Sunday, March 6, 2011

NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU

Hm...chia sẻ với mọi người về những gì được biết và được nghe.
Có những nhân vật mà đôi khi rất bình thường nhưng làm được việc phi thường, họ là những tấm gương đẹp trong đời , họ cho chúng ta học hỏi và noi theo cũng như cho chúng ta tự hào - đứng trên phương diện nhân đạo- nhân ái và dân tộc.

Hy vọng các bạn có thể đóng góp và chia sẻ thêm, kể cho nhau nghe về những nhân vật mà mình khâm phục từ khắp nơi trên thế giới.

Là phụ nữ Việt Nam, tôi rất tự hào về những người phụ nữ tuyệt vời của đất nước mình, nhất là phụ nữ hiện đại bây giờ có thể làm được tất cả thật không hổn danh con cháu Bà Trưng - Bà Triệu nghìn xưa! Trước khi nói đến những nhân vật thế hệ sau này, xin gởi đến bạn đọc bài viết về Hoàng Hậu Nam Phương


Vị Hoàng Hậu cuối cùng - không những đã để lại dấu ấn cho lịch sử Việt Nam mà cố Hoàng Hậu còn ngự trị trong lòng người dân ở Pháp tại Chabrignac - một làng nhỏ thuộc quận Corrèze, vùng Limousin gần Thị Trấn Bordeaux. Cho tới hôm nay Chabrignac cứ còn lưu luyến mãi với một người phụ nữ Việt Nam đặc biệt này đã thể hiện trên "Lepopulaire. Fr" với tựa đề "La belle impératrice demeure dans les coeurs" (Cố Hoàng Hậu xinh đẹp vẫn ngư trong tim), vào ngày 14.6.2010 như sau:
"Chabrignac và Việt Nam đã liên kết bởi một tình cảm không ai ngờ được. Vì Nam Phương Hoàng Hậu đã chọn nơi nầy làm chốn dung thân từ năm 1958 cho đến khi qua đời. Trong năm năm của cuộc sống trên cõi đời "Corrézienne" ấy, Hoàng Hậu đã để lại bao nhiêu là dấu ấn, biết bao là tình cảm cho người dân trong vùng."

Năm 1958, nguồn tin cho rằng một Hoàng Hậu Việt Nam sẽ đến Perche sinh sống, khiến cho dân làng bán tín bán nghi. Vậy mà không bao lâu bóng dáng của Bà đã trở nên quen thuộcvới dân làng. Những mối giao dịch thân tình và thoải mái của Bà với dân chúng đã đưa sự hiện diện của người quyền quý Việt Nam nơi miền thôn dã Pháp từ chỗ xa lạ vào chốn bình thường.

Ông Lucien Boudy, cựu Xã Trưởng Chabrignac, nhắc lại rằng Bà là một mệnh phụ phu nhân hết sức lịch sự, nhứt là vô cùng hào phóng với dân làng. Bà rất nhân đạo và nhiều thiện cảm với nhân viên của tòa nhà. Khi Bà mua tòa nhà ở "Perche", Hoàng Hậu đã phần nào trở thành nhà nông. Ngôi nhà của bà có rừng bao quanh, gồm 32 phòng, 7 phòng tắm, 5 phòng khách. Ai cũng nghĩ là Bà muốn tránh thành phố Cannes, nơi mà hoàng gia đã có một lâu đài, mà cũng là nơi mà Bà thường bị quấy rầy.

Ngôi mộ của Hoàng Hậu trong nghĩa trang bé nhỏ ở xã đã lưu giữ mãi kỷ niệm của Bà trong lòng người dân. Dẫu vậy, sự kiện lịch sử ít người biết nầy - hay đã lãng quên - vẫn còn làm cho Hiệp Hội Pháp-Việt thị xã Bordeaux xúc động, nên cuối tuần nầy (19-20.6.2010) , Hội sẽ có một phái đoàn đến Chabrignac để viếng thăm Hoàng Hậu.

Sơ lược về cuộc đời của Hoàng Hậu Nam Phương gắn bó như thế nào với đất nước.

Nam Phương Hoàng Hậu là một người vợ hiền thục và nhân từ. Suốt những năm ở ngôi Hoàng hậu cho đến khi từ giã cõi đời không hề có một tiếng thị phi, một lời than trách. Bà được ghi nhận trong lịch sử như một Hoàng hậu mẫu mực. Nam Phương Hoàng Hậu, tên thật Nguyễn Hữu Thị Lan là vợ của Hoàng Đế Bảo Đại. Bà là vị hoàng hậu duy nhất được phong khi còn sống của nhà Nguyễn, cũng là hoàng hậu cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam.
Bà khuê danh là Nguyễn Hữu Thị Lan, sinh ngày 4 tháng 12, 1914 tại Gò Công, Tiền Giang, xuất thân trong một gia đình Công giáo giàu có bậc nhất miền Nam thời bấy giờ, do đó bà còn có tên thánh là Marie Thérèse. Bà là con gái của đại điền chủ Nguyễn Hữu Hào và là cháu ngoại của ông Lê Phát Đạt, tức Huyện Sỹ. Lê Phát Đạt là người bỏ tiền xây dựng Nhà Thờ ở đường Bùi Chu cũ, hiện nay là nhà thờ Huyện Sỹ, đường Tôn Thất Tùng, Quận 1, Sài Gòn và nhà thờ Hạnh Thông Tây ở Gò Vấp (nhà thờ Chí Hòa đường Cách mạng tháng 8 - Q. Tân Bình được xây dựng với số tiền dư khi xây dựng xong nhà thờ Huyện Sỹ)

Năm 1926, Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan, khi đó 12 tuổi, được gia đình cho sang Pháp học tại trường Couvent des Oiseaux, một trường nữ danh tiếng ở Paris do các nữ tu điều hành. Tháng 9 năm 1932, sau khi thi đậu Tú tài, Nguyễn Hữu Thị Lan về nước trên con tàu D’Artagnan của hãng Messagerie Maritime. Vua Bảo Đại hồi loan cũng đi cùng chuyến tàu đó nhưng hai người không gặp nhau.

Gần một năm sau đó, trong một buổi dạ tiệc tại khách sạn La Palace tại Đà Lạt do Toàn quyền Đông Dương và viên Đốc lí thành phố sắp đặt, Nguyễn Hữu Thị Lan và Bảo Đại đã gặp nhau.


Về cuộc tình duyên đó, Bảo Đại có viết trong cuốn Con rồng Việt Nam:
"Sau lần hội ngộ đầu tiên ấy, thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp nhau để trao đổi tâm tình. Marie Thérèse thường nhắc đến những kỷ niệm ở trường Couvent des Oiseaux một cách thích thú. Cũng như tôi, Marie Thérèse rất thích thể thao và âm nhạc. Nàng có vẻ đẹp dịu dàng của người miền Nam pha một chút Tây phương. Do vậy mà tôi đã chọn từ kép Nam Phương để đặt danh hiệu cho nàng.
Các vị Tiên Đế của tôi cũng thường hướng về người đàn bà miền Nam. Nếu tôi nhớ không sai thì trước Hoàng hậu Nam Phương, có đến bảy phụ nữ miền Nam đã từng là chủ nhân của Hoàng thành Huế. Khi chọn phụ nữ miền Nam làm vợ, hình như đức Tiên Đế và tôi đều nghĩ rằng trước kia đức Thế Tổ Cao Hoàng đã được nhân dân miền Nam yểm trợ trong việc khôi phục giang sơn. Chính đó là sự ràng buộc tình cảm giữa Hoàng triều Huế với người dân miền Nam".


Hoàng hậu Nam Phương cũng nhắc lại:
"Hôm đó ông Darle, Đốc Lí thành phố Đà Lạt gởi giấy mời cậu Lê Phát An tôi và tôi đến dự dạ tiệc ở Hôtel Palace. Tôi không muốn đi nhưng cậu An tôi năn nỉ và hứa với tôi là chỉ đến tham dự một chút và vái chào nhà Vua xong là về nên tôi phải đi một cách miễn cưỡng và tôi cũng chỉ trang điểm sơ sài thôi.
Chúng tôi đến trễ nên buổi tiệc đã bắt đầu từ lâu. Cậu tôi kéo ghế định ngồi ngoài hiên thì ông Darle trông thấy, ông ta chạy đến chào chúng tôi rồi nắm tay cậu tôi kéo chúng tôi vô nhà. Vừa đi ông vừa nói:

- Ông và cô phải đến bái yết Hoàng thượng mới được.

Khi cánh cửa phòng khách vừa mở, tôi thấy vua Bảo Đại ngồi trên chiếc ghế bành chính giữa nhà. Ông Darle bước tới bên cạnh Vua rồi nghiêng mình cúi chào và kính cẩn nói:

-Votre Majesté, Monsieur Lê Phát An et sa nièce, Mademoiselle Marie Thérèse. (Tâu Hoàng thượng, đây là ông Lê Phát An và người cháu gái, cô Marie Thérèse)

Nhờ các nữ tu ở trường Couvent des Oiseaux từng chỉ dạy nên tôi biết phải làm gì để tỏ lòng tôn kính đối với bậc Quân Vương, vì vậy tôi đã không ngần ngại đến trước mặt Hoàng Đế, quỳ một gối và cúi đầu sát nền nhà cho đến khi thấy bàn tay cậu tôi kéo tôi dậy, tôi mới đứng lên. Vua gật đầu chào tôi đúng lúc tiếng nhạc vừa trỗi theo nhịp điệu Tango, Ngài ngỏ lời mời và dìu tôi ra sàn nhảy rồi chúng tôi bắt đầu nói chuyện.

Về sau, khi đã trở thành vợ chồng, Ngài mới cho tôi biết hôm đó Ngài rất chú ý cách phục sức đơn sơ của tôi. Tôi nghĩ rằng tôi được nhà Vua lưu ý một phần do trong suốt buổi dạ tiệc chỉ có tôi là người đàn bà Việt Nam duy nhất nói tiếng Pháp và theo hành lễ đúng cung cách lễ nghi Âu tây đối với Ngài".

Bảo Đại say mê Nguyễn Hữu Thị Lan, ông viết lại: Lan có một vẻ đẹp thùy mị của người con gái miền Nam, hiền lành và quyến rũ làm tôi say mê. Và khi Bảo Đại hỏi cưới thì gia đình Nguyễn Hữu Thị Lan ra điều kiện:

Nguyễn Hữu Thị Lan phải được tấn phong Hoàng Hậu Chánh Cung ngay trong ngày cưới.
Được giữ nguyên đạo Công Giáo, và các con khi sinh ra phải được rửa tội theo giáo luật Công giáo và giữ đạo.
Riêng Bảo Đại thì vẫn giữ đạo cũ là Phật giáo.
Phải được Tòa Thánh cho phép đặc biệt hai người lấy nhau và giữ hai tôn giáo khác nhau.

Nguyễn Hữu Thị Lan là người nổi tiếng xinh đẹp, từng ba năm liền đạt giải hoa hậu Đông Dương, nhưng bà mang quốc tịch Pháp và theo Công giáo. Vì vậy cuộc hôn nhân giữa Bảo Đại và Nguyễn Hữu Thị Lan gặp phải rất nhiều phản đối. Trước Hoàng Tộc, Bảo Đại đã nói: "Trẫm cưới vợ cho trẫm đâu phải cưới cho cụ Tôn Thất Hân và Triều đình."

Hôn lễ được tổ chức ngày 20 tháng 3 1934 ở Huế. Khi đó Bảo Đại đúng 21 tuổi, còn Nguyễn Hữu Thị Lan 19 tuổi. Ngay ngày hôm sau, lễ tấn phong Hoàng Hậu được diễn ra rất trọng thể ở điện Dưỡng Tâm. Nhà vua phong Hoàng Hậu tước vị Nam Phương Hoàng Hậu. Sự kiện Nguyễn Hữu Thị Lan được tấn phong Hoàng hậu ngay sau khi cưới là một biệt lệ đối với các vợ vua triều Nguyễn. Vì mười hai đời vua Nguyễn trước, các bà vợ vua chỉ được phong tước Vương phi, đến khi chết mới được truy phong Hoàng hậu.

Vua Bảo Đại có giải thích thêm về hai chữ Nam Phương như sau:

"Tôi đã chọn tên trị vì cho bà Hoàng Hậu mới là Nam Phương. Nam Phương có nghĩa là hương thơm của miền Nam và tôi cũng ra một chỉ dụ đặc biệt cho phép bà được phục sức màu vàng – màu dành riêng cho Hoàng Đế".
Sau lễ cưới, vua Bảo Đại cùng hoàng hậu Nam Phương dọn về ở tại điện Kiến Trung thuộc khu vực cấm thành. Điện này xây cất từ thời vua Khải Định nhưng được sửa chữa và tân trang các tiện nghi Tây phương vào đầu triều vua Bảo Đại.


Đêm ngày 4 tháng 1 năm 1936, người dân Huế nghe những tiếng súng bắn mừng báo tin Nam Phương đã hạ sanh, và lờ mờ sáng lại một lần nữa 7 tiếng súng thần công làm lay động cả Hoàng Thành, báo hiệu Hoàng hậu Nam phương đã sinh một hoàng tử. Người đó chính là Đông cung Thái tử Bảo Long.

Hoàng hậu Nam Phương cùng Vua Bảo Đại có tất cả 5 người con.


Thái tử Bảo Long, sinh ngày 4 tháng 1 năm 1936
Công chúa Phương Mai, sinh ngày 1 tháng 8 năm 1937
Công chúa Phương Liên, sinh ngày 3 tháng 11 năm 1938
Công chúa Phương Dung, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1942
Hoàng tử Bảo Thắng, sinh ngày 9 tháng 12 năm 1943

Khi đó công việc hàng ngày của hoàng hậu Nam Phương là dạy dỗ các hoàng tử, công chúa. Thỉnh thoảng bà phải cùng các quan ở Bộ Lễ bàn thảo các lễ tiệc trong cung đình, lo việc cúng giỗ các Tiên đế và đi vấn an sức khỏe các bà Tiên cung và Hoàng thái hậu Từ Cung, tức mẹ vua Bảo Đại. Hoàng hậu Nam Phương còn tham gia các việc xã hội và từ thiện. Hàng năm bà đều tham dự các buổi phát giải thưởng cho các học sinh giỏi tổ chức tại trung tâm Accueil gần nhà Dòng Chúa Cứu Thế. Theo lời nữ sĩ Đạm Phương thì có lần Hoàng hậu Nam Phương bảo bà làm đơn xin phép Bộ Giáo Dục đem môn nữ công gia chánh vào học đường.

Hoàng hậu Nam Phương cũng xuất hiện thường xuyên bên cạnh Bảo Đại trong các nghi lễ ngoại giao như đón tiếp Thống chế Tưởng Giới Thạch của Đài Loan, Quốc Vương Soupha Vangvong nước Lào hoặc Quốc vương Sihanouk của Cao Miên... Lần vua Bảo Đại tự mình lái xe hơi đi thăm Nam Vang cũng có mặt Hoàng hậu tháp tùng. Là người Công giáo, hoàng hậu Nam Phương đã đem lại hòa khí giữa các chức sắc đạo Công giáo ở Việt Nam với Hoàng tộc nhà Nguyễn, vốn trước đó có những quan hệ căng thẳng kéo dài.

Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 25 tháng 8, Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh điện cho Bảo Đại yêu cầu ông ban dụ thoái vị. Ngày 30 tháng 8 1945, Vua Bảo Đại thoái vị trong một buổi lễ long trọng ở Ngọ Môn, Huế, trao quốc ấn Hoàng Đế Chi Bửu và thanh kiếm bạc nạm ngọc cho đại diện của chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là ông Trần Huy Liệu.

Tháng 9 năm 1945, ông ra nhận chức "Cố vấn tối cao" trong chính phủ. Ngày 16 tháng 3 1946, ông tham gia phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang thăm viếng Trung Hoa, nhưng không trở về nước. Sau ngày toàn quốc kháng chiến 19 tháng 12 1946, thực dân Pháp trở lại chiếm đóng Huế. Hoàng hậu Nam Phương cùng các con sang Pháp.

Tuy vậy, Nam Phương hoàng hậu được nhiều người đánh giá là người thiết tha với đất nước. Theo tài liệu của sử gia Pháp Jean Renaud do nhà xuất bản Guy Boussac ấn hành năm 1949:

Sau khi quân Pháp dựa vào thế lực của quân Anh quốc để gây hấn ở miền Nam với ý đồ tái chiếm thuộc địa Việt Nam. Lúc đó vua Bảo Đại đã thoái vị, bà Nam Phương đang ở tại An Định cung bên bờ sông An Cựu. Đau lòng trước thảm cảnh mà đồng bào miền Nam, quê hương của bà đang trực tiếp gánh chịu, cựu Hoàng hậu Nam Phương đã gửi một thông điệp cho bạn bè ở Á châu yêu cầu họ lên tiếng tố cáo hành động xâm lăng của thực dân Pháp với lời lẽ như sau:

"Kể từ tháng 3 năm 1945, nước Việt Nam đã thoát khỏi sự đô hộ của người Pháp nhưng vì lòng tham của một thiểu số thực dân Pháp với sự tiếp tay của quân đội Hoàng gia Anh nên hiện nay máu của nhân dân Việt Nam lại tiếp tục chảy trên mảnh đất vốn đã có quá nhiều đau khổ. Hành động này của thực dân Pháp là trái với chủ trương của Đồng Minh mà nước Pháp lại là một thành viên. Vậy tôi tha thiết yêu cầu những ai đã từng đau khổ vì chiến tranh hãy bày tỏ thái độ và hành động để giúp chúng tôi chấm dứt chiến tranh đang ngày đêm tàn phá đất nước tôi.

Thay mặt cho hàng chục triệu phụ nữ Việt Nam, tôi thỉnh cầu tất cả bạn bè của tôi và bạn bè của nước Việt Nam hãy bênh vực cho tự do. Xin các chính phủ của khối tự do sớm can thiệp để kiến tạo một nền hòa bình công minh và chân chính và xin quý vị nhận nơi đây lòng biết ơn sâu xa của tất cả đồng bào của chúng tôi"



Hoàng hậu Nam Phương cũng là người tiêu biểu trong các bà mệnh phụ nhiệt tình với “Tuần lễ Vàng” do Việt Minh phát động tại Huế. Hôm ấy, ngày 17 tháng 9 1945, bà là người đầu tiên đến bên một cái bàn trải khăn đỏ rồi từ từ tháo hết số hàng trang sức bằng vàng đang mang trên người để cống hiến. Sau đó bà được gắn một huy hiệu in cờ đỏ sao vàng.


Lưu Vong
Nam Phương Hoàng hậu rời Việt Nam năm 1947.
Bà chọn Chabrignac, một làng quê trải dài trên vùng đồi có những mái nhà xám. Trên khu đất rộng 160 mẫu, bà xây một biệt thự bằng đá cẩm thạch ở giữa đồi. Kế cận lâu đài này có một nông trại khác mang tên ”Domaine de la Perche” do Hoàng Hậu Nam Phương mua với tài chánh riêng Bà, vốn giàu có từ trước. Nông trại này không có lâu đài, nhưng chỉ có một ngôi nhà dài khá lớn, hơn 30 phòng, chung quanh là vườn Nho và cây ăn trái như Cam Lê và Táo, xen kẻ với vườn hoa đủ màu thi nhau nẩy nở. Bà Nam Phương đã cho mua cơ sở xinh đẹp này từ năm 1958. Lúc Bà Bá Tước Như Lý de la Besse hay tin này, Bà ấy làm ngạc nhiên, nhưng không hỏi hoặc thăm viếng Bà Nam Phương, có lẽ vì một bà thuộc giòng Vua cách mạng, một bà thì thuộc giòng Vua thân Pháp. Tuy gần nhà mà xa cửa ngõ, suốt 5 năm trời hai Bà không hề gặp nhau.


Giữa đất khách, bà sống ẩn dật trong yên tĩnh. Ngoài 2 chung cư lớn ở Neuilly và đại lộ Opéra (Paris), bà còn sở hữu nhiều nhà đất ở các nước Maroc, Congo, cùng nhiều ngọc ngà, châu báu. Dân làng Chabrignac kể rằng, bà Nam Phương giàu có, nhưng sống thiếu hạnh phúc vì ít khi thấy cựu Hoàng Bảo Đại tới thăm ngoài ngày hôn lễ của công chúa Phương Liên thành hôn với một người Pháp, Bernard Soulain ,vào tháng 1 năm 1962, là một sự kiện của vùng.

Năm 1963, vào khoảng 5 giờ chiều, cựu hoàng hậu Nam Phương cảm thấy mệt bèn cho người nhà đi mời Bác sỹ đến thăm mạch. Sau khi chẩn khám, Bác sĩ cho biết bà bị viêm họng nhẹ, chỉ uống thuốc vài hôm là khỏị Nhưng không dè, Bác sĩ vừa rời khỏi nhà chừng vài tiếng đồng hồ thì bà cảm thấy khó thở. Ngươi hầu bà bèn nhờ một người Pháp hàng xóm đi mời một Bác sĩ khác, nhưng người Bác sĩ thứ hai chưa đến kịp thì cựu Hoàng hậu Nam Phương đã êm ái lìa đời ngay trong đêm đó khi vừa tròn 49 tuổi.
Ngoài hai người giúp việc trong nhà, không có một người ruột thịt nào có mặt bên cạnh bà trong giờ phút lâm chung, vì các con bà đều ở tận Paris để làm việc và đi học.

Đám tang của bà được tổ chức một cách sơ sài lặng lẽ. Ngày tang lễ, ngoài hai Hoàng tử và ba Công chúa đi bên cạnh quan tài của mẹ không có một người bà con nào khác. Về phía quan chức Pháp thì chỉ có hai Quận trưởng của Brive la Gaillarde và Chabrignac. Trong suốt thời gian tang lễ Cựu hoàng Bảo Đại cũng không có mặt.

Hoàng Hậu Nam Phương được chôn cất tại nghĩa địa Chabrignac. Ngôi mộ đơn sơ với tấm bia đá hai mặt ghi hai hàng chữ bằng hai thứ tiếng khác nhau, mặt trước viết chữ Hán, mặt sau viết chữ Pháp:

Bia chữ Hán:
ĐẠI NAM NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU CHI MỘ
(Mộ phần của Hoàng hậu Nam Phương nước Đại Nam)

No comments:

Post a Comment