Sunday, March 6, 2011

Mẹ giàu, mẹ nghèo-Nguyễn Ngọc Tư

Mẹ giàu, mẹ nghèo
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư


Ban đầu, cô bạn dõi theo các cuộc thi viết về thầy, về mẹ, về gia đình, trường học… vì thích đọc những câu chuyện có thật, chân phương, cảm động. Cô thích những câu chữ còn vụng về nhưng tấm lòng người viết dịu dàng. Cô thích cái cách người ta thể hiện tình cảm, lời tri ân, sự tiếc nuối… bằng văn học, mềm mại và tinh tế biết bao. Cô bỗng phát hiện ra, mình cũng có những kỷ niệm như thế, những cảm xúc như thế như thế. Nên về sau, cô tìm đọc vì muốn coi người ta viết làm sao để… rút kinh nghiệm sáng tác bài dự thi.

Kinh nghiệm cô có được là câu chuyện nào cũng liên quan tới thời nghèo khó. Nhân vật để lại tình cảm, dấu ấn trong lòng người viết cũng… nghèo. Cô bạn hay gặp thầy giáo làng, hơi già, khó tính, nhưng thương học trò hết lòng, thấy những ngôi trường làng, vách lá bàn xiêu, gặp cảnh cả nhà nhường nhau củ khoai lùi, giề cơm cháy, con cá sặc kho. Và những bà mẹ thường gầy gò, tần tảo sớm trưa, mặc áo rách để nhường con tấm áo lành, nhịn ăn để dành cho con bữa sáng.

Cô bạn có một thắc mắc, “vậy những bà mẹ giàu không thương con sao?”.

Có chứ, mẹ nào mà không thương con, hết lòng vì con, hy sinh vì con. Nhưng sự thật là người đọc hiếm khi gặp nhân vật bà mẹ giàu có, no đủ. Cũng như hội văn bút xưa rày hay liếc xéo anh doanh nhân, dòm nghiêng ông quan chức, chỉ người nghèo, nông dân là được nhìn thẳng thắn, âu yếm.

Hôm đó quán cà phê vắng khách, tôi không trả lời, chỉ cười, biểu, “vậy thì bồ viết về bà mẹ giàu đi”.

Mắt cô bạn sáng rỡ, ờ hén, bài của tui sẽ lạ lắm đây, Ban giám khảo đọc chắc hết hồn. Để rồi vài bữa sau, gặp nhau, cô bạn tiu nghỉu, khó lắm, nhỏ ơi”.

Chúng tôi (tức tôi và cô bạn) biết bà mẹ giàu cũng thương con, như những bà mẹ nghèo. Nhưng viết rằng “sáng nào mẹ cũng dẫn tôi đi ăn ở quán bà Ba Bánh Tầm, mẹ gắp xíu mại cho tôi”, hay “biết tôi học khuya, mẹ khuấy cho tôi ly sửa hột gà béo ngậy”, hoặc “mẹ bấm bụng cho tôi đi học ở trường Quốc tế ở sài Gòn, để đêm đêm mẹ xót xa, thương con mình thui thủi”… không làm trái tim người đọc run rẩy. Dù có làm theo mách bảo trên tờ báo nào đó, cách “cho con ký ức đẹp”, nhưng bà mẹ giàu cũng chỉ đơn điệu là trò chuyện, lắng nghe, để lại lời nhắn trên giấy, ôm ghì, tham khảo ý kiến của con… Những bà mẹ nghèo thể hiện tình thương nhọc nhằn hơn, người viết dễ sáng tạo, người đọc dễ mũi lòng hơn, thí dụ như bà chui vào bếp để luộc cho con mấy trứng chim vừa lượm được ở bờ sậy, bà lọ mọ móc sình nắn trâu, nắn máy cày, bà cõng con qua những đoạn đường bùn lầy để đến ông bác sỹ già, với cái ống chích lụt nhách.

Và cô bạn tôi cũng tham gia cũng thi “tự kể chuyện mình” bằng bà mẹ nhà… kế bên. Rất dễ dàng, như đám học trò bây giờ buộc phải tả về mẹ y trong… văn mẫu. Cô chỉ bồn chồn một lẽ, lỡ bài được đăng, cô cũng không dám khoe với mẹ mình. Bà sẽ buồn cho coi. Ở vậy sống vì con cả đời, quan tâm con từng chút một, vậy mà con gái lại đi vay mượn mẹ của người để nói tiếng thương yêu, chỉ vì mẹ ruột có… tiệm vàng. Cô chữa thẹn với tôi, cũng là trấn an mình, người ta cũng không hoàn toàn viết từ chuyện thật. Biết đâu, họ cũng vay mượn kỷ niệm nghèo khó của người đời.

Bà mẹ giàu có quyền buồn. Nhưng tôi bảo với cô bạn không sao đâu, tấm lòng hiếu kính của con đối với mẹ, không nhất thiết bày lên trang viết, không nhất thiết phải nói bằng lời. Là mẹ, ắt hiểu.
Chiêm mộng
Tản văn

Nguyễn Ngọc Tư
1.
Một dạo chiêm bao toàn thấy vía mình… chạy. Thấy mình lao đi trên những con đường ngoằn ngoèo, chân vướng dấp dúi vào những bờ cỏ dày mịt, chằng chịt. Mặt mình bị những tay chuối khô quất vào, rát buốt. Mặc kệ, mình hồng hộc luồn lách qua những liếp chuối, phóng vút qua những con kinh, ngoi ngóp lội qua dòng sông dập dờn những giề rau muống. Cuộc chạy trốn bời bời trong một thứ âm thanh câm lặng. Trong bụng hãi hùng bởi ý nghĩ, có một… bà khùng đang rượt đằng sau. Nhưng chẳng thấy bóng ai, riêng mình chạy và chạy. Điên dại. Rã rời.
Tỉnh giấc nghe đôi chân mỏi nhừ. Tỉnh giấc, nhớ ra những tháng ngày qua mình sống chẳng ra sao, không làm việc gì có ý nghĩa. Gió chướng thổi bồn chồn ngoài cửa. Dường như ngọn gió này đã buộc mình chạy hoảng loạn trong mơ.
2.
Lại chìm vào mộng mị. Lòng đinh ninh là mình đang đi, nhưng chỉ thấy chấp chới chiếc ba lô nghêu ngao trên những đồng cỏ vàng. Thấy chen vào đám đông, gào thét tên những đôi bò đua chạy lồng lên trên mảnh ruộng còn xem xép nước. Tránh nước bùn đang văng trắng xóa, mình nhún chân một cái nhảy lên… đỉnh núi cao, mịt mù mây trắng, trơ trọi giữa bốn bề biển xanh ngằn ngặt. Hoa nở xập xoè tựa bướm. Bỗng nghe lạnh buốt chân, như đang đi qua mấy con đường rêu phủ, như đang bước lên thềm của những toà thành hoang phế. Đâu đó, bồng bềnh trôi những tiếng chuông chùa binh boong.
Vía tôi hay phiêu lãng trong cái ba lô cũ kỹ, bạc màu. Tỉnh giấc bồi hồi rất lâu. Lục lọi trong mớ ký ức rối bù, dường như bữa trước có người bạn rủ tôi đi dọc miền biên giới chơi. Tôi bảo không đi, mắc công chuyện quá. Tôi nói rất nhanh như một chuyện đương nhiên và không hề có cảm giác tiếc nuối. Tôi không kịp nhận biết là mình khao khát được đi chuyến đó, và vùng vẫy tuyệt vọng vì những mối vướng bận chằng chịt của cuộc đời. Ngay từ khi mới chớm cựa mình, những ước mơ đã bị tôi vùi lấp.
3.
Tôi hay bận lòng vì những giấc chiêm bao. Những cảm giác không thể rũ bỏ khi tỉnh giấc. Là nỗi thất vọng, chưng hửng sau mơ thấy vía mình là một ông vua, một mình diệt ác trừ gian, chém đầu mấy tên cà chớn nhiểu nhương giữa đời, chẳng gặp phải thứ ô dù nào ngăn trở. Những giấc mơ đó ngày càng dày, cùng một nội dung, chỉ nhân vật bị kết tội là thay đổi. Là tâm trạng nhẹ nhàng, xốn xang, ngộ nghĩnh khi vía thụi gảy răng một gã mà hằng ngày mình phải cười cười vâng dạ, một cũng thưa anh Hai, hai cũng thưa anh Hai; lúc khác lại thấy vía cột tóc sừng trâu, vừa mút kem vừa nhảy dây trên mảnh ruộng quê nhà; nhiều khi, trong mơ mình ca một bài tình, sến thiếu điều chảy nước, nghêu ngao lạc giọng trên đường, như người đời biến mất rồi, chẳng ai nghe…
Tôi bận lòng, vì khi chiêm bao lại có cảm giác mình sống thật. Hồn nhiên. Ngay thẳng. Nhưng nghĩ kỹ thì hơi… ngược ngạo. Đời dài thăm thẳm, nhưng vẫn chưa đủ cho tôi sống nên phải mượn chiêm bao để tiếp tục làm việc, vui chơi, hy vọng? Hay vì thường sống dối lòng, diễn suốt nên sống thật trong mơ?
Nên khép mắt như khép một màn kịch. Nghĩ tới điều đó, thấy buồn…
May nhờ mộng mị đêm đêm mà những khát khao, những mơ mộng, những yêu thương và sợ hãi mà tôi đã kìm nén, chôn chặt, và vì không có thời gian nên tôi lướt qua nhanh đến mức chính mình cũng không kịp nhận biết bỗng hiện ra, ngời ngợi. Tôi nhận ra mình.
Để còn là mình…
Còn gì khi vẫy chào nhau?!
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

Bình thường, khách đến quê tôi rất vội, thời gian của họ đã phai và rơi rụng theo cuộc hành trình quá dài. Bình thường, khách chỉ có một mong muốn, và mong muốn duy nhất là được đi Đất Mũi, rẻo đất cuối cùng trên bản đồ Việt. Mấy mươi năm đất nước bị chiến tranh chia cắt, với nhiều người, nơi này là niềm mơ ước, là nơi thiêng liêng, là điều tâm nguyện cả đời. Bình thường, đến đó, khách thích ngồi bên cột mốc tọa độ, hay đứng dưới biểu tượng con tàu có chữ “Mũi Cà Mau” để… chụp hình. Quãng thời gian còn lại không dài, chỉ đủ khách ăn bữa cơm với cá dứa, cá nâu, nghe mấy cô phục vụ nhà hàng ca vọng cổ, làm vội mấy câu thơ, bẻ vài trái đước, trái mấm, hay nắn cục đất bỏ túi, thì tàu về lại thành phố đã réo còi.
Bình thường thì tôi, một người bản địa, kiêm hướng dẫn viên bất đắc dĩ nhìn cảnh ấy thấy lại mình, đã từng đi năm sông bảy núi, rồi thì ký ức sạch trơn. Không thể nói biết Hội An, khi chưa đặt chân qua bên kia bờ sông Hoài, không thể nói biết Sài Gòn, Hà Nội khi chỉ quanh quẩn năm ba dãy phố, không thể nói biết Quảng Ninh khi chỉ vòng vèo vài nẻo Hạ Long. Và bình thường, những lần đi cùng khách, tôi hay buồn, vì nghĩ, mai kia tấm hình phai màu, câu thơ không còn nhớ, trái đước héo khô rồi, cục đất thì tan thành bụi vụn, cái gì thuộc về quê tôi còn lại trong lòng khách ? Nhợt nhạt. Mù mịt.
Chị không thuộc về chuỗi bình thường mà tôi gặp. Chị ngạc nhiên khi tôi gợi ý đi Đất Mũi, chị hỏi “Ở đó hay lắm hả ?”. Tôi cười cười, “chỗ đó ai cũng muốn tới”. “Vậy nơi nào trên đất này mà em muốn đưa tôi tới ?” Chị hỏi.
Câu hỏi đó làm tôi sướng ngây ngất. Nhiều nơi lắm, chị ơi, tuyệt nhiên không có núi cao, hồ thẳm, không hoa thơm cỏ lạ. Nhưng có đến đó mới thật là biết đất quê tôi.
Và cả hai người đã không phụ lòng nhau. Từ lúc cùng giong ruỗi trên chiếc xe máy, chưa bao giờ mắt chị tắt ánh nhìn bỡ ngỡ, môi chị luôn đậu nụ cười, gương mặt chị lúc nào cũng như đang say. Chị luôn chắc lưỡi hít hà, khen quê tôi đẹp. Tôi không mảy may nghi ngờ rằng chị nói chỉ để xã giao.
Ra đi từ những sớm tinh mơ và trở về lúc chiều phai, cuộc hành trình của chúng tôi nhẩn nha, không vội vã. Chị trầm trồ tại sao con đường nào cũng có con sông hoặc con kinh rượt đuổi, trông theo mình. Chị bắt dừng xe chỉ để ngắm những bông lau nở trắng xóa hai bên đường, chỉ để leo lên cây cầu ván chụp hình mấy đứa con nít cất vó dưới kinh. Chị nằng nặc đòi xuống xuồng be chín, tay dầm lóng ngóng bơi đi trên con rạch rập rờn những lá bông súng nhỏ. Chị thú vị với từng chi tiết của chiếc ghe bán hàng bông, phát hiện ra tất cả vật dụng đều được thu nhỏ, cả con chó cò cũng nhỏ. Chị ngẩn ngơ hỏi tên những bông hoa dại tím ngằn ngặt bên sông, chị ghi chép, có khi vẽ cả hình, cái lu bụng tròn, còn khạp thì thẳng đuột, cây mác vót nhỏ hơn dao yếm, lại có thứ nhỏ hơn mác vót gọi là dao trầu.
Đi xe chán, tôi đưa chị xuống tàu. Chị hỏi tên tất cả con sông, tôi kể một hồi, chị kêu lên, tên sông cũng hay ghê, những Gành Hào, Bảy Háp, Ông Đốc, Cái Tàu… Trong cơn chuếnh choáng, khách thích nếm vị nước của từng con sông, ưa bồn chồn ngó qua thành tàu, giọng như reo bởi phát hiện một điều ngộ nghĩnh, “hình như trên đất này, mọi thứ đều động đậy, nhúc nhích. Sông ở đây cũng náo nhiệt, cũng đông đúc hơn những con sông miền Bắc, miền Trung mà chị đã đi qua”.
Trong cuộc đi về xuôi ngược khắp xó quê, tôi hay bất chợt ghé lại những ngôi nhà bên đường, viện cớ xin ly nước mưa đỡ khát. Và những cuộc gặp gỡ đã xảy ra (như mong muốn), những nhân vật bình dị không tên đã làm nên điều kỳ diệu, để nhớ đằm sâu trong khách phương xa. Một bà cụ đã vào tuổi chín mươi lại liệu như hát, hễ giật mình là buột miệng, “Ý đ… má mầy ra ba hồn bảy vía…”. Một em nhỏ quên chào người lạ vì bận hì hụi trên đất dùng chai sành lăn cho láng… nền nhà. Một đứa bé mới mười tuổi đầu mà thơm thảo, đãi chúng tôi món cá lóc nướng rơm, khoái chí khi thấy khách (lớn đầu mà khờ) không biết ăn theo kiểu miệt vườn, vầy nè, dễ ợt, chỉ là bẻ miếng cá nóng hổi cặp với lá chùm ruột non chấm muối ớt. Một cô gái đen giòn mắt ngước nhìn ti vi mà vẫn thoăn thoắt bó chổi rơm như thể tay cũng có mắt, thẹn thò khi hỏi tới chuyện chồng con, “em xấu ỉnh, ai mà thương”. Những anh con trai cục mịch, lầm lì, nói chẳng ra câu cụt câu què mà khi cất giọng ca bỗng trở nên đắm mê, ngọt ngào, lãng tử… Mỗi lần nắm níu từ giã, mỗi lần nghe bà con nhắn vói theo “Đi mạnh giỏi cháu ơi, cho gởi lời thăm hết thảy bà con ngoài đó” chị xao xuyến níu vai tôi, đất này, mỗi người là một kỳ quan.
Chị không thấy đằng trước, tôi hớn hở đến nỗi cười không khép miệng được. Trời ơi, sao lại có người đồng cảm với mình đến vậy. Gọi tên những miền đất đã đi qua, tôi cũng hay nhớ người ở đó, trước tiên. Những con người sống động trên cái nền phong cảnh đã mờ nhoè.
Chị không biết tôi cảm kích, tự hào biết chừng nào khi tiễn chị về, khi vẫy tay chào, khi chuyến xe chở người - khách - không - bình - thường đi khuất…
Hành trang của chị không có cục đất, bài thơ, hay tấm hình… Chị nói, chị đến với mảnh đất nầy không phải vì muốn ghi thành tích. Đến để hiểu biết, và yêu.
Quá hay !

Láng giềng một thuở…
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư
Sớm mai cầm chổi ra quét sân, thấy cửa nhà hàng xóm mở toang, đằng trước sạch bong, chị lấy làm lạ. Bên ấy thường chỉ hé cửa lúc sắp trưa, và cái cửa chỉ mở đủ cho một người lách qua là dấu hiệu duy nhất cho biết cả nhà họ đã thức dậy. Đấy là hình ảnh duy nhất, còn âm thanh duy nhất là tiếng nhạc lúc chói lói, lúc rền rền. Ít nghe người nói cười. Họ sống im lìm, mờ nhạt và khép kín.
Nên có gì đó thật khác thường, bỗng dưng bên căn nhà chung vách giòn tan, rầm rập tiếng trẻ con chạy giỡn. Cầm chổi ngó nghiêng, gặp một người phụ nữ lạ hoắc, chị ta nhoẻn cười, xởi lởi, “dì Sáu em đi Mỹ chơi rồi, vợ chồng em ở trong quê ra giữ nhà dùm. Chế thứ mấy ? Em kêu cho tiện…”. Vậy là quen nhau, chị bồi hồi khi nghe người phụ nữ gọi “chế Ba à, chế Ba ơi…”, bồi hồi vì mình có thể nhanh chóng thân thiện với người mới gặp. Như thể nghi kỵ, dè dặt chưa từng là thói quen. Chị hớn hở vào bảo với chồng, nhà kế bên tạm đổi chủ, mắc cười lắm, dân nhà quê.
Nhà quê chính hiệu. Điều đó mà chị thấy yêu họ, thấy thú vị, vui vui. Dù đôi lúc cũng bực mình. Chị ghét cảnh những buổi chiều gặp chị vợ cùng hai đứa trẻ ra đằng trước ngóng trông, hỏi chờ gì, chị ta ngỏn ngoẻn cười, “em đợi ảnh về ăn cơm”. Chị cau mày, bỏ vô nhà, lòng nghĩ, đói thì cứ ăn, chờ đợi chi phiền phức, cầu kỳ. Rồi cho thằng con ăn xong, nó cặm mặt vô ti vi, một mình ngồi trước bữa cơm, nghe bên vách chén đũa khua trong tiếng nói cười rôm rả, cả tiếng cạo cơm cháy cũng vui, chị thẩn thờ nhớ chồng giờ nầy chắc đang lu bù với khách.
Có láng giềng mới, chị phát hiện ra bức vách ngăn giữa hai nhà quá mỏng. Nên họ nói cười, cãi cọ… cứ sôi lên như đang ở nhà chị. Họ mở cải lương suốt ngày, toàn những vở hương xa trước và hồi đầu giải phóng, ca từ trong vắt, mùi mẫn. Chị nghe cả tiếng anh chồng vỗ đùi khi Minh Cảnh xuống mùi, còn chị vợ thì ấm ức đòi vặn cổ một nhân vật nào đó ngăn trở mối tình lâm ly của Minh Vương - Lệ Thủy. Cao hứng, chồng còn ca vống lên, làn hơi ấm và mộc mạc như đất. Những trưa, vợ cũng hay dỗ con ngủ bằng những khúc vọng cổ không đầu cuối, nhớ tới đâu hát tới đó, giọng hơi khàn, thỉnh thoảng đứt quãng, nhưng rất ngọt ngào.
Có láng giềng mới, chị phát hiện ra mình hay bị… ngạc nhiên. Toàn vì những chuyện đâu đâu. Hàng xóm làm chị thẩn thờ, cười trừ khi hỏi nhà ở cuối đường ai vừa chết ?! Vợ hàng xóm trố mắt, “Chung xóm mà không biết, ngộ vậy?”. Sáng sau, khi vẹt cửa chào nhau ngoài sân, chị đã có đầy đủ thông tin về người quá cố. Vợ hàng xóm còn thắc thỏm, “lát nữa, cơm nước cho mấy đứa nhỏ xong, em đi giùm đám. Tội nghiệp, nhà họ ít con cháu nên bếp núc không ai lo…”.
Chị ngẩn ngơ. Và ngẩn ngơ là cách duy nhất chị có thể làm khi hàng xóm bưng cho tô bí hầm dừa “ăn lấy thảo”, khi mùi tóp mỡ kho quẹt dậy động sang, khi chị qua nhà họ chơi, ngó mớ rau luộc chấm tương kho trên mâm cơm ban chiều. Khi nhìn con châu châu thắt bằng lá dừa đã khô quắt mà đám trẻ nhà họ cho thằng con chị, khi thấy chúng chơi trò trốn tìm cùng nhau, chị vui muốn khóc, ngó con mình xa được cái ti vi, nhễ nhãi mồ hôi, hăm hở, “Năm, mười, mười lăm, hai mươi…”. Lẫn trong giọng trẻ con là tiếng chim cu gáy gù gù, chị vợ bảo, “Ảnh đem con cu cườm này ra cho đỡ nhớ nhà…”.
Gặp nhau trên vuông sân những buổi mai, mỗi ngày hỏi vài câu, chị biết vợ chồng nọ cũng nghèo. Nhà lá, nền đất, ruộng ít, vườn hẹp. Ở chợ nhưng nhìn mưa rơi hay thắc thỏm, “kiểu này chắc chìm đìa…”. Anh chồng thường phải đi đi về về để trông nom nhà cửa. Và khi bọn trẻ đem cho trái dừa khô đã gọt láng o, mớ mồng tơi non mởn, hay mấy củ khoai mì, khoai lang, củ chuối đã luộc sẵn, chị biết bên ấy có người vừa từ quê ra. Biết nhau chỉ đôi ba tháng mà như đã một thuở là láng giềng gần.
Hàng xóm cũ vẫn chưa về. Căn nhà ấy vẫn mở rộng lòng, nhưng mỗi lần nhìn sang, chị thấy thót ruột vì nghĩ tới cái ngày người chủ cũ quay lại.
Khi ấy, nắng đã vắt qua nửa mùa. Chị cầm chổi ra sân quét lá, nhìn nhà bên cửa đóng then gài im ỉm, nghe thương nhớ ngùi ngùi…
Còn người…
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

Thương tặng người có số điện thoại 09xxx28023

Liên tục cả tuần Cà Mau mưa dầm dề. Đêm ấy mưa như trút nước, trời vần vũ. Không biết vì trời hay tin bão gần liên tục xuất hiện trên truyền hình, mà nhói như bị mưa xoi vào lòng. Một mình đón xem bản tin cuối ngày, ông nhắn tin cho tôi “Neu chu co he gi… thi tin nhan nay thay cho loi chao chau nhe !”.

Tôi lặng người, bất giác hãi hùng nghe như bão ở quanh đây. Nghe như một người thân thuộc vừa từ biệt mình.

Mà nào tôi đã biết tên ông. Trao đổi tin nhắn trên điện thoại, có bữa, ông xưng “chu Thanh”, tôi không rõ là Thanh, Thành, hay Thạnh ? Nhà ông ở Quảng Nam, hay Đà Nẵng, nơi chút nữa đây tâm của cơn bão dữ sẽ đi qua ? Tôi không nhớ, dù đã hỏi đôi lần. Chỉ biết ông hay nhắn những lời động viên nồng ấm, trìu mến vào lúc tôi gặp khó khăn. Chỉ nhớ ông là người làm thơ, vì những tin nhắn bằng thơ của ông thường rất dịu dàng.

Nhưng lần này, tin nhắn không phải thơ, lại không thăm hỏi ân cần, mà nghẹn ngào như một cái vẫy tay, như ai đó quay người, đi khuất. Tôi nhắn lại, và tuyệt vọng vì nghĩ, ông không thấy được nụ cười khích lệ (rắn câng) của mình, “Đừng nói vậy chú ơi. Sẽ ổn thôi mà. Miền Trung cố lên!”

Vùng đất đó, tôi đến chỉ một lần, nhưng thương lâu vì thấy trên cát trắng nóng rẫy mà cỏ vẫn mọc, nhọc nhằn. Thương vì ba tôi vẫn thường hay ước được về xứ Quảng tìm cội nguồn, gốc gác, tổ tiên, tìm lại cái nơi mà ngày xưa ông cố, ông sơ rớt nước mắt ngoái nhìn lần cuối, trước khi dắt díu bỏ xứ vào lập nghiệp ở cuối trời Nam. Thương vì người ở đó hiếu khách, thật thà, sâu sắc, những anh K, chị M, anh X, anh T… Vì một người phục vụ quầy bar ít nói, nhưng để nhớ đằm sâu khi thuần hậu bảo “con nhỏ (ma) dễ thương lắm, em ơi”. Và vì ông, người gởi cho tôi những dòng tin “Cố lên, cháu nhé… Sóng gió rồi sẽ qua…”.

Tôi không biết ông có gầy gò, dầu dãi như những người miền Trung lưu lạc đến xứ tôi, dầu dãi, gầy gò? Tôi không biết giọng nói của ông có ấm áp như lòng ông, như những dòng tin của ông? Bản tin cuối ngày qua lâu rồi, tôi ngồi nghĩ về một người xa mà gần, chưa gặp mặt mà như thân thuộc, và xót xa nghĩ, hẳn ông yêu quý tôi lắm nên gửi những dòng tin ấy, trước bão. Nhưng tôi đã làm gì để được đối xử tử tế như vậy, để được nhận những lời này “Chu da nho mot nguoi ban: Neu chu di chong bao ko ve thi gui tang chau tap tho chua gui in! Chau doc chac se vui.”

Không có thêm tin nhắn nào khi bão đến. Rồi bão đi. Mở ti vi xem bản tin sáng, ran ngực khi thấy khúc ruột miền Trung điêu tàn, xơ xác. Nhà ông ở đâu trong số những ngôi nhà đổ nát? Ông ở đâu trong những người nét mặt còn in đậm vẻ kinh hoàng, ngơ ngác, phờ phạc, đau khổ kia?

Đến trưa thì lại được tin ông, âm báo của điện thoại như reo lên, “Tot roi chau oi. Chu da tro ve nha binh yen…” Tôi nhẹ nhỏm cười một mình, ôi miền Trung…

Ở nơi bão vừa đi qua ấy, có người đang khóc cho nguời, cho mình, có những con đường đã tả tơi những hàng cây, những khu phố, những di tích tan hoang, những con tàu chìm trong nước… nhưng tôi vẫn thấy sức sống lung linh bởi còn người, nhiều người, những anh T, anh H, chị V…

Và còn ông. Tôi còn có thể đọc một bài thơ nào đó mà lòng không đau …
Của mình, của người
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

1
Những lần làm việc đến nửa khuya, lúc đặt lưng xuống giường mới hay đã quá giấc, đành bấm bụng đếm đêm bao nhiêu dài. Nằm chờ cơn buồn ngủ tới, tiếng nhạc từ đâu vẳng lại, xao xác. Có lúc nghe gần, thủ thỉ như chỉ cách một tấm vách, có lúc lại xa xăm như tận cuối đường. Tôi nín thở. Có cảm giác nhạc hay đến mức còn chút xíu nữa là… chết (nếu chết là giới hạn cuối cùng). Ngạc nhiên quá chừng, những bản nhạc bolero bình dân, cũ sì bỗng dưng buộc người ta phải phung phí cảm xúc. Bữa sau, tôi lọ mọ ra tiệm bán băng đĩa khi họ mới vừa mở cửa. Chủ tiệm là người quen, trố con mắt khi tôi hỏi có “Xóm đêm” không ? “Đồi thông hai mộ” ? À, cả “Kiếp nghèo”, “Chuyến xe lam chiều”… Hớn hở na mớ đĩa về, mở máy và nghe… lãng xẹt. Ngờ ngợ, đến khuya mở lại, quả thật không hay như đã từng nghe lóm đêm đêm. Cảm giác dường như thiếu một chút hiu hắt, một chút rầu rĩ, một chút mộng mị, một chút xa vắng… Vừa tắt nhạc nhà mình đi, thì má ơi, đằng xóm vẳng lại “mưa rừng ơi mưa rừng, hạt mưa nhớ ai mưa triền miên…”

2

Cũng nhi nữ thường tình, tôi rất sợ gặp người xinh đẹp, trắng trẻo, chụp hình chung với họ còn khủng khiếp hơn. Cảm giác mình như cục than tèm lem đứng bên đống tuyết. Còn lại một mình, tôi cứ đứng trước gương, nghĩ về làn da trắng như nước cơm vo, mà đau nhói bên sườn. Một bữa (lịch sử) trong đời, tôi vào vai… cô dâu, người của tiệm trang điểm tô vẽ xong, tôi muốn khóc. Thì ra tạo hóa cũng khéo lắm, nên phối cái mũi này, cái miệng này, mắt này rất hợp với màu da ngăm ngăm này. Nên nhìn mình trắng trẻo trong gương như đang đeo mặt nạ, vô hồn…

3

Chơi nhà bạn, thấy họ nuôi con chó Nhật, lông dài, óng mượt, thả từng lọn, mong manh, đỏng đảnh như một tiểu thư. Ra khỏi nhà bạn, nhưng lòng còn lẩn quẩn ở đó. Ám ảnh bởi bộ lông, tôi quyết lùng mua bằng được con chó xinh đẹp giống như của bạn, khốn khổ, phải đánh đổi cả tháng lương. Hể hả mang cô nàng về, bỗng hoang mang, con vật chỏn lỏn, rời rạc, không ăn nhập gì với ngôi nhà bụi bặm, lộn xộn, bề bộn của mình. Ngồi thừ ra ngó chó kiểng một hồi, thót ruột nghĩ tới việc phải mua thịt bò cho nó ăn, thấy con vật vô duyên tệ.

4

Và hoa ở nhà người, bèo ở ao vườn người, trang phục của người, sự dịu dàng của người… khi thuộc về mình, lại thấy… sống sượng, buồn cười. Lại thêm một lần vỡ lẽ, “À, ra thế…”. Lại thấm thía bài học có nhiều thứ chỉ nên để ngắm xa xa. Lại thêm một thí dụ về ảo tưởng. Lại hao mòn một ít tình cảm và… tiền (tất nhiên).
Tưởng vậy là quá đắt, nên tiếc hoài, cho đến khi nhận ra, mình đã bớt đi những ham muốn xa vời. Trong lòng luôn có ý nghĩ, chức vụ ấy, ngôi nhà sang trọng ấy, những đứa trẻ xinh đẹp thông minh ấy… chưa chắc thích hợp với mình. Dù của người luôn luôn đẹp…
Bài học của mình, của người mua vài lần, xài tới muôn năm. Rẻ quá…

X – năm một ngàn chín trăm năm xưa

Truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tư


Rúc vào nách một con sông gầy gò chảy cắt qua đồng, X như một đứa trẻ tuyệt vọng níu tìm vú mẹ. Dọc triền sông, cỏ kết dày, từ trên bờ thò xuống nước như đất đang gục đầu gội tóc, những cây bần gie xa khỏi mé sông, những cây sộp rũ rượi xoã chùm rễ nâu, những thân cau lẻ loi đâm thẳng lên trời, vài tiếng gà nhói lên xa xa… tất cả những thứ đó làm cho vẻ mặt của X buồn thiu. Những chiều phai, nhìn ra sông thấy lục bình trôi, lơ phơ mấy cái bông lục bình quá thì, cũng phai như chiều. Ngó ra sau nhà thấy một vạt đồng trũng sâu, ngoi lên mặt nước những bông lúa thưa thớt, xanh xao. Vườn cũ có vài cây vú sữa, mù u rụng trái đầy mặt đất, mấy bụi tre bụi trúc vút lên trời một chòm xanh ngắt …

Trước khi tôi ra đời, X đã buồn thâm căn cố đế. Đến nỗi những người ở X không còn cảm giác để nhận biết buồn nữa. Chỉ khách phương xa mới ngây ngất trước bộ mặt sầu muộn của X. Họ lặng đi. Bàng hoàng. Ngây dại. Và cơn choáng váng đó đã bật lên một ý nghĩ lạ lùng. X sẽ làm du lịch.

Tía tôi trở tính lầm lì ngay từ khi X đón lượt khách đầu tiên. Họ săm soi cái nồi méo mó cháy đen và chụp hình chúng tôi ăn cơm chiều bên ơ kho quẹt mặn chát. Tía tôi nói, giọng nẫu nê, tao muốn chết quá, Đậu ơi. Không giải thích được, tại sao khách lại hớn hở và háo hức khi nhìn thấy những căn nhà cột cặm gió thổi lá mục rơi lả tả, chiếc ti vi đen trắng xài bình acquy làm thót tim bọn trẻ con khi vở cải lương vẫn còn dài mà khung hình đã thu nhỏ lại vì thiếu điện. Những cái cối xay bột bằng đá xám. Những cái vách buồng được đan bằng sậy giập… Tôi cũng khó chịu khi người ta hãi hùng níu vai nhau coi tôi lột da chuột dưới bến sông. Tôi thấy hình ảnh mình – một thằng con trai man rợ trong mắt họ. Tôi ngọ ngoạy. Tôi thắc thỏm. Nhưng suốt một mùa nắng đó, hai tía con tôi chỉ sống nhờ vào tiền bán chuột đồng, nên tôi không làm sao cải thiện được hình ảnh của mình. Tôi nhớ những đứa con trai con gái trong xóm đã ra đi vì nghèo, vì không có việc để làm.

Khi trời trở gió Nam, kéo theo những cơn mưa dai dẳng, tưởng khách chán cái xóm nghèo này, không dè khách tới X ngày càng đông. X lôi cuốn người ta bằng sức quyến rũ của cái nghèo, giản dị đến mức nguyên thuỷ. Nhiều người khách mô tả, họ như rơi tỏm vào một vũng buồn, trong vũng chứa một thứ bùn mát rượi và thơm ngọt mùi đồng bãi.
Những bữa mưa nhiều, khách mừng húm, khoái chí sì sụp lội ra đường. Nhiều người trong số họ đã rất thất vọng khi ba lần trước đến X mà chỉ gặp những đợt nắng đỏ. Xách dép lội trật vuột trên con đường ọp ẹp bùn sình, người này nhờ người kia chụp cho kiểu hình ngoi ngóp. Gương mặt người nào người nấy hớn hở hết biết.

Tía nhìn thấy cảnh đó, ngao ngán lắc đầu. Lại từ giã, nói tao chết à, Đậu. Tôi cười, sức mấy mà tía chết. Từ từ rồi quen thôi, tía.

Quen, như hầu hết bà con ở X bắt đầu quen với những người khách lạ. Họ thôi núp trốn mà để mặc khách chụp hình mình đang nấu cơm trong gian bếp thấp chật chội, mù mịt khói, hay đang hứng nước dột xuống từ mái nhà, hay đi thả câu, soi nhái trong bóng chiều nhập nhoạng. Khách có quá nhiều thứ để giới thiệu X với bạn bè, một chiếc mùng chi chít những miếng vá nhiều màu, mấy cái đèn cóc lụn tim, chiếc giường ngủ ghép bằng thân tre chẻ hai, mắt tre dù đã chuốt kỹ vẫn gù lên, lông chông.

Nhưng ngộ, người đông đúc, lượn lờ khắp X nhưng xóm vẫn buồn. Vài nhà định mở quán phở nhưng rốt cuộc, để giữ nét hoang sơ cho X, họ chỉ được bán bánh dừa, bánh khọt. Điều đó làm tía tôi buồn bực thêm, bữa nọ, ngồi vót tre đan thúng trên tấm đệm rách te tua ngoài hàng ba, vài người khách xăng xái sà vào, kinh ngạc hết hồn khi biết cái thúng kia chỉ bán được chứng mười ngàn, mà trật vuột lắm, lúc bán được, lúc không. Có một chị bỗng ngó tôi, cất giọng thảng thốt, không hiểu sao người ở X ai cũng thấy buồn buồn hết. Làm du lịch, phải vui chớ. Tía tôi cắm phập cây mác vót xuống đất, cười khan, “Vui. Nhưng mà nhục…”. Khách cun cút bỏ đi.

Vì thái độ đó mà tía tôi bị ông trưởng xóm phê bình dữ dội. Chòm tóc thưa của ông chỉ phơ phất ngang vai tôi, tay chém vào không khí liên tục, trưởng xóm nói, “Xóm mình không tài nguyên đất cát gì hết, chỉ sống nhờ du lịch, không kéo khách tới thì thôi, sao anh Hai lại đuổi khách đi”. Tía tôi ngồi im re, không thưa thốt, phân bua gì, nhưng ánh mắt lầm lì, khinh khỉnh.

Khi nắng trở lại ủ X trong màu vàng úa hoang hoải, sự thù ghét khách trong lòng tía tôi càng chất chứa. Tại tía tôi ngang tàng. Mà, cũng do khách không thèm giấu che những ý nghĩ của mình. Những người có quá khứ nghèo thì phơ phởn thấy mình đã thoát được cái nơi (tương tự) như X. Những người chưa từng nếm trải cuộc sống quê mùa thì trầm trồ, thắc mắc nhiều chuyện không đâu, thí dụ như vì sao vài đứa nhỏ ở X chỉ ăn cơm suông, chừng hết cơm mới đụng đến mớ đồ ăn ít ỏi. Người thấy cuộc sống chật chội nặng nề đến đây, bỗng thấy mình ở một tầng lớp cao, thấy ham sống, thấy tràn trề sức lực trong cuộc chen chúc mưu sinh. Phụ nữ luôn có nụ cười rất kỳ lạ, như thể không ngậm miệng được, nụ cười biết nói, “vậy là mình quá giàu so với đám người ở đây”. Đám đàn ông ánh mắt cũng mãn nguyện không kém, “dám chắc là trong ba tháng nữa bà vợ mình không than vãn chuyện lương thấp lương cao”.

Chỉ mấy đứa trẻ là dễ thương. Tôi thích nhìn vẻ thất vọng não nề của chúng khi tới X. Tôi bỏ rất nhiều thời gian la cà ngoài bến, ngó mấy đứa nhỏ giãy nảy, kêu khóc bên đôi giày leo núi và bộ đồ tắm biển thừa thãi. Tôi cười ngất. Nhất là khi ra về, nhiều đứa ấm ức, cằn nhằn :

- Hỏng vui gì hết… Nhìn người ta nghèo hỏng vui gì hết.

Nghe câu đó, tôi vừa thích, vừa thương. Ông trời mà cho tôi thằng con như vậy, dám tôi đội lên đầu lắm.

Tôi nói điều đó với Huệ, đứa con gái bên xóm, làm nghề thắt cào cào bằng lá dừa bán cho khách du lịch. Nó cười buồn, biểu tôi, muốn có con thì rủ con Mận hay con Đèo. Mai mốt nhà nó đã dời ra chợ huyện. Bởi má nó muốn trước lúc chết trong nhà có cái ti vi màu.

Ở X, người ta không cho xem ti vi màu.

Còn tôi thì phải ở lại, vì X còn tía tôi. Và sau vườn, cỏ trên mộ má tôi xanh…
Nhớ nhớ quên quên
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

Tháng bảy năm 1998, lần đầu tiên nó đi xa. Con nhỏ tuổi hai mươi bỏ lỡ cơ hội được ngắm nhìn cảnh lạ, người lạ vì bận… khóc. Nước mắt ròng rãi, mũi dãi sụt sùi. Nhớ nhà. Suốt quãng thời gian chơi vơi trên tàu, bỗng dưng nó thấy mình bất thường, khi không nhớ, không mường tượng ra khuôn mặt của những người thân, dù thương muốn chết. Ngay cả những đường nét trên khuôn mặt má nó cũng không hình dung được. Hình ảnh rõ ràng nhất trong nỗi nhớ nó là tay má có nhiều vết chai, bàn chân má ngắn, ngón cũng cụt ngủn, dưới gan chân nứt nhiều đường rất sâu. Nó nhớ má dùng tay áo để lau bớt mồ hôi bê bết trên trán. Gương mặt ba nó cũng xa xôi, nhưng nó cồn cào nhớ dáng đi ba hơi gù, sợi tóc cứng đờ, lòa xòa như rễ tre, cả cái lưng áo bạc màu của ba cũng sống động, hình ảnh vừa hiện ra trong tâm tưởng đã nghe chếnh choáng mùi rạ mục trộn lẫn trong bùn đất.

Và bạn thân mấy đứa, chỉ có thể phác họa trong ký ức được mái tóc X vàng cháy, da thịt khét lẹt (vì đã từng dang nắng cùng nhau); đôi đầu gối đầy sẹo của Y (trong đó, không vết do nó gây nên cho bạn), câu “nếu có kiếp sau, tao cũng làm bạn mầy” của Z… Nhân diện thì mù mịt. Ấm ức nhất là mối tình đầu, xưa thuộc lòng nét mặt, giờ chỉ còn nhớ được những hàng chữ của anh chàng nọ rón rén, run run trên trang giấy. Ngang qua đám tang nơi xóm cũ, nghe thương xót bùi ngùi cho bà cụ có bàn tay xương xẩu, ngày xưa hay dúi vào tay nó trái khế ngọt, hay củ khoai lùi…
Chỉ những khuôn mặt là lung linh, mơ hồ sương khói trong hồi ức. Cả trong chiêm bao cũng không mong trông rõ mặt ai đó. Dạo ông ngoại nó vừa mất, có lần nó mơ thấy một đôi vai gầy nhấp nhô xương cõng nó chạy lòng vòng sân trước. Bữa khác nó thấy vía mình đứng dưới bến sông, dõi mắt theo chiếc xuồng con, trên xuồng có chiếc đèn nhỏ, chẳng có bóng người nhưng nó biết ngoại nó ở đó.

May thì nhớ được một nét nào đó trên mặt người đời. Ai đó với cái mũi lấm tấm mụn cám, ai đó với nụ cười bẽn lẽn, ai đó với khoé miệng cong cong, ai đó có giọng nói chói gắt, ai đó chửi như hát, ai đó thường thở dài…

Sự cố trục trặc cọng dây… nhớ làm nó hoang mang hơi lâu. Gặp nhau đó, vui vẻ đó, nhưng vừa quay lưng đi nó không diễn tả được khuôn mặt người ấy tròn méo ra làm sao, nó cảm giác như mình đã phụ họ rồi. May sao, nó không mất cảm giác của người với người. Ký ức của nó vẫn đầy, vẫn nồng nàn. Ai đi qua đời cũng để lại một vết nhớ, dù tốt, dù xấu. Không nhớ mặt, thì nó nhớ dáng, nhớ giọng, nhớ tóc, nhớ vai, nhớ mùi, nhớ bàn tay ấm rực đỡ nó lên mỗi khi vấp té… Nhớ nốt ruồi đậu ở cuối mày. Cái chống nạnh hoạnh hoẹ. Con mắt nguýt dài. Nhớ cái cách nó và người đời đông đúc nhìn nhau, nói với nhau, làm gì đó cho nhau.

Có lần, giữa chợ gặp lại đứa bạn xưa. Bạn chận đầu xe, cười hỏi nó có nhận ra bạn không. Nó cười với gã đàn ông bụi bặm, bận cái áo chim cò, quần lụng thụng mười tám túi, râu ria rậm rạp, đôi kiếng đen ngầu ngầu như dân xã hội đen, nó kêu một cái tên nào đó mà chính nó cũng ngờ ngợ. Thằng bạn la lên, trúng phóc, sao tài vậy?

Nó cười thầm, nghĩ mình đâu có hay gì, chẳng qua không nhớ mặt nên nhớ… cái cười khơ khơ khơ của bạn đỡ vậy. Lại may, cái cười của bạn vẫn như ngày trước. Những lúc đó, bỗng thấy vui vui, nhận ra thời gian không đáng sợ lắm, đôi khi thời gian rất lố bịch. Thời gian biến đổi một anh chàng bộ đội mạnh mẽ, gân guốc ngày trước thành một cán bộ bệ vệ, nặng nề, thời gian làm cho con bạn mủ mỉ duyên dáng xưa thành bà cụ cục mịch già nua, nghiệt ngã hơn, thời gian buộc một số người sống quanh nó vĩnh viễn vùi vào đất, nó cũng không bao giờ, chưa bao giờ quên phứt họ.
Chỉ hơi phiền, là nó không còn thích đứng ngắm mặt mình trước gương. Bởi điều đó sẽ là phù phiếm nếu ai đó cũng như nó, nhớ người không hẳn là nhớ mặt người.
Không nước mắt
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư
Chuyện đi đám, với mấy thím ở quê, bao giờ cũng có tổng kết, có dư vị. Tiệc cưới tàn, họ tranh cãi món nào ngon nhất và dư bao nhiêu… mâm. Đám giỗ tàn, họ bình luận con cháu nhà đó về đủ mặt không. Tang lễ tàn, câu chuyện dọc dài trên con đường về là người nhà ấy ai than khóc nhiều nhất cho kẻ vừa nằm xuống. Đám nào nhiều nước mắt, không hiểu sao mấy thím thấy sướng rơn, bàn tán, nhắc nhớ hoài. Bằng ngược lại, sẽ có nhiều thím chắc lưỡi than đám tang buồn (!). Sáng nay, tiễn một người trong xóm về với đất, bước chân ra về, ai đó buông lời than, “…chỉ có đứa con gái, đã vậy, con nhỏ còn không khóc”.
Không, không phải, chị đã khóc trong thầm lặng, khóc mê mãi suốt những ngày qua. Tôi thấy lúc bưng mâm cơm ra mời khách viếng, phía lưng chị rất buồn như ai đó bẻ cong oằn. Tôi thấy chị đứng múc nước mưa bên hè, chiếc gàu trên tay chới với như cái lu không đáy. Tôi thấy chị ngồi lau mớ chén đũa, mắt nhìn mà mắt trống không. Tôi thấy chị lảo đảo khi bước qua chiếc võng xưa cha chị hay nằm. Tôi thấy tấm giấy vàng mã run lẩy bẩy, lém vào tay chị trước khi hóa tro. Tôi thấy tàn nhang rụng trên da thịt nhưng chị không chút phản ứng nào. Tôi thấy chị dựa vào tường để lần đi, đôi khi. Nhưng khoảnh khắc ấy thường rất mau, chị lại tong tả trong bếp, ngoài sân, chị có quá nhiều việc phải làm để tang lễ diễn ra được chu đáo và hoàn hảo.
Cứ mỗi lần hướng mắt về chị, tôi lại thấy nỗi đau hiện lên đâu đó, trên từng sợi tóc rối bung, từng bước chân ríu vào nhau, từng cái chào tiễn khách ra về. Một nỗi đau không được giải thoát bằng nước mắt, và nó đang quặn từng cơn, vò xé, dãy dụa trong lòng người. Tôi nhớ bộ phim Hàn Quốc đã được xem lâu lắm, có một nhân vật nữ bị chồng ruồng bỏ. Trong khi chị đi tìm việc làm để nuôi con thì đứa bé cảm lạnh chết. Nhân vật không hề khóc, nét mặt ráo hoảnh, chỉ ánh mắt hoảng loạn, đau buốt, tối sầm. Và đêm ấy, người đàn bà xõa tóc, bò quanh tấm nệm mà đứa con từng nằm. Thui thủi. Rã rời.
Cảnh phim ấn tượng đến mức tôi đã quên tên, quên câu chuyện phim nhưng hình ảnh người mẹ bị nỗi đau giày vò trong đêm đen buốt tôi vẫn còn nhớ mồn một.
Cái buồn ấy, ngôn ngữ nước mắt không diễn tả được.
Sau này, mở ti vi coi phim, nhân vật khóc lóc, kêu gào, không hiểu sao tôi chỉ thấy… mắc cười. Ai bắt ép mà thoại trong phim ta cứ lải nhải, “tôi buồn quá, tôi đau khổ quá” và nước mắt ràn rụa trên khuôn mặt lạnh trơ. Thêm nữa, là nhân vật không chịu khóc một mình, nằng nặc gục đầu vô vai ai đó, mẹ, bạn bè, và… gốc cây. Dường như diễn viên không tự tin là mình có thể cảm động được người xem. Hay không tin rằng khán giả có thể thấu được nỗi buồn mà mình đang cố gắng diễn đạt. Hoặc, người lấy nước mắt để đo tấm lòng nhau vẫn còn ở số đông.
Như mấy thím mà sáng nay chung với tôi một đoạn đường về. Nhưng không trách được, vì xưa nay họ quen sống thật thà, ruột để ngoài da, vui buồn ra mặt. lối đau lặn vào trong họ không thường gặp. Hay tại lòng người trắc trở khó đoán quá, nên họ chỉ biết vịn nụ cười, hay nước mắt mà thương ghét.
Nhiều khi nước mắt cho người ta cảm giác đúng. Nhưng đó không phải thứ ngôn ngữ duy nhất để bày tỏ nỗi đau buồn.
Tôi vẫn thích không nước mắt.
“sông nhỏ thà đau phận bể khơi…”*
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

Có lần, tòa soạn gọi cho tôi bảo có ông nào ở Sài Gòn bình về tôi ngộ lắm. Hỏi tên hóa ra là Lê, người đồng hương lưu lạc. Lê là bạn tôi, trong những lần chuyển trường xuôi ngược, may mắn, tôi học chung Lê một năm lớp mười. Rồi chia tay, rồi lâu lâu có thấy nhau, thảng thốt vì vẫn còn cảm giác bạn bè thân thiết. Rồi bặt đi. Bây giờ thì nói chuyện qua lại trên … trang báo.

Thật lòng, đọc bài trao đổi của Lê, tôi nghĩ ngay, văn mình không hay đến nỗi ông bạn tấm tắc, chắc lưỡi. Chẳng qua những gì tôi viết đều khơi dậy nỗi nhớ quê (không loại trừ cái tên tôi thôi là đã nhắc nhớ một phần của quê nhà rồi, chớ giỡn). Những dòng sông, con nước rong tràn bờ bãi, về những ngọn gió lay lắt, những con đường cũ kỹ và những gương mặt người… Mỗi hình ảnh là một lát cắt cứa lòng, mỗi hình ảnh là một tiếng trống dội tưng bừng trong tâm tưởng.

Tôi tin là quê nhà trong Lê vẫn còn đầy, dù Lê ra đi đến hai lần. Lần đầu, Lê học Đại học, rồi ở lại Sài Gòn làm việc. Được chừng hai năm, Lê hớn hở về. Năm sau, Lê lại đi xa. Ngày Lê đi là một ngày nhẹ nhỏm, chẳng thấy chào từ biệt. Nghĩ lại, Lê đã từ giã tôi rồi, trong những lần bất chợt gặp nhau, dù không nói bằng lời. Lúc nào gặp, Lê cũng đượm vẻ bồn chồn, buồn buồn, căng thẳng, cũng than thở chuyện nọ kia, những chuyện đó luôn xảy ra trong bối cảnh duy nhất: cơ quan mà Lê làm việc. Đại khái chỗ ấy chia làm năm ba tầng, lớp, tầng trên cùng là mấy chú lãnh đạo, tốt tuyệt vời. Nhưng bắt đầu từ tầng thứ hai thì tầm nhìn chen chúc. Người ta gạt tài năng ra rìa, sôi sùng sục, tính toán, vặt mắc, hãm hại nhau (cốt để được ngoi lên). Hai từ “cạnh tranh” mang ý nghĩa như “dìm cho nó chết”, “đạp đổ”. Lê đa cảm (thì dân viết lách ai chẳng vậy) mang một tâm hồn đẹp, trong vắt, chung đụng với cảnh đó hằng ngày thấy chật chội, hoang mang.

Buộc phải bỏ quê, tôi vẫn nghĩ đó là nỗi khổ lớn của đời người. Nên tôi mừng lắm khi thấy Lê viết nhiều, hay xuất hiện trên báo, giọng điệu bình an, thơ thới và chín chắn. Đồng nghiệp tôi ngồi với nhau, khen, Lê viết ngày càng lên tay.

Trong những người uống trà sớm ấy, vài người đã từng nằng nặc biểu Lê đi (tạm gọi là phe đi), vài người muốn giữ chân Lê lại (gọi là phe ở, trong đó có tôi, được thấy Lê trên đường mỗi sáng chiều, và cảm giác Lê vẫn còn gần xịt bên mình thì thích hơn). Phe đi mừng húm, nói Lê có môi trường sống tốt mới viết tốt như thế. Phe ở nẫu lòng, tại sao tại quê nhà, cái tổ của con chim, cái kén của con tằm…Lê không tìm được cảm giác an lành và vui vẻ đó? Tại sao? Tại sao? Câu trả lời dường như đã có trong lòng, chỉ là không buộc miệng nói ra.

Buổi trà sáng ấy đắng hơn mọi ngày.

Rồi liên tiếp những buổi trà đắng. Liên tiếp những cuộc từ biệt, liên tiếp những dòng sông lênh đênh phận bể khơi. Chiều nay, lại thêm một người đi. Đứa bạn làm ở công ty tư vấn thiết kế xây dựng quyết định về Cần Thơ. Cũng nỗi khổ riêng, cứ đi nghiệm thu ở công trình nào đó là có người cười cười vỗ vai, con anh Tư hả, chú với ba con thân lắm nghen, hồi đó nhậu với ảnh hoài. Bạn chần chừ trước những mối quan hệ chằng chịt, có thấy sai phạm, gian dối cũng buộc phải qua quýt cho xong. Đất rộng, người thưa mà chật chội vô phương. Chịu không thấu, lời từ giã buồn bã bật thốt trên môi. Phe ở buồn thiu. Phe đi thoả mãn. Trong những người hể hả ấy, có người thui thủi sống một mình, trong căn nhà trống, đứa con trai duy nhất đang vật lộn làm việc ở Sài Gòn. “Nhưng được ở cùng nhau mà hệ luỵ tới tương lai cuộc đời con nó, thà tôi sống mình ên”, chị nói. Nghe nhói ran lòng.

Những ngày rảnh rổi, tôi ngồi nhớ nhung này nọ, bỗng xốn xang thấy mình có quá nhiều bạn bè đi xa. Như Lê, Võ, Nguyễn ở Sài Gòn, như Hoàng, Diệp tuốt ngoài Hà Nội. Có người long đong ở tận trời Tây.

Đôi lúc, cảm giác như chỉ còn mình tôi ở lại, tựa vào quê nhà để kể chuyện quê nhà. Cho những người xa…
(*) Ý thơ Nguyễn Tịnh Đông
Đăng lần đầu trên Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn
Lên trang này ngày 31-8-06
Nghỉ thề với đá

Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư


Hồi mà câu thề hẹn còn là mốt của những đôi trai gái yêu nhau, đá thường được nhắc đến. Thí dụ như “Chừng nào đá nát như cháo em mới thôi nhớ anh”. Hay “Lúc núi kia sập xuống cái rầm anh mới bớt thương em”. Đối tượng nguýt dài, hơi trề môi, như nói “sức mấy mà tui tin” nhưng trong lòng xúc động rịn từng giọt, như máu. Nhỏ biết cảm giác đó, rất ngọt ngào.

Hồi đó con gái hai mươi tuổi khôn chỉ bằng… em bé lên mười của thời nay. Mộng mị, ngây thơ, thấy lời thề ước đáng tin và cao quý hết biết, bởi nghĩ rằng chẳng có gì cứng cáp, bền vững như đá kia, núi kia.

Sau này, té ngửa ra, chẳng có gì là vĩnh cửu, đá không, núi cũng không. Những bài giảng từ trường học vẫn mới, nhưng vì mơ màng quá nên nhỏ quên rằng đá cũng có tuổi, cũng sống và chết. Đá cũng đau như người, có lúc không chết vì bệnh tật, vì tuổi già… Những lần rong ruỗi khắp đồng bằng Tây Nam Bộ, nhận ra điều đó, nhỏ thấy hết hồn.
Rồi thấy nhói một cách kỳ cục khi nhìn núi mà cảm giác lay lắt, mong manh. Như đứng trước một nhánh liễu muốt, một bông hoa bắt đầu phai, một chiếc lá úa trên cây. Mùa trước ngang qua, núi còn cây cỏ xanh rì, mùa sau thấy núi toạc ra từng mảng lớn, đá trắng trơ xương. Mùa này, thấy núi còn cao vọi, mùa sau núi thấp tè. Mùa này, có núi còn đứng trọc lóc giữa đồng, cao hơn mấy cây thốt nốt một chút, mùa sau không còn thấy núi đâu. Chỉ những nhà máy ximăng thả lên trời những đụn khói đục ngầu.

Nhân nói về khói, sẽ có một ngụ ngôn như sau : Khói mẹ kể chuyện cổ tích cho khói con nghe, ngày xửa ngày xưa, chúng ta là một phần của núi. Khói con hỏi vậy núi là cái gì ? Khói mẹ ngó xuống, bối rối vì không có ngọn núi nào để giải thích với con. Cuối cùng, nó biểu khói con bay ra miền Bắc, ở đó chắc còn núi. Chứ đồng bằng thì láng te rồi. Nhưng khói con làm gì có cơ hội được đi xa, để biết núi là gì.

Câu chuyện hơi cay đắng, bởi người sáng tác ra nó là một người yêu núi khủng khiếp. Yêu mà chẳng biết tại sao. Vì quê nhà toàn nước rạch nước sông, nên thèm núi? Vì cái dáng vẻ cô độc, huyền bí, kiêu hãnh của núi hơi giống mình? Vì đức tin vào lời thề năm cũ? Hoặc yêu tất cả, tất cả những điều đó. Nhỏ thuộc loại người nhìn núi thấy đẹp. Cái đẹp của những tảng đá xanh rêu, của những bông bằng lăng tím biêng biếc giắt trên khe đá, của những con cuốn chiếu núi lớn bằng ngón tay út mà rất hiền. Cái đẹp của cánh đồng chiều lặng phắc, núi thẫm miết vào chân trời, gần đó là những cây thốt nốt xơ rơ, những con bò ốm nhách lười nhác liếm láp cỏ khô, mà sao như núi chỉ có một mình.
Nhưng cũng có người, nhìn núi nghĩ ngay đến việc nung vôi, việc giả nhỏ đá ra để… lót sân. Những người đó cũng đông, cũng chật. Nên núi tàn lụi dần trên vùng đất đồng bằng vốn chẳng giàu có núi, chẳng thừa thải núi.

Nên chẳng có gì là khó hiểu, khi chuyện thề thốt bây giờ ít đôi lứa nào dùng, bởi người ta đã bớt dại khờ, chai sạn sự tin, và bởi không biết vịn vào gì để thề. Ở đô thị, sông đã hoá phố, hoá nhà. Ở nơi heo hút khác, đất lại tan thành sông. Bàn tay con người đụng đến đâu, thiên nhiên ngoa ngoắt biến đổi đến đó. Chẳng biết đâu mà lần. Nên sau này, mốt thề ước có quay lại, con người chỉ có nước lấy… con người ra thề. Thí dụ, thay cho rắn hổ đất (bị đem vô quán nhậu nấu cháo đậu xanh hết rồi) đôi lứa sẽ nói, ai không thiệt lòng cho miệng lưỡi người ta… hại chết luôn. Thí dụ, thay cho núi, đôi lứa nói như vầy, “Chừng nào tham vọng của người ta hạ ngọn, tụi mình mới hết yêu nhau”. Chắc ăn. Sẽ không đôi lứa nào phải lặng đi khi nhìn một ngọn núi qua đời, lời thề xưa nhói buốt…

Đó là kinh nghiệm sống trong những ngày thiên nhiên biến mất. Trước khi con người biến mất…
Lục bình
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư
Quán đẹp, tên quán đẹp, ngó ra dòng sông đẹp. Đằng trước người ta quây rào tre giữ lại một đám lục bình đang trổ bông, cũng đẹp. Tôi đứng nhìn mãi những bông hoa tím co ro trong gió, trong chiều nắng tắt, quặn lòng, như gặp lại người bạn cũ.
Từ dạo con tôm lên ngôi, dài theo những dòng sông quê xứ đã xa vắng lục bình, mỗi khi có dịp đi đâu đó, gặp loại cỏ thuỷ sinh ấy, tôi mừng húm. Có điều, lần này, gặp bạn trong hoàn cảnh trái thường bởi lục bình trong nỗi nhớ, trong giấc mơ tôi lúc nào cũng trôi mênh mang trên một dòng sông nào, xa vắng. Lục bình mà bị cầm tù thì còn gì là lục bình nữa.
Con người ta có tật kỳ cục, chuộng cái đẹp nhưng không biết cách nuôi dưỡng cái đẹp. Hay tại tham lam nên cái gì cũng vơ vào mình. Lục bình, phần nào đó như ngựa ở thảo nguyên, chim trên trời, gió ngoài đồng, hợp với sự hoang dã và tự do. Chỉ long đong cùng sông nước, lục bình mới thể hiện hết bản chất, vẻ đẹp và sức sống của nó. Nên lục bình ở quán bờ sông ấy có lạ, có biếc đến đâu thì cũng không bằng lục bình của những buổi chiều nắng phai, gió cũng phai như nắng. Kẻ ngồi bên sông chờ đò muốn ứa nước mắt. Một ao lục bình không buồn như vậy, một đám lục bình vướng vào đám chà trên sông cũng chưa gọi là buồn, một về lục bình chậm rãi trôi gợi buồn ít thôi, nhưng bụi lục bình duy nhất, với một nhánh bông duy nhất, liu riu thiu thỉu trên mặt sông đầy, thì buồn chết giấc.
Đó là lần đầu tiên tôi phát hiện ra vẻ đẹp của nỗi cô đơn, sưu tập thêm một biểu tượng của cái buồn xứ sở, cùng với khói đốt đồng phơ phất dưới hoàng hôn, cùng với tiếng bìm bịp thăm thẳm theo con nước, bầy đom đóm leo lét trên rặng bần. Một vẻ buồn rất lạ, đằm sâu, nhưng không giam hãm con người, không tù đọng, không cùng quẫn. Cái buồn trãi dài, thông thống, mênh mông, cởi mở…
Có lần đi Kiên Giang, qua phà Tắc Cậu, tôi lại thấy ở lục bình một hình ảnh khác, rất “đời”. Nơi này gần cửa biển, lục bình từ các sông trôi đến dìu dập. Nhưng lạ, bầy đàn đông đúc, mà có vẻ tan tác cô đơn. Hăm hở trước biển khơi mà như dùng dằng nuối tiếc dòng nước cũ. Lựa chọn nhưng vẫn hoài nghi, hoang mang. Hay lục bình chỉ là lục bình thôi, chỉ tôi gởi tâm trạng của mình vào rồi thấy mình là lục bình trôi trôi ngơ ngác.
Tình cờ tìm tư liệu cũ, nghe bảo lục bình được nhập từ Braxin từ những năm 1905, tôi vẫn không nguôi được ý nghĩ trời sinh lục bình từ khi vùng đất này có sông. Lục bình làm sông trở nên dịu dàng, sâu sắc. Dù vậy, nhiều người, trong đó có anh bạn tôi, chê lục bình dở òm, tiêu cực, cam chịu sống đời lênh đênh vô định, không phương hướng. Anh bạn có tật mắc cười, là hay gán lý tưởng, tính chiến đấu cho bất cứ gì, bất cứ ai, lục bình cũng không ngoại lệ. Buồn miệng, tôi cãi chơi, lục bình đang sống theo lẽ tự nhiên, tụi mình dấn thân vào đời, bươn tới những đích nào đó cũng theo lẽ tự nhiên, của con người. Nói đến đó bỗng cồn cào nỗi hoài nghi, người ta sống với tham vọng chồng chất ngút ngất là thuận theo lẽ trời ư?
Và chiều nay, trong cái quán lạ bên dòng sông xa lạ, tôi hơi đắng đót bởi ý nghĩ, con người ta còn tự cầm tù mình bằng những ảo vọng ngông cuồng được thì sá gì đám lục bình hèn mọn này, sá chi con chim trong lồng kia… Thôi, trở vô bàn ăn sướng hơn. Mình cũng bị nhốt như đám lục bình đó, mắc gì tiếc thương cho chúng.
Nửa đời ngơ ngác
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

Lúc rày mưa dữ quá, mưa nhâm nhi, rả rích cả tuần, đứa cháu nhỏ lật lịch, kêu lên, “Ui chao, tháng 7, hèn chi mưa liền tù tì, chắc là ông Ngưu Lang với Chức Nữ đang gặp nhau, dì Út ha?”. Nhỏ cháu lập luận ngây ngô, làm nó mắc cười, bởi nếu có Ngưu - Chức thật, thì lúc gặp lại họ cũng chẳng khóc lóc gì đâu. Xa bẵng nhau, mỗi năm gặp một lần, chỉ sợ ngượng ngập đến nỗi chỉ nói vài câu lạt lẻo, nhát gừng. Trong một năm rất dài đó, mỗi người gặp những biến cố khác nhau, làm những công việc khác nhau với những bạn bè khác nhau, có gì chung đâu mà nói. Yêu thương có cao như núi thì cũng bị mài mòn bởi thời gian, bởi những lo toan thường nhật. Nó vu vơ nghĩ thầm, suýt cất thành lời, nhưng nhìn vào đôi mắt trong vắt của đứa cháu, lại thôi. Ngước mặt nhìn mưa, bỗng nó có cảm giác bàng hoàng, ủa, tôi-trong-veo đã chết tự hồi nào ?
Câu hỏi đó làm nó bần thần cả buổi. Thật khó chịu khi một thứ đã từng thuộc về mình, gắn bó với mình, nhưng rồi nó tan biến lúc nào mình không biết.
May mà còn lại một vệt ký ức long lanh, không ngắn không dài, vừa đủ để nó nhớ rằng, mình đã từng có một quãng đời thơ ngây, mơ mộng, ngông cuồng. Mỗi khi nhớ lại, nó thường buột miệng kêu lên, thời điên. Có điên mới tin mưa tháng Bảy là nước mắt tương phùng; tin vào những truyện cổ tích có cô gái nghèo lấy chồng hoàng tử, hay nghĩ đơn giản nàng Kiều rốt cuộc hạnh phúc với người yêu. Buồn cười, là quãng ấy, nó tốn biết bao nhiêu nước mắt vì thương cho những thân phận người, những chuyện tình trái ngang, lận đận trong… phim. Tệ hơn, là nó tin có ngày Cổ Thiên Lạc sẽ… yêu mình. Vào năm hai mươi hai tuổi, nó còn làm một việc ngông cuồng khác, khi đặt tên cho quyển sách đầu tay là “Ngọn đèn không tắt”. Chắc nụi. Đáng ra phải là “Ngọn đèn chưa tắt” hay “Ngọn đèn sẽ tắt”, bởi chẳng có gì là miên viễn, là bất biến hết (đèn lại càng không).
Dân gian có lý khi ghép từ “dại” đi ngay phía sau chữ “nhỏ”. Phải mất nhiều năm nó mới rút ra kết luận đó. Những cảm nhận của ngày xưa giờ đổi thay ngoay ngoắt. Như thể nó đã sống cuộc đời khác. Nó cười nhạo câu cuối cùng (hay xuất hiện) trong các truyện cổ tích, “hai người cùng nhau sống hạnh phúc đến đầu bạc răng long”. Nó cảm nhận được cái cay đắng tủi buồn khi Kiều về với Kim Trọng, khi nàng đã lưu lạc trầm luân, đã yêu người khác thật lòng, đã tan nát vì chia biệt và đổ vỡ thì làm sao tỉnh bơ sống với chồng của đứa em, người mà mười lăm năm trước có gặp sơ sơ, nói nói cười cười, lấy nước mây ra hứa hẹn, cùng lắm là nắm tay nhau được… một lần. Nó nổi quạu khi nghe kể sau bao năm bị chồng cho người ta… mượn, Châu Long lại cười ngỏn ngoẻn trở về mà trái tim không hề lung lay, thương tổn. Nó nghi ngờ những mối tình xuyên qua kiếp này, kiếp sau, sau nữa, ai mà kiên nhẫn dữ vậy?! Nó nghĩ giá trị của những lời thề hẹn chỉ như chọi cục đá xuống ao bèo. Nó ngờ ngợ khi thấy đôi trai gái đi qua, không biết cuộc tình này được bao lâu, chưa chắc có đám cưới… Nó dửng dưng, nguội ngơ trước những khóc, cười của người đời, bởi cảm xúc vừa nhen nhóm đã tắt rụi bởi ý nghĩ, thấy ngoài mặt cười, khóc vậy, thân thiết vậy nhưng chưa biết lòng dạ làm sao à nghen.
Tất cả những thứ đó cho nó một cảm giác, mình khôn ra rồi. Có điều, cuộc sống dạy chậm rãi quá, nhẩn nha quá. Tốn mười năm, nó chỉ học được vài bài học thí dụ như “không có gì là mãi mãi”, như “đừng mù quáng tin vào cảm xúc” hay “yêu phải để dành”. Nó rất nôn nóng được học nhanh nữa, để chứng tỏ bản lĩnh, sự già dặn của mình.
Bữa nay, nó nhận ra mình buồn quá, khôn mà buồn. Biết nhiều mà buồn. Tỉnh táo mà buồn. Trãi đời mà buồn. Ngoái lại thì thời vui nhất đã bỏ đi lâu rồi, từ lúc hoài nghi lên ngôi.
Nó bỗng thèm được như đứa cháu, nhìn mưa tháng Bảy nẫu nuột mà lòng vui, vì biết cữ này có đôi lứa gặp nhau, trên trời.
Những thiên thần mắc đọa
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

Chiều nào bà mẹ cũng dẫn con ra công viên bên bờ sông, chỗ chị hay tụ tập đánh cầu lông với bạn bè. Nhẹ nhàng đặt đứa bé lên băng đá, mẹ chạy quanh, lúc che mặt cút hà, lúc lại giả đò trợt té. Đứa trẻ bị giảm thiểu năng trí tuệ, nên ngờ nghệch, có khi cũng nhoẻn cười, nhưng ánh mắt dại mông mênh. Chị hay đứng đằng xa, lén nhìn cảnh đó mà xót thương, bởi cảm giác, đang quấn quýt bên con nhưng bà mẹ ấy như cô đơn chơi vơi dưới nắng chiều. Day qua day lại, chị thấy nhiều người cũng ngẩn ra ngó hai mẹ con họ, và cũng như chị, họ giấu giếm cái nhìn của mình, mắt đậu vào bâng quơ. Dường như ai cũng sợ mình sẽ không kềm chế ánh mắt thương hại, như nhát roi quất vào lòng bà mẹ, vốn đã đau.
Bất giác, chị nhớ cái quãng thằng con bị chứng biếng ăn, chị đã mệt mỏi như thế nào. Thằng nhỏ ốm nhom, nhẹ hều, cái đầu to quá khổ so với thân mình đẹt ngắt, nhiều bữa bưng chén cơm nguội ngơ đuổi theo nó hàng giờ đồng hồ, chị khóc ròng. Không hoàn toàn vì thương con, đôi lúc, chị nhận ra, chị đang thương cho niềm kiêu hãnh của mình. Chị còn không muốn chở con ra đường chơi, sợ người ta quở, nuôi con gì ốm nhách.
Xấu hổ vì ý nghĩ đó, chị chậc lưỡi, tự nhủ, người ta ai cũng vậy. Bà mẹ nào cũng mong đứa con mình thật bụ bẫm và xinh đẹp. Không thì cớ gì lúc mang bầu, nhiều bà mẹ treo hình những cô cậu bé béo múp míp trong phòng ngủ (những mong đứa nhỏ mình sinh ra sẽ giống hệt vậy). Không thì cớ gì mẹ phải tần tảo dành dụm mua sữa Pháp, sữa Mỹ với hy vọng nhỏ con mình ú quây y như… quãng cáo trong ti vi. Không thì cớ gì một vài người giữ trẻ bất lương đã cho thuốc tăng trọng vào thức ăn, để đám trẻ vùn vụt tăng cân, vừa được tiếng thơm vừa thoả mãn lòng hãnh tiến của những bà mẹ.
Chị nhớ hồi nhỏ mình cũng xấu đau xấu đớn (bây giờ thì đã bớt xấu chút đỉnh), hẳn má buồn lắm. Hỏi má, má cười, đẹp không phải là niềm tự hào duy nhất. Má vui vì chị bốn tuổi đã biết đọc sách báo, năm tuổi đòi quét nhà, sáu tuổi biết lon ton xách thùng tưới rau… Má nói, miễn con mình là đẹp. Chị không tin.
Nhưng nghề báo đã đứa chị đi nhiều nơi, gặp nhiều người. Có lần, chị đến T, vùng đất nghèo, xơ xác những di chứng chất độc màu da cam. Hoàn cảnh có khác nhau, bọn trẻ cũng mang dị tật khác nhau nhưng những bà mẹ trong xóm thì có chung ánh mắt, ưa nhìn xuống, lầm lũi, tủi cực. Cái cười cũng rụi ngọn từ khi đứa con ra đời, héo hắt khóc trên tấm khăn. Có đứa nguyên vẹn đến năm, mười tuổi, mẹ vui được quãng đó, rồi một bữa con nhìn mẹ, cái cười ngờ ngệch hiện ra trên khuôn mặt xanh xao. Tóc bạc chảy tràn trên mái đầu của người mẹ trẻ. Chị muốn ôm ghì người phụ nữ ấy vào lòng, khi bà mẹ vẫn đưa cái nhìn trìu mến bọc lấy thằng bé đang nằm mút ngón chân trên giường, khoe, Út Cưng hiền khô hà, nó đeo tui hỏng rời, hễ đi vắng chút xíu là nó nhớ, thấy thương lắm.
Cái nhìn vừa sâu nhói, vừa chan chứa thương yêu đó chị vẫn gặp trên khắp ngã đường. Bởi khi đậu xuống chiếc nôi ấm áp của người, một ít thiên thần đã bị mắc đọa. Tình mẫu tử bị thử thách nghiệt ngã và dai dẳng. Nhà hàng xóm cũng có một đứa con tật nguyền, nhiều bữa bên đó mở tiệc, chị thấy họ nhốt thằng bé không hoàn hảo vào phòng, giấu biệt. Tình thương không đủ mạnh để lấn áp sự mặc cảm, lòng kiêu hãnh bị tổn thương.
Nhưng nhiều người đã vượt lên những ám ảnh tầm thường. Như bà mẹ ở công viên chiều. Đoán được cái nhìn ái ngại của mọi người đối với mình, nên một bữa, người mẹ cầm tay đứa bé, ngoắc lia lịa, rối rít nói thay con “Cô ơi, chú ơi, bữa nay Ti mặc áo mới nè, nhìn Ti xem có đẹp không?”.
Thái độ chủ động của bà mẹ khiến mọi người trở nên nhẹ nhỏm. Họ vẫy tay gọi đứa bé, họ lại chỗ bán hàng rong, mua vài cây kẹo dúi vào tay nó. Thằng bé ngây ngô nhoẻn cười, ngọng nghịu nói theo mẹ hai chữ cảm ơn. Bà mẹ cũng cười, hạnh phúc khi con được người đời yêu thương như một đứa trẻ bình thường. Mặt trời cũng rạng rỡ cỡ vậy, là cùng…
Chị nghiêm cẩn như đang đứng trước một kỳ quan.
Mặt trời xa lắm

Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư
- Nghe cấp trên tới đây gặp dân, tôi mừng húm. Vậy là mặt trời xuống gần dân rồi.
Ông già nói câu đó trong không gian hầm hập hơi người, dưới nắng trưa nóng rẫy. Vài người cười ồ, ông già Bảy bữa nay nói chuyện bày đặt nói văn chương. Buổi tiếp xúc cử tri đang nặng nề như dãn ra. Có vẻ nhẹ nhõm, nhưng điều đó rõ ràng là ảo giác. Và tôi, một trong những “mặt trời” nghe sống lưng lạnh buốt, nuốt vội ngụm nước mà chực nghẹn, vì xấu hổ, vì cảm nhận trong lời ví von tếu táo của ông già có sự chua xót, đắng cay (*).
Vì được chạm tay vào một sự thật, là người dân đã coi chúng tôi là những kẻ xa cách, như đây không phải là đại diện của mình, như chính quyền không phải của mình. Suốt những ngày gặp gỡ, đôi lúc tôi có cảm giác chúng tôi như những sứ giả đứng bên này sông, nom rất lạc lõng. Người dân thì ở bên kia sông, và chúng tôi nhoáng nhoàng bắc tạm một nhịp cầu, tạm cứu vãn và tạm níu lại, nói ba điều bốn chuyện.
Để rồi lại mịt mù tăm cá. Nguyên nhân làm cho sự xa nhau đến nông nỗi này thì thấy ngời ngợi trước mắt. Đơn giản, là có nơi, có lúc đại diện của chính quyền không chịu (hay không muốn ?) đối thoại với dân, càng chẳng có văn hóa đối thoại. Bà con không được coi như chủ, như người thân, như anh em ruột thịt đã đành, tệ hơn, chẳng được đối đãi như... ông bạn nhậu. Không thân tình, nhưng ít ra, gặp giữa quán cũng ới một tiếng, uống với nhau ly rượu, trao đổi vài câu xã giao, lúc này làm ăn sao, vợ con sao? Chỉ khoảnh khắc nhỏ nhoi, vậy mà nhiều bà con hiếm khi có cơ hội.
Ba ngày gặp bà con, tôi viết đầy mười tám trang giấy. Về đọc lại thấy buồn, thấy chuyến công tác của mình vừa rồi sao tuyệt vọng giống như đi vá tầng... ozone. Không phải, là đi đắp vá lòng dân đã thủng, đã đau nhiều chỗ. Những vụ tiêu cực lớn vỡ ra như nhọt, dân thấy sốc như bị một nhát chém, đã đành. Có lỗ thủng không đáng... Thí dụ, đất nhà dân, ông bưu điện không nói không rằng, nhào vô đào cái hào bằng sải tay, đặt đường cáp quang, cũng không thèm hé môi nửa lời, cắm cái bảng đỏ chót “Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm...”. Gì kỳ vậy, dân phản ứng, đất của tui mà... Thí dụ, bà con làm hồ sơ chính sách người có công với cách mạng thiếu một vài thủ tục, chẳng ai hướng dẫn để đối tượng bổ sung, chờ không được, bà con lặn lội đi hỏi thăm thì chính sách ấy hết hạn giải quyết lâu rồi. Gì kỳ vậy, dân ngửa mặt lên trời, kêu thảng thốt (vậy chớ lỡ làng hết rồi, không kêu trời, biết kêu ai). Thí dụ, quy hoạch khu công nghiệp trên ngàn héc ta mà bà con đi mua đồ ở tiệm tạp hóa, lật tấm giấy báo gói củ cải muối ra mới biết, quy hoạch ngay trên đất mình. Tong tả lại đằng xã hỏi thì được trả lời, trên đài có đưa tin, bộ hỏng đón nghe sao? Dân ngẩn ngơ, gì kỳ vậy, không lẽ suốt ngày tui ôm cái ti vi để coi mấy ông nhà nước có nhắn gì không? Thí dụ, làm lộ nông thôn, có chỗ chia theo tỷ lệ Nhà nước 6, dân 4; ấp bên kia lại theo tỷ lệ 7/3, dân ấm ức, gì kỳ vậy, bộ bên kia là con ruột, tụi tui con ghẻ sao?
Những việc như thế có kể tới Tết cũng chưa hết. Quyền lực tạo ra cảm giác, ta là người trên trước, cao quý, và ý nghĩ đó đẩy người dân vào thế yếu, chẳng được trọng thị như một đối tác ngang hàng. Cách biệt được đào thành hố, thành hào. Bắt đầu bằng những rạn nứt nhỏ, rồi lâu ngày, vết thương chảy máu từ những việc hết sức tủn mủn, nhỏ nhặt, đôi khi... lãng nhách. Bởi chính quyền chỉ cần bỏ ra chút thời gian, cử người giáp mặt với dân, trao đổi ngắn gọn, gút mắc sẽ được gỡ, mọi việc sẽ đơn giản, đầm ấm hơn nhiều. Văn hóa đối thoại đã bị bỏ quên vì một chút dùng dằng, tiếc thay. Nguy hiểm hơn, là cái cảm giác buộc làm theo lệnh của Nhà nước mà không được hiểu, không được nói, và cảm giác bị cai trị, rất gần.
Không phải tự nhiên, không phải vì khái niệm địa lý mơ hồ mà bà con gọi lãnh đạo chính quyền là người “ở trển”. Nên ai đó đừng nghe vậy rồi mừng thầm, vô tư bảo, bữa nay chúng tôi “xuống” dân. Chuyện lên, xuống này sẽ làm mối quan hệ giữa chính quyền và dân trở nên lạt lẽo và xa cách. Mặt trời sẽ xa lắm, sợ ánh sáng không đủ để cây cỏ đơm bông.
Món nợ không thể đòi
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư
Mẹ đi đằng trước, con lẽo đẽo theo sau, buổi chợ sớm mai thưa người nhưng chộn rộn vì những câu hỏi ríu ran của thằng nhỏ. Mẹ ơi, con cá gì mà có cái mỏ dài quá vậy, thằng con chỉ tay vào con... vịt, hỏi. Nhưng khi mẹ trả lời đấy là con vịt, nó giãy nảy, con vịt phải có lông chứ. Dằng dặc sau đó là những câu hỏi khác, tại sao con cá kia lại nằm im re, vì sao nó chết, ai làm nó chết. Tại sao cọng rau này màu tím còn rau kia màu xanh. Mẹ vẫn nhẫn nại trả lời con và diễn đạt làm sao cho giản dị, dễ hiểu. Chỉ câu hỏi: “Mẹ ơi, tại sao người ta đem bán cá em bé? Sao người ta không cho cá em bé đi học mẫu giáo mà ăn thịt tụi nó làm chi, tội nghiệp...”, mẹ phải ngẩn ra rất lâu, phân vân tìm câu trả lời.
Nhưng không thể lờ đi, vì thằng con ngước con mắt đầy vẻ xót thương nhìn mẹ, như chờ đợi, như van xin, như cầu cứu. Trong cái thau gần đầy nước, hàng triệu con cá con (mà thằng nhỏ xem như bạn đồng trang lứa với nó) đang chen chúc nhau đớp không khí một cách tuyệt vọng. Lứa cá nhỏ hơn đầu đũa này thường là từ 15-30 ngày tuổi, người ta gọi là rồng rồng. Hơi giống trẻ con, lúc mới chào đời rồng rồng có màu đỏ, và ngả sang đen khi chúng lớn dần lên. Lúc ấy, chúng sẽ từ bỏ cái tên cúng cơm của mình, xúng xính với tên mới: cá lóc.
Rồng rồng được cá mẹ sinh khi trời bắt đầu rải xuống những sợi mưa. Nước hớn hở dâng lên, tắm mát những ao, đìa đã mỏi mê vì những ngày khô kiệt. Sấm chớp vẫn lừ đừ, gầm gừ trong những đám mây nặng trĩu nước. Sa mưa! Những nụ mầm mới bắt đầu nhú lên trên những cọng rau muống, rau đắng, rau ngổ... già nua. Những sinh vật của ruộng đồng như cá, ếch... vào mùa sinh sản. Lúc này, trong ao hay xuất hiện những bầy rồng rồng - những quầng đỏ lâm nhâm trên mặt nước, to như cái nia, di chuyển lấp lánh, nhịp nhàng.
Đây cũng là khoảng thời gian mẹ đi chợ, hay thấy lòng buồn rợn ngợp. Đầu chợ là cá rồng rồng, cuối chợ cũng cá rồng rồng. Trên nền chợ đẫm nước, bên mớ rau đồng xanh non, là những con ếch, nhái đã bị lột da tuyệt vọng chắp tay lạy lia lịa, ọc ạch nhảy trên mâm, na cái bụng trứng lặc lè. Ai cũng có thể nhìn thấy muôn vạn hạt trứng nhỏ lấm tấm bên trong. Dài theo lối đi, người ta bày bán mấy con cá lóc ốm nhom vật vờ bên cạnh lũ cá rô, cũng lép kẹp, chỉ bụng là quá khổ vì phải bọc lấy trứng. Cá quãng này ăn không béo, nhiều nhớt, tanh, thịt cứng, dai nhách. Dường như lũ cá đã cố ép xác, tự làm mình xấu đi, già đi, nhếch nhác, xóa dấu của sự hấp dẫn để bảo vệ lũ con sắp chào đời nhưng cũng không thoát khỏi bàn tay của con người.
Nhưng giữa chợ đời, chẳng mấy ai để tâm mà cám cảnh cho phận rồng rồng, cho con cá... có bầu, như mẹ. Hay ai cũng thấy bất nhẫn, nhưng họ cũng im lặng làm ngơ, như mẹ. Khi lấy đũa gắp mớ rồng rồng kho tiêu thơm lựng, họ cũng thấy áy náy, quá nhiều sinh vật mất cơ hội sống chỉ vì một miếng ăn của con người? Hay họ vô tư, chẳng nghĩ gì cả, bằng chứng là những sinh vật tội nghiệp ấy đã bị tận diệt hết sa mưa này đến sa mưa khác, bất chấp lệnh cấm của chính quyền (cũng phải, ngang nhiên bày bán mà có thấy ông chính quyền nào lên tiếng đâu, mắc gì phải sợ).
Mẹ đắn đo rất lâu, mẹ sợ suy nghĩ kia được nói nên lời sẽ là quá tàn nhẫn đối với đứa trẻ. Cuối cùng, mẹ nói, tại bà con mình còn nghèo. Vì nghèo, nên phải dầm mình kéo từng bầy rồng rồng, lội ròng rãi trên khắp đồng bãi tìm bắt từng con nhái, con ếch để đổi lấy ít gạo. Vì nghèo, nên đang cạy cơm cháy bữa sáng đã lo ngay ngáy bữa chiều, hơi sức đâu nghĩ tới tương lai xa vời. Và vì bụng chưa no, nên những gì người ta rao trên đài, nào là phát triển và bảo vệ nguồn lợi thủy sản, giữ gìn hệ sinh thái... chỉ là những ngôn ngữ xa vời.
Mẹ buộc phải nói những điều quá phức tạp, đối với thằng con năm tuổi. Nhưng đó là câu trả lời bao dung nhất, ít đau đớn nhất... Chắc chắn, lớn lên nó sẽ hiểu. Chỉ sợ, lúc đó, những sản vật của ao đồng trở thành hàng quý hiếm. Và vĩnh viễn thằng con không biết âm thanh ếch, nhái kêu ran ngoài đồng sau mưa, cảnh cá rô, thác lác ục sôi dưới đìa mùa hạn, tiếng cá lóc táp lụp bụp như dừa rụng xuống ao.
Tất cả những thứ ấy, như một món nợ mà lớp con cháu không thể đòi lại từ những thế hệ đi trước. Có trả nổi đâu mà đòi...
Sống đầy
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

Đề tài trong buổi cà phê sớm nay là một người bạn ở Thới Bình vừa mới bị tai nạn giao thông. Chị ấy giờ nằm im re một chỗ do chấn thương cột sống. Sẽ bình phục, có điều hơi lâu, bác sỹ nói chừng ba tháng mới mong ngồi dậy. Mọi người tần ngần nói, kiểu này chắc phải tổ chức đoàn đi thăm.
Trong đám người, chỉ tôi là chưa biết chị nhiều. May mắn, nghe tên chị, tôi cũng nhớ được người phụ nữ nhỏ nhắn, gò má hơi cao, da ngăm ngăm, tóc ngắn, hay cười. Thấy loáng thoáng đôi ba lần, tôi và chị chỉ kịp gật đầu chào rồi thì chìm lịm trong không khí đám tiệc, hội họp. Kiểu đó thì có gặp nhau hàng trăm lần cũng không gọi là gặp.
Anh họa sỹ thì khác, dù bốn năm rồi chưa chào chị nhưng anh đã “gặp” trong ký ức của mình. Lần đó anh về Thới Bình tổ chức triển lãm, chị đi te te qua, phụ giúp anh treo tranh xong, quây quần ngay tại phòng tranh nhậu tưng bừng. Tối mịt chị mới ngẩn ngơ, “Hồi sáng nhỏ em dâu nhắn về bên má chế ăn bánh xèo, nhưng nghe em tới Thới Bình không lẽ chế để em một mình…”. Nhắc kỷ niệm đã xa thẳm hơn một ngàn ngày mà giọng anh họa sỹ vẫn còn xao xuyến, “bà chế đó chơi dễ thương quá chừng”.
Giới văn nghệ sỹ hay chia ra hai dạng người, hoặc chơi được, hoặc không. Và chị thuộc hàng “chơi được”. Khách tới, ngay lập tức sẽ được thưởng thức những gì quý nhất, ngon nhất của nhà chị. Trong lòng Một - phóng viên, là hình ảnh chị giăng mùng sẵn rồi ngồi đợi cửa mỗi khi nó về Thới Bình săn tin. Sáng sau mới mở con mắt ra, Một đã thấy chị dọn nồi cháo trắng với ơ cá bống kho còn nghi ngút khói. Với Hai, đạo diễn phim tài liệu, cái tên chị đi kèm với mùi… mắm lóc dậy động cả góc lòng. Chị làm mắm khéo, con cá chắc nụi, từng thớ thịt đỏ au được bọc bởi một lớp thính gạo thơm lựng. Thứ mắm này đem chiên không bị vỡ ra, chỉ khi ta đụng đũa vào mới biết nó đã mềm rục từ hồi nào. Biết Hai ưa mắm chết bỏ không thôi, chị hay gởi cho. Những bữa đi làm về, thấy gói mắm lóc treo ngoài cửa, Hai biết chị từ Thới Bình lên, có ghé qua nhà.
Cứ vậy, mỗi người góp một vài câu, họ lục lọi trong miền nhớ những câu chuyện hết sức ngộ nghĩnh. Nhân vật chính vẫn là chị. Nhan sắc chẳng phải là mặn mà lắm, chức vụ cũng lèng èng ở một phòng ban cấp huyện, nhưng chị lại làm người ta nhớ lâu. Ba, phóng viên của Đài truyền hình tỉnh kể, “Hồi còn làm lính của chị ở Thới Bình, có một lần tui nhậu say quá trời đất, không thèm đi trên đường, tui nhảy xuống lội sông về nhà, tội bà chế, cũng nhào xuống nước bơi theo, sợ tui chết chìm. Vừa lội bì bỏm, vừa chửi, vậy mà gần một cây số tui mới chịu leo lên bờ”.
Theo Mười, nhà văn, thì chị đã nghĩa khí từ hồi nhỏ. Từ nhà tới trường ngót năm cây số, Mười với chị học cùng nhau. Những bữa ba chị tan sở, gặp hai đứa dọc đường, ba chị rề lại biểu chị lên xe đạp ba chở về. Chị lắc đầu, “Ba để con đi bộ với nhỏ Mười cho vui”. Nhà chị khá giả, Mười thì nghèo, nhưng đi chơi chung, không bao giờ chị mặc áo đẹp hơn, chạy xe sang trọng hơn. Lớn hơn một chút, chị cũng để Mười có người yêu trước, chị mới chịu… yêu. Vụ va quẹt vừa rồi Mười đi chung chị, hai đứa té văng hai nơi, chị quýnh quáng biểu người đi đường, “Lại đỡ cho nhỏ đó dùm, khỏi lo cho tui…”. Rốt cuộc, Mười chỉ trầy xước sơ sơ, còn chị đau nặng. Chuyển qua ba bảy bệnh viện. Cuối cùng chị được về nhà. Mười có tới thăm rồi, kể, trên giường bệnh có tới hai điện thoại, một chồng hồ sơ giấy tờ cao ngệu, chị nằm ở đó mà điều hành công việc ở cơ quan gọn hơ. Còn viết được hai kịch bản ngắn để chuẩn bị cho hội diễn sân khấu quần chúng. Mười nói, chỉ thiếu cái máy vi tính (treo đòng đưa) trước mặt nữa thôi, chị đã biến cái giường gầm chân cầu thang ấy thành… phòng làm việc. “Người gì, hễ làm là quăng nguyên con vô, làm bất kể chết”, Mười chặc lưỡi, giọng như khen ngợi, như than thở cho con bạn. Lại như so bì, bởi ít ai được như chị, chơi hết mình, làm hết mình.
Và sống hết mình. Thời gian của chị vì thế rất đầy. Lòng chị cũng đầy vì chật chội những yêu thương, cả đời làm người gieo hạt mà không quan tâm mình có gặt hái được không. Tôi chợt nghĩ, chắc chị chẳng bao giờ chào đón ngày mới bằng tâm trạng sợ hãi, chán chường. Chắc chị chẳng bao giờ tiếc nuối, than vãn khi ngày đi qua, tuổi đi qua.
Dứt khoát đi Thới Bình thăm chị, đám người kết luận ngay khi tan buổi cà phê sáng. Tôi cũng đi. Và tôi nghĩ tới chuyến đi ấy bằng một nỗi xốn xang, như thể chị với tôi đã thân thiết tự hồi nào.
Sa mưa
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

Không khí ướt đầm vì mưa suốt đêm qua. Chợ xem xép nước. Người mua vắng ngắt. Kẻ bán trùm cao su im lìm như tượng trong làn mưa mờ đục. Gió như tiếng thở dài.
Út Chín vẫn ngồi nép bên hông tường của quán cà phê, ngay đầu hẻm. Gối ép vào ngực, tay bâng quơ ngắt lá rau úa. Dáng ngồi không đổi, hệt như lần đầu tiên chị gặp nó, ở chỗ này. Chị nhớ, lúc đó, chị mừng quýnh, kêu giật giọng, “Ê, Út Chín!”. Con nhỏ thảng thốt quay nhìn. Và sự ngỡ ngàng, vui sướng trong mắt vụt tắt, nó cụp xuống, nói chị lầm rồi, tui không phải Út Chín.
Không, dù con bạn bây giờ gầy gò quay quắt, dù khuôn mặt đã đen đúa sắt seo, dù nó không nhìn nhận, chị chắc chắn nó là Út Chín. Con nhỏ ở trong xóm ngoại chị ngày xưa, đã cùng chị rong ruỗi qua miền thơ dại. Đã cùng chị hái trái ô rô, đước, hái bông tra, bông lồng đèn… để chơi nhà chòi. Buổi trưa hai đứa trốn ngủ chém vè ra nhà xuồng búng thun. Có dạo hai đứa bỗng dưng mọc ghẻ, bị cạo đầu trọc lóc, cứ nhìn nhau hết khóc rồi cười. Có lần hai đứa đi kéo tép ở hào ranh sau vườn, xớn xác không thấy ổ ong đeo trên nhánh bình bát, Út Chín bị ong nghệ túa ra bu vàng đầu, chị nhào lại dìm nó xuống nước, kéo chạy lên bờ. Bứt cọng môn nước chấm vào những chỗ ong chích để lấy nọc, con bạn khóc vì đau, chị khóc, cũng vì đau.
Làm bạn nửa chừng chị thôi ở với ngoại, về chợ. Lâu lâu cũng có người nhắc, ba Út Chín mất, sau nữa nghe Út Chín lấy chồng, rúc sâu trong đồng, trong những kinh rạch chằng chịt.
Nhưng giờ Út Chín cúi đầu chối phắt, chị đành quay đi. Bỗng chị nhìn mình, thấy ngột ngạt vì đôi giày cao gót, quần màu kem sang trọng làm nổi bật chiếc áo hồng. Chân bước chần chừ, chị nghe loáng thoáng tiếng Út Chín, như đang phân bua với mấy chị bạn hàng, “em nghèo quá…”. Chị nghe ruột xót cồn cào. Chị quay lại chỗ Út Chín, mua bó rau, ngỏn ngoẻn nói mình lầm. Chị săm soi chê rau xấu rau già, chị cò cưa mặc cả.
Buộc lòng. Để Út Chín có thể còn ngồi bán ở chợ này. Để mỗi ngày, chị được nhìn thấy bạn. Để đau lòng nhận ra, nó nghèo thật, nghèo quá (Có lẽ con nhỏ vẫn nghèo y như hồi cùng chơi chung, nhưng chị thì đã khác xưa rồi). Cái áo khoác ngoài lấm lem mủ chuối, đôi bàn tay gân guốc, những đầu móng tay còi cọc đen thui vì nhựa rau muống, bàn chân nhợt nhạt, tái xanh trên đôi dép Lào mòn vẹt đằng gót. Tất cả những cái đó nói chung một thứ ngôn ngữ: “tôi nghèo!”.
Và trên chiếc thúng đựng rau bung vành, cái cân giá đã mòn khía… một cuộc mưu sinh tần tảo ngày ngày thầm lặng diễu qua. Nửa đầu mùa hạn thì mớ rau đắng đất, lọn rau muống chị mua còn xanh, sau đi qua Út Chín thấy mặt bạn trĩu lo âu bên mớ rau già, teo ngắt, đỏ au, nách lá ra bông. Chị biết, để tìm hái mớ rau đó, Út Chín đã rong ruỗi cả vạt đồng, tìm những đọt rau ấy mọc len trong cỏ ống, theo bờ mương, bờ ruộng đã sắp khô. Quá nửa mùa, Út Chín bán những con cá giăng lưới hay câu được, rồi sau chỉ thấy trong thau chất những con chuột đồng đã được lột da. Chị biết ao, vũng ở quê đã kiệt nước rồi.
Điều đó có nghĩa việc kiếm sống của Út Chín nhọc nhằn hơn. Có những bữa đi làm về, chị thấy nhỏ bạn vẫn còn nấn ná bên mớ bắp chuối, năm ba trái bình bát chín dưới nắng trưa đổ lửa. Chợ tan rồi. Mà chị thì chẳng thể làm gì, chỉ có thể diễn mặt lạnh tanh, nhón ngón tay lăn tới lui mấy cái bắp chuối con con. Thoáng thấy cái nhìn tần ngần, day dứt, lầm lũi của bạn, chị bấm bụng hỏi, “Bớt không? Năm bắp bốn ngàn nghen?”
Rồi mùa hạn nặng nề đi qua. Sớm nay sa mưa. Chị xách giỏ qua chợ, ngó Út Chín bỗng nhớ nao nao Út Chín. Nhớ cũng quãng này, hai mươi năm trước, chị với Út Chín rủ nhau đi mò rau muống chìm đìa, những cọng rau nằm dán dưới đáy ao, nước lên rau cũng cố vượt lên theo, cọng non nhuốt, trụi trơ. Nhớ hai đứa đi chận bắt những con cá rô ốm nhằng mình đầy nhớt đi loắn quắn trên liếp chuối. Nhớ cùng nhau đi bắt ốc lát trên đồng, ướt đầm đìa dưới mưa nhưng nụ cười vẫn nhoẻn ra trên đôi môi tái nhợt, cái cười ấm như than đang bắt lửa…
Sớm nay, vẫn dầm chung cơn mưa, nhưng chỉ thấy trong nhau những bẽ bàng. Có một khoảng cách vô hình không với tới được…
Ra đường dạy con

Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư
Con gái của người mẹ trẻ đã năm tuổi. Ngần ấy thời gian bà mẹ trẻ ngấm dần những trải nghiệm, rằng mang nặng đẻ đau không cực bằng đút cơm cho con bé, sau lại thấy cảnh lúp xúp cầm chén cơm rượt theo nhỏ con (vốn biếng ăn kinh khủng) không cực bằng dạy nó nhận thức việc tốt xấu ở đời.
Bà mẹ nghĩ thế hệ mình còn nghèo, tất bật kiếm miếng ăn nên bỏ qua việc sống bặt thiệp, lịch sự, văn minh. Thôi để con nó làm những điều ấy thay mình (điều đó làm mẹ đôi lúc buồn cười, tham vọng mình lớn vậy sao, định cải sửa cả một thế hệ à?). Buổi sáng mẹ chở con đi học, mẹ dạy, “con đừng khạc nhổ ngoài đường, làm vậy người ta cười, nói mình không lịch sự”. Tức thời có chú ăn mặc tử tế chạy xe đằng trước ngoẹo đầu phun cái vèo, may mà né được nếu không bị gió tạt nước miếng vô mặt. Mẹ thấy… bối rối, lanh trí nói, “Đọ, như chú đó mọi người không ai thích hết”. Vẻ mặt nhỏ con có vẻ ngờ ngợ, có lẽ nó thấy kỳ vì nhiều người lớn không cần được yêu. Mẹ nhận thấy những bài học ngoài đường hay kèm theo… rủi ro. Mẹ nói với con rằng bỏ rác vào thùng mới ngoan, nên đứa bé khư khư cầm vỏ kẹo trong tay chờ mẹ chạy xe lòng vòng tìm cho được thùng rác. Qua mấy khúc đường đó, hai mẹ con thấy có một chị quét hắt rác từ nhà ra đường, một người thả lắt lay theo gió tấm giấy gói bánh mì, và ai đó đổ tháo ra đường một vũng… cặn heo. Mẹ thấy bất lực vì trong mắt con đầy hoài nghi. Khi rác được quăng vô thùng, con thở khì một cái, thỏ thẻ, “Mẹ thấy con giỏi không. Nhưng giỏi làm chi mắc công quá hà, mẹ”. Mẹ im lặng, thấy buồn.
Ai đâu dè dạy con khó dữ vậy. Dặn con đừng nói lời thô tục, nên lần nào vợ chồng cặp bên vách đánh nhau, mẹ phải lật đật đi mở nhạc, vặn to volume cho át đi tiếng chửi thề xoi xói. Biểu con đừng quăng vỏ chuối, hay mảnh giấy xuống sông nhưng nước sông đã ngầu, lúc nhúc rác rưởi. Khuyên con giữ lời hứa, nó day lại nói, hôm trước đi thi bé khoẻ bé ngoan cô giáo biểu hát hay cô cho kẹo, “mà con đâu có thấy”. Rồi mai rồi mốt, bà mẹ biết việc dạy con sẽ dần dần khó khăn hơn. Làm sao để thuyết phục nó rằng ăn mặc kín đáo, giản dị là đẹp trong khi các cô gái đang vòng cổ vòng tay dây nhợ lòng thòng diêm dúa, ngược lại, áo quần thì chỉ một vài mảnh vải đắp thờ ơ, hở trước hở sau, hở trên hở dưới. Làm sao để con nó tin được rằng vẻ đẹp tâm hồn mới quan trọng khi người ta treo bảng rao, cần tuyển nhân viên, ngoại hình đẹp… Nói về sự sâu sắc của tâm hồn khi người đời đang nhìn nhau, đánh giá nhau bằng quần áo, trang sức, bằng xe, bằng nhà… không biết đứa con có nghe không. Nó có tin mẹ không khi mẹ nói về sự trung thực trong khi bạn nó quay cóp luôn luôn được điểm cao, xếp hạng đầu. Câu chuyện của mẹ về lòng nhân từ sẽ chìm lỉm giữa cảnh chiếc ô tô dấn ga cán bừa lên sọt cà chua – gia tài của người nông dân lỡ đổ ra đường, vì chở nặng. Chẳng ai đỡ giúp chiếc xe, hay nhặt giúp trái cà…
Vậy mà, lái con tàu hoang dã thơ dại ấy về cái bến đầy hoa cỏ chẳng dễ dàng gì. Mẹ biết phải nỗ lực nhiều, nhưng chỉ tấm lòng người mẹ thôi không biết có chống chọi được với muôn mặt cuộc sống để dẫn dắt con mình vào con đường tử tế?
Ma và người
tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư
(Gởi những ai sợ hãi bóng đêm)
Hồi tôi sống với ngoại, lúc sáu, bảy tuổi gì đó, tôi bắt đầu biết sợ... ma. Sợ vì tin rằng có ma trên đời. Để ý thì thấy, lần nào ngoại tôi vấp chân, bà cũng từ tốn nhìn quanh, giọng nửa trách móc, nửa tôn kính: “Mô Phật, ai mà giỡn kỳ, đẩy bà già này làm chi?”. Không ai trả lời, chỉ có gió rợn sau nhà. Đám giỗ, ngoại bày năm mâm cúng, lúc nâng ba cây nhang nghi ngút khói ngang trán, ngoại lâm râm vái có kinh có kệ có dò có dọc như thể người nào đó đang ngồi chình ình trước mặt. Tàn nhang cong queo, ngoại mừng húm nói bữa nay có ông bà về. Nhưng ngoài tôi ra, trước sân chỉ rụng xuống một vài lá vú sữa rập rờn. Tôi tin có những người nào đó tồn tại quanh mình, trong một thế giới vô hình, dù ngoại không hề dọa ma. Vì vậy, suốt những năm sống với ngoại trong khu vườn gần đồn Chẹt, tôi chẳng bao giờ lẻn ra vườn bởi ghê cái ao trước đây có ông lính cộng hòa say rượu té chết, một mình không dám ra sông vì ngoại kể hồi chiến tranh, sông trôi xơ xác những xác người. Cũng không leo trèo hái trái trên những cây me cổ thụ, loại cây mà ma khoái ở (thì nghe nói vậy). Nửa đêm thoi thóp nghe chim cú kêu bên hè (khốn khổ, vì vườn xưa, nhiều cây cao nên chim cú thích ở, đêm nào cũng kêu xa kêu gần). Quãng đó tôi sống tốt dễ sợ, đến nỗi không dám... ăn vụng vì nghĩ mình làm bất cứ chuyện xấu xa nào cũng có kẻ nhìn thấy, ớn muốn chết.
Ma đem lại cho tôi rất nhiều cảm xúc mãnh liệt (điều này hơi giống... tình yêu). Trong sợ hãi có một chút thích thú. Muốn quay đi nhưng cũng rất tò mò, hiếu kỳ. Sợ, nhưng thích xem phim kinh dị, tới đoạn rùng rợn lại che mặt. Người sợ ma nhất luôn có bộ sưu tập nhiều chuyện ma nhất. Và trí tưởng tượng được sử dụng hết cỡ. Những cây tre cọ vào nhau trong đêm giông, tiếng cú kêu, tay chuối khô vật vờ bay trong đêm, vài con bướm lớn màu xám lặng lẽ đậu im lìm trên vách, một góc nhà hơi tối và lạnh lẽo... đều là mối dây liên hệ với... ma. Ngay cả chạy trên đường, tiếng bước chân mình mà tưởng chân ma rượt, báo hại càng chạy càng thấy nó đuổi sát bên mình. Buộc phải sợ, thế giới đó quá bí hiểm, chưa ai được mon men ra biên giới giữa hai cõi hỏi thăm, người đi về cõi đó cũng không trở lại để... kể.
Phải sợ, vì người ngoài sáng, ma trong tối. Ma lượn lờ quanh mà mình chẳng thấy, đến lúc chợp mắt, ma lại hiện ra trong những giấc chiêm bao. Tôi, cũng như nhiều người chưa thấy ma bao giờ, nhưng nghe kể chuyện đã thấy ám ảnh, hãi hùng. Người đời thêu dệt hàng ngàn câu chuyện ma khác nhau, nhưng đối tượng chính thì giống hệt, thường là những người phụ nữ xinh đẹp mặc toàn đồ đen hay trắng (có lẽ thế giới đó không chuộng mốt, chưa nghe ma mặc áo chim cò, áo yếm hoặc váy ngắn), tóc đen dài, và khi muốn làm con người sợ hãi, ma khoe cái lưỡi dài, đỏ lòm. Ma hay vật vờ than khóc trên những cây cổ thụ, hay mời người ăn bánh (nhưng khi tỉnh ra thì thấy bánh là bùn). Rất nhiều truyện kể ma đứng bên đường quá giang xe những người đàn ông, rồi biến mất bằng nhiều cách, hoặc đi vào ngôi cổ miếu nào đó, hoặc lặng lẽ tan đi mặc cho anh nọ vẫn nói huyên thuyên đằng trước.
Những câu chuyện ma bắt đầu làm cho tôi thích thú, đơn giản vì tôi hết sợ. Tôi không tin tuyệt đối vào sự huyền bí, nếu có thì ma đâu sao không vặn cổ bọn người xấu đang nhởn nhơ giữa đời kia. Hiểu ra điều đó, tôi tiếc vì mất đi một lý do để mình sống... tử tế. Nghịch lý, là khi tôi tỉnh táo, thấu đáo được một điều gì đó thì đời bỗng buồn hơn.
Bỗng ngỡ ngàng thấy người đáng sợ hơn ma. Chẳng biết được ai là bạn, là thù, ai yêu mình, ai ghét mình, trong khi ma đã tách bạch ở một giới tuyến tối tăm khác. Nói tới ma, biết ngay là giặc. Còn người thì lẫn lộn trắng đen, khó nắm bắt. Ma muôn đời đơn điệu vài chiêu dọa người, người lại nghĩ trăm phương nghìn cách hại nhau. Vậy mới sợ.
Phát hiện ra điều này, tôi buồn suốt một khúc thời gian, ganh tị với kẻ sợ ma rón rén trông buồn cười mà hạnh phúc. Tháng Giêng rồi, tôi đi H. chơi. Nghe nói nhà trọ xây trên nền nghĩa địa cũ, cả đêm hai đứa con gái cùng phòng mở đèn sáng rực, nghe gió rít qua khe cửa sổ, trằn trọc chờ... ma. Báo hại tôi ngủ không được. Trăn trở nghe bụng cồn cào, tôi mò ra quầy bar, mua ly sữa nóng. Anh chàng trực quầy cao lớn đang ép nước trái cây. Lúc anh ngẩng lên, tôi giật mình trước nét mặt đẹp, rất nam tính nhưng lạnh tanh, thật ngầu. Lúc ấy tôi bị bội thực những nụ cười giao đãi nên thấy thích anh chàng này, đứng nấn ná nói một vài câu chuyện bâng quơ. Tôi kể mình vừa thấy ma. Anh cười. Tôi nói em thấy ma thiệt. Anh lại cười. Tôi nói bạn em cũng thấy ma, nó đang sợ phát khóc trong phòng. Mắt anh ta nhìn tôi có vẻ tần ngần, cuối cùng anh hỏi, con ma ra làm sao. Tôi ngập ngừng, ra bộ vẫn còn hãi hùng lắm, nói chị đó mặc đồ nâu đen, tóc dài, cài nơ đen. Anh ta im lặng, nhìn chăm chăm vào cái máy xay đang kêu tè tè. Anh bỗng ngẩng lên: “Em à, con nhỏ đó hiền lắm”.
Tôi đứng day ly sữa trong tay, cảm động muốn chết. Chẳng ai nói về ma, về nỗi sợ hãi thường trực trong lòng bằng cái giọng ấm áp, bao dung, bình thản, chân thành như vậy. Như thể anh đang nói về một đứa em nhỏ, một người bạn thân, một đồng loại...
Thật đơn giản, lâu nay người ta cứ nghĩ ai đó là kẻ thù trong khi họ cũng có thể làm bạn. Tôi lại tin có ma ở trên đời, nhưng không phải để sợ hãi...
Tuyệt đối yên tĩnh
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

Có cái gì đó thật bất thường, trong những ngày này. Mọi thứ bỗng ngưng đọng, bỗng chậm rãi như một thước phim quay chậm. Tôi mở cửa sổ, gió lùa vào thiu thỉu. Trang giấy trắng lơ phơ trên bàn cũng là một dấu hiệu không bình thường.
Ơ, chẳng phải mình đã từng ao ước có một chỗ yên tĩnh như thế này, ao ước đến cháy lòng sao. Chẳng phải mình đã quá phiền não với không khí ồn ả đến khê đặc của nhà mình sao, đã rêu rao “Tui mà kiếm được một chỗ vắng vẻ, tui viết cho thấy đẹp”.
Bây giờ thì thoả nguyện rồi, bây giờ thì chẳng ai quấy rối. Cũng phải tính toán vất vả lắm mới dứt bao nhiêu là mối lo, bao nhiêu là công việc chỉ để ra đây viết… tiểu thuyết. Vậy mà trang giấy vẫn kiên nhẫn trắng, tôi sốt ruột quá, ngơ ngẩn không hiểu vì sao không viết được dòng nào, chữ nào. Cái chỗ này đúng là chỗ viết văn đây, không khí quá phù hợp để những dòng văn chương chảy ra lai láng. Ngày đầu tôi sướng mê mụ đi, rối rít cảm ơn đứa bạn đã nhường cho một chỗ tuyệt vời. Đó là căn chòi nằm trên cánh đồng vắng ngắt, không một bóng người. Lâu lắm mới có tiếng gà gáy, nghe xa xắc, eo óc. Lâu lắm mới nghe tiếng trẻ nít gọi nhau ới lên một tiếng, rồi nín bặt. Lặng phắt. Chờ mãi chỉ nghe được tiếng con chim nào bay ngang hót vang. Nhưng đám chim cũng đi mất. Giữa cơn nín thở của đất trời, tưởng như nghe được tiếng thân cây nứt ra để nhú cành mới và con châu chấu nào đó nhảy chồm chồm trên bờ cỏ xanh rờn. Như có thể nghe kiến bò theo vách lá, và thằn lằn chạy cũng bắt… giật mình. Trong cái yên tĩnh tuyệt đối, tưởng mình có thể nhìn thấu lòng, thoải mái viết ra những cảm xúc đã được dồn nén. Vậy mà chẳng viết được, thiệt tức. Hôm thứ hai, lãng đãng trong căn chòi là cảm giác chờ đợi, nhớ tiếc, bồn chồn. Sang ngày thứ ba, nghe heo kêu éc lên mị trong vườn, tôi thấy mình… mừng húm, bỗng dưng.
Tôi hay nhìn về phía mặt trời, coi chỗ đứng của nó, và nhìn màu nắng, trong lòng day đi day lại cái câu, “giờ này ở nhà mình…”. Nằm giữa hừng đông, xốn xang nhớ, giờ này ở nhà mình, hai vợ chồng ông già mù bán vé số đã rao văng vẳng trên đường, thằng con lồm cồm ngồi dậy, rối rít, “thức dậy, mẹ ơi, bữa nay đi học hay đi ngoại ?”. Rồi hàng xóm cũng thức, cửa sắt rít lên chói lói, có đứa con nít khóc nhoi. Chợ phường nằm bên kia đường, mấy chị bán cá tranh nhau níu kéo mời khách, bao nhiêu người là bấy nhiêu giọng, có ngọt có chua, có người nói nghe chói lói, ngồi ở nhà mà biết sáng nay chợ có cá gì. Cô bán cà phê bên nhà đập nước đá nghe giòn tan trong mớ âm thanh hỗn độn của xe cộ, tiếng động cơ xà quần với tiếng còi, bỗng tay chơi nào rú ga chiếc Su - sport, nghe tẹt tẹt như người ta xé vải. Chùng trong giây lát, mấy xe hàng rong lại lũ lượt đi qua mở nhạc bùng xoè.
Mặt trời đổi sắc, dòng âm thanh cũng biến chuyển. Giữa trưa thánh thót tiếng rao chè, nghe thích hơn ông bánh mì Sài Gòn chẳng bằng trắc gì cứ đều đều bắt buồn ngủ, lâu lâu nghe ông xe ôm kêu giựt giọng “Ê đi hôn…”, nhắm mắt, trùm tám lớp mền cũng thấy thằng cha đen nhẻm, với vẻ mặt chờ đợi và hy vọng, ngón tay trỏ hướng lên trời. Chợ bên ấy tan rồi, nghe lạc xạc tiếng chổi quét dọn, những thau chậu va vào nhau. Chiều xuống mau, thằng bé tật nguyền cầm xấp vé số ế trên tay khóc thút tha thút thít cuống quýt chạy qua. Tốp công chức đi làm về xuề xòa trong quán nhậu, đập khăn lốp bốp, giòn hơn cả tiếng vỏ chai bia rơi dưới đáy thùng. Và ngày tan mất, nhưng âm thanh cuộc sống chưa một phút ngừng. Cho dù chương trình trong ti vi đã hết, người hàng xóm đã tua mấy bận cuốn băng cassette Trường Vũ hát thiu thỉu, rền rền. Cho dù quán nhậu bên đường đã đóng cửa, xe cộ đã thưa. Ngủ một giấc, thức dậy đã nghe tiếng chổi quét đường xao xác, trẻ con lại khóc ré lên, đám cưới gần chơi vơi giọng đờn ca lẫn trong tiếng heo kêu hoeng hoéc. Cuộc sống dường như chưa bao giờ lặng tắt.
Lấy chồng bảy năm, bảy năm bỏ quê ra thành, bảy năm trôi trong dòng âm thanh hỗn độn, bảy năm thấy ngộp thở, bảy năm ao ước sự yên lặng, bảy năm nghĩ ở môi trường nào đó mình có thể viết hay hơn... Vậy mà giữa lúc thinh lặng trong căn chòi giữa đồng lại thấy trống vắng, nhạt nhẽo, thấy chới với như con cá bị bắt khỏi nước, thấy việc chui ra đây hơi bị… cầu kỳ. Con người ta đúng là hay đứng núi này trông núi nọ, nghĩ lại không biết chừng nào mình mới yêu quý, thoả mãn những cái mình có đây.
May nhờ có những ngày này, thênh thang giữa đồng khơi, mình với mình cun cút vắng tanh mới nhận ra việc chồng hiền, nhà xấu, nhà nghèo, hoàn cảnh chung quanh tác động chẳng ăn nhập gì với chuyện viết… dở. Dở là dở, chẳng tại ai hết…
Vết thương
Truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư

Tôi nhớ hoài bản sơ yếu lý lịch mà Phúc viết năm em mười hai tuổi. Ở dòng nơi sinh em ghi: dưới gốc bàng. Tôi nhớ vẻ mặt trong vắt của em khi phụng phịu: “Thiệt vậy mà, anh Hai quên rồi sao?”.
Không, có chết tôi cũng không quên buổi sớm hôm ấy, khi tôi và má nuôi nhìn thấy Phúc ở dưới gốc cây, xung quanh lá khô rơi đầy. Người ta túm em trong bọc vải đẫm sương, người em đã tím, em không khóc nữa nhưng dường như đã khóc rất nhiều, môi em khô rốc, bợt bạt.
Khuôn mặt nhòe nhoẹt máu, một bên mắt em đã bị chuột gặm nham nhở. Tôi - bảy - tuổi khóc điếng, hình dung mình cũng đã từng nằm dưới gốc cây nào đó, cùng kiến, chuột và bóng đêm. Hôm má nuôi ôm tôi lên cũng giống như bây giờ, gói em trong tay, bà hơi trùng trình, lảo đảo, nom em nhỏ nhoi như trái bí, trái bầu nhưng mang sức nặng của một sinh linh.
Chúng tôi mang em về Sương, về ngôi nhà nhỏ chênh vênh trên khu vườn chôn chi chít những tiểu sành - những hòn máu bị vứt bỏ mà má nuôi tôi nhặt từ bệnh viện. Tôi lẳng lặng xách dao dọn một khoảng cỏ, chuẩn bị tấm vải và cái quách nhỏ. Nhưng thật lạ lùng, em vẫn sống, tiếc là chỉ còn một mắt. Lần đầu tiên má nuôi tôi tin có kỳ tích trên đời.
Vẫn những buổi chiều lên, vẫn khu vườn hiu hắt, những giọt máu chưa thành hình không đủ để hóa linh hồn, chỉ vật vờ những ngọn khói mỏng xiêu xiêu. Nhưng từ khi có Phúc, có tiếng cười giòn tan vắt vẻo trên tàng cây, khói cũng bớt khóc than. Để hình dung ra mình đã lớn như thế nào, tôi nhìn Phúc lớn.
Nhưng khó hi vọng được nhìn thấy mình, vì Phúc khác biệt tôi. Phúc không thèm nhớ mình là đứa bé bị ruồng bỏ đã đành, vết thương - hốc mắt trống phập phồng trên gương mặt, em cũng chẳng để ý. Phúc hay đòi má nuôi tôi kể lại ngày lượm được em, để lấy làm sung sướng, ra vẻ kinh ngạc, ngỏn ngoẻn: “Vậy mà con sống, ngộ thiệt”. Thời gian đi qua Phúc có vẻ nhẹ nhàng.
Tôi thì không. Tôi thường buồn bã, chờ đợi, ham muốn điều gì đó không rõ ràng. Vài bóng người lạ mặt lảng vảng trong vườn khói của má nuôi tôi cũng làm tôi hi vọng và tuyệt vọng. Chẳng có ai tìm mình.
Có lần bắt gặp một người phụ nữ ngồi than khóc bên cạnh một ngọn khói nhỏ, tôi ôm mấy gộc củi ra sân, bửa như điên dại. Ước gì mình cũng hóa khói... Nghe vẳng trong nhà tiếng Phúc nói với má: “Anh Hai đang khóc…”. Khi chỉ có hai chúng tôi, Phúc tần ngần hỏi nhỏ: “Có má thương mình không đủ sao anh Hai?”.
Với Phúc sống là đủ, có người nuôi cưu mang là đủ, có một con mắt nhìn đời cũng đủ. Đi đường, thấy bất cứ đám tang nào, em cũng bỏ dép ghé vào, thắp mấy cây nhang, lạy ba lạy. Thấy tôi ra vẻ ngạc nhiên, em thầm thì: “Biết đâu họ là cha má mình...”.
Em có thể điềm nhiên chơi dưới gốc cây bàng năm cũ, vừa ngó nghiêng vừa nói: “Để em kiếm con chuột hỏi nó coi tha con mắt em đâu?”. Rồi thấy tôi ngồi đằng xa, mướt mồ hôi, mặt cắm xuống đất, em rón rén lại, chìa trái bàng khô ra:
- Anh Hai, coi con mắt em rớt ở đây nè, chà, nó cũ mèm rồi.
Con mắt còn lại lấp loáng ánh cười.
Đó là lần đầu tiên tôi nghĩ ước gì mắt Phúc có cả đôi. Nó sẽ làm cho khuôn mặt em xinh đẹp hơn, cho cái cảm giác chông chênh ở em không còn nữa. Và quan trọng, ở Phúc không còn dấu tích bị bỏ rơi. Của em và của tôi.
Ý nghĩ ấy ngày càng vây lấy tôi như con rắn đói điên cuồng quấn mồi. Tôi thôi học theo má nuôi làm công việc quét dọn trong bệnh viện. Đồng lương ít ỏi, tôi bỏ bệnh viện đi làm thợ hồ. Nhiều bữa gạch cắt tay đổ máu, thấy em chắc lưỡi hít hà, tôi cười:
- Đứt chút đỉnh nhằm nhò gì. Miễn là có tiền làm mắt giả cho em...
Phúc cúi đầu, đang thoăn thoắt quấn vải bó tay tôi bỗng chậm rãi, đắn đo. Tôi lại bỏ việc ở công trường, bởi quần quật bốn tháng trời cũng chưa đủ chi phí cho ca phẫu thuật. Người quen giới thiệu một chỗ bưng bê ở nhà hàng thị xã. Bà chủ tốt bụng hay biểu vào phòng, nhờ đấm bóp, cho thêm tiền. Bắt gặp cái ánh nhìn rất ướt của bà, lòng tôi lạnh ngắt lạnh ngơ. Tôi chợt nhận ra, buột miệng nói “Chết cha…”, mình chỉ nóng bừng khi đứng trước Phúc. Em không còn đơn thuần là đứa em gái nhỏ. Điều đó làm tôi càng nôn nóng. Thật hạnh phúc khi nhìn thẳng vào em, ôm ghì em trong tay mà không bị ám ảnh bởi gốc cây, con chuột...
- Anh làm tháng nữa là đủ tiền...
Má nuôi tôi rầy: “Cái thằng, lải nhải hoài chỉ chuyện đó”. Phúc không nói gì, ngồi trước thau giặt đồ to tướng, tay vò miết chiếc áo tôi còn vương vất mùi dầu thơm của người chủ nhà hàng. Dường như em lại lặng đi… Tôi không hiểu cái lặng đi đó, không hiểu sao nhắc tới chuyện mắt, Phúc không giấu được buồn.
Phúc lẳng lặng bỏ đi, không trở lại. Má nuôi tôi nói chính tôi đã đẩy Phúc đi. Tôi chạy ra ngã ba Sương, vô vọng ngó những con đường chạy hun hút đằng phía chân trời.
Những ngọn khói không còn vật vờ than thở nữa, chúng nhận ra làm người cũng chẳng sướng gì khi phải chịu đựng những nỗi đau. Chúng an phận khói… Chúng để mặc tôi rấm rứt với cách trả lời bằng câm lặng của Phúc.
Rằng Phúc cũng đau, nhưng em không tránh né bởi quay về hướng nào thì trên mặt em cũng còn vết, nên em tự giẫm bừa lên đó, để chỗ đau chai sạn. Rằng em tuyệt vọng khi cố gắng kiệt sức mà chỉ thấy khiếm khuyết của mình hằn vết sâu nhói trong mắt tôi…
Tôi thường đem củi ra bửa đến khuya, đến kiệt sức, vì nhớ Phúc. Thật kỳ lạ, trong cái nhớ quay quắt đó, tôi không mảy may nghĩ về vết thương, trong tôi long lanh nụ cười trong vắt của Phúc, giọng nói giòn tan của Phúc.
Và mắt của Phúc không bao giờ lầm lũi cúi nhìn, không nề hà chuyện mình có đủ đôi hay không, mắt em luôn lấp lánh sáng, hay háy nguýt, ứ đầy những hờn giận, thương yêu...
Tần ngần giữa chợ

Tạp Văn
Nguyễn Ngọc Tư

Chị đi chậm, bước chân hơi ngập ngừng, đắn đo, chị xách giỏ dạo vòng qua chỗ cá, chỗ thịt, chỗ rau rồi vòng về chỗ cá, đứng ngây ra, vẻ mặt hơi dại đi, ngẩn ngơ. Lại đi hai ba vòng chợ nữa, chị dừng chân, thở hắt, kêu lên, “mèn ơi…”. Bạn đoán coi chị đang nghĩ gì? a. không biết mua gì; b. đang lo lắng vì giá lên mau như một cái chớp mắt; c. làm sao để chuẩn bị một bữa ngon cho cả nhà. Tôi chọn d, chị nghĩ tới tất cả các điều trên.
Có lần thấy chị đứng tần ngần giữa chợ, tôi bỗng nghĩ, phải mình là điêu khắc gia, thể nào cũng chở đá Non Nước về mà tạc tượng chị. Chỉ sợ là tượng đẽo xong mờ nhạt (như những tượng đài anh hùng luôn giống nhau, giống nhau cả ở nét mặt chẳng hồn vía gì), tôi làm sao tạc được vào đá gương mặt chị, như lo lắng, như ngơ ngẩn, như đang nghĩ lung lắm mà cũng có vẻ trống rỗng, vô định, như chẳng biểu lộ gì mà chan chứa thương yêu. Chị còn làm khó tôi – một điêu khắc gia (giả bộ) cả ánh mắt ngượng nghịu của chị khi bắt gặp người khác đang nhìn mình. Chị cười xòa, phân trần, không biết mua gì…
Vì chợ sớm mai có quá nhiều thứ để mua. Những con cá đen nhẫy đang quẫy nước trong tiếng kêu ôi ối của mấy người đàn bà. Đống rau cải mướt sương đêm chất ngồn ngộn dưới nền chợ. Những tảng thịt đỏ tươi, còn ấm nóng trên tay... Hàng hóa ê hề, nhưng ít dần, trừ dần khi chị nghĩ tới từng người ở nhà. Chị có mẹ chồng, không thích thịt, hay cá lóc, bí xanh, khoai ngọt, củ cải, mỗi lần nấu canh mướp, bà mẹ than đau nhức khắp mình. Chồng chị lại không mặn mà cá trê, ghét bông bí, đậu bắp, cải xanh (trời ơi, toàn là những thứ chị khoái mới khổ chứ). Thằng con lớn trèo lên mâm thấy cá rô kho với dĩa dưa giá là nhăn mặt toan tụt xuống. Và cứ thế, chị chẳng còn bao nhiêu cơ hội chọn lựa. Cầm cái bắp cải hay bó cải rổ, lại lo người ta tưới lên ấy những gì. Mua trái lê, trái táo, tần ngần nghĩ không biết mấy thứ này có bị ngâm hóa chất giữ cho tươi lâu? Ngó con gà nằm trên sạp da vàng óng, chị tần ngần nghĩ tới cúm gia cầm.
Lâu rồi, chị đã không ăn những món mà chị thích (người trong nhà thì không). Chị bưng tô rau má (hay rau dền) nấu canh nghi ngút khói lên bàn, nhìn bà mẹ hớn hở suýt xoa để vui, để quên mình đã ăn mấy thứ này hồi còn ở quê, suốt mười mấy năm, mắc chán. Thế nhưng món bí đỏ hầm dừa thì lâu lâu chị lại nhớ nức nở, bỏ công nấu một nồi con con, chẳng ai trong nhà hưởng ứng. Đi ngang qua chỗ bán rau cải, chị nhìn mớ bông bí thòm thèm, nhưng nghĩ chỉ một mình ăn thì vui gì.
Biết bao điều phải nghĩ, đã cực lòng lắm rồi, lại thêm giá vùn vụt lên. Mau như trở bàn tay, món tiền hôm nay chỉ mua được nửa nắm rau hôm trước. Con cá trong giỏ cứ nhỏ dần đi, nỗi áy náy thì ngược lại, lớn ngợp lòng. Người nào rời mâm cơm trước chị cũng bần thần hỏi vói theo, “bộ đồ ăn không ngon hả ?”. Trời ơi, làm nội trợ, ai nói sướng nào?
Đóng vai thần thừ giữa chợ năm ba lần, tôi đã biết cảm giác bồi hồi của chị khi lướt nhanh qua con cá to nhất, con cua chắc nhất, về đến nhà vẫn ám ảnh, nghĩ mình vừa bỏ lỡ một bữa ăn ngon cho cả nhà. Tôi biết chị yêu thương nặng oằn mà mớ tiền lại nhẹ hẫng trên tay. Trải qua mới hiểu, những lúc ấy mình dụng công suy nghĩ, cảm xúc đầy còn hơn… viết văn. Nhiều lúc quên đây là chỗ kẻ bán người mua, bởi nhìn thấy chùm trái giác, hay mấy cái bắp chuối đặt cạnh rổ rau đắng đất, hay xô ốc lác đầu mùa mưa, hay những trái mãng cầu chín… là kỷ niệm tuổi thơ kéo ra dài ngoằng có dây có nhợ, những ngày lam lũ thức giấc dậy động trong lòng.
Tôi biết, có nhiều lần, anh thấy chị trở về chỉ mấy trái cà, vài ba con cá, anh gắt “Đi cả buổi…”, nhưng anh biết không, trong cái giỏ đồ ít ỏi đó, oằn trĩu niềm lo nghĩ, nỗi thương yêu…
Chuyện ngoài... văn chương
Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư
Có một dạo bạn bè tôi sốt ruột nhắn hỏi sao lúc này chẳng thấy viết gì (câu này thấy nhẹ nhỏm vậy mà tôi sợ muốn chết, nó luôn mang ý nghi ngờ “hình như con Tư tiêu rồi”). Tôi buộc phải ngó lại coi mình đã làm gì mà không viết. Cũng chẳng phức tạp lắm, thí dụ thời gian của tôi chia làm năm phần, thì một phần tôi lên mạng tìm hiểu những sản phẩm kỹ thuật số mới nhất (mua chúng lại là chuyện khác), một phần cho công việc nhà và công việc cơ quan, đọc sách báo chiếm một phần, một phần dành để viết ba lăng nhăng. Chỗ thời gian còn lại, thật ngạc nhiên, tôi sử dụng để đi… đám.
Tôi là con gái út. Ba tôi cũng thứ út. Mà thôi, kể lể một hồi giống như làm gia phả. Nói vầy cho dễ hình dung, bên nội tôi như cây cổ thụ chi chít nhánh to nhánh nhỏ, nhà tôi thuộc hàng… mút đọt. Bên ngoại, má tôi lại là cành lớn nhất, gần gốc nhất. Má tôi tính mỗi tháng họ hàng nội ngoại có sơ sơ chừng bốn đám (bao gồm nhiều loại hình đám giỗ, đám cưới, thôi nôi đầy tháng, kể cả đám… ma). Đó là chưa kể đối xử với xóm giềng. Nhiều lần nghe má liệt kê danh sách đám tiệc những ngày sắp tới mà toát mồ hôi dù trời đầy gió.
Ở quê lưu truyền câu chuyện khá vui, có ông nọ cháy nhà không chịu vác ti vi, cassette ra ngoài, chỉ gò lưng na cánh cửa chạy. Bởi trong cánh cửa có ghi ngày đám giỗ của bà con, hàng xóm. Nhà tôi không có cánh cửa quý báu, bởi má tôi nhớ hết, thuộc hết. Đám gì thì đám, chứ cúng quảy ông bà tuyệt không được quên, má thường nói với mấy chị em tôi, giỗ tổ tông còn quên thì sao làm ăn nông nổi.
Hồi còn con nít, tôi thích đi đám vì được ăn ngon. Lớn lên bỗng không thích, vì buộc phải làm công chuyện, trong khi tôi chẳng khéo khôn gì (rang đậu phộng còn khét…). Lớn thêm chút nữa, vẫn còn xớ rớ khi vào bếp, nhưng tôi bắt đầu… thực dụng, khi thấy ba má mình có tuổi, nghĩ mình đến nhà người ta (có qua) để dịp nào đó họ tới với mình (gọi là có lại). Ngay thời điểm này tôi lại thích… đi đám (mà không so đo chuyện ba má mình già).
Đó là mối quan hệ ngoài gia đình duy nhất mà tôi còn duy trì, sau khi để vuột khỏi tay đám bạn bè, đồng nghĩa với đánh mất thú vui la cà, bù khú. Đó là khi vùi vào những câu chữ đến bạc người, thèm một ai đó để cười, nói vài câu bông lơn thì má tôi rủ, rằm này đi đám không. Dại gì tôi không gật đầu, đi thì đi, để chạy trốn cái cô độc đang rợn ngợp trong lòng. Những câu chào hỏi, những cái cười giòn rụm trên môi, khói tầng quầng trong bếp, hương thơm của những món ăn, nhang khói ngào ngạt ở gian nhà thờ, bóng người tất tả bận bịu… rót đầy lại cái không gian đã bị văn chương rút rỗng.
Tôi không thích đám tang (hợp lý, chẳng ai thích), bởi tôi hay cười, cười để khỏi phải nói, nhưng đến chia buồn mà ngoác cái miệng ra cười hoài khó coi. Những cái đám cưới gả ở chợ lại quá dư tưng bừng, thiếu thân mật, lúc đến lơ láo, lúc về lơ láo.
Tôi thương những đám giỗ ở quê. Mê nhất nhất là cái hồi người ta chưa đi đám giỗ bằng… tiền, hàng xóm hay mang lại những thứ mà họ có, mục măng tre, rổ cải xanh, con gà mái, mớ tép đất hay mấy con cá trê vàng. Bữa cúng coi giản dị vậy nhưng đã được gia đình chuẩn bị rất lâu, họ để dành mấy giạ nếp hồi đầu mùa gặt, rồi dọn dẹp nhà cửa, chuẩn bị củi to củi nhỏ, lá chuối, lá dừa… Hôm trước giỗ chính mọi người dành cả một ngày gói bánh, sao cho dư nhiều để… cho. Có bữa ra về một quãng xa thì thấy đứa con nít hào hển chạy theo để dúi vào tay tôi nửa đòn bánh tét với mấy trái lê ki ma, thấy mà thương.
Cái không khí đó bây giờ đã phai nhạt ít nhiều, đơn điệu ít nhiều, nhưng sự gắn bó, mối thân tình ruột ràng vẫn còn nồng ấm. Kẻ nằm xuống vẫn làm được điều có ích, là gắn kết người với người. Ngoài việc thắp nhang tưởng niệm người đã khuất (việc này cũng khó khăn, tôi chỉ biết thầm thì nội ơi hay ngoại ơi hay bác ơi, con là con Tư nè), tôi luôn tận dụng những đám giỗ để nhớ mặt họ hàng bà con, vì chỉ gặp dịp này rồi ai lại về nhà nấy.
Hồi chưa có chồng, má tôi dặn nhớ mặt để khỏi… yêu nhau. Sau này nhớ mặt để tránh… đánh nhau, mắc công bẽ bàng. Nhưng họ hàng đông quá, lại chẳng người nào không thay đổi, theo thời gian. Có người già đi, có người dậy thì, nhổ giò, năm trước khác, năm sau thấy khác. Mấy nhỏ cháu hồi nào còn mắc cỡ đấm thùm thụp giấu mặt vào lưng nhau ngoài sàn nước, lần sau gặp đã bồng đứa trẻ, cầm tay thằng bé ngoắc ngoắc mình, biểu “thưa bà cô đi con”, nghe muốn… mếu.
Trong đám giỗ, nghe râm ran cháu nội cô Tư vừa sinh đứa thứ hai, con anh Ba gần đám cưới. Trời ơi, phải có thời gian tôi sẽ tới trước bữa nhóm họ một ngày, hụ hợ mấy đứa cháu cắt bẹ chuối, thắt lá dừa, lá đủng đỉnh trang trí rạp, để coi tụi nó dùng cách nào làm cái rèm rủ bằng bông dừa xiêm tuyệt đẹp.
Đang nghĩ lung tung xèng thì có cô nhỏ lại gần nhỏ nhẻ, tháng mười tới là lễ ăn trầu uống rượu con, cô nhớ về. Về chớ, phải về, vì lần trước lỡ dự đám hỏi của Hường, của Xuyến, nên phải đối xử đẹp với đứa cháu này, gia cảnh con nhỏ nghèo, mình càng phải tới.
Đi đám cũng có triết lý của việc đi đám, vậy đó.
Ở đời, công bằng là thứ quan trọng khủng khiếp nên đi đám người ta cũng nghĩ tới chuyện làm sao cho công bằng, đừng bên trọng bên khinh. Điều này tôi ảnh hưởng chút đỉnh từ má tôi. Để nuôi dưỡng, duy trì sự tử tế, có tháng má tôi ít khi… ở nhà, má luôn áy náy, thằng anh cưới dâu mình ở suốt, con em gả con mình không tới, nó buồn. Hoặc dịp đó, người đó lăn xả trong bếp nhà mình tới hai ngày, bây giờ mình dùm có một buổi, thấy kỳ. Má tôi xài từ “giùm”, tôi khoái. Nó không chỉ thanh thản “đi”, không chỉ bệ vệ “dự”, chữ “giùm” nhiều trách nhiệm, như gánh đỡ lo âu, nghe có tình có nghĩa, nghe ấm lòng. Tôi học chưa được chữ giùm đó. Và cũng chẳng biết đến bao giờ mới học xong.
Nên tôi không tiếc gì nếu nửa tháng trời chẳng viết chữ nào vì bận… đi đám. Văn chương làm tôi mất bạn bè (một số đứa có lịch chơi trẹo ngoe với tôi, một số đứa khác chê tôi làm nghề quá xa lạ, đã vậy còn… nổi tiếng), và tôi cảm thấy không đáng phải đánh đổi. Nếu viết với tôi là sống, những khi không viết tôi cũng muốn sống. Đi đám là một ví dụ…

Kỳ tích
Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư

Cứ như chị bị một cú sốc vậy. Suốt buổi chị chỉ tấm tắc, “Chú công an đó vui vẻ hết sức, đã nói chuyện hiền từ tử tế, mà còn cười…”. Ấn tượng về nụ cười sâu sắc đến nỗi chị quên than thở về mớ đĩa CD - chút vốn liếng buôn bán đã bị lập biên bản tịch thu mất rồi.
Chị có một chỗ hẹp te bên hông nhà lồng chợ, trên cái bao trải lên đất, có mấy chục cái đĩa nhạc đủ loại được bày lộn xộn. Tất nhiên, toàn là đĩa in sang lậu. Nên nhiều khi phải ôm hàng bỏ chạy khi nhác thấy mấy anh công an, liên ngành… Chuyện chạy không kịp cũng thường, chuyện bị tịch thu hàng cũng thường, nhưng được các anh đối xử như chiều qua (tức là có cười), thì hơi lạ.
Bởi các anh rất ít cười. Những người làm nghề kinh doanh “nhạy cảm” như nhà hàng, nhà trọ, dịch vụ karaoke... hay nói đùa, “bệnh viện phải mở khoa “hiếm muộn nụ cười “ cho mấy ổng”. Chị cũng thắc mắc hoài, “Chị biết mình bậy mười mươi, nhưng sao mấy em đó không làm việc nhẹ nhàng một chút cho mình mát ruột. Mắc gì phải hùm hổ, sừng sộ, nạt nộ?”. Chị hỏi tôi. Mà tôi thì không biết hỏi ai. Có phải thiếu tự tin, cho rằng pháp luật chưa đủ độ nghiêm minh nên khi làm việc các anh phải “minh hoạ” thêm bằng nét mặt cho đối tượng sợ? Hoặc ý thức mình ở vị thế ấy phải dùng phong cách ấy ? Hoặc quy định của ngành buộc các anh không được cười (với dân)?
Nhưng sự hiếm muộn nụ cười nào chỉ ở các anh thực thi pháp luật, giới công chức ngày càng nhiều người ra mặt khó… chằm dằm (tất nhiên, chỉ với dân thôi). Cái cảm giác như đang bị thẩm vấn, như không còn tư cách công dân cứ ám ảnh nhọc nhằn khi ta đứng trước anh bảo vệ cổng cơ quan, khi đi đăng ký kinh doanh, khi chứng cái đơn xin việc, khi làm hộ khẩu, gắn điện kế, ở trạm kiểm soát giao thông (có khi chỉ để trình giấy đã mua… bảo hiểm)… Thật khó để nén sự hèn mọn, tủi thân ứ lên xót xa trong lòng khi tiếp xúc với những câu cộc lốc, những đôi mắt không hề ngước lên… Rõ ràng, không phải tính người trời sinh lầm lì, vì những gương mặt đang càu cạu, cấm cẳn ấy lại day vào nhau đối đãi hết sức cởi mở, tươi tỉnh và hào sảng). Tưởng cái câu bà con hay chép miệng, “mình là phận dân đen…” chỉ ơ hờ nói ra thôi, ai ngờ...
…Chị vẫn ngồi lọt thỏm giữa mấy bà bạn hàng ở góc chợ, kể quanh kể quẩn cũng quay về một cái cười.
Ở cái đất nước mà đi đâu cũng gặp nụ cười, cười đến độ bị chê là “nhiều lúc vô duyên”, vậy mà nhiều lúc cười được xem như kỳ tích, lạ quá đi (mà cũng buồn quá đi).
Nói cho cùng, thì chị nói đúng, “Cười với dân một cái mấy chú đó có mất mát gì đâu”. Cười nghen mấy anh, cười với chị như mấy anh cười với nhau.
Giỡn chơi

Truyện ngắn ngắn

Nguyễn Ngọc Tư

Hồi tháng Tám, Văn có tham gia một đoàn thực tế sáng tác về đầm Đìa. Chuyến đi rất hào hứng, vì chỉ nghe cái tên đất thôi đã ấn tượng, nghe buồn, ướt làm sao đâu. Đêm đó, cả đoàn rủ nhau ra đầm, ngủ nhờ trên mấy cái chòi giữ lú cho có… cảm xúc.
Trời lồng lộng. Người ta thắp bao nhiêu là đèn, họ treo đầu lú, ở cửa chòi. Đầm nước rực lên như một thành phố nhỏ, lấp loáng, mộng mị… Cùng với hai nhà thơ cấp huyện khác, Văn sẽ qua đêm trong một căn chòi nằm gần bờ lá. Phi - anh chàng chủ chòi, người đang giữ mấy chục cái lú – đen như củ khoai lùi, tánh tình mủ mỉ. Ai hỏi gì nói nấy, mà hay cười, cho nên nhiều lúc cười nhiều hơn nói. Sự hiện diện của bọn Văn làm anh ta hơi bối rối, nên hì hụi dọn dẹp lau chùi. Chắc là cuộc sống ở đây quá bình lặng, ủ ê, nên chỉ cần một vài người sôi nổi, hiện đại như Văn, anh ta cảm thấy ngộp thở.
Ngắm trời nước chán, bọn Văn quay qua chọc ghẹo Phi. Bình thường Văn là đứa hay đùa, cô nói chuyện nhớ thương dễ như người ta lặt rau. Nhiều khi chính Văn cũng thắc mắc, không yêu mà cái miệng nói yêu leo lẻo, gặp chuyện thì câm lặng, bằng chứng là Văn đang khổ sở yêu thầm yêu lén anh chàng phó phòng mới chuyển về.
Ngay lúc ấy, Văn đã nghĩ, giá mà có thể bày tỏ lòng mình với người ấy dễ ợt như đang trêu chọc anh chàng tên Phi này. Ban đầu thì Văn chẳng nói gì, chỉ nhìn anh ta chăm chăm, ra bộ đắm đuối tha thiết. Rồi giả vờ bâng quơ:
- Mai về, chắc nhớ Đầm dữ lắm. Mà không, nhớ anh Phi nhiều hơn.
Văn nói cô thích Phi từ cái nhìn đầu tiên, người gì mà dễ thương quá trời đất. Văn nói ước gì có thể ở bên Phi trong căn chòi lộng gió hết đêm này, hết đêm mai, và ngàn vạn đêm tới nữa. Phi đờ người ra, mới đầu mặt tái xanh rồi lại chuyển sang đỏ tía. Miệng Văn đã thừa ngọt ngào, lại thêm hai nhà thơ cấp huyện tung hứng, nói ra nói vào, như thể Văn đã yêu Phi thật.
Anh chàng Phi càng khốn khổ, Văn càng mắc cười, càng táo tợn. Nhưng cuộc tình hoang đường ấy chẳng đi về đâu khi Văn lấy tay rờ cái lò cà ràng, thở dài (cho có vẻ chua xót vậy mà):
- Nhưng hai đứa mình ở cách xa nhau quá. Em không thể bỏ công việc đang làm. Phải anh Phi cũng ở thành phố thì vui biết chừng nào…
Phi hơi ngẩn ngơ ra, rồi cúi đầu, lặng lẽ… Văn bắt gặp ở anh chàng cái cảm giác bồn chồn, hụt hẫng, xót xa ra mặt. Không khí lắng lại, Văn thòng chân xuống sàn nhà, đong đưa, ngó ra đêm sâu mênh mông, tấm tắc:
- Cảnh ở đây đẹp dễ sợ thiệt.
Phi cười, bằng mũi:
- Đẹp gì đâu, chán lắm, buồn. Mà nghèo.
Văn táo tợn nắm bàn tay thô ráp đen đúa của Phi. Anh chàng hơi dần dừ, nhưng vẫn để yên trong tay Văn, nóng bỏng.
Một hồi có đứa con gái bơi xuồng lại. Chưa thấy người, đã nghe giọng cô nhỏ giòn tan lẫn trong tiếng dầm quẫy nước:
- Có ai ăn khoai luộc hôn ta?
Thấy có người lạ, cô nhỏ hơi khựng lại, buột miệng “Ủa…”, mắt chăm chăm vô hai bàn tay vẫn còn nắm lấy nhau. Anh chàng Phi vội rụt phắt lại, giọng nửa sượng sùng, nửa càu nhàu:
- Khuya lơ khuya lắc bơi xuồng đi đâu vậy?
Đứa con gái có vẻ quạu quọ:
- Sợ anh đói bụng, nên đem mấy củ khoai qua. Có ba củ nè, phải biết có khách tui lấy nhiều một chút…
Chắc còn ức cái câu Phi nói hồi nãy, con nhỏ độp lại:
- Chứ khuya lơ khuya lắc anh thức làm chi?
Rồi con nhỏ quày quả bơi đi, sau khi dằn dỗi để lại mấy củ khoai còn ấm sực. Văn ngó Phi, ngại ngần:
- Người ta giận rồi kìa, tại em hả?
Phi nói ngay:
- Không, không phải… Nhỏ em ở xóm, nó kỳ cục lắm…
Nghe cái giọng như phân bua, thanh minh của Phi, Văn buồn cười quá, cô ta là ai thì mắc mớ gì đến tôi.
Rồi chuyện ở Đầm Đìa đã qua mau như một giấc mơ. Lâu lâu, gặp lại hai nhà thơ huyện, cũng có nhắc chuyến đi đó, có nhắc Phi, nhắc hôm ấy, khi về, Phi đã đau đáu trông theo cho đến khi chiếc võ lãi mất hút trong làn sương mỏng. Nhưng Văn chỉ ờ ờ, thật ra, gương mặt anh chàng ra làm sao Văn còn không nhớ.
Một bữa, dừng xe chỗ đèn đỏ, bỗng có đứa con gái đi bộ nhìn Văn lom lom. Văn cảm giác gặp nó ở đâu rồi, cuối cùng nghe nhắc vụ ba củ khoai, Văn à ra. Lại gặp ánh mắt giận dỗi của con nhỏ, như đêm hôm đó :
- Anh Phi ảnh bỏ Đầm Đìa rồi, ảnh đang ở đây, làm phụ hồ, tội nghiệp lắm.
Văn thờ ơ nói vậy hả, ờ ờ… Con nhỏ lại nói mặc cho đèn xanh đã bật mấy lần
- Ảnh đi là vì chị A3
Văn hơi ngơ ngác, ngỡ ngàng. Sau đấy là thảng thốt dù đứa con gái nọ đã mất hút giữa dòng người. Đi sau khi để lại một câu:
- Chị đẹp nhưng không thương anh Phi bằng em đâu. Chị thấy em cũng ở đây, thì biết…
Ai thương ai thì mắc mớ gì mình, Văn tự nhủ. Văn chạy xe trong cảm giác bồng bềnh. Cái ý nghĩ vì trò đùa của mình mà thay đổi cuộc sống (và cả số phận) của hai con người ấy làm Văn thấy chao chát, thắt lòng…
Những điều phiền muộn...
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

Sáng nay gặp anh bạn đang ngồi hút thuốc trong phòng, vẻ mặt buồn như... thua độ đá banh. Hỏi sao ỉu xìu vậy? Bạn bảo, hàng điệp đỏ trước nhà, ven theo bờ hồ, “thằng kỹ sư nông nghiệp nọ kết liễu rồi”. Hàng cây cao đang vào độ trổ bông, cháy lòng cháy dạ mấy nhỏ học trò đang vào mùa thi cử. Vậy mà chỉ để cho cái sân sáng láng, người ta đã phá bỏ nó đi. Nghe nói lúc đầu mấy ông già hưu trí la quá trời, người nọ không dám chặt, anh ta lén rải thuốc, kỹ sư nông nghiệp mà, thiếu gì cách. Mấy bữa nay hàng cây bắt đầu quéo ngọn, xuống lá tả tơi...
Cái cảm giác bất lực làm anh bạn trở nên trầm uất. Cuộc sống đầy rẫy những điều phiền muộn. Một hàng điệp vừa qua đời. Một đứa bé ngủ li bì (vì tác dụng của thuốc) trong tay người ăn xin (mà ai cũng biết tỏng ông ta không phải là cha nó). Một ngôi nhà lai căng đỏ chót ở góc đường. Một cụ già nằm soài ngoài đường, kẻ gây ra tại nạn đã chạy mất. Vân vân và vân vân. Tôi cũng gặp biết bao chuyện cứ âm ỉ ám vào nụ cười của mình. Kinh nghiệm, càng đa cảm với sự mạnh yếu, thấp cao thì rước đau vào lòng. Như anh bạn tôi, cứ mỗi lần cơ quan tổ chức hội họp, tổng kết hay dịp kỷ niệm ngành, chờ mãi lãnh đạo không tới dự, anh thấy mình tủi thân quá, nghĩ cũng là “con” sao cấp trên bên trọng bên khinh, chắc mình là “con ghẻ” nên phải chịu cảnh thiếu ăn, thiếu tình thương phụ mẫu. Bữa rồi sơ kết sáu tháng ở sở V, bữa kia ở sở X thì đủ mặt bí thư, chủ tịch, phó chủ tịch...
Nghĩ tới nghĩ lui, đa sầu đa cảm riết rồi anh đổi tính, nhún nhường, mặt lúc đăm chiêu, buồn buồn, tủi tủi, giọng uẫn ức, càm ràm như ông già tám mươi. “Sao mà mở con mắt ra là thấy cảnh mạnh hiếp yếu, giàu hiếp nghèo. Thấy nhà cao quăng rác xuống nóc nhà thấp, xe bốn bánh xịt khói bụi vô mặt người đi xe hai bánh. Lãnh đạo nằm... bệnh viện cũng ngon lành hơn dân (chớ nói chi tới chuyện cưới gả, tân gia, thôi nôi, đầy tháng...). Văn thư ủy ban xã râu mới lún phún chưa đủ cứng đã ra oai, hách dịch với cụ già...”. Kể tới đây, anh bạn thở dài, ra vẻ rầu trong bụng quá chừng. Niềm vui, nỗi đam mê lớn nhất của anh là bóng đá, nhưng vì quá sầu muộn nên cái cách xem bóng đá của anh cũng ngộ, thay vì yêu đội bóng giỏi có lối đá đẹp, đấu pháp hay... anh lại chằm chặp bênh đội chiếu dưới, đội yếu thế, đội không tên tuổi... Thí dụ như kỳ Euro vừa rồi, thức trắng, cắm đầu cắm cổ để ủng hộ Bungari, Nga, Latvia... sáng ra vào cơ quan, anh thất thểu. Hỏi sao chuốc sầu não vô mình làm chi? Anh phân trần, thấy đội yếu là anh thương, thương vì hoàn cảnh của họ sao mà giống mình.
Coi lại gần hết cuộc đời, anh ghét nhất là sự không công bằng. Vì vậy mà sáng nay anh không quên buồn bã tiếc thương cho một hàng điệp đỏ, thương cái phận yếu ớt bọt bèo của cây cỏ trước sự tàn ác của con người.
Nhưng nửa đời sắp qua đi, thường thì người ta chỉ biết tiếc nuối, cám cảnh mà quên (hay không dám) làm một điều: đấu tranh với cái xấu.
Có một đêm, tôi đi qua góc đường nơi người đàn ông ăn xin và đứa bé hay ngồi. Họ đã biến mất. Tôi hối hận điên cuồng vì tiếc, đáng lẽ mình đã phải làm gì đó, và biết đâu sẽ cứu đứa bé ấy ra khỏi cuộc đời đày ải thống khổ. Ước gì tôi đã từng bước chân lại gần chỗ họ, thay vì chỉ cho xe chạy ngang qua, rồi ngậm ngùi. Và anh bạn tôi biết đâu sẽ cứu được hàng cây...
Tôi thường tự hào là mình còn biết rung động, chia sẻ, cảm thông với những trắc trở của cuộc đời (cũng khá hơn so với nhiều người vô cảm khác). Nhưng một hôm thì niềm tự hào ấy cũng không còn nữa...
Thư từ quê
Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư

Anh K.
Tôi vừa từ quê lên, Nam bộ đang vào đợt nắng nóng, da tôi đã đen lại cành đen hơn, coi kiếng nhìn vô chỉ thấy lấp lóa hàm răng. Quê mình giờ khác lắm, K. à.
Cái khác rõ ràng nhất là chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Anh coi báo xem đài cũng biết. Người nông dân bao đời gắn bó với cây lúa bây giờ đang nôn nả cho nước mặn vào đồng để nuôi tôm. Lứa tôm đầu chết hàng loạt đã dội gáo nước lạnh vào bà con mình nhưng làm sao mà dập tắt được lửa lớn. Ai chứ, bà con mình nghèo đã bao đời rồi, chờ đợi cũng biết bao lâu rồi. Nên có nơi nầy làng xóm xuống đầm vớt tôm chết, nơi khác đang đào đắp cải tạo ao nuôi. Đi đâu, làm gì cũng nghe chuyện con tôm, hừng hực khí thế tổng tiến công vào cái nghèo dai dẳng.
Nhưng còn cái đổi khác nữa mà chỉ những anh em làm nghề suốt đời tong tả chuyện người ta như anh em chúng mình mới thấy. Thấy rồi dưng không ngồi nuối tiếc.
Tôi tiếc những liếp dừa, hàng cau bị đốn, tàu bẹ còn nằm ngổn ngang. Tiếc rặng tre mạnh tông sau nhà, tiếc cây còng già, bụi trâm bầu ngoài họng ao hồi nhỏ tụi mình hay ra đó cất nhà chòi chơi cúng cuội. Tiếc một hàng bạch đàn hôm rồi về giăng võng nghỉ, bày đặt mở máy ghi âm coi có ghi được giọng nói nào từ cõi trên không. Tất cả, tất cả đều nằm chỏng gốc. Ông cậu đất ít, người lại đông nên tranh thủ tận dụng cả mấy cái ao, hố bom trong vườn để thả bậy thêm ít tôm. Trời ở quê vẫn xanh rời rợi nhưng đất quê đã kém xanh rồi.
Tôi ngồi lai rai với ông cậu ngoài bờ chuối sát đầm tôm, cũng may là còn một bờ chuối thưa rỉnh thưa rảng để tránh nắng chiều. Cậu tôi mình còn ướt vừa ngoi ngóp xúc bùn dưới vuông lên. Chưa hết xị rượu hai cậu cháu bắt đầu cãi lý với nhau. Mỗi nguời có tỉ tỉ cái lý. Cậu cho rằng phải hy sinh hết cho con tôm, sống mấy chục năm rồi chỉ hy vọng vô nó để đổi đời. Cậu nói rành mạch, để cây đó, lá rụng xuống đầm tinh dầu nó tiệt ra không tốt, nhứt là bạch đàn, tràm bông vàng... Tôi cãi (dốt cũng bày đặt cãi): “Cây dừa lá đâu mà đủ rụng xuống?”. Cậu nói, cây dừa rễ nó độc, lại ăn sâu làm gì mà không ngấm vô đất. Tôi cố vớt vát: “Vậy rễ cây tre có độc hôn?” . Cậu đổ quạo: “Thằng, sao mầy hỏi dần lân hoài vậy? Cây tre thì có lá tre, tao nói rồi, rụng xuống Đầm hỏng tốt, hơn nữa, phải phát quang để cho gió nhiều, tạo sóng, có oxy cho sú nó thở chớ mậy, mầy sao, hỏi dai như đỉa... ”.
Tôi bắt đầu nói cái lý của mình. Tôi nói ở quê khác với đô thị ra làm sao đối với những thằng như tụi mình. Là vì, ở quê, người ta có được cái cảm giác trong trẻo, mát lành, yên ả, lúc nào trong tâm hồn cũng có nguồn cội, cây cỏ chở che. Là vì, phần đông người ta từ quê đi ra, cái ký ức tuổi thơ tới già không phai được. Có bao giờ người ta lại muốn xa quê. Như tôi (và cả anh) lúc nào mà không thèm về nhà, ngồi dưới gốc vú sữa, khề khà tí rượu với cá lóc nướng rơm. Quanh mình tỏa ra một mùi khói thanh thỏa. Mà, nói chữ quê hương thì hơi khó hình dung, nhưng xét cho cùng người ta nhớ tới quê là nhớ má (tất nhiên), rồi gì nữa? Một căn nhà lá gió thổi mát rượi. Và một mảnh vườn đầy cây trái, ổi xá lỵ, ô môi, xoài thanh ca, khế ngọt... Trưa xách cây chét ra vườn hái trái dừa, chặt ống trúc nhỏ ngồi hút thứ nước ngọt thanh thao mát lành đó. Mưa xập xoài, măng tre lú lên mụt nào mụt nấy ú ì, chờ cao cỡ ba gang tay, má đi chợ mua giò heo về hầm một nồi canh, nước vàng óng như tráng một lớp mỡ. Lâu rồi, hễ nói tới miệt vườn Tây Nam bộ ai cũng mường tượng ra một đặc trưng kinh rạch và cây trái. Cà Mau là đất mặn, hồi đó chỉ có một nhúm cây trái thôi, bây giờ lại càng hiếm hoi nữa. Vườn trơ đất trắng, nước đầm đià nước. Nắng pha phả vào mặt. Tôi hỏi cậu tôi có phải vì con tôm mà bà con mình đánh mất cái vẻ đẹp làng quê đã có bao đời. Cái ký ức đẹp mà những người xa xứ như tôi đêm ngày thương nhớ.
Cậu tôi cười, ông uống một hớp rượu, vấn một điếu thuốc, ra vẻ trầm ngâm, ông bảo, thì ông cũng tiếc chớ, ông cũng đã gắn bó ở đây mấy chục năm rồi. Nhưng mẩy coi, huê lợi từ vườn cộng với giá lúa rẻ bèo, tao nuôi hai đứa em mẩy học ngoài thị xã còn muốn ná thở, biết chừng nào mới khá.
Thấy trên đài người ta nuôi tôm giàu bắt ham, rồi nhà nước cho chủ trương, còn chờ gì nữa mà không tính chuyện đổi đời. Hồi đó, ông ngoại mấy với tao trồng cây ăn trái là cũng để cho sắp nhỏ sau nầy, bây giờ tao đốn thì nghĩ cũng cho tương lai con cháu sau nầy chớ đâu. Mà, cái thằng nầy, thiệt, uống tí rượu mà sanh tật, thân già tao không tiếc sao mấy ngồi tiếc mấy cái cây hoài vậy?
Tôi không nói nữa, anh K. Có gì mà nói lời của cậu tôi cũng như tâm ý của bà con Cà Mau là vậy. Hy sinh nhiều thứ để hướng tới xây dựng tương lai cho mình, cho con cháu mình. Tôi uống với cậu tôi và chịu thua.
Nhưng thật lòng, anh biết không, tôi vẫn thấy buồn ghê lắm. Anh em mình thường nói, sợ nhất là cảnh còn mà người mất, nhưng xem ra chịu tâm trạng cảnh mất ngườí còn cũng đau đâu có kém gì.
Lên trang này ngày 10-2-06
Bà già vui vẻ
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

Bạn thích đi mua sắm, thấy xao xuyến khi bước vào siêu thị, hăng hái chọn mua đồ cho chồng con (tất nhiên diện cho mình là ý nghĩ hàng đầu), là chuyên gia "thăm dò" hàng mới và trên đường về bạn luôn ghé đâu đó ăn uống, đặc biệt là ở lề đường? Người cùng cơ quan nói tánh bạn đôi lúc hơi nhăn nhó khó khăn?... Song, ba mươi năm sau, bạn sẽ biến thành một bà già vui vẻ, vui vẻ như tuổi mười lăm, mười bảy. Bài trắc nghiệm đã nói vậy, rõ ràng.
Bạn không tin. Con nhỏ cũng đâu có tin, nhưng lạ lắm, nó bần thần, nó ngây ngất suốt những ngày sau nữa với cái kết quả trong bài trắc nghiệm kỳ lạ đó. Ở tuổi sáu mươi, nó - một bà lão quậy tưng, suốt ngày cười ha ha với đám con cháu, thích ngao du, dù già sự năng nổ và ham thích mới lạ vẫn không thay đổi, thậm chí còn tăng (vì vào độ ấy, người ta nghỉ hưu rồi, rảnh muốn chết), những hình ảnh đó làm con nhỏ phấn khích. Tự nhủ đừng có tin mấy trò nhảm nhí này, nó còn tệ hơn vụ bà thầy bói nói sắp tới nó sẽ gặp ý trung nhân, là mối tình đầu, là duyên kiếp trước (trong khi ta đã gặp vài ba mối tình đầu, thêm một mối tình đầu nữa, đã sinh cho anh ta một thằng nhóc rồi). Rồi con nhỏ lại tìm cớ cãi lại, đâu có, tui thấy chi tiết hồi trẻ khó, về già sẽ dễ dãi (và ngược lại, theo kinh nghiệm từ ba và sếp, hai ông già đang khó tánh chịu hổng nổi) tin được quá đi chớ.
Con nhỏ, giống như một người đi trên con đường dài thăm thẳm, đã mệt ngất ngư, đã chớm chán chường, đã toan rẽ ngang, bỗng dưng phát hiện ra đằng phía mịt mù đó (có thể) có nắng và hoa. Và cỏ xanh rờn... Không chắc, nhưng dường như có một cái gì đó tươi đẹp, đang chờ mình. Vậy thì ngu sao hỏng tin cho đời bớt nhọc nhằn đi.
Ngày đó, chắc là da con nhỏ đã nhăn nheo, nhất là hai bên khoé miệng, đuôi mắt (do cười quá nhiều !?), nhưng nó luôn giữ cho mình chỉn chu, tươm tất. Và ngọt ngào. Đám cháu luôn bảo, ngoại (hay nội) tánh tình như hồi còn con gái. Với chúng nó, con-nhỏ-tuổi-năm-mươi giống như người bạn thiết. Bà bạn già cởi mở, không cử nhử cằn nhằn khi tụi nó đi sớm về khuya (vì bà cũng từng đi sớm về khuya), tụi nhỏ dán poster đầy nhà, bà khen Bea Yoong Joon đẹp trai dễ sợ, rồi tế nhị bảo, phải Britney chịu khó mặc cái áo đủ vải thì dễ thương hơn nhiều. Bà gật gù lắc lư xem MTV cùng bọn trẻ để sau đó rủ chúng nghe... cải lương với mình. Nói về máy vi tính, về Internet, về các sản phẩm kỹ thuật số, các trào lưu mới, bà già rành sáu câu. Cả nhà toàn mặc quần áo do bà sắm sửa, vừa thời trang, vừa rẻ tiền. Xem phim, những chỗ hài hước bà cười nghiêng ngả, chỗ tình tiết cảm động, bà già khóc như mưa (Có thể sao? Vì ngay bây giờ con-nhỏ-tuổi-ba-mươi không dễ khóc cười khi mà cảm xúc đã sắp chai sạn vì nếm trải, hoài nghi).
Ngày đó, con nhỏ sẽ nối lại tình bạn bè xưa (vốn đã dứt lìa từ khi bận bịu văn chương, rối bù với công việc gia đình). Vái trời tụi bạn cũng được trở thành những ông bà già vui vẻ. Con nhỏ sẽ rủ bạn cùng đi du lịch, thăm thú đầu núi cuối sông, mỗi cặp chở nhau bằng Honda xuyên Việt (dường như cái máu khoái mạo hiểm hồi trẻ vẫn dào dạt trong nó), tưởng tới cảnh một sớm mai nào, dựng xe trên một đỉnh đèo lộng gió nhìn xuống biển xanh ngằn ngặt, mà thèm. Ngót nửa đời, con nhỏ lủi thủi một mình với thế giới văn chương, ở tuổi năm mươi, nó muốn chia sẻ cuộc sống (vui vẻ) với bạn bè. Chiều chiều, con nhỏ và bạn hẹn nhau ăn bún nước lèo, bánh xèo hay sáng sớm cùng tập dưỡng sinh và đá cầu ở công viên. Nó sẽ mời bạn về nhà mình (bù lại nửa quảng đời trước nó không cho ai tới). Chuyện nhà nhỏ nhà to, chuyện sang hèn với nó không còn quan trọng nữa, bạn tới, đãi khoai lang luộc chấm mỡ hành, sau đó hát karaoke, cũng vui thấu trời xanh.
Những gì mà con nhỏ hình dung ra, ngót một nửa là những chuyện mà suốt thời thanh xuân nó không làm được, không muốn hoặc không thể làm. Ví dụ như nó sẽ đến trường, học cái gì đó vừa hay vừa vui. Hoặc tìm ai đó... Bao lần đi qua một vùng đất, bao lần nghe một cái tên hay ngửi lại mùi quen thuộc, là bao lần nó day diết nhớ một người (với nụ cười từng làm con tim chết điếng). Rồi xe chạy huốt, rồi bận làm gì đó hoặc nghĩ tới truyện ngắn sắp tới, rồi nguôi, hồi trẻ là vậy. Nhưng con-nhỏ-tuổi-năm-mươi thì không chịu, khi nào nhớ, nó sẽ lặn lội đi tìm. Dù chỉ để nhìn nhau và móm mém cười. Dù bẽ bàng nhận ra dáng xưa, mùi xưa, tóc xưa, tình xưa phai màu... Về với cái tổ rối nùi của mình, ngồi uống trà với ông lão nhà mình trong buổi sớm mai, khi tụi trẻ đã lũ lượt ra đường, nhà vắng đến nỗi nghe con ong bầu vo ve phía hàng rào (ủa tới lúc đó nhà mình có ọp ẹp như bây giờ không mà thấy cái hàng rào tươm tất quá vậy cà, con nhỏ chợt nghĩ). Trong khói sóng sánh, con nhỏ bỗng thương cái người đang ngồi trước mặt mình, trước giờ thỉnh thoảng nghĩ ông này già hơn ông kia, đâu phải nè... Thật không công bằng khi so sánh ổng - người cùng với mình già đi từng ngày với kẻ trẻ hoài trong ký ức tuổi hai mươi.
Những hình ảnh tung tẩy, nhiều màu sắc đã kéo cái ngày con nhỏ năm mươi tuổi thật gần. Gần như thể ngày mai không phải làm việc cật lực, dậy sớm đi chợ làm cá nấu cơm, thức khuya để vật lộn từng con chữ; không cần nghĩ tới việc tìm một chỗ ngủ cho thằng con, rồi chạy trường cho nó; không cần lo vách nhà đã mục, sàn sau đã bị sóng đánh dạt mấy cây cột cặm, biết có chịu nổi mùa nước rong năm nay? Và bệnh tật, và bất trắc...
Không phải, nỗi lo còn nguyên, cực nhọc còn nguyên, nhưng chúng không còn nặng nề, ngột ngạt trong lòng con nhỏ, dưới cái vầng sáng xanh dịu dàng hiện ra phía chân trời...
Có khi bài trắc nghiệm đó chỉ giỡn chơi thôi, có khi tuổi năm mươi của con nhỏ cũng y chang như bây giờ, tất bật và tất bật (chẳng còn tóc để mà rụng, nên bới cái đầu tóc mượn chơi). Có thể tới được cái viền chân trời ấy, không có khỉ khô gì, không cỏ hoa, chim chóc và ong bướm... Nhưng đứng ở đó, ngoái lại con đường thật dài mà ta vừa đi qua, không thấy kỳ diệu sao? không ngạc nhiên lắm sao? không bật cười sao?
Mùa hoa giữa phố
Tạp văn

Nguyễn Ngọc Tư

Mùa báo hiệu bằng một vạt cây kiểng bày ở góc đường. Có lẽ họ chuyển cây suốt đêm hay sao, mà sớm ra đã thấy mai chiếu thuỷ, mai trắng, mai vàng ngậm sương. Những cây mai còn chưa tuốt lá. Bên cạnh đó là những cây kiểng còi, con con. Dăm bụi chùm rụm được tạo dáng chó (năm ngoái là gà, năm nào thì tạo hình ứng với con giáp ấy), nai, phượng, rồng… Lọt thỏm giữa phố chợ đông đúc, nên cả rồng cũng ngơ ngác.
Tôi qua đường sáng ấy, nửa nôn nao nửa thất thần, mèn ơi, Tết tới nơi rồi. Ngày nào cũng xem lịch, cũng biết ngày Xuân đang đến thật gần, nhưng khi thấy hoa tràn về chợ mới thật sự vào cuộc gấp rãi. Rồi bận bịu coi in báo Xuân. Dọn dẹp cơ quan. Trang hoàng nhà cửa. Sắm sửa Tết. Túi bụi cắm mặt vào những công việc cuối năm. Ngẩng lên, bỗng ngộp thở, ngây ngất con đường đến Hội Văn nghệ ngập tràn cây kiểng, hoa tươi, đến nỗi vào cơ quan chỉ còn lối đi nhỏ xíu.
Hoa chẳng cần nói gì hết, điềm nhiên rực dưới nắng trời. Con người sững sờ, sướng điên lên với cái đẹp không lời đó. Cái buồn vì sắp “bị” thêm một tuổi biến đâu mất. Mùa xuân quả là đáng chờ đợi, vì ngọn gió hiu hiu này, vì sự đoàn tụ và sum họp này, vì chỉ dịp này, những con đường ở trung tâm thành phố vốn khô khốc bê tông mới trở thành dòng sông hoa, uốn lượn rực rỡ.
Năm nào cũng vậy, anh cây kiểng đến trước, khi ấy chợ hoa Tết còn vắng. Chỉ có những người bán lặng lẽ đứng tuốt lá mai, sửa sang lại thế cho mấy cây kiểng còi, đôi ba người khác chồm hổm xúm quanh mấy hộp cơm nhỏ xíu. Tôi bỗng chạnh lòng, vào thời điểm mà người ta dồn hết tâm trí về gia đình, chăm chút cho mái ấm thì họ, những người bán hoa Tết lại vào mùa xa nhà. Vạ vật ở những vỉa hè nắng chang chang, thót tim khi thấy hoa chảy tràn ở các ngã đường, có người thở dài; nhìn hoa trở chứng nở rộ khi mới hai ba tháng Chạp, có người nuốt nước mắt. Dường như Lâm Đại Ngọc trong Hồng Lâu mộng cũng không nát lòng bằng người bán hoa khi nhìn từng cánh hoa rơi, mà giao thừa còn năm bảy ngày mới tới. Lại phải thấp thỏm với cuộc được – mất, lỗ – lời…
Họ, phần lớn là nông dân, nom lấm lem và lạc lõng, gương mặt sương nắng dạn dày. Suốt cả ngày ba mươi Tết, họ không thể ngồi, chỉ đứng, ngó mong. Có lẽ, trong lồng ngực họ, nhịp tim bắt đầu hối hả, nhanh dần, nhanh dần… Và thắt lại khi pháo hoa nở rực trên nền trời, những công nhân vệ sinh chợ bắt đầu dồn đuổi thấp thoáng, người bắt đầu thưa khi hoa vẫn còn rực lên một cách tuyệt vọng.
Chỉ kẻ mua là nhẩn nha, mặc cả cho hết giá. Dường như con người ta có một chút khoái trá khi thấy kẻ yếu bị dồn đến cùng đường. Mấy ai nhìn vào khuôn mặt sạm nắng của người bán, để thấy bất nhẫn, giống như mình bỏ thêm muối vào mồ hôi, làm họ càng thêm xót xa thêm. Tôi cũng có lần giận mình, giận luôn chị bạn đồng nghiệp. Mấy cái Tết liền chị không bỏ tiền mua hoa, chị chờ sau giao thừa, cười toe đi lượm hoa ế người ta bỏ lại. Khó khăn ai cũng có, sao không chia sẽ một ít cho nhau?!
Sáng mồng Một qua những con đường này, thấy sót lại vài vạt hoa, vẫn vàng vẫn đỏ, vẫn hồng rực rỡ nhưng sao thấy buồn hiu hiu như người con gái vẫn còn đẹp nhưng quá thì. Chắc người bán cũng đau lắm khi dứt áo trở về nhà. Tôi hình dung, trên một chuyến xe nào đó ngược về Đồng Tháp, hay Bến Tre, họ chào đón năm mới với những nỗi lo trĩu lòng.
Chuyện của Sơn, Thịnh mà tôi biết còn buồn hơn. Năm ngoái, hai anh này “đóng quân” trước Hội văn nghệ. Hôm chuyển cây kiểng xuống, cả hai ngời ngợi vỗ tay cười, nói “năm nay tụi tui làm trùm chợ Cà Mau. Toàn hàng “độc quyền” không thôi. Đây nè, ở đây, cô mà kiếm được cặp cau Nhật nào giống như vầy, chặt đầu tụi tui”. Một người chạy xe ôm đứng nhìn cây cau, buộc miệng, “ủa, sao giống cây chà là quá ta”. Trời, ai đời cây cau nhập ngoại giá cả triệu bạc mà nói giống loại cây hoang dại mọc dọc theo những triền sông. Tôi ngờ là câu nói ấy chắc là điềm báo. Hoa kiểng dội chợ, hai anh chàng ngồi buồn đi buôn… lỗ hơn mười lăm triệu. Sáng mồng ba, tôi đến cơ quan trực, thấy anh Sơn ngồi ở đó, mặt buồn thảm buồn sầu, bộ râu xuôi xị, tiu nghỉu. Anh bảo hồi đi vợ đã cản nhưng anh không nghe, bây giờ về thế nào gia đình cũng xào xáo, đầu năm đầu tháng mà… Ngồi nói chuyện với tôi, một chút anh lại gọi điện cho Thịnh, hỏi với giọng rầu rĩ, tình hình êm chưa mậy? Báo hại, bộ phận công đoàn của cơ quan hí hửng tưởng đâu thu được ít tiền điện, nước, ai dè… nghèo gặp nghèo hơn.
Năm nay, những tờ lịch đã rụng dần về Tết, nhắc chuyện cũ, người cũ, nhớ mấy lần cùng nhau trải chiếu nhậu giữa sân, một anh đồng nghiệp bỗng thốt lên, “sợ lại năm nay hai thằng cha đó không quay lại nữa”.
Ờ, có thể… Nhưng cây kiểng và hoa không vì thế mà lỗi hẹn, chúng vẫn trãi đầy trên những con đường trung tâm thành phố, chúng vẫn như dòng nước mát, tưới tắm tâm hồn người, làm dịu khi khói bụi thị thành.
Có điều, người năm cũ không quay lại, tôi và anh bạn đồng nghiệp biết uống rượu cùng ai. Anh Sơn, anh Thịnh ới ơi!

Tám mươi phần trăm*

Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư


Bạn bè bảo tôi viết về đề tài nông dân là quá trời khôn, đối tượng đọc nhiều, mà đề tài cũng phong phú, đến tám mươi phần trăm dân số của Việt Nam là nông dân kia mà. Tôi nghe, cười, chảy nước mắt ra, như khóc.
Phải, tôi đang viết về họ, những người nông dân nhưng viết trong im lặng rợn người, không phản hồi, không chê bai. Chẳng có bao nhiêu trong số tám mươi phần trăm ấy đọc được những gì tôi viết. Với họ, văn chương vừa là thứ xa xỉ, vừa là đồ bỏ đi. Có người còn không biết chữ, có người áo không lành, có người không đủ gạo ăn, dậm lia thia trên những cánh đồng năn bỏ vô keo chao để đem ra cổng trường tiểu học ngồi bán... Những người ấy, tôi bưng văn chương tới cho, họ còn nổi quạu, chửi thề, phải trái bắp, gói xôi.. còn giúp người qua bữa, chứ một đống chữ làm sao no lòng.
Và những ảo tưởng văn chương của tôi đã tan, lâu rồi. Nhiều lúc, ngồi trước trang viết, tôi thấy tuyệt vọng. Làm sao diễn tả được cái xót của mồ hôi chảy xuyên qua chân mày xuống mắt một người gánh nước giữa nắng trưa tưới cải? Làm sao nào chuyển tải được cái đau thắt ruột khi nhìn đồng lúa sắp thu hoạch của mình tả tơi trong mưa bão? Làm sao tôi lột tả được tâm trạng của người cha khi những đứa con giành nhau cạo cơm cháy? Khi cuốn chiếu ngồi chò co nhìn mưa nửa đêm giột tinh tang xuống đầu giường? Họ buồn, nhưng buồn đến độ khủng khiếp nào? Tôi biết diễn tả cái buồn ấy ra làm sao? Bởi so sánh với nỗi buồn... mất điện thoại của tôi, nỗi buồn mất việc, hay thất tình của bạn, thì quá khập khiểng, chênh vênh.
Và ngay cả nỗi vui của người nông dân, cũng khiến người ta thắt lòng khi chia sẽ. Tôi có quen một người vừa được giao việc xé phiếu thu tiền nhà vệ sinh chợ xã. Gặp tôi trong cái ngày “trọng đại” đó, ông hồ hởi khoe, “nhà tôi giờ có đồng ra đồng vô rồi, cô ơi”. Nghe nói, ông cũng trần thân, làm đơn xuôi ngược, cuối cùng, “ghi điểm” là vì gia đình không đất sản xuất, mới được "chọn mặt gởi... nhà vệ sinh". Vậy đó, người ta vui muốn chết, mà tôi thì không thể buộc miệng cười. Bởi nét mặt sương gió của ông tôi thấy lẫn khuất sự xót xa. Cũng vậy, cái người vừa nhận được sổ nghèo kia, làm sao trong mắt họ chỉ có hớn hở mà không vương chút tủi buồn. Cực chẳng đã… Chợt nhận ra, niềm vui của người nông dân bé mọn, giản dị, đạm bạc biết chừng nào. Chỉ cần một mùa lúa trúng. Một chén cơm đầy với thịt cá tươm tất. Một chiếc ti vi để coi cải lương vào mỗi chiều thứ sáu. Một chiếc xuồng nhỏ để đêm đêm đặt trúm, giăng câu…
Tôi bắt đầu nghĩ tới ngày mình không viết về những người nhà quê nữa. Bởi tôi không có nhiều lựa chọn, hễ viết về nông thôn là nói ngay tới cái cơ cực, thiệt thòi, nghèo đói. Một sự lặp lại nhàm chán. Mới đọc cái tựa là người ta biết tỏng tòng tong trong bài ấy tôi nói cái gì. Ai nghĩ là tôi vớ được đề tài phong phú đâu. Ai sẽ chấp nhận tôi viết như vầy, “sớm đó chú Hai Lúa đi đánh tennis với mấy ông bạn láng giềng về, đang dắt con chó becgiê đi chơi điện thoại chợt reo tửng từng tưng, giọng Ba Ngô bên kia xởi lởi, lâu qua không gặp cha nội rồi, chiều nay lại nhà hàng Diễm Diễm uống với nhau một bữa, tui mới lên mấy ao cá được gần một tỉ đồng đây. Mà, mùa lúa rồi ông cũng thu năm trăm triệu chớ ít gì…”. Bạn đọc sẽ thấy ngộ, thấy kỳ cục, vô duyên đến mắc cười. Bi kịch hơn, là người đọc sẽ mắng tôi xối xả, nông dân đã khổ muốn chết rồi, mà nhà văn còn chua xót, mỉa mai… Buồn thiệt buồn, phải nhân vật trong đoạn văn trên là cán bộ, doanh nhân, thì quá hợp lý, còn đằng này…
Tôi nhận ra, tám mươi phần trăm dân số Việt Nam, con số này giống như cua ốp, nghĩa là có vẻ hùng hồn, to tát vậy, chứ trong ruột teo héo, rỗng không. Người ta chẳng nhớ tới họ khi khi nghiên cứu đề tài khoa học hay thiết bị máy móc này nọ (kết quả là nông dân tự mày mò chế tạo ra máy để gặt, sấy lúa, gieo mạ, tách hạt bắp, đến cả… máy bay). Người ta quên mất tiêu (hay giả bộ quên) nông dân khi quyết định tăng học phí, tăng giá tiêu dùng, khi chia chác đất đai… Và nhiều lúc người nông dân bỗng vô hình, trong vắt trong mắt những công chức ít khi cười. Có cảm giác như người nông dân sống bình dị, lặng lờ quẩn quanh trong luỹ tre làng lâu quá nên đã bị lãng phai đi.
Ngày mai này, tôi cũng buộc lòng quay lưng với họ, làm ơn ai đó, cất lên dùm những tiếng nói xót xa!!

(*) Con số này không chính xác, có thể ít hơn vì những chàng trai cô gái quê đang lũ lượt rủ nhau phiêu bạt kiếm sống giữa các thành phố, các chợ người, những cuộc hôn nhân may rủi. Có thể nhiều hơn, vì những người ra vẻ kẻ chợ chảnh choẹ như tôi, rốt cuộc cũng nằm trong tám mươi phần trăm bé mọn ấy.
Trò chơi quên nhớ

Truyện ngắn

Nguyễn Ngọc Tư

“Lam đã đóng vai người đang yêu trong hai năm, dài, dài lắm. Nhiều khi Lam nghĩ, không biết đám cưới xong thì đời dằng dặc đến chừng nào. Hay đến một lúc, Lam đã diễn quen, đến không thể sống thật, không thể trút lớp?”.
Trước bữa đi công viên để chụp hình đám cưới, Lam gặp tai nạn do lái xe chạy quá nhanh khi qua cua. Lồm cồm ngồi dậy, thấy có mấy vết trầy xước nhẹ ở khuỷu tay, phía đầu gối hơi rát, Lam dựng xe lên, chạy một quãng bỗng nghe máu rịn qua chân mày, chảy xuống mắt. Quệt vệt máu, Lam chợt nghĩ ra một trò thiệt vui. Lam giả đò mất trí nhớ.
Hồi nhỏ, Lam hay nghĩ ra nhiều trò chơi lạ. Có lần, Lam trốn dưới gầm giường cả ngày, ngoại hoảng lên nhờ hàng xóm nhảy xuống ao mò táo tác. Không thấy, ngoại mếu máo nhắn đò kêu mẹ Lam về. Khi tàu từ phía chợ gầm gừ ghé bến, Lam không chịu được, nó chạy tung ra mừng "Mẹ, mẹ ơi!". Đang nẫu nuộc, bồn chồn, mẹ Lam bỗng ráo hoảnh, mẹ giận dữ tát mấy cái vào mặt vào vai vào mông Lam. Nó nghe đau rát nhưng chỉ cười nhe ra mấy cái răng sún, Lam thèm được nhìn thấy mẹ biết bao. Sau này, mỗi lần nhớ mẹ, Lam đều chơi lại trò đó, ngoại luôn tìm ra nó dù ở xó xỉnh nào, kẹt lu hay trong nhà củi. Lớn lên, Lam thấy mình dại. Bởi ngoại có nhắn, thì mẹ cũng biết tỏng là mánh khóe của Lam, mẹ cũng không về. Mẹ Lam bận. Mẹ muốn giàu có, thành đạt. "Con nghèo như vậy quá đủ rồi", những lúc ngoại Lam càm ràm này nọ, mẹ hay nói vậy, và cắn môi ngó qua sông. Bên đó, có người lên thành phố, không về, yên phận đời phò mã cho một công chúa nào đó.
Mười hai tuổi, ngoại mất, mẹ rước Lam về chợ. Tối nào mẹ có khách đàn ông là Lam lại lui cui kiếm chuột bắt chơi. Nó hì hụi quanh phòng khách, thọc đầu ngó nghiêng chỗ này, xó nọ, miệng mắng mỏ, con quỷ sứ, mầy trốn đâu rồi, tao đập đầu cho chết cha. Lâu lâu lại chép miệng:
- Trời, mới đây mà khuya lơ khuya lắc rồi.
(Vậy mà thằng cha mày không chịu về phứt cho rồi). Mẹ nhìn Lam thom lom, mắt quắc lên. Sau, hễ chạng vạng, mẹ Lam lại ăn mặc thơm phức, xách xe đi. Chuột bò nhộn nhạo Lam cũng kệ. Một bữa, Lam xin mấy lọ thuốc không về quăng vung vãi quanh mình rồi nằm im lìm như người chết. Khuya xa xắc mẹ mới về, ngang qua Lam, mẹ càm ràm, "bữa nay bày đặt làm trò gì nữa đây ?!" rồi đi thẳng lên lầu. Lam thấy nếu mình chết thật thì uổng quá. Thôi.
Cái trò mất trí nhớ nầy cũng không phải là sáng tạo gì mới, trên phim thiếu gì, ai coi cũng cảm động muốn chết. Lam nghĩ Son Ye Lin diễn đâu phải hay mà vẫn lấy nước mắt của người ta, mình cũng làm được tuốt. Lam bất thần chao đảo rồi dừng lại giữa đường, thụp xuống ôm đầu. Xe cộ ùn lại một cục, có người hỏi cô bị làm sao vậy, Lam ngẩng lên, ngơ ngác, lắc đầu. Hỏi nhà ở đâu, Lam lắc đầu, ngơ ngác. Vết máu trên trán vẫn chưa khô.
Lam được người ta đưa về nhà. Lam bắt đầu sống với những người xa lạ (theo đúng kịch bản). Mẹ nghe báo tin hớt hải chạy về. Lam thấy mẹ nắn tay nắn chân mình bèn rụt rè hỏi, "Chị ơi! Chị là ai?!" bằng vẻ mặt ngây thơ hết biết. Mẹ thảng thốt kêu lên:
- Trời ơi, sao vậy Lam, tuần tới là đám cưới rồi đó.
Lam cười, đờ đẫn nhìn quanh, đám cưới, mà đám cưới ai? Lam thấy trong mắt mẹ sự sụp đổ, tuyệt vọng.
Cuộc chạy chữa bắt đầu, mẹ đưa Lam tới những bệnh viện nổi tiếng nhất, những bác sĩ giỏi nhất. Cuối cùng, người ta đoán, có thể sự va chạm mạnh vào đầu làm xóa đi vùng ký ức, nhưng hiện tượng này chỉ tạm thời thôi. Sẽ phục hồi nhanh nếu những người thân thuộc khơi gợi lại những kỷ niệm sâu sắc, càng nhiều càng tốt.
Đưa Lam về nhà, mẹ nhìn đống thiệp thơm phức thở dài, ủ ê. Ngày cưới sắp tới mà cô dâu không nhận ra chú rể, đúng là thảm kịch. Suốt thời gian đó, Thái chỉ biết nắm tay Lam, đau đáu:
- Anh nè, anh là Thái nè, em nhớ chưa?
Lam khổ sở lặp lại như cái máy, "Dạ, Thái..." nhưng không có vẻ nhớ ra cái người chỉ vài hôm nữa sẽ làm chồng mình. Chiến dịch khơi nguồn ký ức đã bị Thái mở màn thảm bại, Lam mở con mắt ra bộ kinh ngạc khi nghe Thái nhắc hai đứa quen nhau trong bữa tiệc sinh nhật nhỏ bạn, hôm đó Thái hát xong, Lam vỗ tay khen hay, nhớ không? Nhớ không, quán cà-phê "Thiên Đường", chỗ hai đứa thường hò hẹn? Nhớ không, lần Thái dắt Lam về nhà ra mắt cha mẹ, Lam đã làm đổ chén chè lên áo? Noel mới đây, hai đứa bị kẹt xe gần hết đêm, nhớ không? Lòng Lam quặn lại, khi nhận ra những thứ mà Thái gọi là kỷ niệm, chúng ráo hoảnh, tươm tất kỳ cục. Những chi tiết đơn điệu đã làm nên một mối tình đơn điệu, giá mà có thể chỉnh sửa để kỷ niệm sâu sắc hơn, thí dụ như cùng nhau đi tung tăng dưới trời mưa, trên con đường chiều vắng ngắt, ướt ngoi ngóp, tối đó còn kèm thêm một trận sốt nhớ đời. Hay còng lưng chạy xe đạp chở nhau ra ngoại ô, chỉ để đứng trên cầu ngắm mặt trăng biếc ngần mắc vào lưới vó dưới dòng kinh...
Lam cố tỉnh bơ không để ý nghĩ hiện ra mặt. Lạt lẽo tiễn Thái về, còn một mình, Lam vùi đầu trong mền cười ha ha ha, tự khen mình diễn hay tới không ngờ. Có thể cái trò chơi đóng vai không lạ lẫm nữa. Từ sau bữa tiệc sinh nhật hôm đó, Thái đưa Lam về, mẹ cũng vừa trờ tới, thấy Thái, mẹ kêu lên, giọng trách móc nhưng cực kỳ dịu dàng:
- Trời đất, Lam, sao con không mời bạn vô nhà chơi?
Sau, biết Thái đang làm việc ở Sở Tài chính, lại là con trai của phó chủ tịch tỉnh, Lam không ngơ ngác nữa. Lam thấy mình có bổn phận phải yêu người này, như một cách đỡ đần cho công việc kinh doanh của mẹ, dù Lam nói về sông, về đồng, về những sa mưa cá rô lóc trên sân, hay về một người bán vé số mù hôm qua chết dưới dạ cầu, Thái không biết gì hết. Chẳng sao cả, Lam sẽ yêu. Những ngày tháng đó đối với Lam như một giấc mơ. Mẹ nhắc chừng Lam từng chén cơm. Lam đi chơi, mẹ chọn áo, tiễn Lam ra cửa, âu yếm dặn dò:
- Chơi vui nghen, hai đứa.
Lam nũng nịu ôm eo Thái cho đến khi mẹ quay đi, nếu phải sống giả để nhận sự quan tâm, trìu mến của mẹ, cũng đành.
Và Lam đã đóng vai người đang yêu trong hai năm, dài, dài lắm. Nhiều khi Lam nghĩ, không biết đám cưới xong thì đời dằng dặc đến chừng nào. Hay đến một lúc, Lam đã diễn quen, đến không thể sống thật, không thể trút lớp?
Chơi trò quên nhớ này thì vui hơn giả bộ yêu nhiều. Không phải đắm đuối, ngọt ngào nữa, bây giờ chỉ việc đưa cái mặt ngơ ngáo, đờ đẫn ra với đời. Và cứ vậy, vui từ sáng sớm, khi chị bạn cùng cơ quan hối hả chạy lại thăm. Ngồi với nhau, chị cứ chắc lưỡi xuýt xoa (mà không giấu được vẻ hồ hởi):
- Lam quên thiệt sao ? Chị Huê nè, hổng nhớ cái gì hết hả?
Lam ngượng nghịu lắc đầu, mắt trong veo. Nhìn vào cái vẻ hớn hở không chịu được của chị bạn, Lam muốn sặc vì buồn cười, chắc chị nghĩ Lam quên tuốt món nợ bốn triệu mượn tay rồi, nên mới mừng húm như vậy, ra về mà cứ tủm tỉm cười hoài.
Cả anh bảo vệ cũng tới nhà, cũng tỏ mặt đau thương (nhưng trong bụng thì mừng rơn). Cái nhìn xa lạ của Lam đã giúp anh yên tâm hơn, vụ anh dỡ nắp cống và cắt hàng rào gai đi bán chỉ mình Lam biết, chắc chắn được xóa sạch trong vùng ký ức.
Lam thấy mình ứa nước mắt ra. Cười mà như khóc.
Trong nỗ lực tuyệt vọng nhằm cứu vãn ký ức của con gái, mẹ Lam đã cầu cứu gần hết đám bạn bè, đồng nghiệp của Lam. Cả bà cụ bán đậu đỏ bánh lọt ở bến đò mà Lam hay lui tới. Những kỷ niệm lạt nhách lạt nhiểu được xướng lên. Lam vẫn trơ trơ, vẫn xa vời và ngơ ngác.
Thảm họa là mẹ Lam cũng chẳng có kỷ niệm nào hằn sâu thành vết để cùng Lam ôn lại, khơi gợi. Những chuyện Lam nhớ ghê gớm thì mẹ Lam không nhắc. Có thể nhắc làm mẹ đau. Có thể mẹ Lam không biết, hay đã quên mất rồi. Ví như bữa mẹ ném Lam lại cho ngoại, rồi đi, mẹ xuống đò không ngoái lại làm sao biết con - Lam - năm - tuổi đứng trên bến giãy khóc đến tím người. Hôm Lam nhận giấy báo vào Đại học, mẹ bận đi công vụ ở Nhật làm sao biết Lam cuồng lên vì vui.
Lam nghe đau như tim có một vết dằm. Cái ngày (đáng lẽ có đám cưới) đã nặng nhọc trôi qua. Mẹ Lam thôi rầu rĩ, hay ủ ê cũng chán rồi. Mà, dù chưa chính thức làm thông gia với phó chủ tịch thì thâm tình cũng đã sánh như mật, công ty của mẹ Lam cũng kiếm được nhiều hợp đồng lớn nhờ mối quan hệ này.
Lam bắt đầu nghĩ tới việc kết thúc trò chơi, bởi nó không còn gì để chờ đợi, để bất ngờ. Một bữa, vừa mở cửa, con nhỏ bán vé số thò đầu vào thầm thì, "Có ông nào đứng dòm nhà chị hoài, lạ lắm, chị ơi". Lam ngó ra, người nọ quay đi. Chỉ thấy áo jean đã bạc, chiếc nón sùm sụp trên đầu, cũng bạc.
Hôm sau, nép sau rèm cửa, Lam lại thấy người đàn ông chần chừ trước cổng nhà mình. Chẳng làm gì hết, chỉ nhìn vậy thôi. Đôi mắt đau đáu, mênh mông. Rồi lại đi, chậm chạp như đang đeo mang một cái gì đó nặng trĩu.
Ngày thứ ba, Lam ào ra níu tay ông ta lại khi ông định quay người bỏ chạy. Lam hỏi:
- Chú quen ai trong nhà nầy?
Ông không trả lời, nhìn Lam thảng thốt, nước sóng sánh trong mắt.
- Lam hả con ? Trời ơi, con lớn bộn vầy sao?
Rồi đọc trong mắt Lam một tia nhìn kinh ngạc, ông thất thần lùi lại, miệng lẩm bẩm, "Phải rồi, con không nhớ ... đâu". Lam nghe lẫn lộn trong câu nói đó có tiếng "ba". Và cảm giác trò chơi quên nhớ của mình sắp vào đỉnh điểm.
Mãi sau nầy, Lam vẫn không quên được ngày mình gặp lại ba (thì ông ta xưng vậy). Vì Lam không nhớ gì (y theo kịch bản) nên không thể vồ vập mừng nhau, cả hai bối rối vì không khí ngượng ngập đặc quánh. Ba Lam ngồi nắn mãi vành nón, chỉ đôi mắt là nhìn Lam chan chứa thương yêu.
- Hồi nhỏ, con bị cái thẹo trên trán. May thiệt, nó gần tan mất rồi...
Lam bất giác đưa tay lên sờ chỗ bị trầy hôm trước. Bỗng thấy thắt ruột, một tuổi thơ Lam chưa hề biết mở ra từng trang, từng trang, từng trang. Hôm ấy nắng nhiều, ba bắt Lam tập lội. Lúc hai ba con nhảy từ cầu ao xuống, đụng phải cọc ngầm, trán Lam loang máu. Sợ với vết sẹo làm con lớn lên xấu xí, ba đi đào củ nghệ, giã ra, rồi đắp lên. Lần khác, ba dẫn Lam đi công viên xem voi.
- Voi hả ba?
- Ừ, ba Lam cười, con voi đó có ghẻ, tội nghiệp lắm.
Lam bỗng có cảm giác mình từng đi công viên thật, và xót xa đứng nhìn con voi bị xiềng xích đang nhai mía, cái đuôi nó liên tục đuổi bầy ruồi lì lợm đang bu xèo xèo. Lam muốn tin (trọn vẹn) rằng, có lần, ba xin vải vụn may áo cho búp bê cưng bằng nhựa của Lam. Có lần, ba với Lam cùng thả diều trên cánh đồng chiều, ba nắn cho Lam con trâu đất đang ngẳn cổ ngắm mây bay ngời ngợi trên trời. Và ngày đầu tiên đến trường, ba trùm áo mưa, cõng Lam trên con đường trơn tuột...
Như thể mình đã trải qua rồi, cảm giác ấy làm mũi Lam nóng ấm hệt máu cam đang rịn xuống. Như thể Lam chưa từng cun cút đi qua thời thơ ấu, chơi trong nhà củi, nhà xuồng của ngoại, bạn bè chỉ những con ong bầu bay tới bay lui.
Ba đi rồi, Lam lại chui đầu vào mền, cười ha ha ha. Cười cho cái trò chơi oái oăm của mình.
Nhưng sáng sau, khi mẹ Lam ra khỏi nhà, ngó mấy con thằn lằn chạy lăn quoăn trên trần nhà, Lam bỗng thèm người. Lam ngờ ngợ thấy dường như mình thích vai diễn mới, vai đứa con được thương yêu. Lam chạy ra cửa thì thấy người đàn ông hôm qua đứng ở đó, mỉm cười. Lam bảo:
- Mẹ mới vừa đi.
Ông chua xót:
- Ừ, ba thấy... nhưng không thể gặp... Ba có lỗi nhiều lắm...
Dường như không có thứ gì xứng đáng để trả công cho sự nghẹn ngào kia, Lam tự nhủ. Cũng chẳng thứ chi có thể đổi được những ký ức mới mà người đàn ông nầy mang lại cho mình.
Nên một chiếc xe máy và vài triệu đồng trong tủ thì chẳng là bao, ngay khi tỉnh sau cơn mê dài, Lam đã nghĩ vậy. Mà, thằng cha đó giỏi thiệt, biết cả chuyện mình thích ăn kem, loại kem múc nước cốt dừa được kẹp giữa hai cái bánh tráng nhỏ.
Chỉ mẹ Lam thì không được thanh thản như vậy. Mẹ ôm Lam, sững sờ nhận ra Lam tin một kẻ lừa đảo xa lạ hơn mình. Chỉ vì hắn ta mua cho Lam kem...

Đại ca Gấu hay ngồi nhìn sông, uể oải, rã rời. Mấy đứa nhỏ trong băng lừa đảo sống dưới dạ cầu Bơ thấy cảnh đó, hỏi nhau, không biết đại ca Gấu gặp chuyện gì? Chuyện gì là chuyện gì? Chắc tại lừa con nhỏ đó dễ quá nên đại ca mất hứng. Gấu nghe, cười khào, không nói. Rồi những khi Gấu nằm một mình trên băng đá, Gấu rất nhớ một nạn nhân, một đứa con gái hồn hậu, chẳng hề e dè nhận cái kem từ tay Gấu. Và trước khi nó thiu thiu ngủ, nó mỉm cười, nhìn Gấu giễu cợt:
- Tôi biết trong kem có - gì - đó... Nhưng sao lần nào tôi cũng phải trả giá, để được yêu thương?
Mỗi khi nhớ lại, đại ca Gấu lại nghe sống lưng mình lạnh buốt, như thể ánh mắt ấy đau nhói, đắng đót quanh đây. Đại ca buột miệng chửi thề khi phát hiện ra, trình độ
Hoang đường
Truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư


Một ngày tháng Mười buồn tẻ. Gió lao rao lạnh, mưa lay phay, buông xuống giữa trời chiếc rèm mỏng tang, ướt sũng. Thêm những tiếng gà eo óc xa xa... Bữa đó, Chín gặp ma.
Những người đang sống bên mình, đang cười đang nói đang đẹp đang yêu, có thể họ là ma, phát hiện đó không đáng thảng thốt, hết hồn sao. Mắc cười, lúc đầu Chín còn tưởng con nhỏ vừa đến trọ cùng phòng là người. Bởi cô ta giống hệt như những đứa con gái Chín thường hay gặp trên đường. Tóc nhuộm vàng pha nâu, từng lọn uốn loăn quăn như sợi mì ăn liền, gương mặt xinh đẹp được trang điểm tỉ mỉ, chiếc áo mỏng tang, hai dây gá hờ lên đôi vai trần, hở nhiều chỗ thịt da tái xanh vì lạnh.
Mùi nước hoa cũng ướt đẫm thành vệt khi cô gái đi qua chỗ Chín ngồi lặt rau lang. Bà chủ nhà đon đả đi trước vẹt đường cho mớ hành lý kềnh càng. Con nhỏ lướt ánh mắt giễu cợt, phủi lên những vật dụng đơn sơ trong phòng, rồi dừng lại chỗ cái áo sơ mi Sở treo trên móc, cô ta ngó Chín, bĩu môi cười.
Chín thấy tuyệt vọng. Chỗ trú thân của Chín, thế giới riêng của Chín đã bị chia sẻ, kể từ bây giờ. Ngay lúc này, Chín ước gì mình có một món tiền, vừa đủ trả cho bà chủ khu nhà trọ, để đá con nhỏ đó văng ra đường. Tưởng tượng cái cảnh cô ta lếch thếch ngoi ngóp ngoài sân Chín thấy hể hả. Nhưng cảm giác ấy kéo dài không được bao lâu, thực tế là con nhỏ đang đứng đây, và tối nay sẽ nằm ngủ trên giường của Chín.
Phải, cả chiếc giường cũng không của riêng Chín nữa. Đứa con gái xa lạ mà Chín còn chưa biết tên đã chiếm giữ nó từ chạng vạng, cô ta nằm xoãi tay, dạng chân dồn Chín ở rìa giường. Phờ phạc nghe cô ta thở đều, Chín trằn trọc, cứ nhắm mắt lại thấy mình phập phều như sắp rớt xuống đất. Nửa đêm, Chín lấn vô, vừa chạm vào con nhỏ thì bỗng nghe một cảm giác lạnh buốt nhói thấu tận chân tóc. Dường như cô ta rỗng không trong chiếc áo phập phều, đến nỗi Chín có thể nằm chồng lên.
Chín vọt khỏi giường. Chín bỏ chạy. Không, chính xác là Chín lết đi. Một nỗi sợ hãi nghẹn ứ trong cổ họng. Ra đến sàn nước, chỗ tắm giặt chung của khu trọ, Chín ngoái lại thấy căn nhà mình như lung linh trong sương, muốn khóc, buột miệng kêu Sở ơi, Sở!
Không ai đón đỡ nên tiếng gọi giãy đành đạc giữa thinh không, vọng lại lòng. Tình yêu làm Chín bình tĩnh lại. Trời ơi, mình đâu có thể bỏ nhà mà đi được, mình phải trở về để chờ Sở, lạc nhau giữa biển người, giờ chỉ còn chút giềng mối này. Sống chung với ma hả, chơi luôn.
So với nỗi đau phải trốn chạy, từ bỏ gia đình, thì những biến cố còn lại, Chín coi thường. Cứ nhìn cái vẻ ngoài rất - người của con nhỏ thì biết, còn nhiều con ma khác đang long rong giữa đời này, lâu rày, có ai hay gì đâu. Thí dụ mình cũng chẳng biết gì đi.
*
Viên giả đò ngủ say khi chị ta trở vào nhà. Nghe hơi thở ngập ngừng, lâu lâu lại có một quãng lặng, đờ đẫn, Viên đoán chị ta cũng đang sợ hãi, giống như mình. Khi chị đặt thân mình trong suốt lên người Viên, lưng chị ta chạm chiếu, Viên giật mình thức giấc vì cảm giác như mình nằm trên tảng đá đầy rêu, nhảo nhớt. Rồi chị ta bỏ chạy ngay lúc Viên định thét lên. Buồn cười, chắc là chị ta tưởng Viên là ma.
Viên muốn cười ha ha ha, vui quá, bữa nay đúng là ngày vui, cho cha, cho mình.
*
Những ngày sau đó là những ngày rất dài, phần vì phải dòm chừng con nhỏ ma, phần vì cuộc chờ đợi đã bước sang tháng thứ ba, ngày thứ sáu mươi mốt. Mỗi tối, nhìn áo khăn của Sở treo trên vách, Chín luôn hy vọng, ngày mai là kết thúc. Sở bước qua cửa, và Chín ngấu nghiến ôm lấy anh. Chị Ba ve chai sát bên nhà chì chiết, “Ngu vừa thôi, rõ ràng là thằng Sở bỏ mầy rồi, chờ chi nữa, mắc công”... Chín không tin, hôm cuối cùng bên nhau, Sở còn hứa tháng Mười này, ngay dịp ở nhà có đám giỗ, Sở sẽ theo Chín về chịu tội với má, với họ hàng. Sở đã thề năm bảy bận, là sẽ yêu thương Chín suốt đời. Chị Ba tức quá hỏi lại:
- Con mèo chạy qua, thằng Sở nói con chó, mầy nhắm tin hôn?
Chín cười:
- Tin. Miễn ảnh vui...
Chị kêu trời. Tánh Chín vậy, yêu hết, tin hết, rút ruột ra để yêu, quăng nguyên con vào yêu, chắt cạn cả mình. Biết là lửa, nhưng con thiêu thân vẫn muốn lao vào cháy hết một lần. Yêu mà để dành, dè chừng, phòng hờ thì vui gì, Chín thường hay nói vậy.
Mỗi ngày qua, Chín lại thấy mình xanh xao thêm một chút. Chín mất việc ở công trường, vì nhiều khi, Chín không nâng nổi cây sắt hay cục gạch chút xíu. Hàng xóm thắc mắc, “Có bầu sao mà ốm nhom xanh ẻo vậy, mậy?”. Chín giãy, “Trời, bây giờ mà có em bé anh Sở giận chết, ảnh nói, hai đứa còn nghèo...” Nhưng sâu thẳm trong lòng, Chín thèm khát trẻ con, có nó, chắc Chín không đến nỗi thắt thẻo vì thương nhớ Sở như vầy.
May, có con nhỏ ma, nhịp sống của Chín thay đổi chút ít. Nó đi cả đêm, có bữa về tới nhà đã rựng sáng, say mèm, son phấn chảy xuống mặt, coi xinh đẹp não nề. Suốt ngày sau nó nằm ngủ vùi, mặc kệ điện thoại di động reo như bị ai cắt cổ. Nhiều lúc nghĩ nó đói, Chín kêu dậy ăn cơm. Nó không mở mắt, lắc đầu, nói cảm ơn rồi lại thở đều.
Có vẻ như con nhỏ vẫn tưởng mình là người. Mà Chín không đành, nói “nhỏ ơi, mầy chết ngắc rồi” không phải phủ phàng lắm sao? Sở hay bảo, yêu nhất là tánh Chín thương người. Bây giờ mới biết, ma Chín cũng thương. Dù nhiều khi, con nhỏ làm Chín giận run. Một bữa, ngủ dậy, bỗng dưng con nhỏ ma đùng đùng lôi áo của Sở xuống, dẫm giày lên rồi đá thốc về phía Chín, “tui không thích dấu vết của tụi đàn ông ở trong nhà nầy”. Chín chạy lại ôm cái áo lấm lem vào lòng, chực khóc. Con nhỏ ma dịu giọng:
- Của bồ hả?
Chín ngoay ngoắt bỏ ra sàn giặt. Nó hỏi vói theo:
- Thằng đó đâu rồi?
Ôi! Ước gì Chín biết Sở đang ở đâu. Một bữa, hai đứa đi coi hội chợ về, lúc qua đường, Chín bị xe máy tông vào. Chín ngất đi, lúc tỉnh, lồm cồm bò dậy chiếc xe gây tai nạn mất tiêu. Cũng không thấy Sở. Tưởng anh chạy đâu đó để mua bông băng cho mình, Chín ngồi bên vệ đường chờ đến khuya xa xắc. Tưởng Sở về nhà, nhưng ở nhà trống hoác. Tưởng Sở đi đâu một chút thôi, ai dè biền biệt đến giờ. Sở nghĩ Chín chết nên không quay lại nơi đau thương này? Hay Sở không thể chịu được khi nhìn thấy Chín đau? Hoặc Sở tự dằn vặt, không mặt mũi nào mà gặp lại người yêu, vì anh mà tai nạn đến với Chín (lẽ ra anh nên đi trước, lẽ ra anh nên nắm tay để kéo Chín lại với mình)? Chín loay hoay, mê mải với những giả thuyết rối nùi, không manh mối.
*
Nhưng có một giả thuyết mà chị ta chưa nghĩ tới, là chị thật sự chết rồi. Viên cố tình không chạm vào cơ thể chị, bởi biết cái chết, bản thân nó là một nỗi đau.
Thế mình sống thì sao, thì không đau, thì sung sướng? Viên tự hỏi, và cười rủ rượi trên giường.
*
Con nhỏ ma dựng quanh nó đầy những bức tường nghi hoặc. Những câu hỏi bỏ lửng... Nó mở ti vi, nhăn nhở chỉ một ông sang trọng nói “ba tui kìa” rồi im lặng khi Chín nhổm lên hỏi thiệt hôn. Bữa khác nó thản nhiên bảo cái nhà ba bốn tầng (cũng trong ti vi) là nhà mình, trong khi nó đang ở trọ. Nhiều tiền mà ở trọ. Ở trọ mà chạy Dylan, chiếc xe trăm ngoài triệu chớ giỡn sao. Cứ vậy, ở con nhỏ ma, không có gì là hợp lý. Coi bộ nó ghét đàn ông, lại có vẻ như đang yêu, đang hẹn hò dù không biết với người nào, vì mới ngọt ngào cùng một người tên Dũng nào đó, cú điện thoại sau lại ngoay ngoắt bảo nhớ Hùng quá, anh ơi.
Khó hiểu, nhưng không ghê rợn như những gì người già hay kể. Nào là ma biết bay, ma lưỡi dài, xoã tóc, ma xanh lét hay ma rút ruột. Rốt cuộc, người ta dựng chuyện khơi khơi vậy thôi, có ai tới được chỗ đó đâu, có đến cũng không trở lại, để kể.
*
Những buổi chiều nhìn người con gái gội đầu bên hồ nước đầy rêu, những tia nắng cuối cùng nhảy nhót trên cổ trên áo chị, Viên thường thảng thốt. Không thể phân biệt được chị ta với người, bằng mắt thường, đến nỗi lúc ra đường, Viên nhìn ai cũng gợn lên ý nghĩ, không biết người hay ma đây.
Không có ranh giới nào, vì chất-người trong người con gái ấy vẫn lung linh, những lần chị thức giấc kéo mền lại cho Viên, những khuya chị mở cửa cho Viên, không quên cằn nhằn, “đi đâu mà gà gáy mới về”, những khi chờ Viên dậy để cùng ăn cơm. Rau luộc chấm chao thôi, Viên cầm đũa, mà cảm giác mắt mình ướt như vừa khóc.
Mười ba năm, Viên chưa từng có cảm giác này.
*
Một bữa nắng nhiều, con nhỏ ma nhờ Chín khui mấy thùng đồ ra phơi cho đỡ mốc. Thùng Một, có vài con búp bê đắt tiền, vài lọ nước hoa còn mới nguyên, mấy cái áo len. Và những khung hình đã cũ. Chín tần ngần trải chúng ra dưới nắng, thấy long lanh những nụ cười.
- Mẹ tôi nè, đẹp hen - Con nhỏ ma chìa tấm ảnh một người phụ nữ trước mặt Chín, rồi lạnh lùng cụp lại - Lấy chồng rồi, đẻ một bầy con bên Mỹ.
Chín ngộp thở, chưng hửng... Con nhỏ cười, cái cười kêu lóc cóc, khô như những hòn đá lăn vào nhau, “Thấy ngộ lắm hả? Nhằm gì, cha tôi cũng vừa mới đám cưới tưng bừng...”.
Chín cảm giác con nhỏ đang chết thêm lần nữa khi nhắc lại một hai đám cưới đã dự trong đời. Thế giới của ma, cũng đầy đau xót, thiệt ngộ, tưởng chết là khoẻ trân chớ (về điều này, mấy bà già lại lừa mị, ai nói chết là hết đâu).
Thùng Hai, đầy nhóc sách vở, có cả thẻ sinh viên. Trời, vậy là con ma này lê la tận trường học. Chín hỏi “Ủa, sinh viên sao không thấy đi học gì hết vậy?” Con nhỏ cố gắng nắn miệng mình thành nụ cười trên khuôn mặt bất cần, rắn câng, “Không học cũng đậu, cũng có chỗ làm ngon lành, học chi cho mệt...”
Thùng Ba, lổn ngổn những gói quà nhỏ chưa từng được mở ra. Phía trên cùng là quyển sổ dày, bìa có “Ghi tình” cùng hình mấy con bướm chết tả tơi vẽ bằng bút bi trên nền xanh lam, đã quăn mép. Thấy Chín tần ngần, con nhỏ ma biểu cứ lật coi đi. Mỗi trang là tên một người tình, với vài chi tiết như nơi gặp lần đầu, đặc điểm (thí dụ như “ngày mai cưới vợ” hay “buồn chán cuộc sống hôn nhân”...). Còn có mục “nơi ngủ cùng nhau” (chữ ngủ này bao gồm nhiều hành động khác chứ không đơn thuần chỉ nhắm mắt và ngáy khò khò), cuối cùng là thời gian kết thúc, có khi gọn lỏn trong một ngày đêm.
- Sổ của tụi bạn tôi còn dày hơn nhiều.
Chín ngó sững vào khuôn mặt đẹp như được đúc bằng men sứ, lại ngộp thở. Con nhỏ chưa từng biết yêu, thứ tình-yêu-của-người. Nếu có quyển sổ cho mình, Chín sẽ ghi dày đặc tên Sở, và dằng dặc những chữ “em yêu anh”.
*
Những tờ lịch cuối cùng của tháng Mười nặng nề rụng xuống, người đàn ông tên Sở vẫn chưa về. Viên nổi quạu thấy người con gái ra cửa ngó mong, và buông đũa nghe ngóng mỗi khi bước chân ai đó loẹt xoẹt qua nhà.
Một bữa, chị thở dài, Viên càu nhàu, sao không ngủ. Chị bảo, sớm mai là gói bánh đám giỗ nội. Phải ở nhà, giác này chị đang ngồi lau lá, xắt khoai môn thật mịn để làm gân bánh ít mình ngọt, rồi nạo mấy chục trái dừa. Giọng chị nghe đượm nồng mùi khói bếp ung.
Viên trợn trạo nuốt cục nghẹn, tình yêu không đáng đánh đổi với cái mùi khói đó.
*
Một bữa dọn dẹp nhà, Chín thấy cuốn “ghi tình” hôm trước rơi hớ hênh dưới bàn. Gió vô tình lật những trang gần cuối. Tên Sở ở đó. Chín hơi sững sờ, thấy cuốn sổ lọt tuốt qua tay mình. Như những trang khác, con nhỏ ma không quên mục “đặc điểm”: “Người yêu vừa qua đời hai ngày. Anh ta vẫn mạnh mẽ, không có gì khác lạ...”
Mắc cười, con nhỏ định dùng cách này để Chín không chờ Sở nữa. Vô lý ở chỗ, nó ám chỉ Chín chết rồi. Nhiều khi con nhỏ cũng vô duyên hết sức nói...
*
Viên nhận ra không dễ gì dập tắt lửa trong chị. Giả như nhìn thấy người đàn ông chị yêu cắp tay một cô gái khác, ngay trước mặt, chị cũng nghĩ hắn ta có nỗi khổ gì đó, không thể nói ra. Và nếu Sở ngã lòng, chắc Viên đã dùng những trò ma mị để quyến rủ. Viên điên cuồng tìm cách chứng minh với chị ta không có thứ gọi là tình yêu. Chị ta thì chẳng làm gì, cứ chờ đợi một mối tình thăm thẳm.
Cho đến một bữa, Viên thật sự tin chị ta đang sống, vì vẫn hừng hực tin, yêu.
Còn mình thì chết rồi. Chết mỗi ngày. Liệu có còn sống lại được không?
Hoang đường
Truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư


Một ngày tháng Mười buồn tẻ. Gió lao rao lạnh, mưa lay phay, buông xuống giữa trời chiếc rèm mỏng tang, ướt sũng. Thêm những tiếng gà eo óc xa xa... Bữa đó, Chín gặp ma.
Những người đang sống bên mình, đang cười đang nói đang đẹp đang yêu, có thể họ là ma, phát hiện đó không đáng thảng thốt, hết hồn sao. Mắc cười, lúc đầu Chín còn tưởng con nhỏ vừa đến trọ cùng phòng là người. Bởi cô ta giống hệt như những đứa con gái Chín thường hay gặp trên đường. Tóc nhuộm vàng pha nâu, từng lọn uốn loăn quăn như sợi mì ăn liền, gương mặt xinh đẹp được trang điểm tỉ mỉ, chiếc áo mỏng tang, hai dây gá hờ lên đôi vai trần, hở nhiều chỗ thịt da tái xanh vì lạnh.
Mùi nước hoa cũng ướt đẫm thành vệt khi cô gái đi qua chỗ Chín ngồi lặt rau lang. Bà chủ nhà đon đả đi trước vẹt đường cho mớ hành lý kềnh càng. Con nhỏ lướt ánh mắt giễu cợt, phủi lên những vật dụng đơn sơ trong phòng, rồi dừng lại chỗ cái áo sơ mi Sở treo trên móc, cô ta ngó Chín, bĩu môi cười.
Chín thấy tuyệt vọng. Chỗ trú thân của Chín, thế giới riêng của Chín đã bị chia sẻ, kể từ bây giờ. Ngay lúc này, Chín ước gì mình có một món tiền, vừa đủ trả cho bà chủ khu nhà trọ, để đá con nhỏ đó văng ra đường. Tưởng tượng cái cảnh cô ta lếch thếch ngoi ngóp ngoài sân Chín thấy hể hả. Nhưng cảm giác ấy kéo dài không được bao lâu, thực tế là con nhỏ đang đứng đây, và tối nay sẽ nằm ngủ trên giường của Chín.
Phải, cả chiếc giường cũng không của riêng Chín nữa. Đứa con gái xa lạ mà Chín còn chưa biết tên đã chiếm giữ nó từ chạng vạng, cô ta nằm xoãi tay, dạng chân dồn Chín ở rìa giường. Phờ phạc nghe cô ta thở đều, Chín trằn trọc, cứ nhắm mắt lại thấy mình phập phều như sắp rớt xuống đất. Nửa đêm, Chín lấn vô, vừa chạm vào con nhỏ thì bỗng nghe một cảm giác lạnh buốt nhói thấu tận chân tóc. Dường như cô ta rỗng không trong chiếc áo phập phều, đến nỗi Chín có thể nằm chồng lên.
Chín vọt khỏi giường. Chín bỏ chạy. Không, chính xác là Chín lết đi. Một nỗi sợ hãi nghẹn ứ trong cổ họng. Ra đến sàn nước, chỗ tắm giặt chung của khu trọ, Chín ngoái lại thấy căn nhà mình như lung linh trong sương, muốn khóc, buột miệng kêu Sở ơi, Sở!
Không ai đón đỡ nên tiếng gọi giãy đành đạc giữa thinh không, vọng lại lòng. Tình yêu làm Chín bình tĩnh lại. Trời ơi, mình đâu có thể bỏ nhà mà đi được, mình phải trở về để chờ Sở, lạc nhau giữa biển người, giờ chỉ còn chút giềng mối này. Sống chung với ma hả, chơi luôn.
So với nỗi đau phải trốn chạy, từ bỏ gia đình, thì những biến cố còn lại, Chín coi thường. Cứ nhìn cái vẻ ngoài rất - người của con nhỏ thì biết, còn nhiều con ma khác đang long rong giữa đời này, lâu rày, có ai hay gì đâu. Thí dụ mình cũng chẳng biết gì đi.
*
Viên giả đò ngủ say khi chị ta trở vào nhà. Nghe hơi thở ngập ngừng, lâu lâu lại có một quãng lặng, đờ đẫn, Viên đoán chị ta cũng đang sợ hãi, giống như mình. Khi chị đặt thân mình trong suốt lên người Viên, lưng chị ta chạm chiếu, Viên giật mình thức giấc vì cảm giác như mình nằm trên tảng đá đầy rêu, nhảo nhớt. Rồi chị ta bỏ chạy ngay lúc Viên định thét lên. Buồn cười, chắc là chị ta tưởng Viên là ma.
Viên muốn cười ha ha ha, vui quá, bữa nay đúng là ngày vui, cho cha, cho mình.
*
Những ngày sau đó là những ngày rất dài, phần vì phải dòm chừng con nhỏ ma, phần vì cuộc chờ đợi đã bước sang tháng thứ ba, ngày thứ sáu mươi mốt. Mỗi tối, nhìn áo khăn của Sở treo trên vách, Chín luôn hy vọng, ngày mai là kết thúc. Sở bước qua cửa, và Chín ngấu nghiến ôm lấy anh. Chị Ba ve chai sát bên nhà chì chiết, “Ngu vừa thôi, rõ ràng là thằng Sở bỏ mầy rồi, chờ chi nữa, mắc công”... Chín không tin, hôm cuối cùng bên nhau, Sở còn hứa tháng Mười này, ngay dịp ở nhà có đám giỗ, Sở sẽ theo Chín về chịu tội với má, với họ hàng. Sở đã thề năm bảy bận, là sẽ yêu thương Chín suốt đời. Chị Ba tức quá hỏi lại:
- Con mèo chạy qua, thằng Sở nói con chó, mầy nhắm tin hôn?
Chín cười:
- Tin. Miễn ảnh vui...
Chị kêu trời. Tánh Chín vậy, yêu hết, tin hết, rút ruột ra để yêu, quăng nguyên con vào yêu, chắt cạn cả mình. Biết là lửa, nhưng con thiêu thân vẫn muốn lao vào cháy hết một lần. Yêu mà để dành, dè chừng, phòng hờ thì vui gì, Chín thường hay nói vậy.
Mỗi ngày qua, Chín lại thấy mình xanh xao thêm một chút. Chín mất việc ở công trường, vì nhiều khi, Chín không nâng nổi cây sắt hay cục gạch chút xíu. Hàng xóm thắc mắc, “Có bầu sao mà ốm nhom xanh ẻo vậy, mậy?”. Chín giãy, “Trời, bây giờ mà có em bé anh Sở giận chết, ảnh nói, hai đứa còn nghèo...” Nhưng sâu thẳm trong lòng, Chín thèm khát trẻ con, có nó, chắc Chín không đến nỗi thắt thẻo vì thương nhớ Sở như vầy.
May, có con nhỏ ma, nhịp sống của Chín thay đổi chút ít. Nó đi cả đêm, có bữa về tới nhà đã rựng sáng, say mèm, son phấn chảy xuống mặt, coi xinh đẹp não nề. Suốt ngày sau nó nằm ngủ vùi, mặc kệ điện thoại di động reo như bị ai cắt cổ. Nhiều lúc nghĩ nó đói, Chín kêu dậy ăn cơm. Nó không mở mắt, lắc đầu, nói cảm ơn rồi lại thở đều.
Có vẻ như con nhỏ vẫn tưởng mình là người. Mà Chín không đành, nói “nhỏ ơi, mầy chết ngắc rồi” không phải phủ phàng lắm sao? Sở hay bảo, yêu nhất là tánh Chín thương người. Bây giờ mới biết, ma Chín cũng thương. Dù nhiều khi, con nhỏ làm Chín giận run. Một bữa, ngủ dậy, bỗng dưng con nhỏ ma đùng đùng lôi áo của Sở xuống, dẫm giày lên rồi đá thốc về phía Chín, “tui không thích dấu vết của tụi đàn ông ở trong nhà nầy”. Chín chạy lại ôm cái áo lấm lem vào lòng, chực khóc. Con nhỏ ma dịu giọng:
- Của bồ hả?
Chín ngoay ngoắt bỏ ra sàn giặt. Nó hỏi vói theo:
- Thằng đó đâu rồi?
Ôi! Ước gì Chín biết Sở đang ở đâu. Một bữa, hai đứa đi coi hội chợ về, lúc qua đường, Chín bị xe máy tông vào. Chín ngất đi, lúc tỉnh, lồm cồm bò dậy chiếc xe gây tai nạn mất tiêu. Cũng không thấy Sở. Tưởng anh chạy đâu đó để mua bông băng cho mình, Chín ngồi bên vệ đường chờ đến khuya xa xắc. Tưởng Sở về nhà, nhưng ở nhà trống hoác. Tưởng Sở đi đâu một chút thôi, ai dè biền biệt đến giờ. Sở nghĩ Chín chết nên không quay lại nơi đau thương này? Hay Sở không thể chịu được khi nhìn thấy Chín đau? Hoặc Sở tự dằn vặt, không mặt mũi nào mà gặp lại người yêu, vì anh mà tai nạn đến với Chín (lẽ ra anh nên đi trước, lẽ ra anh nên nắm tay để kéo Chín lại với mình)? Chín loay hoay, mê mải với những giả thuyết rối nùi, không manh mối.
*
Nhưng có một giả thuyết mà chị ta chưa nghĩ tới, là chị thật sự chết rồi. Viên cố tình không chạm vào cơ thể chị, bởi biết cái chết, bản thân nó là một nỗi đau.
Thế mình sống thì sao, thì không đau, thì sung sướng? Viên tự hỏi, và cười rủ rượi trên giường.
*
Con nhỏ ma dựng quanh nó đầy những bức tường nghi hoặc. Những câu hỏi bỏ lửng... Nó mở ti vi, nhăn nhở chỉ một ông sang trọng nói “ba tui kìa” rồi im lặng khi Chín nhổm lên hỏi thiệt hôn. Bữa khác nó thản nhiên bảo cái nhà ba bốn tầng (cũng trong ti vi) là nhà mình, trong khi nó đang ở trọ. Nhiều tiền mà ở trọ. Ở trọ mà chạy Dylan, chiếc xe trăm ngoài triệu chớ giỡn sao. Cứ vậy, ở con nhỏ ma, không có gì là hợp lý. Coi bộ nó ghét đàn ông, lại có vẻ như đang yêu, đang hẹn hò dù không biết với người nào, vì mới ngọt ngào cùng một người tên Dũng nào đó, cú điện thoại sau lại ngoay ngoắt bảo nhớ Hùng quá, anh ơi.
Khó hiểu, nhưng không ghê rợn như những gì người già hay kể. Nào là ma biết bay, ma lưỡi dài, xoã tóc, ma xanh lét hay ma rút ruột. Rốt cuộc, người ta dựng chuyện khơi khơi vậy thôi, có ai tới được chỗ đó đâu, có đến cũng không trở lại, để kể.
*
Những buổi chiều nhìn người con gái gội đầu bên hồ nước đầy rêu, những tia nắng cuối cùng nhảy nhót trên cổ trên áo chị, Viên thường thảng thốt. Không thể phân biệt được chị ta với người, bằng mắt thường, đến nỗi lúc ra đường, Viên nhìn ai cũng gợn lên ý nghĩ, không biết người hay ma đây.
Không có ranh giới nào, vì chất-người trong người con gái ấy vẫn lung linh, những lần chị thức giấc kéo mền lại cho Viên, những khuya chị mở cửa cho Viên, không quên cằn nhằn, “đi đâu mà gà gáy mới về”, những khi chờ Viên dậy để cùng ăn cơm. Rau luộc chấm chao thôi, Viên cầm đũa, mà cảm giác mắt mình ướt như vừa khóc.
Mười ba năm, Viên chưa từng có cảm giác này.
*
Một bữa nắng nhiều, con nhỏ ma nhờ Chín khui mấy thùng đồ ra phơi cho đỡ mốc. Thùng Một, có vài con búp bê đắt tiền, vài lọ nước hoa còn mới nguyên, mấy cái áo len. Và những khung hình đã cũ. Chín tần ngần trải chúng ra dưới nắng, thấy long lanh những nụ cười.
- Mẹ tôi nè, đẹp hen - Con nhỏ ma chìa tấm ảnh một người phụ nữ trước mặt Chín, rồi lạnh lùng cụp lại - Lấy chồng rồi, đẻ một bầy con bên Mỹ.
Chín ngộp thở, chưng hửng... Con nhỏ cười, cái cười kêu lóc cóc, khô như những hòn đá lăn vào nhau, “Thấy ngộ lắm hả? Nhằm gì, cha tôi cũng vừa mới đám cưới tưng bừng...”.
Chín cảm giác con nhỏ đang chết thêm lần nữa khi nhắc lại một hai đám cưới đã dự trong đời. Thế giới của ma, cũng đầy đau xót, thiệt ngộ, tưởng chết là khoẻ trân chớ (về điều này, mấy bà già lại lừa mị, ai nói chết là hết đâu).
Thùng Hai, đầy nhóc sách vở, có cả thẻ sinh viên. Trời, vậy là con ma này lê la tận trường học. Chín hỏi “Ủa, sinh viên sao không thấy đi học gì hết vậy?” Con nhỏ cố gắng nắn miệng mình thành nụ cười trên khuôn mặt bất cần, rắn câng, “Không học cũng đậu, cũng có chỗ làm ngon lành, học chi cho mệt...”
Thùng Ba, lổn ngổn những gói quà nhỏ chưa từng được mở ra. Phía trên cùng là quyển sổ dày, bìa có “Ghi tình” cùng hình mấy con bướm chết tả tơi vẽ bằng bút bi trên nền xanh lam, đã quăn mép. Thấy Chín tần ngần, con nhỏ ma biểu cứ lật coi đi. Mỗi trang là tên một người tình, với vài chi tiết như nơi gặp lần đầu, đặc điểm (thí dụ như “ngày mai cưới vợ” hay “buồn chán cuộc sống hôn nhân”...). Còn có mục “nơi ngủ cùng nhau” (chữ ngủ này bao gồm nhiều hành động khác chứ không đơn thuần chỉ nhắm mắt và ngáy khò khò), cuối cùng là thời gian kết thúc, có khi gọn lỏn trong một ngày đêm.
- Sổ của tụi bạn tôi còn dày hơn nhiều.
Chín ngó sững vào khuôn mặt đẹp như được đúc bằng men sứ, lại ngộp thở. Con nhỏ chưa từng biết yêu, thứ tình-yêu-của-người. Nếu có quyển sổ cho mình, Chín sẽ ghi dày đặc tên Sở, và dằng dặc những chữ “em yêu anh”.
*
Những tờ lịch cuối cùng của tháng Mười nặng nề rụng xuống, người đàn ông tên Sở vẫn chưa về. Viên nổi quạu thấy người con gái ra cửa ngó mong, và buông đũa nghe ngóng mỗi khi bước chân ai đó loẹt xoẹt qua nhà.
Một bữa, chị thở dài, Viên càu nhàu, sao không ngủ. Chị bảo, sớm mai là gói bánh đám giỗ nội. Phải ở nhà, giác này chị đang ngồi lau lá, xắt khoai môn thật mịn để làm gân bánh ít mình ngọt, rồi nạo mấy chục trái dừa. Giọng chị nghe đượm nồng mùi khói bếp ung.
Viên trợn trạo nuốt cục nghẹn, tình yêu không đáng đánh đổi với cái mùi khói đó.
*
Một bữa dọn dẹp nhà, Chín thấy cuốn “ghi tình” hôm trước rơi hớ hênh dưới bàn. Gió vô tình lật những trang gần cuối. Tên Sở ở đó. Chín hơi sững sờ, thấy cuốn sổ lọt tuốt qua tay mình. Như những trang khác, con nhỏ ma không quên mục “đặc điểm”: “Người yêu vừa qua đời hai ngày. Anh ta vẫn mạnh mẽ, không có gì khác lạ...”
Mắc cười, con nhỏ định dùng cách này để Chín không chờ Sở nữa. Vô lý ở chỗ, nó ám chỉ Chín chết rồi. Nhiều khi con nhỏ cũng vô duyên hết sức nói...
*
Viên nhận ra không dễ gì dập tắt lửa trong chị. Giả như nhìn thấy người đàn ông chị yêu cắp tay một cô gái khác, ngay trước mặt, chị cũng nghĩ hắn ta có nỗi khổ gì đó, không thể nói ra. Và nếu Sở ngã lòng, chắc Viên đã dùng những trò ma mị để quyến rủ. Viên điên cuồng tìm cách chứng minh với chị ta không có thứ gọi là tình yêu. Chị ta thì chẳng làm gì, cứ chờ đợi một mối tình thăm thẳm.
Cho đến một bữa, Viên thật sự tin chị ta đang sống, vì vẫn hừng hực tin, yêu.
Còn mình thì chết rồi. Chết mỗi ngày. Liệu có còn sống lại được không?
Nhớ nguồn*
Tạp Văn
Nguyễn Ngọc Tư

Không thể một ngày một bữa mà liệt kê hết những khác biệt giữa thế hệ của má và tôi. Cũng như khi hai má con ì ạch trèo lên chiếc xe để chuẩn bị cho chuyến đi xa, tôi chợt nhận ra ngay trong những chuyến đi như thế này, lúc chiếc xe cũ mèm xùng xèng từ từ lăn những vòng bánh đầu tiên, cảm nhận trong lòng mình với má cũng khác. Tôi thấy mình bùi ngùi như chiếc lá bị bứt lìa cành (mỗi lần bước chân ra khỏi nhà tôi luôn có cảm giác kỳ cục đó). Má tôi lại khác, mỗi chuyến đi như thế này, má nôn nao như được về nhà-của-mình, về một cành cội nào đó mà dòng họ má đã bị bứt lìa ra từ lâu lắm. Bởi chuyến đi này, má về Hà Tiên.
Không có gì đặc biệt đâu, cái thị xã nằm cheo leo bên biên giới. Biển Hà Tiên không xanh lắm, núi Hà Tiên không cao. Không có gì đặc biệt, để kỳ vọng, để chờ đợi, nhưng đó là nơi ông tổ họ của má tôi nằm xuống, gởi nắm xương lưu lạc trên những ngọn núi xanh rì.
Má tôi họ Mạc. Người ta nói rằng chi tộc họ Mạc ở Cà Mau là chi tộc đông nhất của họ Mạc Hà Tiên. Những năm tháng chiến tranh loạn lạc như cơn lốc bốc một số người Hà Tiên ném đến tận cùng Đất Mũi. Vậy nên, năm nào cũng vậy, cùng với bà con trong họ, má tôi hành hương về Hà Tiên cúng giỗ Ông – Khai trấn quốc công Mạc Cửu. Buổi chiều má còn xắn quần lội ruộng dặm lúa, quăng phân, chạng vạng má biểu tôi tỏ con mắt cạo phèn móng chân giùm má để tí nữa má lên xe làm một chuyến xa nhà.
Đoàn người đến Hà Tiên là một đoàn lữ hành nghèo, giản dị nhưng vui một cách kỳ lạ. Trên chiếc xe đò cũ kỹ cọc cạch, đông đảo nhất là con nít, không có đủ tiền mua vé, người lớn trải chiếu ngồi bệt dưới sàn xe nhường ghế cho trẻ con ngồi. Chen trong tiếng kêu lầm rầm của những cái cửa kính xe long lên khi qua đoạn đường xấu, là tiếng vụ mùa rôm rã qua những lời thăm hỏi, là tiếng trẻ con ríu rít háo hức mơ về nơi sắp đến, Hà Tiên.
Dòng họ ngoại tôi giáo dục truyền thống vào hàng siêu việt, dạy từ hồi bé con con từ hồi lít chít như thế này. Những đứa trẻ sinh ra trong dòng họ Mạc, vừa tí tuổi đầu trong lòng đã có Hà Tiên. Hà Tiên xa mà tưởng như gần xịu gần xịt, bởi trong lời cha ông mình dạy, Hà Tiên là nhà. Trong lúc người ta cuống cuồng đi tìm cách giữ gìn bản sắc văn hóa thì cái bản sắc văn hóa uống nước nhớ nguồn lại được bà con giữ một cách hồn nhiên.
Vô tình vì những giềng mối sâu tận đáy lòng, thâm tình ràng ruột mà hai miền đất Cà Mau – Hà Tiên gần nhau như trong gang tấc, như mặt đối mặt, như tay này nắm được tay.
Bà con bên má tôi đều là nông dân, vì là nông dân nên phần lớn đều nghèo. Để trong lòng khỏi thấy bứt rứt, có tội với tổ tiên vì lỡ chuyến, bà con chuẩn bị từ lâu lắm. Từ đầu mùa lúa năm trước, má tôi đã ngăn phía dưới đít bồ để dành mươi giạ để tháng năm này làm lộ phí đường xa. Hệt như má tôi, dì Ba, dì Bảy mót máy từng lọn rau bỏ vô heo đất để dành từ sau Tết, có cậu Năm, cậu Tám chạy đò dọc cũng dành dụm khoản riêng nào đó cho chuyến về nguồn.
Ý thức đây là dịp đặc biệt, người họ Mạc ở Cà Mau chuẩn bị về dự giỗ Ông rất trân trọng, chu đáo. Với một tấm lòng thành kính, thiêng liêng, má tôi vẫn tin rằng, có về quỳ xuống cúng bái mộ tổ tiên, sẽ bớt đi bệnh tật, đám con cháu khỏe mạnh, lúa trúng đầy bồ, làm ăn khá giả. “Những người ăn ở mất gốc sống tới hết đời cũng ngóc đầu dậy không nổi đâu con à”, má vẫn thường dạy tôi. Má hay kể, từ loạn lạc người họ Mạc có chạy đi đâu, về đất nào cũng nhớ về đất Hà Tiên. Đường về, với mỗi thời, mỗi người mỗi khác. Ngày xưa ông cố má một mình chèo chiếc ghe bầu, ngày chèo, đêm chui vào nóp ngủ. Chiến tranh, ông ngoại tôi trên đường đi công tác cũng tạt qua, sụp xuống, cúi lạy người đã khuất. Trước đây, đoàn đi bằng tàu đò từ Cà Mau qua Rạch Sỏi rồi mới lên xe đò đến Hà Tiên. Rồi có lần đi bằng ghe biển. Nhàu nhừ vì say xe, say sóng mà vẫn vui, vui một cách tự nguyện, “Ngày xưa có cực khổ mấy ông bà mình cũng ráng về thắp nhang cho ông bà ở trển, bây giờ hòa bình, xe cộ đầy đường, sướng nhiều rồi hỏng ráng đi sao được, con?”.
Tôi yêu Hà Tiên từ má, từ những cậu những dì trong họ, từ những chuyến đi như thế này. Những con người chân chất, bình dị. Ra biển không cần áo tắm cứ để nhảy ùm nguyên bộ bà ba. Những món đồi mồi ốc biển chạm trổ công phu bày đầy ở các quầy hàng lưu niệm chỉ là phù phiếm (một món bằng hai ba giạ lúa chớ có ít đâu). Những người mê cải lương nhưng tẩy chay vở “Áo cưới trước cổng chùa” (còn làm đơn gởi đài truyền hình để phản đối) nói vở đã bêu xấu tổ tông mình, vì đã cho rằng Mạc Thiên Tích đoạt vợ người. Tôi thích những ông cậu, bà thím đã già vẫn mong về Hà Tiên rồi mai chết, cho yên lòng. Tôi thích đám con nít, luôn làm vẻ mặt nghiêm trọng khi cầm nén nhang trong tay, trước những ngôi mộ trầm mặc bên sườn núi.
Tôi thích những đêm ngủ lại ở Hà Tiên. Có lần ngủ chùa Tam Bảo, gần trăm người chui vô chỉ cái mùng vải dài vằng vặc. Sáng ra cả đoàn thức dậy, mặt phờ phờ vì thiếu ngủ, phần tại đông, phần một năm trời mới gặp lại bà con, phải thăm hỏi chuyện làm ăn ra làm sao, hỏi giáp một vòng cũng vừa trời sáng. Sau này, không ở chùa, nhà trọ trong thị xã lùm lùm mọc lên, cả đoàn cũng vào nhà trọ, cũng trải chiếu bệt xuống sàn ngủ chung nhau. Không phân biệt ai giàu ai nghèo, ai đói ai no, ai từng xấu và ai tốt, ai ở xa ai ở gần, chỉ biết hết thảy đều là họ hàng bà con, là hậu duệ của người khai phá trấn Hà Tiên, là con cháu của xứ sở nhiều huyền thoại. Bị bứt lìa trăm mối mưu sinh, đó là khoảng thời gian níu người ta xích lại.
Ngơ ngác mùa dưa
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

Văn phòng của Ban quản lý Khu quy hoạch nằm giữa xóm đê. Mỗi khi ông già nhìn về phía đó, đều bồn chồn, trời ơi, sao mình chạy đi đâu nó cũng rượt theo vậy cà.
Đất nhà đã đô thị hóa, trơ hốc cát bụi với bê tông (nghe đâu chỗ đó người ta sẽ làm sân tennis, uổng quá, phải chi xây trường học, ông đỡ xót lòng). Ngặt gió chướng không thương nên đến hẹn lại rập rờn qua cửa. Ông chạy vào vạt đồng này thuê đất trồng dưa hấu. Năm đầu tiên, ông đốt rạ lên, nghe khói trên đất-người-ta cay sè con mắt. Lãng xẹt, ông tự cười, hai vạt đồng chỉ cách một con mương rộng, có xa đâu, mắc gì mà buồn. Dù thế, tha thểu trên đất quê người cảm giác cứ xót xa.
Năm nay, mảnh đất mà ông thuê cũng rục rịch quy hoạch. Người chủ đất ngậm ngùi, "chắc là sau Tết tui giao giấy đỏ cho người ta, tìm phương kế khác làm ăn, ông cũng đừng có buồn... ". Hôm vác dá ra ruộng để lên giồng, ông thấy giật mình vì đồng vắng tanh, vắng ngắt. Cỏ mọc bít những lối mòn trên bờ ruộng, bông cỏ vượt lên đầu ngọn lúa xanh rờn. Người trong xóm không còn tâm trạng để chăm chút đất đai, họ bồn chồn chạy qua chạy lại nhìn nhau, bồn chồn nói cười, bồn chồn ngó những ô xanh đỏ trên bản đồ quy hoạch, kìa, cái siêu thị đó nằm ngay trân đất nhà tui.
Chộn rộn, nôn nả trước cuộc đổi đời, đám bạn rẫy của ông quên cả mùa dưa hấu đang tới. Cả ngọn gió chướng liêu xiêu cũng không đủ để nhắc nhớ. Thành ra vạt đồng chỉ còn mình ông. Với một mùa ròng rãi... Tưới dưa xong, ông già ngồi hút thuốc ngó trời, nhớ thằng Bảy Trị, Ba Thám bây giờ người chạy xe ôm, người mở tiệm buôn bán nhỏ, tiệm bida, karaokê hay dạt đến một cánh đồng xa hơn, tiếp tục sống đời nông dân "ăn chắc, mặc bền".
Tết này, giữa chợ, ông sẽ gặp lại bao nhiêu người trong số đó? Hay cả một vùng dưa Lý Văn Lâm nổi tiếng chỉ còn tum húm đống dưa của ông?
Năm ngoái, cũng cữ này, cũng trên cánh đồng này, cả bọn còn uống rượu cùng nhau, thấy thời tiết hanh hao, ngó những trái dưa thẫm xanh nằm lăn lóc trên giồng dây lá đém, bàn Tết nay chắc trúng lớn. Dường như, ngay lúc ấy, chắc là đất dự cảm được sự chia lìa, nên dâng hết phù sa. Dưa hấu được mùa, được giá, bọn ông được về nhà trước giao thừa (cái nghề của ông, về trước giao thừa là một niềm hạnh phúc lớn). Phải biết là mùa cuối, thể nào ông cũng rủ cánh trồng dưa tụm lại nhậu một bữa, ca hát tưng bừng, để sau này có chuyện để mà nhắc nhớ.
Bây giờ thì ông uống rượu một mình, nghe lạt nhách. Những người khác đã bị (hay được) bứt ra khỏi cánh đồng, như chưa từng vui, buồn, chưa từng đẫm mồ hôi, chưa từng rơi nước mắt...
Chỉ còn đồng đất đìu hiu cây cỏ dại. Và ông. Lâu lâu, có mấy người từ xóm đê chạy túa lên đồng, ông mừng húm, vừa hay mình thèm người. Họ, cũng có vài thằng bạn rẫy của ông, xúm lại coi đá gà bị công an vây bắt, mới vọt ra ruộng thoát thân. Gặp ông, họ bảo "Thấy mấy giồng dưa ngán ngược, nhớ hồi đó cực thấy mồ tổ, ham gì mà ngồi thù lù ở đây, anh Hai?" Ông cười, "Ở không buồn tay buồn chân quá, với lại... ". Nhưng ông không biết diễn tả làm sao, mười bảy năm nay, ông quen đếm tuổi mình bằng một mùa dưa, đếm ngày qua bằng hai cử tưới, và nhìn những trái dưa hấu nằm cùi cụi, phổng phao trên giồng, ông biết năm sắp qua... Có những cảm giác mà họ vô tình (hay cố tình?) quên, nỗi vui nhìn hạt nứt mầm, dây soãi bò đan nhau trên mặt đất, bông rơi từng cánh cho trái thò đầu ra đón nắng, rồi bằng trái chanh, trái cam, bằng trái bóng nhựa, rồi dưa căng mẫy, mọng nước trĩu trên tay... Hay cái cảm giác đau nhói, rã rời nhìn dưa nứt như pháo nổ khi cận ngày cắt dây lại gặp trận mưa rào... Họ quên rồi.
Họ ngơ ngác sống những tháng ngày mới. Cuộc đổi đời quá nhanh, đến choáng, đến chóng mặt. Lần đầu tiên họ được cầm món tiền lớn (mà cả đời họ mơ ước). Lớn đến nỗi đủ để người ta ngoay ngoắt với những ngày tháng đạm bạc cũ. Nói đâu xa, thằng con cũng nổi quạu khi hay ông khăn gói lên đồng, “Tui chạy xe ôm nuôi ba má có đói ngày nào đâu mà ba lại rước cực vào thân cho mệt”. Ông giận. Rồi nguôi, vì cảm thông, tụi trẻ không yêu đất như mình.
Cả đám bạn rẫy đang sống nhàn rỗi (một cách chông chênh) kia, cũng đáng thương. Rủng rỉnh tiền, nhưng không biết ngày mai làm gì, sống bằng gì, tiền sẽ hết, bởi cũng phải ăn, phải tiêu xài. Cái viễn cảnh cánh đồng trở thành đô thị với nhà máy, quán cà phê, quán nhậu, với những cửa hàng sáng choang... còn xa. Nghe đài báo đưa tin về quy hoạch “treo”, quy hoạch “ngâm” mà rầu.
Đồng đất vẫn trống trải, không thấy những chiếc xe tải chở gạch đá xuôi ngược trong bụi mịt mù, cũng chẳng nghe âm thanh nhịp nhàng của mấy chiếc máy đóng cọc... Đô thị chắc còn rị mọ tận đằng xa. Nhưng vùng dưa đã mất. Dưa hấu miệt này không đặc sắc như xứ Cái Keo (ở đó người ta bón phân bằng phân tôm, nên dưa đỏ thắm, ngọt lịm, thanh thao), nhưng nhờ lợi thế trồng ở ngoại ô thành phố, tiện chuyên chở, sát Tết mới cắt dây nên giữ được lâu. Cái câu "Dưa để hết Mùng vẫn ngon hết sãy", xưa rày vẫn giòn giả cửa miệng của những người bán dưa xứ này.
Bây giờ thì mỗi Tết về, người mua đã tin tưởng đã trông mong. Nhưng vùng dưa sắp mai một mất rồi. Chỉ còn những người tâm huyết với đất như ông, cố níu...
Mùa sau, có lẽ ông sẽ dạt đến một cánh đồng xa hơn, nơi mà đô thị chưa đuổi kịp. Lại đốt rạ, lại nghe khói trên đồng xứ người cay sè con mắt. Lại dè chừng một văn phòng Ban quản lý dự án nào đó bỗng hiện lên, giữa ruộng...
Nói cho cùng, cái văn phòng ấy không có tội. . .
Nghĩ cho con
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư

Tôi không ham suy nghĩ viển vông, nhưng mỗi lần cầm tờ báo lên, đọc những vụ tiêu cực, sai phạm này nọ, cái tên của người trong cuộc ấy làm tôi thắt lòng. Cứ nghĩ cũng vào giờ này, ở một nơi nào đó, người vợ (hoặc chồng), và những đứa con của họ cũng đang đọc bài báo này. Họ sẽ đau điếng, nhói ran, lịm đi như thể đã chết rồi. Họ, nhất là những đứa trẻ sẽ sống thế nào trong những ngày sắp tới?
Tôi không biết nụ cười có còn đậu trên môi những đứa trẻ ấy khi phải cõng nỗi mặc cảm nặng nề trên lưng? Không biết vết thương ấy bao giờ sẽ lành?
Tưởng tượng chỉ là một trò tẻ nhạt, bởi tôi chưa bao giờ thấu tận nỗi đau đó. Hồi nhỏ, tôi cũng có những nỗi buồn (lặt vặt), ví dụ như thấy ba tôi mặc bộ đồ sờn bạc, đạp xe đòn ngang đứt thắng đi làm, mang theo cái gàu mên cơm, tôi xấu hổ nẫu lòng. Cái thời dại dột đó, bạn bè tôi cũng hay mặc cảm về cha mẹ giống tôi. Có đứa khóc hu hu khi bọn chúng tôi phát hiện mẹ nó là bà bán mía lạnh ở cổng trường. Có đứa suýt bỏ học khi cha nó thất nghiệp, buộc phải kiếm sống bằng nghề đạp xích lô. Có đứa suốt ngày cúi gằm mặt chỉ vì mẹ nó mua bán ve chai, lông vịt... Ôi! Những bạn bè xưa, bây giờ đã lớn, lớn từ một bữa, ai đó nhắc, tao nhớ, hồi đó, má bây thiệt giỏi giang, chỉ với cái thùng mía lạnh mà nuôi bây lớn bộn vầy, học hành tới nơi tới chốn; hay ba bây chịu khó tiện tặn thì thôi đi, mỗi sáng chỉ dám ăn gói xôi năm trăm đồng, không biết lấy sức đạp xích lô đến xế trưa...
Giữa lòng người đời, dường như ai cũng có một chỗ cho mình, dù là hẩm hiu như phận một người chèo đò, người quét rác, người bán sương sáo, sương sâm... Và dù rằng ai đó đã đi khỏi, người ta vẫn nhìn vào người ở lại, người thân thuộc để nhắc nhớ. Tôi sống tươi tỉnh, xênh xang, vì ba má tôi đã để lại trong hồi tưởng của người đời những phác họa giản dị mà đẹp lạ lùng. Lâu lâu, có người hỏi thăm, “Ba cháu lúc này khoẻ không? Ổng làm vuông hả. Trời đất, sao không bắt ổng đọc sách xem ti vi cho khoẻ? Đây, con gái ông Út công đoàn nè, anh Tư, anh Bảy! Vậy hả? Ờ, Cha bây hồi trẻ hiền lắm nghen, hiền mà hay tranh đấu...” Tôi nghe nỗi vui bịn rịn trong lòng. Trời đất, mọi người còn nhớ sao, người đã rời bỏ cuộc sống viên chức đã lâu, đang sống thảnh thơi những ngày tháng cuối đời bên một vườn rau nhỏ. Còn nhớ sao, ông già mấy mươi năm làm cách mạng, tới lúc về hưu không được chức gì để nhắc nhớ cho… oai. Nhưng ông vẫn không bị mờ đi bị khuất lấp bị quên lãng. Tôi nghĩ tới thằng con mình, nó sẽ vui biết bao nhiêu khi người quen cũ của má nó bảo, “Má bây hồi đó đen nhưng có duyên (?!), coi tưng tửng vậy mà vui, dễ thương (?!)”. Nhưng ngồi đó ao ước thôi cũng không được, phải ở đời thế nào kìa...
Tôi bắt đầu tin, một người không chỉ sống cho riêng mình, rằng chết chưa phải là hết, hồi ức của người đời không vì thế mà đứt lìa, vùi theo người vào đất.
Và những đứa trẻ kia, sẽ mang thương tổn, sẽ xấu hổ, mặc cảm về người cha (hay mẹ) đến suốt đời, dù chúng không gây ra lỗi lầm gì hết. Thót ruột, nếu một ngày có người hỏi cháu là con nhà ai, thắt lòng, khi phải ngượng ngập nói ra. Đau lắm, khi người đối diện chùng xuống, “vậy hả, ờ...”. Sau đó là cái im lặng rất dài. Và nặng nề.
Ước gì những người cha (hoặc mẹ) nghĩ tới khoảnh khắc này khi họ bắt đầu bắt tay vào những việc trái pháp luật, trái lương tâm. Ước gì cái cười rạng rỡ lung linh trong trẻo của trẻ con kịp xua những u ám trong cái tâm của người lớn...
Ngày đã qua


Nguyễn Ngọc Tư




Mồng hai Tểt, Nguyên về quê. Khi chiếc xe tốc hành đút đít vô tới cổng cư xá, anh trèo lên mà bụng vẫn còn ngờ ngợ không biết mình có khoá nước trong nhà tắm chưa. Anh tự hỏi, mình gấp gáp gì, thời gian còn rất dài.

Nguyên quê Tân Thành nhưng làm việc ở Sài Gòn, một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày anh chỉ gặp đám bạn bè ruột ràng được mấy ngày sau Tết. Rồi tiếp tục guồng chân chạy như điên với thời gian. Thành lệ, năm nào cũng vậy, bọn Hoà, Chi, Thi, Tiệp cũng chờ anh về rồi kéo nhau đi dọc dọc giăng giăng như bầy kiến đi thăm hết thay nhà thầy cô, bạn bè cũ. Nhà Thi sẽ đến cuối cùng. Đến Thi thì cả bọn đều say ngà ngà, vì ngà say nên chổ này chơi vui nhất.

Nguyên về, từ con đường Hoàng Diệu nhà Hoà đã mở ra một ngõ nhỏ ăn xéo qua ngã Đậu Đỏ nhà Thi. Nguyên không biết nên anh chạy lòng vòng qua mấy cái bùng binh. Xe cộ ken cứng. Cánh Hoà Chi cùng chung xe chắc đã tới nhà Thi lâu rồi. Mà, Tiệp ngồi đằng sau không nói gì về con đường mới. Chị sợ cứ mở miệng nhắc lại, lòng sẽ đau.

Rồi Nguyên chạy xe qua đầu hẻm, chạy dưới tán cây bàng cành cội xơ rơ. Bây giờ là mùa lá rụng nhiều. Mùi nước cốt dừa ngầy ngậy là đà bay ra từ quán đậu đỏ bánh lọt thơm bựng mũi. Nguyên nghe thèm cồn cào còn lòng Tiệp thì cuộn đau. Mùi thơm quen thuộc dây theo Tiệp đến chỗ quẹo trái. Tiệp ngao ngán nghĩ, “nó còn hành hạ mình đến chừng nào?”.

Tiệp không định về đây. Chị không muốn nhìn lại con đường nhỏ lát gạch quanh co mỗi trưa chiều tan sở đi về, ngôi nhà có hàng rào bông trang đỏ, gian bếp ngày hai ba lượt ấm lửa, nước chảy lon ton xuống chiếc thau rửa rau... Và một đứa con trai, và một người chồng mới đây thôi đã trở thành chồng cũ. Nhưng Nguyên bảo, tụi mình chơi với nhau từ nhỏ, hồi đó hứa làm sao, dù có chuyện gì cũng không bỏ nhau. Tết nhứt mà không về đốt hai nén nhang cho ông bà già là bậy. Chi nói một câu đầy ý nghĩa, “không có Tiệp làm sao vui được”. Tiệp gật đầu, chị bảo:

- Nghĩ lại, thì đâu có thù oán giận hờn gì mà không thèm nhìn mặt.

Thi thấy có Tiệp theo Nguyên thì mừng lắm. Anh cứ sướng sướng cười cười hoài, “cứ tưởng là Tiệp không tới...”. Tiệp lừ mắt ý bảo thôi đi. Nguyên dừng xe tắt máy, như muốn được hưởng cái thâm nghiêm của con hẻm ngày xưa. Nhưng quả khác trước nhiều, anh dựng cái chân chỏi xe, ngó muốn trẹo cổ mới thấy được vạch trời xanh thẩm. Thi vò đầu Nguyên, “Trời đất, làm gì mà mới mấy tháng tóc mầy rụng thê thảm vậy. Ốm, già quá?”. Nguyên cười xoà:

- Thì tóc mầy cũng bạc trắng. Suy nghĩ gì nhiều vậy?

Thi nói nhanh:

- Tao có suy nghĩ buồn phiền gì đâu. Tại tao xấu máu mà. Ngủ một đêm thức dậy soi kiến thấy mình già, đâu cần lâu lắc gì mậy.

Rồi Thi đẩy Nguyên, bảo Tiệp vô nhà. Nguyên dừng lại tháo giày ở ngạch cửa, lòng bảo lòng, bữa nay hãy vui như trước đây đã từng vui. Thi thì nghĩ, hoàn cảnh như vầy, còn đủ sức để trợn trạo vui. Chỉ không biết Tiệp nghĩ gì, chị ngẫng cao đầu khi qua cửa. Chị hỏi trống không:

- Nhện Con đâu rồi?

Thi trả lời:

- Hồi sáng này anh Trực Tết cơ quan, chở nó qua bển thì nó buồn, anh điện thoại biểu cô út Nhện Con rước nó đi chơi. Chắc tới chiều mới về.

Nguyên ngồi xuống chiếc võng lưới sát tường:

- Cha, tao nhớ Nhện Con quá. Chắc bây giờ nó ớn bộn hen?

- Ừ, hình nó mới chụp kìa

Nguyên buột miệng:

- Sao mặt thằng con chúng ta buồn vậy?

Rồi anh chợt giật mình, hoàn cảnh như vầy sao đứa trẻ có thể vui. Anh hối hận nhìn Tiệp cắn hột dưa. Khuôn mặt xinh đẹp của chị toát ra cái vẻ lơ đãng một cách đau lòng.

Hoà, Chi ở đằng sau vừa tằng lăng tíu líu đóng tủ này, mở tủ khác dọn đồ ăn, vừa nói chuyện vói lên:

- Đường bằng gang tay hai người không muốn đi, lại lòng vòng cho phí cuộc đời. Tụi nầy làm cá xong rồi. Hai người có số sung sướng thiệt.

Rồi không đợi Tiệp trả lời, Chi đã quay sang nhằn Thi sao mà để ngay trên sàn nước một đống chén dĩa dơ vậy, không rửa chén đâu mà ăn. Quần áo thì nùi ghê gớm. Trên bếp đầy vụn cá khô đã khét nghẹt. Chi thắc mắc giọng rất ư chị hai (tất nhiên không phủ nhận chị lúc nầy cực kỳ ...bề thế)

- Không hiểu ông Thi nầy vắng con Tiệp rồi sống làm sao?

Thi cười:

- Thì cũng cố lên. Mà, bình thường cha con tui ngon lành lắm à. Tại Tết nhứt Chi phải cho người ta bê bối một tí.

Hoà, Chi tỉ mỉ một cách thiệt thà. Nhà Thi có món gì hai vợ chồng đã bày đủ món đó. Tiệp sắp xếp tiệc trên sàn gạch. Ngoài mấy món năm ngoái, năm kia, năm kỉa năm kìa thấy hoài là tôm khô, củ kiệu, dưa chua, dưa hấu, còn có cái lẩu cá lóc nhúng cơm mẻ. Khi mọi người ngồi quây lại, trong lòng chợt nghe rưng rưng một mái ấm nồng nàn. Đâu phải dịp nào, lúc nào muốn cũng đông đủ như vậy. Chi giục:

- Cái con Tiệp nầy, mầy khách sáo quá đi, cầm đũa lên chớ, mầy đang nghĩ là ngồi ở nhà ai, hả? Còn anh Thi, rót rượu ra, tụi ta chúc mừng năm mới.

Thi rót rượu ra mấy cái ly nhỏ như trứng cút. Uống, chúc mừng năm mới, chúc tụi ta vạn sự như ý, an khang thịnh vượng. Nguyên cười, “Sao người ta lại có tật chúc toàn chuyện không có, cụ thể lại đi”. Vậy thì phải chúc như vầy, chúc Thi vui vẻ, làm công tác thanh tra, vô việc không đối mặt với bạn cũ để khỏi lâm vô cảnh đánh cũng lỡ mà lùi cũng dở. Tiêu chí vậy thôi. Chúc Hoà, Chi buôn may bán đắt, cuối năm trời xui đất xụi có một đứa con. Hoà nói dể ợt, đợt nầy bồng bế nhau đi Từ Dũ lần nữa mà vô phương thì xin một đứa con nuôi về. làm gì làm cũng có một đứa con gái, gả cho Nhện Con. Sau nầy già, khỏi sợ thằng rể điên điển. Cạn nữa đi chớ, trăm phần trăm, chúc Nguyên mau ... về hưu để có thời gian ở lại quê chơi với bạn bè. Cuối cùng chúc Tiệp hạnh phúc, thăng tiến, thể nào cũng lên chức giám đốc chi nhánh thời trang Bình San. Tiệp liếm môi:

- Cảm ơn nhiều, nhưng đừng chúc mất công. Em sẽ chuyển đi thành phố.

Thi rót tràn ly rượu. Có vẻ đã kiềm chế, nhưng anh không giấu được sự thảng thốt. Nguyên cũng ngạc nhiên không kém:

- Bất ngờ vậy? Tiệp tính từ bao giờ?

- Lâu rồi. Nhưng em muốn mọi người bất ngờ. Năm mới em muốn mình sẽ mới.

Hoà cười ặc ặc trong cổ, đưa cái ly lên ngang đầu:

- Tụi mình là chim trời. Có đứa muốn bay đi, có đứa muốn bay về. Mà chọn đi hay về thì cũng vậy, như thằng cha Nguyên này nè, mười chín năm rồi với tụi mình có gì khác đâu. Dzô cái nữa đi, chúc tụi ta sống hoài, sống lâu trăm tuổi để còn chơi với nhau dài dài.

Có lẻ đã uống nhiều trước khi đến đây nên Nguyên cạn ly nầy, mặt anh xanh xao và nhợt nhạt. Anh thất thần:

- Lại chúc chuyện vói không tới. Làm sao chắc sống tới trăm năm?

Thi khẽ cười, rót cho Nguyên không đầy như ly của những người khác. Hoà nói Thi thiên vị. Nhưng Tết nhứt uống không so đo, cho bao nhiêu uống bấy nhiêu. Thi nói: “Ông Nguyên phải luôn luôn tỉnh táo để chăn dắt đám say tụi nầy. Hồi nào giờ vậy, mai mốt cũng vậy”. Nguyên tự dưng thấy lòng mình trĩu nặng. Anh đề nghị đánh bài. Ừ thì đánh bài, để có cớ cho vợi hơi rượu đi, để hò hét cho xôm tụ nhóm. Hồi còn đi học, ở ký túc xá, không tiền, rãnh rỗi, đâu dám đi chơi ở ngoài, thấy cái gì cũng thèm chịu gì thấu. Vậy là ở nhà đánh bài. Không máu me, không nặng đỏ đen. Lúc trẻ thua thì quỳ gối, trét lọ nghẹ, búng lỗ tai, lỗ mũi. Lớn rồi thì chuyển qua uống rượu, phạt ca. Mà ca thì không ai muốn Chi thua, chị có giọng hát cực kỳ tệ. Sau nầy đổi lại đánh bài ăn có, người ta hỏi cái gì, người thua cũng chịu “có”. Hồi đó Hoà với Chi hục hặc như chó với mèo, có lần Thi cắt cớ hỏi Chi có yêu Hoà không, Chi quạu quọ “Ừ”. Thua ván nữa, Tiệp hỏi Chi đang tính lấy Hoà làm chồng phải không, Chi tức thiếu điều khóc nhưng cũng bảo “Có”. Ai mà biết được ra trường anh chị lại câu tay nhau làm đám cưới. Có đứa than, cách chơi nầy độc tài quá, Nguyên đề nghị ai thua chỉ bị hỏi một câu. Muốn trả lời sao cũng được nhưng phải thực lòng. Cho nên có lần Tiệp hỏi Thi có đi bia ôm không, Thi bảo “Có”. Tiệp giận từ mùng hai tới mùng năm mới xả cảng. Những khi rỗi rãi, Nguyên nằm nhớ lại thời đã qua và anh nhận ra rằng bọn anh đã chơi rất nhiều ván bài định mệnh. Mười một năm trước, Hoà hỏi Tiệp có thương Thi không. Tiệp gật. Vì cái gật đầu đó mà Nguyên ở lại làm ăn tại thành phố, anh biết mình chẳng còn hy vọng gì nữa rồi. Có lần Thi hỏi lại:

- Tao cưới Tiệp, mầy có buồn tao không?

Anh lắc đầu. Rồi có lần Chi hỏi:

- Không cưới vợ, ở vậy chờ ai?

Lần đó, Nguyên nói dối, bảo là chờ duyên tới. Mà duyên thì đâu phải muốn gặp là gặp. Cũng có yêu hai ba lần đó chớ, nhưng hết thảy tréo cẳng ngỗng hết, biết làm sao. Ai cũng biết là Nguyên nói dối, anh không quên được Tiệp chớ gì. Họ phạt anh uống liền một hơi ba cốc rượu đầy. Nước mắt anh trào ra, anh nhăn mặt, rượu gì mà cay dữ vậy. Chỉ Thi, mà không, có khi cả Tiệp nữa hiểu được ý nghĩa những giọt nước mắt kia.

Năm nay phải bắt phe lại. Chi với Thi một phe. Tiệp với Hoà một phe. Nguyên ngồi cạnh Tiệp buông rèm chấp chính cho tiệp. Những lá bài còn bóng giấy được chia ra. Hoà lơ đãng nói:

- Y chang năm ngoái hen.

Trời đất, thời gian mà, sao mà giống năm ngoái được. Năm ngoái Chi còn thon thả chớ đâu có phì ra như cái eo bánh mì, năm ngoái Hoà còn sáng sáng ra đá cầu với đám trẻ chớ đâu có tự dưng trở chứng muốn chơi chim, chơi cây cảnh tao nhã như mấy ông già đâu. Năm ngoái Nguyên đâu co gầy rạc, xệch xạc. Năm ngoái, Thi ngồi đằng sau Tiệp làm cô vấn an ninh chớ đâu phải Nguyên. Năm ngoái, họ còn là chồng vợ. Nhưng ai dám chắc, trong lòng họ hết thương nhau?

Nhất là khi bắt bài lên tay, Thi bảo: “Ông Nguyên phải coi chừng em Tiệp, cái tánh bốc đồng ngẫu hứng không bỏ được đâu, từ đây ông phải chăm sóc Tiệp dài dài”, nhưng Nguyên đọc trong mắt Thi lời gửi gắm khác. Anh vẫn nhớ khi chuyện Thi đỗ vỡ, Thi đi công tác có ghé anh, hai đứa kêu bia về uống. Nguyên hỏi Thi tại sao lại tới nông nỗi vợ một nơi, chồng một ngã. Thi bảo tại không hợp nhau. Đừng hỏi tại sao, không thể kể ti tỉ chuyện lụn vụn trong cuộc sống vợ chồng được đâu. Nguyên hỏi có người thứ ba không, Thi bảo phải chi có để căm ghét nhau cho đỡ khổ. Rồi khi Nguyên đã say mèm, Thi hỏi lại anh có còn yêu Tiệp không. Anh đã không nói dối, với Thi. Hai thằng từng ngủ chung giường, từng ăn chung mâm khi Nguyên ra thị xã trọ học. Má Thi hiền, thương hai đứa như nhau, chủ nhật Nguyên về quê, cõng ra một túm gạo lứt, má giận. Suốt một thời thơ ấu, Nguyên lớn lên bên Thi, thì làm sao có thể nói dối. Nghe anh, Thi chồm qua mấy chai bia lỏng chỏng lấy tay câu lấy vai Nguyên, nghẹn ngào:

- Phải chi hồi đó tao đừng cưới Tiệp, Tiệp sống với mầy biết đâu đỡ khổ hơn với tao.

Nguyên không nghĩ vậy. Thi không hiểu đâu. Bây giờ anh càng không nghĩ đến điều đó. Anh không có thời gian nữa, anh không còn chút gì để cho mình nữa. Anh gấp gáp lắm.

Bắt đầu từ tháng Năm rồi, Nguyên mắc cái bệnh bồn chồn. Anh muốn làm cái gì đó, trước khi không kịp nữa. Làm cho những người mà anh yêu thương. Một lần điện thoại về, anh Bảo Thi, nhắn với Hoà, Chi, Tiệp, anh sẽ tạo ra một mẫu nhồi bông mới, không phải thú mà là người. Hoà ốm, cao, mặt chữ điền, cạnh nào ra cạnh đó. Chi ú na ú núc, cái miệng rộng, cái mũi to bè bè nhưng đôi mắt rất đẹp, đôi mắt tròn xoe. Thi dong dỏng người, lưng tôm, trán cao, mũi thẳng, miệng mím lại cương quyết.Tiệp tóc dài, khuông mặt tròn dình, miệng lúc nào cũng như cười, mắt lúc nào cũng như hỏi. Và anh sẽ tạo anh...

- Nhồi bông tụi mình để làm gì? Để khi không còn bên nhau nữa thì tụi bông gòn đứng kề nhau à?

Thi để con ách cơ xuống, trông như một trái tim son, mắt anh ngầu lên. Nguyên nhìn vào nét mặt thi bối rối, anh muốn nhìn đi chổ khác mà không biết nhìn đâu. Hoà bỏ xuống từng lá bài cho một sảnh dài tràng giang đại hải:

- Thằng Thi đúng à. Tụi mình mà đem nhồi bông thì y chang con thỏ ăn củ cải của Nhện Con, làm sao đánh bài, rồi làm sao mà uống rượu. Xong – Hoà khoan khoái – Tao về nhứt, đã thiệt.

Thi quăng bài ngang, khàn khàn giọng mũi biểu nghỉ chơi. Anh nói anh say lắm rồi, say muốn khóc luôn đây. Chi nhằn, thấy tướng mạnh dạn vậy mà có tật không bỏ, hễ say là đòi khóc. Thi mơ màng, “Hỏng hiểu sao muốn quên mấy chuyện mà càng uống nhiều, càng nhớ đứt ruột”. Hỏi chuyện gì, Thi nói chuyện của ngày xưa. Nhớ một đêm ba mươi ba má Chi đã vượt biên bỏ một mình chị ở lại sau một năm giải phóng, nhớ Hoà ở tù bốn tháng mười chín ngày vì tội cho dân phá rừng để sống khi còn làm việc ở lâm trường, nhớ Nguyên ngày đầu lập nghiệp, cái xưởng sản xuất đồ chơi tẹp nhẹp như ổ mèo, khói bụi mịt mù. Nguyên buổi sáng ăn bánh mì không, chiều ăn bánh mì uống nước lã. Nhớ Tiệp hồi sinh Nhện Con, thai ép tim, phải chuyển viện tận thành phố để cứu mẹ, cứu con, số tiền dành dụm từ ngày cưới, dành dụm từ những buổi chiều tan sở, Thi gò lưng đi đổ cơm cặn về cho Tiệp nuôi heo đã lo thầy thuốc tan tành... Những ngày khổ đau, khó khăn cũng qua rồi. Chi thắc mắc:

- Biết bao nhiêu chuyện bự bự vậy mà tụi mình cũng vượt qua hen. Sao hay vậy không biết?

Có thể vì họ chưa bao giờ ngừng chiến đấu và hy vọng về một ngày mới tốt đẹp hơn. Có thể vì họ tin và yêu biết bao nhiêu cuộc đời này. Nguyên nghĩ khác:

- Bởi vì chúng ta chưa bao giờ bỏ nhau – Anh bắt đầu nổi hứng văn chương - Bởi vì chỉ có cái chết mới chia lìa được mấy đứa mình.

Thi nhìn Nguyên chằm chằm:

- Mày bệnh hả?

- Không, tao khoẻ.

- Chắc không?

- Chắc như bắp luộc – Nguyên cười.

Thi nhăn mặt:

- Vậy mà mở miệng ra là nói chuyện chết. Hồi còn học tiểu học, mầy còn nhớ trường Nguyễn không? Trường nằm đâu lưng với chùa, bữa nào tụi mình cũng leo rào qua chơi bắn đạn dưới gốc bồ đề. Thấy người ta vái, mấy đứa cũng bày đứng vái, cho tụi con chơi với nhau hoài, tới một trăm tuổi luôn. Mầy năm nay bao nhiêu rồi, Nguyên? Bốn ba. Tụi tao cũng tròm trèm. Còn lâu tụi mình mới chết. Còn năm mươi bảy cái Tết nữa mà, Nguyên.

Nguyên nhìn ra cửa. Trời đang lặn xuống cái vạch trời thăm thẳm. Đêm xăng xái lại buông màn. Anh thấy thích cái cảnh chiều qua như thế nầy, anh thấy yêu cuộc sống nầy, cái cuộc sống mà anh hít được, thở được. Anh bảo:

- Chắc mùng sáu tao quay về thành phố. Công chuyện quá trời...

Không ai lên tiếng cầm anh lại. Thi nhìn Tiệp, Tiệp lên tiếng, “Em sẽ đi cùng để lo thủ tục chuyển việc”. Chi nói bây giờ hứng sảng rồi, Chi mắc ca, chị muốn tặng Nguyên một bài. Cả bọn khủng khiếp quá nhưng trợn trạo biểu ca đi. Chi ca “Đừng tuyệt vọng, Tôi ơi, đừng tuyệt vọng...” Tự nhiên như cái đập oà vỡ, trừ Nguyên, cả bốn đều nghẹn ngào, nức nở.

Aha, vở kịch đời đã hạ màn khi chưa hết vở. Thử uống từng ấy rượu, coi có ai kìm nén được mình không. Đã cố lắm rồi, Tiệp đi Sài Gòn cũng nằm trong kịch, Thi kể chuyện xưa cũng nằm trong kịch suốt, la lối cho to, cười làm như hể hả, nói chuyện cười, cụng ly chan chát... Cũng đừng để nghe trong nhau mỗi người cuộn lên ngàn tiếng thở dài. Làm sao vui được như những ngày cũ. Làm sao được vui như những ngày cũ. Cả bốn người kia chua xót nghĩ, mình diễn được tới đây là vĩ đại lắm rồi.

Chỉ có Nguyên, anh dỗ, “Trời ơi mới mùng ba Tết mà khóc kiểu này cả năm xui lắm đó. Mà, chuyện gì vậy, có gì không?

Đâu có gì, lúc sáng, khi Nguyên còn tắm trong nhà Hoà, điện thoại cầm tay Nguyên reo. Hoà nghe máy, lại đùa mình là Nguyên. Cái giọng nữ đó (Hoà mô tả là khủng khiếp hơn giọng Chi), mắng té tát, hỏi tại sao không xạ trị đúng thời kỳ, ung thư phổi thời kỳ giữa rồi chớ giỡn sao. Tìm trong công ty, thư ký nói không có, gọi máy thì tắt máy. Cổ hỏi gằng gằng rằng anh còn yêu sự sống không? Hoà chết lặng đi, rất lâu, lâu lắm...

Vậy mà Nguyên bây giờ tỉnh rụi, anh đang cố hết sức mình để diễn cho mọi người vui. Hoà bậm môi lại để cười:

- Có rảnh thì gọi điện thoại về cho bác sĩ Phương. Ờ Phương hay Dương ta? Nói với cổ, mồng sáu ông về, mà thôi, đừng thèm nói, ông hát vô máy câu này nè “Tôi là ai, là ai, mà yêu quá đời này”. Phải chiến đấu chớ Nguyên, chiến đấu tới cùng. Bữa nay nữa thôi, ông không nhậu nhẹt nữa, để sống, coi như đây là bữa rượu cuối cùng của ông.

Hình như thời gian lầm lẫn, mà số phận cũng lầm. Đối với những người như thế, ngày hôm qua đã ở lại mãi, trong lòng.

No comments:

Post a Comment