không? Chồng chị có thương yêu chị không? Anh có nhìn thấy những chỗ loét do nước ăn trên bàn tay chị, có giúp chị có thoa thuốc vào mỗi tối? Sau khuôn mặt, sau cái cười là cả một phận người mà tôi không (hay chưa) bao giờ với tới.
Tôi không tìm được câu trả lời bằng vốn kiến thức trên sách vở mà mình có. Nên xảy ra chuyện vô duyên không chịu nổi, khi mình đã nhậu nhẹt, đã la cà với người bạn suốt nhiều năm, một bữa buột miệng chưng hửng, “Ủa, vậy sao?” lúc biết vợ anh là cô giáo trường làng, con trai mới lên mười tuổi, năm ngoái thì nó mê khủng long, mê tới mức mấy món đồ chơi người ta bày bán ngoài chợ không làm nó hài lòng, và anh bạn nhà thơ của tôi bò ra chế tạo khủng long cho con. Tôi lại “vậy sao?” khi nhìn mấy con khủng long anh làm quá đẹp. Và trong căn nhà tập thể nhỏ xíu, tuềnh toàng, ngó mẹ anh nằm bệnh đã lâu, thoi thóp, tôi “vậy sao?”. Thấy mình gần giống cái ông “Vậy hả?” trong truyện của nhà văn Trang Thế Hy.
Nói chữ gần giống, vì tôi chưa bạc bẽo và vô tình đến mức quên sự hy sinh, quên xương máu, quên nghĩa tình của người khác dành cho mình, nhưng tôi cũng là một phác thảo mới của Sự Vô Tình. Đã hình thành những đường nét. Chiều nay, tôi đã “vậy sao?” khi nghe góc chợ ấy quen ấy kể lại một phận người, bươn chải lặn lội lo cho năm miệng ăn trong nhà, chồng ở không nằm chéo nguẩy, nhậu say và lấy việc đánh vợ làm vui. Chị, “bạn” của con trai tôi đã nằm viện vì những vết thương hằn trên mặt. Mai này gặp lại, cái cười ấy có còn tươi rói trên môi chị?
Chỉ biết, cái cười đó không còn tươi rói, với tôi. Chỉ biết, tôi sẽ dịu dàng ấm áp hơn, tôi không cằn nhằn chuyện cá nhỏ cá to, giá của ngày hôm nay sao cao hơn bữa trước, tôi sẽ cười cùng chị chứ không ra bộ khó đăm đăm, ra bộ ta đây không dễ bị gạt đâu, nghen. Tôi sẽ làm cái điều mà con trai tôi đã làm lâu rồi, khi nó thơm thảo sẻ cho chị ít bánh, kẹo mà nó có.
Chân dung của tôi-vô-tình đã hình thành từ những dấu mực rất nhỏ. Và nó loang ra, người gác cổng xí nghiệp mặt quạu như đeo đá, một bữa tôi “vậy sao?” khi thấy anh đi bán máu để kiếm tiền chữa cho con gái mình khỏi bệnh hiểm nghèo. Ông sếp đầu trọc độc thân hay càu nhàu, cáu kỉnh với đám nhân viên tôi đâu biết từ hồi trẻ đã ôm khối tình đau. Con sông đang chảy kia, tôi đâu biết nó đang đau vì túi rác tôi tiện tay vứt xuống, một hôm nào…
Trượt dài từ “vậy sao?” này đến “vậy sao?” khác. Vậy nên chạm tới nỗi đau nào của người tôi đều ngẩn ngơ, đều tự nhủ, phải biết sớm hơn. Lại một tôi khác lên tiếng, biết sớm hơn cũng chẳng thay đổi được gì. Và ý nghĩ đó đã khiến phác thảo hoá ra người thật, thở thật, sống thật.
Và nhân vật “vậy hả?” đã nhảy tuốt ra ngoài đời, nhân bản thành trăm ngàn người khác với những cái tên khác cũng bằng cách nào đó. Ông “Ủa !?” một hôm ngớ ra khi biết người ta thiết kế những trường học ở nông thôn thiếu mất khu vệ sinh (tôi nghi mấy tay thiết kế này cũng cùng chung một họ “vậy hả?”), hơn trăm ngàn học trò của ông lâu nay đã phải đái bụi, đái bờ, có đứa đái nhầm tổ ong bị ong rượt chạy té re. Ông “Đâu có dè…” một hôm bần thần khi đi qua khu chợ mà chính ông cắt băng khởi công, chẳng thấy bóng người, bởi chỗ này chẳng dân cư, không thuận đường nên không ai chịu vào chợ mua bán. Ông “Sao kỳ vậy trời?” một hôm thừ người phát hiện ra con đường mà mình làm chủ đầu tư không nối xuống Y, một xã nghèo, đìu hiu mà hướng tuốt ra… biển, một đoạn cong vòng vèo ngang qua bên nhà vợ ông. Ông “Tưởng đâu…” một bữa nuốt nước mắt vào lòng nhìn bà con mình áo phơi da thịt, chầu hẩu dưới đất ăn cơm nguội với kho quẹt, muối rang (muối, ăn không cũng ngon, nhưng rang để an ủi là hôm mình có nấu nướng, chiên xào, dù chỉ là xào… muối). Ông “Trời đất !?” một bữa đọc báo mới hay dân xã X nào đó ùn ùn đi trồng cà phê trên đất phèn chua thét chỉ vì câu nói bâng quơ của chính ông, vào bữa nào mà ông cũng quên rồi. Lãnh đạo địa phương tưởng thật, đinh ninh là chỉ đạo của trên, nên kêu gọi bà con hì hụi làm. Ông “Sao để vậy được?” một hôm bực mình khi thấy mấy đứa nhỏ trèo lên cây cầu cụt lủn, hai đầu chỏng chơ, không có nhịp nối, không có đường lên, chỉ là ụ đất tròn tròn, để làm bệ trèo, “bà con mình tệ quá”, ông chép miệng. Đằng phía kia, cha của mấy đứa bé, thấy con cực khổ, xót ruột quá, đứng chống nạnh buột miệng kêu lên, “trời, mấy ông nhà nước làm ăn kiểu này, sao để vậy được?”, thay vì rủ bà con cho đông môt chút, khiêng đất đi làm cái mố cầu. Ông này, rốt cuộc trùng tên với ông kia.
Và trong hành trình đi lướt qua nhau, những em bé kia sẽ còn vất vả đến chừng nào?
Và trong hành trình đi lướt qua nhau, phận người ai thấu?
Ngày mai của những ngày mai...
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

Phải có đến hàng trăm lần, tôi nghe và nói cái câu nào đó tương tự như “hẹn mai mốt gặp”. Như một thói quen, như một câu chào, người ta tự nhiên nói mà không quan tâm điều đó có xảy ra hay không. Và cái câu hẹn mai mốt gặp trong tôi luôn mang ý nghĩa, chào nghen, tôi về.
Và cái buổi nắng lên trong vườn dừa hôm ấy, tôi cũng nghe lại câu này, “hẹn mai mốt gặp, mình nói chuyện nghề chơi”. Người “hẹn hò” tôi là một ông già gầy gò, kham khổ. Tôi không trả lời được, tôi thoáng nghẹn đi, vì cái cảm giác tiếc nuối do chia tay vội buốt ở đầu mắt, thì cuối mắt ông nhấp nhánh ánh lên sự hy vọng hồn nhiên. Mai mốt gặp.
Lưng bỗng đau khi day lại phía ông già. Chân bước đi cũng đau. Gáy tôi nhìn thấy cái tuổi tám mươi tư của ông già đứng im sững bên chái nhà, nơi đặt bộ bàn tiếp khách. Gáy tôi lạnh. Trời ơi, sao ở cái tuổi ấy người vẫn còn có thể thanh thản hẹn với một ngày mai?
Hơn ai hết, ông già biết ngày mai đó rất xa xôi. Bởi ông không còn sức để đi chỗ này, chỗ khác, không thích những chỗ xô bồ xô bộn, họp hội xinh xang. Chủ nhân (dù muốn hay không) của câu nói nổi tiếng ngang tàng ngạo nghễ, “đi chỗ khác chơi” đã chọn chơi với mảnh vườn yên tĩnh của mình. Con mương vườn rụng đầy những trái dừa chuột cắn, mấy cây bưởi ngoài sân trước. Hơn ai hết, ông biết đôi chân mình đã mỏi, lời đã mỏi nụ cười đã mỏi, chỉ ánh nhìn là vẫn lấp lánh sự tinh quái, làm tôi thót tim lại, hôm đầu gặp ông.
Cái nhìn soi thấu vào gan ruột người ta. Trong những cơ may gặp gỡ mà tôi có được, chỉ vài ba người làm tôi sợ, vì cái sự-đọc-được-người-khác của họ. Ông già cũng làm tôi sợ, ông thấu được một tôi nông cạn, hời hợt, dại dột. Cũng chẳng có gì nghiêm trọng, chỉ là cảm giác mất tự do, mình sống thế nào, mình che đậy thế nào, mình xoay bề nào ông già cũng ngoáy cái ánh mắt tinh quái, cái cười hóm hỉnh vào, chọc chọc. Đối mặt nhau qua cái bàn trà cũ kỷ, nhưng mỗi lần nghe ông già dùng trí nhớ mẫn tiệp của mình dẫn lại mấy câu văn dài ngoằng của Lỗ Tấn, một đoạn truyện cũng dài thườn thượt của Ernest Hemingway, tôi lại cảm giác ông già ở trên cao, và mình trong cái thế phải ngước lên, ông thầy giỏi mà kẻ học thì lơ ngơ, như vói hái trái ở một cành cây quá đầu, mỏi chân, mỏi cổ quá trời.
Nhưng tôi biết, cái cội cây già ấy sâu thẳm tự đáy lòng muốn trao trái cho đám trẻ như tôi. Cái cây vẫn còn quá nhiều trái trên cành mà thân đã dần cạn nhựa, cây không muốn trái cũng chết khô giữa trời. Trái kia, phải được hái khẽ khàng, để một hôm nào đó, sau mưa, hạt lại ươm mầm trên những mảnh đất mới và đầy sức sống.
Thiệt tình, đó là tất cả những gì tôi muốn khi bước chân qua cánh cỗng xiêu xiêu kia. Học. Tôi chỉ cần có vậy, học tất cả những gì ông già có, nhân cách sống, sự lịch lãm, ngạo đời, vốn kiến thức văn học giàu có, cái nhìn nghề khe khắt… Nhưng học ông già này hơi bị… khó, nên bước chân ra về lại rấm rức, sao mình không thể ở lâu hơn, mà tôi đoán phía bên kia cũng… ấm ức giống tôi. Đã nói gì được nhiều đâu, đã cho và nhận kịp đâu, nhìn thẳng ông già tôi còn không dám, nói gì tôi đã chạm được ông. Mà, tôi muốn chạm vào ông, muốn đọc chút xíu ông, muốn tự mình dệt nên một câu chuyện tếu táo gì đó về ông, lâu nay tôi toàn nghe giai thoại của người khác. Vậy nên cả hai không thỏa, vậy nên ông già ngó tôi mà rằng, “mai mốt mình gặp nói chuyện nghề chơi”.
Và tôi ngẩn ngơ. Tôi muốn gặp ông già lần nữa, lần nữa, gặp hoài nhưng tôi không bao giờ cất lời hẹn lần sau. Hơn ai hết, tôi biết mình lâu lắm mới sẽ trở lại nơi này, lâu lắm tôi mới lại qua sông Tiền, vì tôi ở xa, vì tôi là đứa ru rú xó nhà ít lang thang đây đó. Tôi tầm thường đến nỗi lên xe rồi, cứ nghĩ tới chuyện nhà không ai quét, con trai không ai nấu cơm cho ăn, và nghĩ tới cái gối ôm có hình mấy con thỏ thả bong bóng bay là tôi muốn quay lại cho rồi. Nhưng nếu muộn hơn, bạn bè tôi còn, những vườn dừa còn, nhưng ông già Nam Bộ ngạo đời ấy tôi không còn cơ hội gặp nữa, ý nghĩ đó đã đưa tôi đi, vượt lên những lười nhác. Gặp lần đầu, tôi vẫn không tin mình sẽ gặp ông lần hai, và gặp lần hai, tôi làm sao biết được có còn lần nữa.
Bởi những cuộc hẹn sẽ có ít nhiều đổ vỡ, bất trắc. Trên con đường đi đến đó, có khi tôi đau bụng nên quay lại, có khi tôi gặp bạn bè và say mèm ở dọc đường, có khi chiếc xe trở chứng xịch lụi chết máy. Tôi đến nơi thì người cũng vừa đi khuất. Mà bất trắc thì quá nhiều nhân dạng. Vượt qua khoảng cách địa lý, vượt qua những rào cản lặt vặt như… cái gối ôm để thực hiện cuộc gặp, nhiều khi lãng trân. Tôi không là tôi cũ, người không còn là người cũ, gặp nhau cũng như không. Ông già thì vững trân một nếp, nhưng tôi? Chưa chắc… Tôi đã có lần gặp bạn mừng chưa hết, thì nói câu gì đó đau lòng rồi cuộc hẹn tan mau.
Nhưng có một dạng bất trắc hơn cả mọi bất trắc mà tôi không bao giờ kịp quen. Đi đám giỗ, gặp nhỏ em họ cùng tuổi, hẹn nhau đám giỗ sau, nhưng nó đã bỏ đời đi sau một cơn buồn. Có người hôm trước gặp nhau còn cười hỏi, “ê khoẻ hôn, lâu quá không nhậu nghen, mai mốt rảnh rổi, anh gọi”, hôm sau thấy anh cười trên ti vi, nụ cười đã bất động, không thể tin, người cười đẹp vậy sao có thể thản nhiên ra đi giữa khuya vì đau tim được hả trời. Và bất trắc thì đôi khi không chờ giữa hai lần đám giỗ, không chờ qua một ngày, bất trắc chỉ trong tích tắc, một cô gái ngún nguẩy đuôi tóc, tung tăng bước qua đường vẫn trong tầm nhìn tôi, tôi vẫn chưa chớp mắt thì chiếc xe điên cuồng nào đó đã huỷ hoại cuộc sống của cô rồi, chỉ một phần trăm của giây. Trong những câu chuyện thường ngày quanh ly rượu, chén trà, sau tiếng thở dài, người ta chép miệng, “mới hôm qua…”, “mới cái độp đây mà…”. Bất trắc nhanh đến nỗi khiến người ở lại phải hoang mang giữa tuyệt vọng và hy vọng, giữa có nghĩa và vô nghĩa, bởi rõ ràng thân xác đã nguội rồi, rồi, nhưng cảm giác về người cũng còn nguyên vẹn. Trong veo. Rực rỡ. Tôi sợ…
Ông già thì đã tám mươi tư…
Nhưng ông già đã hẹn tôi, ông không thèm nhìn cái tuổi tám mươi tư của ông, mà sao tôi cứ nhìn mãi, thấy mãi. Xe tôi khuất qua những thôn xóm, qua trùng trùng muôn muôn những vườn cây trái, những dòng sông, hàng trăm cây số, về đến nhà, đóng chặt cửa, nhắm mắt lại tôi vẫn nhìn thấy mái tóc ông bạc, lưa thưa, giọng nói đã hơi run khi vượt thoát khỏi đôi môi, và gầy đến chiếc áo của ông cũng ngẩn ngơ như nó đã đánh mất da thịt của ông rồi.
Nhưng ông già đã hẹn tôi. Ông không thấy cái tuổi tám mươi tư của mình, bởi vì ông không có tuổi, chẳng bất trắc nào đánh gục được ông, ông sống hàng trăm tuổi ấy, với những gì ông để lại. Một nhân cách hơi kỳ lạ, cô đơn sâu nhói, đeo đuổi sự tự trọng đến cuối đời. Những trang văn đau, sâu sắc, tinh tế, mà sang trọng, lịch lãm. Ông “đi chỗ khác chơi”, không “bẹo hình bẹo dạng” nữa, nhưng nhiều người vẫn gặp ông khi qua căn gác cũ, con đường cũ, quán cũ, trang sách cũ… Bao giờ còn những khoảnh khắc mà các hạt bụi như tôi bỗng nhớ đến non-ông, nhớ cái cây cổ thụ già ấy thì ông vẫn còn nguyên trân đó, dù cái áo xưa đã xếp lại, hết chỗ cho nó phất phơ rồi.
Hóa ra, cái hình ảnh tám mươi tư tuổi của ông già chỉ là tôi mượn để nói tránh về một tôi già nua, chỉ tôi là nhìn thấy tuổi, nhìn người, nhớ người, hẹn người bằng tuổi. Tuổi không phải là biểu tượng của đời đâu, nhỏ ơi. Ông già chắc không biết là câu nói hẹn gặp lại bị tôi suy diễn xa dữ vậy.
Đơn giản, chỉ là ông kêu có dịp thì gặp nhau, nói chuyện văn chương vô tận chơi thôi. Đơn giản là tuổi già của ông bị cô đơn ăn hiếp quá, dồn đuổi quá, lâu lâu có đứa nhỏ buồn mà cà chớn như tôi đến chơi thì vui chớ sao. Thì muốn còn tập tiếp theo chớ sao. Dù ngày mai, mốt đó là của những ngày mai, mốt khác. Nó xa, nhưng mà gần, cứ kêu lên, ngày mai, chẳng phải qua đêm nay là tới sao? Những hẹn hò có khi mãi mãi là hẹn hò, nhưng nhờ nó, người ta mới chịu khó ngồi nuôi dưỡng niềm tin. Tôi mới chịu khó sống và viết, tôi mà tệ quá, ông già không chịu tiếp, thì chết.
Tôi vẫn còn muốn hái thật nhiều trái chín của cái cây cổ thụ tuyệt đẹp có sức sống mãnh liệt đó. Tôi tham quá trời đi.
Mai mốt gặp, dạ, mai mốt gặp.

Người giàu cũng... giấu
Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư


Hoàn toàn không phải ghen tị nhưng hơi ấm ức. Hơi tức. Đó là cảm giác đầu tiên khi hay tin người bạn mua một thửa đất biệt thự trong khu dân cư cao cấp. Thông tin này mở đầu chầu cà phê sớm, và vài người cũng chưng hửng như chị, thiệt hôn nghen, con nhỏ đó than nghèo nát ruột mừ. Và ai đó cũng cười, than nghèo không có nghĩa là không giàu.

Nhưng người bạn của chị nào chỉ kể lể nghèo, mà bạn còn sống như một người nghèo. Lúc nào cũng mệt mỏi, lo toan, như đang nghẹt thở trong chiếc áo chật, bạn đau đáu, đè nén trước một con cá lớn, một chiếc áo đẹp, một chuyến đi chơi xa. Bạn dậm chân dậm cẳng khi đổ bệnh bất ngờ, bồn chồn “trời ơi, uổng tiền muốn chết, mình không dám ăn, không dám mặc, vậy mà…”. Ngắc nga ngắc ngoải giữa chữ nghèo, đùng một cái, bạn có tiền (gần) tỉ để lo mái ấm cho mình.

Vậy mới ứa gan, bởi cái sự giả bộ nghèo của bạn làm mọi chung quanh mệt mỏi không ít. Ai cũng thương, cũng lo, cũng chia sẻ từng chút. Những cuộc vui, vắng bạn, nhiều người thắc thỏm, nghĩ tội cho con nhỏ bạn nghèo, giờ này chắc đang ngồi bó gối ở nhà mà nhớ tụi ta. Chị nhiều khi cũng bận lòng, khi sắm chiếc áo mới, đôi giày mới, lại nhớ bạn mình toàn mua hàng bán ở vỉa hè, đầu chợ, bạn chịu khó tìm nên hàng cũng đẹp, mà quan trọng là rất rẻ. Vào quán phở, nhớ bạn mình toàn ăn xôi, ăn bánh mì qua bữa sáng, phở cũng mất ngon. Những bữa trông thấy cái túi treo mấy con cá đối, cá phi nhỏ xíu trên xe bạn, chị đứng bần thần rất lâu, chị thương gì đâu.

Vậy mới ứa gan. Trời ơi, người ta giàu khoe còn không hết, lại có người che giấu chi cho khổ thân. Cả niềm vui no đủ cũng không chia sẻ được với bạn bè. Chị cằn nhằn, có vẻ thương, buồn, lại có vẻ bực mình.

Bạn chị, chút chức tước nhỏ cũng không, nghĩa là bạn có giàu thì cũng không phải dùng quyền lực để tư túi, nói theo kiểu ông cán bộ cơ quan văn nghệ trong bản kiểm điểm cuối năm là “không có điều kiện để tham nhũng”. Bạn cũng chẳng giàu nhờ những phi vụ làm ăn mờ ám, trái luật. Lại không phải vì những món tiền từ trên trời rơi xuống. Chỉ nhờ vào đồng lương, vào tủ thuốc lá đặt trước nhà, vào sự tằn tiện, chắt mót, có mười chín đồng, bạn sẽ cố kiếm thêm đồng nữa cho đủ hai mươi. Nghĩa là quá trời chính đáng, tự hào nếu bạn reo lên, tôi đang giàu có.

Cái thời loạn lạc, trộm đạo qua rồi, những bà cụ già mặc áo rách tả tơi không còn đem tiền, vàng nhét trong hủ sành đem chôn xuống đất. Cái thời cả xã hội căm ghét người giàu (như thể anh giàu nghĩa là anh có tội lớn, anh bóc lột, anh không xã hội chủ nghĩa, anh không theo cách mạng, anh gian lận mánh mung), cái nhìn đó cũng tắt rồi, chẳng ai bảo mình giàu mà thấy xấu hổ đến mức nói lí nhí, mặt cúi gằm nhìn xuống ngón chân. Bây giờ nghèo mới là tội đây, nhiều khi người ta còn sắm nữ trang mạ vàng để đi đám tiệc cho lấp lánh bằng chị bằng em, người ta mặc áo đẹp ra đường để che giấu nỗi khổ tâm vì ngôi nhà rách. Người nghèo mắc cỡ, mặc cảm còn không hết, sắm vai nghèo chi vậy trời.

Chị ngẫm ngợi suốt buổi sớm cà phê đó, hơi giận vì kiểu sống lạ lùng của đứa bạn. Mọi người cười chị, “không thể bắt người ta sống kiểu của cô Hai được”. “Kiểu” của chị, mọi người gọi là “không có cửa’, cứ mở toang ra, chị đã dành dụm được bao nhiêu tiền, xong công trình này chị sẽ có thêm bao nhiêu, chị vừa tốn bao nhiêu để mua mảnh ruộng ở ngoại ô, mọi người đều biết, mà chị giấu làm gì, chị còn muốn reo um lên, bởi chị giỏi làm lụng, bươn chải, nên chị giàu, đâu phải ai ở tuổi chị cũng làm được, phải “nổ” để mọi người chia sẻ với mình chứ.

Nhưng chị đã áy náy vì sự giận dỗi của mình, ngay sau đó, khi về tới nhà, gặp mấy anh cán bộ đằng phường lại vận động quỹ A B C gì đó. Chị nộp một khoản gấp sáu năm ngoái, cũng hơi thắc mắc, nhưng xeo nạy chuyện tiền nong, chị vốn không thích. Nhìn vào danh sách, thấy có mấy người quen khá khẩm hơn mình nhưng khoản nộp thì ít, chị buột miệng, sao vậy kìa, anh cán bộ cười, à, hộ này tụi tui thấy còn khó khăn, nhà toàn xài đồ tre, cái cỗng dây leo sập mẹp họ còn không có tiền sửa”. Chị mắc cười quá, trời ơi, người ta dùng nội thất tre là theo phong cách mới, còn cái hàng rào, chẳng phải người quen của chị đạp sập cho nó… ngộ đó sao.

Tiễn mấy anh phường về trong tâm trạng thẩn thờ, thẩn thờ sau cái câu vô tình, “năm nay thấy chị giàu, tụi tui cũng mừng lây…”. À, cái sự-năm-nay-giàu có liên quan đến khoản tiền gấp sáu đây, có liên quan đến mặt tiền chị mới sơn lại vì lớp sơn cũ đã trôi mất, có liên quan đến cái bàn gỗ chị mới sắm cho khách ngồi, thay cho bộ bàn cũ đã sứt càng gãy gọng, có liên quan đến bộ trang phục đính cườm mà chị đang mặc trên người. Chị mắc cười.

Và ngẩn ngơ, vì cú điện thoại từ nhà, má nói thằng em chị giận chị lắm, buồn chị lắm. Chị ngơ ngác, thằng em mà chị thương hết mực, vì nó phải nuôi cha mẹ, con cái lại đông, quần quật với mảnh vườn, thửa ruộng mà vẫn chật vật. Thằng em này chị thương nó mỗi ngày, mỗi khắc, khi uống chai bia, khi vào rạp xem bộ phim hay dự một đêm nhạc, khi đứng trước những dãy cửa hàng sang trọng… chị đều nghĩ tới nó. Mà bây giờ thì thằng em giận, lý do chẳng rõ ràng lắm, má nói, “Hỏng biết con nói cái gì, hồi nào, em con buồn, nó nói chị Hai ỷ giàu rồi khi dễ người nghèo…”.

Chị buồn lâu ơi là lâu. Bỗng dưng biết rằng, cái món tiền mà mình vắt óc kiếm được hôm nay dường như làm cho vài người đau nhói. Không phải vì sự ganh tị mà vì cuộc rượt đuổi đã quá mệt, quá mỏi mòn… Và để ai đó nuôi hy vọng, chị buột phải giả vờ mình không phải là người đi quá xa, phía trước.

Nước chảy về đâu
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

Chào nhau lúc thị trấn lên đèn, một mình em trở về thành phố. Bốn mươi cây số. Bạn ái ngại cho đứa con gái đường xa vạn dặm, một mình, trong đêm tối…
Em nói em lang thang hoài, quen rồi, không sao đâu. Nhưng nói thẳng ra, em thích lênh đênh trên đường một mình như thế này thì hóa ra quái dị trong mắt của người ta. Bởi cô đơn chẳng phải là nỗi khiếp sợ của người đời sao?
Cứ một năm vài ba đợt em phải tham gia đoàn công tác đi huyện, mỗi đợt kéo dài bốn, năm ngày. Sớm đi, chiều về. Cực chẳng đã, mưa quá, hay nắng quá, hay khúc đường hiểm trở nhiều ổ voi ổ gà quá, em mới chui vào xe ô tô của mấy ông trong đoàn. Em nói em say xe, nên không thích. Sau đó mọi người phát hiện ra em chưa bao giờ say bởi bất cứ gì, (kể cả say người), em đành nói em không quá giang để rồi chờ đợi mệt mỏi, tự dưng không quyết định được chuyện đi ở, tự dưng để người khác giữ chân mình, em không thích. Người trong đoàn không nói gì, nhưng tia nhìn hơi khó chịu, hơi mỉa mai, “người ta nhà văn, nên phải ngạo mạn, lập dị như vầy…”. Em buồn cười, lên xe máy đi tuốt.
Bởi có nói đến Tết thì chẳng ai hiểu được, một mình trên đường là nỗi cô đơn tuyệt vời nhất. Bồng bềnh. Phiêu diêu. Cảm giác không ai theo kịp mình, thấy mình như con bướm cứ chập chờn, chập chờn, không ai nắm bắt được. Vậy là không cần diễn, không cần đối phó, vậy là gương mặt cứ mềm ra, ngây ngây, vậy là ý nghĩ mông mênh, vu vơ không ra đầu cuối, đang nhớ người này, sực nhớ người kia, đang nghĩ tới màu tím của những bông dừa cạn bên đường thì cái vệt xanh của vạt cỏ ống phớt qua, kéo theo những bông lau già bạc phơ phất.
Đây mới là mình. Cái cảm giác đó em chỉ có khi… ngủ. Nhưng vì ngủ sâu nên không ý thức được, không ngây ngất, vui sướng được. Cảm giác đó cũng đôi khi xuất hiện lúc em chen chúc giữa cái chợ đông người. Người lúc nhúc, nhưng ai nấy đều phải bươn tới, phải tất bật, phải giữ cái túi mình đề phòng bọn bất lương, phải cãi cọ đôi co để giằng lại chút tiền nhỏ nhoi. Chẳng ai nhìn lâu vào một cái gì, mắt họ lướt đi trên những món hàng đẹp đẽ, và em được tự do.
Nhưng ở đó, em không có được ngọn gió này, bờ cỏ này, vạt năn cháy nắng, cánh đồng hoang vắng, đìu hiu kia. Theo vòng bánh xe quay, ý nghĩ của em cũng trôi theo, đến nỗi em còn không theo kịp mình. Những cây lức trổ bông trắng xoá bên đường, cái cây quỷ này hồi nhỏ má hay đâm với muối để bó chân mình. Một hàng cây so đũa đang mùa ra trái, mấy chị lỡ thời chắc chạnh lòng, trời ơi, so đũa còn có đôi, huống chi… Một khúc cây nhỏ treo cái chai nhựa tòn ten trước một quán hàng nhỏ, ui trời, đây chắc là “biển hiệu” bán xăng, bà con mình nhiều khi cũng quá trời sáng tạo, treo bẹo cả trên bờ. Và con heo dơ èm ủi đất bên sông, cái xuồng ngập lé đé trong nước, những đứa trẻ tha thểu ngoài sân, bắt chuồn chuồn, cái panô vô “khu dân cư văn hóa”, những người đàn ộng chạy xe ôm chờ khách cháy da dưới nắng, người con gái đội rổ rau nước còn chảy ròng ròng đẫm vai, tổ chim trên lủng lẳng trên đường dây điện rối… những hình ảnh xui mình vừa nghĩ ngược về tuổi ấu thơ lại ngẩn ngơ chuyện hiện tại, chuyện tương lai của… đất nước, chuyện người với người, chuyện bữa cơm trong nhà người, chiều nay…
Và trong đêm tối mịt mùng đêm nay, những con đường cũng không vì thế mà mất đi vẻ biến ảo, lung linh. Em không vì cây cỏ bên đường chìm vào đêm mà thôi nghĩ. Bởi đêm không sao giấu che được sự không công bằng (mà dưới ánh sáng ban ngày, cái - sự - không này bày đầy ra), ở ánh đèn nhỏ le lói trong nhà này và rực rỡ chói lóa trong nhà khác; ở chăn chiếu rách nhà này và chăn nệm ấm ở nhà khác; ở những xóm nghèo chìm lặng như thuở hồng hoang và những khúc chợ đầy tiếng chạm cốc lanh canh lẫn trong tiếng karaoke vống lên trong tối. Nghĩ chán về sự công bằng (vốn không bao giờ có), em day sang những vì sao trên trời, vệt đèn pha của người đồng hành, những cô gái đứng bên vệ đường thẹn thò chờ người yêu tới, mùi cỏ đêm ngai ngái, gió đêm trong trẻo, mát lành… Tất cả những thứ đó em thường nghe thấy, nhưng trong cái thế bị nhìn, trong lúc đang đối phó, và cho dù em tự nhủ mình đang sống rất thật với lòng, nhưng mặt vẫn kênh lên, mắt vẫn tỉnh bơ, nên cảm giác với chung quanh cũng ráo tạnh. Bây giờ, chỉ một mình trôi đi, thấy mọi thứ cùng mông lung với mình, đẹp mà lạ, như mới gặp lần đầu, ngọt lành, mộng mị.
Sông dường như vẫn thường trôi như vậy.
Bạn gọi điện thoại, hỏi, về tới đâu rồi? Em ngơ ngác, không biết bạn ơi. Bạn nhằn trong điện thoại, trời đất, đi tới đâu cũng không biết nữa, đầu óc để đâu. Em cười, và nghĩ, cho tôi làm nước chảy chút nữa đi, làm ơn.
Và nước thì đâu thèm quan tâm mình chảy về đâu…
Nhớ bèo mây…


Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư


Trở về từ trại viết, ông già gọi bạn văn đến nhà uống rượu.

Ông nói ông buồn quá chừng, nhớ đám viết văn làm thơ trong trại quá chừng. Đêm qua, nửa đêm ngồi bật dậy, ngó quanh, ngạc nhiên, ủa, sao phòng này bày trí y chang phòng của mình vậy ta? Vợ ông cười ngất.

Lần đầu tiên trong đời ông tham gia một trại viết văn. Lần đầu tiên ông biết trại viết là… gom những người viết xuất thân, nghề nghiệp khác nhau đến từ những vùng đất khác nhau lại một chỗ, cùng ăn, cùng ngủ, cùng lao động sáng tạo, chia sẻ, đọc cho nhau nghe. Hai mươi ngày, ông già quen với nếp sinh hoạt xao động đó. Mở con mắt ra là nghe những tiếng chào nhau pha lẫn tiếng cười giòn, nhắm con mắt lại vẫn còn nghe ai đó say rượu, đọc thơ nhừa nhựa, “mặt trời xa em lại quá gần. sao em nỡ làm lòng anh lạnh buốt”. Sáng nay, vợ đi chợ sớm, ông ngồi ăn hủ tiếu một mình, mụ mẫm vì nhớ và hụt hẫng, cô đơn.

Nên ông già cần đứa bạn vong niên này, bởi khi ông nói về A, về B nào đó cùng đi trại chuyến này, có thể bạn biết họ, có thể bạn hụ hợ một vài câu, thí dụ như bạn nói “chị H dễ thương lắm”, ngay lập tức ông già khoái chí vỗ đùi, ừ, con nhỏ đó hay nhổ tóc bạc cho chú. Nó thảo ăn lắm nghen, trưa nào cũng mua khoai lang nướng, đi mời từng người, cái tướng con nhỏ vừa ăn khoai nóng vừa hít hà cũng ngộ. Còn thằng nhỏ K thấy tướng hiền, ai dè lù khù vác lu chạy, hẹn hò được con bé đẹp nhất trại viết. Bữa bế mạc, ai cũng khóc, mấy đứa trẻ vừa có ý thương nhau nay ai về nhà nấy, bịn rịn không rời, thiệt tội.

Ông già rơm rớm nước mắt. Ông nói, thiên hạ biết bao nhiêu người mà hết đời mình đâu thể gặp, nhưng nếu gặp được, dù chỉ phút chốc thôi, chắc là có duyên với nhau. Duyên trời. Nên ông dốc cạn lòng mà thương họ. Hai mươi ngày, so với đời người, tưởng ngắn, mà dài. Một người đau, những người còn lại ai cũng trở thành… bác sỹ, thuốc thang lung tung. Một người buồn, cả bọn áy náy, không vui. Ông già nhức đầu, mấy bạn viết trẻ thay phiên bắt gió cho ông. Đi núi chơi, tụi nhỏ đỡ từng bước chân. Sáng nào tụi nó cũng qua phòng “vấn an”, đêm qua bác ngủ có ngon không? Đổi lại, tụi nó nhậu nhẹt say, nằm bẹp trao thân cho… muỗi, ông đi giăng mùng, đắp tấm mền cho từng người. Đôi lúc, bắt gặp mấy đứa con gái khóc nhớ nhà, ông già ngồi lại, dỗ dành. Ông thuộc lòng giọng nói, nụ cười, tính cách, hoàn cảnh của từng người, ông hiểu họ như hiểu bạn chí cốt, như đám con mình. Sáu mươi tuổi đời, mặt trời sắp xuống núi, ông nói ông may mắn có thêm nhiều người thân nữa.

Vì vậy mà bây giờ ông già mới buồn bã, nhớ nhung những người xa, những cụm mây, những đám bèo đã tan rã, lưu lạc muôn phương. Ở một chỗ nào đó, rất có thể có người đang gọi bạn ra quán nhỏ mà than thở, tao nhớ ông già trong trại viết. Ý nghĩ đó làm bạn văn hơi ngơ ngẩn khi nhìn khuôn mặt đã rựng lên vì rượu, thoắt rạng rỡ, thoắt buồn bã của ông già.

Lâu rồi bạn không nhớ ai, bạn sợ phải nhớ. Bạn cũng vừa tham gia một đoàn công tác trở về. Nhưng những chuyến đi, những lần tham gia các hoạt động tập thể đã dạy bạn rằng, không ai có thể đi mãi trên đường, không cuộc vui nào không tan. Nên bạn giữ được sự thản nhiên khi chiếc xe xình xàng về bến cuối, khi người trong đoàn bắt đầu tan tác. Những cái bắt tay gấp gáp, những câu chào vội vã, và bóng người nhoè nhoẹt khuất dần.

Và vẫn thản nhiên, bạn trở về nhà, cuộn mình trong chiếc giường quen thuộc. Những cuộc gặp gỡ nhạt, những khuôn mặt cũng mờ nhoè. Bắt đầu chuyến đi, bạn đã nghĩ đến chia tay, bắt đầu cuộc gặp, bạn đã toan tính cho lúc kết thúc. Nên bạn chỉ giao tiếp dè dặt, vừa vặn. Thiếu một chút tình, bạn sẽ là đứa xa cách, lạnh lùng, ngạo mạn, nhưng sơ sẩy thừa ra một chút, bạn sẽ giống hệt ông già bây giờ, mất một thời gian rất dài để nhớ những người dưng, nhớ họ ngay cả khi họ đã không còn nhớ mình. Mắc công.

Bạn chọn một con đường ít đau đáu, ít day dứt, ít bồn chồn, ít chênh chao, an toàn cho tim, bạn không bao giờ để mình ngấm nhớ như ông bạn vong niên sáng nay. Bạn thấy mình sung sướng quá, thiệt là hạnh phúc, thanh thản khi trong ký ức không có ai để nhớ đằm sâu, trong tim người không có nỗi nhớ thương người. Mắc gì phải hao phí tình cảm vào những mối quan hệ không có nhiều hy vọng, như mây kia trôi, bèo kia trôi, bây giờ nhớ vậy, nhưng mười, hay hai mươi năm nữa, biết có còn gặp lại nhau? Chứng kiến ông bạn già ngắc ngoải nhắc tên của những người xa, bạn thấy mình đúng là quá trời khôn ngoan.

Nhưng không hiểu sao, bạn muốn khóc, bỗng dưng…
Đường xa đã mỏi…
________________________________________

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư

Người thím dâu đứng chờ trước nhà anh lúc trời mờ sáng, đem theo một xấp hồ sơ, nhờ đứa cháu làm giùm thủ tục chuyển hộ khẩu cho cô con dâu, “bây “dính chân” nhà nước, cũng dễ…”. Anh buồn cười, anh đã sống hơn nửa đời công chức, đôi lúc thấy nó lóe lên một tí ý nghĩa vì những họ hàng như người thím này đây. Anh rót ly nước mời bà, bảo, “để con lo”, mặt mũi không giấu được chút tự hào.

Thừa những mối quan hệ chằng chịt để gởi gắm cho bộ hồ sơ đi con đường suôn sẻ, nhưng anh lại chọn con đường mà không có anh, thím anh cũng phải đi, vì một ý nghĩ bất chợt, bỗng dưng, anh muốn làm dân trơn tuột, dân đen, dân nghèo thử một lần.

Anh bắt đầu từ xã A, người quản lý hộ tịch ở đó xem qua, bảo anh trở lại UBND xã B, chỗ người em dâu sống hồi chưa lấy chồng. Anh chạy xe tới B, cách thành phố anh sống gần năm mươi cây số. Tới nơi đã xế trưa, mắt mũi tèm nhèm vì bụi đường, anh bước vào một phòng làm việc vắng hoe, chỉ duy nhất cô gái đang loay hoay tính toán, cô nói người phụ trách hộ tịch hộ khẩu vẫn chưa tới, ảnh đi đám giỗ hồi trưa tới giờ, chú ngồi chờ chút. Anh chờ ngót một giờ đồng hồ, bỗng dưng mong ngóng một người xa lạ, giờ này người đó không biết đã rời bàn tiệc chưa, không biết còn tỉnh táo hay xỉn cà xình cà xang, dọc đường từ chỗ đám giỗ đến đây không biết bao xa, không biết có bất trắc gì không? Cô nhân viên chắc cũng ngại, bèn nhấc điện thoại lên gọi, chẳng rõ người bên kia nói gì, cô bảo, thôi, chú gởi lại cho cháu, dù gì mấy vụ hồ sơ này cũng phải coi kỹ, mai nghỉ lễ, mốt chú quay lại.

Đúng hẹn anh quay lại, vẫn bấy nhiêu cây số, trong lúc giũ bụi bám từng vệt trên tóc, gấu quần, thấy người của xã đang “tưng bừng” khoá các cửa, ai đó thấy vẻ ngơ ngác của anh, nói to, bữa nay còn nghỉ lễ, không làm việc, chú ơi. “Ủa, anh buột miệng, vậy bữa trước người ta hẹn tôi tới làm chi?” Trả lời anh chỉ có những cái cười trừ. Hụp hửi mấy lần, rút kinh nghiệm, anh chờ năm ngày sau quay lại cho chắc ăn, gặp được người cần gặp, anh này trao xấp hồ sơ cho anh kèm theo lời dặn, cô em anh đi lâu quá, tụi tui cắt hộ khẩu rồi, giờ anh quay lại A, kêu họ làm mấy mẫu tui ghi trong này. Anh ta chìa ra mẫu giấy xé tay tả tơi nhỏ xíu như tấm vé số chữ kín chi chít. Anh bước ra sân, thấy mình đang dẫm lên dấu chân của mình. Bỗng dưng ngán ngược chặng đường năm mươi cây số.

Anh thấy bần thần, chỉ vì ít khi anh cảm thấy mình chông chênh như một người đi mà không biết cái gì chờ mình ở phía trước, không biết điểm đến là ở đâu. Để kết thúc cái cảm giác khó chịu đó, anh gọi điện cho người quen, “tui có vụ này, nhờ ông…”. Xoa tay, vậy là xong, thế nhưng anh vẫn không nhẹ lòng.

Vì con đường mà anh vừa thử đi, con đường ngày ngày phần đông dân số đất nước này phải đi sao mà gập ghềnh, trúc trắc đến vậy, sao mà phải lộn ngược lộn xuôi, vòng vèo xa ngái vậy. Không một ngã nào đơn giản, dễ dàng cho dân mà tệ như một viên chức quèn như anh cũng có thể. Giữa quyền lực hay không quyền lực, “dính chân nhà nước” hay “không dính chân nhà nước” có một sự khác biệt mà anh chưa biết hết.

Ví dụ anh là một quan chức cấp cao, anh đi thăm Z nào đó. Sớm mai, lúc anh đang dùng bữa sáng thì cấp dưới sai xe phun nước cho đường sá sạch bong, không tí bụi. Anh lên xe, phía trước đội cảnh sát bắt đầu hụ còi dẹp đường, anh chặc lưỡi “bà con mình được con đường như vầy, đỡ khổ rồi, đây nè, từ X đến Z chỉ nửa giờ đồng hồ…” Nhưng nếu anh là dân, anh đi rất chậm vì bụi mịt mù, ràn rụa nước mắt, vì xe cộ đông đúc, chen chúc, vì kẹt phà kẹt bắc, vì những bất trắc không lường được. Cũng quãng đường từ X đến Z, nhưng thân phận người khác nhau nên độ xa gần lâu mau cũng khác.

Ví dụ anh là dân nghèo trơ nghèo trụi, không thân thế, anh và đứa con nhỏ chỉ có thể đứng ngoài rào một ngôi trường điểm khang trang nào đó mà ngó vào, ước ao. Ví dụ anh không phải là công chức lâu năm, bây giờ nhà anh vẫn còn nằm tuốt trong một con hẻm lầy lội, tối mò mà còn cúp điện liên miên chứ không ở trên con đường rộng, luôn sáng đèn. Và xin cho đứa em một việc làm, giấy phép xây dựng, làm giấy hồng giấy đỏ… cũng có thể lấy làm ví dụ. Đó là những ví dụ mà anh đương nhiên biết, và vô tận ví dụ mà một viên chức nhạt nhẽo như anh không biết. Anh không kể lể thêm nữa bởi thấy mình giống như kẻ một cái bảng so sánh có hai cột: một bên là anh, bên kia là những người dân nghèo; và chúng chạy miết từ hàng trăm trang giấy, không đoạn nào hai cột nhập làm một, chúng cứ song hành, nhìn thấy nhau, tương phản nhau, soi rọi phận nhau.

Và anh tìm thấy một kết luận từ câu chuyện nhà người thím khi anh mang mớ hồ sơ trao lại cho bà. Bà kể, “thằng Út của thím sắp ra trường rồi, có mấy công ty tư nhân ở Sài Gòn rủ rê nó, hứa trả lương cao, thím cản, tiền ít thiệt nhưng làm cho nhà nước có “thế” hơn, như con vậy …”

Anh gượng cười. Người phụ nữ này xem ra cũng mòn mỏi trên con đường của mình.

A Tép – …km ký sự

Nguyễn Ngọc Tư


Đã từng háo hức. Hồ hởi. Hứng khởi. Nôn nao. Nhưng tất cả những cảm giác ấy tiêu tan, biến mất theo từng km đường đèo uốn lượn ngoắt ngoéo. Những biển báo khúc quanh nguy hiểm cong queo như cái cù nèo làm ai cũng thót tim. Điện thoại đắt rẻ gì cũng biến thành cục sắt vô duyên khi không có một cột sóng nào. Đi ba giờ đồng hồ mới gặp chiếc xe ngược chiều, hai bên đường miên man, mãi miết những vách đá, vực sâu, những rừng cây bạt ngàn. Vắng rợn. Không một bóng người, trâu bò cũng không. Mấy bữa trước chán người bỗng bây giờ thèm người da diết.

Người trên xe không biết làm gì cho qua cơn hoang mang mệt mỏi này, đành ngó ra cột cây số với một niềm hy vọng mãnh liệt nào đó. Và cái bệ bê tông lùn beo lùn bít được trân trọng thái quá, qua được một cột cây số, vài ba người lại reo lên như gặp bạn cũ, gặp má đi chợ mua bánh ú về. A Tép – 50km. trưa xế rồi, xe chao lắc liên tục nên ai cũng đói, hai tiếng A Tép là niềm hy vọng lớn. Đã chuẩn bị trước tinh thần là đường vắng, người thưa, ít hàng quán nên lúc trưa dừng chân lại quán xôi định mua xôi hộp, chị chủ quán nói bằng giọng Quảng Trị đặc sệt, hết xôi gà rồi, chỉ còn xôi trộn thôi. Mình nghe thế nào mà thành xôi… chồn, thấy hơi… dã man, chạy ra xe xin ý kiến tập thể, “Xôi chồn, dám ăn không ?” Mọi người hơi hoảng, bảo xôi gì ghê vậy, thôi, đi. Bây giờ thì hối hận, bây giờ thì đang đói và hoang mang, A Tép – 46km.

Bỗng dưng, A Tép là nỗi thương mong lớn, nghe dịu dàng, dễ thương như nhà mình ở đó, con mình ở đó, má mình ở đó. Ít văn chương mơ mộng hơn thì cũng hy vọng một thị trấn nhỏ, đông người, nhiều quán cà phê bên đường có mắc võng, những quán ăn sẽ có cháo gà, loại gà rừng thịt ngọt lừ, chắc nụi. Mấy cô chủ quán xinh đẹp sẽ mang ra một đĩa khăn ướt thơm tho, chườm nước đá mát lạnh. A Tép 39km.

Cảm giác nôn nao như ai đó đang đứng ở A Tép lạ hoắc, A Tép xa xôi chờ mình. Nếu tệ lắm thì sẽ có cái quán nhỏ với những gói mì tôm trụng trong nước nóng. Và dòng suối nhỏ sau nhà nước trong vắt, lạnh ngắt ngai ngái mùi lá mục và hoa rừng. Những cột cây số vun vút lùi lại đằng sau. Chẳng ai thèm reo lên khi thấy những dòng suối mùa khô chảy vòng vèo dưới thung sâu, chẳng ai thèm chỉ trỏ mỗi khi thấy một loài hoa rừng đỏ rực trên vách núi. Bây giờ thì mọi người ngóng trông A Tép.

Nghĩ mông lung, nhớ lại hồi đi Sài gòn, mỗi khi ngán ngẫm, mỗi khi mong tới nơi, mình hay trông ra cột cây số, một liệu pháp chống buồn chán rất hiệu quả. Đi qua mỗi cột cây số, thấy cuộc hành trình của mình lưng đi một ít, nỗi ngán ngẩm cũng vơi theo. Cái cách mình đi đường giống cách mình leo núi, chống một gậy để thấy mình lên cao một chút, lại giống như cách mình sống, vịn vào thành tích gì đó, dù là bé xíu (thí dụ như tấm bằng công nhận “nữ hai giỏi”) để thấy những ngày tháng đã qua không quá vô nghĩa, để thấy mình đã bước thêm một bước đời, phía trước bớt dài, bớt mù mịt, chông chênh.

Những cột cây số ở quốc lộ mà mình quen thuộc luôn báo cho mình biết khi nào, còn bao xa nữa thì đến đích, thì kết thúc cuộc hành trình. Bao giờ cũng xuất hiện trên đó những cái tên mình đã thuộc lòng, Sóc Trăng – …km, Trung Lương - …km, và mỗi lần xe ra khỏi Tp Hồ Chí Minh, cột cây số trong lòng mình là Nhà Mình – 320km, kèm theo đó là cảm giác xao xuyến, bồn chồn. Nhưng trên con đường Hồ Chí Minh xa lạ này, đoàn lữ hành đi trong trạng thái vô vọng, chẳng biết cái gì chờ mình phía trước, càng không biết bao giờ mới đến đoạn cuối cuộc hành trình, lúc nào mới được ngã lưng trên chiếc giường chăn nệm ấm. Quảng Trị chắc đang lo lắng, cứ mỗi lần qua thị trấn lớn, điện thoại xuất hiện một cột sóng hiếm hoi, lại nghe người Quảng Trị lại gọi vói theo thăm hỏi. Mới gặp chỉ nửa buổi, trò chuyện vài câu mà như ruột thịt trong nhà, ấm lòng, cảm động. Bây giờ cục sắt vô duyên mang tên điện thoại cũng không thể reo lên. Bây giờ mới thấy mình giống bèo, giống lục bình vì cái sự vô định miên man tận chân trời. 1km nữa đến A Tép của tôi.

Cả đoàn người dựng thẳng lưng dậy, hăng hái bẻ tay rôm rốp, hồ hởi cười ha ha. Một ông lão trước đó cởi quần dài ra vì gió Lào nóng hừng hực giờ lúi húi mặc vào. Sắp tới A Tép, hẳn chỗ đó quan trọng lắm, sầm uất lắm nên cột cây số mới thông tin liên tục như vậy chớ.

Và A Tép là một… cây cầu vắng ngắt. Nó cắt nát mọi hy vọng, nó chà đạp, cười nhạo lên những nôn nao, chờ đợi của một đoàn người trên một chặng đường đèo dài thăm thẳm. Xe chạy rướn lên chút nữa, thấy có đúng… mười cái nhà dân nhưng không hàng quán gì ráo. Tuyệt vọng thật. Đời mình chưa bao giờ thấy tuyệt vọng và hoang mang như vậy, mặt trời đã chếch gần dãy núi. Ta đi về đâu đây?

Bắt đầu nghĩ quẫn, tê tái cả lòng nhưng không dám nói ra, nếu chiếc xe bỗng dưng nhõng nhẽo nằm ì ra thì đêm nay sẽ ngủ ở chốn đèo heo hút gió này, sẽ đói, sẽ khát, điện thoại không sóng nên sẽ không thể cầu cứu được ai, trừ chờ xe của bạn đường đi qua trong điều kiện ba giờ đồng hồ mới có một chiếc. Khủng khiếp.

Đến bây giờ thì không còn nhớ đã đi qua đoạn đường tiếp theo như thế nào để đi đến một cái quán không đủ ghế cho 14 người uống cà phê, và không có gì làm no lòng ngoài… hột gà. Ngồi chờ chị chủ quán bắc nồi nước sôi luộc trứng, nghĩ về A Tép, bỗng thương, vì nó đem đến cho mình quá nhiều cảm xúc. Từ hy vọng, chờ đợi, háo hức đến tuyệt vọng, giận dữ. Đáng ra, phải cảm ơn A Tép với những cột cây số bên đường, ít ra nó giúp người ta nguôi sợ, quên không còn ngại khó, dấn bước trên quãng đường thăm thẳm.

Nhưng tại sao ta phải trông ngóng những cột cây số, toan tính cho cuộc hành trình, hoạch định một đích đến, tại sao ta không ngủ một giấc, rồi thức dậy rong ruỗi với cảnh vật hai bên đường, tại sao ta lại bị những cột cây số che khuất để không còn thấy những dòng suối nhỏ, những vạt hoa rừng, những đàn bướm vàng vào mùa di cư bay rợp cả thung lũng, như lá khô chao lơ lửng mãi giữa trời, những vách đá óng lên dưới nắng, mây vắt vào mặt trời chiều… Tại sao ta phải để tâm trí vào hoạch định cuộc đời mình, phải hối hả tới nơi nào đó mà bỏ qua, quên lãng bao nhiêu điều tuyệt đẹp bên đời.

Mình đặt những câu hỏi rối bù lúc nửa đêm, khi xe vào Kon Tum, khi đã qua hơn 600km đường đèo dốc, khi người đã mệt lử, nhẹ bâng. Khi tỉnh một giấc mơ dài… Ai đó đề nghị, từ ngày mai ai nói tới chữ… đèo sẽ bị phạt tiền, gặp dưa hay khổ qua đèo cũng chỉ được phép nói dưa… nhỏ, khổ qua… nhỏ.

Đoàn chẳng thu phạt được đồng nào…

Những cây sầu trên đỉnh Puvan

Truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư


Năm 1887, Colègan, một tu sĩ người Pháp, đã đặt những bước chân đầu tiên thám hiểm đỉnh Puvan. Và lần đầu tiên trong đời, người đầu tiên trong lịch sử vùng đất, ông đã nhìn thấy cây sầu (còn có tên Latinh là Oghdgerygwbbvchfhgfdutvyt) nở hoa. Trong những đoạn ghi chép rời rạc, run rẩy, ông viết: “Những đóa hoa sầu đẹp đến nỗi đáng đánh đổi cả cuộc đời người để được trông thấy chúng dù chỉ một lần”.
Và ông ta đã chết ngay sau đó, chết lặng lẽ trên dãy núi Puvan bí ẩn. Những mẩu xương vụn bị thú rừng tha về hang làm đồ chơi cho bầy thú con, chỉ ít dòng ghi lại gói trong chiếc thùng sắt mãi về sau này lưu lạc trong nhân gian. Nhiều người đã đọc, họ tò mò lên núi mà không biết rằng sầu chỉ trổ bông dưới cơn mưa đầu tiên sau mười ba tháng hạn liên tiếp, không một giọt nước trời nào rớt lên đỉnh núi xa xăm. Vài người biết được điều đó, họ đã thấy bông sầu nở nhưng họ không sống sót để trở về.
Đó là tất cả thông tin mà Vĩnh có khi bắt đầu cuộc hành trình lên đỉnh Puvan. Củi, thằng bé chăn dê dưới chân núi mà Vĩnh thuê dẫn đường, thì hằn học: “Đồ quỉ - cây đó xài không được, dê còn chê, hổng biết mọc làm chi mà vô duyên vô dùng, tui đái vô mấy gốc cây đó hoài cho đỡ tức. Má tui nói cây sầu sống bằng xương dê, xương trâu bò, năm nào bầy dê nhà tui chết nhiều sầu mới trổ bông…”. Coi như thằng Củi biết nhiều. Còn Dịu thì chẳng có tí thông tin gì, chỉ biết Vĩnh tới đó thì cô cũng tới đó, nếu có cáp treo thì tốt, không có cũng chẳng sao, Vĩnh leo núi cô sẽ leo núi cùng anh. Chỉ mong sau chuyến đi này cô được khoản tiền kha khá gửi về quê.
Nơi đó có đứa con nhỏ của cô đang sống với má. Mười tám tuổi cô lấy chồng, chín tháng sau ly dị, bữa ra tòa hai đứa còn nắm tay cười ngỏn ngoẻn suốt dọc đường, bà con nhằn: chưa thấy cặp nào bỏ nhau vui vẻ như tụi bây. Họ không biết hai đứa đã ngoéo tay hứa với nhau rồi, đây là ly dị giả đò thôi, chỉ để làm thủ tục cho Dịu đi lao động ở Đài Loan, thương nhau rồi có ly dị một chục lần cũng sẽ nối lại tình xưa, dễ ẹt. Lúc Dịu về sẽ cưới thêm lần nữa, không chừng còn rình rang hơn lần đầu.
Lúc Dịu về, cô lặng lẽ cất cái chòi nhỏ ở góc vườn nhà má ruột, bẻ xoài sống nhai rau ráu mà nước mắt ràn rụa, cô có con với một ông chủ Đài Loan vô lại và bà chủ còn vô lại hơn khi đẩy cô tay trắng ra đường. Chồng cô xách mác vót qua nhà, chém vào gốc cột: “Sao kỳ vậy, em hứa với tui là mình chỉ giả đò ly dị thôi mà, sao kỳ vậy, kỳ quá?”. Dịu nuốt nước mắt, nắn cái mặt câng lên, trâng tráo: “Hồi đó khác, bây giờ khác”.
Và cái khác biệt gây đau đớn nhất là cái bụng binh rỉnh sau làn áo. Ọc ạch đi làm cỏ rẫy kiếm ít tiền sinh con, Dịu hay bắt gặp chồng (đã cũ) của mình mon men bên kia sông, ngó theo. Tóc anh ta dài ra, người ốm o còm cõi, chắc là nhiều đêm không ngủ được. Một bữa mở cửa ra thấy anh ta say rượu nằm trước nhà. Cũng bữa đó Dịu sinh, cô cắn môi bước qua giấc ngủ của chồng, một mình đến trạm y tế. Tối sau, anh ta lọ mọ tới thăm, lúc đầu chỉ đứng đằng xa ngó day diết, một hồi mới lại gần, nói như hụt hơi: “Chắc là thằng nhỏ này biết kêu ba bằng tiếng Việt - ngó thấy Dịu sắp phản ứng, anh ta nói luôn - tui thương nó như con tui, thiệt mà…”.
Vì câu nói đó Dịu gửi con lại cho má, bỏ lên Sài Gòn kiếm sống. Sự bao dung đôi khi gây đau như mũi dao. Và Dịu trở thành gái bao, tự xem đó là một nghề sống được, cô cười cợt câu cửa miệng mà tụi bạn nghề hay thở than: “dòng đời đưa đẩy”. Vĩnh gặp Dịu vào một hôm nào đó mà cả hai đều không nhớ rõ, chỉ biết cái cách cô nhai nước đá lóc cóc giữa bữa tiệc sang trọng làm Vĩnh buồn cười. Và Vĩnh để cô lại bên mình rất lâu, chỉ vì cô luôn nấn ná chờ hết chương trình chiếu phim mới chịu trút áo xống trước mặt anh, đôi nam nữ trong bộ phim Hàn đã đến được với nhau, cô vui, nhưng khi họ gặp trắc trở, nước mắt cô tràm trụa, cô còn buột miệng chửi thề mỗi khi vai ác bắt đầu bày ra âm mưu thâm độc nào đó: “Má nó, ngon ha, ngon thì chui ra đây, tao bẻ lọi cổ…”. Vĩnh để cô ở lại lâu vì lúc gần sáng cô nhớ con, nhớ chồng thường dịch ra mép giường chênh vênh và khóc.
Vĩnh thì chẳng có nỗi nhớ nào sâu sắc đến nỗi phải thức giấc vào giờ đó. Một thằng bé gào khóc ngơ ngác trước căn nhà sập bẹp, cháy rùng rùng sau trận bom, đó là hình ảnh đáng nhớ nhất, đau buồn nhất cũng bị đè lấp bởi những ký ức mờ nhạt, trống rỗng, mù mù những khuôn mặt người, những cuộc chơi cũng na ná giống nhau cũng rượu và những cô gái đẹp. Ngoái nhìn quá khứ nghĩa là tương lai, hiện tại không có gì để làm, anh thì quá bận rộn, anh phải kiếm tiền và dùng tiền đó đi đến những nơi đẹp nhất, sở hữu những thứ đẹp nhất. Nếu giật mình nghe tiếng khóc của cô gái gọi vào những khuya xa, anh chỉ nằm im, nghĩ: sắp sáng rồi, bữa nay làm gì, đi đâu ta?
Và khát vọng được xem sầu nở trên đỉnh Puvan luôn luôn chập chờn trong tâm tưởng. Vĩnh chờ cơ hội đó đã mười lăm năm, và trong mười lăm năm đó anh đã đi gần như khắp các châu lục, khám phá những ngọn núi, dòng sông, những vùng đất được xem là đẹp nhất. Sau chuyến đi Hồng Kông xem triển lãm viên kim cương lớn nhất thế giới, Vĩnh về nhà và mơ thấy những cây sầu trên đỉnh Puvan bị mây ngậm vào miệng, ướt đẫm. Vùng đất rộng lớn bao gồm cả núi Puvan đã không mưa suốt mười ba tháng ròng; và cô phát thanh viên điệu đàng trong chương trình dự báo thời tiết nói rằng sẽ có mưa, trong vòng một tuần nữa. Vĩnh vùng dậy, bắt đầu cuộc hành trình, gọi Dịu đi theo. Dịu chẳng hỏi han gì suốt một chặng đường đi, cô không quan tâm anh đi đâu, làm gì. Cô chỉ cần tiền và anh thì cần cô trong đoạn đường này, vậy thôi.
Nhưng đến chân dãy núi Puvan hoang vu, phế tích thì Vĩnh nghĩ cần thêm một người dẫn đường. Thằng Củi lù lù hiện ra, một linh hồn mười lăm tuổi trong cơ thể đứa bé lên chín, ở trần, gầy nhom, lem luốc, hai xương vai bén ngót, nhô lên cao, môi nẻ ra, bong những cái vảy nhỏ. Dịu hỏi:
- Ê, nhỏ, làm gì ở đây?
Nó cười, toàn khuôn mặt chỉ long lanh một hàm răng trắng nhởn:
- Tui chăn dê.
- Dê đâu?
Nó lon ton chạy vào hốc núi và lôi ra con dê mỏng dính, một bộ xương xơ xác. Nó chỉ tay mông lung:
- Hồi trước tui chăn cả bầy mười mấy con. Hạn quá nên tụi nó chết hết rồi. Bây giờ chỉ còn con Danh này thôi.
Thử nghĩ có tay máy nào đó chụp ảnh thằng bé còm này với chú thích “chăn dê”, người xem hỏi dê đâu, anh ta nói dê chết hết rồi, hạn hán quá lâu, cỏ cây cháy lá hết, nguồn nước cũng kiệt nên chỉ còn một con dê, nhưng con dê đó cũng chui vào hốc đá trốn nắng, nó kiệt sức lắm rồi. Cũng như chụp ảnh cái hồ nước trống không với chú thích “hai con vịt”, hỏi vịt đâu anh ta bảo vịt vừa bơi ra khỏi hồ. Vĩnh bỗng buồn cười. Thằng bé chăn dê tinh tế nhận ra ngay cái nhìn thiếu niềm tin của Vĩnh, nó lôi ngay trong cái bị bàng rách rưới một cái đầu lâu dê với những hốc xương trống rỗng, hai sừng nhọn vút ra phía sau: “Tui nói thiệt. Đây là con Chương nè, tụi tui thân lắm, nó toàn nằm ngủ chung với tui. Năm ngoái nó dám đánh nhau với chó rừng để cứu tui, nhưng giờ nó chết rồi, tui nhớ nó muốn khùng”. Thằng bé mếu máo nhưng hai mắt ráo hoảnh, dường như nước mắt cũng bị cái nắng dai dẳng rút cạn, bay hơi đi.
Và thằng người khô quắt bắt đầu thể hiện uy quyền của người bản địa, nó ngó bọn Vĩnh, mắt trợn tròng trợn trạc, nuốt nước miếng, hắng giọng:
- Mấy người đi đâu đây?
Vĩnh ngó lên đỉnh núi Puvan đã mù mù mây. Thằng bé cười ngạo nghễ: “Coi tướng ông không biết đường lên đó đâu”. Vĩnh cười: “Tôi không cần biết, vì cậu sẽ dẫn đường cho tôi. Ba chục ngàn, đủ chớ?”.
Thằng bé lẩm nhẩm, ba chục ngàn hả, ba chục ngàn thì mua được ba chục gói mì tôm. Những gói mì mới tinh từ tay ông Tàu chủ quán cứ lào xào trong tâm trí của thằng bé khiến đôi mắt khô vàng sáng lên. Không có cuộc trả giá nào, rẻ mạt, Dịu nghĩ thầm, chua xót. Không hiểu sao cô nghĩ tới con mình.
Cô nhìn khuôn mặt đẹp như tạc từ đá của người tình, cô không thấy lạ chút nào nếu anh lạnh lùng, tàn nhẫn thêm chút nữa. Như đã từng bắt cô phải đếm lại tiền công trước mặt anh. Như đã từng lạnh lùng bỏ đi trước dù cô say mèm vấp té ngay thềm khách sạn. Như thường bỏ mặc lúc cô ngấm rượu, da thịt phơi trần, không đắp giùm một tấm khăn, tấm áo. Cô chỉ ngạc nhiên trước vẻ bồn chồn, háo hức của anh với Puvan, trước sự da diết của anh với Puvan, trong lúc chờ thằng bé “đem con Danh về cất đàng hoàng mới được, lúc này ăn trộm dữ lắm, với lại tui phải cho má tui hay, mắc công má tui lo”.
Thằng bé tên Củi, chứng tỏ bà mẹ cũng tự trọng khi đặt tên con, Vĩnh hơi nhếch mép cười khi nghĩ tới điều đó. Đó là cảm giác bình thường cuối cùng trước khi anh bỗng chông chênh, hơi dại đi, cảm giác anh hay có khi sắp đến một kỳ quan nào đó. Vĩnh hơi vấp ở những gờ đá đầu tiên. Không hề có con đường mòn nào.
Vùng núi Puvan nằm sát biên giới, ngày xưa mỗi năm vài lần thổ phỉ tràn sang cướp bóc. Chỉ còn một làng nhỏ đìu hiu hơn hai chục nóc nhà và lời nguyền chết chóc của những bông hoa sầu trên đỉnh núi đã làm vùng đất này càng hoang vắng hơn. Thằng Củi kể người làng nó căm thù những cây sầu trên đỉnh Puvan, người ta gạt đi trước những lời đồn đãi rằng bông sầu đẹp, đẹp gì cái thứ đó, đẹp gì ác nhơn ác đức vậy! Năm nào cây trổ bông thì cả làng đói nhưng không ai đốn bỏ chúng được, dường như chúng không phải là cây mà là đá. Chẳng ai, kể cả trẻ con, muốn lên đỉnh núi u buồn đó, người ta dần quên lãng trên Puvan còn có những cây sầu. Năm nay nửa làng đã bỏ vào thành phố làm mướn, ăn xin.
Và những con dê được mang tên đám bạn Củi để lúc gọi lên nó thấy ấm lòng. “Trễ lắm là tối nay xóm tui có mưa” - trong cơn hưng phấn, đứa bé khoái chí chỉ về phía làng mình, nhưng ngay lập tức ngón tay nó hơi cong lại, như thể chỉ cần thẳng ra là tay nó hướng ngay vào sự nghèo khó, hắt hiu. Thằng Củi luôn miệng kể lể, nó bò lên trước, trông như con thằn lằn nằm vắt trên những tảng đá dựng, thỉnh thoảng nó dừng lại chờ Vĩnh và Dịu, thỉnh thoảng nó ngây ra nhìn người đàn ông xa lạ và ngượng ngập cười xòa khi ánh mắt của mình bị Vĩnh bắt gặp: “Hồi nào giờ tui chưa biết mặt ba tui, tui nhìn coi ông có chỗ nào giống tui không?”. Câu nói làm Vĩnh khựng lại một thoáng và Dịu nhớ con đến rã rời. Đỉnh Puvan như lún mãi vào những đám mây đen.
- Tối nay trời chắc mẻm mưa - thằng Củi hớn hở - Con Danh chắc khoái lắm, thể nào nó cũng chạy ra sân tắm một bữa đã đời.
Vĩnh còn mong gì hơn, cơn mưa đầu tiên sau hơn bốn trăm ngày nắng như thiêu như rang, và sầu trổ những bông hoa đầu tiên. Vĩnh cảm giác mình chờ lâu hơn mười lăm năm, chờ trước cả khi anh đọc được những dòng chữ nguệch ngoạc đổ tháo của vị tu sĩ người Pháp được trưng bày trong viện bảo tàng. Puvan luôn ẩn hiện vào trong những ngày mai của anh, giúp anh ngồi dậy sau trống rỗng sau mỗi cuộc chơi sau mỗi chuyến đi ta bà thế giới. Anh gần như chạm tay vào tất cả những gì mình muốn, tận mắt nhìn thấy những gì mà người đời ca tụng là tuyệt vời nhất, chỉ những bông sầu trên đỉnh Puvan không tùy thuộc vào tham vọng hay sự giàu có của anh, chỉ những bông hoa sầu trên đỉnh Puvan trong lòng anh cứ mỗi năm một lần tan tác trước những cơn mưa sớm.
Nhưng bây giờ anh đã gần những bông sầu hơn bao giờ hết, ý nghĩ đó làm Vĩnh bươn lên trước một khoảng xa. Dịu bị tụt lại vì mệt, thằng Củi cũng ở cùng cô. Dịu bẻ cành gai viết tên nó lên thân cây chỉ còn tươm chút nhựa: “Củi đang ở đây”, thằng Củi sướng rơn khi vân ve ngón tay dơ èm quanh chữ Củi, nó nói tên nó sao mà gọn hơ. Lần đầu tiên nó thấy được đường nét của tên mình. Nhưng Củi không chơi lâu, trong lúc chờ chân Dịu đỡ mỏi, nó bứt dây leo xâu những chai nhựa đựng nước mà bọn Vĩnh, Dịu đã trút cạn vào hai cổ họng khát khô, quảy lên vai, xúng xính: “Để dành hạn đi vô suối lấy nước uống. Má tui quí mấy cái chai này lắm, đựng nước mắm, nước màu cũng tiện”. Thằng Củi phân trần, coi bộ nó sợ Dịu đòi lại.
Thằng Củi làm Dịu nhớ con, dù chẳng có liên hệ nào rõ ràng. Củi lớn, con Dịu vẫn còn nhỏ, Củi đen nhẻm, con Dịu lại trắng trẻo, xinh đẹp. Nhưng không có gì chắc chắn thằng Củi không là hình ảnh của con Dịu mười năm nữa. Cô bâng quơ:
- Ở với má khổ quá hả?
- Khổ gì đâu... Chăn dê cũng sướng... - thằng Củi ngỏn ngoẻn - không được ở với má mới buồn dữ.
Trời ơi, sau câu nói đó thì Dịu muốn về nhà ngay lập tức. Ngó xuống bãi đất lổn nhổn xương khô - cô không phân biệt được xương của súc vật hay của người - xa vợi dưới kia, cô bỗng ngẩn ngơ không hiểu làm sao mình lại kẹt trên một triền núi xa lạ này. Vĩnh vẫn không ngoái lại, bươn tới đỉnh núi, tới cơn mưa, tới những cây sầu. Dịu cũng đứng lên, bấu víu từng gờ đá vẫn còn nóng rẫy. Cô muốn cùng Vĩnh tàn chuyến đi này, chuyến cuối cùng của một Dịu gió sương. Cô muốn nói một lời từ giã.
Nhưng đến cuối chiều cả ba người mới cùng đứng với nhau, nơi đỉnh núi. Vĩnh ở sẵn đó, không có vẻ gì chờ cô. Trước mặt anh là những cây sầu với những vòm lá đã héo hắt, chực rụng khỏi cành. Mưa lay phay, đỉnh núi Puvan bị buốt trong hơi nước. Trời tối rất nhanh, như thể sau cái chớp mắt màu trời lại thẫm hơn. Thằng Củi lo tối quá không về nhà kịp, nó đứng lóng ngóng như bị nước nóng đổ đít, mà hai vị khách không có vẻ gì muốn quay xuống núi, nghĩa là nó cũng chưa chạm tay tới món tiền công. Đành chờ đợi.
Mưa bắt đầu nặng hạt, thằng Củi quay tròn dưới làn mưa, nó muốn xuống núi để cho má nó hay, mưa rồi, mưa thiệt rồi. Củi sướng như sắp ngất đi, nó lôi cái đầu lâu con dê tên Chương ra nói như khóc, tắm mưa nè mầy, tao đã biểu mầy ráng chờ, thể nào cũng được tắm mưa, mầy không nghe, mầy chết. Dịu đứng gần đó, tóc chảy ướt rượt, ứa nước mắt vì thằng nhỏ đã héo tới mức dầm trong mưa càng quắt queo hơn. Vĩnh thì như phát điên, như đang mộng du khi những vòm lá chết của những cây sầu bỗng phát sáng. Chúng cuốn tròn lại như một búp hoa và từ từ rẽ thành từng cánh từng cánh lấp lánh.
Vĩnh nín thở. Sầu trổ bông.
Lần đầu tiên trong đời, thằng Củi thấy bông sầu nở. Nó nghĩ mấy người thành phố này cũng rảnh thiệt, chắc là hết chuyện làm, nên lặn lội biết bao xa chỉ để tới ngó bông sầu. Trong mắt nó bông sầu còn tệ hơn bông bí vì bông bí ăn được. Thằng Củi bỗng lên tiếng:
- Thôi, tui về, để má tui dầm mình hứng nước mưa tội bả.
Dịu định nói gì đó để giữ nó lại, nhưng khi nhìn vào nó, Dịu đọc được sự căm ghét những kẻ vì bông sầu mà đã cầu mong cơn nắng thật dài, không cần biết nơi này những bầy dê chết cong queo trên đồng cỏ cháy. Dịu giúi ít tiền vào tay thằng Củi, nó không tỏ vẻ mừng, dường như có mưa là có khoai ăn có cơm ăn, nó cũng không cần tiền của những người xa lạ nữa. Và thằng Củi đã biến mất sau màn mưa, chìm lỉm vào bóng tối. Chỉ thấy cái đầu nó nhấp nhô ngọ nguậy rồi bặt tăm. Còn lại tiếng đất đá tuôn rào rào. Dịu lo cho thằng Củi, bỗng dưng...
Không hạt mưa nào xuyên qua vầng sáng kỳ ảo của những bông sầu. Vĩnh bảo Dịu trốn vào đó, và khi quay nhìn lại cô đã ngủ, tay nắm chặt cái túi xách nhỏ. Vĩnh biết trong đó có cái hình cưới, cô cài cành bông giả màu hường lên đầu, quê òm, cười thẹn thò bên cạnh người con trai hơi đen, cũng quê òm. Cô ta không cần tìm kiếm và chờ đợi bông sầu. Nên cô ta ngủ khi bông sầu vẫn nở và vẫn rạng rỡ những sắc màu, ngủ như khi anh vẫn còn nằm trên người cô. Một cuộc đời hèn mọn với những ước mơ hèn mọn luôn làm Vĩnh khó chịu lẫn một chút ngạc nhiên.
Nhưng những gì anh có, anh hưởng thụ nửa đời qua đã tầm thường nhạt nhẽo trước những bông sầu đang chuyển sang phớt tím, trong vắt, hắt sáng lên vùng trời tối tăm mưa gió. Bất ngờ anh không nghĩ ra cái gì còn có thể đẹp hơn nữa. Không còn cái gì xứng đáng với những bông sầu để thay thế trong ý nghĩ về ngày mai của anh.
Và anh biết làm sao với ngày mai? Còn gì để mà chờ đợi, mà chinh phục nữa? Anh còn níu được gì để ngồi dậy mỗi ban mai? Vĩnh quì trước vòm bông sầu, rối bời vì ý nghĩ đó. Cô gái giang hồ kia sống vì con, vì mối tình ngắc ngoải, bị xé lìa; thằng bé tên Củi thất học kia còn có mẹ; anh thì không vì ai, không vì cái gì hết. Anh thấy sợ hãi ngày mai trống rỗng kia. Hoang mang. Ngơ ngác. Rã rời. Vụn nát. Vĩnh gần như quị xuống khi những bông hoa bắt đầu tím thẫm, như màu môi của Lam, mối tình đầu của anh khi người ta vớt xác cô ở ngã ba sông. Vĩnh chứng kiến cô rơi khỏi tàu nhưng Vĩnh chẳng làm gì cả, Vĩnh không biết làm gì trước những xoáy nước, Vĩnh sợ. Như Vĩnh không biết làm gì trước những vụn thịt rơi vãi của những người thân mình trong một buổi bom đạn hôm xưa.
Lúc Dịu thức dậy, người đã ướt đầm mồ hôi vì hình ảnh cái cây khắc tên thằng Củi cứ chập chờn đau đáu, thảm thiết như một tấm bia mộ. Vía cô cứ chạy mãi vào những bụi gai, thịt da bị cào rách bươm, khản tiếng gọi “Củi ơi”. Dịu thức dậy, bông sầu đã rụng tả tơi, những bông sầu bầm lại như máu khô. Và Vĩnh treo mình lửng lơ trên cành sầu khẳng khiu, trơ trụi. Trên đỉnh núi không có thêm đỉnh núi, và Vĩnh không muốn xuống núi, chẳng có gì chờ đợi anh ở đó.
Đỉnh núi mờ sương xào xạc gió, như đang day diết lại lời nguyền. Chỉ người phụ nữ kia là không tin những cây sầu giết người. Cô xuống núi, một mình.
Chứng khoán tỉnh lẻ -
“sóng ở đáy sông”…

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư


Thời gian gần đây, những cụm từ “chứng khoán”, “OTC”, “cổ phiếu” xuất hiện dày đặc trên các phương tiện truyền thông đến nỗi người dửng dưng nhất cũng phải buột miệng hỏi, không biết mấy thứ đó là gì mà người ta cuồng lên như vậy. Tỉnh bơ với chuyện làm giàu, phớt lờ những chỗ chen chúc tranh giành như mấy ông nhà thơ cũng phải thắc mắc, ủa, làm sao người ta cứ đổ xô, giành nhau mua bán những món hàng hơn cả giá trị thực của nó. Biết chết liền.
Và với phần đông dân cư tỉnh lẻ, sự tò mò đã mang những thông tin mới mẻ về một cách làm ăn mới mẻ đến với họ. Cũng giống như món ăn mới, người nào cũng muốn ngửi, muốn nhìn thấy, coi nó ra làm sao mà người Sài Gòn Hà Nội mê mẩn. Chứng khoán, vì thế cũng được dịp len lỏi đến miền đất Cà Mau xa xôi này. Đỉnh điểm, làm nức lòng người dân là thông tin về vụ chia tài sản sau ly hôn bằng cổ phiếu trị giá… 1.000 tỷ đồng. Bạn tôi như lên sốt vậy, cứ kêu trời, nói là không thể tưởng tượng được, không thể tin. Dài theo cơn sốt ở Hà Nội, Sài Gòn là những tin trên trời về địa ốc, vốn bị đóng băng nằm thoi thóp mấy năm trời, bỗng dưng nóng lại, vì nghe nói có người ra sàn giao dịch có một ngày xách tiền lời về đi mua… biệt thự Phú Mỹ Hưng chơi, chứ tiền nhiều quá cũng không biết làm gì. Vậy mới… sốc.
Mới gây cho người dân, dù dửng dưng nhất, không quan tâm hay không thèm quan tâm có thêm những khái niệm mới về làm giàu nhanh chóng, đổi đời nhanh chóng, chỉ một ngày, ít giờ đồng hồ, có khi chỉ vài mươi phút, khoảng thời gian mà ngày xưa chỉ có nước đi… ăn cướp mới có được khối tài sản đồ sộ đó. Vậy mới… sốc. Càng xa xôi, càng tỉnh lẻ, càng kém phát triền càng choáng váng, khi nếp làm ăn cũ, ky cóp cả đời mới có vài trăm triệu lận lưng, vậy mà ai đó ở nơi xa xôi nào đó lụm tiền tỷ ngon ơ, nhờ chứng khoán. Rất đường hoàng, sang trọng, chẳng làm gì bất chính. Nếu vậy, tỉnh lẻ cũng muốn giàu.
Dưới đáy sông, bắt đầu có sóng, những cơn sóng mang tên… chứng khoán. Vài người bạn làm việc ở ngân hàng chặc lưỡi, vẽ mấy đường cho con bạn khù khờ, “Thật ra, những gì tỉnh mình có, chưa thể gọi là… chứng khoán nghen, phải có sàn giao dịch, phải có cố phiếu để đưa lên sàn, tức là có… hàng hóa để mua bán mới được”. Bạn tụi nó, thuộc nhóm X sĩ, tức là văn sĩ, nghệ sĩ, thi sĩ (trừ bác sĩ ra)… những kẻ có bản năng ngu ngơ, thờ ơ, thấy hơi… rối, càng tìm hiểu càng thấy rối.
Thật ra, từ khi thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, người tỉnh lẻ đã bắt đầu làm quen với các cụm từ cổ phần, cổ phiếu. Và mấy anh công nhân, anh bảo vệ hay chị lao công đến nhân viên văn phòng của các công ty, xí nghiệp cổ phần hóa đã biết chơi… cổ phiếu từ hồi năm nẳm. Họ chỉ không biết đó là món hàng có thể mua rẻ bán mắc kiếm lời, có thể đầu cơ chờ thời, cứ nghĩ như gởi tiền ngân hàng thôi, mỗi tháng lấy mấy trăm tiền lãi xài chơi.
Với tâm lý đó, một bộ phận người lao động - lực lượng chính trong các đơn vị cổ phần hóa, không mặn mà cổ phiếu lắm. Tiền đó mua vàng sướng hơn, nói chung giữ trong mình là chắc ăn mà còn được… đeo, diện với người ta. Đó là lý do mà Sa, chị công nhân ở trọ gần nhà tôi có lần qua chơi, kêu bán cổ phiếu. Cũng chị, mười tháng sau ấm ức, mặt mày xanh mét như đau, như ai véo ngắt từng mảng thịt khi nghe số cổ phiếu mà công ty C. ưu đãi cho chị với giá cực rẻ là 10.000 đồng /1 cổ phiếu. Chị hí hửng bán ra với giá 18.000 đồng (thấy lời, chị còn đãi bạn ăn mấy chầu… bún riêu) bây giờ giá trên thị trường đã lên đến 450.000 đồng, làm chị choáng váng.
Đó là do tôi nói Sa mới biết chứ chị cũng ngơ ngác với mệnh giá thị giá, cũng chẳng biết cổ phiếu công ty mình đang nóng sốt, đang được nhiều người lùng mua, háo hức chờ ngày lên sàn. Sa biết ít, mà còn rấm rứt như vậy, tôi biết hơn chút đỉnh, cũng… đau thương không kém, phải chi hồi đó mình mua cổ phiếu của Sa, bây giờ đâu có ngồi viết báo kiếm tiền chi cho khổ.
Bây giờ đâu có ôm cục tức. Còn nhớ, trước tết, X sĩ – chú Hai P., than thở, nói Câu lạc bộ Hưu trí mà ông đang điều hành có một khoản quỹ chừng 100 triệu, đi mua cổ phần của công ty T. để kiếm lãi cho quỹ, năm đầu được “hai”, năm sau sụt còn “một phẩy năm” cuối năm rồi chỉ được “một”, ông già than, bây giờ muốn rút cổ phần cũng không được, vì kêu bán mà không thấy ai mua. Lúc đó chứng khoán chưa sốt, không biết sau đó ông già có bán chưa, nếu bán rồi, thì chắc là cũng đành chép miệng và… tiếc nuối.
Điều đó phản ánh thực tế, chứng khoán, cổ phiếu nóng chỉ ở một bộ phận công chức, biết chuyện, hiểu chuyện, hoặc chẳng biết gì hết nhưng rất máu… làm giàu. Và chính lúc này, họ mới cám cảnh… tỉnh lẻ hơn ai hết, mới thấy tỉnh lẻ thiệt thòi quá chừng, tội nghiệp quá chừng, có tiền cũng chẳng có “hàng” để mua. Bởi vậy, anh bạn thân nhất của tôi đã mua được cái nền nhà rất chóng vánh chỉ vì chủ đất phải gửi tiền gấp lên Sài Gòn cho thằng con trai học trên đó chơi… chứng khoán. Và chị X sĩ đồng nghiệp của tôi cũng không thể lơ ngơ được nữa khi con của chị cũng kêu nhanh nhanh gửi tiền, chứng khoán kìa, làm giàu kìa, mẹ ơi. Nghĩa là, bạn là người tỉnh lẻ thì muốn giao dịch mua bán ở sàn thì phải có… cài người ở Sài Gòn. Nghĩa là, bạn muốn nhúng chân vào mấy vụ làm ăn béo bở này chỉ còn nước mua cổ phiếu của các doanh nghiệp nhà nước đã đang và sẽ cổ phần hóa.
Điều đó dẫn đến cuộc săn lùng cổ phiếu của các đơn vị tỉnh lẻ này cũng rất… khốc liệt. Đảo một vòng trong mấy quán nhậu, ta sẽ lượm lặt được khối thông tin chứng khoán. Nào là nghe nói công ty T. cuối năm nay cổ phần hóa, mà công ty này làm ăn thì khỏi chê, một năm nộp ngân sách mười mấy tỷ, thời tiết thất thường, mất mùa, tôm chết hay bão tố gì cũng chẳng bị ảnh hưởng, chỗ này ngon, mua được. À, mà ngân hàng V. cũng sắp cổ phần hóa, ngân hàng thì ổn thôi, chắc mẻm, công ty T. lên sàn không ai biết, công ty tỉnh lẻ mà, nhưng ngân hàng V. mà lên sàn là người ta lượm không thấy tay, vì nó… nổi tiếng. Nghe đâu công ty C. cũng đang làm thủ tục… Nghe những thông tin kiểu vậy viết báo hết nổi, vì nó hấp dẫn, vì nó khó hiểu, vì nó rối rắm và vì mình… không có tiền để lao vào phi vụ… làm giàu. Nhưng tôi có vẻ không cô đơn, vì có nhiều người cũng thập thò chứng khoán nhưng “ khả năng tài chính có hạn” đã lấy sổ đỏ cầm đất, nhà để mua cổ phiếu. Từ các ngân hàng, thông tin này gây… bùi ngùi, vậy là những cái sổ chủ quyền nhà đất đã bị gán đi nhiều năm trước chưa về lại với chủ vì nuôi tôm, vì đầu cơ bất động sản có thêm bạn mới.
Nhưng khổ nổi, có tiền, cũng không chắc mua được cổ phiếu. Bởi vậy, cổ phiếu mới sang trọng hơn… tôm cá, đường đậu chứ. Không phải ai mua cũng có, điều đó là chắc, cho nên những bà chủ tiệm may, tiệm tạp hóa, hay chủ sạp trái cây có tiền, nhưng không quen biết nhiều, không quen đường đi nước bước không biết tìm… ‘cửa sau” thì chưa chắc có… cơ hội mua về cho cả nhà coi (y như khoe tờ đô-la Mỹ hồi những năm 80 vậy, hiếm lắm). Khi cổ phần hóa, nhà nước nắm giữ 51% cổ phiếu, phần còn lại bao gồm ưu đãi cho cán bộ quản lý, công nhân, viên chức của doanh nghiệp, cổ phiếu đưa ra đấu giá bán rộng rãi chỉ còn khoảng trên dưới 30%. Con số đó chẳng thấm vào đâu so với nhu cầu của người đầu tư, hàng hóa không đa dạng, mà còn bị hạn chế về số lượng nên sinh ra cái nghề “cò chứng khoán”. Cái khó ló ra... kiểu mua mới, những người trong công ty cổ phần hóa không có khả năng mua nhiều sẽ có lực lượng bên ngoài nhờ đứng tên mua giùm. Phải chờ hai năm sau mới được sang tên. Trường hợp này, không cần quan tâm chỉ số VN-Index gì cho mệt, chỉ trông đợi vào chỉ số lòng tin, chỉ số tử tế, bởi người đứng mua nổi hứng bất tử, trở mặt thì cái anh đứng ngoài… trắng tay. Chỉ còn biết ngửa mặt kêu trời, than ui, đổi vợ vì sang, đổi bạn vì… chứng khoán.Và lúc này anh công nhân bỗng dưng thấy yêu… nghề, yêu… đời, thấy mình dù sống vất vả nhưng được xênh xang mua cổ phiếu với giá ưu đãi, mà chẳng phải chen lấn chạy chọt gì. Sướng cái, mua bán rau cải được gọi là hàng bông, mua bán gạo kêu bằng hàng xáo, mua bán hàng tạp hóa gọi là con buôn, mua bán… “vốn tự có” cũng bị người ta khinh miệt gọi là con này thằng nọ, nhưng mua bán cổ phiếu thì oai hơn nhiều, khi xúng xính trong tên gọi “nhà đầu tư”. Nghe sang, hiện đại quá chừng…
Nên sóng chứng khoán cũng gây xô dạt, điên đảo, cuốn người ta xê dịch, suy nghĩ, toan tính dù chỉ là sóng đáy sông. Dù khoác lên người cái vai “nhà đầu tư” đó đồng nghĩa mang rủi ro, lo âu vào mình. X sĩ viết báo, viết sách được mớ tiền, luôn tự hỏi, nếu mình mua cổ phiếu công ty đó rồi, nó… sập tiệm thì sao, nếu cổ phiếu sụt giá thì sao, nếu lúc cần tiền mà chứng khoán đóng băng như địa ốc thời gian qua thì ai mà mua, nếu… Cả trăm ngàn cái nếu đặt ra với món tiền, đến khi quyết định được thì có lẽ chẳng còn kiếm được bao nhiêu. Thằng bạn cười khào, công nhận con nhỏ nầy… nhát (nó lịch sự với mình, đáng lẽ xài chữ…ngu mới đúng), bây giờ mua cổ phiếu ở những công ty mới cổ phần hóa là chắc ăn từ… không lỗ đến… lời. Bởi khi khởi đầu, mình sẽ mua được giá sàn, giá thấp chủm. Câu hỏi đặt ra là làm sao mua được ?
Thằng bạn “máu”, ông anh cũng “máu” vì bạn bè ổng “máu”, vì mọi người đang “máu”, vì Hà Nội Sài Gòn đang sôi sùng sục. Đám công chức, nhất là nam tăng cường đi nhậu, gọi là “để có thông tin”, không biết thị trường chứng khoán ở các nước có giống vậy không, tìm thông tin chứng khoán từ quán nhậu ? Nói chung, tỉnh lẻ cũng có kiểu chơi riêng chớ, cũng phải chơi cho biết, chơi cho… giàu với người ta chớ. Chợt nhớ, mới đọc một bài báo viết rằng dân ta có máu cờ bạc, phiêu lưu. Nhìn vào thu nhập của các đơn vị kiến thiết thì biết, chưa kể số đề, chưa kể bài bạc vỉa hè… Và chứng khoán vô tình cũng bị coi là cờ bạc, cũng có ăn có thua, có chơi có chịu, nhưng có ích, là kêu gọi, tập hợp, lân chuyển được nguồn vốn trong dân để đầu tư phát triển kinh tế.
Chưa biết tốt xấu thế nào, bởi những người giàu lên (hay nghèo đi) vì chứng khoán, vì cổ phiếu chưa ai bị… lộ (vụ 1.000 tỷ cũng nhờ ly hôn thiên hạ mới biết). Nhưng thị trường nhà đất thì rục rịch chuyển động, mấy khu quy hoạch bị treo vắng tanh từ năm năm trước, đã thấy cơ giới chạy tới chạy lui, san lấp, xây cất, người đi coi đất, mua nền cũng đông. Trong số đó, hẳn có người kiếm được một mớ tiền từ… chứng khoán.
Còn người viết bài này thì đang nghĩ, nếu mua cổ phiếu thì hết tiền sửa nhà, mà nhà thì dột thảm thương, biết làm sao qua mùa mưa này. Trời ơi, thời buổi OTC mà “nếu” kiểu này hoài, coi bộ không khá.

Hết nói

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư


Bỗng tưởng tượng ra một ngày nào đó với biển hiệu “trị hết nói” ta trở thành một lương y danh tiếng. Dù ở nơi hẻo lánh xa xôi nào đó, dù đèo thẳm rừng sâu, dù cách sông cách núi người đời vẫn tìm đến rần rần. Chưa biết ta – bà lão thầy thuốc giỏi giang cỡ nào, nhưng hẳn rất đặc biệt, khi chẳng làm gì hết mà người “hết nói” bỗng dưng chạy lại, kể lể dông dài tôi cảm thấy sao, tôi đau như thế nào.

Họ, là những người không muốn nói dù vẫn còn khả năng nói (bằng chứng là đang… nói). Và khi nhận ra điều đó thật bất thường, họ tìm đến ta. Thí dụ như cô gái kia, cô ngồi trước mặt ta với vẻ hoang mang, cô nói ngộ lắm thầy ơi, tự nhiên em cảm thấy ngôn từ là một cái gì rất nặng nề, rời rạc, nên không đủ sức kết lại bằng câu thốt lên bằng lời. Em hay chui vào quán vắng (nên quán nào mà có cô ở đó chắc chắn là… ế), ngồi một mình, yêu cầu nghe nhạc không lời, trong cái nhìn dè dặt của cô tiếp viên, “bộ nhỏ này làm… thơ hay sao mà thấy… kỳ kỳ”. Nhiều khi em cũng ngại, ở một xã hội đám đông, đi cà phê một mình, không laptop, chỉ nhìn ra cửa sổ, nghĩa là bạn không bình thường, nhưng em không biết tìm đâu một người thích hợp để cùng ngồi với nhau, như những con chù ụ.

Thầy cười, vì cô không nhận biết được đó thôi, đang có nhiều người hết nói sống quanh cô. Chỉ vì biểu hiện không giống nhau. Có người nói mãi một cây cầu sắp gãy, ngôi trường sắp đổ, con đường xuống cấp, một hố rác giữa thành phố… Sở dĩ phải nói mãi vì những chuyện đó còn mãi. Bây giờ, tiếng nói của anh ta đã trở thành tiếng khóc cho nhiệt huyết bị chôn vùi, cho một niềm tuyệt vọng, cho sự đổ vỡ niềm tin. Lại có một dạng hết nói khác, là không nói những gì mình nghĩ mà nói những gì người khác thích nghe, nên ngôn từ khẩu hiệu tươi rói trên môi nhưng lòng ráo hoảnh, chính họ cũng chẳng hay mình đã ‘hết nói”, vì lời ấy ai đó vào gắn lên đầu lưỡi họ, chứ có phải của họ đâu.

Bản thân việc hết nói, là một nỗi đau. Bỗng dưng người ta không thể bày tỏ tình cảm của mình bằng lời nói nữa, bỗng dưng việc thốt ra ngôn ngữ không còn là niềm vui như chim kia hót, như mèo kia kêu, như dế kia gáy, hỏi sao không buồn? Nhưng suốt một thời gian dài, cô gái không cảm nhận được điều đó, cô vẫn giao tiếp với thế giới bằng mắt, bằng các ngón tay gõ trên bàn phím, bằng cái ngón cái đưa tin trên điện thoại. Cô cũng chẳng cô đơn lắm. Rồi cô nhưng thật sự muốn mình nói trở lại, khi bắt đầu viết blog cho con. Trời ơi, sao mình lại thể hiện yêu thương trên không gian mạng xa lạ này, trong khi hằng ngày mình trò chuyện với đứa trẻ một hồi mệt muốn đứt hơi, đâu rồi trìu mến nói cười?

Đó là những thứ mà cô luôn tìm được ở ba mẹ mình, những thứ làm thời thơ ấu của cô thành quãng đẹp nhất, thần tiên nhất. Cô gái muốn mình lại cất tiếng nói, với tất cả sự hào hứng và trìu mến, vì con, và vì mẹ cô. Một bà mẹ muộn phiền từ ngày con mình bỗng dưng thôi líu lo, ít nói hẳn đi, luôn tránh khi nhà có tiệc tùng khách khứa, nó phân trần, “con mà ngồi chầm dầm trước mặt người ta thì kỳ cục lắm. Thôi.” Con mẹ rất ít bạn bè, chừng vài ba đứa, cũng im ỉm như nó. Cũng chỉ tươi tỉnh, linh động khi ngồi trước màn hình máy tính, đôi lúc chúng phì cười, đôi lúc chúng hớn hở, đôi lúc chúng buồn. Bà lén xem, chẳng ai trong đó, nhưng kiến thức thì có, đầy ắp, đủ thứ trên đời. Bà mẹ cảm giác, dường như đứa nhỏ quen giao tiếp theo kiểu đơn tuyến như vậy, nó không nói nữa. Chừng đó tri thức, nó thấy mình đã quá lớn để ngã vào lòng bà than thở, mẹ ơi, con buồn quá; hay, mẹ ơi, nếu thằng bạn học nắm tay con có phải là nó thích con không? Mẹ ơi…

Bà cảm thấy mất mát một phần thiên chức làm mẹ là lắng nghe con và chia sẻ, bảo bọc con. Bà sợ nó không hòa nhập được với xã hội đám đông, xã hội giao đãi, ở đó chỉ ngôn từ mới ve vuốt được nhau, thật lòng hay không không quan trọng. Bà tội nghiệp cho thằng nhỏ lấy con bà làm vợ, chắc là chưa bao giờ được nghe ba tiếng “em yêu anh”.

Nhưng phương thuốc “hết nói” của ta không còn ý nghĩa gì nữa khi bà mẹ biết được con mình ra đời bị người ta xiên những lời đau vào xuyên da thịt thấu tận tim. Con mình bị lạc lõng giữa một đám đông thích nhậu hơn là sống. Con mình bị cười cợt khi nói lên điều thật lòng nó nghĩ (nhưng đám đông không nghĩ). Con mình cũng từng nói về những bất công, những trái ngang của cuộc đời nhưng tiếng nói mỏi mòn đã trở thành tiếng khóc.

Nếu là mình, gặp bao nhiêu chuyện đó, mình cũng hết nói, bà mẹ tần ngần, sao mình không đón nhận tình yêu của con bằng mắt, bằng nét mặt, bằng sâu thẳm tận đáy lòng? Có ai hết nói đâu, có ai muốn câm lặng đâu, chỉ là họ đang nói, đang đấu tranh theo cách của họ. Nên gặp lão bà trong miền Tưởng về, những người “hết nói” tiếp tục “chán nói”, có sao đâu, như cô gái kia, nếu không thể thủ thỉ chuyện này chuyện nọ với con, cô sẽ ôm ghì nó nhiều hơn, sẽ lắng nghe nó nói nhiều hơn, sẽ cười, nhìn nó nhiều hơn…

Chỉ sợ bao nhiêu đó vẫn chưa đủ, thì cô gái không biết phải tìm thuốc nói (theo kiểu thông thường) ở phương nào? Bởi vị lương y này cũng đang “hết nói”, cũng bị “mất lửa” nên mới buồn tình bày trò lường gạt đây nè…
Những cây gòn lạc

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư

Ta có một buổi chiều ngược ngạo, mang tiếng là đi chơi nhưng phải len lỏi chen chúc mới tìm được một chỗ ngồi trong khuôn viên quán. Chiều xuống rồi mà cả người nhễ nhại mồ hôi. Đã vậy, các cô tiếp viên mặt đẹp mà quạu đeo. Bạn khoát tay, “chịu cực môt chút, ở đây chim sẻ nướng muối ớt ngon dã man. Đi nhậu chớ có phải làm thơ đâu mà tìm chỗ đẹp”. Lâu lắm mới gặp nó, nhưng chẳng thể trò chuyện, chung quanh ồn đến mức chỉ có thể ngó nhau cười cười gật gật, cuối cùng (hay bắt đầu?) là cụng ly.

Và trong cái không gian bừa bộn, nhộn nhạo đó, những cây gòn lạc lỏng đứng bên rào, chỗ góc sân. Gòn tháng Ba, nhiều trái đã khô, và vài trái khô nứt mình lộ ra chùm bông trắng muốt. Bàn ta ngồi, bông gòn rơi xuống. Đó là lúc ta thấy mình sắp chết đến nơi, thấy mình đuối như môt câu văn dài ngoằng không biết bao giờ mới ngắt dòng bao giờ dừng lại, và nhúm bông gòn lìa cây rơi phớt trên tay ta, như một hơi thở khẽ khàng, như lời chào dè dặt, như một dấu chấm câu. Hụt chết. Mừng quá, buột miệng kêu, trời, bông gòn, thằng bạn hưởng ứng, “Hả? Ờ, dzô cái cho xôm đi”.

Ta chỉ lên đầu, gòn kìa. Bạn cũng ngước lên trời, nhìn mãi theo tay ta thì chỉ thấy những trái gòn lủng lẳng trên cành, nhìn mãi thì cũng không hiểu sao con bạn nó lại xúc động vì những cái cây. Bạn cười hơ hơ, cây gì mà vô duyên quá trời, chỉ toàn trái, không hoa lá, trụi lủi, trụi trơ. Ta nhớ ngày xưa, ta cũng nói với má câu này, má cười nói, cây gòn phải hy sinh để dồn sức nuôi trái gòn lớn đàng hoàng chớ. So đũa cũng vậy, trái càng lớn lá càng thưa. Ta còn nhỏ, không hiểu rằng cây cũng giống hệt cái cách má vì con của má…

Ta bây giờ chẳng lớn bao nhiêu, chẳng khôn nhiều nhưng ngó những cây gòn cuối hạn bỗng thương. Bỗng buồn, khi chúng đứng chơi vơi giữa giữa đám khói bốc lên từ những con chim sẻ nướng. Bỗng nhớ những cây gòn nơi xóm cũ. Không ai trồng, nhưng những cây gòn mọc dài theo bờ kinh xáng, gòn chen chúc làm thành hàng rào trước nhà, gòn chênh vênh trên liếp. Dứt mưa, gòn đãi đám trẻ nghèo những trái gòn non, giữa lúc chúng thả diều, giữa lúc đá banh, giữa lúc nghe ruột cồn cào nhưng còn tiếc cuộc chơi, giữa những xế trưa trốn ngủ lén ra vườn chơi nhà chòi. Tháng Ba, trong nắng “trời ơi”, (bởi không kêu trời thì không biết ta thán với ai cái nắng vàng sẫm, nóng rực, như đổ lửa, như đúc thành khối. Trời đứng trân, gió đứng trân, cây cỏ đứng trân, đi mãi mà không gặp con nít chơi ngoài sân. Lú đầu ra khỏi nhà phải buột miệng: Nắng ! Trời ơi !), mọi thứ cố trốn tránh, im lặng để chờ mùa mưa tới, thì những trái gòn trơ trọi giữa trời nứt ra rồi tách vỏ hẳn, vỏ cũng rơi xuống đất, cây chỉ còn treo những chùm bông trắng tinh. Đám trẻ lấy bao hái những cục tuyết lửng lơ giữa trời đó về cho má dồn vào gối mới.

Đó là món quà duy nhất mà cây gòn tặng cho người, cho giấc ngủ của người. Lá ăn chẳng ra gì, hoa cũng không ấn tượng, trái non thì có thể ăn tạm, nhưng vì nghèo, thiếu thốn trẻ con mới ăn. Thân cây xốp, bở nên không ai thèm xẻ ván đóng tủ, giường, thậm chí bắc cầu qua mương, hay làm củi chụm cũng tệ. Nhưng mỗi cuối mùa nắng, gòn lại chứng tỏ mình không sống cuộc đời vô duyên, vô ích. Có lẽ vì vậy mà những cây gòn, dù không ai trồng tỉa vẫn được sống trên khắp đất quê.

Và trong ký ức không thể chỉnh sửa của những đứa trẻ ngày đó, gòn chỉ đứng nơi bờ kinh, bờ ruộng, bên khẩu đìa, bên những cây quao, cây trâm bầu… nên thấy gòn giữa thành phố, giữa cái quán nhậu chật chội bức bối hơi người, có kẻ kêu lên, trời, sao mấy cây gòn lại lạc ở đây. Nửa mừng, vì cái cảm giác như bạn thời thơ ấu, bạn thời ghẻ chóc mọc trên đầu từ quê cũ lặn lội ra thăm. Nửa lơ ngơ, như thấy đám rau càng cua mọc bên thềm chợ, như nghe con dế gáy trên vỉa hè, tự hỏi, sao tụi nó ở đây? Mà, sao ta lại ở đây?

Sao những cây gòn lại ở đây, để ngày ngày chứng kiến bạn cũ của mình – những con chim sẻ - bị nướng vàng nằm phơi trên đĩa, bị ngốn ngấu trong miệng của con người - cũng là bạn cũ. Sao gòn không về bờ kinh, liếp chuối, về cái nơi còn những người nghèo chờ tháng ba về hái bông gòn để chăm chút nâng niu giấc ngủ cho người thân? Sao những cây gòn lại đứng đây, chẳng để làm gì, treo chùm trái trên cao, như những dấu chấm than buông lửng bên trời, buốt nhức.

Những cây gòn đi lạc? Hay chính đứa trẻ xưa đã lạc?
Tiền bối, thầy và bạn
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư
Kính tặng họa sĩ Phạm Hữu Trí
Tôi thấy nhớ ông già, đó là những buổi chiều nhàn nhạt, lửng lơ, lờ đờ, chẳng biết đi đâu, chẳng biết làm gì, chẳng biết làm sao để trôi qua trống rỗng. Tôi thấy nhớ ông già, đó là lúc bỗng dưng thèm uống ly trà quạu, hay một ly vang. Tôi thấy nhớ ông già, đó là lúc tôi không muốn nói, mà chỉ thích ngồi nghe. Mặt hai chú cháu hơi đỏ, ông già nói ông Gorki nói vầy, ông Lev Tolstoi nói vầy, ông Nguyễn Tuân nói vầy. Tôi cười, vì không gần gũi với mấy ông già đó lắm, thời của mình thì văn chương Trung Quốc tràn ngập, chỉ biết ông già Mạc Ngôn hay ông già Giả Bình Ao... Cũng xon xen Ba Lan, Đức, Nhật nhưng văn học Nga Xô Viết thì bó tay. Vô thư viện lục lọi sách của mấy tác giả đó, nhìn hết muốn ăn thịt chuột, giấy đen thùi, chữ in lem luốc, trang đọc được, trang không.
Những bộ sách kinh điển đó cũng chất đầy trên kệ sách nhà ông già, cũng cũ kỹ, già nua, cũng nặng nề bởi thời gian. May, vì bộ mặt sầu thảm đó nên sách còn nguyên trân, chẳng ai thèm mượn. Cũng có khi vì ông già khó tánh nên người ta ớn chăng?
Vụ khó tánh, là người ta đồn đãi vậy, tôi không ngán. Người nào càng khó độ thử thách càng cao, khó mà chinh phục được họ (hoặc làm họ... tức chết) thì mới sướng. Riêng ông già, tôi chỉ thấy ông dễ thương. Khách đến nhà, có gì ông đem ra đãi bằng hết, mấy cây xúc xích, bọc bánh phồng tôm, kẹo, hột dưa, phó mát Con Bò Cười... Có bữa mình đói, không giữ ý tứ gì, ăn hùng hục, lúc ngẩng lên thấy ông ngó mình cười.
Có lẽ ông khó thiệt, nhưng theo kiểu của ổng, rất nghệ sĩ. Có một chút ngạo đời, một chút ương ngạnh. Không thích người nói nhiều, người ba hoa (dân gian bây giờ kêu là “nổ”), không thích chỗ đông người, không thích tiếp xúc với giới quan chức. Một mình đạm bạc. Ông như một bảo tàng của văn minh cũ, của những tri thức cũ, của một nền văn học cũ... Mấy “ông” Dickens, Dostoevsky, Balzac, Remarque, Amatov... bệ vệ trên giá bao nhiêu, thì những Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Trang Thế Hy, Nguyên Ngọc, Lê Văn Thảo, Chim Trắng... cũng sâu đậm trong lòng ông già bấy nhiêu, đánh dấu những năm tháng sống và làm việc ở báo Văn nghệ, báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh...
Nhà ông già cũng là một bảo tàng của những gì mà người ta quên, người ta không cần nữa, hoặc người ta nhớ, nhưng người ta không muốn quay về. Giữa thành phố, có con đường ốm nhom đi ngang qua ngôi nhà nhỏ nằm núp ló sau hàng rào nhiều dây leo, giàn hoàng anh vàng rực trên cổng gỗ. Cái sân cũng nhỏ nhưng chứa đựng đủ thứ, một cây dừa, cây mận, một dây trầu bà bó quanh cây... Mùa mưa, cái ao bên dưới sàn nhà có mấy bụi kèo nèo, bèo tấm mong manh. Mỗi lần thấy cái biển xanh lè, “Gia đình đạt chuẩn văn hóa” là khách phì cười, có cái biển trị giá một trăm ngàn đồng hay không thì ông già cũng cực kỳ văn hóa, vì chẳng qua lại, cãi cọ với ai. Ông già ẩn dật, nên những vật nuôi cũng ẩn dật, cũng ngại người. Con bìm bịp mắt đỏ như khóc suốt tuổi thơ tôi nghe kêu nước lớn nhưng chưa bao giờ thấy mặt. Cũng chưa bao giờ được nhìn gần một con chim mèo mặt buồn tê tái, lồng bên kia, chim heo không buồn, nhưng... quạu, con chồn xám thì hay rúc vào góc nhà mỗi khi có khách. Nhiều khi tới gần, tụi nó giận dữ xù lông, đập cánh tao tác, tôi tự hỏi con người xấu xí vậy sao, mùi người khó chịu vậy sao? Hay cái nết ông già ảnh hưởng tới tụi nó, hoặc ngược lại. Chỉ có con sóc là nhí nhảnh, chẳng giống ông, nó đã bỏ lồng, trèo long nhong trên mấy tàng cây lớn quanh nhà, sân ngày nào cũng rơi đầy những trái dại chín mà nó đã gặm ba mớ. Có bữa, ông già bảo, con sóc đi cắn dây điện của người ta, ở xóm cằn nhằn quá chừng, bực ghê. Nhưng tôi không có cảm giác là ông chỉ bực chút chút, và vui chút chút, như thể người ta cầm tay thằng nhỏ nào đó dắt về cho ông, giằn dỗi, thằng cháu anh đánh con tui u đầu rồi. Bị láng giềng mắng vốn, nghĩa là ông không quá cô đơn.
Cho dù trong ngôi nhà gỗ cũ kỹ mưa tạt, gió lùa này, khi khách về, chỉ còn mình ông. Nhưng có hề gì, lúc đó những con chim lại đập cánh lao chao trong lồng, chim sâu chim sẻ ngoài cửa cũng bàn tán chuyện này chuyện nọ. Và con bìm bịp cất tiếng kêu sầu quê xứ. Những tiếng bịp... bịp... phơn phớt trên da thịt người ta, nghe lành lạnh, man mác. Những nỗi nhớ mờ mờ, không rõ ràng bỗng cụm lại như mây, nhỏ từng giọt nhớ vào lòng. Có lúc, ông già nhại theo kêu bịp... bịp... con vật đáp lại, ông già lại nhại... Họ nói cái gì với nhau, về con nước lớn đang ngập những cái hang của cá thòi lòi? Về những bờ lá dầm chân trong nước? Về những bụi rậm ven sông đã trổ bông? Những chiếc xuồng chập chờn dưới bến ô rô? Những bụi nga chồm mé nước? Nghe ngậm ngùi như họ đang nói với nhau về quê xứ mà cả hai đã xa hồi năm nẳm năm nao. Cũng không chắc, có thể họ chẳng nói gì hết, chỉ đơn thuần là kêu chơi. Không hiểu sao, lúc ấy, tôi lại thấy ông già cô đơn, rất cô đơn. Tôi muốn nán lại thêm chút nữa.
Lần nào tới, cũng nói về vài ba lần mới đứng lên về được, thấy thời gian qua thật mau, mà học lại được quá ít. Ông nói người Mỹ, người Trung Quốc mà rơi xuống hố sâu thì lên được hết, bằng cách trèo lên vai nhau, nhưng người Việt thì khó mà lên, bởi không muốn ai đứng trên mình, không muốn ai sung sướng hơn mình. Cứ có người bươn lên ắt có người nắm giò kéo xuống. Ông nói viết văn mà đứng ở bên ngoài ngó vào câu chuyện thì đọc chán lắm, phải ngồi ở trong câu chuyện đó, mới hay. Và nhiều khi ông chẳng nói gì, nhưng tôi học được cách im lặng, kiệm lời. Học trên vách cái câu ông kẻ bằng sơn trắng “Không nên nhổ vào giếng. Một ngày kia nó sẽ giải khát cho ta”, học từ bức tượng người đàn ông tự gọt đầu cho vừa với cái nón của mình, hay một người khác đang tự ăn mình đến rỗng cả ngực, học chữ Tâm trên cái đĩa trang trí. Tôi nhìn giá sách học cách nâng niu sách, nhìn ra sân học cách hòa mình với thiên nhiên. Nhìn vào ông tôi học sống điềm đạm, ung dung, an nhiên với những hào quang cũ, mới.
Học cả cái cách ông đối xử với hậu bối, xởi lởi mà nghiêm khắc, cởi mở mà sâu sắc, bình đẳng mà trọng thị. Lúc đến, luôn thấy mình trống trải, thấy mình đang trôi vạ vật, khi về, lại thấy mình đầy, thấy muốn viết, muốn làm gì đó có ý nghĩa. Thấy muốn sống, và sống tử tế.
Để đến lúc mình già, có mấy đứa trẻ con hay buồn, hay vỡ (giống như ta bây giờ) đến chơi với t
Xin lỗi lục bình

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư


Biên giới cuối tháng 3. Cái nắng như thiêu đốt, trời đứng trân, không một chút gió. Những vạt đồng rạ cháy khô, cỏ cháy khô, vài đàn bò ốm o trốn nắng dưới tán thốt nốt cũng đã xác xơ. Ruồi nhặng chập chờn. Những rặng núi xa xa, trọc lóc. Mấy bóng người ít ỏi nhoè nhoè đằng xa, như đã bị nắng đông lại, chỉ còn sóng sánh một chút, trước khi bất động. Hai lần đến đây đều vào mùa khô, nhưng còn muốn đến lần ba lần bốn, cũng dưới nắng này. Để đứng bên đường nhìn sự hoang hoải, héo úa, vắng vẻ, buồn buồn.

Không thể giải thích được tại sao mình có niềm đam mê kỳ cục vậy. Cũng như không thể phân trần tại sao mình thích dãi đất miền Trung hơn miền Bắc, và nếu có cơ hội nào mình thà đi… Ấn Độ, Lào, Cam Pu Chia hay Ai Cập hơn Mỹ, Châu Âu. Dường như cái nghề viết ngớ ngẩn đã sinh ra ý thích ngớ ngẩn. Mê những hoang tàn, hiu hắt, trơ trụi, nơi thiên nhiên khắc ngiệt, nguyên sơ. Ưa đồi cát hơn rừng cây, say đồng cỏ hơn đồng lúa, thích ngắm những cành khô hơn hoa đang nở. Hay đó chỉ là một kiểu “đứng núi này trông núi nọ”, thừa mứa sông nước đồng bằng nên ngóng về phía hắt hiu? Từ chối sự hoàn mỹ, sang trọng để đến với thô sơ, giản dị? Ngán ngẩm đám đông, chạy trốn đám đông?

Tôi ngồi trong căn chòi xập xệ chờ người đàn ông vá lại cái bánh xe đã xẹp lép của mình, và đưa ra những lý do khiến mình lê lết trong nắng, trên đất khách. Cái gì đã xui mình? Tôi nhìn quanh, một cái thau nước dùng để dò chổ thủng đã ngã màu đen thui, đặc quánh. Vài phụ tùng tháo lắp xe đã gỉ sét. Cách một tấm liếp bằng gỗ tạp có tiếng võng kèn kẹt, một đứa bé nào đó hát hời hời. Lát sau, em bơ phờ ẳm một em bé khác ra xi đái, nước đái chậm chạp rơi xuống, ít ỏi như vừa ra khỏi cơ thể đã bị nắng cô đọng lại. Trên trán hai đứa mồ hôi đầm đìa, tóc ước bê bết. Hỏi mẹ em đâu, con bé làu nhàu, đi tiếp nấu đường thốt nốt bên xóm. Nó đặt em ngồi xuống đất, lúi húi bưng ra một chén nước cơm khuấy với đường nguội ngơ, bữa ăn cho em bé khi mẹ vắng nhà.

Tôi bỗng nghĩ, hay là tôi thích những chỗ khắc nghiệt, tàn phai này có phải để lấp đầy những yếu đuối mặc cảm của mình. Để có cảm giác như đang phiêu lưu lăn lộn vào đời sống, một người viết có thực tế. Để thấy mình giàu có hơn dân ở đó, để thấy cực nhọc, khổ đau không nhằm nhò gì so với họ, để thấy cái đất mình sống cũng không đến nỗi nào, đất đai phì nhiêu, kinh rạch chằng chịt, thiên nhiên ưu đãi, quê mình vậy là tốt rồi, dù ở đó đôi khi bắt gặp trên gương mặt người không có tình người.

Tôi nhớ những con bò chỉ da bọc xương chết khô trên những đồng cỏ cháy ở miền Trung trong bản tin tối. Tôi nhớ hình ảnh những em bé chong đèn cóc học bài. Tôi nhớ có lần uống trà với một ông già, ông nhằn, mầy viết cái “Lục bình” tao không chịu, lục bình trôi nổi dập vùi, khổ muốn chết mà đẹp khỉ khô gì…”. Lúc ấy tôi cười.

Và bây giờ thì tôi không cười. Có lẽ, ông già kia nói đúng, tôi sẽ phải xin lỗi lục bình vì cái ý thích đã muốn nó phải lênh đênh, cũng như xin lỗi những con người gồng mình sống trên những vùng đất khắc nghiệt mà tôi cho là tuyệt đẹp.

Những con người đã bị tôi quên lãng, vì bận suýt soa tấm tắc những cỏ những cây những núi những cát. Họ, mới là kỳ quan của cuộc đời này.

Xin lỗi!
Ngồi buồn nhớ ngoại ta xưa
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư
Bà ngoại ta, mấy nhà hoạt động xã hội vì sự tiến bộ của phụ nữ, hay giải phóng phụ nữ gì gì đó gặp một lần là khóc chết luôn.
Sơn móng tay hay móng chân, mặc váy hay quần đùi, tóc uốn hay tóc tém, tóc nhuộm, áo hở ngực hay áo bó… tóm lại, sự chưng diện luôn làm bà ngoại ghét cay đắng. Nên hai cô con gái của ngoại suốt thời thiếu nữ chỉ thả tóc đen dài, chết bỏ cũng chỉ bộ bà ba, móng chân duy nhất màu phèn vàng ệch. Lúc già, hai nàng này bắt đầu day qua nhằn tụi nhỏ, “bà ngoại mầy mà còn sống, bả chửi tan nát…”
Nhưng bà ngoại mất rồi, rất thanh thản, bà ngoại còn lựa ngày để chết, vào buổi sáng hôm tiên thường cúng giỗ ông ngoại. Bà ngoại đi trong lúc con gái đang lúi húi hấp bột, xào nhân gói bánh. Hồi còn sống, bà ngoại luôn nói chết làm sao cho bớt bận lòng đám con cháu vốn ít ỏi, bây giờ thì đám giỗ đông vui, có cả cháu ông, cháu bà, bên nội bên ngoại.
Hồi còn sống, bà ngoại hay nói về ngày ngoại chết, nói thản nhiên, nói rộn rã như đang lên kế hoạch cho buổi… hội nghị nào đó (có phong bì). Ngoại dặn, đừng mời thầy chùa vì sợ con cháu bận theo lạy trong lúc tụng kinh mà không phục vụ khách chu đáo. Dặn phải nấu đồ ăn cho dư nhiều, để cho kết thúc thì bưng cho xóm giềng, cho những người đi giùm đám. Dặn sau này cúng giỗ thì đơn giản thôi, miễn có con cá lóc nướng cũng xong, nhưng cúng trăm mươi ngày thì làm lớn, đây là dịp hậu tạ những người đã giúp đỡ hồi đám ma. Dặn đừng có mời kèn trống làm chi, uổng tiền.
Uổng tiền, đó là câu nói đầu môi của bà ngoại. Nó làm mất lửa bất cứ ai hí hửng đem cho ngoại bộ đồ mới, cái võng mới, hay nón mới. Đồ cũ còn mặc được (dù đã vá mấy chỗ, dù lưng áo đã mỏng te, mấy nẹp áo đã sờn). Võng cũ còn nằm được (dù đã vá chồng mấy lớp). Đội nón cũ đâu có chết (dù đã bung vành, xuống màu, thâm kim). Cái gì ngoại cũng tận dụng đến cùng, bao gạo, hay cái mùng vải đều nằm trong chủ trương “còn rách còn… vá”. Cấp bậc cao hơn là vá… lu, xoong chảo bằng gang cũng vá luôn. Nếu vá mà vẫn không dùng được, lu ngoại sẽ để dành dú chuối, xooang chảo để làm mẻ ung muỗi cho heo. Áo, nếu đã không còn mặc được nữa, ngoại sẽ lắt mấy cái nút bóp trước khi chuyển áo qua làm… nùi giẻ. Mà, nó sống hết đời lau chùi, thì chỉ có nước làm phân cho… trầu.
Vườn trầu của ngoại nổi tiếng cả xóm, nên mấy chiếc ghe hàng bông hay ghé hỏi mua. (Tụi nhỏ đất liền có dịp gặp tụi nhỏ hàng bông, để sau này có đứa lon ton lượm lặt chi tiết để viết… truyện ngắn thương hồ). Ngoại hái trầu đến mức móng tay mòn khuyết một lõm. Những ngày vào đợt hái trầu, ngoại quảy cà vung ra vườn sớm, lúc mặt trời lên cũng là lúc ngoại na cà vung vào, đổ ra bộ ván rồi lấy dây lát bó trầu. Ốp trầu của ngoại cũng nổi tiếng, chặt chẽ mà mềm mại, không làm lá trầu giập, cũng chẳng dễ tuột dây. Để có những cái lá trầu mượt mà, nồng đậm, ngoại ủ một khạp cá phân thúi ùm, ngang qua đó tụi nhỏ nín thở, chạy cái vèo. Chỉ ngoại là tỉnh bơ lấy gàu múc tưới.
Ngoại không sợ gì hết (chết mà còn không sợ thì sợ gì nữa). Ngoại cất cái quán nhỏ dưới bến bán “tót ten” (chữ này của ngoại hay khủng khiếp). Từ quán lên nhà phải qua một con đường mòn hai bên dừa nước bịt khù. Lại còn ráng, ô rô mọc xon xen ra lối đi, ban đêm tối mịt mùng, thấy ớn. Ngoại không ớn, cả con kinh Rạch Rập trước nhà cũng khủng khiếp, nghe kể hồi chiến tranh lâu lâu ngoại bơi xuồng đụng phải một xác chết, lâu lâu, lại thấy có khúc chân người tấp vô ven đó. Ngoại lấy dầm… vít ra. Chuyện nhỏ như… con thỏ.
Những năm tháng sống cạnh đồn Chẹt chắc không dễ dàng gì, khi chồng và con gái đầu lại là… Việt Cộng, bà ngoại trở nên (hay đã sẵn tính) gan lì. Vườn cũ, chim cú trú ngụ hàng bầy, đêm nào chúng cũng thảm thiết cất tiếng kêu, ngoại tỉnh bơ, xách đèn cóc ra chuồng heo coi tụi nó sao lại chộn rộn vậy. Trời ban cho ngoại bàn tay lẹ làng, tướng đi lật đật, con mắt lanh lợi nên bà giỏi giang. Làm bánh hết sẩy, buôn bán cũng có khiếu, mà đan đát cũng tài. Sàng sịa thúng mủng, rổ lớn rổ nhỏ toàn là ngoại đương lấy. Và cái quấn vải mà ngoại quấn trên ngón tay trỏ để vót nan cũng hay mòn. Tuần rồi, về U Minh ghé qua rạch Ổ Ó, quê nhà của bà ngoại, gặp người dì (gọi ngoại bằng dì) đang ngồi đương rổ, bỗng giật mình. Trời, người gì mà giống ngoại ta xưa. Ở đây, bảy mươi năm trước, có một bầy con gái ngồi vót nan trong ánh trời chiều, không biết yêu đương hò hẹn, cứ vậy, chờ người tới rước đi. Để tiếp tục nấu nướng, làm lụng, đương đầu với cuộc đời.
Ngoại cũng có lúc sợ, lý do rất mắc cười, thí dụ, bà lại thảng thốt khi nghe tiếng gà gáy ban trưa, ngoại ngó con gái mình, hơi dè dặt, rầu rỉ, “Gáy kiểu này là xóm có đứa chửa hoang rồi. Tụi bây ráng giữ…”. Ngoại hay thở dài ứ hự, “nhà có con gái như hủ mắm treo đầu giàn…”, đó là lúc hai nàng chưa lấy chồng. Ngoại sợ đổ vỡ cái mà người ta gọi là gia phong. Mà, sợ cũng thừa, hai con gái ngoại cũng chẳng thèm yêu đương hò hẹn, ai thích thì rủ lại nhà chơi với… má tui. Một bữa má đòi theo ông ngoại, bà ngoại nói mầy mà bước đi, tao từ, con gái con đứa con không lo may vá, khéo léo mà bày đặt cầm súng đạn (hay đó chỉ là cái cớ, ngoại sợ rủi một ngày, ngoại phải khóc chồng, khóc cả cho con?). Nhưng má vẫn đi, má biết, sức mấy mà ngoại ngoảnh mặt từ con. Sinh mười lần, chỉ còn hai đứa con gái cu ky, con trai, đứa chết vì bị sài đẹn, đứa chết bởi viêm phổi, bởi ban đen (sốt xuất huyết), bởi những căn bệnh tưởng như vặt vãnh nhưng vì nghèo, thiếu thốn, lạc hậu mà những đứa trẻ tuột khỏi tay bà.
Ở ngoại, luôn có mùi lưu cửu, cũ kỹ. Nó thống nhất từ bộ đồ sờn rách đôi ba chỗ, từ mùi dầu dừa trên tóc, bàn tay đượm hương trầu. Cái tiệm của ngoại cũng cũ mèm những hủ tương da bò, khạp đường mía, mấy cái móc bẻ bằng dây chì treo lùm đùm bọc nhỏ bọc to. Có thể tìm thấy đủ thứ hầm bà lằng món ở đây, từ kim chỉ, nút bóp, đến đá lửa, hột quẹt, ống cuốn (quấn tóc), kiếng lược, đường đậu bột khoai, bột bán, tương chao, nước màu nước mắm xì dầu, kẹo… hiện đại nhất là lon gô của lính Mỹ dùng để đựng tiền.
Lúc sinh ra là đã thấy ngoại bán tiệm rồi, cũng như đã thấy ngoại khó tánh sẵn, ngoài việc dằn mặt vụ chưng diện ra, ngoại còn làm con cháu “rè” dài dài, lên mâm cơm, ăn có chậm, hoặc vừa ăn vừa chỏi tay cạnh hàm, gác cằm lên đầu gối, ngồi chồm hổm, ngoại sẽ hát khúc “ăn kiểu đó là nghèo chết nghen”. Trong chén còn mấy hột cũng phải vét cho sạch, ngoại không thích ăn cơm mà rơi vãi ra ngoài, trái ổi, trái khế cũng đừng hòng cạp nửa bỏ nửa. Bà ngoại hay nói ăn xài huỷ của sau nầy lúc cần, hỏng có mà ăn, lời ngoại như tiên tri vậy, đúng là bây giờ bỗng dưng thèm trái ổi chát ngấm ngày xưa, kiếm được… chết liền. Giũa mấy đứa nhỏ trong nhà tơi tả, ở xóm mà chạng vạng mới chạy tới mua dầu thắp đèn, hay tới bữa cơm mới đi mua gạo, thể nào cũng bị ngoại “tụng” một trận. Ngoại không biết câu “khách hàng là thượng đế”, mà “khách hàng là con cháu tao. Không dạy để sau này thành quen, không chịu lo xa, nước tới chưn nhảy chi nửa mà nhảy”.
Đúng là khó thấy ớn. Có lần, ngoại chèo xuồng ra nhà con gái đầu chơi, thấy thằng rể xách cây đánh con nhỏ cháu mình, ngoại giận lắm, từ ấy, căn nhà đó không còn được đón ngoại ra, dù mười sáu năm nữa đã trôi qua. Rể giờ đã già, nhắc lại, giọng buồn xo.
Nhưng đấy không phải là chân dung đầy đủ nhất của bà ngoại.
Ngoại sợ uổng tiền, ngoại tiện tặn giặt từng cái bọc nilông cũ, súc rửa từng cái chai sành đựng nước mắm, nâng niu từng cọng dây thun nhưng đối đãi với người ngoài, nhất là người nghèo, làm thuê, làm mướn cho nhà mình thì mướt rượt. Ngày mấy bữa cơm, cà phê, thuốc gò đầy đủ, với những người thợ gặt ngoại cũng bưng nước uống ra tận ngoài đồng cho họ. Ngoại không dám may áo mới nhưng đám con cháu được ăn mặc đủ đầy. Về ngoại, chưa kịp khoanh tay thưa bà đã tong tả xúc gạo cái sột, đi rửa khoai đem luộc, lúc thì ngâm đậu nấu chè, xay bột nấu bánh canh. Cái món bánh tổ ăn thừa, ngoại đem phơi khô treo giàn bếp, lâu lâu đem ra chiên với mở heo, từ ngoại ra đi đã không còn thấy nữa.
Không còn thấy nữa bà già nhỏ nhắn, miệng luôn rầy la, chửi chó mắng mèo nhưng trong bụng hiền khô. Bà già đó, nhiều khi cũng cực đoan, cũng phong kiến cũ kỹ, nhưng nền nếp, tử tế.
Nhưng bà vẫn ở bên ta hoài, theo một cách riêng của bà, thí dụ gặp khuôn bánh, ai đó vô tình buột miệng, “bà ngoại hồi đó hay nướng bánh kẹp, bánh bông lan…” Nhờ vậy, câu chuyện này được chắp vá từ những người khác nhau những thời điểm khác nhau. Bởi có đứa cháu của bà ngoại hồi xưa không gần gủi với bà lắm, bởi nó sợ căn buồng kín mít chứa toàn đồ cũ của bà nên chẳng khi nào chịu ngủ chung, bởi nó nghĩ bà thương cháu trai hơn, bằng chứng là bà toàn… rửa đít cho ông anh, bởi bà hay cằn nhằn nó.
Để một ngày nó thấy ngoại trong nó, ra đường gặp mấy đứa nhỏ tóc đỏ tóc vàng, ăn mặc hở hang, nó đổ quạu, cằn nhằn, “con gái gì không nên nết…”.
Rất có thể sẽ có “bà ngoại” phần ba.
Nợ

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư


Cả nhà nói năm qua anh sướng nhất, khoẻ nhất vì chẳng nợ nần gì. Anh cười ngượng ngập, cũng chưa chắc. Không nhất thiết nợ bằng tiền, có những món nợ không dễ nhìn thấy bằng mắt thường đâu. Mọi người tếu táo đùa, vậy là nợ tình rồi. Anh không giải thích, nhưng bụng buồn xo.
Hôm qua, trong lúc sắp xếp lại tủ sách, anh nhìn thấy xấp hồ sơ khiếu kiện nằm dưới mấy quyển tự điển dày. Mớ giấy tờ này anh mang về sau những chuyến công tác vùng sâu hồi một năm nào, xa lắm. Cầm chúng trên tay, bỗng dưng chới với, nhìn nét chữ nguệch ngoạc, đổ tháo, anh như gặp lại những nét mặt mỏi, những ánh mắt khẩn cầu, chờ đợi. Trời đất ơi, mớ hồ sơ đầy bụi, màu mực đã chớm phai này là tất cả hy vọng của bà con. Nhưng anh đã thờ ơ, quên lãng chúng…
Anh cũng không nhớ mình đã xem qua nội dung của những xấp hồ sơ ấy chưa, sao lúc này anh lại bỡ ngỡ, thấy dại đi như lần đầu tiên đọc chúng. Lần đầu nhìn thấy những con chữ lúc bò lúc chạy, lúc nằm lúc đứng, thường gặp những câu ngồ ngộ, vụng về, “kính thưa bà con quốc hội!”, “ổng oánh tui lổ máy đầu”, hay “ỷ có thằng con làm thơ ký ở xã nên nhà đó giành đất của bà già tôi”, “tôi mà có khai nửa lời gian dối cho hộc máu chết tươi”; những lỗi chính tả kiểu như “Xinh quý dị cơ quang xem xét”, “mười hec ta gừn”, “chăm phần chăm”. Lâu lâu lại thấy nét mực đậm trên mảng giấy, người viết đã rơi nước mắt làm phồng rộp khoảng giấy này, hay bàn tay người viết vừa cấy lúa ngoài đồng vào nên còn vương nước? Họ xoá những chữ sai bằng gì mà loang lổ ố vàng kia, ngón tay chấm vào nước trà hay chấm lên đầu lưỡi để tẩy mực?
Lòng anh bừa bộn hơn cả cái đống sách báo đang bừa bộn trên sàn nhà. Có một cảm giác lỗi lầm toan tính làm anh đông cứng lại. Đó không phải là những tờ giấy vô tình, đó là oan khuất, uất ức, là những mảng đời cơ cực, là nỗi trông ngóng tuyệt vọng, là niềm tin vào cuộc đời đang đứng trước nguy cơ đổ vỡ. Anh đã nghĩ gì khi ủ bụi chúng dưới những chồng sách, báo cũ, bên kẹt tủ, anh cố nhớ. Anh thấy những chuyện kiện cáo là vớ vẩn, anh không có thời gian để viết bài cũng chẳng rảnh tí nào mà chuyển cho cơ quan có chức năng, hay anh thấy con đường đến công lý mịt mù, có đi cũng chưa chắc tới? Mà, cũng có thể anh chẳng nghĩ gì cả, thờ ơ nhận chúng từ tay người dân, thờ ơ bỏ lại trên tàu, khi nghe ai đó kêu, anh gì ơi, quên đồ kìa thì anh quay lại, lững thững cầm về, ơ hờ bỏ vào tủ. Xong. Kết thúc. Có dịp thì dọn dẹp, cân ký bán ve chai.
Để đến một ngày nhận ra đấy cũng là món nợ lớn. Nợ chất chồng lời hứa. Nợ lút đầu lút cổ những hy vọng bà con trao. Như anh công chức nợ những nụ cười mà khi gặp dân họ đã kiên quyết không cười. Nợ nhau câu chào hỏi, cái nhìn ấm áp. Khi viết những bài baó phê phán họ, có có trông vào mình, nhưng thật buồn cũng không thấy rõ mình. Anh thì hơn gì? Cả những tấm ảnh chân dung mấy ông bà già trong xóm Vịnh (anh nhớ có ông ba khệnh khạng mặc vào cái áo mới may, có bà má hồi nào giờ không biết chụp hình, mắc cỡ dụi lổ mũi hoài…), lúc ra về người còn dặn, nhớ gởi hình cho má, để mai mốt theo ông theo bà có cái để thờ. Nhưng cả hình cũng nằm bẹp trong ngăn kéo lạnh, bà má chắc đã về với đất mất rồi.
Phải mà nợ tiền chắc chắn có ngày trả xong, nhưng những món nợ như thế này sẽ khiến anh cúi mặt đến suốt đời.
Mới biết cái gì trên đời này cũng tương đối, cả sự tử tế mà anh vẫn thường tự hào.

Lan man chuyện… tình yêu

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư


Em ngất xỉu ngay chỗ bồn hoa bên ngoài ban công trên tầng sáu của một khách sạn. Dấu chấm hết là em định dùng cho cuộc đời mình, may quá, được đổi thành dấu chấm lửng…
Cả thành phố sáng ấy bàng hoàng, hơi… xao xuyến. Vì cái cảnh em nằm vắt vẻo trên bồn hoa quá ngoạn mục, mạo hiểm như Thành Long đóng phim. Vì người ta hay chui vaò phòng kín để tự vẫn, lâu lắm rồi mới có kẻ làm chuyện đó ngoài đại lộ sáng trưng. Vì người ta nhận ra em cực kỳ xinh đẹp, và giàu (nghĩa là mức độ bàng hoàng của người đời sẽ tụt giảm đáng kể nếu kẻ tìm đến cái chết xấu xí mà còn… nghèo. Người đời là vậy…).
Và những ngọn gió xao xuyến ùa vào những ô cửa sổ cơ quan mở tung buổi sớm. Trời ạ, em đi tự vẫn là vì tình, vì một anh chàng giám sát công trình đã thay lòng đổi dạ. Chuyện quá bình thường, xưa rày xảy ra hoài, câu hỏi đặt ra là tại sao ta lại xao xuyến không tan vì điều bình thường đó?
Buộc phải giở cái thứ gọi là… tình yêu ra định nghĩa, định giá lại. Thời @, người ta đã quen với những thứ tình toan tính, tình… nhín nhín (để dành), tình cạn cợt, tình sương sương, tình mây bay gió thoảng… Đọc báo thường xuyên, thường gặp những ngôi sao âm nhạc hay ngôi sao điện ảnh hơi lâu không ai… nhắc, hoặc trước liveshow, album, phim mới bỗng dưng yêu mãnh liệt, “nhìn thấy anh tôi biết đây là người đàn ông của đời mình” hay “lễ cưới là lời khẳng định của tình yêu” hay “chúng tôi thề hẹn cùng nhau đi hết cuộc đời”… chừng vài ba tuần sau, các sao mặt ráo hoảnh như cơm khô để nguội, vụ hôm trước hả, huề rồi. Ra đời, gặp đủ dạng yêu, vì căn biệt thự quá đẹp, yêu vì hộ khẩu, yêu cho… bỏ ghét.. thì em ra tuyên bố chắc nụi, TÌNH YÊU (chứ không phải thằng nhóc bạc lòng kia) đáng giá cả cuộc đời. Nó đáng để người ta trao gửi trọn vẹn, sâu đậm tâm hồn mình, đáng cùng ta hít thở, vui buồn. Và điều đó làm những kẻ luôn tự hào rằng mình xưa rày yêu trơ trơ, yêu tỉnh bơ bỗng choáng váng, chông chênh. Nhận ra ta không hết mình với cuộc đời này, dửng dưng với mọi thứ, vô cảm với mọi thứ, đơn cử, khi yêu ta cũng yêu vừa vừa, yêu chừa hậu. Dâng hiến thế nào, thì nhận thế ấy, nên tình yêu chỉ có ý nghĩ chút chút, khi đến và đi.
Và dấu chấm hết không thành của em đã làm đám đông xao lòng. Cả ngày hôm ấy, bỗng dưng mọi câu chuyện đều liên quan đến tình yêu. Có người nhớ hồi học văn khoa, có chàng bạn học người miền biển để ý, nhưng chàng trờ tới cửa trước thì nàng lẩn ra cửa sau, vậy mà đeo đuổi nhau đến ba năm trời, đến mỏi mê. Người khác nghe xong, cũng kể lể, hồi đó sỡ dĩ vào bưng theo cách mạng là vì… thất tình. Ở lại thành phố thì đi qua góc đường, con hẻm nào cũng xuống nước mắt, cả cái cây me cụt đọt trước bưu điện cũng mang dấu vết tình yêu. Vậy là chạy trốn. Phải như bây giờ thì yêu chàng này không được thì có chàng khác, mắc mớ gì sâu đậm, chết lên chết xuống.
Những người còn lại ngu ngơ, họ không có gì để kể, họ chưa bao giờ biết yêu theo kiểu “quăng nguyên con” nên chữa thẹn bằng cách lớn giọng rầy, con nhỏ đó dại quá. Không, em rất bình thường, cả chuyện em tự vẫn cũng là tâm sinh lý bình thường của tuổi trẻ, bên cạnh thương ghét giận hờn… ta còn muốn… chết, và chết cũng là một ngôn ngữ, một hành động phản ứng cuộc sống. Dường như bất cứ ai cũng nghĩ đến chết vài lần, vài chục lần, vài trăm lần trong đời, khi gặp đau khổ, khó khăn nhưng họ không thực hiện điều đó vì yêu đời, vì nghị lực kiên cường, vì dũng cảm hay chỉ vì sợ… đau, sợ… xấu. Em chỉ hơi khác thường là đã trèo ra tận… bồn hoa.
Nhưng ông trời dậy sớm, thương xót cái gọi là… tình yêu, nên em không thể lao mình xuống. Điềm nhiên nhắm nghiền mắt trước trời xanh mặc cho mọi người quáng quàng tìm cách cứu mình. Điềm nhiên viết lại câu chuyện cổ tích về tình yêu, “ngày xửa ngày xưa, người ta yêu rất sâu, đằm và mãnh liệt…”
Dấu ba chấm tuyệt đẹp. Vừa đủ cho đám người đang quay cuồng với chữ @ bỗng dừng chân bên đường nghĩ về tình yêu, về cuộc sống. Vừa đủ để không biến tình yêu thành một thứ thảm họa, cho những người chưa từng biết yêu (mà tưởng mình giỏi giang lắm) khỏi vênh vang, thấy chưa, phải yêu lai rai như tui thì đâu có… chết.
Em không chết. Em tỉnh dậy, và sống những ngày tháng mới, người ta không thể chết hai lần. Nghen em, vì… TÌNH YÊU.
Lâu lâu, lại có dịp viết hoa hai từ này.

Làm sông

Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư


Uỷ ban xã cử chị chạy xuồng máy đưa anh xuống Vàm Cây Tra, bọn họ đùa, “Viết về sông Lớn anh hùng mà có nữ pháo binh anh hùng đi cùng là nhất anh rồi”. Chị đang lúi húi mở dây buộc xuồng, cười xòa, “anh hùng gì, mấy ông này cứ đem chuyện cũ nhắc hoài, mắc chán.”
Anh thấy kỳ lạ, có vẻ chị không vui với những lời như vậy, chị bối rối, chị khoả lấp, chị loay hoay che giấu nụ cười phảng phất buồn. Hay đấy chỉ là cảm giác của riêng anh. Suốt buổi sáng, người phụ nữ nhỏ nhắn này làm anh bất ngờ, thán phục, nể sợ khi biết chị đã từng bắn cháy bốn tàu giặc trên sông Lớn. Mắt anh níu lấy chi tiết đôi bàn tay gân guốc, một bên vai hơi lệch như vẫn còn đang chịu sức nặng của những khẩu B40, môi mím lại, cương nghị, tai không còn thính nhạy, thỉnh thoảng chị lại ngơ ngác, “Hả? Chị điếc lắm, cậu phải nói lớn chị mới nghe được”. Cả giọng nói rổn rảng, xởi lởi, cả cái nhìn đen nhức xoáy thẳng vào người đối diện làm chị toát lên vẻ cứng cỏi, kiên cường.
Nên anh không thấy lạ khi biết chị vẫn sống một mình, suốt thời con gái lặn lội vì chiến tranh, chắc chị chẳng rảnh rang để hẹn hò, mà, chị mạnh mẽ vậy thì cần gì hẹn hò. Bây giờ, cùng đi hết một quãng đường sông, anh cũng không ngạc nhiên khi chị chạy xuồng máy ôm cua ngọt xớt qua những khúc quanh. Tia nước từ chân vịt bắn lên thành những chùm pháo hoa trắng xóa. Sông Lớn mênh mang trong tầm mắt, mất một lúc, đến gần vàm, anh mừng húm khi thấy xác tàu Mỹ nằm phập phều giữa dòng sông. Anh hớn hở ra hiệu chị dừng lại, anh muốn chụp bức ảnh người nữ pháo binh bên khối sắt thép lạnh lùng kia, chị lại cười, hỏi, “Cậu tính chụp hình bông súng hả? Ừ, khúc sông này mà lên báo chắc đẹp dữ lắm”.
Biết chị lảng tai từ hồi chiến tranh, vì sức ép của đạn pháo, mà chị hay xua tay bảo “Tật nhỏ. Bệnh nghề nghiệp”, anh định cười. Bỗng dưng anh có cảm giác, hay là chính mình mới là kẻ không nghe được lời chị. Rằng con sông này đang vào mùa đẹp nhất.
Anh đứng dậy, trùng trình, chênh vênh nơi mũi xuồng, sững sờ nhận ra vẻ đẹp của dòng sông. Bình dị. An nhiên. Tự tại. Hai bên bờ, dừa nước chảy tràn. Cái dãy màu xanh miết, day diết lên chân trời thi thoảng bị ngắt quãng bởi một cái bến sông, vài cây tra treo những chùm chuông vàng rực; bởi những lùm cây dại, bìm bìm đem hoa tím phủ trùm lên; bởi những cái vó nhỏ có đám trẻ tòn ten đánh đu cất lên mẻ lưới đẫm nước… Và gần bờ lá, những bông súng nở bừng vọt lên khỏi mặt nước, rập rờn. Cái dòng chảy trong lẻo rất khẽ khàng, dịu dàng chở sắc tím của bông đi mãi miết. Anh nhìn lại dòng sông qua ống kính máy ảnh và thấy cả hai – anh và cái máy – đều bất lực, không thể chuyển tải, diễn tả, không thu gọn được cái đẹp mênh mang, sâu thẳm này trong một vài bức hình. Anh tự cười mình, sao anh lại phải đợi chị nói, mới nhận ra sông đẹp?
Anh bỗng nghe một câu thơ cũ, rành rọt, như thể ở đằng lái, chính chị đang tát nước xuồng và đọc nó chứ không phải vọng lại từ trí nhớ của mình, “Sáng nay Bạch Đằng tạm quên mình làm sử để làm sông”. Con sông Lớn bây giờ cũng không thèm làm sử, hay nó đã thôi làm sử, từ khi hết chiến tranh, nhưng mãi đến giờ con người cũng không cho nó làm sông. Anh cũng vậy, cũng bị choán chật, cũng bị chắn mất tầm nhìn vì những cái xác tàu. Nó lù lù đóng cọc ngay ở giữa lòng anh, làm ứa ra những ý nghĩ, sông là những trận đánh, những chiến công. Chiều nay, bên chiếc tàu sắt nằm vùi giữa dòng, anh chợt nhận ra cái cách nước rẽ mình khi đi qua khối thép vô tri này cũng giống như rẽ mình đi qua đám chà, cái đăng, cái đó, chẳng khác gì hết, bởi sông chỉ là sông.
Anh ngồi quay lại, và nhìn chị đến ngẩn ngơ, khi phát hiện ra, chị cũng đẹp, cũng dịu dàng, cũng rất phụ nữ. Đôi mày cong, ánh nhìn trong, đuôi mắt hẳn rất sắc, mái tóc dài bới gọn sau ót chắc đã từng đen buốt đến tận lưng. Chị nhỏ nhắn, mỏng manh đến mức anh nghĩ chỉ cần dang tay ra, sẽ gói gọn chị vào lòng.
Anh thảng thốt khi phát hiện ra vẻ đẹp của chị như lúc nhận ra vẻ đẹp của sông. Và bỗng dưng anh thấy day dứt cồn cào. Càng nhìn chị anh càng nhói, đuôi mắt kia đã hằn vết chân chim, chưa từng được hôn, mái tóc kia giờ chớm bạc, chưa một lần nào, chưa người đàn ông nào vuốt nó, âu yếm chải nó trong những chiều phai. Và những lúc mỏi mê, cũng không có bờ vai rộng nào cho chị tựa vào. Chị thui thủi đi qua tuổi xuân xanh của mình chỉ vì còn lắm người như anh, chỉ nhìn chị như một anh hùng mà quên chị là phụ nữ.
Quên có những con sông chỉ muốn làm sông, bình thường, suốt đời trôi lặng lẽ…
Bên sông

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư


Chiều ấy không có gì bất thường, trừ việc đứa cháu nằm dài coi phim Hàn Quốc, thấy đôi trai gái đẹp hẹn hò ở một nơi quá đẹp, con nhỏ thở dài cái thượt, thắt thẻo, “Được đi nước ngoài chơi chắc đã dữ lắm, ha dì. Mà trời ơi, biết chừng nào mình mới có tiền…” Cô đang nấu cơm, hơi quạu, đáng lẽ con nhỏ phải vô bếp tiếp mình, mà nó lại nằm đó nói chuyện tào lao. Ra sàn nước ngồi rửa rau, cô ngó sông, con nước rong đang dâng lé đé thềm nhà, cô hỏi, bỗng dưng, “Nhỏ, hồi nào giờ có qua bên sông không? Bên sông có cái gì?”.

Nhỏ cháu nín thinh, nó ngơ ngác, hoang mang, trong một chốc, nó thấy mảnh đất bên sông còn xa xôi hơn cả nước Hàn Quốc xa xôi, ít ra, nó biết ở Hàn Quốc có tuyết rơi trên những hàng cây xơ rơ, có những ngọn núi, những công viên cây cỏ xanh rời rợi. Nhưng bên sông thì nó không biết, vì ở đó chẳng có họ hàng, bạn bè nào, và vì dòng sông ngăn trở. Lúc còn trẻ con, người lớn không cho qua vì sợ rủi ro sông nước, lớn lên, mối quan tâm của con bé cùng lắm là đến giữa dòng, nó còn không biết nhận biết nước rong. Cô cũng vậy, cũng hoang mang, mình đã nghiên cứu đến nền dân trị của Mỹ rồi mà ngơ ngác trước câu hỏi chiều nay. Câu hỏi không chỉ cho đứa cháu gái vô tư kia, mà cho cả cô, riêng cô, vì cô.

Có gì nơi đó, nơi chỉ cách bờ bên này một dòng nước bạc, chừng hai mươi nhát chèo?

Hôm sau, cô bước chân xuống đò, sang sông. Cô ngó lại, thấy nhà mình kia, thấy rõ ràng mấy khăn treo phơ phất. Ngó lại lần nữa, cô hớt hãi khi nhà mình bỗng dưng mù mù xa xôi. Bởi cô đang ở một thế giới khác rồi.

Một con đường nhỏ chạy dưới bóng những cây gòn, những bụi tre gai. Và tiếng gà trưa vọt lên khỏi những hàng bông bụp tỉa thưa, rơi từng giọt. Những ngôi nhà lọt thỏm giữa sân, vườn, rêu mọc trên mái ngói Tây. Lúp xúp sát bờ sông có mấy cái trại xuồng, tiếng bào loẹt xoẹt, dăm bào lún phún tràn ra con đường tráng xi măng hằn nhiều dấu chân chó. Dọc theo xóm một quãng, chân bước ngẩn ngơ, tưởng mình đã vượt mười lăm cây số về đến quê mình. Cũng tiếng người thưa thớt lâu lắm mới nghe ới lên, cũng bầy trẻ con nhảy cò cò mé lộ, cũng ngôi nhà có hàng lơn nước đằng trước. Dưới cái chòi che tạm có con bé ngồi bán rổ củ sắn, mận ổi đã chớm héo, đằng kia, xập xệ quầy bán hột vịt lộn, chuối nướng. Ghé lại chỗ bà cụ bán bánh chuối chiên, hỏi con cháu đâu mà già chưa được nghỉ ngơi, bà cụ cười, “mới gã con Út về bên chợ”.

Cô ngó theo hướng bàn tay run rẩy, bỗng mắc cười, thấy mình đang xúng xính trong vai “người bên chợ” qua chơi, thấy con sông thật trớ trêu. Bờ bên kia rộn rịp phồn hoa, xe cộ đông như kiến, nhà cao tầng chen chúc nhau cố giành lấy một mảnh trời. Người ta ăn mặc đẹp, người ta bày tràn ra cả lề đường những món ngon lành, lạ mắt. Bên này, nhịp sống lừ đừ, người đàn ông đang chậm rãi vãi lúa cho gà ăn coi bộ không biết thời gian đang dồn đuổi chiều tới nơi rồi. Và khói nhì nhùng trong những gian bếp tối, và những người già đã sống gần hết đời mê mỏi, nằm đưa võng trước hàng ba, tuềnh toàng trong những bộ bà ba cũ kỹ. Trên sân trải phơi đống củi mục ngấm nước thâm sì, chắc là được vớt từ sông, còn những mảng rào thưa thì làm từ cây vụn lượm lặt từ các trại xuồng.

Con sông rõ ràng chẳng rộng là bao, bởi đứng ở đôi bờ có thể ngờ ngợ mặt nhau. Vậy thì sông phải rất sâu? Có sâu lắm, sâu đến vô cùng nên mức sống, nếp sống, mới cách biệt như vậy. Đêm đêm cái rẻo đất hiu hắt bên sông này vẫn thấy bờ kia lên đèn rực rỡ, vẫn nghe tiếng xe cộ dập dìu, nhưng ngóng hết đời người này đến đời người khác, nhịp sống đô thị đó vẫn là một cái gì rất xa xôi. Và cô, mỗi tối, vẫn nghe vọng từ bên sông tiếng những người đàn ông say cãi nhau, ai đó ca cải lương, heo sục vào cái máng không thất vọng kêu la chói lói, và khi ra phơi áo ở sân sau, nhìn ánh đèn vàng vọt bên kia, tự hỏi, bên đó có gì?

Cô mất hai mươi tám năm ròng mới qua được bên kia sông, nhưng có là gì so với bà cụ bán bánh chuối chiên kia, hết đời người, bên sông vẫn là một chỗ xa lạ, cao vời, chẳng thể nào với tới. Con gái bà đã sang bờ, và chiều chiều ra đứng cửa sau ngó sang, bỗng bùi ngùi như đã đi quá xa xóm cũ, nhà cũ.

Sau chuyến ấy về, cô bị ám ảnh bởi dòng sông. Ngồi viết cũng nghĩ mình như đang ở bên một bờ sông nào đó, cút côi, chẳng cây cầu, con đò nào đưa người đời đến với mình. Lại thấy bạn bè đứng ở một bờ sông khác, cô có thể cảm nhận được họ nói cười, họ sống cuộc sống nhẹ nhàng, đơn giản, và mình ngóng về bờ đó một cách tuyệt vọng vì biết chẳng bao giờ được vui cùng.

Sau này, đi… nhậu cô cũng nghĩ về sông. Thường thì cuối tuần cô với ông anh trai sẽ có cuộc hẹn ở quán… nhậu. Thường thì cuối buổi nhậu đó, cả hai sẽ nhắc tới chị Hai. Cái món này ngon quá, phải chị Hai ở đây, chị sẽ thích lắm. Chị Hai không biết uống bia đâu, chị chê đắng ngét, không ngon lành gì hết. Cái quán này đẹp thiệt, uổng cho chị Hai chưa tới lần nào. Mà, biết tới bao giờ cả ba chị em mình mới ngồi nhậu với nhau?

Sau câu nói đó là một nốt ngậm ngùi. Sau câu nói đó thì hình ảnh chị Hai hiện ra, với tất cả vẻ tất tả, nhọc nhằn. Giờ này, chị Hai chắc đang lui cui dọn quán, chùi xoong, rửa ly, chén, cẩn thận đếm những tờ giấy bạc nhăn nheo, toan tính cho bữa mai, phần nào cho con đi học, khoản nào mua cá, mua rau. Hơn mười năm trời, chị Hai chưa bao giờ được ngồi quán nhẩn nha thưởng thức cà phê, nghe nhạc, nói gì đến la cà nhà hàng này, khác. Bỗng dưng bia đắng, mồi lạt, bỗng dưng thắt lòng, như có con sông nào chảy giữa chị Hai với mình.

Bên bờ của chị Hai, còn có em bé bán đậu phộng luộc, với cái giọng ủ ê và đôi mắt ủ ê, cái áo trắng của em đã lấm lem, trên áo, thời gian đã ngưng đọng lại hàng chữ thêu “lớp 3A”, còn có người bán vé số ngồi nắn bóp đôi bàn chân mỏi, khoảng nối với khúc chân giả đã chai, còn có cô gái phục vụ bàn mướt mồ hôi mà vẫn gượng cười. Quán nhậu chật chội, hẹp te mà sông vẫn chia cắt người với người. Và dĩa chim sẻ nướng muối ớt cũng bị đẩy về một bờ nào đó, nơi có những người nghèo khổ đến mức tận diệt thiên nhiên để đổi lấy miếng ăn.

Và những dòng sông vô hình vẫn cứ chảy miên man, xuôi ngược giữa đời, để người không gần được với người, để bờ này xa lạ, lơ đãng với bờ kia.

Chân không
(Lại viết từ nhật ký)
Tản văn
Nguyễn Ngọc Tư


Cứ như là bạn sắp vướng vào chuyện động trời nào đó khi cứ nằng nặc hỏi tôi, T làm sao vượt qua những tháng ngày khó khăn của cái gọi là “sự cố tháng Tư” hay còn có cái tên khác là “sự cố cánh đồng…”. Tôi nói ờ ờ, để coi để coi, và suy nghĩ rất lâu. Trong bụng tự dưng… quạu khi bạn mình hỏi về một việc đã cũ, đã xa, đã khép.

Và đã tạnh nguội rồi. Kẹt quá, buộc phải nhớ về nó, tôi có cảm giác đang đứng ngó nghiêng, trầm trồ tai nạn, vết thương một ai đó.

Cảm giác như xem một đoạn phim rời. Rất hài hước. Trong phim có một đứa con gái tung tăng nhảy chân sáo trên con đường nhiều hoa cỏ, hai bên đường đâu đó người ta bày những “nỗi đau”, “niềm vui”. Con nhỏ thong thả đi qua, dáng nó lớn tồng ngồng nhưng tâm hồn chưa kịp lớn theo, chẳng chịu đằm thắm, dịu dàng gì cả. Và hơi hoang dã, đầu trần dang nắng, chân chẳng mang giày dép, ngộ cái là nó có vẻ chẳng ý thức được điều đó, nó tự tin và hồn nhiên, bước đi nhẹ nhõm và dứt khoát như thể nó không biết mình đang chân trần. Nhởn nhơ được một đoạn đường, thì nó vấp cái… rễ cây, té nhào. Nó nhăn mặt, rõ ràng là đau. Móng chân bị xước một mảng, máu ứa ra. Người đi đường xúm lại. Họ tranh cãi xem vết thương kia là tại vì cái rễ cây hay tại con bé không chịu mang giày như người ta. Vấn đề là cả thế giới đều mang giày, tại sao có một thiểu số chân không? Mang giày là đúng đắn, là xu thế chung thì tại sao không chịu mang giày? Con bé bệu bạo, khờ khạo, “em tưởng không có rễ cây”. Mọi người lại bàn cãi, tại sao con đường này lại có rễ cây? Tại sao rễ cây nằm đây mà con bé không thấy.

Người ta bắt đầu phân tích cái rễ cây. Rõ ràng nó nằm đấy đã lâu, tồn tại như điều tự nhiên của trời đất. Dầm sương dãi nắng, cái rễ gân guốc vắt ngang đường, sẹo vít chi chít, chứng tích của cuộc tranh đấu vì sự vững vàng của cây. Rễ cây phải nằm đây, điều đó là hợp lý, nhưng con bé này đâu đáng bị thương, nó ngây thơ và tội nghiệp quá chừng. Mọi người tranh luận. Con bé ngơ ngác, nó quên đi hoàn cảnh của mình mới vừa đo đất. Nó ngó quanh, rưng rưng nhìn cái cách người đời quan tâm tới mình. Họ ôm lấy nó, an ủi nó, đau đớn như vết thương tuôn máu kia là của họ, giận dữ như cái rễ cây kia vừa khiến họ bật ngửa. Con bé nhìn thấy nhiều người có vết sẹo đã khô, dấu vết của những lần vấp rễ cây, nó đọc được nỗi đau của họ khi vấp té mà không người đỡ dậy. Và họ thương con bé vì họ đã ngấm được cái đau trơ trọi đó, ngấm được sự mạnh mẽ, vô tình của rễ cây.

Con bé nhẹ nhõm hẳn, có lẽ nó thấy chân mình chẳng còn đau, vết thương chẳng là gì với những biến cố của cuộc đời, hồi nhỏ, nó cũng bị vỏ ốc cắt đứt chân hoài, mà nó vẫn chân không ngạo nghễ đấy thôi. Nó đứng lên, tiếp tục đi. Rồi khi ngó lại, thấy chơi vơi, thấy trong lòng người đời nó vẫn còn nằm bẹp kia. Người ta vẫn đang nói về vết thương của nó, gọi tên nó nhưng tất cả đang xúm quanh một con bé nào đó, giống nó. Hèn chi, mà nó cảm thấy trống rỗng, cái rễ cây đấy cũng có làm chân nó đau đâu, cái rễ cây trong cơn nắng hè cắc cớ làm ngã con bé nào giống nó. Và con bé ra khỏi màn hình, một mình lủi thủi.

Bây giờ thì nó đứng nhìn tôi, xa vắng, háo hức như nhìn một nhân vật ảo. Bởi vì tôi đã lọt tuốt vô phim, lại đi trên con đường đầy hoa cỏ, đầy niềm vui và nỗi đau mà con bé đã từng đi. Bộ vó tôi cũng rất ngạo đời, tung tẩy, và dù nụ cười khá kỳ dị, héo hắt, thiu thiu nhưng tôi rất hay cười, cho có vẻ là mình cũng vui như con bé đó. Tôi vẫn chưa chịu mang giày, vẫn chân không. Nhưng chẳng như con bé kia không biết mình chân không, tôi chân không mà nghĩ mình đang chân không. Nghĩa là tôi-chẳng-chân-không.

Và tôi nhận ra tại sao lại đổ quạu với bạn khi phải nhớ về “sự cố tháng Tư”. Tôi chưa ra khỏi nó, chưa khép lòng. Và trong lúc mọi người (cả bạn nữa) đang chăm chăm vào vết thương thấy được bằng mắt thường thì tôi đau quặn, đau buốt vì một vết thương khác, đó là sự cô đơn khi đi giữa đám đông mà đám đông chẳng thấy mình, chẳng hiểu mình. Đó là sự phản chiếu ám ảnh của những tấm gương (sau sự cố) đã vỡ rồi.

“Sự cố cánh đồng…” chỉ có thể tóm gọn lại, bóng tôi vấp vào rễ cây văng vào giữa biển người. Họ tưởng là tôi, họ gọi tên và mỉm cười với tôi. Nhưng tôi thì chẳng còn lòng dạ nào, bởi tim nghẹn lại, đau đáu nhớ về con bé chân không thuở trước.

Vết chim trời…

Truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tư


Buổi trưa tháng mười đó, rất bình thường, như bình thường, chúng tôi trốn ngủ. Thằng Vĩnh vắt vẻo trên nhánh me trước sân nhà, cầm trái xoài sống nhai vừa nhai rau ráu, vừa thả vỏ xuống đầu tôi, nước miếng chèm nhẹp. Tôi hơi quạu, nhưng chỉ cười, tôi mà ném trả thì sập bẫy của Vĩnh, sẽ cuốn ngay vào trò chơi nó bày sẵn. Mọi người sẽ phát hiện ra đám trẻ đang ở ngoài sân thay vì trên giường, sẽ la om sòm lên. Thấy tôi nín thinh, biết không ăn thua, thằng Vĩnh đâm chán, nó thôi khiêu khích. Hai đứa tôi im ỉm, như bị vây bủa, bị đóng băng bởi cái thinh lặng ban trưa của con đường thưa vắng người. Nắng trên cao lợt nhách, xuyên qua tàn cây xuống đến sân thì tệ hơn, chỉ là những chùm bông nắng mờ mờ. Lâu lâu, vài ngọn gió mồ côi leo heo chạy lệt phệt qua, những cái lá me lững thững rơi xuống, đám lông chó lại lờ đờ bay ngược lên, để lại nền sân vài bông nắng thưa, tái ngắt.

Lúc đó, tôi đã đi qua mười bốn cái tháng mười, đi qua không biết bao nhiêu buổi trưa lạt lạt, phai phai như vậy. Những buổi trưa không làm đám con nít buồn ngủ, nhưng cũng không làm tụi nó hứng chí chạy nhảy chơi đùa. Những buổi trưa lừ đừ, lười nhác. Và nếu bà nội không khóc, buổi trưa nọ đã trôi tuột khỏi đời tôi, không một vết tích, không làm tôi đau khi đôi khi gặp lại cơn nắng nào, đã cũ.

Nhưng mà bà nội đã khóc, và buổi trưa kia đã vĩnh viễn bị tiếng khóc đóng đinh vào. Lúc đó bà vẫn còn nằm trên giường, chắc vừa choàng thức dậy sau giấc ngủ trưa. Mới đầu, nghe những tiếng hức nhẹ, tôi nghĩ là thằng Vĩnh nên ngó lên cây. Mới hay, Vĩnh cũng đang trố con mắt dò xét ngược xuống. Tiếng nấc bỗng ồ ồ dồn đuổi nhau qua cửa sổ. Bà nội. Bà nội khóc. Bà nội khóc kìa, ba ơi. Ba, bà nội khóc.

Cả nhà bị dựng ngược, lăng xăng quây lấy một bà già đang khóc. Trời ơi, sao má khóc vậy? Ủa, nội ơi, nội bị làm sao? Má ơi, má đau chỗ nào? Bà nội lắc đầu, vẫn khóc, nước mắt vừa lau xong nước mắt lại tràm trụa. Dỗ hoài bà không nín, cả nhà bất lực ngó nhau, ngờ vực, ai trong chúng ta đã làm bà nội khóc? Vừa lúc ấy thì bà nội nín, bà nắm lấy tay cha, hụp hửi:

- Sao bây lại bắn Út Hơn của má?

Sau này, long đong với bao biến cố cuộc đời, chen lấn, tranh giành, bị tạt vào mặt những câu từ khó nghe, phũ phàng nhất, nhưng tôi thề rằng chẳng câu nói nào đau đớn và nghiệt ngã như lời thốt ra từ cái miệng mếu máo của bà nội. Trời đất lặng phắt. Một mũi tên nào đó xé gió đâm thẳng vào tim cha. Ông chới với:

- Má!
- Bây bắn Út Hơn của má chết rồi, con ơi.

Bà nội bệu bạo nhắc lại, đẩy mũi tên vào trong cha sâu hơn. Và tôi khóc hức lên vì cảm giác cha vừa vào chết.
Má tôi không biết gì hết, má túi bụi với sạp bán thuốc gò ngoài chợ. Chiều về, má ngạc nhiên thấy bà nội không chịu ngồi chung mâm, bà bưng chén cơm day lưng lại, trệu trạo nuốt từng miếng rời, chỉ chịu ăn những gì Vĩnh gắp cho. Người già giận hờn cũng ngoe nguẩy như trẻ con. Má hiểu là đã xảy ra chuyện gì nhưng má không hỏi, việc kiếm miếng ăn cho cả nhà khiến má rã rời.

Cha buông đũa sớm, có vẻ cha không cầm được máu mình đang rơi, ông nhìn vào cái lưng lạnh ngắt của bà nội cố hiểu chuyện gì đó. Bà thấy hình ảnh nào trong chiêm bao? Hay chỉ là một hành động trong chuỗi hành động ngớ ngẩn của căn bệnh lẫn thẫn đang tàn phá bà nội mấy năm qua? Như bà nội đã từng xách thùng tưới cải trong tủ lạnh, nhổ cỏ trồng vô hồ nước mưa. Như cái ngày bà nội ngơ ngác nhìn chúng tôi, hỏi, ủa, ai đây? ai mà kêu tui bằng bà nội vậy cà. Còn chú Hai này, muốn gì mà kêu tui bằng má, tui không có của cải gì đâu, đừng tưởng ngon mà nhào vô nhận bừa, nghen.

Tôi và những miếng cơm khô rốc, bỗng nghĩ, bây giờ bà nội có trèo lên cây ca hát hay đốt áo nướng trứng thằn lằn tôi cũng không ôm bụng cười ngắc nghéo nữa, những chuyện đó đã là bình thường. Chỉ bất thường là tiếng khóc ban trưa, khóc cho một câu chuyện về một trận chiến xa xôi trong một cuộc chiến đã xa xôi, đã khép lại rồi, đã lành những sẹo, ít ra thì đám con nít chúng tôi tưởng vậy. Bằng chứng là những vụ bắn nhau bằng súng nước giữa tôi và thằng Vĩnh luôn làm bà nội cười lăn, cười chảy nước mắt. Cho đến một buổi trưa tháng Mười đờ đẫn, tôi ngờ ngợ, hay cái cười đó là dành cho chúng tôi, nhưng nước mắt khóc cho cuộc chiến xa xôi kia, nơi cha tôi và chú Út Hơn, cha thằng Vĩnh buộc phải đứng ở hai bờ chiến tuyến?

Tôi không biết. Bà nội rất khó hiểu, bởi sáng bữa sau bà ráo hoảnh như chẳng có chuyện gì xảy ra. Bà nội dậy sớm, đi te te lại bàn ăn, trầm trồ tô mì gói má vừa nấu sẵn trước khi ra chợ dọn hàng. Thấy cha phờ phạc, liêu xiêu, bà nội hỏi bệnh gì sao? Ngủ không được sao? Mắc gì mà mặt mày buồn hiu? Sao ngó tui trân trân vậy?” Cha chỉ cười, không nói. Bà nội đã thật quên chuyện hôm qua hay bà nội chôn nỗi đau đó tận đáy lòng?

Hay tiếng khóc trưa tháng mười chỉ là một cơn mê sảng bâng quơ? Giống như ông chồng nào đó thốt lên trong cơn say “Diễm em ơi!”, mà cô Diễm này nhiều khả năng không có thật ngoài đời, chỉ là một nhân vật trong phim, trong tiểu thuyết. Nhưng bà vợ thì ám ảnh cái tên đó suốt, bà uất hận, giận dữ, bà cảm thấy bị mất mát, lừa dối. Giống như thằng Vĩnh vẫn thường chỉ tay lên trời, “Chim kìa!” nhưng bầu trời tạnh vắng, và tôi biết thằng Vĩnh nói gạt mình, nhưng vẫn nghĩ, nếu thật là có con chim nào đó bay qua, thì sao? Và sự bâng quơ của bà nội cũng nghiệt ngã, cũng hoang đường, rõ ràng cha chỉ quanh quẩn ở Sài Gòn và chú Út thì ngã xuống ở con đường rừng nào đó, xa xôi. Không tin nhưng cha tôi buộc phải lục lọi từng cái ngách ký ức, nín thở, đau nhói, hãi hùng khi phát hiện ra một khả năng, một xác suất dù rất nhỏ nhoi, rằng đứa em trai có thể đã từng đối mặt với mình giữa lúc cuộc chiến sắp tàn.

Nên cha không chịu sống lại dù đã sang tháng thứ hai, dù mọi việc đã trở lại bình thường, nhất là với bà nội. Bà ngồi may áo, hỏi áo này tính cho ai, bà cười, cho cháu nội, thằng Hiền, thằng Vĩnh. Cái áo chỉ bằng gang tay. Trước bà, thời gian mềm nhũn, bời rời như cọng bún mắc mưa, vô nghĩa. Nó không ngăn cản được chuyện bà nội trở bàn tay sấp ngửa giữa thực tại và mười năm, hay hai mươi năm trước. Sau một giấc ngủ, bỗng bà nội hai mươi tuổi, không chừng. Tôi tiếc là mình chưa già, để bệnh lẫn có thể chiếm đoạt mình, để tôi buông xuôi, đồng tình với nó. Để có thể trở về trước cái buổi trưa tháng mười ấy.

Khi đó, cha tôi vẫn còn cười, âu yếm và nhẹ nhỏm mỗi khi thằng Vĩnh nhảy chồm chồm, chờn vờn trước mặt tôi như một võ sĩ boxing trên sàn đấu. Khi đó, mỗi sớm cha gọi hai đứa trẻ thức dậy, chạy bộ ra công viên, và chúng tôi cùng nhau đá cầu. Nhưng rồi bà nội cất tiếng khóc sau một giấc ngủ dài, mà, lòng người là thứ dễ thương tổn, dòng sông cũng có thể cắt nát, sau đó thì ánh mắt, tiếng nói, nước mắt…

Thằng Vĩnh đổi tánh, nó bỗng ít nói, lầm lì, cục cằn. Nó không còn nhìn thẳng vào tôi. Cả lúc ngủ, Vĩnh cũng day lưng lại, điều đó làm tôi day dứt, nằm cạnh nó mà nhớ nó tơi bời.

Vĩnh về với nhà tôi khi má nó lấy chồng. Cha đặt nó cạnh tôi, nói, đây là em con. Nó nhoẻn cười, bôi nước mũi xanh dờn của nó vào miệng tôi, thay cho lời chào. Vĩnh đẹt ngắt, nhưng gạt tôi ra rìa trong cuộc chiến giành măng vú bà nội. Được ít lâu, Vĩnh cũng phải từ giã đôi vú thõng dài mát lạnh đó lủi thủi lên gác, măng cùi chỏ tôi, ngủ khò. Từ nhỏ, nó phá như quỷ sứ, quậy vô phương. Bó tay chân Vĩnh lại, cái đầu nó sẽ lúc lắc, nếu vịn cả cái đầu, con mắt vẫn dáo dác và nếu ta bịt mắt nó lại, ta vẫn cảm giác nó đang chạy nhảy lung linh. Hành động của Vĩnh luôn nằm ngoài những thứ mà cả nhà tưởng tượng được, bản năng, hoang dã và hồn nhiên. Như cởi cái quần ướt đẫm nước tiểu quăng vào nồi cháo vịt, lấy gậy để bật cầu dao điện, bắt mèo bú chuột, khoái đái vô… tủ lạnh cho mát… cu. Nó thích trèo cây, ngủ ngoẻo trên cây mà không rơi xuống.

Vậy mà cả nhà đều thương Vĩnh, thương đến mức nhiều khi tôi muốn khóc vì ghen tỵ. Với bà nội, với cha, Vĩnh là hiện thân của chú Út Hơn, cũng từng hoang dã, nghịch ngợm, cũng làm cả nhà hoảng hồn khi cầm cây củi đang cháy rượt người lớn chạy ngời ngời, lén múc nước làm gà đổ vào ấm trà của ông cố… Lớn lên, chú cũng làm mọi người chới với khi bỏ học, lấy vợ, rồi bỏ người vợ mới cưới vào bưng, “để coi làm sao họ sống thiếu thốn, khó khăn vậy mà lại bắn tưng bừng”. Vĩnh giống cha, khó đoán trước, đầy ngẫu hứng. Riêng má tôi không thương Vĩnh vì bóng hình nào đã cũ, mà việc dạy dỗ Vĩnh là sự thách thức thú vị so với người chồng mờ nhạt, ẩn mình như cái bóng và đứa con trai luôn uỷ mị, ngoan ngoãn, vẽ cái vòng tròn bắt ngồi đấy là te te vào ngồi, suốt ngày sạch sẽ, chẳng cần thay bộ đồ nào cũng tinh tươm, như con gái.

Chơi cùng nhau, thằng Vĩnh luôn là người bày đầu, và luôn luôn thắng cuộc. Tôi luôn bị đau và luôn mếu máo cười hơ hơ. Một khoảnh khắc nào đó, khi má tôi ôm siết Vĩnh vào lòng, tôi thấy ánh mắt nó lạc đi, chơ vơ, nó đã ý thức vòng tay ấy có thể chặt, có thể ấm áp nhưng không phải của-mình. Tôi thương Vĩnh suốt, thương những lần đám giỗ chú Út Hơn, thằng Vĩnh cầm nắm nhang ngoái ra sau, hỏi: “Bác Hai, nói làm sao?”. “Cái thằng, dạy không biết bao nhiêu lần rồi, nói vầy nè, bữa nay rằm tháng hai, nhà mình làm bữa cơm, con mời cha về ăn”. Thằng Vĩnh lóng ngóng nói tiếng trầy tiếng trật, và khi nó cắm nhang vào lư hương, tôi bỗng đọc trên gương mặt nó thất vọng não nề, nó gọi cha ơi nhưng tuyệt nhiên không có tiếng vọng nào dội lại. Cho đi và mất hút. Cho đi và biệt tăm.

Những dịp đó thì má thằng Vĩnh có về thăm, đôi lúc nhầm, Vĩnh gọi má nó bằng thím Út, như tôi. Nó chạy chơi suốt, và khi má nó đi, nó chỉ đứng chống nạnh trông theo. Nhìn từ phía sau lưng, tôi bỗng nghĩ, không có hai cánh tay chỏi vào hông, thằng Vĩnh sẽ gãy ngang, đổ gục xuống. Hỏi làm sao tôi không thương Vĩnh cho được. Hơn nữa, hành động đó làm cha tôi rất hài lòng. Cha và chú Hơn chỉ bên nhau ngót hai mươi ba năm, đầy hụt hẫng, tiếc nuối, và tình anh em đó chúng tôi tiếp nối. Chúng tôi tô màu mới lên bức tranh cũ, một đứa khờ khạo, chậm rãi lại yêu chiều đứa lanh lợi, ngang tàng. Đôi lúc, tôi lỡ tay đánh Vĩnh, nó khoái trá cười vì cuối cùng cũng khích được tôi, nhưng ánh mắt của cha buồn rượi.

Cha khá nghiêm khắc, và tôi phải giấu mình, theo ý cha. Tôi không được phép sai phạm lỗi lầm, dù là nhỏ nhất. Có cảm giác cha đang cố gắng dạy tôi điều gì đó, xa vời hơn việc không thuộc bài, hay tham gia đánh nhau cùng thằng Vĩnh. Nhưng ông muốn dạy tôi điều gì? Tôi buộc phải suy nghĩ nhiều, rất nhiều, nghĩ những chuyện mà ở tuổi tôi không nên nghĩ. Vĩnh ngán ngẩm, gọi tôi là ông ngoại và nó rất bực cái sự ông ngoại của tôi. Bởi nhiều khi đang chơi cùng nhau, tôi bỗng đờ ra, nghĩ, cha muốn dạy tôi điều gì, sao lại dẫn tôi đi họp tổ dân phố? Vừa ăn sáng ông vừa hối, như thể đã trễ rồi. Nhưng chúng tôi có mặt sớm nhất, ngồi sù sụ, nhẫn nại chờ mọi người đủ mặt. Cha có vẻ nghiêm túc, ông cầu thị lắng nghe suốt buổi họp, mặc kệ người ta chộn rộn nói tục, càu nhàu. Và cha về cuối cùng, sau khi xếp ghế, tắt hết đèn trong phòng họp. Cha tôi muốn nói gì với tôi khi mỗi Quốc khánh, lễ lạt, ông tự giác treo cờ, phường khóm phát động phong trào nào, nhà tôi luôn gương mẫu đi đầu. Cả ông già chằng gây bên xóm sáng nào ra ban công súc miệng cũng phun nước qua mái hiên nhà bên này, nước dãi cứ chảy tuôn tuôn, cha cũng nín nhịn. Tôi tức mình, thất vọng, tôi không biết tránh va chạm là tránh xây xước, tránh khui miệng một vết thương. Cũng là một cách che chở tôi khỏi những thương tổn. Chỉ đến dịp trường xét học sinh ưu tú để nhận bằng khen cấp thành phố, tôi không được chọn chỉ vì lý lịch của cha có chút vết đen, hiểu ra chút ít, tôi thoải mái hơn. Có tám chục cái giấy khen thì cũng không đổi được sự nhẹ nhàng này. Nhưng cha vẫn rầu rầu…

Bởi cha biết đôi khi ta phải trả giá lớn dù chỉ mang một lỗi lầm nhỏ. Trong ông luôn có dự cảm chia lìa, nếu không vì buổi trưa lạt nhách lạt nhiểu kia thì một ngày nào đó, trong một va chạm nào đó của tôi với cuộc đời, cha cũng lịm chết vì tự trách mình. Vì người ta vẫn có thể bị trừng phạt dù không phạm lỗi lầm nào, ví dụ như tôi bị thằng Vĩnh day ngang, không đếm xỉa gì nữa vì một cuộc chiến tranh không mắc mớ tới tôi, tới nó. Có lần, tôi mơn trớn, ngoáy mãi cái đuôi rùa sau gáy Vĩnh, tôi muốn nó quay lại, dù là sừng sộ, nạt nộ (nhưng tôi sẽ được nhìn vào mắt nó), “thôi nghen ông ngoại, tui dộng vô mặt ông bây giờ đó”. Nhưng thằng Vĩnh không nói, nó hộc lên và đè nghiến lấy tôi. Tôi nghẹn thở, tôi thấy mình vùng vẫy một cách tuyệt vọng trong ánh nhìn tối, đen ngầu, vằn lên những tia máu li ti của Vĩnh. Tôi cố cười, méo xệch, “Ê Vĩnh, đừng chơi vậy chớ, tụi mình là anh em mà”.

“Anh em…”, Vĩnh nhại lại, cười khan, nó buông tôi ra, càu cạu bỏ ra ngoài, tôi vẫn còn nghẹn thở. Tôi lăn lộn, tôi đau nhói. Tôi xuống nhà, lặng lẽ ngồi nhìn bà nội ngủ say, không biết bà đã đau, đã day dứt đến mức nào khi hai đứa con trai của bà lại đứng ở hai bờ chiến sự, đến nỗi trong cơn quên nhớ lẫn lộn, lại để tiếng khóc rơi ra. Để cha tôi, thằng Vĩnh loay hoay hoài một trưa tháng mười xưa.

- Thằng Út Hơn của má quơ tay nhảy cà tưng kêu em nè anh Hai, em nè, Út Hơn nè nhưng bây vẫn bắn. Má thấy rõ ràng…

Những buổi trưa tháng mười mờ, lợt lại quay về trên khu phố nhà tôi. Má không có cơ hội nào để nhìn hoa nắng nhạt rụng trên sân, ở khu chợ thưa người, nóng la mày mặt, má ứ hự xếp lại mấy cây thuốc gò dẻo nhẹo. Cha cũng chẳng ngó ngàng gì hoa nắng, lặng lẽ ngồi đánh máy một cái đơn tranh chấp đất đai của khách hàng, gương mặt quắt quay, bàn tay như những vụn xương khô, cứng quèo bởi ý nghĩ, có thật mình đã bắn đứa em ruột thịt của mình? Bà nội ngủ trưa, mặt nhiều khi cau lại, nhiều khi rên khẽ, dường như những cơn chiêm bao đang tàn phá sự sống của bà. Hai đứa trẻ trốn ngủ, ra sân, tôi trèo lên cây thả những khúc cành khô xuống đầu Vĩnh với hy vọng Vĩnh sẽ quăng trả, sẽ sập bẫy, cuốn vào trò chơi của tôi. Sẽ ném vào nhau rát những nụ cười.

Và tôi cứ chờ đợi mãi…

Vườn cũ
Tản văn
Nguyễn Ngọc Tư


Hồi mới quen nhau, cô gái kể về ông ngoại, nhà ngoại mình bằng cách nhại lại một mẫu chuyện vui trên báo, theo kiểu rao vặt, “Nam, bảy mươi tuổi, có một nhà lá, cột cặm. Và khu vườn nhiều cây. Vài cây nhàu, vài cây sung, vài cây khế, đằng trước có hàng cau, chuối nhiều không đếm được, hai cây vú sữa bên hè, rau muống, rau lang bò nhóc đất. Cần rau trai, cải trời cũng có, lục bình, kèo nèo xanh rờn… Dừa dài theo bờ, theo liếp, chanh de mấy cái góc ao… Không mua. Không bán. Chỉ khoe vậy thôi. Cần tìm bạn. Ưu tiên người ít nói, không nói càng tốt”.

Bởi người chủ vườn, ông ngoại cô có biệt danh là Hết Nói, một người khá lặng lẽ, khách đến, ông chỉ cười, “Mới tới? Vẹt một chỗ ngồi chơi”. Nghe được mấy tiếng đó, quay đi quay lại, ông già đã bỏ ra vườn mất biệt. Lần đầu cô đưa anh về, anh không biết mình đã làm gì phật ý ông già, trong bụng buồn buồn, dẵn dỗi.

Lúc đấy thì anh chưa biết tính ông, chưa va chạm nhiều, lòng chưa thương tích, chưa nát nhàu bởi người đời xiên vào những lời đau. Lúc đấy cô chưa ra Hà Nội học, chưa gởi lại cho anh ông già với khu vườn, “anh nhớ tới lui bầu bạn với ngoại, hãy vì em…”. Cái chữ “vì em” làm anh ngất ngư, nên tuần nào cũng chạy xe về ngoại ô. Để ngồi uống trà với ông già, ngó hoa cau rụng, lòng nhẹ bâng, lâng lâng, không biết vì ngồi với một người gần như đã từ bỏ khả năng giao tiếp bằng âm thanh, hay vì khu vườn đầy nắng.

Khu vườn cũng lạ lùng như ông già Hết Nói. Vườn không rộng, gây ấn tượng cũ kỷ vì những tàng cây lớn thâm u; vì toàn những loại cây trái vớ vẩn, hơi hoang dại, do chim chóc mang tới, chẳng sinh lợi; vì cây cối mọc lung tung, không ngay hàng thẳng lối. Chỗ này, cây rúc vào nách cây, cây chen cây, chỗ khác lại trống một khoảng, ông già xới đất tỉa ớt, cà. Đám cây này cũng lộn xộn. Anh thắc mắc, ông già lừ đừ, “Đừng bắt cây cỏ cũng xếp hàng”. Ông già hơi cổ quái, nên vườn cũng ảnh hưởng, cây cỏ mọc xênh xang, như thể chim ỉa hạt ở đâu, cây nảy mầm lên ngay chỗ đấy, ông già chẳng dời đi. Người quen nề nếp, quen khuôn phép thấy lạ. Ngoài cỏ dại bị chặt từ lúc mon men bò, hết thảy tự nhiên được sống đời tự nhiên. Những trưa nồng, không thấy chim sâu chim sẻ nhưng tàng cây vọng xuống véo va véo vắt, như thể chính những cái lá kia hót. Mấy con ong nghệ o e mon men trên đám bông muồng. Sập tối, vài con cú mèo đậu trên cây vú sữa già kêu từng hồi, anh hỏi ông già không sợ sao, ông cười bảo, sợ gì, cú kêu thì cũng như chim sáo hót, hay cu đất nó gáy thôi.

Vườn quyến rũ chim chóc, bướm ong đã đành, mấy thằng bạn anh cũng mê mẩn, chủ nhật nào cũng men theo để… nhậu. Nhiều lúc, ông già Hết Nói mót từng cái ly mới đủ cho khách. Mồi thì không phải lo, bưng cái rổ thủng thỉnh dạo một vòng vườn là nhậu mệt nghỉ. Cá sẵn dưới ao, gá ác cả bầy đủng đỉnh bươi đống rơm mục. Một bữa ăn cá rô chiên xù, ông già hái vào một rổ lá lạ hoắc, nào là lá đậu rồng, lá cát lồi, lá chùm ruột với nắm cải xanh. Tiệc nửa chừng thì rổ rau hết sạch, thằng bạn chết nhát hay giơ mấy cái lá lên, dò xét, “cha, không biết ăn vô có chết dại không đây?” nhưng vẫn ăn liến láu, khen bùi, khen chát, khen mùi lá non sao mà thơm râu.

Ông già Hết Nói coi bộ vui. Anh có cảm giác ông già luôn lặng lẽ nói cùng đám trẻ, rằng không cần ngôn từ cũng chuyển tải được tình người, rằng trên đời vốn chẳng có rác, cây cỏ cũng vậy, cũng không hoàn toàn vô tích sự. Tệ như cỏ cứt heo, cỏ mực mọc bờ ao cũng làm thuốc được. Tự nhiên sinh cây không trái, hay trái thiếu ngon, thì đã có lá, có hoa tặng người. Đất thảo thơm nên người thảo thơm, cây cỏ thảo thơm. Ăn lươn um, tụi nhỏ giật mình, nếu thiếu lá nhàu không biết cái món này lãng đến mức nào. Càng ngày, càng có cảm giác ta được nhiều hơn cả được ăn ngon. Có bữa, làm món bì cuốn lá sung, ông già hái mấy cái lá có nhiều đốm trắng, nổi gù lên, một đứa thắc mắc, sao lá mướt rượt mà ngoại chê, lại lựa cái lá thấy ghê…? Ông già không trả lời, đưa cuốn lá sung cho nó, ăn xong, nó vỗ đùi, “ngon quá chừng, ngọt, mà giòn”. Bữa nhậu bỗng dậy động vì “triết lý lá sung”, thô ráp, xấu xí mà ngon, bùi, cũng như con người ta, ngoại hình không đẹp, không nói hoa mỹ cũng chẳng hề gì, ăn thua là tấm lòng, tất nhiên, triết lý này chẳng thể ứng dụng cho những cuộc thi… hoa hậu.

Suốt mùa hạn, hết bì cuốn lá sung, hết khế chua chuối chát cặp mắm lòng, đến cá lóc nấu cháo nhúng rau đắng đất mọc theo mấy bụi chuối… Và những cô vợ, người yêu của bạn anh lơn tơn đi đào khoai chuối, khoai bán, củ lùn… rồi hớn hở thổi lửa luộc nồi khoai đầy vun. Có bữa, cả bọn biến thành con nít, khi xắt những trái gòn non, cộng với mấy cái bắp chuối con con chấm muối giấm. Có đứa rưng rưng, vì nó nhớ thời thơ ấu nghèo hay vì trái ớt dầm cay xé?!
Rồi mưa sập soài, kéo theo lê thê những mây đen, sấm chớp. Con đường đến nhà ông già Hết Nói hơi khó đi, nhưng có hề gì khi khu vườn bắt đầu lên tiếng của sự nảy mầm, tiếng của những chồi xanh. Vì cái màu trắng muốt của đọt lụa hay phớt tím của đọt cóc, đọt xoài mà người phải lăn vô bếp chiên bánh xèo. Tuần kế tiếp, ai đó sáng kiến làm cái Lễ kỷ niệm ngày xưa… nghèo, bẻ những đọt rau muống, rau lang, cải trời, rau dền, nhãn lồng… xanh mởn luộc lên chấm với tương kho.

Lúc đó, vài đứa đã nghiện khu vườn có ông già trầm lặng, vài đứa khoái ngồi trầm ngâm uống trà với ông, nghe ông nói chuyện đời (bằng cái cách riêng của ông). Chuyện nhậu chẳng quan trọng nữa, đôi lúc cả bọn băm bổ chạy xe ra ngoại ô, chỉ để ngồi dưới gốc cây vú sữa, nghe chim hót, nghe dừa rụng xuống ao, nghe tay chuối khô xạc xào, nghe khu vườn nói về triết lý của đất. Lúc ấy đã hết năm, cô gái sắp về. Mọi người đùa là biết đâu cô sẽ dắt về một anh chàng Hà Nội. Biết đâu cô chẳng về nữa. Một năm khiến anh thay đổi nhiều, thì cô ấy, biết đâu… … Tôi viết những dòng này như lời nhắn đến người yêu của anh bạn tôi, nếu chị không về nữa, chắc chắn khu vườn sẽ có tới hai người Hết Nói, họ trồng lung tung những cây cỏ (tưởng như) dại, để chờ đợi, để giữ tròn lời hứa với một câu nói dở, hãy vì em…”. Đấy có thể tôi thi vị hóa bạn tôi, cũng có thể anh quên mất chuyện đó rồi, anh gắn bó với ông già, khu vườn chỉ vì ông già, khu vườn. Vậy thôi.
Một chuyện hẹn hò…

Truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tư



Mưa rồi. Không phải là thứ mưa nhão, ướt, đẫm nước, dịu dàng mà Cóc từng quen thuộc, có cảm giác mưa hơi rát, trơ như một tiếng cười khan. Gió cũng lạ lẫm, chúng rào rào đuổi nhau trên cao, trên ngọn cây, mái nhà. Gần mặt đất là một khoảng không lặng phắt, cả cái lá bìm bìm đeo trên vách chòi cũng không thèm ve vẫy. Cóc hơi lo lắng, sáng này nghe người ta bơi xuồng rôm rả đua nhau đi mua mì gói, họ nói bão tới rồi. Có thùng mì dằn trong tủ, người Thổ Sầu chẳng cần chằng chống, ràng rịt nhà cửa, cũng bình thản qua bão cấp Mười. Nghĩ tới đó, Cóc mắc cười.

Cóc ra cửa, ngó nghiêng. Mưa tạt ướt mặt. Đầm Sầu lặng ngắt. Trong màn mưa đục ngầu ngầu, những cái chòi lá nằm rải rác, thưa thớt, đờ đẫn. Bình thường, Đầm Sầu đã vắng người, vì đã qua mùa tôm cá, bây giờ lại thêm tin bão, đầm nước hoàn toàn hoang vu. Cóc thấy bão đã đến, thật gần.

Nhưng đôi người vẫn nằm kia, tỉnh bơ, lơ ngơ ngủ. Họ ra đây lúc xế chiều, khi trời vẫn còn một chùm nắng héo. Như thể họ tình cờ đi ngang qua căn chòi hoang này, tình cờ thấy người quen, và ghé lại. Người đàn ông chạy xuồng máy đến trước, phất áo quét sơ những bụi bặm, chửi cha mấy cái mạng nhện mắc trên tóc, sau đó nằm dài, nhịp chân, ca lửng tửng. Một hồi thì người phụ nữ tới, những nhát dầm của chị rất dè dặt, chần chừ. Và ngập ngừng, chị vẫn ngồi dưới xuồng, ngó xuống ngón chân:

- Ra đây để nói với anh, em… không thể… Có bão…

Anh cười, không nói gì, cầm tay chị, mơn man.

- Ừ, thì bão…
- Em sợ anh chờ nên mới ra nói anh hay. Có bão thiệt mà, anh.

Chị hụt hơi, bởi bàn tay nhỏ nhắn nhiều vết chai của mình vẫn bị nắm lấy, nâng niu. Từ đấy, không rời. Cóc ngó chị, nghĩ ngay, chị ta đã thua rồi, thua ngay từ ở trong bờ lá xa thẳm kia, khi quyết định hướng mũi xuồng ra đầm. Chắc mẻm, chị sẽ bước lên chòi. Cóc đếm một… hai… hai rưỡi… và cười, thấy chưa, thua rõ ràng.

Cóc cũng đã từng hẹn hò, nên Cóc biết. Nó bao gồm một chuỗi thua cuộc liên tục, mới đầu là sự choáng váng khi gặp gỡ, ra về, cảm giác thất bại sẽ đau nghiến lòng người ta, mắc mớ gì mình lại xao động dữ vậy cà, mình đâu có được xao động, mình đã không còn quyền xao động. Những lần gặp sau, thương nhớ sẽ thít chặt hơn. Đến một bữa, đàn ông bỏ nhỏ, “anh nhớ em quá, mình gặp riêng chỗ nào nghen”, ngay lập tức, người ta lắc đầu. Đàn ông vẫn cười, anh chờ em ở chỗ đó, chỗ đó, em không tới, chắc anh chết… Người ta thảng thốt, thôi, đừng chờ. Nhưng chính người ta lại chờ, đau đáu nghĩ về cuộc hẹn, lòng bảo không đi, không thể đi. Nhưng người ta bước xuống xuồng, bơi đến chỗ đó chỗ đó, nhưng đi một quãng khập khừng, lại muốn quay về, cắn môi nghĩ, thôi ra nói một câu để mắc công người ta kia chờ. Và sập bẫy. Trên đường về, cảm giác thua cuộc ấy rõ ràng hơn, người ta đay nghiến mình, tại sao mình lại đi, đã nói không gặp sao lại gặp? Đi, rồi sao nữa, ngày mai, tương lai?

Cóc đã từng hẹn hò, nên Cóc biết. Nặng nề. Thương tổn. Ngồi trong cái hốc nhà tối, nhìn ra, Cóc thấy ngậm ngùi, cho chị. Cóc biết chị, biết cả chồng chị, một người hay say, hay đứng phắt dậy giữa lúc nhậu, hỏi mấy thằng bạn, ê, đi với tao không ? Đám kia hí hửng hỏi đi đâu, anh ta cười phô hàm răng xếu xáo ra, “Đi đái!” rồi cười hơ hơ hơ, vô duyên dễ sợ. Chị thì ngồi đâu đó, chơi với thằng con mà dỏng lổ tai lên nghe xem chồng có gọi gì không, nướng con cá khô, hay gọt thêm mấy trái cóc, trái ổi. Chị héo hắt, lam lũ, lúc nào cũng khô quắt, cả lúc chồng không đánh, chị cũng gồng lên như gánh một gánh vô hình. Cóc không biết là chị cũng dịu dàng, sạch sẽ và đầy sức sống như bây giờ, như đang ngồi kia, bối rối gật đầu, lắc đầu, buộc phải nói thì chỉ hai tiếng: “Dạ” và “Thôi”, mặc cho người yêu nói tuôn tuôn, những nhớ thương liên tu bất tận. Rồi miệng không nói bằng âm thanh nhưng lời vẫn ngọt ngào. Sau đó, thì ánh nhìn cũng nói, vòng tay cũng nói…

Cóc không thể kể tiếp, bởi vì nó phải lấy tay che mắt. Không thể kể, bởi kể ra người ta sẽ phát hiện ra nó đang dòm lén qua kẻ tay, sẽ phát hiện ra Cóc cũng là giống như những kẻ tầm thường, miệng nói đạo đức, chê mấy chuyện trai gái là hạ tiện, tục tĩu nhưng với bạn tình vẫn háo hức. Cóc đổ thừa tại bàn tay không khép lại được, nhưng nhờ nhìn lén, nó phát hiện ra chuyện không may. Xuồng trôi. Cả hai chiếc đều tuột dây, bởi những bàn tay buộc chúng đều bồn chồn. Cứ như xuồng cũng thực hiện cuộc hẹn hò khác, chúng đủng đỉnh rời nhau, trôi hấp háy xa xa, như chẳng hề quen biết. Cóc hoảng hồn, nhảy chồm lên, kêu “Xuồng trôi kìa! Xuồng trôi mất tiêu kìa!”. Chỉ nghe chị yếu ớt nói, “Đừng anh… Có con cóc…”. Cóc thở dài, bây giờ có con voi ở đây thì cũng vậy thôi. Nên xuồng cứ trôi, chậm rãi, nhơ nhởn, đến khi không còn nhìn thấy trong tầm mắt nữa.

Lúc người phụ nữ giật mình thức dậy, thảng thốt quờ kiếm tấm áo thì hai chiếc xuồng đã gặp nhau ở một bờ lá nào. Cũng có thể chúng bị gió xô dạt về hai hướng khác. Như lúc này, mưa cũng bị gió giật, xé bừa ra, tơi tả, tạt ướt cả bắp chân chị, dẫn cái lạnh chạy buốt sống lưng. Chị hoảng hồn, kêu lên từng tiếng rời:

- Trời ơi! Anh! Ai lấy xuồng mình rồi. Mất hết rồi.

Cóc mắc cười, mưa bão như vầy ai mà mò ra giữa đầm lấy xuồng. Nó trôi rồi, bà chị ơi. Tui kêu rã họng, mấy người không nghe, ráng chịu. Người đàn ông mệt phờ ngồi dậy, thò đầu ra mưa, ngó quanh quất, giọng mệt phờ, ờ ha, mất tiêu. Trôi mất tiêu rồi. Giọng chị bỗng nghẹn lại, em làm sao về nhà được đây? Anh cười cười, chụp lấy tay chị, về làm gì, ở lại với anh. Mắt chị lạc đi, em làm sao về nhà được, bão tới sát bên rồi. Anh cũng là bão vậy, thêm cơn bão nữa nghen, anh vẫn mơn trớn. Cóc hơi bực, hãy nhìn chị ta đi, chị đang lo lắng sắp té xỉu rồi kìa. Chốc nữa cơn bão tới, căn chòi này chắc chắn bay mất, may lắm thì còn trơ lại cái sàn đóng bằng vạc cau. Sau đó thì sao? Nếu sống qua bão, thì cũng bị lạnh teo, đói meo, bởi ở đây hoàn toàn không mì gói. Cóc cũng đang đói, bầy muỗi dự cảm được bão, chúng nấp sâu vào bẹ những đám lá quanh đầm. Anh đã nhận ra sự bất an của chị qua bàn tay mướt mồ hôi, anh cười, sau bão thì người ta sẽ thấy mình ở đây, họ sẽ ra rước mình, em lo gì. Câu nói đó đã dìm chị sâu hơn vào vô vọng, chị rớt nước mắt.

- Người ta sẽ thấy hai đứa mình …

Chị thảng thốt. Những ý nghĩ bỗng bời bời, xấp xãi chạy trên gương mặt tròn, tái ngắt. Cóc thấy chị ngó nó, mà không ngó nó. Trống rỗng, tuyệt vọng.

- Bà con sẽ nghĩ nầy nghĩ nọ…
- Thôi mà, em. Mình sẽ nói là dọc đường bị bão, tình cờ gặp.
- Người ta đồn rùm lên…
- Thôi đi, em.
- Em biết nói sao với con em bây giờ ? Chị kêu lên, rúm lại, hức một tiếng, như ý nghĩ kia đã xuyên thẳng qua người. Anh nằm ngoẻo xuống, nửa như thật sự rã rời, nửa lại giống đang giễu cho vui. Nhưng chị không cười, chị vạch vách lá nhìn ra, như chiếc xuồng đang trốn ở đó, trêu cợt chị. Không có gì cả. Cóc ngó theo, nó cũng mong có một phép thần kỳ. Chị day vào, bắt gặp anh đang nhìn mình, giận dỗi, xa lạ. Cảm thấy mình hơi vô lý, chị cười, như ai đơm sẵn nụ cười, và chị gắn hờ lên miệng. Trời ơi, Cóc kêu lên, không vui mắc gì phải cười để chiều chuộng lòng nhau?

- Tại em sợ… Hồi xưa, em có nhỏ bạn. Đời nó buồn lắm, mẹ nó bị tù…

Anh cười khào, ứ hự, bất chấp mạng sống lặn lội hẹn hò trong mưa gió gầm gào, anh không chờ đợi để nghe câu chuyện lãng xẹt, chẳng dính gì tới chuyện tình mình. Nhưng chị vẫn kể, giọng thản nhiên, như thể câu chuyện đã làm chị bình tâm lại, như chuyện đó thì phải thì phải nói bằng ngữ điệu dửng dưng đó, bởi có phải chuyện của chị đâu, có phải nỗi đau của chị đâu.

- Mẹ nó làm giám đốc, nhưng thích cải lương, thích nghệ sỹ, xài nhiều tiền của công ty vô mấy chuyện hát hò. Có bữa, nghe Minh về hát bên Thổ Cường, bà chạy xe hơi gần hai trăm cây số để đem cho ông Minh mắc dịch đó ơ cá dứa kho tộ. Nhà báo người ta viết về vụ đó quá trời.

Anh lại mơn man cổ chân chị, bây giờ nó đã lạnh, cứng đờ như nước đá. Việc của anh là làm cho da thịt chị ấm lại, mềm ra, anh không đếm xỉa gì câu chuyện xa xôi đó, chỉ mỗi Cóc lắng nghe bi kịch của cuộc đời, bi kịch của đứa con bỏ nhà đi, vì xấu hổ, buồn tủi, không phải vì người mẹ ở tù mà vì ơ cá kho, không phải là ơ cá kho bình thường trên mỗi mâm cơm người ta hay mút mút, quẹt quẹt, mà ý nghĩ, ngoài ơ cái kho, phải còn cái gì nữa. Cái-gì đó thì ai cũng biết là cái-gì.

Cóc bỗng liên tưởng tới đứa con chị đang trốn bão trong căn nhà chỉ có mì gói, không dây chì, không bao cát. Nó sẽ qua khỏi cơn bão này, dù mái nhà có bay vèo, có đổ sập. Có gì đâu, bão lần nào cũng tan hoang, nhưng rồi sau bão, cả nhà nó sẽ bò ra từ gầm bộ ván ngựa, thu dọn, sắp xếp, cất lại cái nhà khác, nhỏ hơn, te tua, tuềnh toàng hơn. Đứa con sẽ đi qua cơn bão này gọn ơ vì mì gói đang có sẵn. Nhưng có một cơn bão khác mà cả đời nó cũng không đi khỏi, nó sẽ nhớ hoài chuyện mẹ nó cùng một người đàn ông xa lạ ở trong căn chòi giữa Đầm Sầu, khi ai nấy đều về nhà, về chỉ để nhìn nhau chứ không ngăn được cây đổ, nhà sập. Nhưng hai người đó không về, họ ở ngoài đầm, để làm gì thì không nói ra cũng biết làm gì.

Cóc muốn khóc, tội cho cái cảnh tận cùng tuyệt vọng của chị. Và tận cùng cô đơn, dù người đàn ông kia có (lại) siết chị vào lòng. Cóc mà là anh ta, Cóc chỉ ngồi im lặng, nghe câu chuyện của người bạn nào đó, nghe cái giọng dửng dưng, nhưng che tiếng tim người đang nhói. Đàn ông, trong máu có pha chất vô tâm, mà thằng cha này vô tâm hết chỗ nói, tới mức bi kịch “ơ cá kho” là của chị (ví dụ vậy, nghi nghi vậy) thì thằng chả cũng không biết cách nào để an ủi một tấm lòng đau.

Ngay cả tình yêu trong chị vừa giãy chết, anh ta cũng không biết, nên tay cứ miết mãi trên da chị, giờ đã lạnh như đồng. Mắt chị đã tắt ánh nhìn lấp lánh, cồn lên một chút thất vọng, một chút não nề. Đúng cái kiểu của Cóc khi người yêu bỏ về trước sau cuộc hẹn hò mây mưa. Lúc Cóc vẫn còn say ngủ. Cóc thức dậy, bạn tình đã nhảy xuống xuồng theo người ta vào trong xóm. Cóc chua chát, trời sanh nó có bộ da nhạy cảm, cái phổi nhạy cảm. Nó không trở về đất nữa. Căn chòi có bậc thang cũ, đuôi lá lệt phệt, che kín, con nước lên xuống đủ độ ẩm ướt, Cóc lấy làm nhà. Nó dần quên đời đau.

Để bữa nay chị lại là Cóc của một bữa xưa nào. Có thể thấy chị đang khóc lặng. Cóc ngó theo ánh nhìn của chị đang mông lung ngoài trời, cả Đầm Sầu là một khoảng mưa mờ và tối. Xa xa, đằng sau bờ lá, nhà chị ở đó, chữ nhà không bao gồm người chồng cười hơ hơ hơ, nhà-chị là đứa con đang ôm mền gối chui xuống dưới bộ ván mọt ăn lổ chỗ như cái rổ, nằm chèo queo. Nhà-chị đang hỏi, không biết làm sao mà mẹ chưa về, rốt cuộc mẹ đi đâu ? Nhà-chị không hề nghĩ, nếu biết mẹ đi đâu, làm gì nó sẽ bị bão quăng quật, hành hạ suốt đời.

Cóc lại gần chị hơn. Nó có thể nghe được tim chị bỗng đập rộn lên, tung phá những bức tường đang quây nhốt chị, ngạo nghễ trước cơn bão đang khoái trá lồng lên, hú hét. Cóc nghe thoáng một lời giã biệt, rất khẽ, hay là chị chẳng nói gì hết, chị nhảy ào xuống nước, nhanh như một cái nháy mắt, nhanh hơn cả khoảnh khắc Cóc đớp một con muỗi đói. Anh chồm theo, chẳng kịp ới lên, bàn tay chìa ra, chới với nhìn chị bươn bả vẹt sóng, nôn nả về phía bờ lá xa xăm. Cóc vói ngó theo, màn mưa che khuất tầm nhìn, thấy cái đầu chị rướn cao, nhấp nhô như con rùa đang bơi, đầm thì xa, rộng, sóng đang cồn lên, giận dữ. Không biết chị có đủ sức để chạm tay vào bờ đất ?

*

Những ngày sau bão, tôi thường một mình ra Đầm Sầu, tôi tự hỏi cơn gió nào đã hắt mẹ tôi khỏi xuồng, và nơi nào mẹ ngã xuống? Không đánh dấu được vào nước, tôi khắc lên be xuồng, gần lái, chỗ mẹ hay ngồi bơi.

Một lần, ghé lại căn chòi hoang, tôi thấy con cóc đang nhìn mình, như khóc. Hay vì tôi đang khóc, nên thấy vậy…
Hạt gửi mùa sau

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư


Ông già như lật tung cái nhà lên. Ông chui xuống gầm giường, ông thò đầu vào lục lọi trong tủ chén. Đầu vướng đầy mạng nhện, ông cằn nhằn cử nhử, rõ ràng, mình cất ở đây, sao bây giờ nó mất biệt rồi, kỳ quá, kỳ quá. Tụi nhỏ cũng chạy lại, nghiêng chỗ này, ngó chỗ kia, cũng nói lạ quá trời, tự nhiên mất vậy cà. Nói, mà sợ tím ruột bầm gan, vì cái vật mà ông già muốn tìm tụi nhỏ đã cương quyết giấu biệt rồi.

Ai mà biết ông già coi trọng mớ bông vạn thọ, mồng gà khô đó dữ vậy, tụi nhỏ chống chế. Nhưng rõ ràng, tụi nhỏ biết. Sống chung một nhà, làm gì mà không rõ mỗi lần chim én bay hấp háy, đậu trên đám chà dưới mé sông, ông già lại đi lật lịch thăm chừng. Một tháng trước tết, ông vác cuốc ra sân, tụi nhỏ dù muốn dù không cũng phải vác cuốc đi theo, xới nhừ mảnh sân trước nhà, lụi hụi tưới nước cho mềm xốp lại. Ông già đi lục lọi mớ bông để giống từ tết năm ngoái, rải hạt. Kế Tết, lúc ông già đứng tỉa lại hàng bông bụp, bông lồng đèn thì bông vạn thọ, mồng gà, sao nhái đã nở rực cả vạt sân. Bông móng tay thấy thân phận nhợt nhạt của mình, nép thành một hàng dài dọc đường đi. Nghỉ tay, ông đứng chống nạnh, khoan khoái đứng ngắm bông, hết đứng gần rồi lại lùi ra, cười khà khà khà, khoái trá.

Với ông, Tết mà không trồng bông thì mất vui đi. Dù cực, dù ngày mấy lượt khệ nệ xách thùng đi tưới. Có cho đi, thì mới nhận lại, thử hỏi, ba ngày Tết, ngồi khề khà mấy ly trà, ngó ra cái sân vàng rực mênh mông, bông chật ních con mắt, có sướng không? Sướng! Vì vậy mà khi trời bắt đầu trở chướng, ông già thì trở… chứng, không chịu ở trong nhà. Suốt ngày tha thẩn ngoài sân, sửa sang, uốn lại mấy bụi chùm rụm, tỉa hai cây sộp, chăm sóc đám bông… Ông gọi là bông thì tụi nhỏ không được gọi hoa, ông nói hoa là hoa hông hoa huệ gì đó, còn mồng gà, vạn thọ hay sao nhái thì phải kêu bằng bông, cũng như núm mối mà cứ học đòi nấm mối, cái thứ dân dã, mọc vườn hoang phải kêu sao cho dân dã, dễ nghe (ông mà đọc được bài này, hẳn ông giãy nảy lên, cái gì mà gửi, gì mà hạt, sao không nói “gởi hột…”).

Đám trẻ tịt ngòi. Tụi nó thấy đám bông đúng là mang rắc rối tới cho tụi nó. Mấy bữa ông đi đám giỗ xa, về nhà, thấy bông héo, ông rầy tụi nó cả buổi. Mà, tụi nhỏ thấy bông cũng có ích lợi gì lắm đâu, ừ, có bông thì nhà sẽ đẹp mấy ngày Tết, nhưng mắc công. Sau tết, bông tàn, lại phải chọn những bông lớn nhất, đẹp nhất, già nhất đem phơi khô, lại phải nhổ bỏ đám cây rụi lá, dọn dẹp cho sạch, chuẩn bị sân phơi lúa. Tụi nhỏ nghĩ, đẹp, mà không ăn được, thì cũng phí.

Một phần, tụi nhỏ thương ông già, cứ lụi hụi cho cực thân. Ba năm rồi, đất nhiễm mặn, tan hoang, trồng bông cũng không nước tưới. Ngày xưa còn bờ dừa còn liếp chuối, bông trên sân phối hợp với cảnh chung quanh, giờ cây cỏ đìu hiu, cái màu vàng rực lên của sao nhái, vạn thọ càng làm khó chịu, chói gắt con mắt. Một bữa dọn dẹp ổ mối trong tủ, tụi nhỏ lén đem cái gói bông khô giấu trên giàn củi. Và ông già tìm kiếm trong tuyệt vọng.

Không thể tưởng tượng được, tết này lại không có bông, ông già rầu rĩ, nằm gác tay lên trán. Ngày dài, nằm chán, ông già ra đằng trước, nhìn cái sân chang chang nắng, thở dài ứ hự, mắt hoang vắng, thất thần. Tụi nhỏ đã dự tính trước, ông già sẽ buồn, nhưng nghĩ nỗi buồn qua mau, mai mốt ông quên tuốt. Nhưng ngó bộ dạng ông vẫn long đong tìm kiếm, tụi nó hoảng hồn, Tết sau, sau nữa, ông cũng sẽ nhớ hoài mùa bông cũ. Tụi nhỏ nhận ra, ông già trồng bông không hẳn vì chúng đẹp (bởi thật ra chúng đâu có đẹp, thậm chí, bông vạn thọ hôi rình), trồng để thấy tuổi xế bóng còn làm được việc thần kỳ, còn có thể vun đắp sự sống từ bàn tay cứng quèo, gân guốc, trồng bông để nhớ cái thời sạ lúa trên đồng, và bông như một món quà Tết duy nhất ông có thể làm cho con cháu.

Bữa sau, ông tìm được gói bông khô trên cái gióng cá khô treo đầu bếp. Ông mừng quýnh, nói kỳ quá, kỳ quá, tao kiếm ở đây nát hết mà không thấy, vậy mà bây giờ tự nhiên nằm chình ình, y như ma giấu. Tụi nhỏ ngó nhau cười cười, mếu mếu.

Lại phải phụ ông già cuốc đất, lại gieo, lại đeo cây nước bơm từng thùng đem tưới. Bông lại nở rực trước sân nhà. Và tết tàn, ông già lại nâng niu đi hái từng bông hoa héo khô, rũ cánh, giữ hạt cho mùa sau. Nghe như một người tàn và bông hoa tàn đang hát thầm bài ca cuộc sống.

Tụi nhỏ ngậm ngùi, ông già dường như làm điều gì lớn lao hơn là giữ hạt. Giữ cho tụi nhỏ không xuề xòa, lười biếng (bệnh này đang lan nhanh dữ dội từ hồi chuyển sang làm vuông nuôi tôm). Giữ một nếp nhà, giữ phong tục cũ…
Giữ cho cái sân bông rực rỡ, lung linh trong ký ức của những đứa trẻ xa nhà…


Ba mươi

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư


Năm nào cũng vậy, do thức dậy sớm đi chợ sớm, nên má là người đầu tiên mở ngày ba mươi Tết ra. Không biết có phải số má cực, vía má cực không mà hôm đó cả nhà đều phải làm công chuyện tối mắt tối mũi. Đến nỗi, nhắc tới Tết là thấy chữ “Ba Mươi” chình ình, choán chật cả ký ức.

Đó là cái ngày duy nhất trong năm cả nhà sum họp mà không sum họp. Ai nấy túi bụi với chuyện của mình. Cánh đàn ông con trai (nói cánh cho ham vậy, chỉ hai người thôi, chứ mấy), cánh này quan trọng, lãnh phần dọn dẹp, lau chùi, làm đẹp nhà. Nào là quét mạng nhện trên trần, lau cửa kính, tủ bàn, kỳ cọ mấy cái lư đồng, đem phơi nắng. Mệt phờ. Lúc dọn dẹp, bày biện bàn thờ thì mùi chiên xào dưới bếp bay lên, trời, lại phải bỏ ngang công việc đang làm dở, chuẩn bị mâm bàn cúng rước ông bà. Xế chiều rồi, chớ giỡn…

Cúng kiếng xong, cánh đàn ông tiếp tục chuyển sang đánh trận… ngoài sân, còn má vẫn hì hụi trong bếp, vừa trông chừng nồi thịt kho, vừa làm thịt nguội, sau lưng má, củ cải với dưa leo đang chờ tới phiên mình trở thành món… dưa chua. Tết của má dài thăm thẳm, phải kể từ hôm tát đìa bắt cá làm mắm, xẻ khô. Cá còn phơi trên mấy hàng bông bụp má bắt tay vào làm củ kiệu. Hồi chị còn nhỏ, má lãnh luôn phần làm mứt, nướng bánh kẹp, bánh bông lan. Chị lớn, chị giành lấy, nói để chị làm, nên cả ngày ba mươi tụi nhỏ không thấy chị liếc, chị rầy, bởi chị cũng cắm đầu làm mứt, nào là mứt chùm ruột, mứt gừng, không biết ai ăn cho hết mà ôm đồm, vừa ngào chảo mứt dừa vừa chạy ra coi mớ mứt tắc (quất) phơi ngoài sân không biết có kiến bò lên không. Cái dáng chị khum khum, tay đấm lia lịa vào lưng, than mỏi quá nhưng vẻ mặt thì tươi rói, ngây ngất. Giống hệt cả nhà, miệng kêu cực mà hớn hở, như thể ngày cuối năm này không có việc gì làm mới là niềm đau khổ lớn.

Tụi con nít cũng bận lắm, chạy đi chạy lại, “lấy dùm ba cây bàn chải”, “chặt dùm má mấy trái dừa”, “ê, coi chừng mấy con chó chạy giỡn làm đổ mớ mứt đang phơi…”, “chạy đi mua cho má mấy bịt muối, cho đầy hũ, nhỏ ơi”. Trên đường chạy đầu này đầu nọ, tụi con nít không quên thò đầu vô tủ vuốt ve mấy bộ đồ mới, ứa nước miếng, trông mau tới chiều để mặc, nên có khi má kêu hai ba lần mới chịu đi làm, bịu xịu càu nhàu trong bụng, không biết ông trời sinh ra ba mươi Tết làm chi, công chuyện quá trời.

Mà, việc nào cũng quan trọng, quan trọng khủng khiếp, không thể để đến ngày mai. Tuyệt nhiên, chẳng ai chần chừ, “để làm sau..”. Cứ như là không còn ngày mai nữa, cả nhà làm cho bằng hết việc, đến xanh mặt, mướt mồ hôi, như ai đó đuổi đằng sau, như làm bây giờ để mai mốt không động tay vào bất cứ việc gì nữa.

Tụi con nít buồn cười, vì cữ kiêng lắm thì chỉ thảnh thơi được ngày mùng Một, bữa sau ba má cũng ra vườn tưới rau, chị nhất định phải rửa chén, giặt đồ, anh đến cơ quan, mọi người trở lại với công việc thường ngày của mình, Ba Mươi cũng đâu có thay đổi được gì mà làm muốn nín thở?

Tụi nhỏ không biết, thật sự của Tết là bữa ba mươi này. Khi tụi nhỏ mặc bộ đồ mới đi khoe dài dài xóm, khi ba và anh tắm táp xong ra hàng ba ngơ ngẩn ngắm hoa sao nhái đốt lửa vàng run rẫy trước sân, khi má nhốt than trong những bếp lửa tàn, khi chị đứng chải tóc trước gương, thì Tết đã chớm hết, Mùng Một, Mùng Hai là Tết phai; Mùng Ba Mùng Bốn Tết tàn.

Tụi nhỏ không biết, mãi về sau, khi lớn lên, trong ký ức Tết ấu thơ, những ngày mùng rất nhạt, đơn điệu, chỉ chơi và chơi. Nhưng bữa ba mươi luôn sống động, lung linh những mồ hôi, những nụ cười, những khoan khoái, những ngọt ngào…
Một cuộc đời khác…
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư


Dạo này hay nhận được nhiều lời phàn nàn, nhất là đám bạn bè cứ rầu rĩ, trong T dường như tồn tại hai con người, chẳng biết đâu mà lần. Khi gửi tin nhắn hay email thì là một người nồng nhiệt, tươi tỉnh, cởi mở, gặp nhau thấy đổ vỡ dễ sợ, vì mặt lạnh tanh, dè dặt, ăn nói cũng đối phó, cầm chừng.

Nghe người ta phiền mình mà… sướng. Vì người ta nói về mình mà thấy hơi giống… mình (trường hợp này cũng hiếm gặp), rằng trong ta có hai cuộc đời (tất nhiên, trong ta có nhiều hơn thế). Mà, nghe chừng, trong ý tứ của bạn bè, con người của thế giới ảo dễ thương hơn.

Ừ thì, chính ta còn thương ta-ảo nữa mà. Thương như một người thương lấy một người. Ở đó, không còn khuôn mặt, dáng dóc của ta, không còn giọng nói gù gù vô duyên của ta, ta sống bằng cảm giác, ý nghĩ, nỗi lòng. Giống như ta-chiêm-bao, ta-ảo vui tưng bừng. Không xương thịt, không thể chạm vào, nhưng mỗi ngày ta-ảo đều thấy mình trước gương, rất hồn nhiên, thanh thản. Vì sống thật, nói thật, yêu, ghét, đam mê thật. Nhiều lúc ta-thật đọc lại mail của ta-ảo thấy buồn cười, thấy nhói đau, chẳng hiểu làm sao mình không nói được bằng lời, bằng mắt những câu ấy trước mặt người ấy. Nhớ ai, yêu ai thì cứ bảo rằng tôi nhớ, tôi yêu. Sướng rơn, nhẹ nhỏm cả lòng, mà chẳng bị mất mặt, vì anh nọ cứ nghĩ đấy là ta đùa, vì ta cứ ra rả mấy câu này như bán bánh mì nóng giòn, vì lời lẽ trong thế giới ảo cực kỳ… biến ảo. Bông lơn. Cười cợt. Tui ieu ban we. Câu chữ trơ trơ, dửng dưng, nói theo nhà văn Châu Diên, là chúng cứ nhơn nhơn ra. Người muốn tin, cũng phải ngờ ngợ, bởi con T mà mình gặp thường là tỉnh bơ, thản nhiên, không thể nào, ừ không thể nào… Ta-ảo không cần người ta hiểu được mình (mong gì, chính mình còn không hiểu được mình nữa mà), cho nên cứ trải nỗi lòng vào thế giới ảo – nơi những cái bóng vốn câm lặng gặp nhau, cất tiếng nói, và tuyệt vời, đôi khi được đáp lời. Để ta-thật bớt nặng nề, giữ lấy gương mặt buồn bã ấy, xương cốt mỏi mê ấy mà sống tiếp.

Mà yêu lấy cuộc đời, đó là khi buồn quá, gởi một cái mail than thở với bạn bè, bỗng thấy cái buồn này không… nghiêm trọng, bởi có loại buồn thậm chí không thể dùng câu chữ để viết thành. Đó là khi đau đời quá, lên diễn đàn cự nự, khiêu khích, chọc ghẹo, bỡn cợt những cư dân ảo khác, lòng đang buồn đầy bỗng lưng. Rưng rưng. Họ cũng là người ảo, cũng biến đổi ngoay ngoắt giữa những giả-chân vậy mà chẳng làm ta cô độc như ở giữa những gương mặt người nói cười thưa thốt, chẳng làm ta hoang mang như có kẻ đứng chình ình trước mặt mình mà không dò được lòng.

Tưởng lên mạng như thế là đã được nhiều lắm rồi, một mớ kiến thức ngổn ngang, được ánh mắt sướng rơn, ngưỡng mộ của mấy ông sếp khi mình đưa mấy bài viết, tư liệu hay nhờ giỏi săn lùng. Được cái nhìn nể nang của các đồng nghiệp khi mình đọc vanh vách chức năng, kỹ thuật của các loại máy kỹ thuật số, điện thoại di động vì đứa cấp tiến thứ nhì cơ quan Văn nghệ (sở dĩ thằng kia đứng nhất chỉ vì nó biết chơi game online và… chat) rất đam mê các website loại này. Được vui òa vỡ khi lang thang trên xa lộ ảo bỗng gặp lại thằng bạn đã biền biệt nhiều năm. Được ấm lòng, chia sẻ khi nhận ra người nào đó cũng cô đơn như mình, đau nỗi đau giống mình.

Tưởng vậy là quá nhiều, bỗng một ngày lên mạng ta thấy mình được nhiều hơn thế. Còn gì tuyệt bằng được sống như một con người vô tư, thanh thản, không đối phó, chống đỡ, không sợ hãi, nghi ngại.

Như đã từng mơ ước…


Đất Cháy
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư


Đêm trước đi Đất Cháy, phải gọi điện thoại cho người quen hỏi nói với tàu thế nào để ghé đúng nhà bác Hai. Người ấy cười, giọng ngạc nhiên, “Trời, T quên rồi sao?”.

Quên thiệt sao? Tôi cũng tự hỏi mình suốt dọc đường đi. Ừ, cũng phải quên chứ, khung cảnh Đất Cháy thay đổi rồi. Không còn những vườn dừa xanh thẫm vút lên cười cợt màu trời. Suốt triền sông không thấy dây tơ hồng bò phủ lên những lùm chùm gọng, suốt triền sông chẳng nghe mùi cà bắp, mùa này không phải là lưỡi mèo phèn trổ rộ sao? Những ngôi nhà xây mới cũng nhiều như những ngôi nhà đang xập xệ, tàn lụn. Con đập kéo xuồng chẳng còn, những cái cống vuông tôm thì giống hệt nhau. Ngó lên bờ, bỗng nghĩ vẩn vơ, hồi tám tuổi, nhìn cỏ cây Đất Cháy xanh rờn là thắc mắc ngay, sao chỗ này tên Đất Cháy, kỳ cục vậy? Nhưng khi con tôi tám tuổi, tôi sẽ chẳng tốn công giải thích rằng chỗ này ngày xưa là rừng, và rừng xưa đã cháy để dành con người đất sống, thứ gì mọc ở đây cũng tốt vì đất đã được bón mùn tro. Không phải giải thích, nó sẽ chẳng hỏi gì, bởi đất này đã thật sự nóng rãy, khô cằn như đang cháy. Tàu vẫn lừ lừ đi. Vịn ký ức, nhớ một nơi nào có hàng gòn cao cao mọc đầu con kinh dẫn thẳng lên đồng, nơi có ông già Đất Cháy ngồi bên thềm trưa ngó nắng, khốn khổ, cũng chẳng thấy cây gòn nào. Nhớ biết vịn vào đâu?

Tôi tự tha thứ mình cho cái nỗi quên. Để khi đứng trước mặt một người Đất Cháy già nua, tôi bỗng nhận ra, mình quên nhiều hơn một con đường về, một cái bến…

Tôi không còn nhớ được dóc váng, khuôn mặt thời trung niên của ông, thời mà dăm ba tháng ông xuống xuồng chèo đằng đẳng từ khuya xa đến trưa hôm sau, vượt chặng đường gần năm mươi cây số qua Đầm Bà Tường, Rau Dừa, Cái Rắn chở đến nhà tôi mươi giạ lúa, mấy buồng dừa nước, một thúng nếp than hay mấy con vịt xiêm đen trũi, mớ cá đìa rọng trong thùng. Tôi không nhớ ông có lấy tay gạt mồ hôi không khi hào hển bước lên nhà, và mắt ông vui như thế nào khi chị em tôi chạy ùa ra, “A, Bác Hai lên! Ba ơi, bác Hai Đất Cháy! Bác Hai má ơi!”.

Ký ức tôi không còn hình ảnh nào của ông vào hồi đó. Chỉ biết ba má tôi rưng rưng, lóng ngóng hỏi một câu ngớ ngẩn, “Anh Hai mới lên? Chị Hai với mấy đứa nhỏ cũng khoẻ?”. Chỉ nhớ nếp, gạo Đất Cháy rất dẻo, thơm. Cơm nếp cháy rưới chút nước mắm, ít tóp mỡ lên ngon thấu trời thiên.

Nắm cơm cháy ấy là chi tiết của cái nghèo hồi ấy. Chi tiết gồm cả trái ổi đèo nghịch mùa, buồng dừa nước, con cá lóc nướng… mà dăm khi mười họa tôi mới được ăn. Nên hai tiếng Đất Cháy là nỗi… xao xuyến không tan. Như thể quê quán mình ở đó, như sinh ra ở đó, cuống rau còn chôn ở đó, như thể ông là ruột thịt của mình.

Sau này, biết ba và ông chỉ là anh em kết nghĩa, chỉ là văn phòng tỉnh uỷ trú đóng ở nhà ông, mỗi khi làm việc xong ba tôi theo ông vác phảng đi phát bờ, cuốc đất trồng rau, giăng câu, đặt trúm… rồi nặng nghĩa tình, cùng nhau đi qua biến cố cuộc đời, cảm giác của tôi vẫn không thay đổi. Vẫn thân thuộc, ruột ràng, ấm áp, vẫn nghĩ về Đất Cháy như một cái nhói lên, như một món nợ nghĩa tình gia đình tôi toàn là nhận. Luôn luôn nhận. Tôi vẫn nghĩ về Đất Cháy như nhà mình, vẫn thương quay quắt một lần cất lời từ giã, “Ít bữa nữa đám cưới con rồi, chắc là sau này con ít về đây…”, ông đã rơi nước mắt, như chính con gái ruột của ông sắp long đong nhà chồng (Chuyện này hẳn có người cà khịa, “T lấy chồng anh cũng khóc vậy”).

Nhưng điều đó không làm tôi bớt quên. Hồi ấy thì lưng ông có còng không, người ông có gầy gò đến quắt queo như bây giờ không? Hồi ấy thì gương mặt ông có buồn rượi như sớm nay không? Tôi ngồi uống trà với ông, tôi tự dặn lòng, đừng có hỏi chuyện xưa nghen. Không nhắc chuyện xưa. Cương quyết không nhắc chuyện xưa. Vậy thì nói chuyện nay.

- Vuông mình lúc này có tôm tép gì không, bác?
- Có ôn gì đâu. Chắc được chừng mấy chục ngàn. Thấy rầu!
- Cá ngoài đầm chắc nhiều hả bác?
- Cũng cạn rồi. Người đông vậy, tôm cá nào mà còn. Tội, bây xuống lúc này cực ăn… Giọng ông đầy áy náy. Tôi cười, “Xứ mình hồi đó cá nhiều ghê…” và thấy hối hận khủng khiếp, trời ơi, mình lại nhắc chuyện xưa rồi.

Chuyện gây ngậm ngùi, chuyện đã xa xôi, tuyệt nhiên không thể níu kéo, không thể quay về. Tôi lỡ tay rồi. Cái túi ký ức mở toang, hiện ra cảnh lúa mọc sát bên hè nhà ông, ngó ra cửa sau là một đồng lúa biền biệt đến chân trời. Vài người ngồi bên bờ đất thong thả vấn thuốc rê bên con mương cá ục bời bời. Mấy con cò trắng dong dãi dòm chừng vạt nắng phai. Tiếng dừa chuột khoét rụng cái đùng. Vịt kêu bầy da diết. Đám trẻ đốt lá dừa khô nướng ốc sên. Khói nghe cay cay. Chớp mắt một cái, chỉ còn vuông tôm chang chang nước, một màu trắng đục đơn điệu. Buột miệng:

- Đất Cháy bây giờ khác trước quá chừng. Năm nào cũng về mà con còn thấy lạ. Mấy ông hồi xưa công tác ở nhà bác về đây chắc phải la trời…

Ông thoáng cười. Cho tôi nhận ra mình lại lỡ lời, lại nhắc một chuyện xưa gây ngậm ngùi, chuyện đã xa xôi. Chuyện rằng, một buổi sáng có người từ căn cứ tỉnh uỷ Phú Mỹ chèo xuồng qua Đầm Bà Tường, đến ngôi nhà chơi vơi ngoài đồng của ông, cười cười đi từ đằng trước ra đằng sau, dạo một vòng ngoài hè, nghiêng ngó khu vườn, cười cười hỏi, “văn phòng tỉnh uỷ tính mượn nhà anh làm việc một thời gian, anh Hai thấy sao?”. Ông thấy mình… gật đầu. Những người khách lạ chuyển đến ngay tối ấy. Từ tối ấy, nhường cả gian nhà trên cho khách, gia đình ông bắt đầu những cuộc cho đi. Những bữa cơm canh tươm tất. Những khuya, soi đèn canh nồi cháo vịt xiêm, mà nghĩ món ăn cho đêm mai, không biết lại cháo gà, hay chè đậu trắng khoai môn cho mấy anh em đỡ lòng. Mỗi khi có cuộc dịch chuyển, bịn rịn chào nhau xong, khách đã thấy lặng lẽ dưới xuồng một hũ mắm lóc, ít buồng chuối xiêm, ít nếp mới… Khách đi rồi, trong nhà nghe chẩng hẩng, bữa cơm lạt lẽo, ngó nồi cơm nhỏ xíu thấy… vô duyên. Mới biết chưa bao giờ nhà ông coi những kẻ ra đi là khách, mới biết sự cho đi đã thành thói quen. Hôm sau, nhóm công tác khác đến, ông lại hớn hở chống xuồng đi đặt trúm, đám con hớn hở rượt bắt gà, lại bắt đầu hành trình thương yêu, bảo bọc… Rồi họ cũng rời đi, nỗi nhớ vói xa, gởi theo những người lũ lượt trở về thành phố, khi cuộc chiến đã tàn…

- Hồi đó, sợ người ta để ý nên bác để cho đường đi từ kinh xáng vô nhà bịt khù. Phải vẹt cây cỏ mà đi…

Ánh nhìn ông lấp loáng hướng ra sân. Vắng ngắt. Con đường xưa giờ thẳng thớm, quang quẻ. Nó nằm lười nhác, ngái ngủ, đôi lúc hiếm hoi, gặp gặp vài bước chân quen, nó thắc mắc, “Ủa, còn nhiều người lắm mà. Những bước chân ngày xưa lui tới hà rầm sao lâu rồi không thấy? À ha, họ quên tuốt rồi”. Ấy là một cô bé nào đó làm tập làm văn theo phép nhân hóa con đường, và con đường của cô nghĩ vậy. Con đường của cô nghĩ vậy vì cô nghĩ vậy, lớp trẻ nghĩ vậy về cha ông chúng, chẳng hiểu vì sao mà cứ tuyệt vọng trông ngóng những sự trở về. Tuyệt vọng nhìn sự lãng quên của người đời. Nhưng người già chối biến, tụi tao có chờ đợi, hy vọng gì đâu, thiệt mà. Hồi đó cho đi chớ hề nghĩ là sẽ nhận lại. Chỉ là lâu lâu nhớ anh em, không biết còn mất… Ông già Đất Cháy kể, hôm trước đi đám tang ngoài chợ, gặp một người quen cũ, mừng quá chừng. Người kia hỏi, mấy ông tỉnh có hay về thăm Đất Cháy không, rồi chậc lưỡi, “mấy thằng này tệ thiệt…”. Tôi hỏi ngay, theo thói hoài nghi mà cuộc đời đã dạy, đã sắm cho, “Vậy chính người đó về thăm bác được mấy lần?”. Ông cười. Trời, người đó quên ác liệt thiệt, cả chuyện mình cũng là thành viên trong cụm từ “mấy ông tỉnh”, cũng chẳng quay lại Đất Cháy lần nào, từ sau giải phóng, mà cũng quên.

Tôi bỗng nhớ tới sự quên đang tàn phá con người mình, cồn cào bởi ý nghĩ, mai nay khi ông thật sự vùi vào Đất Cháy, tôi cũng quên gương mặt chan chứa buồn của ông sớm nay? Tôi cũng sẽ quên cái lưng cong oằn, cái bụng teo hóp chỉ bằng hai bài tay nối lại?

Căn bệnh vô tình có còn chừa lại trong ký ức tôi cái dáng ông lom khom đi thăm lú, mong có ít tôm bạc đãi đứa cháu ở xa về? Có ăn nát vụng hình ảnh ông rơi nước mắt tiễn tôi. Cả những món quà thơm thảo suốt thời thơ ấu, có còn không?

Khinh ngạo lên ngôi
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

Lâu lâu, cha mở cửa phòng con gái, thấy hết hồn, trên vách nó dán đầy những poster nam diễn viên, ca sỹ. Tây có, Tàu có, Hàn cũng nhiều, gã nào gã nấy mặt lạnh như tiền. Lên mâm cơm, cha càu nhàu, con gái cười, “trời mấy ảnh dễ thương vậy mà ba chê, rồi vẻ mặt nó trở nên mơ màng, đám bạn con đều thích mẫu người lạnh lùng kiêu bạc vậy đó. Mốt bây giờ đó, ba”.

Con gái nói, con trai mà hồi hởi, xởi lởi, tình cảm thể hiện ra mặt thì không đáng tin, yêu cũng không mãnh liệt. Ấy là nó rút kinh nghiệm từ mấy bộ phim thần tượng đang chiếu hà rầm trên ti vi. Bằng chứng là mấy gã dịu dàng mủm mỉm xuống giá thê thảm trong tuyến vai phụ, lâu lâu mới ló mặt chạy qua chạy lại trên ti vi. Vai chính dành riêng cho những chàng hoàng tử đẹp trai nhưng lại lạnh lùng, ít nói, sống khép kín, ít bày tỏ sự quan tâm với mọi người chung quanh, yêu mấy cô nàng ngổ ngáo, ngây thơ nhưng chỉ thể hiện bằng ánh mắt ấm áp, nồng nàn. Dẫu tình chín muồi thì cũng nín thinh, chịu hết nổi mới kéo cô gái lại, ôm chặt vào lòng. Cũng chẳng cần nói anh yêu em. Có phim vài chục tập nhưng nhân vật chính chỉ cười có… một lần, con gái sướng điên lên, vì nụ cười đẹp khủng khiếp, nghĩa là không phải gã cười không đẹp mà gã không muốn cười. Mà, mặt phớt đời vậy chứ tình cảm cuồng nhiệt, sôi sục, đè nén ghê lắm. Tóm lại, mẫu người này rất đáng tin cậy, sâu sắc, hễ yêu ai là yêu chết bỏ. Con gái kết luận.

Cha nhìn con gái, không hiểu có chuyện gì xảy ra trong tâm hồn mười bảy tuổi của nó. Con bé được thương yêu bảo bọc quen rồi, nên nó thấy thích thú lạ lẫm với cái cách người ta tỉnh bơ mà không thèm và cũng chẳng thèm dìu đỡ, che chở ai? Con bé sống trong môi trường chia sẻ, gần gũi, đông đảo, đã chán chê, nên cần một không gian mà ở đó, người dửng dưng với người? Hay là con bé tự dưng ngộ được… thiền nên xa lánh những kẻ nói cười thưa thốt, hớn hở tếu táo? Nó mất lòng tin vào những sắc thái biểu hiện tình cảm, nó không còn tin vào lời nói, nụ cười? Hay là…

Con gái lấm lét nhìn người cha, nó có nhiều điều không hiểu những suy nghĩ trong tâm hồn bắt đầu chớm già ấy. Cả chuyện cái… mặt của diễn viên cũng thấy rõ vấn đề lấn cấn giữa hai thế hệ. Đàn ông con trai kiêu bạc, lạnh lùng thì có gì xấu? Quá tốt là khác, không phải ba đã dặn là đừng bao giờ tin mấy thằng con trai miệng lưỡi ngọt ngào đó sao? Con gái không biết rằng trong chuyện làm ăn mưu sinh lo cuộc sống cho cả nhà, cha đã quá mệt mỏi với những gương mặt lạnh lùng. Cha gặp nhiều, đến chán chê, đến… sợ. Một cô cán bộ làm giấy phép kinh doanh, hay anh thuế vụ, hay mấy anh cảnh sát giao thông, hay ông gác cổng cơ quan nào đó… Và cả gương mặt một viên chức cấp phường mà cha gặp ngoài đường cũng hao hao mấy chàng trai trên poster, tất nhiên, đẹp và quyến rủ chắc chắn không bằng nhưng về mặt lạnh lùng thì có phần vượt trội. Lạnh, lạnh ngắt, lạnh tanh…

Vậy mà trong phòng con gái không có hình ảnh của chàng trai Việt nào, con gái giải thích diễn viên Việt cứ hơn hớn, chưa nói đã hệch miệng ra cười, chẳng có khí chất ngạo đời gì hết. Cha cười cười, nghĩ thầm trong bụng, con mình chưa gặp đó thôi, nó mà tiếp xúc với những gương mặt lạnh im ỉm kia, lối nói nhát gừng, cộc lốc, lục cục lòn hòn kia chắc là về nhà nó xé poster quăng đi. Cũng không chắc, biết đâu nó sẽ yêu những chàng trai xa xôi này hơn nữa, vì dù trầm lặng, kiêu bạc, ngạo nghễ nhưng ảnh trên tường vẫn còn có ánh mắt nhìn thẳng, nồng nàn làm ấm lòng người.

Những lúc con vắng nhà, cha lại vào phòng con gái, đứng nhìn lên vách, chỗ này, lúc trước là những gã có gương mặt baby, bơ sữa, không biết trong tương lai, mẫu người nào sẽ thay thế mấy thằng nhỏ ngạo đời này? Bỗng cha chột dạ, nghĩ tới cái ngày con gái dắt bạn trai nó về nhà, cũng sáng sủa, tốt bụng, có nghề nghiệp đàng hoàng, chỉ mỗi tội mặt hơi… băng giá. Nhìn thằng rễ tương lai, ông già vợ chắc oải dữ lắm.
Cha cười một mình…
Về một từ hay dùng trong năm…

Tạp bút

Nguyễn Ngọc Tư


Ông già chạy xe ôm chỗ sạp báo Chân Cầu hay khiến Chòi Văn giật mình, lúc thì gọi giật lại để càu nhàu, quạu quọ, “tao thấy bây viết như vừa rồi là không được đâu nghen…”, lúc khác bợp nhẹ vào đầu Chòi, “cái tạp văn trên báo X, coi cũng được, hén?”. Sáng qua, ghé mua tờ báo, ông vịn vai Chòi, nói “toàn bộ năm nay, bài nào của bây cũng có chữ “đau”. Lúc trước thì bị chữ gió, bài nào cũng gió ơi gió à, mắc mệt”.

Vậy sao, Chòi chưng hửng. Chạy xe đi một khúc, lòng vẫn còn ngơ ngác. Ngày sau, hết ngơ ngác, nhưng buồn buồn. Ông già chắc thương mình nên nhắc khéo, mình đang mòn, cũ, cả ngôn ngữ cũng lặp lại. Nhưng rốt cuộc tại sao mình lại buộc chữ “đau” cày xới, sao không là những chữ khác, chữ “thương”, chữ “vui” chẳng hạn… Chòi tự hỏi.

Theo lời ông già, Chòi đã hóa hai người, khác biệt, một của “thời gió” một của “thời đau” (tạm gọi vậy, cho dễ phân biệt). “Thời gió” đã qua rồi, đã thôi rực rỡ, hoàng kim. Nó tồn tại trong Chòi ngót tám năm, những cảm xúc nhẹ nhàng, những mối tình nhẹ nhàng, những ly tan, đổ vỡ cũng nhẹ nhàng, người tốt chịu thiệt thòi nhưng người tốt vẫn cười, những kẻ xa nhau luôn hướng về nhau. Thời đó, gió xuất hiện rất thường, như thể Chòi bị gió ám vậy. Những trang văn tràn ngập gió, tràn ngập thiên nhiên. Màu trời xanh, cơn mưa dầm, ngọn cỏ, bông hoa, khu vườn nắng… Quãng đó, hẳn Chòi phóng khoáng, cởi mở lắm nên trong văn nhóc gió, vì chỉ gió mới phản ánh tâm thế tự do, dào dạt của mình.

Nói như vậy bộ bây giờ Chòi đau sao mà dùng đi dùng lại chữ “đau”? Không, Chòi hoàn toàn chẳng có gì đau. Nhức đầu là tại sao trang viết của Chòi lại “đau” hoài huỷ, hết truyện ngắn chữ “đau” lại nhảy chòm chọp qua ngồi bên chiếu tạp văn ngồi? Chòi có đau nhưng lại chẳng nhận ra? Chòi lặp lại? Chòi lười nhác tìm kiếm ngôn ngữ mới? Chòi đã lớn tuổi, đã già? Nhưng già thì mắc mớ gì tới chữ “đau”?

Ông già làm Chòi nhức đầu quá chừng. Những ông già luôn vậy, luôn khiến Chòi vừa thương, vừa nể, trò chuyện với họ, Chòi thấy an ủi, nhưng sợ. Những câu nói của ông già quăng phẹp ra, nhiều khi như tấm gương trong vắt để ta soi mình, nhiều khi là nỗi ám ảnh không nguôi. Thí dụ, chữ “đau” của ta nói lên cái gì vậy?

Thôi kệ, Chòi bỏ đi xem ti vi, họ đang phát phóng sự cậu bé học tới lớp 7 mà không biết… đánh vần. Máy quay tận mặt cậu, Chòi có thể nhìn thấy sự bối rối, rã rời khi cậu không đọc được tờ báo, thật tình. Chòi nghĩ ngay, ý tưởng này viết truyện được nè, một đứa bé sau cuộc phỏng vấn không còn khuôn mặt nữa, nó sống một cuộc đời không có mặt, bởi lỗi lầm không hẳn của nó. Nhưng lỗi của ai? Chòi sẽ giải thích trong truyện của mình.

Ngay lập tức, Chòi nghĩ về chữ “đau”, trong truyện ấy không sao tránh được từ này. Lại một sự lặp lại. Nhưng Chòi không biết dùng từ ngữ nào để diễn tả cuộc đời của cậu bé sau khi xuất hiện chình ình trên ti vi. “Xót xa”? “Muốn chết cho rồi”? “Xấu hổ”? “Thắt lòng”? “Chết lặng”? Hay chỉ là “vân vân và vân vân”. Rốt cuộc, ngôn ngữ cũng bó tay, cũng đầu hàng, cũng thú nhận là không thể diễn tả được tâm trạng của cậu bé. Và Chòi chỉ còn cách dùng từ “đau”, một phần cũng do làm biếng, thay vì tách bạch từng loại cảm giác, ta cứ cho nhân vật “đau”. Nó bao gồm hết những cảm xúc đổ vỡ nát lòng, nó diễn tả cho mọi bi kịch của đời, của một thanh niên nào lỡ tâm và lỡ tay đánh cắp hàng trong siêu thị, sau đó cái hình anh được đính lên chỗ cửa ra vào với dòng chữ “Kẻ cắp”. “Đau” cũng dùng được cho hoàn cảnh những cô gái vừa bị lực lượng công an gom về từ một ổ tệ nạn nào đó, tối ấy bản tin được phát trên ti vi, kỷ thuật viên quên làm nhòa những khuôn mặt chán chường. Chữ “đau” sẽ cứu được những trang viết của Chòi về đứa bé bị công an xã bắt giam cả đêm vì nghi nó ăn cắp điện thoại di động, hay về một bà mẹ phải đi hầu tòa vì con giành đất …

Chòi không biết làm sao để không phải lặp lại từ “đau” khi cuộc đời luôn có những bi kịch mới. Chỉ còn cách chờ cho “thời đau” qua, “thời vui” hay “thời không”(tức là không gì cả, vô ưu vô lo) tới, chữ “đau” sẽ tự nó phai mờ, chết ngắc, như chữ “gió”.

Điều đó có khả năng, năm sau Chòi bị ông già chạy xe ôm làm cho một cái “tổng kết” nữa. Chỉ còn cách cười trừ nếu bị cằn nhằn. May mắn, nếu ông đọc được những lời này, ông sẽ rầy nhẹ nhàng một chút…
Năm ngoái và sợi dây thừng…

Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư


Mọi người gặp nhau ở sảnh cơ quan, tếu táo chào, lâu quá không gặp ha, năm ngoái tới giờ… Ừ, năm ngoái. Bỗng dưng ta ngơ ngẩn ngậm ngùi, chỉ hôm trước hôm sau mà nghe xa lắc xa lơ hai từ “năm ngoái”.

Nghe buồn như đang ngửa tay hứng thời gian, nhưng bất lực nhìn nó chảy qua kẽ tay, mất hút. Sợ quá. Hôm trước ta còn tung tẩy, chộn rộn tuổi hai chín, ngủ một giấc (hai năm) thức dậy đã ba mươi, đã thấy dè dặt ít nhiều. Gửi một email đi lúc nửa đêm, thư ghi năm 2006, mười lăm phút sau nhận lại lời chúc mừng của người bạn thiết, thư của 2007. Chỉ cách nhau từng ấy phút, mà thư ta đã là thư năm ngoái, thử hỏi có sợ không?

Sợ, bản thân từ “năm ngoái” cũng đáng sợ, rất tượng hình, như đó là khoảng thời gian rất xa xôi, mà khi muốn nhìn lại, ta phải ngoái đầu. Trong khi ngày cũ vẫn còn dư âm, ngày cũ vẫn còn đau cái cảnh người siết dây thòng lọng vào cổ người, ngày cũ vẫn còn vui vì những lời chúc mừng muôn màu muôn vẻ của anh em bè bạn. Thì bỗng dưng năm ngoái xuất hiện chình ình, ta phải ngồi ngắm hôm qua, chiêm ngưỡng hôm qua như chuyện xa xôi rồi. Thử hỏi có khó chịu không?

Khó chịu, bởi niềm vui ấy vẫn còn phảng phất, nỗi đau ấy vẫn âm ỉ trong lòng. Sợi dây thừng vẫn lủng lẳng, trơ tráo đung đưa trước mặt mình. Vẫn bắt mình nghĩ đau đáu, sao người ta không dùng nó để kéo gỗ, buộc thuyền, giăng võng nằm chơi, chằng nhà chống bão mà lại dùng để giết nhau. Thằng em cười, chính trị đấy bà ơi. Nhưng dây có tròng vào khúc bê tông mang tên Chính Trị đâu, rõ ràng là nó siết lấy một con người bằng da bằng thịt. Ui chao!

Nên buộc phải mang hình ảnh sợi dây sang năm mới, mà, lâu lắm mới có thể quên được buổi trình diễn của man rợ này. “Năm ngoái” bất lực không thể bứt lìa nỗi buồn đó, đành đẩy nó ra xa xa. Để ta ngóng cổ lên dòm, để thấy cái đau đó đã trở thành quá khứ. Không thể chỉnh sửa được, rất có thể, sợi dây đó có thể người ta sẽ đem vào viện bảo tàng, với mấy lời chú thích a b c hùng hồn, không thể đổi lại là “sợi dây này đã từng được ném xuống cứu sống một người mắc kẹt nơi sườn núi”.

Sợi dây thừng đã thuộc về năm ngoái, cùng với những nỗi đau nhân tình thế thái khác được lưu giữ ở đấy, vĩnh viễn. Và ta phải sống với những ngày mới, sống tử tế, mong góp chút gì đó nhỏ nhoi, để những lời nói trên đời này thốt ra chỉ thể hiện tình yêu thương dịu dàng chứ không phải làm nát lòng nhau, để những sợi dây được sống đời dây, chỉ buộc người lại với người, níu người gần với người.
Nhật ký
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư
1.
Gặp cậu lần nào cũng ngó mình, rưng rưng, con Lam của cậu cùng tuổi với bây. Tuổi Tỵ. Tết này là ba mươi tròn. Rồi cậu lặng đi, trợn trạo nuốt ngụm trà như vừa uống nước mắt.
Đứa em họ có cái tên làm mình phải ghen tị hoài, bởi cảm giác Lam là cái gì đó rất êm đềm, dịu dàng, bảng lảng, mỏng manh, như lụa, như sương như khói, chẳng phải như tên mình, thô dày, nặng nề và có vẻ thách thức. Nghĩ vậy, nên đau nhói đôi lần, khi thấy Lam è ạch kéo xuồng qua đập, khi Lam trầm mình dưới bến sông làm bờ kè chống lở.
Lam lấy chồng sớm, ngày cưới mình, Lam đã hai con. Hiếm hoi, dịp cúng giỗ gặp nhau, giật mình khi Lam gọi mình bằng chế, đúng theo vai vế. Chưa đến nhà Lam nhưng cảm giác đã đến rồi, cũng lần dọc theo con sông miên man, rẽ vào mấy dòng kinh quanh co, sẽ đến một xóm nhỏ buồn buồn, với những hàng cau, bụi tre buồn buồn. Nhà cột cặm, hơi thấp, cũng buồn buồn. Cho đến một ngày buồn buồn, Lam tìm đến cái chết.
Mọi người vật ra, ngơ ngác, món nợ chưa đầy hai mươi triệu + bà mẹ chồng hơi khó tính + những mùa tôm cứ thất bát nối đuôi nhau + buồn = cái chết. Đơn giản như một bài toán trẻ con. Lam nằm lạnh ngắt, dửng dưng, hai đứa bé đứng ngơ ngác nhìn những người lớn đang thương khóc, mà chẳng hiểu làm sao họ khóc. Cảm giác của mình về một cái tên dường như đã sai ngay từ đầu, Lam dường như là lam lũ, cơ cực, cong oằn, cả cái chết cũng là cơn bão quăng quật tả tơi những người ở lại.
2.
Diễm cũng hưởng dương hai mươi chín tuổi. Đứa bạn sung sướng từ lúc lọt lòng, nghe nói chưa bao giờ đi chân không trên đất. Học trường điểm từ hồi mẫu giáo, cấp một hai ba cũng vậy, vào đại học cũng thuộc loại danh tiếng, xênh xang. Chưa ra trường, gia đình đã thành lập một công ty kinh doanh máy văn phòng lớn, với đầy đủ nhân sự, chờ Diễm về. Công việc không chê được, người yêu cũng tuyệt, đúng chuẩn đẹp trai để thương nhớ, giàu có để lấy làm chồng.
Nên hôm Diễm than buồn mình đã bật cười, trời ơi, Diễm mà buồn thì mình biết làm sao. Diễm cười, héo hắt như người ta đơm sẵn nụ cười ở đâu đó, và Diễm lấy gắn vào môi. Một cơn buốt lạnh chạy dọc sống lưng, mình đã từng cười như thế, đúng là Diễm buồn, buồn như một căn bệnh. Không phải là buồn như mình vẫn thường rêu rao, “Trời ơi, sao không ai rủ tui nhậu, tui buồn muốn chết rồi nè”. Bệnh buồn là hổn hợp của những đổ vỡ, ngơ ngác, thảng thốt, vu vơ, ngớ ngẩn, lạc lỏng, mất mát, vô nghĩa, không phương hướng. Những cái buồn không nắm bắt được. Mù mịt. Vây bủa. Không biết lối nào để thoát khỏi nó.
Từ những buồn rời, không tan được vì thiếu lửa, buồn kết thành băng. Diễm chọn cái chết. Đơn giản hơn cả bài toán đơn giản nhất. Cái chết chỉ là buồn + buồn + buồn + n buồn + vô tận buồn. Hôm tới tiễn nhau, mẹ Diễm không nói, chỉ nhìn mình, ánh mắt nhói lên, “tại sao lại là con mình, sao không là con bé xấu xí hom hem và phá phách, phiền phức này?” Mình muốn giận bà, mà giận không xong, chỉ thương ngập lòng.

3.
Những cơn buồn đã vùi Lam, Diễm vào đất cũng đã từng làm mình hoang hoải, điêu đứng, liêu xiêu. Như đã dìm một lớp người trẻ khác vào biển buồn, một thứ cạm bẫy mới, rất đáng sợ. Ở đó, những lời động viên, an ủi, công việc, tiền bạc… đều không có tác dụng, chúng chìm lỉm. Ai đó buông xuôi, ai đó vịn được bờ. Bến bờ là một cái gì đó tình cờ, đôi khi kết thành từ những vớ vẩn, bờ của mình là một thí dụ. Một loài cây trổ bông xanh. Một cao nguyên biền biệt đá, người sống trên đá, chết trên đá, cây cỏ mọc trên đá. Một vùng cát trắng khô cằn, những đàn bò gầy quắt mỏi mê tìm cỏ dưới cái nắng rát bỏng… Mình đã được đến những nơi ấy đâu ? Mình đã trải nghiệm cảm giác … làm sui, nỗi đau nhói khi tiễn con về nhà chồng đâu ? Những nỗi đau của người đời, mình chưa kịp viết. Và còn quá nhiều người mình chưa được gặp, còn nhiều cuốn sách hay (mà dạo này lại có quá nhiều sách hay), nhiều bộ phim chưa xem…
Đến một ngày, đứng bên một dòng sông lạ, gấp lại một cuốn sách, thấy rưng rưng biết ơn chúng, có chúng nên qua bão buồn mình còn sống sót.
Và còn nhìn thấy màu xanh đã thẫm lại của tuổi ba mươi. Dù con đường đi đã vắng vài bóng người quen, họ mỏi mê, họ không đi tiếp nữa. Mình vẫn một mình bước tới.
Tìm mình giữa chốn chợ đông
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

Người bạn xa gởi qua email file nhạc “Cuốc kêu…” kèm theo lời nhắn, “một bài hát buồn mênh mông”. Chị nghe đi nghe lại, muốn khóc, vì giọng Cẩm quá buồn, vì nhớ ra, mình cũng có bài hát này, cũng thuộc lòng, “Nghe tiếng cuốc giữa đêm trăng, em chờ anh dưới con đê làng…”. Nhưng lâu rày, tập tểnh làm người sang, chị cố tình không nghe lại.
Đó là lúc tự dưng chị quên mình. Tự dưng nói bằng giọng của đám đông, thích màu mà đám đông thích, và vì muốn hoà vào đám đông hiện đại, sang trọng, chị đinh ninh rằng mình đang yêu nhạc Trịnh, nhạc Phạm, nhạc Văn, Dương…
“Cuốc kêu…” không của Trịnh, Phạm…, “Cuốc kêu…” chỉ là bản nhạc bình dân, mà đám đông sang trọng hay phẩy tay, cười khào, “Sến!”. Cô ca sỹ hát loại nhạc này chắc cũng bị đồng nghiệp bác học bĩu môi, nên dè dặt bảo, “em hát nhạc mang âm hưởng dân ca”. Người lỡ thích thì e hèm, “tui khoái nhạc trữ tình”. Nhưng nói tôi chuyên trị nhạc sến chẳng phải thấy mình trở nên thấp bé, kém cỏi lắm sao?
Nên chị buộc phải vênh váo với mọi người, tui thấy hợp với những gì tao nhã, bác học thôi. Bi kịch là đến một ngày, chị lừa được cả mình, thấy cao quý hẳn lên. Công cuộc cải tạo mình trở thành người của đám đông đã có kết quả đáng kể. Chị nhập nhoè vào họ. Chị vui niềm vui của họ, buồn nỗi buồn của họ. Chị thấy hớn hở như hồi viết bài văn tả bà nội y chang bà nội của cả lớp, như trong lễ kết nạp Đoàn, thề lời thề cũng giống hệt người ta (mà nếu cho chị chọn, chị thà nói, nếu tui làm không tốt, cho… xe đụng tui đi). Chẳng có gì khó khăn, cứ hề hà, đám đông nói cái kia đẹp thì ta nói cái kia đẹp, đám đông nói nghe loại nhạc ấy mới sang thì ta xướng theo, ừ, quá tuyệt vời.
Bỗng đâu bài hát cũ ngân lên, bỗng đâu chị nhìn thấy chút gì đó của riêng mình. Bỗng nghe nhớ da diết con người thật đã bị vùi lấp tầng tầng bởi mặc cảm, tự ti, học đòi, sợ hãi…
Mình đâu rồi? Chị bắt đầu từ những mảnh vụn. Tìm dưới đáy tủ, thấy mốc meo những bộ quần áo nhiều túi lớn túi nhỏ, bặm trợn, bạc phếch bụi đời. Chị ướm lên người, nghe xộc lên mũi mùi phụ rẫy, nghe mình vẫn còn xao xuyến, đây là những thứ chị thích, còn những đầm váy tha thướt, với tông màu tao nhã chị đã mặc hằng ngày, để cho ai, vì ai?
Mình đâu rồi? Chị thấy mình đang sì sụp ở vỉa hè húp… bún riêu bên những người lao động nghèo, vui vẻ nghe họ văng tục, họ cười nói, họ than vãn. Mình rề rề theo chiếc xe kem, thò đầu vào thùng lục lọi để lôi ra một cây kem đậu xanh bằng tất cả niềm sung sướng. Chị ngơ ngác, mình đã từng hài lòng chỉ vì một que kem? Bây giờ dù đứng trước ngôi nhà to, món tiền lớn… nhưng cảm giác đó đâu rồi?
Mình ở đâu? Chị lần tìm mình mê mãi giữa bạn bè xưa, hồi ấy kết bạn sao mà dễ, sao mà đông. Giống hệt gã Lệnh Hồ Xung khoáng đạt trong Tiếu ngạo giang hồ, bạn chị, có người chạy xe ôm, có đứa nuôi bò, có thằng bán… thịt chó. Cứ nhìn nhau, cười tươi là có thêm bạn mới.
Chị tìm thấy mình ở mọi nơi, xông xáo, nhiệt thành, không câu nệ chỗ ấy, người ấy có hiện đại, sang trọng hay không. Chị hơi luộm thuộm mà trong trẻo, quê mùa mà tươi tỉnh, ngớ ngẩn mà vui, khờ khạo nhưng hay cười. Hay nhảy một lượt hai bậc cầu thang trong cơ quan. Hay huýt sáo, hát vống lên, nhảy cà tưng, lúc hứng chí. Những khi cặm mặt vào cuốn sách, bỗng dưng khóc, cười thành tiếng, làm người trong cơ quan ai cũng ngẩn ngơ, “con nhỏ này, nuôi biết chừng nào mới lớn”.
Mỗi hình ảnh rời là một cơn đau nhói. Chị muốn sống lại cảm giác nhẹ nhỏm đó ngay bây giờ, ngay hôm nay. Chị thèm cất tiếng nói xuất phát từ đáy lòng, sẽ nghe thứ nhạc mình thích, mặc màu áo mình ưa. Sẽ hơi khác người, sẽ tách biệt khỏi những cô nàng ba mươi tuổi mà trịnh trọng, u mặc như bà già, sẽ lạc lỏng giữa những người sang trọng dập dìu. Sự khác thường phải trả một cái giá nào đó, những lườm nguýt, những cái bĩu môi, những ánh mắt thương hại, những căm ghét của người đời.
Nhưng chẳng có cái giá nào đắt bằng phải sống như một người khác?
Núi lở
Truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư

Lúc đó, chúng tôi đang hoàn tất học kỳ thứ hai, trong một cơn say, giữa đêm mưa dài, Vĩnh rủ tôi làm phim tốt nghiệp. Một bộ phim buồn khủng khiếp, Vĩnh nói, chắc chắn ông sẽ được vinh danh. Tôi đắp chiếc áo lên thân mình còm cõi của cậu ta, trả lời cho qua chuyện, ừ, thì làm. Vĩnh lại nói, tôi có sẵn ý tưởng rồi, ông muốn nghe không?

Dĩ nhiên là tôi không muốn nghe, tôi cũng say, và buồn ngủ. Ngoài trời, mưa như giũ, như trút, như đổ. Tôi không muốn nghe, vì những ý tưởng mang thương hiệu “Vĩnh” hoặc điên rồ hoặc mờ nhạt, vật vờ như chính cách sống của cậu ta. Nhưng tôi không muốn làm phật lòng một người say, tôi bảo, thì ông nói nghe thử với niềm hy vọng cháy bỏng là chỉ vài ba câu, Vĩnh sẽ ngủ ngoẻo đầu.

Đó là bộ phim về núi lở, Vĩnh hơi bực khi thấy tôi trốn vào mền, cậu ta giật mặt tôi ra. Ông hình dung đi, đừng nhìn mấy mụt ruồi đang cà nhót trên bản mặt tôi, chỉ nghĩ về ngọn núi. Một ngọn núi già nua, cũ kỹ, đá vôi lở từng mảng mỗi khi đến mùa mưa lũ, để lại những vách núi trắng như xương. Tôi đã chọn cho nó một cái tên, có thể là Ba Bảy Hai Mươi Mốt. Không thể gọi bằng cái tên dân gian đơn giản nào khác, ông phải biết, nếu cái tên ấy trùng với tên một ngọn núi thật ngoài đời, nhiều khả năng chúng ta sẽ bị kiện, ai đó sẽ làm một cái đơn dài nhằng, nhưng nội dung tóm lại như vầy, “Ba đời nhà tui sống kề bên núi. Làm gì có chuyện chỉ sau một buổi chiều mà núi lở đến cụt ngọn”.

Tôi cười, ngáp một cách khoa trương, đúng, làm gì có chuyện núi lở đến cụt ngọn. Vĩnh hằn học, ông học đạo diễn mà trí tưởng tượng dỡ òm. Câu chuyện của bộ phim chúng ta phải có núi và núi phải lở.

Tôi lại ngáp bời bời, cảm giác thèm ngủ trào lên, ứa nước mắt.

Có ngôi nhà trên đỉnh núi, giọng Vĩnh trở nên dè dặt, có lẽ cậu ta đang vẽ ngôi nhà trong trí tưởng của mình. Bỗng Vĩnh đổi giọng, cuồng nhiệt, da diết, như thể cậu ta đang đứng trước nó, và thấy vài cây bằng lăng che rợp khoảng sân. Trời ơi, màu bông bằng lăng tím, ông không tưởng tượng được đâu, nhuộm cả trời chiều. Trên sân, có vài chiếc bàn nước cho khách chơi núi vảng lai. Con nhồng nhảy lửng tửng trong lồng, kêu chói lói, “Má ơi, Ba vô! Má ơi, Ba vô!”.

Đó là một buổi chiều nhiều mây đen, nắng len lỏi rọi từng chùm trên những bụi cây dại. Mọi thứ được nguỵ tạo bằng cái vẻ ngoài yên ả. Thấp thoáng cạnh những triền đá dựng đứng bên con đường mòn, có thằng bé đang bắt cào cào. Đó là vai chính của chúng ta. Nó có thể lên chín, mười, có thể ít tuổi hơn nữa. Quãng tuổi đó, có quá nhiều điều nó chưa hiểu nên sẽ đau lâu, nhớ lâu những biến cố của cuộc đời. Ông không phải tốn công tìm diễn viên đâu xa, đi bất cứ miền quê nào, ông sẽ thấy tụi nó chạy đầy đường, những đứa nhỏ với làn da đen nhẻm, lem luốc nhưng đôi mắt rất sạch, sáng, to tròn. Mắt nhìn vũng nước đục, nước sẽ trong, nhìn vào đêm đen, đêm sẽ sáng. Đôi mắt rất hay nói. Nó ngước lên trời, nơi những đám mây bắt đầu sà xuống, bịu xịu như một cô gái sắp khóc, ánh mắt nói rằng thằng bé rất bồn chồn.

Nhiều hình ảnh chậm rãi đọng lại trong khoảnh khắc trước mưa. Một con gà trống tuyệt vọng tìm mồi trên sân, mỏ nó dội vào đá, nghe tê rần. Con chó nằm gần đó, sủa những tiếng rời. Thằng bé hơi ngẩn ra một chút, nó thông hiểu tiếng nói của loài vật – bạn bè nó, nên ngờ ngợ chuyện gì đó khủng khiếp lắm, con nhồng mới nhảy nhót hoang mang, dã dượi trong lồng.

Chiều ấy gió rất nhiều. Xin lỗi, tôi hơi dài dòng, nhưng vì tôi thuộc lòng như cháo những tình tiết, những hình ảnh, nếu kể, tôi phải kể có đầu đuôi. Ông không biết đâu, đêm nào tôi cũng thấy nó. Những nhánh bằng lăng bị quăng quật làm bông bằng lăng bay tả tơi. Tôi biết ông đang cười trong bụng, nghĩ tại sao tôi không viết văn. Nhưng con chữ nào có thể chuyển tải nổi cái cảnh hoa rơi bời bời như những cơn gió tím? Chỗ dây phơi bên hông nhà, mẹ thằng bé cũng bị mớ drap trải giường quất vào mặt, phủ cả người. Mẹ nó có đôi mày được tỉa kỹ cong cong ngót màng tang, các mí mắt được viền xanh, đậm. Chúng làm cho ánh mắt chị ta không bao giờ dịu lại. Mẹ nó kêu:

- Đẹt, không lo dọn bàn vô, chút nữa mưa ướt hết, bị đòn mười cây nghen. Ăn thì châu đầu lại ăn, tới chừng làm chỉ có con này.

Ngay lúc đó, ba thằng bé xuất hiện trong khung hình với mớ củi khô trong tay. Người anh ta cụt ngẳn, túc tắc chạy đi chạy lại. Vài đôi người đã rời khỏi những căn buồng trọ, lúi húi dúi mấy tờ giấy bạc vào tay cha thằng bé, anh ta cũng gấp rãi nhét vào túi mình. Mọi động tác của chủ và khách đều diễn ra trong thứ âm thanh câm lặng, như đã thường lặp đi lặp lại. Chỉ lúc tiễn khách ra tận đầu con đường xuống núi, cha thằng bé mới mở miệng càu nhàu, “ông cố nội trời này mưa hoài, không cho người ta làm ăn gì hết”.

Tôi nhoài người ngồi dậy, tôi tưởng Vĩnh đang cầm tập kịch bản trong tay, và đọc trong cái ánh sáng đỏ lòm của bóng đèn hột vịt. Nhưng Vĩnh vẫn nằm co, tay dường như đang kẹp giữa hai đùi, mắt mắt mắt mở. Vĩnh bỗng ngập ngừng, hay là ngủ đi, ông. Mai ông còn tới lớp. Tôi cười, không, để tôi coi tới sáng mai thì núi của ông đã kịp lở chưa? Tôi thấy mình ráo hoảnh, không hẳn do câu chuyện có vẻ hoang đường về ngọn núi xa xăm nào đó, mà vì Vĩnh mà tôi từng sống chung căn nhà trọ không phải Vĩnh của đêm nay.

Nghe nói tay Đảng đang nuôi mấy con chuột để làm phim tốt nghiệp, Vĩnh cười khào. Chúng ta chỉ cần ngồi trong ngôi nhà trên núi ấy chờ đợi một cơn mưa lớn như bữa nay, như trút, như giũ, sầm sập như vầy. Và thằng bé của chúng ta bị cơn mưa rượt chạy vào nhà, như thể, không có cơn mưa đó, thằng bé sẽ mãi tha thẩn ngoài sân. Máy quay của chúng ta hướng theo ánh nhìn hơi tối của thằng bé sẽ thấy dãy hành lang dài chạy dọc theo những cái buồng rất chật và tối dành cho khách. Hầu hết họ đã chạy trốn khỏi cơn mưa để lại những cánh cửa mở toang với chăn chiếu nhàu nhò. Chỉ còn căn buồng khép chặt, ngang qua đó, theo thói quen, thằng bé bịt tai lại, mặc dầu mưa đang rền rĩ trên mái nhà, hành động ấy là không cần thiết. Đôi mắt thằng bé rất bất an, dường như đây không phải nhà của nó. Nhà của nó là khoảng sân kia, là những con đường đầy hoa cỏ dại kia.

Nên thằng bé lại nôn nả ngó ra ngoài trời, nôn nả nhìn mưa xỉa xói miết trên xác bông bằng lăng, tái nhợt. Dấu mưa xoi chừng như nhói cả đá. Mẹ nó dọn cơm ra, cái cách dọn cơm cũng như mọi ngày, trễ nãi, dằn dỗi, phản kháng trong câm lặng, “tôi mà cũng phải làm những chuyện tủn mủn như vầy đây. Ba thằng bé không nhìn vào mâm cơm, chỉ ngó vợ, miệng hệch cười, hít hà khen ngon. Một buổi chiều có vẻ bình thường, cơn mưa ấy cũng là một cơn mưa bình thường. Cả chuyện thằng bé định chạy ra sân thì bị kéo lại, từ vạt áo nó một trứng gà lăn long lóc, cái nhìn trừng trừng của mẹ nó dường như đã thường xảy ra, bởi ba người đều giận dữ một cách thản nhiên. Cái ‛dường như’ khá nặng về cảm giác. Vì vậy, nhịp điệu của phim sẽ phải chậm rãi, rất chậm rãi. Lừ đừ. Nhát gừng.

Chỉ thằng bé là lung linh, sống động, cả người nó cứ chực lao đi trong khi bàn tay bé nhỏ vẫn bị vùi trong tay cha nó. Thằng bé nói như van, bên nhà nội chắc ướt lắm, cho con qua nội, đi ba. Bỗng đá dưới chân nó bỗng chao như người say rượu, rùng rùng. Tiếng đá rơi rầm rập.

Mọi người như bơi trong không khí rồi té thụp xuống. Họ chụp vịn bất cứ cái gì gần nhất. Núi lở! Đôi khách xô nhau chạy ra khỏi căn buồng, người phụ nữ chỉ kịp gài hai chiếc nút gá hờ hai vạt áo chênh nhau thấp cao. Núi lở! Mẹ thằng bé nhìn thấy vẻ kinh hoàng của khách, bỗng cười, mắt long lanh, “không sao đâu, núi này lở hoài, mà tụi tui vẫn sống phây phây”.

Nụ cười ấy điếng lại khi đá vẫn gầm. Sự nứt toác ra làm núi đau đớn, giận dữ điên cuồng. Những bộ ngực lúng liếng, bờ môi hoang đàng, nét mày chải chuốt trở nên thừa thãi. Sự hoảng loạn chỉ biết trào ra bằng ánh mắt. Đá vẫn chuyển mình. Một người khách dường như không còn kiềm chế được, lao ra xe, mặc dù hơi mất thăng bằng, cuối cùng ông ta rồ máy chạy tan mất vào trong mưa mù mịt. Người khách nữ dường như sững sờ đến không kịp ới lên, môi dưới của cô bị bấm một dấu răng sâu, vẫn còn sưng, thậm chí không thể mấp máy. Đấy là cuộc chia tay của mọi ngày, người đàn ông một mình chạy xe máy xuống núi, chị ta cũng đi bộ xuống núi một mình, như vô tình. Chỉ khác là bây giờ, đá đang rơi. Mắt thằng bé ứa ra những giọt lo âu. Bàn tay nó bắt đầu chảy ra như nước, không ai hay biết, ba nó vẫn nghĩ đang nắm nó trong tay mình. Bằng cách đó, đêm đêm nó vẫn đi ra khỏi nhà, sang chơi với người ông, mân mê chỗ da mát lạnh nơi cùi chỏ ông cho đến khi ngủ khò. Thằng bé bươn vào mưa, chạy miết về phía triền núi phía Tây, nơi cũng có những cây bằng lăng già đang đảo lắc điên cuồng. Thằng bé gọi, nội ơi, nội ơi nội. Nó thấy ông nội nó đứng trong chái hiên, cây gậy chống vào nền nhà, cả người ông chòng chành, lật bật như con vụ sắp hết trớn quay. Mặt ông tỉnh bơ, thấy thằng bé, ông còn cười. Đoạn này thoại rất gọn, cả hai nhân vật đều hét lên:

- Nội ơi, núi lở rồi.
- Ờ, núi lở rồi, núi cũng giận, chứ sao?
- Chạy đi, nội. Con dẫn nội chạy nghen. Ở đây là chết đó.
- Ờ, chết cũng được, chớ sao?
- Nội chết, con chơi với ai?

Ông già bỗng nghẹn ngào:

- Con chạy trước. Nội khoá cửa rồi qua liền. Nhanh lên, chạy nhanh, con.

Thằng bé lại lắn quắn chạy về, nó liên tục ngoái lại, tiếng chó ăng ẳng ở một hốc nào nói cho nó nghe những dự cảm chia lìa. Nếu tôi viết văn, đoạn này, tôi sẽ để thằng bé nghĩ, “quái lạ, nếu núi lở, nhà nội sập là chắc mẻm, cần khoá cửa để làm gì”. Bỗng Vĩnh ngưng bặt, như đếm từng giọt chờ đợi của tôi, cười lạt lẻo, sao ông không ngáp nữa đi. Tôi không thể nói rằng mình đang sợ, như ai đó mượn miệng Vĩnh để thốt ra lời, cứ như kẻ đó dắt tôi đi, cứ như chúng tôi đứng trước ngọn núi trong buổi chiều tăm tối đó. Người Vĩnh lạnh, nhưng cậu ta không bao giờ chui vào mền, những đêm ẩm ướt như thế này, cậu ta chỉ chịu đắp hờ cái áo gió mua rẻ ở vỉa hè.

Tôi nghĩ bộ phim của chúng ta sẽ bị các nhà phê bình “làm thịt” ngay, ông à, Vĩnh cười khan. Làm gì có trái núi nào lở như dao chém ngọt phứt hết phần ngọn? Làm gì có chuyện một đôi tình nhân mới vừa ôm ấp nhau lại bỏ nhau chạy trối chết? Cả chi tiết chủ ngôi nhà trên núi đó chỉ có mỗi một chiếc xe máy cũng “gài” lộ liễu. Nhưng đời là chúa cắc cớ, câu mâu…

Trong cái chênh chao lìa nhau của đá, cha thằng bé loạng choạng đưa chiếc xe máy ra sân. Mẹ thằng bé làm nhiệm vụ vặn sít tay đứa con trước khi trao lại cho ba nó (mà không hay nó đã không còn ở đó). Chị ta cầm cái túi dồn vào đó tất cả những thứ đồ đạc trong tầm tay, tầm mắt. Cái túi há hốc miệng, như đang ói ra. Thằng bé trở lại khi cha mẹ nó nháo nhác tìm những món đồ mà lúc tỉnh táo họ không bao giờ cần đến. Nó trở lại để hỏi một chuyện:

- Ông nội có đi với nhà mình không?

Mọi âm thanh bỗng lặng phắt, ông học đạo diễn, ông rành thủ pháp này hơn tôi, hãy để những ánh mắt nói với nhau điều lơ láo. Sẽ mất vài giây cho sự lựa chọn. Khách ào chạy ra mưa, níu chặt lấy chiếc xe, chị ta lờ mờ hiểu ra, thêm một người nữa, chị sẽ không có cơ hội chạy trốn. Ngọn núi trùng trình sụt xuống, cha thằng bé xốc nó chạy khỏi căn nhà sắp đổ. Nó giãy ra, gào khóc:

- Ông nội. Còn ông nội nữa. Con muốn ở với ông nội.

Cha nó hơi chùng chân, nhìn về triền núi phía Tây, như ước chừng quãng thời gian, quãng đường đến đó và quay lại. Thằng bé quả quyết nhà ông nội nó vẫn còn đấy, mưa và nước mắt làm tầm nhìn mù mịt, nhưng nó vẫn thấy ông đang vẫy tay. Mẹ nó xấp xãi lại, ngó người khách sắp ngất trong mưa, mẹ nó rít trong kẻ răng, “Ba già rồi. Còn để con nhỏ đó chết ở đây, anh sẽ ngồi tù”.

Cái nhìn lo lắng của người đàn ông chợt tắt. Lúc đá đang tụt xuống từng mảng bạc đầu, con người có quá nhiều chuyện để làm, họ không thể nói, chỉ có hành động và hành động. Chạy trốn và chạy trốn. Họ chất nhau lên chiếc xe, họ điên cuồng chạy trên con đường mòn ngoằn ngoèo đã xuất hiện những vết nứt khá sâu. Mưa bỏng rợp. Thằng bé kêu nội ơi rát họng, cổ nó đau như tươm máu tươi.

Mắt thằng bé bất động, quánh đặc những tuyệt vọng. Nó thấy lại cảnh mình cùng ông nội lơn tơn đi bắt cào cào. Ông già nói gì đó, và thằng bé cười ngắc nga ngắc ngéo. Đá dưới chân họ xốp, mềm như mây. Nó thấy ông nội tay áo xoắn cao, lăng xăng, chỉ trỏ ngôi nhà nhỏ, bắt nó ngồi vào cái ghế tựa, bắt nó chống nạnh trước hàng ba, tay ông già dang ra, như nói căn nhà này ông cất lên là dành riêng cho nó.

Những cảnh thuộc về ký ức của thằng bé được đan xen với cuộc chạy trốn. Nếu không làm vậy, khán giả sẽ tức tối vỗ đùi, “Đang khúc hồi hộp chết mẹ mà nhớ lại hoài vậy trời?”. Chúng ta phải giữ họ ngồi lại, bằng hình ảnh cây cỏ nhoè hai bên đường. Vách núi loang vun vút. Những cành cây gãy rơi sát rạt. Bánh xe nặng nề trườn qua những vết nứt. Cuộc chạy trốn vẫn bời bời trong tiếng rền của núi. Đá đang trượt trên đá, đá vĩnh biệt đá trong thứ âm thanh thống thiết.

Thằng bé càng xa đỉnh núi, ký ức của nó về ông nội càng nhì nhùng, loang lổ như khúc phim trầy xước. Thằng bé thấy ông nội nó sụp lạy trước miếu thờ thần núi trong khi những người thợ ngăn ngôi nhà thành những căn buồng tối. Ông nội đang bắt chuột rộn ràng cả dãy hành lang, làm những tiếng chút chít hổn hển bị đứt khúc. Mắt mẹ thằng bé quắc lên.

Thằng bé thấy mình bị mẹ kéo vào phòng ngủ để ăn… chôm chôm. Bà mẹ tỏ ra hồn nhiên ném vỏ qua cửa sổ chỗ ông già ngồi. Rồi nhận ra sự khiếm nhã của mình, mẹ thằng bé nhoài đầu ra cửa, ngọt ngào, “tụi con mua chôm chôm bằng đồng tiền dơ bẩn, nên không dám mời ba”. Thằng bé thấy ông nó tựa vào gậy bước từng bước liêu xiêu về phía ngôi nhà mới, nơi mặt trời mọc mỗi sớm mai. Ở đó cũng có nhiều bằng lăng, bông cũng tím rối lòng rối dạ. Nó muốn chạy theo nhưng ba nó kéo lại. Anh ta cười hề hề vô nghĩa như bức tượng, mặc người ta muốn xoay thế nào, đắp gò má, nắn cằm thế nào cũng được. Trong ký ức của thằng bé, từ khi xuất hiện những đôi người – họ lên xuống núi bằng những ngã khác nhau, lạnh lẽo ngó nhau nếu bất chợt gặp ở chỗ chợ đông, nhưng lại hớn hở chui vào cùng một căn buồng tối - ông già gần như câm lặng, thằng bé gần như độc thoại, “ba mẹ bắt con ra sân chơi, hễ có người lạ đi đông người, hay mấy chú công an thì phải la lên”, đôi vai ông già rung từng chặp. thằng bé lại nói, “con nghe lời nội bịt lổ tai lại rồi mà cũng nghe người ta la hi hi trong buồng”, đôi vai hóa đá.

Và đôi vai ấy nhoè dần báo hiệu ký ức đã tan. Trên màn ảnh, chiếc xe chở bốn sinh mạng đi vào vùng ánh sáng cách xa chân núi. Họ đâm xe vào bãi cỏ ven đường, họ hướng mặt về núi, sụp xuống. Núi Ba Bảy Hai Mươi Mốt chỉ còn có thể gọi là Hai Bảy Mười Bốn. Thằng bé chôn chân đứng nhìn trái núi trọc lóc, trụi trơ. Không biết nội nó khoá cửa xong chưa.

Sau lưng nó, những người lớn rã rời vì mừng rỡ, kiệt sức, kinh hoàng. Không thấy cái túi xách biết ói đâu, trên tay mẹ thằng bé chỉ có lồng chim, dường như trong tiềm thức, lúc sợ hãi đến đông máu lại, chị ta vẫn còn nhớ con nhồng thật sự có ích, nó từng gào lên “Má ơi ba vô! Má ơi, ba vô!” mỗi khi có biến cố, cho những đôi người kịp rời nhau, đi khỏi nhà trọ bằng lối sau, nơi có con đường mòn khác dẫn xuống núi.

Nhưng con nhồng ấy vĩnh viễn không nói nữa. Hình ảnh con nhồng câm lặng sẽ làm nền cho chữ “HẾT”. Riêng thằng bé không có kết thúc.

Vĩnh bỗng hụt hơi, chúng ta tìm đâu ra những diễn viên lột tả được tâm trạng của kẻ đang rú lên mừng thoát nạn mà đã - chết - rồi, hở ông? Lưng Vĩnh lạnh buốt, dường như cậu ta đang run. Chiếc giường cũ ọp ẹp lên cơn sốt. Tôi cuống cuồng trút tấm mền của mình cho Vĩnh, và trong lúc đắp choàng lên tận cổ cậu ta, tôi đau đớn nhận ra, tấm mền không cần thiết. Trời ơi, tôi cần thứ gì đó để lau nước mắt.

Thằng bé ấy đúng là vẫn chưa có kết thúc.
Thu Cúc giữa đời
Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư

Tôi gọi chị là Thu Cúc, một nhân vật trong phim “Thu Cúc đi kiện” nổi tiếng của đạo diễn Trương Nghệ Mưu. Chị quạt nón cười hỏi Thu Cúc là ai, trong phim hả, trời ơi, phim thì chị đâu có rảnh mà coi nó tròn méo ra làm sao.
Chị ghé quán nước anh tôi, mỗi đầu tuần, với cái giỏ nặng trĩu trong tay. Trong giỏ có chừng nửa ký chanh giấy, vài trái dừa khô, dăm ba nải chuối già cui. Chanh thì để lại cho chúng tôi, còn chuối, còn dừa, chị phải đảo một vòng qua chợ. Mắc rẻ gì cũng bán, cho kịp giờ làm việc buổi sáng, bởi chị còn phải ghé vài cơ quan công quyền để thắc thỏm đưa thêm mấy lá đơn, hỏi thăm lượt đơn thưa trước đã có ai đọc, có ai giải quyết chưa?
Chị không biết cô Thu Cúc nào đó bên Tàu, na cái bụng bầu ọc ạch đi đòi công lý cho chồng, bởi phim ảnh trở nên xa xỉ khi chị cùng chồng con phải quần quật kiếm sống bằng đủ mọi nghề, hái rau, kiếm củi, đào đất mướn… Cuộc sống trở nên nhọc nhằn hơn từ dạo hàng xóm trái khoáy dẫn nước mặn vào nuôi tôm đúng lúc lúa trên năm công đất nhà chị đã no đòng đòng. Ruộng nhà chị nhiễm mặn, lúa quéo ngọn, chết queo. Tiếc của, tức mình, chị đi… kiện, sau khi đã giáp mặt ông láng giềng, sau khi biết không còn tình nghĩa gì để níu kéo khi người ta trơ tráo bảo, “Tui dẫn nước vô ruộng tui, mắc mớ gì ruộng chị. Thích, thì kiện”.
Chị nhờ con viết đơn trên giấy học trò, tự mình đem ra tỉnh. Chồng chị đã nhận chở đất lên liếp cho mấy nhà trong xóm, đấy là việc của anh, kiếm tiền. Chị đi, bằng tất cả sự ngây thơ và nồng nhiệt, chỉ biết là quyết đòi lại số lúa đáng lẽ bây giờ đã nằm trong bồ nhà chị. Lúa, với chị là tất cả, là học phí cho con, là cái giường mới thay cho bộ vạc đã ọp ẹp, là tấm áo cho chồng, là mớ tôn để lợp lại chái hiên.
Chị vốn không biết con đường đi đến công lý rất dài, mệt mỏi. Nó không phụ thuộc hoàn toàn vào phần phải, ý chí, hay quyết tâm của chị. Nhiều khi con đường bị ngắc ngứ bởi ông A, chị B nào đó bận đi… du lịch dài ngày. Nhiều khi phải trở lại từ đầu bởi cô văn thư ngớ ngẩn “Chị về làm lại cái đơn khác, không biết đơn trước tôi để ở đâu rồi…”. Nhiều khi muốn khóc bởi câu nói vô tình của anh cán bộ, “Vì vài chục giạ lúa cũng đi thưa, mắc công chị, mà cũng mắc công tụi tui, phải xử lý chuyện không đáng gì…”
Nhưng với chị thì đáng, chị quẹt nước mắt, nói chắc như đinh đóng cột, “chừng nào chưa giải quyết cho thỏa, tui theo tới cùng”. Để có sở phí đi lại, chị hái chanh, bẻ trầu, chắt mót những thứ bán được trong vườn đem ra chợ. Trao mớ chanh cho chúng tôi để lấy chút tiền, chị xin ly nước lạnh. Lúc đói lòng thì ăn xôi, không gấp cũng không cần đi xe ôm, lội bộ tà tà cũng tới”. Thấy chúng tôi ái ngại, chị cười, “lúc đầu còn nghĩ đòi mấy chục giạ lúa cho bỏ tức, bây giờ không nghĩ tới lúa nữa, mà chỉ mong mấy ông nhà nước làm sáng tỏ, rạch ròi phải trái, đúng sai”. Tôi buồn, chị thậm chí không biết (hay không dám) dùng từ “công lý”, mặc dù những điều chị nói đích thị là công lý. Vì thấy nó cao xa? Vì thấy nó là thứ khó với tới?
Tôi buồn, bởi những Thu Cúc giữa đời, nhiều quá. Đến cơ quan tiếp dân, đến toà án, đến uỷ ban… hay gặp các chị, các thím đứng ngồi. Anh bạn làm thẩm phán cho tòa dân sự tỉnh phân tích vui, sở dĩ tỉ lệ phụ nữ đi kiện nhiều hơn nam giới là vì họ giỏi chịu đựng, kiên trì, mềm dẻo và dễ khóc, dễ làm lung lạc người khác. Lại thấy buồn, vậy thì cái vũ khí sau cùng xem như không có tác dụng, bởi công chức nhà nước là những người không dễ mủi lòng.
Nên có người đã đến được đường chân trời, có người vẫn rị mọ xa xa. Sức sống không vì thế mà kiệt, người không vì thế mà bỏ cuộc. Có chị dặn tòa, có xử thì cho hay trước chừng nửa tháng, tui rọc lá chuối bán mới có tiền đi. Có thím xin hoãn phiên xử lại, chờ đến mưa, “lúc đó rau rác nhiều…”. Rất nhiều đường để đến điểm hẹn của công lý, nhưng có con đường nào nhọc nhằn bằng đi tát những vũng cá cạn trên đồng không? Anh bạn thẩm phán hỏi tôi, rồi trầm ngâm, “lên tòa ngày ngày, nhờ những Thu Cúc “made in đậm đặc Viet Nam” này, mà tâm hồn tôi bớt chai sạn, để còn cảm giác rưng rức, chua xót, thanh thản, nhẹ nhỏm, vui vui”.
Tôi không biết nữa, nếu cần tìm những cảm xúc cho mình, tôi thích nhìn những chị, những thím ngồi soi kiếng, chải tóc, hay gội đầu ngoài sàn nước, thích những người phụ nữ ngồi khâu vải vụn làm mền dưới thềm trưa.
Tôi thích nhìn các chị nằm trên võng, đưa con, hát vọng cổ thật hiền. Nhưng cuộc đời lắm khi buộc các chị phải cặp nách xấp đơn từ ra đường, đi lêu lêu trong nắng, mỏi mê trong uất ức, trong chờ đợi, hy vọng…
Cũng đành…

No comments:

Post a Comment