Sunday, January 23, 2011

NHỮNG CÂU NÓI LỪNG DANH CỦA CÁC VỊ TỔNG THỐNG HOA KỲ

NHỮNG CÂU NÓI LỪNG DANH CỦA CÁC VỊ TỔNG THỐNG HOA KỲ
[ Chung ] 29 November, 2007 15:31:: Lần xem (548)
Với sức mạnh siêu cường trên thế giới, các vị tổng thống của Hoa Kỳ thường được chú ý mỗi khi tuyên bố hay đọc diễn văn. Có những tổng thống đã trở nên nổi tiếng và được nhớ mãi vì những câu nói bất hủ. Do đó, các tổng thống Hoa Kỳ đều cố gắng tạo ấn tượng mạnh cho quần chúng bằng những lời phát biểu của mình.
Trong cuộc nội chiến Hoa Kỳ, tổng thống Abraham Lincoln đã nâng cao tinh thần binh sĩ bằng một bài diễn văn sống động, kêu gọi lòng yêu nước và tinh thần chiến đấu vì tổ quốc. Ông đã nói: "Quốc gia này, dưới Thượng Ðế, sẽ khai sanh ra tự do và một chính quyền vì dân, của dân, và cho dân, sẽ không thể mất đi trên mặt địa cầu." Chính những lời phát biểu hùng hồn của tổng thống Abraham Lincoln đã mang lại chiến thắng cho quân đội của ông và kết thúc cuộc nội chiến Hoa Kỳ. Trong lịch sử Hoa Kỳ, tổng thống Lincoln cũng được biết đến là một trong những người đã để lại nhiều câu nói đáng ghi nhớ nhất.
Tổng thống Franklin Roosevelt trong lễ nhậm chức vào năm 1933 đã tuyên bố dõng dạc là tất cả người Hoa Kỳ có thể vượt qua cuộc khủng hoảng nếu họ vẫn giữ lòng can đảm và quyết tâm. Ông đã nói: "Hãy để tôi xác định lòng tin vững vàng của tôi là chỉ có một việc mà chúng ta phải sợ là chính nỗi sợ – nỗi khiếp sợ không tên gọi, không nguyên nhân, không xác định đã làm tê liệt những nỗ lực cần thiết để tạo thành sức mạnh vươn tới trước." Và cũng chính niềm tin trong lời tuyên bố của ông đã giúp Hoa Kỳ vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế vào thời đó.
Trong lễ nhậm chức vào năm 1961, tổng thống John F. Kennedy đã để đời câu nói bất hủ của ông: "My fellow Americans, ask not what your country can do for you - ask what you can do for your country" (tạm dịch là: Ðồng bào Hoa Kỳ của tôi, xin đừng hỏi quốc gia có thể làm gì cho bạn, mà hãy tự hỏi bạn có thể làm gì cho quốc gia mình). Câu nói lừng danh này đã trở thành một lý tưởng sống cho rất nhiều người Hoa Kỳ về sau. Không những vậy, một số các chính khách khi diễn thuyết cũng thường trích dẫn câu nói này để thu hút sự chú ý của quần chúng.
Trong bài diễn văn vào tháng Tám năm 1974, tổng thống Gerald Ford đã nhận được sự tán thưởng nhiệt liệt trước câu nói kêu gọi mọi người dân hãy nhìn về tương lai sau biến cố Watergate dẫn đến sự từ chức của tổng thống Richard Nixon: "My fellow Americans, our long national nightmare is over"(tạm dịch là: Ðồng bào Hoa Kỳ của tôi, cơn ác mộng dài của quốc gia đã qua rồi).
Riêng về tổng thống Ronald Reagan, có lẽ không chỉ Hoa Kỳ mà thế giới Tây Phương phải biết ơn ông khi ông đọc bài diễn văn trước bức tường Bá Linh. Chính tổng thống Reagan đã can đảm đọc những lời trong bài diễn văn mà ngay cả một số vị cố vấn của ông đã muốn can ngăn. Sau khi được mời đọc bài diễn văn trước bức tường Bá Linh, tổng thống Reagan đã được sắp xếp để gặp các chuyên gia về viết diễn văn cho tổng thống, trong số đó có ông Peter Robinson, người đã đến Tây Ðức cả tháng trước để tìm hiểu tình hình dân tình sống xung quanh bức tường lịch sử này. Hầu như mọi người dân đều chán ghét bức tường ngăn cách dân tộc Ðức. Nắm được mấu chốt này và cộng thêm hiểu được cá tánh của tổng thống Reagan vốn xuất thân là một tài tử hay thích kịch tính, ông Peter Robinson đã quyết định viết sáu chữ trong bài diễn văn mà sau này đã giúp tổng thống Reagan trở thành một trong những vị tổng thống được ngưỡng mộ nhiều nhất.
Ngay trong giờ phút lịch sử vào ngày 12 tháng 6 năm 1987 tại trước cổng Branderburg của bức tường Bá Linh, tổng thống Ronald Reagan bất chấp mọi sự ngăn cản của các viên chức cố vấn đã tuyên bố bằng một giọng cứng rắn pha một chút giận dữ và thách thức: "Mr. Gorbachev, tear down this wall" (tạm dịch là: ông Gorbachev, hãy giật sập bức tường này đi). Giới cố vấn cao cấp cho tổng thống đã điếng người và sững sờ trước câu nói mà theo họ chẳng phải là lời lẽ dành cho một vị nguyên thủ quốc gia. Ðược biết câu này trong bài diễn văn đã từng bị phụ tá tổng thống Howard Baker và cố vấn an ninh quốc gia Colin Powell phản đối, cho rằng tổng thống Regan không nên nhắc đến bức tường và cũng đừng nên nêu đích danh tổng thống Nga lúc bấy giờ là Gorbachev vì họ không muốn Hoa Kỳ tạo thêm mâu thuẫn với khối Nga Xô. Tuy nhiên, tổng thống Reagan đã quyết định giữ lại vì câu này đúng như những gì mà tổng thống mong muốn, bởi ông là một người chống chế độ Cộng Sản hầu như suốt cuộc đời và hiểu được là bức tường Bá Linh sẽ không thể tồn tại lâu. Mặt khác, tổng thống Reagan cũng muốn đặt trách nhiệm về sự chia cách nước Ðức lên vai tổng thống Gorbachev bằng cách nêu tên ông trong bài diễn văn của mình. Câu nói bất hủ của tổng thống Reagan trước bức tường Bá Linh đã làm hàng triệu người Âu Châu phải sống dưới chế độ Cộng Sản, đặc biệt là tại Ðông Ðức, vô cùng cảm động. Họ cảm thấy được an ủi vì ngay chính tổng thống của một nước tự do và hùng mạnh nhất thế giới đã nói được một lời công đạo cho họ. Lịch sử chứng minh cho lời nói của tổng thống Reagan chỉ hai năm sau đó, trước sự biến chuyển chính trị mà không ai có thể tiên đoán về sự sụp đổ của chủ nghĩa Cộng Sản tại Liên Xô và các nước Ðông Âu dẫn tới việc bức tường Bá Linh bị sụp đổ, và xóa luôn Ðông Ðức trên bản đồ.
Tổng thống William Clinton được mọi người ghi nhớ là vị tổng thống luôn đặt nền tảng quốc gia trên người dân qua câu nói trong bài diễn văn nhậm chức mà theo đó, ông tin rằng không có điều gì sai trái với người Hoa Kỳ mà không thể sửa đổi bằng những gì người Hoa Kỳ tin là đúng.
Gần đây nhất, tổng thống George W. Bush đã tạo được niềm hy vọng cho mọi người khi ông đến Ground Zero tại New York chỉ ba ngày sau khi xảy ra biến cố ngày 11-9. Tổng thống Bush đã cầm loa và hùng hồn tuyên bố: "Tôi có thể nghe các bạn. Toàn thế giới đang nghe các bạn. Và những người làm sụp đổ hai tòa nhà này sẽ nghe tất cả chúng ta trong một ngày rất gần."
Lịch sử cho thấy, các tổng thống hay các diễn giả nổi tiếng trên thế giới thường tạo ra những câu nói gây ấn tượng mạnh cho quần chúng trong những giây phút xuất thần. Những giây phút đó đòi hỏi các diễn giả phải bày tỏ sự chân thật hay xúc cảm mãnh liệt trong những lời phát biểu của mình. Và một số tổng thống Hoa Kỳ đã để lại những câu nói lừng danh cho nhân loại sau này.


Phát biểu “độc” trong diễn văn nhậm chức của các TT Mỹ


Lễ nhậm chức giúp các tổng thống Mỹ cơ hội phát biểu với người dân trên cả nước, với thế giới và lịch sử. Và đây là những trích dẫn độc đáo trong các bài phát biểu nhậm chức của một số Tổng thống Mỹ.

George Washington (Ảnh: visitingdc)

George Washington

“Sự duy trì ngọn lửa tự do linh thiêng và vận mệnh của mẫu hình chính phủ cộng hòa được cân nhắc cẩn trọng và cuối cùng, đã được thử nghiệm để giao phó vào tay người Mỹ”.

Vị tổng thống đầu tiên của Mỹ cũng tuyên bố trong bài phát biểu năm 1789 rằng, ông sẵn sàng chấp thuận làm việc không công.

Thomas Jefferson

“Chúng ta hay suy ngẫm rằng, dù chúng ta loại bỏ khỏi đất nước sự không khoan dung tôn giáo đã khiến loài người đổ máu và tổn thương, chúng ta vẫn chỉ đạt được quá ít thành tựu nếu chúng ta vẫn ủng hộ một nền chính trị không khoan dung như chuyên chế, tội lỗi, với những cảnh cay đắng, tàn bạo”.

Lễ nhậm chức đầu tiên của Jefferson vào năm 1801, diễn ra vào thời điểm chia rẽ, hằn thù bè phái sâu rộng giữa những người chủ trương lập chế độ liên bang và những người phản đối.

James Madison

“Vì chiến tranh luôn có căn nguyên, tính tất yếu và sự cao cả, nên chúng ta có thể suy ngẫm với tinh thần tự hào rằng, chúng ta thực hiện cuộc chiến mà không vi phạm pháp luật hay tổn hại danh dự, không lợi dụng một quốc gia văn minh nào, không ảnh hưởng tới châm ngôn giáo huấn, không xâm hại loài người.

Chúng ta thực hiện chiến tranh với sự tôn trọng mọi nghĩa vụ bổn phận, trong khuôn khổ của tự do. Và kẻ thù thì ngược lại! Chúng giam giữ những công dân Mỹ như tù nhân chiến tranh, nhưng lại không tuân thủ theo các quy định thời chiến”.

Bài phát biểu của Madison năm 1813 là phát biểu tuyên thệ nhậm chức đầu tiên của một tổng thống thời chiến – thời điểm Mỹ thực hiện cuộc chiến chống Anh.


John F Kennedy (Ảnh: amphetamines)

Andrew Jackson

“Chừng nào chính phủ của chúng ta còn được cai quản vì những gì tốt đẹp cho mọi người, và được điều chỉnh theo hướng đó; chừng nào chính phủ ấy còn đảm bảo quyền con người, quyền sở hữu, quyền tự do báo chí thì nó đang được bảo vệ”.

Jackson kết luận trong bài phát biểu nhậm chức năm 1829 rằng, không cần tới quân đội, lực lượng dân quân đã đủ để bảo vệ đất nước.

Abraham Lincoln

“Tôi không có ý định, trực tiếp hay gián tiếp can thiệp vào những bang còn tồn tại chế độ chiếm hữu nô lệ. Tôi tin là tôi không có quyền làm thế, và tôi cũng có khuynh hướng như vậy”.

Một số bang còn chế độ chiếm hữu nô lệ đã rút khỏi Liên bang khi Lincoln có bài phát biểu năm 1861. Cuộc nội chiến nổ ra vài tuần sau đó.

Thời điểm Lincoln tuyên thệ nhậm chức lần thứ hai năm 1865, nội chiến gần tới lúc kết thúc, Lincoln có bài phát biểu với hy vọng hàn gắn quốc gia: “Hãy làm tất cả để duy trì lòng yêu thương, và hòa bình vĩnh cửu trong chính chúng ta và trong mọi quốc gia”.

Chiến tranh kết thúc một tháng sau ngày Lincoln phát biểu nhậm chức, nhưng ông bị ám sát năm ngày sau đó.

Woodrow Wilson

“Chúng ta đã lãng phí phần lớn những gì chúng ta có thể sử dụng, chúng ta không dừng lại để bảo tồn các nguồn lợi tự nhiên. Chúng ta tự hào về những thành quả công nghiệp đạt được, nhưng chúng ta không dừng lại để thận trọng cân nhắc cái giá mà con người phải trả”.

Wilson tuyên thệ nhậm chức năm 1913 với cam kết cải tổ khi lần đầu tiên trong một thế hệ, đảng Dân chủ của ông nắm quyền kiểm soát Nhà Trắng và Quốc hội.

Franklin Roosevelt

“Điều duy nhất chúng ta phải sợ là sợ chính bản thân”. Trong bài phát biểu năm 1933, Franklin Roosevelt đã dành phần lớn thời gian để giải thích việc ông sẽ chống lại cuộc Đại Suy thoái thế nào.

Thời điểm ông nhậm chức lần hai năm 1937, đã có một số dấu hiệu phục hồi kinh tế Mỹ, tuy rằng nước này chưa hoàn toàn ra khỏi suy thoái.

John F Kennedy

John F Kennedy đảm nhận ghế Tổng thống từ năm 1961 đến khi bị ám sát năm 1963. Trong lễ nhậm chức, ông phát biểu một câu “để đời”: “Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho bạn, mà hãy tự hỏi bạn đã góp sức được gì cho Tổ quốc”.

The White House Blog
President Barack Obama's Inaugural Address
Posted by Macon Phillips on January 21, 2009 at 01:27 PM EST
Yesterday, President Obama delivered his Inaugural Address, calling for a "new era of responsibility." Watch the video here:
Inaugural Address

By President Barack Hussein Obama
My fellow citizens: I stand here today humbled by the task before us, grateful for the trust you've bestowed, mindful of the sacrifices borne by our ancestors.
I thank President Bush for his service to our nation -- (applause) -- as well as the generosity and cooperation he has shown throughout this transition.
Forty-four Americans have now taken the presidential oath. The words have been spoken during rising tides of prosperity and the still waters of peace. Yet, every so often, the oath is taken amidst gathering clouds and raging storms. At these moments, America has carried on not simply because of the skill or vision of those in high office, but because we, the people, have remained faithful to the ideals of our forebears and true to our founding documents.
So it has been; so it must be with this generation of Americans.
That we are in the midst of crisis is now well understood. Our nation is at war against a far-reaching network of violence and hatred. Our economy is badly weakened, a consequence of greed and irresponsibility on the part of some, but also our collective failure to make hard choices and prepare the nation for a new age. Homes have been lost, jobs shed, businesses shuttered. Our health care is too costly, our schools fail too many -- and each day brings further evidence that the ways we use energy strengthen our adversaries and threaten our planet.
These are the indicators of crisis, subject to data and statistics. Less measurable, but no less profound, is a sapping of confidence across our land; a nagging fear that America's decline is inevitable, that the next generation must lower its sights.
Today I say to you that the challenges we face are real. They are serious and they are many. They will not be met easily or in a short span of time. But know this America: They will be met. (Applause.)
On this day, we gather because we have chosen hope over fear, unity of purpose over conflict and discord. On this day, we come to proclaim an end to the petty grievances and false promises, the recriminations and worn-out dogmas that for far too long have strangled our politics. We remain a young nation. But in the words of Scripture, the time has come to set aside childish things. The time has come to reaffirm our enduring spirit; to choose our better history; to carry forward that precious gift, that noble idea passed on from generation to generation: the God-given promise that all are equal, all are free, and all deserve a chance to pursue their full measure of happiness. (Applause.)
In reaffirming the greatness of our nation we understand that greatness is never a given. It must be earned. Our journey has never been one of short-cuts or settling for less. It has not been the path for the faint-hearted, for those that prefer leisure over work, or seek only the pleasures of riches and fame. Rather, it has been the risk-takers, the doers, the makers of things -- some celebrated, but more often men and women obscure in their labor -- who have carried us up the long rugged path towards prosperity and freedom.
For us, they packed up their few worldly possessions and traveled across oceans in search of a new life. For us, they toiled in sweatshops, and settled the West, endured the lash of the whip, and plowed the hard earth. For us, they fought and died in places like Concord and Gettysburg, Normandy and Khe Sahn.
Time and again these men and women struggled and sacrificed and worked till their hands were raw so that we might live a better life. They saw America as bigger than the sum of our individual ambitions, greater than all the differences of birth or wealth or faction.
This is the journey we continue today. We remain the most prosperous, powerful nation on Earth. Our workers are no less productive than when this crisis began. Our minds are no less inventive, our goods and services no less needed than they were last week, or last month, or last year. Our capacity remains undiminished. But our time of standing pat, of protecting narrow interests and putting off unpleasant decisions -- that time has surely passed. Starting today, we must pick ourselves up, dust ourselves off, and begin again the work of remaking America. (Applause.)
For everywhere we look, there is work to be done. The state of our economy calls for action, bold and swift. And we will act, not only to create new jobs, but to lay a new foundation for growth. We will build the roads and bridges, the electric grids and digital lines that feed our commerce and bind us together. We'll restore science to its rightful place, and wield technology's wonders to raise health care's quality and lower its cost. We will harness the sun and the winds and the soil to fuel our cars and run our factories. And we will transform our schools and colleges and universities to meet the demands of a new age. All this we can do. All this we will do.
Now, there are some who question the scale of our ambitions, who suggest that our system cannot tolerate too many big plans. Their memories are short, for they have forgotten what this country has already done, what free men and women can achieve when imagination is joined to common purpose, and necessity to courage. What the cynics fail to understand is that the ground has shifted beneath them, that the stale political arguments that have consumed us for so long no longer apply.
The question we ask today is not whether our government is too big or too small, but whether it works -- whether it helps families find jobs at a decent wage, care they can afford, a retirement that is dignified. Where the answer is yes, we intend to move forward. Where the answer is no, programs will end. And those of us who manage the public's dollars will be held to account, to spend wisely, reform bad habits, and do our business in the light of day, because only then can we restore the vital trust between a people and their government.
Nor is the question before us whether the market is a force for good or ill. Its power to generate wealth and expand freedom is unmatched. But this crisis has reminded us that without a watchful eye, the market can spin out of control. The nation cannot prosper long when it favors only the prosperous. The success of our economy has always depended not just on the size of our gross domestic product, but on the reach of our prosperity, on the ability to extend opportunity to every willing heart -- not out of charity, but because it is the surest route to our common good. (Applause.)
As for our common defense, we reject as false the choice between our safety and our ideals. Our Founding Fathers -- (applause) -- our Founding Fathers, faced with perils that we can scarcely imagine, drafted a charter to assure the rule of law and the rights of man -- a charter expanded by the blood of generations. Those ideals still light the world, and we will not give them up for expedience sake. (Applause.)
And so, to all the other peoples and governments who are watching today, from the grandest capitals to the small village where my father was born, know that America is a friend of each nation, and every man, woman and child who seeks a future of peace and dignity. And we are ready to lead once more. (Applause.)
Recall that earlier generations faced down fascism and communism not just with missiles and tanks, but with the sturdy alliances and enduring convictions. They understood that our power alone cannot protect us, nor does it entitle us to do as we please. Instead they knew that our power grows through its prudent use; our security emanates from the justness of our cause, the force of our example, the tempering qualities of humility and restraint.
We are the keepers of this legacy. Guided by these principles once more we can meet those new threats that demand even greater effort, even greater cooperation and understanding between nations. We will begin to responsibly leave Iraq to its people and forge a hard-earned peace in Afghanistan. With old friends and former foes, we'll work tirelessly to lessen the nuclear threat, and roll back the specter of a warming planet.
We will not apologize for our way of life, nor will we waver in its defense. And for those who seek to advance their aims by inducing terror and slaughtering innocents, we say to you now that our spirit is stronger and cannot be broken -- you cannot outlast us, and we will defeat you. (Applause.)
For we know that our patchwork heritage is a strength, not a weakness. We are a nation of Christians and Muslims, Jews and Hindus, and non-believers. We are shaped by every language and culture, drawn from every end of this Earth; and because we have tasted the bitter swill of civil war and segregation, and emerged from that dark chapter stronger and more united, we cannot help but believe that the old hatreds shall someday pass; that the lines of tribe shall soon dissolve; that as the world grows smaller, our common humanity shall reveal itself; and that America must play its role in ushering in a new era of peace.
To the Muslim world, we seek a new way forward, based on mutual interest and mutual respect. To those leaders around the globe who seek to sow conflict, or blame their society's ills on the West, know that your people will judge you on what you can build, not what you destroy. (Applause.)
To those who cling to power through corruption and deceit and the silencing of dissent, know that you are on the wrong side of history, but that we will extend a hand if you are willing to unclench your fist. (Applause.)
To the people of poor nations, we pledge to work alongside you to make your farms flourish and let clean waters flow; to nourish starved bodies and feed hungry minds. And to those nations like ours that enjoy relative plenty, we say we can no longer afford indifference to the suffering outside our borders, nor can we consume the world's resources without regard to effect. For the world has changed, and we must change with it.
As we consider the role that unfolds before us, we remember with humble gratitude those brave Americans who at this very hour patrol far-off deserts and distant mountains. They have something to tell us, just as the fallen heroes who lie in Arlington whisper through the ages.
We honor them not only because they are the guardians of our liberty, but because they embody the spirit of service -- a willingness to find meaning in something greater than themselves.
And yet at this moment, a moment that will define a generation, it is precisely this spirit that must inhabit us all. For as much as government can do, and must do, it is ultimately the faith and determination of the American people upon which this nation relies. It is the kindness to take in a stranger when the levees break, the selflessness of workers who would rather cut their hours than see a friend lose their job which sees us through our darkest hours. It is the firefighter's courage to storm a stairway filled with smoke, but also a parent's willingness to nurture a child that finally decides our fate.
Our challenges may be new. The instruments with which we meet them may be new. But those values upon which our success depends -- honesty and hard work, courage and fair play, tolerance and curiosity, loyalty and patriotism -- these things are old. These things are true. They have been the quiet force of progress throughout our history.
What is demanded, then, is a return to these truths. What is required of us now is a new era of responsibility -- a recognition on the part of every American that we have duties to ourselves, our nation and the world; duties that we do not grudgingly accept, but rather seize gladly, firm in the knowledge that there is nothing so satisfying to the spirit, so defining of our character than giving our all to a difficult task.
This is the price and the promise of citizenship. This is the source of our confidence -- the knowledge that God calls on us to shape an uncertain destiny. This is the meaning of our liberty and our creed, why men and women and children of every race and every faith can join in celebration across this magnificent mall; and why a man whose father less than 60 years ago might not have been served in a local restaurant can now stand before you to take a most sacred oath. (Applause.)
So let us mark this day with remembrance of who we are and how far we have traveled. In the year of America's birth, in the coldest of months, a small band of patriots huddled by dying campfires on the shores of an icy river. The capital was abandoned. The enemy was advancing. The snow was stained with blood. At the moment when the outcome of our revolution was most in doubt, the father of our nation ordered these words to be read to the people:
"Let it be told to the future world...that in the depth of winter, when nothing but hope and virtue could survive... that the city and the country, alarmed at one common danger, came forth to meet [it]."
America: In the face of our common dangers, in this winter of our hardship, let us remember these timeless words. With hope and virtue, let us brave once more the icy currents, and endure what storms may come. Let it be said by our children's children that when we were tested we refused to let this journey end, that we did not turn back nor did we falter; and with eyes fixed on the horizon and God's grace upon us, we carried forth that great gift of freedom and delivered it safely to future generations.
Thank you. God bless you. And God bless the United States of America. (Applause.)




Diễn văn nhậm chức của ông Obama


Ông Barack Obama đã tuyên thệ nhậm chức để trở thành tổng thống thứ 44 của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Dưới đây là toàn văn bài phát biểu của ông (bản dịch của Ban Việt ngữ BBC):
Thưa quốc dân,
Tôi đứng đây ngày hôm nay, cảm thấy thật khiêm nhường trước trách nhiệm trước mắt, biết ơn về sự tin cậy của quý vị, và nhớ về những hy sinh của tổ tiên. Tôi xin cảm ơn Tổng Thống Bush về những cống hiến của Ngài cho đất nước, về sự hào phóng và tinh thần cộng tác của Ngài trong quá trình chuyển giao này.
Bốn mươi tư công dân Mỹ đã tuyên thệ nhận chức tổng thống. Những từ ngữ được vang lên trong những thời thịnh vượng và thời bình. Và những lời tuyên thệ cũng thường vang lên trong lúc dông bão. Vào những thời khắc đó, nước Mỹ đã vượt qua, không chỉ đơn giản nhờ vào kỹ năng hay tầm nhìn của những người lãnh đạo, mà bởi Chúng Ta, Nhân Dân Mỹ đã có niềm tin vào lý tưởng của cha ông, theo đúng tinh thần của các văn bản lập quốc của chúng ta.
Niềm tin đó đúng trong quá khứ. Niềm tin đó phải đồng hành với thế hệ người Mỹ hiện nay.
Các thách thức nghiêm trọng
Chúng ta hiện đang trong giữa cuộc khủng hoảng mà ai ai cũng biết. Đất nước chúng ta đang trong thời chiến, chống lại một mạng lưới bạo lực và thù hận rộng khắp. Nền kinh tế của chúng ta đang bị suy yếu nghiêm trọng, một phần là hậu quả của thái độ tham lam, vô trách nhiệm của một số người, nhưng cũng là hậu quả của việc chúng ta đã thất bại, không có những lựa chọn khó khăn, chuẩn bị sẵn sàng cho đất nước trong kỷ nguyên mới.
Nhà mất, việc không, kinh doanh đình đốn. Chi phí y tế thì quá tốn kém; chất lượng trường học khiến nhiều người thất vọng. Càng ngày càng có thêm bằng chứng cho thấy cách chúng ta sử dụng năng lượng càng khiến kẻ thù của chúng ta mạnh thêm trong lúc trái đất càng bị đe doạ thêm.
Đó là các chỉ dấu về cuộc khủng hoảng, tính theo dữ liệu và số liệu thống kê. Không đo đếm được cụ thể đến vậy, nhưng cũng không kém phần sâu sắc, đó là tâm trạng mất niềm tin trên toàn đất nước - một tâm trạng sợ hãi đeo đẳng rằng sự đi xuống của nước Mỹ là không thể tránh khỏi, và rằng thế hệ kế tiếp sẽ phải hạ bớt tầm nhìn.
Hôm nay, tôi xin nói với quý vị rằng các thách thức mà chúng ta đang đối diện là rất thật. Các thách thức đó rất nghiêm trọng và có nhiều. Các thách thức đó không thể xử lý được một cách dễ dàng hay trong một thời gian ngắn. Nhưng xin quý vị hãy biết rằng chúng sẽ được xử lý.
Ngày hôm nay, chúng ta tụ hội về đây bởi chúng ta đã lựa chọn hy vọng thay vì sợ hãi, cùng hướng tới một mục tiêu chung thay vì có xung đột và bất hòa.
Ngày hôm nay, chúng ta tới để tuyên bố chấm dứt những lời than vãn vụn vặt cùng những lời hứa hẹn dối trá, những lời tố cáo lẫn nhau cùng những lời nói giáo điều nhàm chán, những thứ đã bóp nghẹt nền chính trị của chúng ta quá nhiều.
Quốc gia dám chấp nhận rủi ro
Chúng ta vẫn là một quốc gia non trẻ, nhưng như kinh thánh nói, đã tới lúc bỏ sang một bên những điều nông nổi. Đã đến lúc tái xác nhận tinh thần kiên nhẫn của chúng ta, nhằm chọn lựa một lịch sử tốt đẹp hơn, nhằm hướng tới món quà quý giá, ý tưởng cao đẹp vốn được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác: Chúa trao cho mọi người quyền được bình đẳng, quyền được tự do, mọi người đều có quyền mưu cầu hạnh phúc.
Trong khi tái khẳng định sự vĩ đại của dân tộc chúng ta, chúng ta hiểu rằng sự vĩ đại đó không bao giờ là thứ được cho không. Chúng ta đã phải giành lấy nó. Hành trình của chúng ta đi cho tới nay chưa bao giờ là một trong những con đường đi tắt hoặc một cái gì đó dễ dàng hơn. Đó không phải là con đường cho những người nhút nhát, cho những người hay ưa thích sự nhàn tản hơn là lao động, hay cho những người chỉ tìm kiếm những thú vui của sự giàu sang và nổi tiếng. Thay vào đó, chính những người dám chấp nhận hiểm nguy, những người lao động, những người làm ra các sản vật – mà một vài trong số họ là những người nổi tiếng nhưng thông thường hơn là những người đàn ông và đàn bà vô danh trong những lao động của họ - là những người đã đưa chúng ta vượt qua con đường dài đầy khó khăn gập ghềnh và dẫn chúng ta tới sự thịnh vượng và tự do.
Vì chúng ta, họ đã phải bươn chải khắp các đại dương mà trong tay chỉ có chút ít tư trang, của cải để mưu cầu một cuộc đời mới.
Vì chúng ta, họ đã phải vất vả lao động ở những công xưởng hà khắc và phải cất công định cư ở miền Tây; đã phải chịu đựng những trận đòn roi da và cấy cầy trên nền đất cứng.
Vì chúng ta, họ đã chiến đấu và hy sinh ở những nơi như Concord và Gettysburg, Normandy và Khe Sanh.
Dấu ấn Mỹ
Hết lần này đến lần khác, những người đàn ông và đàn bà này đã tranh đấu, hy sinh và làm việc tới tận khi đôi bàn tay của họ trai sạm để chúng ta có thể có một cuộc sống tốt đẹp hơn, Họ đã nhìn thấy nước Mỹ lớn hơn tất cả những tham vọng cá nhân, lớn hơn tất cả những khác biệt về sự sinh thành, của cải và phe phái của chúng ta gộp lại.
Đây là hành trình chúng ta tiếp tục ngày hôm nay. Chúng ta vẫn là quốc gia thịnh vượng nhất, mạnh nhất trên trái đất. Các công nhân của chúng ta không hề làm việc kém hiệu quả hơn thời điểm cuộc khủng hoảng này bắt đầu. Trí óc của chúng ta không hề kém sáng tạo, hàng hoá và dịch vụ của chúng ta không hề kém cần thiết hơn tuần trước, tháng trước hay năm ngoái. Năng lực của chúng ta vẫn không hề bị sút giảm. Nhưng thời của sự bảo vệ những lợi ích hẹp hòi và lảng tránh những quyết định không mấy thú vị của chúng ta - thời đó chắc chắn đã trôi qua.
Bắt đầu ngày hôm nay, chúng ta phải tự mình đứng dậy, tự phủi bụi và bắt đầu trở lại công việc tái lập nước Mỹ. Bởi vì ở bất cứ nơi đâu chúng ta nhìn vào, chúng ta sẽ thấy có việc phải làm. Tình trạng kinh tế hiện nay đang kêu gọi chúng ta hành động, can đảm và mau lẹ, và chúng ta sẽ hành động – không chỉ để tạo ra những việc làm mới, mà còn để đặt một nền móng mới cho sự tăng trưởng. Chúng ta sẽ xây dựng cầu, đường, các lưới điện và đường dây kỹ thuật số để cung cấp cho thương mại và kết nối chúng ta lại với nhau. Chúng ta sẽ khôi phục khoa học ở vị trí đúng đắn của nó, sẽ sử dụng các điều kỳ diệu của công nghệ để nâng cao chất lượng chăm sóc y tế và hạ giá thành của nó. Chúng ta sẽ khai thác năng lượng từ mặt trời, từ gió và đất để cung cấp nhiên liệu cho xe hơi và vận hành các nhà máy của chúng ta. Và chúng ta sẽ chuyển các trường học, trường học phổ thông và đại học để đáp ứng các nhu cầu của một thời đại mới. Tất cả điều này chúng ta có thể làm. Tất cả những điều này, chúng ta sẽ làm.
Khôi phục niềm tin
Vào lúc này, đang có những người đặt ra các câu hỏi trước các tham vọng của chúng ta - những người này cho rằng hệ thống của chúng ta không thể kham nổi quá nhiều các kế hoạch. Trí nhớ của họ quá ngắn. Bởi vì họ đã quên rằng đất nước này đã làm được điều đó; điều mà những con người tự do, nam cũng như nữ, có thể đạt được khi trí tưởng tượng của mọi người được hòa trong một mục đích chung, điều cần thiết cho sự can đảm.
Điều mà những người hoài nghi không thể hiểu là mặt đất đang chuyển dịch dưới chân họ - là những luận điểm chính trị cũ kỹ vốn làm héo mòn chúng ta lâu nay, không còn có thể áp dụng được nữa. Câu hỏi chúng ta đặt ra hôm nay không phải là liệu chính phủ của chúng ta quá lớn hay quá nhỏ, nhưng mà là liệu nó có vận hành được hay không - liệu nó có thể giúp cho các gia đình tìm kiếm được việc làm với một đồng lương tử tế, một sự chăm sóc y tế mà họ có thể chi trả được hay tìm kiếm được một hưu bổng xứng đáng. Ở đâu mà câu trả lời là được, chúng ta dự kiến sẽ tiến tới. Ở đâu mà câu trả lời là không, các chương trình sẽ dừng lại.
Và ai trong số chúng ta đang quản lý những đồng đô-la công cộng sẽ phải thận trọng tính toán - để chi tiêu một cách khôn ngoan, phải thay đổi những thói quen xấu và phải làm công việc của chúng ta dưới thanh thiên bạch nhật – vì chỉ khi đó chúng ta mới có thể khôi phục được lòng tin hết sức quan trọng giữa người dân và chính phủ của họ.
Cũng không phải đó là câu hỏi đặt ra trước chúng ta rằng liệu thị trường là một lực lượng lành mạnh hay không. Sức mạnh của thị trường nhằm sản xuất ra của cải và mở rộng tự do là không gì sánh nổi, nhưng cuộc khủng hoảng này nhắc nhở chúng ta rằng nếu không có một con mắt thận trọng, thị trường có thể xoay chuyển và đi ra khỏi vòng kiểm soát - một quốc gia không thể thịnh vượng lâu dài khi nó chỉ tạo thuận lợi cho những người giàu có. Thành công của nền kinh tế của chúng ta đã luôn luôn dựa trên không chỉ quy mô của tổng sản phẩm quốc nội của chúng ta, mà còn dựa trên tầm vóc của sự thịnh vượng của chúng ta; dựa trên khả năng mở rộng cơ hội cho tất cả những người thiện ý, sẵn lòng – không xuất phát từ lòng từ thiện ban phát, mà còn bởi vì đó là con đường chắc chắn nhất đưa tới lợi ích chung của chúng ta.
Sẵn sàng dẫn dắt
Đối với công cuộc quốc phòng, chúng ta bác bỏ sự lựa chọn giữa an toàn và các lý tưởng của chúng ta. Những bậc cha ông khai quốc của chúng ta, vốn đã từng phải đương đầu với những hiểm nguy mà chúng ta hiếm khi có thể hình dung được, đã soạn thảo ra một bản hiến chương đảm bảo pháp trị và các quyền con người, một bản hiến chương đóng góp bằng máu của nhiều thế hệ. Những lý tưởng này vẫn tiếp tục thắp sáng trên thế giới, và chúng ta sẽ không từ bỏ chúng vì những điều không thích hợp.
Và do đó đối với tất cả các dân tộc và chính phủ khác đang theo dõi chúng ta hôm nay, từ các thủ đô lớn nhất tới ngôi làng nhỏ nơi cha tôi ra đời: quý vị biết rằng nước Mỹ là bạn bè với từng quốc gia, từng cá nhân dù là nam hay nữ, từng đứa trẻ, đang tìm kiếm tương lai hoà bình và phẩm giá, và chúng ta sẵn sàng để đi đầu một lần nữa.
Hãy nhớ rằng thế hệ cha anh chúng ta đã hạ gục chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản, không chỉ bằng tên lửa và xe tăng mà bằng những liên minh vững chắc và bằng niềm tin bền bỉ. Lớp cha anh hiểu rằng chỉ sức mạnh không thôi sẽ không thể bảo vệ nổi chúng ta, và nó cũng không cho phép chúng ta làm những gì mình muốn. Các thế hệ trước hiểu rằng sức mạnh của chúng ta lớn mạnh dần là nhờ chúng ta đã sử dụng nó một cách cẩn trọng. Nền an ninh của chúng ta được xây dựng từ sự chính danh, từ sự gương mẫu, từ sự khiêm nhường và sự biết kiềm chế của chúng ta.
Chúng ta là những người gìn giữ di sản này. Được dẫn dắt bởi những nguyên tắc cơ bản này, một lần nữa chúng ta sẽ đương đầu được với các đe doạ mới, là các đe doạ cần được đối phó bằng những nỗ lực to lớn hơn - thậm chí là cả sự hợp tác to lớn hơn cùng và sự thông hiểu hơn giữa các quốc gia. Chúng ta sẽ bắt đầu chuyển giao một cách có trách nhiệm đất nước Iraq cho người dân Iraq, và sẽ vượt lên giành giật hòa bình vốn khó giữ tại Afghanistan. Cùng với bạn cũ thù xưa, chúng ta sẽ làm việc không ngừng nhằm giảm bớt đe dọa hạt nhân và đảo ngược tiến trình ấm nóng toàn cầu. Chúng ta sẽ không xin lỗi vì cách sống của chúng ta và không do dự khi bảo vệ lối sống này. Đối với những kẻ muốn đạt mục tiêu bằng cách khủng bố và giết người vô tội, thì các người hãy nghe đây: tinh thần của chúng ta mạnh hơn của các người, các người không thể bẻ gãy ý chí của chúng ta, các người không thể tồn tại lâu chúng ta, và chúng ta sẽ đánh bại các người.
Kỷ nguyên hoà bình
Chúng ta biết rằng di sản của chúng ta là sức mạnh chứ không phải là sự yếu đuối. Chúng ta là một quốc gia của người Thiên Chúa Giáo và người Hồi Giáo, người Do Thái giáo và người Ấn giáo, và của cả những người không tôn giáo. Chúng ta được hình thành bởi các ngôn ngữ và văn hóa hội về từ khắp nơi trên trái đất. Từng đã trải qua vị đắng của nội chiến và tệ phân biệt màu da, từng trỗi dậy từ thời kỳ đen tối đó để trở nên mạnh mẽ hơn, đoàn kết hơn, chúng ta tin rằng rồi sẽ đến ngày nỗi thù nghịch cũng qua đi, làn phân ranh giữa các bộ tộc sẽ không còn; khi thế giới này trở nên nhỏ bé hơn, lòng nhân hậu sẽ ngự trị và Hoa Kỳ sẽ đóng vai trò mở ra một kỷ nguyên mới, hoà bình.
Đối với thế giới Hồi giáo, chúng ta tìm hướng đi tới mới, dựa trên lợi ích chung và sự tôn trọng lẫn nhau. Đối với các nhà lãnh đạo đang muốn gieo rắc xung đột hay đổ lỗi cho phương Tây gây ra những tệ nạn trong xã hội của họ - quý vị hãy hiểu rằng người dân sẽ đánh giá dựa trên những gì quý vị xây chứ không phải những gì quý vị phá. Đối với những người bám lấy quyền lực nhờ tham nhũng, dối trá và bịt miệng tiếng nói đối lập, hãy biết rằng quý vị đang đi ngược lịch sử, nhưng chúng tôi sẽ chìa tay ra nếu quý vị biết từ bỏ nắm đấm.
Đối với các quốc gia nghèo khó, chúng tôi cam kết sẽ sánh vai cùng quý vị để giúp các trang trại xanh tươi, để dòng nước sạch được tuôn trào, để nuôi dưỡng những sinh linh đói khát. Và đối với những quốc gia được hưởng sự đầy đủ như chúng ta, chúng ta nói với họ rằng chúng ta không thể tiếp tục thờ ơ với những nỗi thống khổ phía bên ngoài biên giới, cũng không thể tiếp tục sử dụng tài nguyên thế giới mà không quan tâm gì tới những ảnh hưởng kéo theo. Thế giới đã thay đổi và chúng ta phải thay đổi theo.
'Nghĩa vụ'
Khi chúng ta cân nhắc con đường phía trước, chúng ta tưởng nhớ với lòng biết ơn khiêm nhường trước những người Mỹ dũng cảm, vào chính lúc này đây, đang tuần tra các sa mạc, rặng núi xa xôi. Họ có cái để nói với chúng ta, giống như những anh hùng gục ngã tại Arlington đã thì thầm từ bao thời đại. Chúng ta vinh danh họ không chỉ vì họ là những người bảo vệ tự do của chúng ta, mà còn vì họ hiện thân cho tinh thần phục vụ; sẵn sàng tìm ý nghĩa trong những điều lớn hơn bản thân họ. Và chính trong khoảnh khắc này - một khoảnh khắc sẽ định hình cả một thế hệ, chính tinh thần này phải hiện hữu trong tất cả chúng ta.
Vì cho dù chính phủ có thể làm gì và phải làm gì, quốc gia này chung cuộc là nhờ vào niềm tin và quyết tâm của nhân dân Mỹ. Đó là sự tử tế đùm bọc người xa lạ khi những con đê bị vỡ, là sự vị tha của những công nhân thà làm bớt giờ chứ không để bạn mình mất việc, chính chúng sẽ đưa ta qua những giờ đen tối nhất. Chính là sự dũng cảm của nhân viên chữa cháy băng qua cầu thang đầy khói, chính là bậc cha mẹ sẵn lòng chăm sóc con, mà quyết định số phận của chúng ta.
Các thách thức của chúng ta có thể là mới mẻ. Các công cụ mà chúng ta dùng để đối phó có thể là mới mẻ. Nhưng các giá trị đã dẫn đến thành công của chúng ta - sự trung thực và chăm chỉ, dũng cảm và công bằng, khoan dung và tò mò, trung thành và lòng yêu nước - những điều này là cũ. Những điều này là có thật. Chúng đã là lực đẩy âm thầm cho tiến bộ xuyên suốt lịch sử của chúng ta. Điều đang đòi hỏi chúng ta là quay về với những sự thật đó.
Điều đòi hỏi chúng ta lúc này đây là một kỷ nguyên mới của trách nhiệm, một sự thừa nhận của từng người Mỹ rằng chúng ta có nghĩa vụ với chính bản thân, quốc gia, và thế giới; những nghĩa vụ mà chúng ta không phải miễn cưỡng chấp nhận mà sẵn sàng nắm lấy, với hiểu biết chắc chắn rằng không có điều gì làm tinh thần thỏa mãn, phản ảnh tư cách của chúng ta cho bằng cống hiến trọn vẹn cho một sự nghiệp khó khăn.
'Món quà của tự do'
Đây là giá và sự hứa hẹn của quyền công dân.
Đây là nguồn gốc của niềm tự tin, sự hiểu biết rằng Thượng Đế trông cậy vào chúng ta để định hình một định mệnh chưa chắc chắn.
Đây là ý nghĩa của tự do và tôn giáo của chúng ta - là vì sao mọi người, nam, nữ, trẻ em thuộc mọi chủng tộc và tín ngưỡng có thể cùng nhau chào đón tại quảng trường quốc gia vĩ đại này và vì sao một người có cha cách đây gần 60 năm có thể không được phục vụ tại một nhà hàng địa phương mà nay đứng trước mặt quý vị để đọc lời thề thiêng liêng nhất.
Vậy chúng ta hãy đánh dấu ngày này bằng cách nhớ lại chúng ta là ai và chúng ta đã đi xa thế nào.
Vào năm Hoa Kỳ ra đời, trong những tháng lạnh nhất, một nhóm nhỏ những người yêu nước chụm lại bên nhau bên cạnh đống lửa gần tàn trên bờ dòng sông băng giá. Thủ đô đã bị bỏ lại. Kẻ thù đang tiến tới. Tuyết loang lỗ vết máu. Vào thời điểm khi kết quả cuộc cách mạng rơi vào hồ nghi, vị cha già của quốc gia ra lệnh đọc cho mọi người những lời này:
“Hãy nói cho thế giới tương lai... rằng trong mùa đông giá lạnh nhất, khi chỉ còn lại hy vọng và nghị lực... thì thành phố và đất nước, lo lắng trước mối nguy hiểm chung, đã tiến lên để đối đầu.”
Nước Mỹ ơi. Giữa những nguy hiểm chung, trong mùa đông gian khó của chúng ta, hãy nhớ những lời bất tử này. Với hy vọng và nghị lực, chúng ta hãy một lần nữa can đảm vượt qua dòng nước băng giá và chịu đựng bất cứ cơn bão nào sẽ đến. Hãy để con cháu chúng ta nhắc lại rằng khi chúng ta bị thử thách, chúng ta đã chối từ không để cuộc hành trình phải ngừng lại, rằng chúng ta không quay lui hay ngập ngừng, và với con mắt chăm chú nhìn vào chân trời và với ân phước của Thượng Đế ban cho, chúng ta mang theo món quà của tự do và chuyền lại bình an cho các thế hệ sau.
Cảm ơn quý vị. Thượng đế ban phước lành cho quý vị. Và Thượng đế ban phước lành cho nước Mỹ.


Bài diễn văn nhậm chức của Tổng thống Barack Obama
Thứ Ba, 20 tháng 1 2009
Thưa quốc dân đồng bào,

Hôm nay tôi đứng đây với sự khiêm cung trước nhiệm vụ mà chúng ta phải đối phó, với lòng biết ơn về sự tin tưởng mà đồng bào đã dành cho tôi, và nghĩ đến những hy sinh mà các bậc tiền bối của chúng ta đã chịu đựng. Tôi cảm ơn tổng thống Bush về sự phục vụ của ông cho đất nước chúng ta, cũng như lòng hào hiệp và tinh thần hợp tác mà ông đã chứng tỏ trong suốt quá trình chuyển tiếp.

Cho đến nay, đã có 44 người Mỹ đọc lời tuyên thệ nhậm chức tổng thống. Những lời tuyên thệ này đã được đọc lên vào những thời kỳ đầy thịnh vượng và trong những thời hòa bình yên ổn. Tuy vậy, lời tuyên thệ này cũng vẫn thường được đọc lên trong những lúc thời gian đầy u ám và sóng gió. Vào những thời điểm như thế, nước Mỹ vẫn tiếp tục tiến bước không phải đơn giản chỉ vì tài năng và viễn kiến của những người nắm giữ các chức vụ cao, mà còn bởi vì nhân dân chúng ta tiếp tục trung thành với những lý tưởng của các bậc tiền bối, và trung thành với các văn kiện lập quốc.

Sự việc đã diễn ra như vậy. Và nó phải diễn ra như vậy với thế hệ người Mỹ hiện nay.

Sự kiện chúng ta đang lâm vào một cuộc khủng hoảng là điều ai cũng hiểu rõ. Quốc gia chúng ta đang có chiến tranh, chống lại một mạng lưới rộng lớn của bạo lực và lòng thù hận. Nền kinh tế của chúng ta bị suy yếu trầm trọng, do hậu quả của lòng tham và sự thiếu trách nhiệm của một số người, nhưng cũng vì sự thất bại chung của chúng ta phải có những lựa chọn khó khăn và chuẩn bị đất nước cho một thời đại mới. Nhà cửa đã bị mất mát; công việc bị cắt giảm; cơ sở kinh doanh bị đóng cửa. Công tác chăm sóc sức khỏe quá tốn kém; trường học chúng ta làm nhiều người thất bại; và mỗi ngày lại có thêm bằng chứng cho thấy rằng cách thức sử dụng năng lượng của chúng ta làm cho kẻ địch của chúng ta mạnh thêm và đe dọa đến hành tinh của chúng ta.

Đây là những chỉ dấu của khủng hoảng, bằng vào số liệu thống kê. Có những chỉ dấu không đo lường nhưng cũng không kém phần sâu sắc là sự hủy hoại lòng tin trên khắp đất nước. Đó là mối sợ hãi canh cánh rằng sự suy thoái của nước Mỹ là không thể tránh khỏi và rằng thế hệ kế tiếp phải hạ thấp kỳ vọng của mình.

Hôm nay, tôi xin nói với đồng bào rằng những thách thức mà chúng ta đang đối mặt là có thực. Những thách thức này rất nhiều và nghiêm trọng. Những thách thức không thể được giải quyết một cách dễ dàng và nhanh chóng. Nhưng nước Mỹ phải biết rằng chúng sẽ được giải quyết.

Ngày hôm nay, chúng ta tề tựu ở đây bởi vì chúng ta đã chọn hy vọng thay vì sợ hãi, thống nhất về mục đích thay vì sự xung đột và bất hòa.

Ngày hôm nay, chúng ta đến đây để tuyên bố sự cáo chung của những lời than phiền nhỏ nhặt và những lời hứa hão huyền, những lời trách cứ và những giáo điều đã lỗi thời, đã bóp nghẹt nền chính trị của chúng ta quá lâu.

Chúng ta vẫn là một đất nước trẻ trung nhưng như lời Thánh Kinh đã nói, đã đến lúc ta phải gạt qua một bên những điều ấu trĩ. Đã đến lúc chúng ta phải tái khẳng định tinh thần kiên trì; để chọn cho chúng ta một lịch sử tốt đẹp hơn; để tiếp tục phát huy tặng phẩm quý giá đó; tư tưởng cao cả đó, đã được truyền lại cho chúng ta từ thế hệ này sang thế hệ khác: đó là lời hứa được Thượng Đế mặc khải là mọi người đều bình đẳng, mọi người đều tự do, đều xứng đáng có cơ hội mưu cầu hạnh phúc đầy đủ.

Trong khi tái khẳng định tính chất vĩ đại của đất nước chúng ta, chúng ta hiểu rằng sự vĩ đại đó không bao giờ là một điều đương nhiên mà có được. Phải có công phu mới xây dựng được sự vĩ đại đó. Cuộc hành trình của chúng ta không hề là những lối đi tắt hay sự chấp nhận những điều bất cập. Đó không phải là một con đường cho những người thiếu can đảm, cho những người thích nhàn nhã hơn là lao động, hay những người mưu tìm sự vui thú của giầu sang và danh vọng. Thay vào đó, ấy là con đường của sự chấp nhận rủi ro, những người hành động, những người tạo ra thời thế – một số những người đó là những người nổi tiếng nhưng thường hơn đó những người, nam cũng như nữ, mà việc làm không được ai biết đến, những người đã đưa chúng ta tiến lên con đường dài, gập gềnh tiến đến phồn vinh và tự do.

Đối với chúng ta, họ là những người đã gói ghém một ít của cải trần thế của và vượt qua những đại dương để đi tìm một cuộc sống mới.

Đối với chúng ta, họ đã lao động cực nhọc trong những cơ xưởng tối tăm và chinh phục miền Tây; chịu đựng roi vọt và cầy xới đất đai khô cứng.

Đối với chúng ta, họ đã chiến đấu và hy sinh, ở những nơi như Concord và Gettysburg; ở Normandy và Khe Sanh.

Luôn luôn những người đàn ông và phụ nữ này đã không ngừng tranh đấu, hy sinh và làm việc cho tới khi đôi tay của họ rướm máu để cho chúng ta có được một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Họ đã nhận ra rằng nước Mỹ cao cả hơn con số gộp chung của những tham vọng cá nhân, cao cả hơn mọi sự khác biệt bắt nguồn từ bối cảnh gia đình, của cải hoặc phe nhóm.

Đây là hành trình mà ngày nay chúng ta tiếp tục theo đuổi. Đất nước chúng ta tiếp tục là quốc gia thịnh vượng và hùng mạnh nhất trên Trái đất. Sức sản xuất của công nhân của chúng ta không hề sút giảm so với thời kỳ trước khi vụ khủng hoảng này bắt đầu. Sự sáng tạo của trí óc của chúng ta không hề sút giảm, và hàng hóa và dịch vụ của chúng ta vẫn tiếp tục được cần tới in hệt như tuần trước, tháng trước, hoặc năm trước. Khả năng của chúng ta vẫn không hề suy giảm. Nhưng thời đại mà chúng ta đứng yên trong tự mãn, bảo vệ những quyền lợi hẹp hòi và trì hoãn việc đưa ra những quyết định khó khăn – thời đại đó quả thật đã qua rồi. Bắt đầu từ hôm nay, chúng ta phải đứng dậy chiến thắng chính chúng ta và bắt đầu làm việc lại để xây dựng lại nước Mỹ.

Bất cứ chỗ nào chúng ta nhìn tới đều có những việc cần phải làm. Tình trạng của nền kinh tế đòi hỏi chúng ta hành động, hành động một cách quả quyết và nhanh chóng, và chúng ta sẽ hành động – không những để tạo ra công ăn việc làm mới, nhưng còn để xây dựng một nền tảng mới cho sự tăng trưởng. Chúng ta sẽ xây dựng đường sá, cầu cống, mạng lưới tải điện và đường dây chuyển tải dữ liệu số để hỗ trợ cho công cuộc thương mại và nối kết chúng ta với nhau. Chúng ta sẽ khôi phục vị thế xứng đáng của khoa học, và áp dụng những điều kỳ diệu của kỹ thuật để nâng cao phẩm chất của công tác chăm sóc sức khỏe và giảm thiểu chi phí của công tác này. Chúng ta sẽ biến ánh sáng mặt trời, sức gió và đất đai thành năng lượng để chạy xe và vận hành nhà máy. Và chúng ta sẽ chuyển hóa trường học các cấp của mình để đáp ứng nhu cầu của thời đại mới. Chúng ta có thể làm được tất cả những việc này. Và những việc này là tất cả những gì mà chúng ta sẽ làm.

Giờ đây, có một số người đặt nghi vấn về tầm vóc của những tham vọng của chúng ta – những người cho rằng hệ thống của chúng ta không có khả năng để thực hiện nhiều kế hoạch to lớn như vậy. Nhưng những người đó là những người có trí nhớ không mấy tốt. Vì họ đã quên mất những gì mà đất nước này đã làm; những gì mà những người đàn ông và phụ nữ tự do có thể đạt được khi óc tưởng tượng được kết hợp với mục đích chung và nhu cầu kết hợp với lòng dũng cảm.

Những gì mà những người có thái độ hoài nghi quá độ không thể hiểu được là mặt đất dưới chân họ đã chuyển dịch – là những sự tranh cãi chính trị vô bổ đã phí phạm năng lực của chúng ta quá lâu giờ đây không còn áp dụng nữa. Câu hỏi mà chúng ta nêu lên hôm nay không phải là chính phủ của chúng ta quá lớn hay quá nhỏ, mà là chính phủ hoạt động có hiệu quả hay không – phải chăng chính phủ giúp đỡ các gia đình tìm được công ăn việc làm với mức lương khả quan, giúp họ có được sự chăm sóc sức khỏe với phí tổn phải chăng, giúp họ có được một cuộc sống về hưu tử tế. Nếu câu trả lời là ‘phải’, chúng ta nhất định sẽ xúc tiến. Nếu câu trả lời là ‘không’, chúng ta sẽ chấm dứt các chương trình đó. Và những người quản lý tiền bạc của công chúng như chúng tôi sẽ phải chịu trách nhiệm – phải chi tiêu một cách khôn ngoan, sửa đổi những thói quen xấu, và làm việc minh bạch trong ánh sáng ban ngày, bởi vì chỉ có như vậy chúng ta mới có thể khôi phục niềm tin của dân chúng đối với chính phủ.

Câu hỏi trước mắt chúng ta cũng không phải là thị trường là một sức mạnh tốt hay xấu. Sức mạnh của thị trường trong việc tạo ra của cải và nới rộng tự do là vô địch, nhưng vụ khủng hoảng này nhắc nhở chúng ta rằng nếu không có một cặp mắt chăm chú theo dõi, thị trường có thể vượt khỏi tầm kiểm soát – và đất nước không giàu mạnh trong lâu dài khi thị trường chỉ mang lại lợi ích cho những người giàu có. Sự thành công của nền kinh tế của chúng ta lúc nào cũng không thể chỉ tùy thuộc vào Tổng Sản Lượng Nội Địa, mà tùy thuộc vào sự thịnh vượng lan tỏa đến đâu; tùy thuộc vào khả năng của chúng ta trong việc nới rộng cơ hội cho những người có ý chí – không phải vì đó là một việc từ thiện, mà vì đó con đường chắc chắn nhất để đạt được mục tiêu chung.

Về vấn đề phòng vệ chung của chúng ta, chúng ta bác bỏ sự lựa chọn sai lầm là lựa chọn giữa an toàn và lý tưởng. Những người sáng lập nước Mỹ, từng đương đầu với những mối hiểm nguy mà chúng ta khó lòng tưởng tượng, đã soạn thảo một hiến chương để bảo đảm cho pháp trị và quyền của con người, một hiến chương được nới rộng bằng máu của nhiều thế hệ. Đây là những lý tưởng vẫn tiếp tục soi sáng thế giới và chúng ta sẽ không từ bỏ những lý tưởng này vì sự tiện lợi nhất thời. Và vì vậy, tôi xin nói với tất cả những dân tộc và chính phủ khác đang theo dõi buổi lễ hôm nay, từ những thủ đô to lớn cho tới ngôi làng nhỏ bé mà cha tôi đã chào đời, rằng quí vị nên biết là nước Mỹ là bạn của tất cả mọi quốc gia, mọi người đàn ông, mọi người phụ nữ, và mọi em bé – là bạn của những ai muốn mưu tìm một tương lai của hòa bình và phẩm giá, và chúng tôi sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm lãnh đạo thêm một lần nữa.

Xin quí vị nhớ rằng những thế hệ trước đây đã đương đầu với chủ nghĩa phát-xít và chủ nghĩa cộng sản không phải chỉ bằng phi đạn và xe tăng, nhưng bằng những mối quan hệ đồng minh vững chãi và những sự tin tưởng mạnh mẽ. Những thế hệ đó hiểu rằng chỉ riêng sức mạnh không thôi không đủ để bảo vệ chúng ta, và sức mạnh cũng không dành chúng ta quyền làm những gì chúng ta thích. Thay vào đó, họ biết rằng sức mạnh của chúng ta gia tăng qua việc sử dụng sức mạnh một cách thận trọng; an ninh của chúng ta phát xuất từ sự chính đáng của mục tiêu của chúng ta, từ sức mạnh của tấm gương của chúng ta, và từ những phẩm chất tốt đẹp của lòng khiêm tốn và tinh thần tự chế.

Chúng ta là những người canh giữ di sản này. Một lần nữa, với sự hướng dẫn của những nguyên tắc này, chúng ta có thể ứng phó với những mối đe dọa mới, những mối đe dọa đòi hỏi một nỗ lực lớn hơn – đòi hỏi sự hợp tác và thông cảm nhiều hơn nữa giữa các quốc gia. Chúng ta sẽ triệt thoái một cách có trách nhiệm để giao cho nhân dân Iraq đất nước của họ, và củng cố nền hòa bình phải vô cùng chật vật mới có được ở Afghanistan. Với những người bạn mới và những người từng là kẻ thù, chúng ta sẽ làm việc không ngừng nghỉ để giảm thiểu mối đe dọa của vũ khí hạt nhân, và đảo ngược xu hướng tăng nhiệt toàn cầu. Chúng ta không có gì để phải cảm thấy xấu hổ vì lối sống của mình, và chúng ta cũng nhất định bảo vệ cho lối sống này; và đối với những người muốn đạt được mục tiêu bằng cách gieo rắc khủng bố và giết hại những người vô tội, chúng tôi muốn nói ngay với quí vị rằng tinh thần của chúng tôi đã trở nên vững mạnh hơn và không thể bị khuất phục; quí vị không thể thắng được chúng tôi - chúng tôi sẽ đánh bại quí vị.

Vì chúng ta biết rằng di sản đa dạng của mình là một sức mạnh chứ không phải là một nhược điểm. Chúng ta là một quốc gia của người Cơ đốc giáo và Hồi giáo, của Do thái giáo và Ấn độ giáo và của cả những người không tin theo đạo nào. Đất nước chúng ta hình thành bởi mọi ngôn ngữ và văn hóa bắt nguồn từ khắp nơi trên trái đất; và bởi vì chúng ta đã nếm mùi cay đắng của nội chiến và chia cách chủng tộc và đã vượt qua chương sử đen tối đó và trở nên mạnh hơn và đoàn kết hơn, cho nên chúng ta tin rằng những mối thù hận lâu năm rồi sẽ có ngày phai nhạt; tin rằng những lằn ranh chủng tộc sẽ nhanh chóng bị xóa đi; tin rằng thế giới đang thu hẹp, và sự liên đới của loài người sẽ được thể hiện; và tin rằng nước Mỹ phải đóng một vai trò để xây dựng một kỷ nguyên mới của hòa bình.

Đối với các quốc gia Hồi giáo, chúng ta tìm một hướng mới phía trước, dựa trên ích lợi hỗ tương và kính trọng lẫn nhau. Đối với các lãnh đạo trên khắp quả địa cầu muốn gieo rắc tranh chấp, hoặc đổ lỗi cho những tệ nạn xã hội của họ cho phương Tây, cần biết rằng nhân dân quí vị sẽ phán xét tốt cho quí vị về những gì quí vị có thể xây dựng, chứ không vì những gì quí vị hủy hoại. Đối với những ai bám víu quyền lực bằng tham nhũng, gian lận, và bằng cách bịt miệng những người bất đồng, hãy biết rằng quí vị đang đứng ở phía trái của lịch sử; nhưng chúng tôi sẵn sàng đưa tay giúp đỡ nếu quí vị sẵn sàng thay đổi lề lối của quí vị.

Đối với các quốc gia nghèo, chúng tôi cam kết làm việc với quí vị để các đồng ruộng của quí vị đơm hoa kết trái, và để cho nước sạch được tuôn chảy đến mọi nơi; để nuôi sống những cơ thể thiếu đói và giúp phương tiện cho những người cầu tiến mơ ước được mở mang trí tuệ. Và đối với các quốc gia giống như đất nước chúng ta, được hưởng những của cải tương đối dồi dào, chúng ta nguyện rằng chúng ta không thể nào vô cảm trước những thống khổ bên ngoài biên giới của chúng ta, và chúng ta cũng không thể tiêu dùng các nguồn lực của thế giới mà không nghĩ đến hậu quả. Vì thế giới đã thay đổi, chúng ta phải thay đổi với thế giới.

Trong lúc xét đến con đướng mở ra phía trước, chúng ta tưởng nhớ với tấm lòng biết ơn sâu sắc trước những người Mỹ dũng cảm cao cả, ngay vào giờ phút này, tuần tra các sa mạc xa xôi và núi non hẻo lánh. Họ nêu lên tấm gương cho chúng ta hôm nay, cũng hệt như những anh hùng đã khuất yên nghỉ nơi nghĩa trang quốc gia Arlington để lại cho chúng ta qua nhiều thời đại...Chúng ta vinh danh họ, không phải chỉ vì họ là những người bảo vệ tự do cho chúng ta, mà còn vì họ thể hiện tinh thần phục vụ; một ý chí hướng đến một điều gì cao cả hơn chính bản thân họ. Thật vậy, trong lúc này, lúc sẽ định hình cho cả một thế hệ, quả thực tinh thần này cần phải hiện hữu trong tất cả chúng ta.

Khi nói đến chuyện chính phủ có thể làm gì và phải làm gì,thì điều tối hậu chính là niềm tin và quyết tâm của toàn dân mà quốc gia này trông cậy vào...Đó chính là lòng tử tế đưa tay đón nhận một người lạ vào trong nhà mình khi vỡ đê gây nạn lụt, nó cũng là lòng vị tha mà các công nhân sẵn sàng giảm bớt giờ để chia sẻ thiệt hại chung thay vì để cho một đồng nghiệp của mình mất việc; lòng tử tế đó soi sáng cho chúng ta mỗi khi chúng ta ở vào tình huống đen tối nhất. Lòng dũng cảm của nhân viên chữa cháy xông vào một cầu thang ngạt khói để cứu người, và cũng như ý chí của bậc cha mẹ quyết tâm chăm lo nuôi dưỡng cho con cái, mà cuối cùng số phận của chúng ta được quyết định.

Những thử thách của chúng ta có thể là mới mẻ. Các công cụ mà chúng ta dùng để đối phó với thách thức có thể là mới mẻ. Nhưng các giá trị đã dẫn đến thành công của chúng ta là những giá trị tự ngàn xưa, đó là siêng năng, cần cù trong công việc, lương thiện, can đảm, tinh thần thượng võ, khoan dung, thích tìm hiểu, học hỏi, trung thành và yêu nước. Đó là những chuyện có thật. Chúng là động lực âm thầm cho tiến bộ xuyên suốt lịch sử của nước Mỹ. Điều đang đòi hỏi chúng ta là quay về với những chân giá trị đó. Điều đòi hỏi chúng ta hiện nay là một kỷ nguyên mới của trách nhiệm ; một sự thừa nhận của mỗi người Mỹ rằng chúng ta có nghĩa vụ với chính chúng ta, quốc gia chúng ta, và cả thế giới ; những nghĩa vụ mà chúng ta vui lòng nhận lãnh, không phàn nàn với ý thức sắt đá rằng không có điều gì giúp thỏa mãn tinh thần, phản ảnh tư cách của chúng ta, cho bằng cống hiến tất cả cho một sự nghiệp khó khăn.

Đây là cái giá và sự hứa hẹn của quyền công dân.

Đây là nguồn gốc của sự tin cậy của chúng ta - sự hiểu biết rằng Thượng Đế để cho chúng ta để định hình một định mạng không chắc chắn.

Đây là ý nghĩa của tự do và tín ngưỡng của chúng ta - Tại sao mọi người, nam, nữ, trẻ em thuộc mọi chủng tộc và mọi niềm tin có thể cùng nhau vui mừng kỷ niệm tại quảng trường quốc gia vĩ đại này và tại sao một người có thân phụ cách đây gần 60 năm đến một nhà hàng ăn địa phương đã bị từ chối không được tiếp mà nay đứng trước mặt quý vị để đọc một lời tuyên thệ thiêng liêng nhất.

Do đó, chúng ta hãy đánh dấu ngày này bằng cách nhớ lại chúng ta là ai và chúng ta đã đi qua những chặng đường dài như thế nào. Vào năm khai sanh quốc gia Hoa Kỳ, trong những tháng giá lạnh nhất, một nhóm nhỏ những người ái quốc xúm lại với nhau bên cạnh đống lửa gần tàn bên bờ một dòng sông băng giá. Thủ đô đã bị bỏ lại phía sau. Kẻ thù đang tiến tới. Tuyết loang đầy máu. Vào thời điểm mà nhiều người ngờ vực nhất không biết cuộc cách mạng của chúng ta có đi đến kết quả hay không, thì vị quốc phụ của chúng ta hạ lệnh tuyên đọc những lời sau đây: “Hãy nói cho thế giới tương lai...là vào lúc mùa đông giá lạnh nhất, không có gì ngoài hy vọng và đức tính có thể sống còn...rằng thành phố này và xứ sở này, được cảnh báo trước hiểm họa chung, nhất quyết tiến tới…”

Đất nước Hoa Kỳ, đối mặt với những hiểm họa chung, trong mùa đông gian khổ này của chúng ta, chúng ta hãy nhớ lại những lời lẽ vượt thời gian đó. Với hy vọng và đức tính, chúng ta hãy một lần nữa can đảm vượt qua dòng nước băng giá và chịu đựng bất cứ cơn giông bão nào có thể thổi tới. Hãy để cho hậu thế của chúng ta nhắc lại là khi chúng ta bị thử thách, chúng ta đã không dừng bước bỏ dở cuộc hành trình, rằng chúng ta không quay lui trở lại mà chúng ta cũng chẳng hề ngập ngừng, nao núng và với tầm mắt đăm đăm đặt vào chân trời phía trước và với hồng ân của Thượng Đế ban cho chúng ta, chúng ta mang món quà tự do quý giá nhất chuyển giao lại một cách an toàn cho các thế hệ mai sau.



Diễn văn nhậm chức của các Tổng thống Mỹ: Lên "dây cót" lòng dân
9:51 AM, 16/02/2009

________________________________________




Diễn văn nhậm chức của ông chủ Nhà Trắng mới được chú mục kỹ lưỡng bởi ngoài những công thức ngoại giao truyền thống, nó còn đánh động về những việc mà Tổng thống Mỹ sẽ làm trong nhiệm kỳ bốn năm tới. Nhiều Tổng thống Mỹ trong những thời điểm khó khăn đã sử dụng các diễn văn nhậm chức để "lên dây cót" cho lòng dân.
Như tin đã đưa, ngày 21/1/2009 tại Quốc hội Mỹ, ông Barack Obama đã tuyên thệ nhậm chức Tổng thống thứ 44 trong một thời tiết lạnh giá. Trong diễn văn nhậm chức, tân Tổng thống Mỹ đã nhấn mạnh đến những thách thức to lớn đang đối mặt trước người Mỹ:
"Chúng ta đang lâm vào một cuộc khủng hoảng đã trở thành nhỡn tiền với tất cả. Đất nước đang có chiến tranh chống lại một mạng lưới rộng lớn của bạo lực và thù hận. Nền kinh tế Mỹ đang bị suy yếu trầm trọng, hệ lụy của sự tham lam và tắc trách của một số người… Nhà cửa bị mất, việc làm bị cắt giảm. Cơ sở kinh doanh bị đóng cửa. Dịch vụ chăm sóc sức khỏe quá đắt đỏ, cách thức sử dụng năng lượng của chúng ta làm cho kẻ thù thêm mạnh và đe dọa đến hành tinh của chúng ta… Bằng những số liệu thống kê và những dữ kiện không thể nào đo lường được nhưng không phải là không sâu sắc, đó là sự băng hoại lòng tin trên khắp đất nước. Sự thể canh cánh bên lòng rằng sự suy thoái của nước Mỹ là không thể nào tránh được đưa đến sự việc là thế hệ kế tiếp phải cam chịu hạ thấp những kỳ vọng của mình…".
Diễn văn nhậm chức của Tổng thống mới luôn được coi là một trong những diễn văn có tầm quan trọng bậc nhất ở Mỹ. Thoạt tiên những bài diễn văn như thế chỉ hướng tới cụ thể những người có mặt trong lễ nhậm chức của Tổng thống mới nhưng về sau, nó được tiếp nhận như một dạng tuyên ngôn chính trị của tân nguyên thủ quốc gia hướng tới tất cả các công dân Mỹ và những người dân ở các nước khác trên toàn thế giới.
Diễn văn nhậm chức của ông chủ Nhà Trắng mới được chú mục kỹ lưỡng bởi ngoài những công thức ngoại giao truyền thống, nó còn đánh động về những việc mà Tổng thống Mỹ sẽ làm trong nhiệm kỳ bốn năm tới. Nhiều Tổng thống Mỹ trong những thời điểm khó khăn đã sử dụng các diễn văn nhậm chức để "lên dây cót" cho lòng dân.
Vị Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ George Washington đã kết thúc buổi lễ nhậm chức của mình tại New York City ngày 30/4/1789 bằng một bài diễn văn đặc biệt. Cử chỉ đó về sau được trở thành truyền thống. Dần dà, những bài diễn văn nhậm chức của các Tổng thống mới được đăng lại trên báo in (từ năm 1857 có kèm theo ảnh) và từ khi xuất hiện đài phát thanh và truyền hình - được truyền thanh và truyền hình tực tiếp, thoạt tiên ở trong nội bộ nước Mỹ rồi phủ sóng cả thế giới.
Năm 1897, lần đầu tiên diễn văn nhậm chức của Tổng thống Mỹ được ghi hình. Năm 1921, lần đầu tiên diễn văn nhậm chức của Tổng thống Mỹ được phóng đại qua hệ thống micro. Buổi truyền thanh trực tiếp diễn ra vào năm 1925, buổi truyền hình trực tiếp vào năm 1949, buổi truyền hình màu trực tiếp đầu tiền vào năm 1961. Vị Tổng thống Mỹ thứ 42 Bill Clinton năm 1997 đã trở thành nguyên thủ quốc gia đầu tiên ở Mỹ ra lệnh xây dựng một trang web đặc biệt để tường thuật online trên mạng Internet buổi lễ nhậm chức lần thứ hai của ông.
Diễn văn nhậm chức lần thứ hai của Washington (đọc tại Philadelphia ngày 4/3/1793 chỉ có 135 từ tiếng Anh. Diễn văn nhậm chức dài nhất là của vị Tổng thống thứ 9 William Harrison, đọc ngày 4/3/1841. Trong diễn văn đó, ông Harrison có nhấn mạnh tới vai trò của tự do báo chí:
"Không một phương tiện thông tin đại chúng nào trong tay Tổng thống có thể được sử dụng một cách có hiệu quả hơn khi nó được báo chí công khai sử dụng… Từ những kinh nghiệm của chính mình và kinh nghiệm của các nước khác, chúng ta đều biết, một cái cùm bằng vàng, dù của ai đi nữa cũng đáng sợ như sợi xích sắt của nền chuyên chế. Báo chí được chính phủ sử dụng khi cần thiết sẽ không bao giờ bị lạm dụng để xóa bỏ tội lỗi hay che đậy tội ác. Việc kiểm tra chặt chẽ các hoạt động của chính phủ không những cần được chấp thuận, mà còn cần được khuyến khích…".
Phải mất tới 1h40’ ông Harrison mới đọc xong văn bản có tới 8.445 từ tiếng Anh này - đọc ngoài trời lộng gió, trong nhiệt độ âm, không mặc áo bành tô, không đi găng tay và không đội mũ… Kết cục là, ông Harrison đã bị cảm lạnh và qua đời một tháng sau khi nhậm chức. Một điều trùng hợp trớ trêu là cũng trong diễn văn trên, ông Harrison đã hứa là sẽ không bao giờ tham gia chạy đua vào Nhà Trắng thêm một lần nữa.
Một số tuyên bố trong các diễn văn nhậm chức, thể hiện rõ bản lĩnh và phong độ hay chiến thuật cầm quyền của một số Tổng thống Mỹ về sau được truyền tụng rộng rãi. Ngày 4/3/1861, vị Tổng thống thứ 16 Abraham Lincoln, người sau khi làm chủ Nhà Trắng được khoảng một năm rưỡi đã thủ tiêu được chế độ nô lệ ở Mỹ, đã tuyên bố trong diễn văn nhậm chức lần thứ hai: "Tôi không hề dự định trực tiếp hay gián tiếp can thiệp vào chế độ nô lệ ở những bang mà nó đang tồn tại. Tôi tin rằng tôi không có quyền hợp pháp để làm điều đó và tôi cũng không hề muốn làm điều đó…".
Năm 1933, vị Tổng thống thứ 31, vị Tổng thống đặc biệt nhất trong lịch sử Hoa Kỳ Franklin Roosevelt bước vào Nhà Trắng trong thời điểm đất nước đang bị đắm chìm trong cơn Đại suy thoái và theo cảm nhận của nhiều người, đã đánh mất khả năng vượt qua khủng hoảng.


Lễ nhậm chức tổng thống Mỹ

14/01/2009 16:03

Quang cảnh lễ tuyên thệ nhậm chức TT Mỹ - Ảnh: flickr
Vào ngày 20.1 tới đây, ông Barack Obama sẽ chính thức làm lễ nhậm chức Tổng thống Mỹ. Đây là nghi lễ rất quan trọng và được tổ chức rất quy mô. TNTS giới thiệu một số nét chính của nghi lễ mang tính truyền thống này.
Lời tuyên thệ
Theo quy định của điều 2 chương 1 Hiến pháp Mỹ, tổng thống đắc cử phải đọc lời tuyên thệ hoặc lời hứa trang trọng như sau: "Tôi trịnh trọng thề (hoặc hứa) sẽ tận tâm hoàn thành trách nhiệm Tổng thống Hiệp chủng quốc và sẽ làm hết sức mình để ủng hộ, gìn giữ và bảo vệ Hiến pháp Mỹ". Bất kỳ quan chức nào cũng có thể đưa tổng thống lên bục tuyên thệ, nhưng từ năm 1797, theo truyền thống việc này được giao cho Chánh án Tòa án tối cao.
Tổng thống Mỹ đầu tiên - George Washington, nhậm chức vào ngày 4.3.1789, nhưng đến ngày 30.4.1789 ông mới tuyên thệ tại New York. Sau khi tuyên thệ theo quy định của hiến pháp, Washington đặt tay lên cuốn Kinh thánh và nói: "Xin Chúa hãy giúp con". Từ đó đến nay, hầu như tất cả các Tổng thống Mỹ đều tuyên thệ bên Kinh thánh và kết thúc bằng lời cầu xin Chúa.
Địa điểm tổ chức


George Bush tuyên thệ trong nhiệm kỳ - Ảnh: dcpages
Lần đầu tiên lễ nhậm chức Tổng thống Mỹ được tổ chức tại thủ đô Washington là vào năm 1801, khi Tổng thống Thomas Jefferson thắng cử. Sự kiện được tổ chức tại khán đài dành cho các thượng nghị sĩ ở Điện Capitol. Đến năm 1825, lần đầu tiên Tổng thống John Quincy Adams chuyển lễ nhậm chức sang hành lang phía đông của Điện Capitol. Truyền thống này kéo dài đến năm 1981, khi Tổng thống Ronald Reagan chuyển sang hành lang phía tây để nhậm chức. Và từ đó đến nay, lễ nhậm chức của các Tổng thống Mỹ diễn ra tại đây.
Ngày tháng
Ngày tháng nhậm chức Tổng thống Mỹ cũng có thay đổi: Lúc đầu theo luật mà Thượng viện Mỹ thông qua vào ngày 13.9.1788 thì Lễ nhậm chức được tổ chức vào ngày 4.3. Đến ngày 23.1.1933 lần tu chỉnh thứ 20 Hiến pháp Mỹ quy định: "Thời hạn quyền lực của Tổng thống và phó tổng thống đương nhiệm Mỹ kết thúc vào giữa trưa ngày 20.1. Từ thời điểm này quyền lực của những người kế nhiệm bắt đầu có hiệu lực". Việc dịch chuyển ngày tháng sớm hơn nhằm rút ngắn thời gian chuyển giao giữa đương kim tổng thống và tổng thống đắc cử. Tổng thống Franklin Roosevelt là người đầu tiên nhậm chức vào ngày 20.1.1937 trong nhiệm kỳ thứ hai của mình.
Diễn văn


Bill Clinton tuyên thệ nhậm chức - Ảnh: flickr
Một nghi thức bắt buộc là tân tổng thống phải có bài diễn văn, được coi như cương lĩnh của tân chính phủ. Diễn văn đầu tiên của Washington dù đã được soạn thảo, nhưng lại không được đọc. 4 năm sau đó diễn văn lần thứ hai của ông vừa dài vừa nguội lạnh. Đến năm 1817, Tổng thống Jeyms Monroe lần đầu tiên đọc diễn văn ngoài trời. Và từ đó đến nay, nếu thời tiết thuận lợi thì các Tổng thống Mỹ đều làm như thế. Diễn văn dài nhất - 8.000 từ, thuộc về Tổng thống William Henry Harrison. Ông đọc diễn văn gần 120 phút trong thời tiết giá lạnh. Harrison đi từ Nhà Trắng đến Điện Capitol mà không đội mũ nên bị cảm lạnh và qua đời một tháng sau đó vì viêm phổi. Ông là người đầu tiên chết trên cương vị Tổng thống Mỹ.
Các Tổng thổng Mỹ ít khi tự viết diễn văn trong lễ nhậm chức. Chẳng hạn, trợ lý của Washington là Alexander Hamilton giúp ông làm điều này. Lincoln và Roosevelt là trường hợp ngoại lệ khi tự viết diễn văn. Diễn văn của họ và Kennedy sau này được coi là mẫu mực để bắt chước. Diễn văn của Lincoln được coi là hùng hồn, còn Roosevelt là người đầu tiên tạo phong cách xen những lời đùa vui vào diễn văn. Kennedy chinh phục người nghe bằng sự giàu biểu cảm trong diễn văn của mình. Dù trời lạnh âm 20 độ, nhưng ông cởi áo bành-tô để nó không làm ông vướng víu khi dùng ngôn ngữ cử chỉ. Trong lịch sử của Mỹ, chỉ có 15 vị tổng thống có cơ hội 2 lần đọc diễn văn, trong đó có "nhà hùng biện" Bill Cliton.
Xe hơi

Đại diện Ủy ban Tổ chức lễ nhậm chức tổng thống Mỹ cho biết: Vào ngày 20.1 tới, ông Barack Obama sẽ sử dụng cuốn Kinh thánh của vị Tổng thống thứ 16 - Abraham Lincoln, để tuyên thệ. Tổng thống người da màu đầu tiên của Mỹ, cũng là người đầu tiên sau Lincoln sẽ tuyên thệ bằng cuốn Kinh thánh được lưu giữ tại Thư viện Thượng viện. Barack Obama cũng ngỏ lời cám ơn Thư viện Thượng viện dành cho ông vinh dự này.

Tại lễ nhậm chức, ngoài các chính khách còn có nhiều nghệ sĩ nổi tiếng sẽ trình diễn như ca sĩ Aretha Franklin, nghệ sĩ vĩ cầm Itshak Perlman, nghệ sĩ dương cầm Gabriela Montero... Ngoài ra trong lễ diễu hành sẽ có mặt 6 nhà du hành mới từ tàu con thoi Endeavour trở về trái đất sau 16 ngày ở trong vũ trụ. Tại buổi lễ này sẽ giới thiệu chiếc xe tự hành mà các nhà du hành vũ trụ Mỹ sử dụng để chinh phục mặt trăng vào năm 2020. Bà cụ Ella Johnson ở bang Ohio là người cao tuổi nhất nước Mỹ - 105 tuổi, cũng được ông Barack Obama mời tham dự ngày hội này. Dự kiến sẽ có gần 2 triệu người sẽ tham dự lễ nhậm chức của ông Obama tại Washington. Hiện an ninh đã được thắt chặt ở mức cao nhất.

Chiếc xe mà trong đó tổng thống sắp mãn nhiệm và tổng thống đắc cử sẽ ngồi (tổng thống sắp mãn nhiệm ngồi bên phải, còn bên trái là tổng thống đắc cử) sẽ tiến đến Điện Capitol. Tại hành lang phía tây Điện Capitol có mặt các thượng nghị sĩ, hạ nghị sĩ. Chánh án Tòa án tối cao sẽ đưa tổng thống đắc cử lên đọc lời thề. Tiếp đến là phó tổng thống đắc cử. Sau đó tân tổng thống đọc diễn văn. Cuối cùng đoàn xe tổng thống sẽ đưa ông từ Điện Capitol về Nhà Trắng. Giờ đây, tân tổng thống ngồi bên phải xe, còn tổng thống mãn nhiệm ngồi bên trái.
Lễ diễu hành
Sau cùng là lễ diễu hành, mà tân tổng thống sẽ đứng tại khán đài ở Nhà Trắng để tham dự phần được coi là cuối cùng trong lễ nhậm chức này. Vào năm 1809, Tổng thống James Madison trong lễ nhậm chức lần đầu tiên tổ chức lễ diễu hành. Từ đó đến nay đây là phần nghi thức không thể thiếu trong ngày hội này. Lộ trình nhìn chung là không thay đổi: Đoàn diễu hành bắt đầu từ Điện Capitol, đi qua đại lộ Pennsylvania, vòng qua tòa nhà Bộ Tài chính và đi ngang qua Nhà Trắng. Quy mô cuộc diễu hành tùy theo từng đời tổng thống.
Vũ hội
Tân tổng thống sẽ có buổi vũ hội ăn mừng. Vũ hội đầu tiên được Washington tổ chức tại tòa nhà Hội đồng thành phố New York. Ông chỉ nhảy 2 điệu là Cotillon và Menuet và sau đó ra về. Tại Washington, vũ hội được tổ chức lần đầu tiên khi James Madison nhậm chức vào năm 1809. Những người đương thời viết rằng, khán phòng tại khách sạn Long nhỏ bé và rất nóng nực, còn dàn nhạc chơi không được tốt. Vào năm 1914, Tổng thống Thomas Wilson từ chối tổ chức vũ hội vì cho rằng nó sẽ làm mất đi tính trang trọng của lễ nhậm chức. Trong thời kỳ đại khủng hoảng những năm 1930 và Thế chiến II, vũ hội không được tổ chức do tình hình khó khăn. Đến năm 1949, Harry Truman khôi phục lại truyền thống này. Dwight Eisenhower sau đó tổ chức 2 vũ hội, còn Kennedy 5 vũ hội, Ronald Reagan - 10. Ngày 20.1.1997, Bill Clinton tổ chức 14 vũ hội cùng với vợ là bà Hillary tham dự từng vũ hội một.
Lần gần đây nhất, vào ngày 20.1.2005, Tổng thống G.Bush làm lễ nhậm chức nhiệm kỳ 2. Ông tuyên thệ bằng cuốn Kinh thánh của gia đình mình, sau đó đọc diễn văn nhấn mạnh tính cần thiết về sự tự do của đất nước cũng như của quốc tế. Có 500 ngàn người theo dõi bài phát biểu của ông. Còn lễ diễu hành có 11 ngàn người tham gia, trong đó chủ yếu là các cựu binh tham chiến tại Afghanistan và Iraq.
Ngữ Tử Yên






Người Nhật học tiếng Anh qua các bài diễn thuyết của Obama
Các bài diễn thuyết của tân Tổng thống Mỹ Barack Obama đang được bán rất chạy ở Nhật Bản bởi chúng được xem là công cụ đắc lực nhằm trợ giúp việc học tiếng Anh.


Những cuốn sách có in hình tân Tổng thống Mỹ Barack Obama được bày bán tại cửa hàng sách ở Nhật Bản
Một cuốn sách bằng tiếng Anh có tựa đề “Các bài diễn thuyết của Barack Obama” đã bán được hơn 400.000 cuốn chỉ trong 2 tháng. Đây là kỷ lục tại một đất nước mặt trời mọc nơi chỉ có vài cuốn tiểu thuyết bán được trên 1 triệu bản mỗi năm.
Người Nhật rất hăng hái học tiếng Anh và nhiều hiệu sách đã dành riêng một khu vực để bày bán hàng chục các tạp chí bằng tiếng Anh, nhiều trong số này có in ảnh nhà lãnh đạo mới của nước Mỹ - Barack Obama.
Ông Yuzo Yamamoto, đại diện của nhà xuất bản Asahi, nơi chịu trách nhiệm xuất bản cuốn sách tập hợp các bài diễn thuyết của ông Obama, nói: "Các bài diễn thuyết của tổng thống và các ứng viên tổng thống là những công cụ tuyệt vời để hỗ trợ việc học nghe, vì nội dung rõ ràng và từ thường dễ nghe".
“Các bài phát biểu của Obama cũng vậy. Các bài diễn thuyết của ông rất cảm động và ông cũng sử dụng những từ như “vâng, chúng ta có thể”, “thay đổi” “hi vọng” mà người Nhật dễ dàng học thuộc lòng.
Tuy nhiên, ông Yamamoto cho hay, các bài diễn thuyết của cựu Tổng thống George W. Bush và cựu ứng viên tổng thống đảng Dân chủ John Kerry cách đây 4 năm lại không được được yêu thích như vậy. Các bài phát biểu của các chính trị gia Nhật Bản cũng thế.
“Tại Nhật Bản, chúng ta không có chính trị gia nào có ảnh hưởng mạnh mẽ như vậy. Đó là lý do chúng ta phải tìm một tổng thống nước ngoài, người mà chúng ta gửi gắm những niềm hi vọng”.
Cuốn sách dài 95 trang tập hợp các bài phát biểu bằng tiếng Anh của ông Obama từ đại hội toàn quốc của đảng Dân chủ năm 2004 và trong các cuộc bầu cử sơ bộ mà ông đã đánh bại đối thủ Hillary Clinton. Kèm theo đó là bản dịch ra tiếng Nhật Bản.
Cuốn sách của ông Obama - được bán với giá 1.050 yen (12USD), kèm theo đó là một đĩa CD các bài diễn thuyết - đã đứng đầu danh sách những cuốn sách bán chạy nhất trên trang web Amazon của Nhật Bản có địa chỉ tại www.amazon.co.jp.

“Các độc giả đã gửi thư phản hồi nói rằng khi họ nghe các bài phát biểu, họ rất cảm động và thậm chí còn rơi nước mắt mặc dù họ không hiểu hết những gì ông Obama nói”.
Ông Yamamoto cho biết thêm, các nghị sĩ của đảng Dân chủ đối lập ở Nhật Bản cũng đã mua một cuốn sách để nghiên cứu các bài diễn văn của Tổng thống thứ 44 của nước Mỹ.
Sau lễ nhậm chức của ông Obama hôm qua, nhà xuất bản Asahi đã lên kế hoạch sẽ cho ra mắt một cuốn sách tiếp theo bao bồm bài diễn văn nhậm chức của ông, cũng như bài diễn văn nhậm chức của Tổng thống John F. Kennedy năm 1961 và bài diễn văn của Abraham Lincoln tại công viên quốc gia ở thành phố Gettysburg, bang Pennsilvania năm 1863.

No comments:

Post a Comment