Saturday, January 29, 2011

Nhà nhiếp ảnh lão thành Võ An Ninh

Ngày 4 tháng 6, 2009, nhà nhiếp ảnh lão thành Võ An Ninh từ giã cõi đời, thọ 103 tuổi. Mắc dầu trong các năm gần đây, được biết sức khõe cụ đã yếu, trí nhớ cũng đã kém và ít khi tiếp bạn bè, nhưng ở xa khi nghe tin cụ mất, tôi cũng mất vài phút lặng đi và nghĩ nhiều đến một người nghệ sĩ không những tận tâm với nghệ thuật mà còn với đời, với xã hội chung quanh. Những ai đã tiếp xúc với cụ đều thấy ở cụ một con người rất dễ dãi vui tính với mọi người không phân biệt tuổi tác, giai cấp, giới tính. So với cụ, tôi thuộc hàng con cháu, sinh sau cụ đúng một nửa thế kỷ, nhưng cũng không vì thế mà không có dịp được trao đổi ý kiến, làm bạn đồng hành với cụ trong nhiều chuyến đi “điền dã” khắp Saigon chụp ảnh, thăm bạn bè, người quen của cụ.
Nhà nhiếp ảnh Võ An Ninh, tên thật là Vũ An Tuyết, sinh ngày 16 tháng 6 năm 1907 tại phố Hàng Gai, Hà Nội. Ngay từ hồi còn trẻ chưa đến tuổi đôi mươi, Võ An Ninh đã mê chụp ảnh. Đạp xe đạp khắp Hà Nội chụp ảnh. Dưới thời Pháp thuộc, Võ An Ninh làm phóng viên nhiếp ảnh của Sở Kiểm Lâm. Năm 1935, bức ảnh “Buổi sáng trên đê sông Hồng” đoạt Giải ngoại hạng trong cuộc thi do Hội khuyến khích Mỹ thuật và Kỹ nghệ Việt Nam SADAEI (Société Annamite d’encouregement à l’Art et l‘Industrie) tổ chức.
Võ An Ninh đi khắp mọi miền đất nước Bắc-Trung-Nam để chụp ảnh. Năm 1938, ảnh “Đẩy thuyền ra khơi” được giải thưởng ngoại hạng triển lãm ảnh Paris, Pháp. Và tại Huế, Võ An Ninh được tặng Huy chương vàng cho cuộc triển lãm ảnh cá nhân đầu tiên của ông. Cuối năm 1938, ông được Bằng khen của triển lãm ảnh nghệ thuật quốc tế Bồ Đào Nha cho tác phẩm “Chợ bán nồi đất.” Đây cũng là giai đoạn tuổi trẻ sung sức nhất của Võ An Ninh, lúc này ông sắm xe gắn máy phân khối cao (150cc) chạy khắp Hà Nội và vùng phụ cận chụp ảnh. Bấy giờ chỉ có vài chiếc xe loại này ở Việt Nam mà thôi.


Ông đồ viết câu đối Tết (Hà Nội, 1940)
Ở Hà Nội, ông có nhiều ảnh nổi tiếng về Hồ Gươm như Hồ Gươm buổi sương mai (1935), Hồ Gươm trong bốn ảnh “Hà Nội bốn mùa.” Để có những bức này, ông phải mất nhiều công phu và thời gian để “đạt” bức ảnh ưng ý. Ngoài ra ông có những bức ảnh gợi nhớ về Hà Nội của những ngày thanh lịch xa xưa: Trong vườn si đền Voi Phục (1942), Gió nồm (Đê sông Hồng, 1948), Nhớ xưa (1944), Thu về (1960), Cúc Nghi Tàm (1956), Thiếu nữ Hà Nội (1960), Bậc đá đền Voi Phục (1956), Chùa Láng (1941), Cụ đồ viết câu đối Tết (1940), Tranh Tết làng Hồ (1941), Phố Hàng Buồm (1940), Mái nhà cổ phố Hàng bạc (1956), Cửa Ô Quang Chưởng (1940), Gò Đống Đa (1942), Lầu Khuê Văn và bia Tiến sĩ ở Văn Miếu (1945), Bình Minh trên bãi Phúc Xá (1944), Xe tay ngoại thành (1935), Thu hoạch vụ chiêm (1935), Đông về (Từ Liêm, 1935), Bến thuyền cầu đất (1935), Chợ bán nồi đất (Bưởi, 1935), Chợ Đồng Xuân (1956), Sen Tây Hồ (1941)…



Thiếu Nữ Hà Nội (1960)


Hồ Gươm buổi sương mai (1935)
Trong cuộc đời nhiếp ảnh của mình, Võ An Ninh đi khắp mọi nơi trên đất nước ghi lại những khoảnh khắc nghệ thuật vô giá. Một số các tác phẩm để lại: Lăng Hùng Vương (Phú Thọ, 1940), Đỉnh Phăn Xi Păng (Sapa), Buổi sáng ra ruộng muối (Hải Hậu, Nam Định 1945), Bến xưa (Lai Châu, 1952), Núi Tản, Sông Đà (Sơn Tây, 1940), Hương lúa (Hà Đông, 1950), Sông Bạch Đằng (Quảng Yên, 1956), Sảy lúa (Phú Thọ, 1965), Vết tích thành nhà Mạc (Lạng Sơn, 1968), Thác Bản Giốc (Cao Bằng, 1960), Nước ròng bãi Trà Cổ (Móng Cái, 1955), Hồ Ba Bể (Bắc Cạn, 1956), Đi chợ về (Hà Đông, 1953), Điếm canh đầu làng (Nam Định, 1958), Thợ săn Êđê (Buôn Ma Thuột, 1943), Voi Tây Nguyên (1943), Thiếu nữ Êđê (1943), Suối nắng rừng thông (Đà Lạt, 1951), Cồn cát mủi Né (Phan Thiết, 1945), Nước mắm Phan Thiết (1945), Thiếu nữ Huế (1930), Biển Bạc (Đà Nẵng, 1948), Núi Bà Đen (Tây Ninh, 1952), Bãi thuyền (Vũng Tàu, 1950), Khu phố Ninh Kiều (Cần Thơ, 1948), Ông già Nam bộ (1950), Thốt nốt Hà Tiên (1950), Rừng tràm Long An (1990), Sông Tiền (Mỹ Tho, 1975), Rạch Gầm (Tiền Giang, 1985), Dân chài Xóm Mũi (1976), Rừng đước Cà Mau (1976).


Điếm canh đầu làng (Nam Định, 1958)
Trong thời kỳ chiến tranh, năm 1972 khi pháo đài bay B-52 đánh phá Hà Nội ác liệt nhất vào những ngày gọi là những “đêm không ngũ,” Võ An Ninh cũng như nhiều nhà nhiếp ảnh khác không sợ hiểm nguy để ghi ảnh. Với cụ Võ thì lại rất bình tĩnh với chiếc xe đạp, chiếc nón cối và máy ảnh trung thành của mình đi như đi dạo thong dong khắp Hà Nội tìm khoảnh khắc cơ hội của người nghệ sĩ cũng như những ngày bình thường khác mà thôi trong cuộc đời nhiếp ảnh của cụ.
Năm 1987 tôi gặp và hân hạnh biết cụ và một số các nhà nhiếp ảnh ở Hội Nhiếp ảnh Tp Hồ Chí Minh, cơ sở ở 122 đường Sương Nguyệt Ánh mà lúc đó do anh Lâm Tấn Tài còn quản nhiệm. Thời ấy cụ đã hơn 80, tóc và râu dài trắng bạc trông giống như một ông tiên, gây rất nhiều ấn tượng với tôi. Tôi thích nhất là bức ảnh cụ ngồi với một bình rượu và đang chăm chú đánh cờ trên núi mà cụ có nhã ý tặng. Đúng thật là một ông tiên xuất thế.
Cụ ngần ấy tuổi nhưng ngày nào cụ cũng đạp xe đạp đi khắp nơi, rất khỏe và kiện tráng. Đó là chưa kể một bàn chân của cụ đã bị cưa mất sau một tai nạn vào năm 1939 khi cụ cỡi xe gắn máy ở Hà Nội bị một xe tải của một hãng Tây đụng. Cụ được chở vào nhà thương nhưng bàn chân bị cán nát nên phải cưa đi. Sau đó cụ kiện hãng Tây, không nghĩ là sẽ có kết quả gì khi đất nước vẫn còn thuộc Pháp cũng như đi kiện củ khoa, thế mà lại thắng kiện và được đền 3000 đồng Đông Dương, thời đó rất cao. Nhờ đó cụ mua được một mảnh đất và xây một căn nhà 2 tầng ở số 36 phố Tuệ Tĩnh. Sau này lúc vào Saigon, con cháu cụ bán đi và hiện nay là một nhà hàng.
Trong những chuyến đi với cụ Võ An Ninh, cụ lúc nào cũng mang theo một máy chụp ảnh xưa cũ từ những năm 1930. Từ chiếc máy bạn đường suốt đời này mà nhiều bức ảnh đã trở thành nổi tiếng. Trong nhà ở Saigon, trên căn phòng của cụ ở lầu một (tầng trệt là cửa hàng bán bàn ghế, giường tủ của các con cháu), cụ có treo một bức ảnh tâm đắc và nổi tiếng “Đôi nét thủy mặc Sapa”: cảnh núi buổi sáng sớm hơi sương, đầy mây ở Sapa. Trong những dịp về Saigon, tôi đều đến thăm cụ, ngồi trong phòng nhìn ra từ ban công hàng cây dọc đường Ngô Gia Tự, thật ấm cúng và cảm thấy như đây là nhà của lòng mình vậy.
Một trong những kỷ niệm mà tôi nhớ đến nhiều là chuyến đi xe đạp đến khu Bà Quẹo gần phi trường thăm nhà thơ Chế Lan Viên. Trước đây trong các anh em văn nghệ sĩ cùng thời và trước kia là bạn với Chế Lan Viên, có nhiều người (nhất là các văn nghệ sĩ trong Nhân Văn Giai Phẩm) không thích ông nữa vì họ thấy rằng ông không còn đến thăm các bạn nữa và đã bỏ rơi các anh em lúc đó đang bị phê bình và cô lập. Vào thời điểm này Chế Lan Viên đã thay đổi và có lẽ đã hối hận với cách cư xử của mình với các anh em bạn bè văn nghệ sĩ xưa của mình. Tôi nhớ có đọc bài của ông trên báo trong dịp sau khi coi xong cuốn phim “Sám hối” của Cộng Hoà Armenia (thuộc Liên Xô cũ) về xã hội Stalin, Brezhnev, ông đã nói lên cảm nghĩ của mình rất thật, tự cho mình cũng phải “ăn cá” để sám hối. Ông cũng đã chỉ trích nhẹ nhàng Tố Hữu và lần đầu tiên bênh vực các anh em bạn bè cũ trong nhóm Nhân Văn bị hoạn nạn trong một bài giới thiệu cho một cuốn sách thơ về Huế.
Cụ Võ An Ninh đạp xe đạp rành rõi đi vào nhiều đường, ngõ hẻm mà thú thật lúc đó mặc dầu tôi cũng khá quen khu vực mà phải đuổi theo cực nhọc một ông già tóc trắng bạc phơ không lộ ra vẻ mệt mỏi gì. Trong sân vườn nhiều cây trái, ngồi uống trà cùng với cụ Võ An Ninh và Chế Lan Viên, tôi để ý Chế Lan Viên rất hào hứng có vẻ như trở lại phong cách xưa của một thi sĩ. Một trong những điều ông muốn làm lúc ấy là lập một nhà bảo tàng hay nhà lưu niệm cho thi sĩ Hàn Mặc Tử ở Quy Nhơn. Ngược lại, cụ Võ An Ninh, trầm ngâm với tách trà sau đó đi dạo quanh vườn, ngắm nghía đủ góc cạnh với cái camera của Đức hiệu Zeiss Ikon rất cũ kỷ (1928) trong tay với cuộn phim đen trắng (cụ không dùng phim màu). Cụ hầu như không còn để ý đến những người đang nói chuyện nữa. và tâm trí của cụ, của một nhà nhiếp ảnh đang tìm cơ hội của một giây phút nào đó. Hôm đó cụ chụp vài tấm ở vườn và trước khi ra về có chụp cho chúng tôi một bức ảnh kỷ niệm. Bức ảnh đen trắng này tôi vẫn quý giữ như báu vật từ nhà nhiếp ảnh Võ An Ninh đầy phong cách.


Võ An Ninh, Mộc Châu (1986)
Phải nói là trong bộ sưu tập hình ảnh đồ sộ đến hơn 10000 ảnh của nhà nhiếp ảnh Võ An Ninh, ngoài giá trị nghệ thuật, còn có rất nhiều ảnh có giá trị lịch sử. Ở thành phố Saigon trong giai đoạn 1946-1950, cụ có mặt và ghi lại nhiều hành ảnh như các cuộc biểu tình chống Pháp, chống chuyến viếng thăm đầu tiên cảng Saigon của chiến hạm Mỹ Anderson và Sticken. Dưới mắt nhân bản của nhà nghệ sĩ, cụ chụp các ảnh của nhiều người kể cả các thủy thủ non trẻ Mỹ đi trên phố Saigon. Một trong số những bức ảnh chụp ở Saigon có giá trị về nghệ thuật và tư liệu xã hội như "Chợ Bến Thành và bến xe thổ mộ" (1949), “Cụ đồ viết câu đối Tết” (Saigon, 1950), "Lăng Ông ngày tết" (1952), "Nhà thờ Hồi giáo" (1950), "Khói hương Chùa Bà, Chợ Lớn" (1953), “Thiếu nữ Saigon” (1951), “Qua cầu” (Thủ Đức, 1953), "Lẻ loi" (1941), "Sóng đôi" (1942), "Vườn Tầm Vông ngoại thành" (1950), "Ngày xá lợi" (1951), "Đêm phục sinh" (1950), "Bình minh trên sông" (1952).
Sau ngày giải phóng không lâu, cụ vào Saigon ở hẳn, tiếp tục sự nghiệp nhiếp ảnh và gắn bó với thành phố cho đến khi cụ mất. Năm 1981, Võ An Ninh có triển lãm các tác phẩm nhiếp ảnh rất thành công và không lâu sau đó ở Hà Nội năm 1983. Năm 1991, một số các ảnh trong bộ sưu tập của cụ được Thông Tấn Xã Việt Nam xuất bản(*). Cuốn sách in đen trắng trong đó có nhiều bức ảnh bất hủ trong làng nhiếp ảnh Việt Nam. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hỗ Chí Minh đã tặng cụ là công dân danh dự của thành phố.
Một bộ tư liệu quý giá khác trong bộ sưu tập ảnh của cụ là những cảnh trong nạn đói năm Ất Dậu 1945 mà cụ ghi lại như một chứng nhân những gì mà thực dân Nhật-Pháp đã gây nên ở miền bắc nước ta. Cảnh người chết đói ở đường phố Hà Nội, trên đường từ các tỉnh (mà nặng nhất là Thái Bình) vào thủ đô, xác người được hốt đầy trên xe… Xem những hình ảnh này tôi không khỏi xúc động và kinh tởm tội ác của phát xít Nhật và thực dân Pháp. Đây là bộ sưu tập duy nhất và đầy đủ ở Việt Nam về nạn đói 1945. Năm 1994, đài truyền hình Nhật NHK khi làm tư liệu về người Nhật ở Đông Dương trong Thế Chiến Thứ 2 đã đến gặp cụ Võ An Ninh và xin được dùng các ảnh này cho chương trình của họ. Về sau này, có một số người Nhật đến thăm hay làm việc ở Việt Nam có đến nhà cụ để xem bộ sưu tập Võ An Ninh. Họ đều xúc động và xin lỗi về những hành động của quân đội Nhật trước đây.
Trong những năm gần đây đầu thế kỷ 21, cụ yếu nhiều, đi đứng khó khăn nhưng cụ rất thích bè bạn đến thăm và đi ra ngoài. Vì thế nhiều lúc các con cháu cụ (có người từ Pháp về) đều phải dẫn cụ đi ra ngoài thăm thú và hòa nhập với xã hội. Ngay công viên trước nhà hát lớn thành phố, có những lúc người dân Saigon nếu để ý sẽ thấy một cụ già tóc, râu bạc dài thanh thản ngắm nhìn cảnh vật và sinh hoạt sinh động chung quanh trong lúc ngồi xe lăn do một người nhà đẩy. Rất ít người biết đấy là nhà nhiếp ảnh lão thành Võ An Ninh, một người mặc dầu ở tuổi sắp xa trời xa đất nhưng cũng muốn hòa nhịp với xã hội. Và theo tôi là cụ nhìn để đón bắt một phút nào đó một thần hồn của đời sống chung quanh dưới con mắt của một người nghệ sĩ.
Nhà nhiếp ảnh Võ An Ninh mất đi để lại nhiều nối tiếc của bao người trong và ngoài nước.

(*) Ảnh Võ An Ninh, Nhà in Thông Tấn Xã Việt Nam, 1991.

No comments:

Post a Comment