Sunday, November 28, 2010

Tại Sao Có Ngày Quốc Hận 30/04 ?

Tại Sao Có Ngày Quốc Hận 30/04 ?


Sau 35 năm Quốc Hận, lý do tại sao Miền Nam bị mất vào tay của CS Bắc Việt càng rõ nét hơn

Trong một chuyến đến San Jose vào thập niên 1980, cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu khi trả lời câu hỏi của nhà báo Nguyễn Vạn Bình là tại sao Miền Nam Việt Nam mất vào tay của Cộng Sản Bắc Việt? Ông Thiệu đã trả lời : Với cương vị là tổng thống, lãnh đạo Miền Nam VN, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc nầy. Thật ra, câu trả lời của tổng thống Thiệu chỉ để nói lên tinh thần trách nhiệm và sự liêm sĩ phải có của một vị lãnh đạo quốc gia.

Cũng có người đã đổ lổi cho đại tướng Dương Văn Minh, vị tổng thống cuối cùng của Miền Nam, chỉ vì sự ngây thơ chính trị của ông mà đã mắc mưu gian trá “hòa giải dân tộc” của Cộng Sản Bắc Việt, khi ông đã ra lệnh cho tât cả quân nhân QLVNCH đầu hàng, tạo dịp tốt cho bộ đội Bắc Viêt cưỡng chiếm được Miền Nam vào ngày 30-4-1975.

Thật ra, sau 35 năm Quốc Hận, lý do tại sao Miền Nam bị mất vào tay của CS Bắc Việt càng rõ nét hơn.

Bởi vì thực chất của cuộc chiến xâm lăng Miền Nam VN do Hồ Chí Minh phát động là một cuộc chiến tranh Quốc-Cộng có các thế lực quốc tế nhúng vào.

Sau khi cướp được chính quyền vào ngày 19-8-1945 tại Bắc Việt, Hồ Chí Minh đã tiếp tục sứ mạng tay sai của Cộng Sản quốc tế do Liên Xô và Trung Cộng lãnh đạo tìm cách bành trướng chủ nghĩa cộng sản xuống Miền Nam Việt Nam .

Hiệp định Génève 20-7-1954, Việt Nam bị chia đôi. Phiá bắc vĩ tuyến 17 do Hồ Chí Minh lãnh đạo theo chế độ Cộng Sản. Miền Nam vĩ tuyến 17 do tổng thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo theo chế độ tự do, dân chủ.

Phiá Bắc Việt, Hồ Chí Minh được sự yểm trợ dồi dào của các quan thầy Liên Xô, Trung Cộng trên cả về nhân sự và vũ khí mở các cuộc xâm nhập và quấy phá Miền Nam Việt Nam. Phiá Miền Nam,vì chủ trương ngăn chận sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng Sản, Hoa Kỳ đã mạnh mẽ viện trợ và gởi các cố vấn sang giúp tổng thống Ngô Đình Diệm chống trả sự xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt. Nhưng sau đó, chỉ vì ngăn cản sự đổ quân ào ạt của quân đội Mỹ vì muốn giữ thế chính nghĩa dân tộc đã di ngược lại chủ trương của Hoa Kỳ mà tổng thống Ngô Đình Diêm và bào đệ Ngô Đình Nhu đã bị thảm sat trong cuộc đảo chính ngày 1-11-1963.

Sau khi Hoa Kỳ đổ quân ồ ạt vào Miền Nam cùng Quân Lực VNCH qua nhiều trận giao tranh ác liệt với bộ đội Bắc Việt trong vòng 10 năm. Sau đó, vì chiến lược của mình, Hoa Kỳ lại tìm cách rút lui khỏi cuộc chiến và bỏ rơi Miền Nam Việt Nam.Trong cuộc chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ và Liên Xô, Hoa Kỳ đã tìm cách bắt tay với Trung Cộng để được thêm đồng minh. Ngày 15-2-1972, tổng thống Richard Nixon đã sang công du tại Trung Cộng. Tại đây, tổng thống Nixon và chủ tịch Mao Trạch Đông đã thỏa thuận hợp tác với nhau. Chính vì bắt tay với Trung Cộng đã giúp cho Hoa Kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi hơn khi đối đầu với Liên Xô và cũng không lo phải đối đầu với Trung Cộng nữa.

Hiệp định Paris ngày 23-1-1973 ra đời tạo điều kiện cho Hoa Kỳ rút quân ra khỏi Miền Nam Việt Nam một cách danh dự, nhưng lại không ngăn chận sự xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt .

Sau đó, Hoa Kỳ liên tiếp cắt giảm mọi viện trợ làm cho Quân Lực VNCH phải chiến đấu trong cảnh vô vọng.

Trái lại, phiá Cộng Sản Bắc Việt vẫn tiếp tục được hai quan thầy Liên Xô và Trung Cộng viện trợ quân sự ồ ạt để thi hành sứ mệnh bành trư ớng chủ nghĩa cộng sản.

Ngày Quốc Hận 30-4-1975 đã phải đến khó tránh khỏi.

Đây chính là điều bất hạnh to lớn cho toàn dân Việt Nam .

Điều bất hạnh nầy đã hiện rõ khi mọi người dân Việt bị tước đoạt những quyền tự do căn bản , dân oan bị nhà cầm quyền cướp đất, phụ nữ phải bán thân nuôi miêng và lãnh thổ của Việt Nam dần dần bị tập đoàn CSVN dâng cho quan thầy Trung Cộng.

Tiếng vọng chiến tranh
Chiến tranh luôn là nỗi ám ảnh suốt cả cuộc đời đối với những người đã từng ‘đi qua’ những cuộc chiến. Nối tiếp các cuộc triển lãm về chiến tranh Việt Nam, từ ngày 4/4/2009 đến ngày 21/6/2009, Trung tâm Văn hóa Nghệ thuật Casula Powerhouse đã giới thiệu đến công chúng triển lãm ‘Nam Bang’ với sự góp mặt của 25 nghệ sĩ quốc tế và nghệ sĩ Úc về vấn đề hậu chiến.
Không giống như các cuộc triển lãm ‘Vietnam Voices’ tập trung về thân phận con người trong cuộc chiến, ‘Nam Bang’ chú trọng về vấn đề hậu chiến, những ảnh hưởng của cuộc chiến đối với xã hội khi chiến tranh đã lùi xa hơn một phần ba thế kỷ. Triển lãm lần này bao gồm những tác phẩm mang tính chọn lọc cao của lớp hậu sinh - những người con của các cựu chiến binh đã từng tham chiến tại Việt Nam hoặc những người bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến này.
Bà Bội Trân, người phụ trách cuộc triển lãm, cho biết: “Chiến tranh Việt Nam đã làm thay đổi rất nhiều xã hội, không chỉ xã hội Việt Nam mà ngay cả xã hội Mỹ cũng bị thay đổi đột ngột khi chiến tranh kết thúc và xã hội Úc cũng không phải là một ngoại lệ.”
Theo con số thống kê tại đài tưởng niệm chiến tranh, trong thời gian từ thời điểm gửi quân đầu tiên năm 1962 đến khi rút khỏi Việt Nam năm 1973, có khoảng 60 nghìn lính Úc đã từng tham chiến tại Việt Nam, trong đó 521 lính Úc đã tử trận và hơn 3.000 người bị thương. Những hệ lụy về mặt xã hội, tinh thần và tâm lý từ cuộc chiến vẫn còn tồn tại mãi đến ngày hôm nay.
Những khoảng lặng sau cuộc chiến
Những mất mát từ cuộc chiến không chỉ riêng từ những người lính trở về từ hai chiến tuyến mang trong mình những nỗi đau thể xác mà con cháu của họ, thế hệ thứ hai, thứ ba, vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng nề bởi chất độc chiến tranh. Một trong những bức tranh khắc họa rõ nét điều này là bức ‘Nỗi đau của người lính cả hai chiến tuyến’ của Lê Trí Dũng. Bức tranh mang hình tượng một tàu lá chuối tả tơi hình chữ S sau chiến cuộc mà phía dưới là cái bào thai nhiễm Dioxin, cân bằng hai bên là hai cái mũ lính của hai bên đối trận, lên tiếng khẩn thiết đòi công lý cho những thế hệ con người đau khổ vì bị nhiễm chất độc Dioxin.
Bộ ảnh của Dennis Trew, một họa sĩ người Úc, cũng đã khắc họa rõ nét nỗi đau da cam của con cháu những người lính qua các bức ảnh làm người xem cảm thấy sợ hãi với những chiếc cổ họng lở loét, bộ mặt quái thai dị dạng…v.v.
Bên cạnh nỗi đau thể xác, nỗi đau tinh thần còn nặng nề gấp bội lần. Vẫn còn đó hội chứng chiến tranh của những người lính Úc đã từng tham chiến tại Việt Nam. Sau cuộc chiến, họ trở về và không nhận được nhiều sự quan tâm của chính phủ vì cuộc chiến này không được mọi người mong đợi. Paul Ham với tham luận ‘Việt Nam: Cuộc chiến của người lính tại quê nhà’ đã đưa ra những vấn đề về thái độ phản đối của cộng đồng, cuộc chiến chống hội chứng chiến tranh và yêu cầu công lý về chất độc màu da cam với các cựu binh khi trở lại cuộc sống đời thường.
Triển lãm ‘Nam Bang’ cũng đã đề cập đến thân phận con người sau cuộc chiến, đặc biệt là những thuyền nhân qua tác phẩm ‘Thuyền cứu rỗi’ của Nerine Martini. Sau cuộc chiến, rất nhiều người lính của quân đội cộng hòa và gia đình họ đã rời Việt Nam đi tìm mảnh đất định cư mới. Khoảng 500 nghìn người đã bỏ mạng trên biển cả trong quá trình vượt biên. Đó cũng là hệ lụy cho hội chứng sợ nước và sợ thuyền của nhiều người Việt Nam tại Úc hiện nay.
Bao giờ nỗi đau hàn gắn?
Ngày 30 tháng Tư là “một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn...” như lời Cố thủ tướng Võ Văn Kiệt từng nói.
Vết thương thịt da có thể hồi phục ngày một ngày hai nhưng vết thương chiến tranh có bao giờ liền sẹo? Những người đã từng tham dự cuộc nói chuyện của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc về đề tài ‘Chiến tranh trong văn học’ tại triển lãm ‘Nam Bang’ hẳn từng nhớ câu kết của bài nói chuyện là: “Hy vọng đến một ngày nào đó, chúng ta sẽ không phải phân chia văn học trong chiến tranh thành hai miền Nam, Bắc nữa”.
Trong ngày khai mạc triển lãm ‘Nam Bang’, Mai Long, một họa sĩ nổi tiếng với các tác phẩm về chó, đã tiến hành một buổi ‘hóa vàng’ con chó chiến tranh của mình. Trên thân con chó có cờ đỏ sao vàng của Việt Nam, cờ vàng ba sọc của Việt Nam Cộng hòa và một số lá cờ khác của các nước từng tham chiến ở Việt Nam. Con chó được khênh trên kiệu và đi diễu hành với một đoàn người mặc y phục đen. Cuối cùng, con chó chiến tranh được đặt lên một đống củi lớn và đốt rụi cùng những lá cờ trên thân thể nó. Với Mai Long, cuộc chiến Việt Nam với tất cả những ý tưởng đầy tương phản của các bên tham chiến đã hoàn toàn chấm dứt trong tâm hồn cô. Nếu ai cũng có thể làm được điều này thì ắt hẳn sẽ không còn nỗi đau chiến tranh trong lòng người dân Việt Nam nữa.

Nỗi Đau Ngày 30 Tháng 4
NỖI ĐAU NGÀY 30 THÁNG 4
Lê Đạo
Để tưởng nhớ những người đã và đang hy sinh trong lao tù cọng sản và những người đã bỏ mình trên biển cả vì cọng sản.
Tôi rời Huế ngày 20.3.1975, trên một chiếc La Dalat tải nhỏ. Tôi đưa mẹ và hai em tôi cùng với một số người khác cho đạt tải tối đa của chiếc xe. Vì vào thời điểm đó ai cũng cần phải "chạy". Trên đường từ Huế vào Đà Nẵng xe cộ nối đuôi nhau, tất cả các loại xe, người đi bộ, người gánh gồng. Cả thành phố Huế, người dân Thừa Thiên Huế, người dân Quảng Trị chạy vào. Tất cả đều chạy. Ngày ấy chúng tôi quen gọi là "chạy giặc". "Chạy giặc" được dùng vào dịp Tết Mậu Thân khi người dân phải chạy thoát những vùng bị việt cọng chiếm đóng. Đến mùa hè đỏ lửa năm 1972, "chạy giặc" mới được xử dụng đại trà khi người dân Quảng Trị chạy vào Huế, rồi người dân Huế lại chạy vào Đà Nẵng, để diễn tả những cuộc bỏ chạy, "bỏ của chạy lấy người" hầu thoát cho được sự thống trị của cọng sản.
Người dân miền Trung, qua thảm họa Tết Mậu Thân, bắt đầu hiểu cọng sản hơn và biết sợ cọng sản.
Cứ nhìn vào những gì xãy ra trên hơn 100 km đường bộ từ Huế vào Đà Nẵng thì có thể đọc được tâm tư người dân họ nghĩ gì khi phải bỏ của chạy lấy người. Có phải nỗi ám ảnh, nõi kinh hoàng về tính man rợ của cọng sản làm họ phải bỏ tất cả, từ mái nhà thân yêu cho đến mồ mả tổ tiên,...họ phải bỏ tất cả để tìm cái sống. Bởi vì sống với cọng sản thì có khác gì chết còn sướng hơn.
Vào Đà Nẵng tôi tham gia cứu trợ đồng bào từ Huế vào, cập ở bến tàu Bạch Đằng. Chúng tôi mang cơm vắt đến bến Bạch Đằng để cứu trợ người dân từ Huế vào bằng đường biển. Thành phố Đà Nẵng vào những ngày ấy chật ních người. Nhà người anh họ của tôi phải chưa đến 40 người từ Huế vào. Tất cả đang lánh nạn: Nạn "cọng sản". Mẹ tôi bảo mua vé máy bay để một mình vào Saigon để có thể tiếp tục học vì bà nghĩ rằng cọng sản chiếm thì hết học. Tôi thì vì hăng say công tác cứu trợ nên quên đi chuyện bỏ chạy tiếp. Bố tôi thì không dám bỏ nhiệm sở nên vẵn ở lại Huế. Chẳng lẽ tôi bỏ bố tôi ở Huế, mẹ và hai em tôi ở Đà Nẵng để một mình vào Saigon . Tôi thương mẹ tôi vì bà ấy nghĩ đến tương lai của tôi mà chấp nhận ở lại không có tôi.
Thế là ngày 29.3 Đà Nẵng mất. Bầu khí u buồn phủ kín thành phố. Người dân thì chạy ngược chạy xuôi. Thành phố hỗn độn nhưng lạnh ngắt. Không ai nói với ai một lời mà hình như ai cũng để cho đầu óc mình tưởng tượng về cái gọi là chủ nghĩa cọng sản, về cuộc sống trong xã hội cọng sản.
Chủ nghĩa cọng sản là thiên đường mà sao ai cũng bỏ chạy?
Một tháng sau thì Saigon mất! Nỗi buồn sâu thẳm hiện rõ trên mỗi một nét mặt. Và thế là tôi phải đưa mẹ và em tôi trở lại Huế. Thành phố Huế là thành phố của công nhân viên chức và học sinh sinh viên. Cơ quan hành chính thì đã về tay cọng sản, trường học cũng thế, rợp đỏ cờ máu lại thêm tiếng nhạc rang rảng nhức tai. "Giải phóng miền Nam " là bài phải nghe đi nghe lại nhiều nhất. Miền Nam được "giải phóng" ư? Tôi hoàn toàn không tin là như thế!
33 năm trôi qua, miền Nam ra như thế nào sau cái ngày lịch sử ấy, mà nhiều người vẫn quen miệng gọi là "ngày giải phóng"?
Trở lại với trường học, chúng tôi bắt đầu bị quản lý bởi tổ trưởng, lớp trưởng, hội liên hiệp thanh niên, đoàn thanh niên cọng sản. Những bộ mặt tổ trưởng, lớp trưởng, là những tên cơ sở nằm vùng hoặc là lý lịch có cha tập kết, liệt sĩ,...Họ trở thành những tên an ninh của trường, của đảng. Nhà trường trước đây không hề có "an ninh, cảnh sát", nhưng sau cái ngày 30.4 thì lại có một lực lượng an ninh rất hùng hậu. Chúng nó là con cái những người có công với chế độ, được chế độ tin tưởng xử dụng.
Chúng tôi không còn được nói năng tự do, hát hò, cũng như chuyện trò như ngày trước mà phải để ý đến chung quanh. Chúng tôi phải bắt đầu một khóa học chính trị. Sinh hoạt tổ để thảo luận, rồi còn phê bình và tự phê bình. Và cứ như thế chúng tôi phải cảnh giác mọi chuyện, mọi người. Hàng tuần phải đi lao động gọi là "lao động xã hội chủ nghĩa". Chúng tôi không thể giải thích được mục đích của những buổi lao động nầy và thường được động viên rằng "lao động là vinh quang". Cho dù có vinh quang hay không chúng tôi cũng phải lao động mà không được có ý kiến.
Trước ngày tốt nghiệp, ai ai cũng phải hát "đi bất cứ nơi đâu khi đất nước đang cần". Thế nhưng là đoàn viên, đảng viên thì không phải đi bất cứ nơi đâu cả, mà được giữ lại trường để làm giảng viên; cho dù họ là những top ten được tính ngược từ dưới lên. Còn những top ten thực sự thì phải đi đến những nơi xa xôi hẻo lánh, vùng kinh tế mới. Điều nầy giải thích lý do tại sao đã 33 năm mà nền giáo dục ngày một tụt dốc là thế. Thầy dốt thì trò cũng dốt, và từ thế hệ nầy sang thế hệ khác, dốt truyền dốt lại cho dốt. Những vị đó bây giờ được hợp thức hóa bằng cấp bằng tiến sĩ, thạc sĩ, chuyên khoa cấp 1, 2 nhưng vẫn vậy.
Xin được đơn cử một thí dụ điển hình: Sau một phần tư thế kỷ, tôi trở lại trường xưa. Tôi muốn vào thư viện nên hỏi người bạn của tôi thể thức để kiếm sách và tài liệu như thế nào. Vì sợ rằng một phần tư thế kỷ thư viện sẽ phải văn minh hơn, tân tiến hơn. Hồi trước 1975, muốn tìm sách thì vào tủ thẻ, tìm cho được cuốn sách mình chọn và ghi tên sách, tên tác giả, nhà xuất bản và số hiệu. Sau đó đưa cho nhân viên thư viện, họ sẽ mang ra cho mình cuốn sách theo yêu cầu. Còn bây giờ, muốn mượn sách chỉ việc nói tên sách là có ngay. Nhân viên thư viện giỏi hơn xưa chăng? Không, là vì sinh viên bây giờ không đọc được sách ngoại văn mà chỉ đọc được sách tiếng Việt. Mà sách tiếng Việt thì không quá con số 100. Tủ thẻ danh mục sách xem như không còn xử dụng nữa!!! Có lẽ với câu chuyện thư viện trên chúng ta có thể thấy cái mốc 30.4 có phải là cái mốc của một sự tụt dốc trở về với sự lạc hậu? Không những thế, tệ nạn mua điểm trở nên phổ biến bắt đầu từ thập niên 80 và tăng dần cho mãi đến hôm nay. Nhà giáo bây giờ cũng phải chạy đua để làm giàu. Bởi lẽ một nhà trí thức nọ đã phát biểu :"Lúc nầy phải làm giàu, bất chấp mọi thủ đoạn!!!". Khẩu hiệu đó sau cái ngày 30.4 ngày càng đậm nét. Kể cả ngành y tế: chẳng hạn bác sĩ khuyên bệnh nhân trốn viện để về nhà chửa tư với mình! Đúng là bất chấp mọi thủ đoạn, kể cả cái chết của đưa bé sơ sinh bị ỉa chảy mất nước nếu xãy ra!
Giáo dục và y tế phải chăng là hai lãnh vực quan trọng nhất cho một xã hôi? Nếu đem so sánh với xã hội trước thì ngày 30.4.75 đúng là ngày đánh dấu cho sự tụt dốc về mọi mặt, đặc biệt là giáo dục và y tế.
Về giáo dục:
- Văn bằng của Việt Nam thời cọng sản không được một nước nào trong khu vực công nhận. Có người mang học vị tiến sĩ nhưng không hề biết một ngoại ngữ nào!!!
- Trình độ học sinh tốt nghiệp phổ thông quá kém về mọi mặt đặc biệt là ngoại ngữ. (Trước 1975, cấp 1 học 1 ngoại ngữ và cấp 2 học 2 ngoại ngữ. ).
- Học phí ngày càng tăng tạo điều kiện cho một số học sinh sinh viên bỏ học. Không những thế, học phí tăng nhưng chất lượng giáo dục hoàn toàn không tăng.
- Tệ nạn làm tiền học sinh bằng hình thức mua điểm, dạy thêm vẫn ngày càng phổ biến.
Về y tế:
- Bác sĩ được đào tạo đại trà và thậm chí rất què quặt cả kiến thức lẫn chuyên môn.
- Đa số bác sĩ không có khả năng nghiên cứu. Đặc biệt là bác sĩ hệ chuyên tu, có người chưa tốt nghiệp trung học phổ thông, năng lực cũng như kiến thức quá hạn chế. Đa phần không được rèn luyện đạo đức và từ đó sản sinh biết bao nhiêu tệ nạn xã hội trên cơ sở vừa dốt vừa thiếu phẩm chất đạo đức. Viện phí ngày càng tăng trong khi thu nhập người dân không tăng.
- Mạng lưới bảo hiểm y tế rất tồi, bị những quan chức lợi dụng vào các xét nghiệm cũng như chỉ định cao cấp. Còn nếu đến bệnh viện với bảo hiểm y tế thì việc khám và điều trị rất hời hợt và không hiệu quả.
- Tình trạng trẻ em suy dinh dưỡng ngày một tăng. Trong khi chương trình chống suy dinh dưỡng không được chỉ đạo đúng mức.
Về kinh tế:
-Họ huênh hoang là gia nhập WTO nhưng họ đâu có đủ trình độ để nắm vững luật chơi của tổ chức toàn cầu nầy!
- Một nền kinh tế "nửa nạt nửa mỡ" sẽ đưa nhân dân về đâu? Tiến sĩ Lê Đăng Doanh đã phải khóc với cái gọi là "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa"! Và giả như có mười tiến sĩ như Tiến sĩ Doanh thì cũng không làm gì được một khi mà chính trị vẫn song hành với kinh tế và chi phối kinh tế.
- Lạm phát phi mã do ai và ai sẽ là người gánh chịu? Người dân.
- Công nhân đang khóc khi mà giá sinh hoạt tăng chóng mặt mà đồng lương thì tăng không đáng kể. Một số công nhân với đồng lương trên dưới một triệu đồng rồi cũng chỉ đủ để nuôi cái miệng. Và tối lại ra vỉa hè nằm là chuyện sẽ đến trong nay mai không xa. - Nông dân thì vừa mất đất, giá nông sản không được bảo hộ. Họ sẽ làm gì đây khi họ chẳng có lương để được tăng?
Về tôn giáo:
- Phật giáo bị chia rẽ và chi phối bởi cái gọi là quốc doanh.
- Công giáo thì hạn chế đào tạo tu sĩ, phong chức và bổ nhiệm.
- Tin Lành, Cao Đài thì bị khống chế sinh hoạt tôn giáo.
- Đất đai các giáo hội bị chiếm dụng bằng cách nầy cách khác.
33 năm qua nhân dân cắn răng không nói được một lời bởi tự do ngôn luận bị khống chế tuyệt đối. Chỉ có nhà nước mới có quyền được nói. Nói hưu nói vượn cũng chỉ nhà nước mới được nói. Hơn 700 tờ báo là tiếng nói của nhà nước. Còn nhân dân không được nói, và điển hình là "bịt miệng" bằng vú lực nếu không nói là bắt bớ, hành hạ cho dù bị áp bức tột độ. Cụ thể là biết bao vụ dân oan mất nhà mất đất không kêu được với ai.
33 năm, người dân vẫn phải chịu đựng, thắt lưng bóp bụng để trông đợi một thiên đường cọng sản chủ nghĩa đang ở cuối chân trời! Toàn dân đang thắt lưng buộc bụng đẻ nuôi một đám đầy tờ gồm hai bộ máy: một là chính quyền, hai là đảng. Cả "đám đầy tớ" nầy đang đè đầu cởi cổ nhân dân. Họ sống không cần vào đồng lương. Đồng lương họ chỉ cần đủ cho một chầu bia ôm, karaoke ôm cũng được. Họ có nhiều cách để kiếm tiền. Họ được cấp 1 nhà, 2 nhà rồi mua thêm nhà và rồi cho thuê,...Đó là chưa nói đến họ rút ruột ngân sách, họ buôn lậu, họ nhập hàng hóa vật tư với tiền thật nhưng là hàng giả,...Họ có cả 1001 cách để kiếm tiền, mà tham nhũng là cách phổ biến nhất.
Nhìn lại chặng đường 33 năm, nhà cầm quyền cọng sản đã làm được gì cho quê hương đất nước nầy? 33 năm một nửa đời người, thế mà nhà cầm quyền cọng sản đã làm được gì? Xây dựng hay phá hoại? Giang sơn tổ tiên để lại họ bảo vệ hay là đem đi triều cống?...
33 năm qua bao nhiêu tội ác mà nhà cầm quyền cọng sản nầy gây ra. Tội ác của lũ việt gian bán nước nầy không bút mực nào tả xiết! Một ngày nào đó chúng phải trả lời trước quốc dân trong và ngoài nước.
Nhưng trước mắt thì sao? Nếu còn một con đường nào để "chạy giặc" thì nhân dân sẽ chạy. Cho dù biết rằng con đường đó có thể đưa đến cái chết như đồng bào ta đã tìm đường vướt biển. Nhưng không! Nhân dân không còn chạy đâu nữa bởi đã có một con đường. Đó là: Con đường DÂN CHỦ. Con đường mà những người tiên phong đã mở ra để đưa nhân dân thoát khỏi ách thống trị man rợ, hung tàn của cọng sản. Con đường mà Khối 8406, các anh hùng như Linh mục Nguyễn Văn Lý, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Luật sư Nguyễn văn Đài, Luật sư Lê thị Công Nhân,...đang soi dẫn để toàn dân đi theo. Và nhân dân ta không còn phải "chạy giặc" mà là đối mặt với giặc để giành lấy TỰ DO - DÂN CHỦ.
Chỉ có TỰ DO - DÂN CHỦ mới có thể cứu được quê hương xứ sở đang ngày bị chúng phanh thây xẻ thịt, đem dâng cho ngoại bang và chia chát lẫn nhau. Chúng ta tin rằng, với sự cổ vũ và tiếp sức của ba triệu đồng bào hải ngoại, NỖI ĐAU NGÀY ẤY sẽ được biến thành CHIẾN THẮNG.
Việt Nam ngày 10 tháng 4 năm 2008

No comments:

Post a Comment