Saturday, January 29, 2011

Cái đồng hồ của Lincoln

Cái đồng hồ của Lincoln và quan tài Trịnh công sơn
Đinh Từ Thức Chia sẻ - ShareThis ♦ 1 bình luận ♦ 14.04.2009
Từ đầu tháng Tư, bài viết của Trịnh Cung (TC) về “tham vọng chính trị” của Trịnh Công Sơn (TCS), cùng hàng loạt bài phản bác đã gây sôi nổi dư luận, cả trong và ngoài nước.
Dư luận ngoài nước, có kẻ bênh người chê TC, và đa số được trình bầy một cách ôn hòa. Đó là điều đáng mừng. Dư luận trong nước, không đăng bài TC, nhưng hầu hết đều đánh TC không nương tay. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên, vì đó là đường lối thông tin một chiều do Đảng chỉ huy.
Theo tác giả TC, vốn là bạn thân của TCS trong nhiều năm, mục đích bài viết là cung cấp trọn vẹn sự thật về cuộc đời của nhạc sĩ họ Trịnh. Nhưng lại có những phản bác cho rằng nhiều điều họa sĩ họ Trịnh nêu ra không phải là sự thật.
Việc tìm sự thật giữa họa sĩ và nhạc sĩ họ Trịnh khiến người viết liên tưởng tới câu truyện chung quanh cái đồng hồ của Tổng Thống Lincoln. Câu truyện khởi đầu từ gần 150 năm trước, năm 1861, và mới kết thúc vào tháng rồi, ngày 10 tháng 3, 2009. Đầu đuôi như sau:


(Smithsonian Institution/AP)

Thập niên 70 thế kỷ trước, Luật sư Douglas Stiles tại bang Illinois lần đầu tiên được nghe kể câu chuyện về người ông 5 đời là Jonathan Dillon, vốn là một di dân từ Ái Nhĩ Lan (Ireland) làm nghề sửa đồng hồ, đã khắc một “thông điệp bí mật” bên trong cái đồng hồ của Tổng Thống Abraham Lincoln, vào thời bùng nổ cuộc nội chiến Nam Bắc, tháng 4 năm 1861. Năm ngoái, một người họ hàng bên Ái Nhĩ Lan lại viết thư cho ông Stiles, nói rằng gia đình mới tìm được một lá thư của ông Dillon viết về chuyện thông điệp khắc trong đồng hồ. Thế là ông bắt đầu tìm kiếm trên internet.
Kết quả cho biết: Ngoài những lời truyền tụng trong dòng họ, sự kiện rõ rệt hơn cả, là 103 năm trước, tháng 4 năm 1906, tờ The New York Times đã đăng bài báo cho biết, theo lời kể của ông Jonathan Dillon, lúc đó đã 84 tuổi, thì ông từng làm việc cho công ty M.W. Galt & Company, có cửa tiệm tại Pennsylvania Avenue ở Washington, D.C. Theo lời kể, vào năm 1861, khi ông đang làm việc, thì ông chủ Galt hớt hải chạy lên lầu cho biết: “Chiến tranh đã khởi sự; phát súng đầu tiên đã nổ.”
Ông Dillon kể tiếp: “Vào lúc ấy, tôi có trong tay cái đồng hồ của Abraham Lincoln đang sửa.” Và để đánh dấu biến cố trọng đại này, ông Dillon đã khắc tên của chính mình trên ổ máy trong chiếc đồng hồ quả quýt bằng vàng của ông Lincoln, cùng với “thông điệp” nguyên văn:
The first gun is fired. Slavery is dead. Thank God we have a President who at least will try. (Tạm dịch: “Súng đã nổ. Nạn nô lệ đã cáo chung. Cám ơn Chúa chúng ta có một Tổng Thống ít nhất sẽ cố gắng.”)
Ông Dillon còn nói rằng về sau ông được biết đó là cái đồng hồ đầu tiên của Tổng Thống Lincoln, và rằng ông (Dillon) là người duy nhất trong tiệm có cảm tình với phía Liên Bang (Union). Sau khi khắc chữ, đồng hồ được đóng lại, gửi trả Bạch ốc. Tổng Thống Lincoln bị ám sát năm 1865, ông Dillon qua đời năm 1907.
Cái đồng hồ của Lincoln mà ông Dillon đã đề cập trên tờ New York Times năm 1906, nửa thế kỷ sau được một người cháu 4 đời của ông Lincoln viết di chúc để lại cho Viện Bảo tàng Quốc gia về Lịch sử Hoa Kỳ (National Museum of American History) vào năm 1958.
Luật sư Stiles đã tiếp cận Ban Giám đốc Viện Bảo tàng. Ở đây cho biết cái đồng hồ thỉnh thoảng được trưng bầy cho công chúng coi, phần lớn giữ trong kho vì chỉ là một di vật nhỏ, và không ai được biết hay từng nghe đồn về chuyện có thông điệp bí mật khắc trong đó. Ông Giám đốc Brent Glass đồng ý cho mời một chuyên viên đồng hồ là ông George Thomas ở Maryland tới mở đồng hồ, để tìm hiểu sự thật. Lúc đầu, người ta định mở trong vòng kín đáo, nhưng vì đây là chuyện liên hệ tới lịch sử, nên đã quyết định cho mở công khai.
Ngày 10 tháng 3, 2009, khoảng 40 người gồm giới truyền thông và quan chức viện bảo tàng, quy tụ trong một phòng họp để theo dõi việc truy tìm sự thật. Sau một chút khó khăn ban đầu mở cái đồng hồ cũ trên 150 năm, mọi người nín thở vào giờ phút ông Thomas vừa mở mặt sau đồng hồ, vừa nói: “Giờ lịch sử đã điểm. Có hay không có ghi khắc?”
Rồi ông loan báo: “Có những chữ khắc!”
Mọi người thở phào. Nhưng thông điệp bí mật không hoàn toàn giống với lời kể của ông Dillon hơn trăm năm trước. Khắp trên mặt sau ổ máy mỏng dính là những chữ khắc nhỏ li ti:
Jonathan Dillon April 13-1861. Fort Sumpter was attacked by the rebels on the above date. J Dillon. (Jonathan Dillon 13 tháng Tư 1861. Đồn Sumpter đã bị loạn quân tấn công vào ngày trên. J Dillon.)
Phía dưới bên trái nằm thẳng góc với những chữ này lại có khắc thêm:
April 13- 1861 Washington thank God we have a government John Dillon. (13 tháng Tư 1861 Washington cảm tạ Chúa chúng ta có một chính quyền John Dillon.)
Nằm ở góc giữa hai hàng chữ trên, có khắc mấy chữ: “LE Grofs Sept 1864 Wash DC,” và dưới cùng, trên cái đai vắt qua một bánh xe răng cưa, là hai chữ “Jeff Davis.” Người ta đoán, có thể đây là chữ do một thợ sửa đồng hồ khác khắc thêm sau này, và là người ủng hộ miền Nam, nên khắc tên của Tổng thống phe ly khai là Jeff Davis.
Ngoài tên họ của mình, ông Dillon chỉ khắc có 24 chữ, nhưng đã có nhiều chỗ sai. Bên cạnh sai sót về đánh vần (Sumpter thừa chữ p), còn sai về ngày. Nội chiến bùng nổ ngày 12 tháng 4 khi quân ly khai tấn công đồn Sumter tại South Carolina, nhưng ông Dillon khắc là 13 tháng Tư. Sai lầm đáng chú ý hơn cả là chữ khắc trên đồng hồ đã khác với lời kể của chính ông.
Người viết không trực tiếp quan sát vụ mở đồng hồ, mà đọc trên báo. Muốn chắc ăn, đã so sánh bài tường thuật trên hai nhật báo uy tín nhất nước Mỹ là New York Times với Washington Post. Về thứ tự các chữ khắc trên đồng hồ, hai báo tường thuật khác nhau. So sánh với hình chụp, New York Times mô tả gần với thực tế hơn (như đã trình bầy), trong khi theo Washington Post thì những chữ khắc của ông Dillon được xếp đặt như sau:
Jonathan Dillon April 13-1861. Fort Sumpter [sic] was attacked by the rebels on the above date thank God we have a government. [He added “Washington” and his name again.] (Jonathan Dillon 13 tháng Tư 1861. Đồn Sumpter đã bị loạn quân tấn công vào ngày trên cảm tạ Chúa chúng ta có một chính quyền.’ [Ông ấy ghi xuống chữ “Washington” và tên ông ấy một lần nữa.])

No comments:

Post a Comment