Sunday, November 21, 2010

HỒI KÝ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH

HỒI KÝ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH (tiếp theo)
(11/08/2010 11:19 AM) (Xem: 52)
HỒI KÝ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH
Tiêp theo

buồng trên gác: Ngày nay, Tiểu thuyết thứ bảy, Hà Nội báo, Loa, Tri Tân, Thanh
Nghị … và các loại thơ ca, tiểu thuyết kể trên. Bố tôi rất quan liêu, tuy cấm con
gái không được đọc tiểu thuyết, nhưng không bao giờ lên gác để biết có cả một
kho sách báo trên đó. Kho sách báo này đã là một thư viện phong phú và đầy
hấp dẫn đối với tôi từ tuổi thiếu niên nhi đồng.
Tôi học tiểu học ở trường huyện. Học thì lười, chỉ ham chơi. Rất mê
truyện kiếm hiệp, truyện cổ Tầu. Thích vẽ tranh phỏng theo những tranh minh
hoạ trong các truyện, thích nhất vẽ hiệp sĩ múa gươm, phi thân lên mái nhà, và
những ông tướng Tầu: Quan Công, Trương Phi, Lã Bố… ấy thế mà cũng có
nhiều thằng bạn rất phục. Chúng phải đổi vài ba tờ giấy trắng để lấy một bức vẽ
của tôi.
Tôi từ nhỏ đã không thích sinh hoạt tập thể. Bố mẹ tôi muốn cho tôi sinh
hoạt trong đội Sói con ( louveteau) của trường huyện: cắm trại, mặc đồng phục,
hát đồng ca, nấu ăn chung, vui chơi tập thể…vv.. Tôi ở với họ nửa buổi rồi thừa
lúc họ không để ý, lủi trốn về nhà. Tôi không thích sinh hoạt tập thể, có lẽ một
phần vì ít tiếp xúc với người ngoài, nhát, vụng về trong giao tiếp, làm gì cũng
lúng túng, chậm chạp. Nhưng quả thực từ nhỏ tôi đã có thói quen sống và chơi
một mình. Mẹ tôi sinh tất cả mười một lần, nhưng chỉ nuôi được 6: hai trai, bốn
gái. Anh tôi từ nhỏ đã được gửi cho một ông cậu làm giáo viên ở tỉnh Bắc Ninh
kèm cặp cho. ở nhà còn lại toàn con gái, tôi chơi với ai được! Đành chỉ chơi một
mình. Nghĩa là ngồi một mình, tưởng tượng ra đủ thứ chuyện phỏng theo những
sách vở đọc được, đặc biệt là các truyện võ hiệp, truyện cổ Tầu, truyện tình lãng
mạn…Tất nhiên bao giờ cũng biến mình thành một nhân vật chính trong đó.
Phải nói rằng tôi từ nhỏ đã có một đầu óc rất giàu tưởng tượng đến mức như là
bệnh hoạn, cứ nhắm mắt lại là lập tức như lạc vào một thế giới hoang đường
nào.
Nếu không ngồi chơi một mình thì đi lang thang vớ vẩn ở phố huyện hay
trên những cánh đồng, bờ đê, đường làng, ngõ xóm, bắt cào cào, châu chấu,
chuồn chuồn, chui vào các đền miếu quanh vùng, trèo cây, hái quả, vừa đi vừa
tưởng tượng. Tôi rất thích quả bàng chín. Nó có một vị ngọt ngọt chua chua rất
riêng và một hương thơm riêng. Về sau này, ngẫm ra, tôi gọi đấy là hương vị
của mùa thu. Ăn một quả bàng chín như nuốt vào trong bụng hương vị của mùa
thu. Không hiểu sao tôi cũng rất thích mùi thuốc pháo và mùi hơi ét xăng ô tô.
Hễ có xe ô tô đi qua trước nhà, thế nào cũng phải chạy ra hít lấy hít để… Sau
này đọc bài Tựa Tây Sương Ký của Thánh Thán, thấy ông kể ra la liệt các thứ
khoái trên đời, trong đó có cái khoái ngửi mùi thuốc pháo. Té ra cái khoái của
tôi cũng không phải là cá biệt.
Thấm vào tâm hồn tôi cho đến mãi bây giờ là cái gọi là không khí những
phố huyện, phố phủ ngày xưa: ấy là một đoạn đường đất hoặc rải đá khoảng ba
bốn trăm mét, hai bên có vài hàng cơm, hàng phở, quán nước, một trạm dây
thép, một trạm y tế, vài cửa hiệu tạp hoá, xa xa nơi đầu phố hay cuối phố là một
trường tiểu học. To tát oai nghiêm hơn cả là dinh quan huyện, ngoài cổng có
lính gác. Ra vào cửa quan là mấy thầy thừa, thầy lục, mấy ông xã, ông lý ở các
làng lên hầu kiện, mấy anh nho lại áo the, khăn xếp, cắp ô. Tỏ ra bận rộn hơn cả
là mấy chú lính cơ, lính lệ chạy ra chạy vào. Văn minh nhất huyện là mấy thầy
giáo cấp một thường vận Âu phục, đi đứng nghiêm trang. Quan huyện thì dường
như là người của một thế giới khác. Đi đâu có trống báo hiệu và chỉ thấy một
chiếc xe ô tô hòm kính lướt nhanh qua phố huyện.
Nói chung phố huyện là một cảnh sống đơn điệu, quẩn quanh, nhạt tẻ.
Buồn vắng hơn nữa là về ban đêm. Các cửa hàng đèn dầu leo lét, tù mù giữa
cảnh đêm tối thăm thẳm.
Phố huyện thường xa thành phố, gần nông thôn. Kề ngay phố huyện là
đồng ruộng, làng mạc, là bờ tre, nương dâu, là cánh cò, cánh vạc, con trâu kéo
cày, là những dân quê lam lũ chân lấm tay bùn… Cho nên từ huyện lên tỉnh thì
cũng coi như là từ nhà quê ra tỉnh.
Môi trường sống thời thơ ấu có ảnh hưởng rất quan trọng đối với năng lực
cảm thụ văn chương của tôi. Từ những thú chơi cổ điển của ông bố tôi, tôi rất dễ
cảm nhận được vẻ đẹp “ vang bóng một thời” của văn Nguyễn Tuân. Và cảnh
làng quê, cảnh phố huyện đã khiến tôi dễ nhập thân ngay vào thế giới nghệ thuật
của những Thạch Lam, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Đỗ Đức Thu, Bùi
Hiển, Tô Hoài, Huy Cận, Nguyễn Bính, Hoàng Cầm…vv.., thế giới của những
phố huyện nghèo, của những nhân vật quan lại, lính tráng, viên chức nhỏ, hương
lý, của những cảnh sông dài trời rộng, những bến sông hoang vắng, của linh hồn
đồng quê cổ kính, bình dị miền Bắc bàng bạc một chất thơ buồn… Đó cũng là
cái buồn của ca dao, của chèo. Đọc một câu ca dao, nghe một làn điệu chèo, bao
giờ tôi cũng thấy hiện lên trong trí tưởng tượng của mình cảnh đồng quê heo hút
ngày xưa khiến nhiều khi chảy nước mắt.
Trí nhớ của con người ta có những quy luật riêng của nó mà con người
không ý thức được, không làm chủ được. Có những hình ảnh rất xa xưa và
không có ý nghĩa gì cả, tự nhiên cứ hiện lên trong trí nhớ của ta, có thể gọi là
những hồi ức ngoài ý muốn (mémoires involontaires). Tôi thường có những hồi
ức như vậy. Chẳng hạn, bỗng nhớ một ông già tên là Xã An, mặc quần trắng, áo
dài trắng, có những cái khuy cài nâu nâu màu hổ phách. Không hiểu sao lại nhớ
cụ thể cả tên ông ta, tuy không biết ông là ai. Gần đây hỏi chị tôi, chị tôi cho
biết, ông Xã An là chủ ngôi nhà cha mẹ tôi thuê hồi bố tôi làm việc ở huyện Hải
Hậu (Nam Định). Lúc đó tôi chỉ độ năm, sáu tuổi. Trong trí nhớ của tôi cũng
hay hiện lên hình ảnh một khu vườn rau vào mùa thu. Có những luống cải thưa
thớt, xác xơ, mấy cái ngồng cải cao vọt lên với những bông hoa nở vàng. Vài
con bướm trắng bay chập chờn quanh những bông hoa. Rồi hình ảnh người vú
em, tuy đã luống tuổi, nhưng chúng tôi vẫn gọi là Chị – Chị Đại. Chị có một cái
nốt ruồi lớn ở dưới mắt phải. Chị vừa quét sân vừa đọc ngân nga mấy câu lục bát
để đùa ghẹo tôi:
Nước Hải Lạng vừa trong vừa mát,
Đường Hải Lạng lắm cát dễ đi
Cô Sĩ kia xinh đẹp làm chi
Để cho câu M. trở đi trở về…

Lúc này, bố tôi đã chuyển về làm việc ở phủ Nghĩa Hưng (Nam Định).
Tôi đã hơn 10 tuổi. Vào dịp đầu xuân, Hải Lạng (thuộc phủ Nghĩa Hưng) mở
hội, có đấu cờ người. Mỗi quân cờ là một cô gái đồng trinh cầm một cái biển có
ghi chữ Tướng, Sĩ, Tượng…vv… Những cô được chọn cầm biển tướng, sĩ là
những cô xinh đẹp hơn cả. Hầu như năm nào tôi cũng cùng gia đình đi xem hội
làng Hải Lạng. Chúng tôi đi thuyền xuôi từ thị trấn Nghĩa Hưng tới Hải Lạng, kề
ngay bến sông. Một hình ảnh khác cũng thường trở đi trở lại trong trí nhớ của
tôi: một người đàn bà ăn mày, rách rưới, mắt loà, bước rờ rẫm lên hè nhà tôi
trông ra chợ phủ Thái Ninh, vừa bước đi, miệng vừa ngốn một ngọn rau muống.
Lúc này bố tôi đã chuyển tới làm việc ở phủ Thái Ninh (Thái Bình). Tôi đã 13,
14 tuổi…vv… Những hình ảnh ấy chẳng có ý nghĩa gì. Chúng chỉ gợi lên không
khí của một thời rất xa xưa một đi không trở lại. Và tôi cảm thấy buồn, một nỗi
buồn vu vơ. Những cảnh ấy nay còn không? Những con người ấy chắc đã chết
cả rồi! Hồn họ đang ở đâu? “Hồn ở đâu bây giờ!” (Vũ Đình Liên)
Nhưng có những kỷ niệm cũng rất vụn vặt thôi, và cũng hiện lên trong trí
nhớ tôi một cách tự phát, mà sao cứ ám ảnh sâu sắc và có tác động rất lớn, rất
lâu dài tới tâm lý, tính cách của tôi. Nói đến những kỷ niệm ấy, tôi thấy nhất
thiết phải kể đến chi tiết này- một chi tiết rất nhỏ, có thể nói là chẳng có nghĩa lý
gì, vậy mà sao nó cứ theo đuổi tôi đến tận bây giờ và có lẽ cho tới khi nhắm mắt.
Một chi tiết thực sự có ảnh hưởng đến cá tính, tính cách của tôi: hồi đó tôi mới
khoảng 11, 12 tuổi gì đó, có một lần ông bố tôi sai tôi múc cho ông một thau
nước rửa mặt. Tôi múc vài gáo nước vào thau rồi bưng đến cho ông. Nhìn vào
thau, thấy ít nước quá, ông nhăn mặt: “Cái thằng, sao bủn xỉn, bần tiện thế!”.
Đấy, chi tiết chỉ có thế thôi, thế mà tôi cứ ấm ức, xấu hổ và rất tự ái, thấy mình
bị coi là bần tiện, là bo bíu, là tiểu nhân, là không đường hoàng, nói chung là
đáng khinh bỉ, chẳng làm nên trò trống gì …Từ đó, có thể nói, mọi hành vi của
tôi trong sinh hoạt đời thường hay trong công tác, trong cách ứng xử với người
này người khác, trong hoạt động văn học…vv... đều là những cố gắng sao cho
người đời đừng khinh mình là keo bẩn, tiểu nhân, không đường hoàng… Dù
nghèo túng không bao giờ lèm nhèm trong chuyện tiền bạc. Việc không làm
được thì tránh không làm. Phát biểu hay viết lách về cái gì, phải biết đến nơi đến
chốn, biết đến đâu, nói đến đấy và phải có ý kiến riêng, không được thế thì thôi,
không nói, không viết. Không cầu cạnh người sang, người trên để họ có thể
khinh mình. Trời cho cái gì thì hưởng cái đó, không cay cú, cố đấm ăn xôi,
không xin xỏ, hay tranh cuớp của ai… Nói chung tôi quan niệm được làm chủ
bản thân mình là sướng nhất. Vì thế không làm bất cứ điều gì vượt quá thân
phận, tầm vóc, khả năng của mình để rơi vào bị động, mất tự do, tự chủ và bị
thiên hạ khinh bỉ. Tôi rất thích dùng hai chữ sang trọng là vì thế. Sang trọng đối
lập với nhếch nhác, hèn hạ. Nghèo mà vẫn sang. “Phó thường dân” cũng có thể
sang. Thậm chí kém cỏi vẫn có thể sang, nghĩa là tự chủ trong phạm vi khả năng
của mình, tránh không bị khinh tức là sang. Và tôi đã viết một bài “ Về khái
niệm sang trong đánh giá văn học”.
Một kỷ niệm khác cũng có ảnh hưởng lớn tới tâm lý, tính cách của tôi:
chuyện tập xe đạp. Không hiểu sao tôi lại khốn khổ đến vậy trong việc tập đi xe
đạp. Hồi mười ba, mười bốn tuổi, học cấp II ở thành phố Nam Định, tôi đã cùng
mấy thằng bạn ở chung một nhà trọ tập đi xe đạp. Trèo lên xe, đạp mấy vòng,
nhưng cứ hễ thằng bạn giữ hộ xe buông tay ra là ngã đổ kềnh ra đất. Tập mãi
không được, đã thế lại còn bị toạc một mảng thịt ở ống chân, đến nay vẫn còn
vết sẹo. Sợ quá không dám tập nữa. Một chuyện ai cũng làm được, kể cả đàn bà
con gái hay đứa trẻ sáu bẩy tuổi, vậy mà mình không làm được. Nhục quá! Hèn
kém quá! Điều này khiến tôi luôn có tâm lý bi quan về năng lực của mình.
Nghĩa là thấy mình bất tài, bất lực, chẳng làm nên trò trống gì. Cho nên bị ai coi
thường, tuy cũng tức, nhưng liền đó lại tự thấy: nó khinh mình cũng phải thôi.
Mình là thằng hèn kém, nó khinh cũng chẳng oan ức gì.
Không thể tưởng tượng được cái nhục không biết đi xe đạp của tôi kéo dài
cho mãi đến khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc (1954). Lúc ấy tôi đã 24
tuổi. Trong chiến tranh, mấy ai có xe đạp mà đi. vì thế không biết đi xe đạp,
chưa thấy bức xúc lắm, và cũng không ai biết. Nhưng hoà bình rồi. Không biết
đi xe đạp thì nguy quá. Mà lộ ra thì xấu hổ chết được! Tôi quyết định, nhất định
phải tập, mà phải tập một mình, tập dấu, tập bí mật. Đợi lúc đêm xuống, tôi thuê
một cái xe đạp, dắt đến một chỗ vắng vẻ có đường dốc, rồi ngồi lên xe thả cho
nó lao xuống và cứ thế đạp phứa đi. Sau nhiều lần ngã, tôi đi được xe đạp.
Sướng quá! Thế là có quyết tâm thì cũng không đến nỗi kém cạnh ai. (Hồi này
gia đình tôi ở một vùng ven thị xã Thái Nguyên)
Có lẽ vì chuyện này mà tôi một mặt vẫn bi quan về năng lực của mình,
nhưng mặt khác cho rằng có quyết tâm thì cũng có thể vượt lên được. Đồng thời
tôi có tâm lí dễ dị ứng với những người có thái độ tự mãn và rất thông cảm với
những người bị đời khinh bỉ. Sau này trong học tập và nghiên cứu khoa học, tôi
luôn luôn gắng sức, cố vượt lên bản thân mình một cách âm thầm lặng lẽ. Tuy
vậy khi có ai đó đánh giá cao tài trí của mình, tôi tuy cũng thích, nhưng không
bao giờ tỏ ra hí hửng, thậm chí vẫn cứ ngờ ngợ: “Chẳng lẽ mình mà cũng có tài
thật sao!”
Xin nói thêm về một nét tính cách này mà tôi tự nhận thấy đã có từ nhỏ:
thực chất thì hèn nhát, nhưng lại muốn tỏ ra là dũng cảm. Chẳng hạn, vào các
đền miếu bỏ hoang, phá phách các đồ thờ cúng, lấy những cây gươm thờ múa
may chơi. Có khi đái cả vào bát hương. Những trò quậy phá ấy chẳng chết ai,
vậy mà cũng làm cho một số đàn bà, con gái hoảng sợ và nể phục. Đúng là thứ
anh hùng rơm.
Sau này lớn lên, tôi thích ăn nói ngang ngược, nhưng chỉ dám nói trong
phạm vi một công chúng vốn hâm mộ mình hoặc đồng tình với mình hay không
có khả năng hại được mình. Viết lách cũng thế. Không muốn nói xuôi chiều,
thích gai góc một chút, nhưng cũng chỉ trong giới hạn không nguy hiểm lắm đến
bản thân mình và vừa đủ cho một số người yếu bóng vía phải nể trọng.

Chương II: Thời học sinh
Học xong bậc tiểu học ở phủ Thái Ninh, tôi lên thành phố Nam Định học
thành chung (trung học cơ sở). Tôi thi vào trường công không đỗ. Đúng là nhà
quê ra tỉnh, nghĩ lại thật xấu hổ. Lớ ngớ thế nào đi lạc lung tung rồi nhầm phòng
thi. Thành phố Nam Định với những toà “nhà Tây”, lúc đó, đối với tôi, sao mà
hoành tráng mênh mông thế. Tâm trạng bối rối hoang mang như vậy thì làm bài
tất không ra gì. Tôi trượt là phải. Không được học trường công, tôi xin học
trường tư. ấy là trường cố đạo Xanh Tô-ma (Saint Thomas d‘Aquin). Thực ra thì
tôi học trường ngoại trú Đức Bà (Externat Notre Dame) đặt ở phố Pigneau de
Béhaine (nay là phố Bến Ngự). Có lẽ đây là một phân hiệu ngoại trú của trường
Xanh Tô-ma chăng? Hiệu trưởng là một cố đạo Tây, người thấp lùn, râu tóc bạc
phơ, gọi là cố lùn. (đối lập với một cố đạo khác cũng ở thành phố Nam Định gọi
là Cố Cao.) Dạy học là những thày dòng (Frères) còn trẻ, mặc áo trùng thâm, cổ
cồn trắng. Trường học nuôi cả một đàn dê cung cấp cho các bếp ăn hàng ngày
của các cha cố. Nhiều frères rất chải chuốt và có vẻ trai lơ nữa. Sáng thứ hai,
học sinh phải xếp hàng chào cờ trước tượng Đức Bà. Vào lớp thì phải đứng dậy
cầu kinh vài phút trước khi học bài. Vài tuần lễ lại có một buổi giảng kinh
Thánh, giống như ngoại khoá. Nói chung các frères dạy nghiêm túc, chuyên
môn vững, nhất là về khoa học tự nhiên. Những học sinh như tôi, không theo
đạo, thì được ghi vào danh sách kẻ ngoại đạo, vô đạo (paien). Tuy thế không
thấy có sự phân biệt đối xử gì cả.
Những học sinh thành phố nói chung lanh lẹn, hoạt bát, ăn mặc đẹp và
sang hơn học sinh nhà quê như tôi. Chúng thường bắt nạt tôi. Có lần tôi phản
ứng lại đã bị chúng đánh cho một trận nên thân ngay giữa sân trường. Tất nhiên
uất lắm nhưng chẳng làm gì được chúng, chỉ tự mình khắc sâu thêm cái mặc
cảm về thân phận hèn kém, bị khinh bỉ.
Thời gian học ở Nam Định, tôi trọ ở nhà một ông gọi là ông giáo Cầu.
Chẳng biết ông dạy học ở đâu, bao giờ, dạy cái gì, chỉ biết ông đã nghỉ hưu lâu
rồi. Ông có quen biết bố tôi cũng không biết tự bao giờ. Ông người cao, râu tóc
đã bạc, ở với một bà vợ hai. Nhà có một đầy tớ trai tên là Hỵ. Vợ chồng ông
giáo hay cãi nhau, diếc móc nhau. Bà giáo khoảng 40 tuổi, người khoẻ mạnh và
khá đáo để. Hàng ngày tôi thường thấy ông giáo khăn áo chỉnh tề, xách ô đi đâu
đó. Khi trở về thường bị bà giáo diếc: Lại mò đến nhà thằng con rể ( lấy con gái
bà cả ) được nó đãi mấy mẩu kẹo lạc vụn chứ gì? Ông không nói gì, chỉ lừ mắt
nghiến răng, đe doạ suông thế thôi. Nhưng bà chẳng sợ gì cả, còn nguýt lại mấy
cái. Tôi đoán chừng ông giáo kiếm ăn bằng nghề viết đơn từ thuê cho những
người có chuyện kiện cáo gì đó. Hồi này, cuộc đại chiến thế giới thứ hai đang
diễn ra ác liệt. Tôi nhớ ông giáo thường gật gù vẻ đắc chí, nhắc đi nhắc lại một
câu như sấm ngôn:“ Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống”.
Nhà ông giáo là một căn hộ ở tầng hai, nằm trong một dẵy nhà cho thuê
gọi là dẫy chín gian, cũng ở đường Pigneau de Béhaine. Cùng ở trọ nhà ông giáo
Cầu còn có ba học sinh nữa cũng ở vùng quê lên trọ học, hình như đều là dân
phố huyện Hải Hậu và bố mẹ cũng có quen biết ông giáo Cầu từ trước.Trong số
này, tôi nhớ có một anh rất chăm học. Hồi ấy gọi là học gạo. Nhiều khi tôi thấy
anh học bài, mệt quá, gục ngay lên sách ngủ, nước rãi rớt cả ra sách. Còn tôi thì
vẫn lười học. Ngoài giờ lên lớp chỉ thích đi lang thang các phố xá, vườn hoa và
ra cả các vùng ngoại ô. Hồi ấy ( từ 1943 đến 1945 ), máy bay Mỹ đánh phá Nam
Định luôn. Mỗi lần có báo động, tôi lại cùng người dân các phố quanh vùng
chạy tản ra Bên Đồng ( địa danh của một vùng ngoại ô thành phố, có cái hồ lớn
gọi là hồ Rakét, có lẽ vì giống cái vợt bóng bàn – raquette ). Tôi để ý, lần nào
chạy báo động cũng có một gia đình Hoa kiều giầu có đi về phía cuối hồ, đến
một ngôi biệt thự sang trọng. Gia đình này có một cô gái độ 18, 19 tuổi, xinh
đẹp, mặc áo xường xám màu xanh lam, hở vai, xẻ tà, đi giày cao gót. Tôi cứ
lẳng lặng lẽo đẽo theo cô ta cho đến tận ngôi biệt thự. Chỉ là một thứ tình cảm
lãng mạn trẻ con vớ vẩn thế thôi – một thứ tình cảm mà sau này tôi thấy Hoàng
Cầm thường kể lại trong những bài thơ của mình – mối tình Em – Chị…
Em mười hai tuổi tìm theo Chị
Qua cầu bà Sấm bến cô Mưa…
ở thành phố Nam Định, tôi được chứng kiến cuộc đảo chính 9/3 của quân
Nhật. Đêm hôm ấy, đang ngủ bỗng nghe nổ một phát đại bác. Tất cả chỉ có thế
thôi. Sáng ra thành phố đã thuộc quân đội Nhật. Chúng chiếm đóng các công sở,
hò hét tập thể dục. Một vài Pháp kiều đi lại lén lút, sợ hãi.Tâm lý bọn tôi hồi ấy
rất khoái khi nghe chuyện bọn Tây đầm bị lính Nhật đánh đập, hạ nhục ngay
trên đường phố hay ở các hàng quán … Ngay sau cái đêm đảo chính ấy, tôi đi xe
kéo về Thái Bình ( nhà tôi lúc này đã chuyển về ở phủ Thái Ninh, tỉnh Thái
Bình.) Qua cầu Bo, thấy lính khố xanh, khố đỏ nhớn nhác hò nhau chạy trốn.
Cuộc đảo chính diễn ra chỉ có thế thôi. ở Nam Đinh bọn Nhật còn phải bắn một
phát đại bác, chứ ở Thái Bình nó không tốn một viên đạn.
Bây giờ tôi không còn nhớ được vì sao lại không học ở trường ngoại trú
Đức Bà nữa mà lại có thời gian học ở trường Pôn Dume ( Paul Doumer) cũng là
một trường tư thục ở thành phố Nam Định, đặt ở phố Pôn Be ( Paul Bert ) nay là
đường Trần Hưng Đạo. Tôi nhớ hiệu trưởng có tật ở lưng, gọi là ông Tiển gù.
Trường này học sinh rất táo tợn, thậm chí rất hung hãn. Tôi đã chứng kiến, ngay
trong giờ học, học sinh xông lên đánh thầy giáo. Chẳng biết ông giáo này phê
vào học bạ của học sinh thế nào mà nó đến trước mặt thầy xé toang cuốn học bạ,
sau đấy mấy đứa đồng bọn xô lên đánh thầy. Ông giáo này tên là Hãn, mặc soóc,
người cao lớn, sức lực, vậy mà sợ hãi quá phải tuông từ tầng hai xuống, chạy ra
ngoài đường, đến đồn cảnh sát cầu cứu.
Máy bay Mỹ đánh phá Nam Định ngày càng ác liệt. Có một trận bom ném
vào nhà máy rượu gần dãy nhà tôi ở. Nhà xây đã lâu, trần nhà đã lở lói sẵn, nay
bị hơi bom ép mạnh làm cho rơi xuống từng mảng.
Bố mẹ tôi sợ quá, chuyển tôi về học tại thị xã Thái Bình. ở thị xã Thái
Bình lúc này, không hiểu sao lắm trường tư thục thế: Trường Pascal, trường Port
Royal, trường Gia Long ở Hà Nội sơ tán về. Có thời gian tôi học ở trường Port
Royal. Sau này tôi được biết hiệu trưởng tên Giang là một trí thức cấp tiến. Một
hôm tôi thấy ông đến lớp tôi, giới thiệu với học sinh một thanh niên đến đọc thơ.
Người thanh niên này hình như là một sinh viên đại học gì đó, anh đứng trước
lớp, đọc rất hùng hồn, kèm theo điệu bộ, bài Ly rượu thọ của Tố Hữu. Sau này
tôi mới biết đó chính là anh Nguyễn Trác có một thời làm tổ trưởng tổ văn học
Việt Nam hiện đại của trường Đại học sư phạm Hà Nội mà tôi là một tổ viên.
Anh người hiền lành, ít nói, vậy mà ngờ đâu đã có một thời trai trẻ hết sức sôi
nổi, đầy cảm hứng lãng mạn.
ở trường Port Royal một thời gian, tôi lại chuyển sang học trường Gia
Long. Tôi nhớ hồi ấy có thầy Trương dạy toán, thầy Nghiêm Toản dạy Pháp
văn, thầy Nguyễn Lương Ngọc dạy sinh vật. Thầy Ngọc đẹp trai, hiền hậu, ít
nói, thường mặc bộ âu phục màu rêu nhạt, đi bách bộ một mình ở sân trường, có
vẻ đăm chiêu suy nghĩ điều gì. Sau này tôi biết hồi đó thầy đang hoạt động trong
nhóm Xuân thu nhã tập và thầy có những suy nghĩ về thơ ca, về đạo,về tư cách
trí thức… Thầy dạy chúng tôi về con gà, con vịt, con chim bồ câu…vv… Mỗi
bài dạy thầy lại kết thúc bằng một chuyện vui, chẳng hạn, có anh đi săn thấy vịt
người ta nuôi tưởng vịt giời, bắn chết, bị người ta bắt đền…ý thầy muốn nói vịt
nhà và vịt giời giống hệt nhau.
ở thị xã Thái Bình, tôi trọ học ở nhà một ông đồ nho. Bố mẹ tôi hồi ấy có
nhờ ông dạy thêm cho tôi chữ Hán. Lúc này thuyết Đại đông á của Nhật rất có
ảnh hưởng, đã đẻ ra phong trào học chữ Hán. Ông đồ bộ dạng rất hủ lậu. Vẫn
búi tó củ hành. Ông rất bẩn. Tôi nhớ ông có một cái tăm rất dài, dùng xong lại
dắt lên mái nhà để tiếp tục dùng mãi. Lối dạy của ông rất cổ lỗ “Nhân chi sơ là
người chưng xưa, tính bản thiện là tính vốn lành”… Mỗi lần ông giảng bài, tôi
rất sợ, vì mồm ông rất hôi. Không hiểu sao người thế mà lại có một bà vợ trẻ,
người nhẹ nhõm, lanh lẹn.
Càng gần đến cách mạng Tháng Tám, không khí xã hội càng khiến cho
lòng người không yên. Còi báo động liên miên. Chuyện bọn Nhật thu thóc tạ,
bắt dân nhổ lúa trồng đay, chuyện tội ác dã man của chúng. Tin tức hoạt động
của Việt Minh các nơi dội về: họp dân diễn thuyết, phát báo chí, truyền đơn, giết
Việt gian, phá kho thóc Nhật… vv… Và nạn đói khủng khiếp diễn ra ngay giữa
vùng lúa gạo Nam Định, Thái Bình…
Tôi không học nữa, trở về với gia đình ở phủ Thái Ninh, tỉnh Thái Bình. ở
đây có một dạo, bố mẹ tôi bắt tôi học tư ông giáo Năng ở làng Thượng Phú,
cách nhà tôi ở phố phủ Thái Ninh độ vài cây số. Ông dạy tôi tiếng Pháp. Tôi nhớ
ông thường cho tôi dịch ra tiếng Pháp những câu ca dao có nội dung nói về nỗi
khổ của người dân nghèo, hoặc châm biếm nhân tình thế thái, chẳng hạn:
Cha đời cái áo rách này
Mất chúng mất bạn vì mày áo ơi!
Sau này, nghiên cứu văn thơ cách mạng thời kỳ 1930 – 1945, tôi mới biết
ông giáo Năng làng Thượng Phú té ra là Nguyễn Văn Năng, một chiến sĩ cộng
sản từng bị bắt giam và đã sáng tác một số bài thơ trong tù, như bài: Đi Hà
Giang,Tôi không chết, tôi còn sống mãi…vv…Hồi tôi học ông, chắc ông đang bị
quản thúc ở quê nhà.
Tôi ở Thái Bình vào đúng thời gian nạn đói ất Dậu ( mùa xuân năm
1945). Trong truyện Đôi mắt, Nam Cao từng nói đến nạn đói này mà ông cho là
“ có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau nghe để rùng
mình”. Quả là một nạn đói hết sức khủng khiếp. Hồi ấy tôi thường đi xe kéo từ
Nam Định qua bến Tân Đệ sang Thái Bình, đâu đâu cũng thấy xác người chết
đói: vệ đường, gốc cây, quán chợ. Sáng sớm, có khi thấy xác người nằm ngang
ngay giữa đường.
ở Thái Ninh, nhà tôi trông ngay ra chợ phủ. Buổi sáng mở cửa, thế nào
cũng có vài xác chết nằm ở vỉa hè. Từ các làng mạc người ta khiêng về bầy bán
ở chợ phủ đủ thứ: giường phản, đồ thờ, có khi dỡ cả khung nhà đi bán. Nhưng
chẳng có ai mua. Trận đói lại xảy ra đúng vào mùa rét. Bụng đói, cật rét! Hình
ảnh phổ biến lúc bấy giờ là đàn ông, đàn bà lấy chiếu khoác quanh mình và buộc
túm trên đầu, cứ thế lũ lượt đi ngoài đường, ăn xin hay xúm quanh những đống
rác trong chợ, nhặt nhạnh bòn mót những gì có thể cho vào mồm được. Tất
nhiên đói quá thì phải liều lĩnh làm càn: ăn cướp, ăn cắp, cứ xông vào các hàng
quà bánh, hàng gạo, hàng cám, bốc trộm nhét luôn vào mồm, mặc cho người ta
đánh đấm túi bụi. Hồi ấy bọn tuần phu, lính tráng bắt được trộm, cướp, không
mất công, vả lại cũng không có điều kiện giam giữ, họ lấy dao cắt luôn gân chân
cho què rồi thả ra.
Ngày trước cụ Ngô Tất Tố có viết một truyện gọi là Làm no, phát hiện
người ta ăn cả đất. Đúng là đói quá, cái gì cũng phải ăn: lá dâm bụt, bánh khô
dâu( một thứ phân bón ). Lúc ấy sao mà rau má, rau sam, rau dền đi đâu hết cả.
Nhiều người lội xuống ruộng, tìm những bông lúa mới trổ đòng đòng tống vào
miệng và gục luôn xuống không bao giờ dậy nữa. Người ta lũ lượt kéo nhau lên
miền ngược, hi vọng kiếm được cái ăn trong rừng như củ mài, củ sắn, rau
rừng…, nhưng dọc đường đi đã chết gần hết. Trong bài Phở, ông Nguyễn Tuân
có nói, trong nạn đói ất Dậu, ở bến Tân Đệ có hàng phở thịt người. Tôi thì chính
mắt đã trông thấy một người mẹ ăn thịt con. Người ta bắt vào phủ, chẳng biết xử
thế nào. Trông người đàn bà không còn ra bộ dạng con người nữa, dường như là
ma quỷ hiện hình lên vậy.
Lúc bấy giờ khẩu hiệu của Việt Minh phát ra: “ phá kho thóc Nhật, cứu
đói!” Đằng nào cũng chết, theo Việt Minh còn có hi vọng được sống. Nông dân
các nơi ào ào nổi dậy và cách mạng Tháng Tám thành công.
Những ngày Cách mạng Tháng Tám, tôi ở cùng với gia đình ở phủ Thái
Ninh, tỉnh Thái Bình. Một đêm tháng tám, tôi không nhớ là đêm nào, chắc là
trước ngày 19, bỗng nghe có tiếng súng nổ và thấy tiếng hô một, hai ngoài phố
phủ. Tôi chạy ra xem, thấy có một đoàn người độ vài ba chục xếp hàng đi dọc
đường phố, người cầm cờ, người vác súng,người cầm mã tấu, người mang gậy
gộc. Họ vừa đi vừa hô khẩu hiệu: Việt nam độc lập đồng minh muôn năm! Đả
đảo phát xít Nhật! Đả đảo Việt gian bán nước! Thỉnh thoảng lại bắn một phát
súng chỉ thiên. Không khí hết sức căng thẳng. Người hàng phố đóng cửa hết,
nhưng chắc đều đứng nép mình nhìn qua khe cửa.
Tôi thì cứ lần theo đoàn quân Việt Minh, tuy không dám đến sát gần,
nhưng không bỏ sót một hành vi nào của họ. Đoàn kéo đến một ngôi hàng tạp
hoá và dừng lại. Người chỉ huy gọi tên chủ nhà bắt ra trình diện. Ông này tên là
Thuyết, Hai Thuyết. Gọi mãi không thấy mở cửa, họ bèn xông lên đập cửa thình
thình. Một lát thấy cửa hé mở và một bà già bước ra. Bà cứ vái lạy đoàn quân: “
Lạy các quan, trăm lạy các quan, cháu nó không có nhà.” Người chỉ huy hô to: “
Đả đảo! Đả đảo!” ( tôi nghe nói chủ hiệu tạp hoá này hình như có bán thứ hàng
hoá gì đó cho Nhật).
Lúc này, Hai Thuyết đang tụ họp đánh tổ tôm trong một nhà ai đó ở một
ngõ ngách nào đấy của phố phủ. Tiếng hô đả đảo dữ dội vang đến hội tổ tôm.
Hai Thuyết biết không thể trốn tránh mãi được, bèn nhờ một ông bạn tổ tôm dắt
ra nộp mình cho cách mạng. Người chỉ huy ra lệnh điệu Thuyết đến trước hàng
quân, rồi lớn tiếng hỏi: “ Các đồng chí, Hai Thuyết đáng xử tội gì?” – “ Xử tử!
Xử tử!,” đoàn quân đồng thanh hô vang. Tôi sợ quá! Anh chỉ huy xem chừng tội
của Thuyết không đáng chết, nên nói: “ Các đồng chí, cách mạng khoan hồng
đối với kẻ biết tội đã ra đầu thú. Vậy hình phạt hạ xuống: “Cắt tai!” Anh chỉ huy
chưa nói dứt câu, đã thấy mấy người xô tới Hai Thuyết và hình phạt được thi
hành ngay lập tức. Tôi chỉ thấy Hai Thuyết bưng tai cúi lạy đoàn quân.
Đoàn quân còn diễu hành mấy vòng trở đi trở lại phố phủ. Họ gọi tên một
số người trong phố mà họ cho là có thái độ không tốt như thế nào đó đối với
cách mạng cần phải cảnh cáo. Những người bị gọi tên chắc sợ lắm.
Thấy đã khuya và không có gì hấp dẫn nữa, tôi trở về nhà và không rõ
đoàn quân Việt Minh cuối cùng đã giải tán như thế nào.
Những ngày Việt Minh cướp chính quyền ở phủ là những ngày rất vui. Họ
chiếm phủ đường, dinh quan, các trại lính, trại giam. Tất cả diễn ra trôi chảy,
không có xung đột gì cả. Chính quyền cũ rút lui hoàn toàn tự nguyện. Khí thế
Việt Minh rất mạnh, các tầng lớp nhân dân đều ủng hộ nhiệt liệt. ở cổng phủ lúc
nào cũng có đông người tụ họp. Chẳng có việc gì đâu, chỉ đến để nghe ngóng tin
tức thời sự và để xem các chiến sĩ Việt Minh. Tôi cũng thường đến đấy và thấy
cách mạng thật là vui. ở đây tôi được chứng kiến một cuộc truy bắt và xử tử Việt
gian. Tôi còn nhớ thằng Việt gian này tên là Xập Giắt. Đúng ra nó không phải là
người Việt mà là một Hoa Kiều, cũng không phải sinh sống ở phố phủ Thái
Ninh. Chắc nó là một thằng thân Nhật có tiếng nên người ở địa phương khác
cũng biết. Nó phóng xe đạp ngang qua phố phủ Thái Ninh, hình như đang trên
đường chạy trốn. Vô phúc cho nó là ở cổng phủ lại có người biết nó. Họ hô hoán
lên và những người có xe đạp hò nhau đuổi theo. Họ bắt được nó và giải trở lại.
Nó người cao lớn khoẻ mạnh, mặc áo sơ mi cộc tay, quần soóc. Trông không có
vẻ gì sợ hãi cả. Nó bị tống vào nhà giam. Nhưng có đúng là thằng Xập Giắt
không chứ? Người ta tìm người biết mặt thằng Xập Giắt đến nhận diện. Một lát
sau tôi thấy người ta điệu nó đi xử bắn luôn. Tên tử tội không bị xiềng xích gì
cả, người ta chỉ trói chập hai tay nó ra đằng trước và thúc nó đi. Một đoàn người
lớn trẻ con kéo theo sau. Trẻ con nhiều hơn. Tất nhiên tôi cũng ở trong đám con
nít háo hức này. Đoàn người vừa đi vừa hô đả đảo Việt gian bán nước. Đi hết
16
phố thì đến cánh đồng, người ta dừng lại, bắt thằng Xập Giắt quay mặt ra ruộng.
Mấy tay súng mở quy lát lách cách. Nhưng mãi không thấy súng nổ. Chắc mấy
anh chiến sĩ chưa quen dùng súng. Xập Giắt lúc đầu có vẻ bình tĩnh, sau vì thời
gian đợi chết kéo dài quá, nó đâm hoảng, quay lại vái lậy xin tha tội. Người ta
lệnh cho nó quay trở lại. Mấy phát súng nổ. Thằng Xập Giắt ngã lăn ra vệ
đường. Ruột xổ ra. Nhưng nó chưa chết, chân tay vẫn cử động và miệng thì rên
ồ ồ. Lại bắn mấy phát nữa. Hình như vẫn chưa trúng chỗ hiểm nên nó vẫn chưa
chết. Thôi cứ mặc nó nằm đấy, rồi nó cũng chết - chắc họ nghĩ thế nên không
bắn nữa và quay về phủ. Về sau tôi nghe nói, người đào huyệt chôn Xập Giắt,
vừa lấp đất vừa khấn thằng Hoa kiều: “ Thôi thì đằng nào chú cũng chết, chú
đừng oán tôi làm gì. Tôi chôn chú cho chú đỡ khổ”.
Xập Giắt chỉ là một tên vô danh tiểu tốt. Nhưng tôi chắc hồi ấy, những
nhân vật có tiếng như Phạm Quỳnh chẳng hạn, người ta cũng xét và xử đơn giản
như thế thôi.
Sau khởi nghĩa ít ngày thì vỡ đê Thái Bình, nước đổ về phố phủ. Năm ấy
lụt to. Nhà tôi nước ngập đến hơn một mét. Phải kê giường phản lên cao. Cả nhà
sống trên mấy cỗ ghế ngựa ghép lại, thổi nấu, ăn uống, ngủ nghê tất cả ở đấy.
Thức ăn thì mua của những người quanh vùng ghé thuyền, ghé mảng vào bán:
Tôm cá, cua ốc, chuối xanh, rau cỏ, vừa sẵn vừa rẻ. Người ta ở đâu khổ sở thế
nào không biết, chứ riêng bọn trẻ chúng tôi thì rất khoái. Khoái nhất là chặt
chuối, đóng bè, chống sào đẩy đi chơi lang thang trên đồng nước hay dọc phố
phủ. Tôi cũng bắt đầu biết bơi từ ngày ấy.
Tôi không nhớ bao lâu sau thì nước rút.
Sau trận lụt, bố mẹ tôi quyết định chuyển hẳn cả gia đình về Bắc Ninh. Bố
tôi làm việc cho chính quyền cũ, tất nhiên là bị bãi chức. Rất may là cách mạng
ở đây không hề động chạm gì đến cả.
*
* *
Quê tôi, như đã nói, ở làng Thổ Khối, huyện Gia Lâm, ngày xưa thuộc
tỉnh Bắc Ninh. Đê sông Hồng cắt ngang qua làng. Trong đê thì ruộng ít. Ngoài
đê thì chỉ có bãi sông. Người làng có tiền muốn tậu ruộng phải tìm nơi khác. Bố
tôi trong thời gian làm lục sự, xem chừng cũng kiếm được. Ông tậu được
khoảng 15 mẫu ruộng và một căn nhà ngói ba gian, hai trái, có sân rộng, ở làng
Quảng Lãm, huyện Võ Giàng (nay thuộc huyện Tiên Sơn), tỉnh Bắc Ninh. Làng
Quảng Lãm ở ngay chân đê bên bờ bắc Sông Đuống, quãng trông sang bên kia
là làng Hồ, quê Hoàng Cầm.
Khi mới chuyển về Bắc Ninh, gia đình tôi ở thị xã, chứ không về nơi có
ruộng đất. Đơn giản là vì không biết làm ruộng. Lâu nay, tất cả ruộng nương nhà
cửa đều giao cho một ông chú, em út bố tôi, gọi là chú Xã Hột, trông nom. Ông
cho phát canh thu tô. Hàng năm bố mẹ tôi cho người về bán thóc lấy tiền.
ở thị xã Bắc Ninh, bố tôi thuê một ngôi nhà hai tầng ở phố Ninh Xá, đầu
tỉnh phía Nam, nằm trên đường số 1 chạy thẳng từ Hà Nội lên Lạng Sơn. Bố tôi
mở hiệu thuốc bắc. Tôi tiếp tục đi học cấp II ở trường Hàn Thuyên, lúc đó hiệu
trưởng là ông Hoàng Ngọc Phách. Trường đóng ở đầu tỉnh phía Bắc. Tôi còn
nhớ lõm bõm tên một số thầy giáo lúc bấy giờ: thầy Khôi dạy toán, thày Cư dạy
Sử, thầy Tuyền dạy tiếng Anh, thầy Khánh dạy sinh vật, thầy Thuyết dạy pháp
văn… một hoạ sĩ dạy vẽ, tôi quên tên. Sau Cách mạng Tháng Tám, cấp học phổ
thông vẫn theo hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc. Tôi học năm thứ ba thành
chung ( trung học cơ sở).
Thời gian này, ở trường Hàn Thuyên, tôi được tham dự một sự kiện rất
vui: học sinh biểu tình chống thi cử. Hiệu đoàn trưởng tên là Nguyễn Duy Long
( sau này tham gia bộ đôi, làm thơ trào phúng lấy tên Lê Kim). Anh khởi xướng
và lãnh đạo cuộc biểu tình này. Cuộc biểu tình đã được trù bị trong một cuộc
họp các cốt cán từ hôm trước - không hiểu sao tôi cũng được tham dự. Tôi nhớ,
trong cuộc họp này, có anh tỏ ý e ngại, bàn lùi, liền bị đuổi thẳng cánh.
Cuộc biểu tình diễn ra như sau:
Sáng hôm ấy, ở cổng trường, ban chỉ huy biểu tình đã cắt người đứng gác.
Học sinh đến trường đều được ngăn lại, phát truyền đơn và tổ chức thành đội
ngũ. Khi đã khá đông đủ, cuộc biểu tình bắt đầu. Học sinh xếp hàng đi vòng
quanh sân trường, vừa đi vừa hô khẩu hiệu: “ Đả đảo thi cử!”, “ Đả đảo lối học
nhồi sọ!”. Học sinh tỏ ra rất phấn khởi. Bản thân tôi rất khoái. Không phải thi cử
thì sướng quá rồi còn gì nữa! ai nấy mặt mày hớn hở, chân bước rầm rập, tay
vung cao, miệng hô khẩu hiệu đầy hào hứng. Trong khi đó, mấy thầy giáo tụ tập
ở hành lang của văn phòng nhà trường, không biết tâm trạng ra sao, chỉ thấy
chụm đầu vào nhau thì thầm gì đấy, chắc là hoang mang lắm.
Cuộc diễu hành đi quanh sân trường mấy vòng thì được lệnh dừng lại.
Ban trù bị đã kê sẵn ở giữa sân trường một cái bục cao làm nơi diễn thuyết.
“Lãnh tụ” Nguyễn Duy Long bước lên diễn đàn lớn tiếng giải thích thi cử là lối
học nhồi sọ của đế quốc thực dân, nay phải bãi bỏ. “ Đả đảo thi cử!”, “ Đả đảo
thi cử!”, cả khu sân trường lại vang dội tiếng hô của học sinh hưởng ứng khẩu
hiệu của Nguyễn Duy Long.
Hôm ấy việc học coi như bỏ. Học sinh vui vẻ ra về. Sau cuộc biểu tình,
hình như Nguyễn Duy Long có gặp ban giám hiệu nhà trường. Nghe nói sau đó
một số thầy giáo có bị gọi đi đâu đó. Cho đến nay tôi cũng không rõ thực hư thế
nào, chỉ biết sau đó việc dạy và học lại tiếp tục bình thường.
Trong thời gian gia đình tôi ở thị xã Bắc Ninh, tôi được chứng kiến bọn
Tầu Quốc dân đảng sang giải giáp hàng binh Nhật và tiếp đó là những cuộc gây
hấn của bọn lính viễn chinh Pháp được phép kéo vào nước ta theo hiệp định sơ
bộ 6/3.
Hồi ấy người ta gọi quân đội Tầu Tưởng là Tàu phù. Có lẽ vì bọn chúng
đi đứng thất thểu nhếch nhác, da vàng bủng, như lũ ốm đói, đồng thời chúng
thường quấn xà cạp bó chân to và thẳng đuỗn như bị phù. Đúng là loại quân ô
hợp chắc là được chiêu mộ từ đám dân nghèo, lưu manh ở những vùng phía
Nam Trung Quốc. Là lũ dân nghèo, nhà quê hết sức lạc hậu, chúng rất bẩn, bạ
đâu cũng ngồi, bạ hàng quà bánh gì cũng xà vào ăn: khoai luộc, bánh đa, bánh
đúc… Có thằng thấy cái bô đi toalét của người ta tráng men sạch sẽ, tưởng là đồ
đựng thức ăn bèn lấy múc nước uống hay đựng cơm, canh.
Gia đình tôi lúc ấy thuê một căn nhà hai tầng rộng rãi ở ngay mặt đường
số 1 ( phố Ninh Xá). Chúng đến chiếm luôn tầng lầu cho một sĩ quan ở. Viên sĩ
quan này không biết cấp bậc gì mà có kẻ hầu người hạ mà được đem theo cả vợ
con. Thằng chồng hàng ngày có xe đón đi đâu đó, còn vợ và đứa con gái thì
chẳng đi đâu cả, không bao giờ thấy xuống tầng dưới. Mọi sinh hoạt đều làm
trên gác, có lính hầu dọn dẹp, nấu ăn và đổ bô vệ sinh. Hồi ấy, nhà cửa dù sang
trọng thế nào cũng không có tiện nghi như bây giờ ( tầng nào cũng có toalét
riêng). Chúng ở nhà tôi một thời gian thì rút. Khi chúng đi rồi, chúng tôi lên gác,
thấy hết sức bẩn: đờm rãi bầy nhầy khắp sàn nhà lát gỗ. Không hiểu sao, sống
như thế mà chúng chịu được. Mà chúng có người hầu hẳn hoi kia mà! Mà sao
chúng không chịu xuống nhà dưới đi vệ sinh hay tắm rửa! Có người nói rằng ở
bẩn là một đặc điểm có tính dân tộc của người Trung Hoa, có lẽ cũng đúng.
Chẳng thế mà dân gian có câu: “ ở bẩn sống lâu, người Tầu bảo thế”.
Quân Tầu rút đi thì quân Pháp tới.
Bọn lính viễn chinh Pháp thì tỏ ra rất hùng hổ. Chúng đội mũ calô đỏ nên
người ta gọi là lính mũ đỏ. Chúng thường qua lại trên đường số một bằng xe cơ
giới có vũ khí trung liên lòng thòng băng đạn đỏ ối. ở đầu tỉnh phía Nam có một
doanh trại quân đội ta và một trạm gác. Lúc đó Nguyễn Duy Long ( tức Lê Kim)
đã nhập ngũ. Anh biết tiếng Pháp nên giữ việc giao thiệp với bọn Pháp. Chắc
hẳn bọn chúng thường vi phạm những nguyên tắc gì đó đã được quy định ở hiệp
định 6/3 nên bị bộ đội ta ngăn lại. Lập tức chúng nổ súng và cứ thế phóng xe đi.
Bộ đội ta vì thế luôn luôn phải đối phó, tuy rút cục vẫn phải nhân nhượng chúng.
Căn gác nhà tôi có cửa sổ trông xuống đường, trở thành nơi ẩn nấp của bộ đội ta
để nếu cần thì nổ súng hay ném lựu đạn. Tuy thế, chưa có lần nào tôi thấy các
anh phải đánh đấm gì, mặc dầu có lúc chúng bắn lên cửa sổ lầu gác mấy phát
làm thủng một lá màn. Tôi chắc mình lúc đó có lệnh không được quá “ cứng
rắn” với chúng, vì cần kéo dài thời gian hoà bình để chuẩn bị kháng chiến, do
đó, dù chúng luôn luôn khiêu khích, cố tình vi phạm hiệp định, thậm chí có lần
cho cả máy bay ném bom xuống thành Bắc Ninh, ta vẫn dùng biện pháp thương
lượng, cố dàn xếp cho êm chuyện, không để chiến tranh nổ ra.
Tình hình Bắc Ninh ngày càng căng thẳng. Ai nấy đều thấy chiến tranh
đang tới gần. Đã có lệnh tiêu thổ kháng chiến. Toà thành cổ Bắc Ninh bị san
phẳng. Dân chúng kéo nhau tản cư về nông thôn. Gia đình tôi cũng chuyển hẳn
về Quảng Lãm và ở đấy cho đến khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
ở Quảng Lãm, trong một thời gian dài, gia đình tôi vẫn sống trong một
không khí hết sức yên ổn, ngay cả sau ngày 19-12-1946. Các chị tôi mở một cửa
hàng nhỏ ngay tại nhà, bán các thứ hàng tạp phẩm vặt vãnh: diêm, thuốc, dầu
Tây, muối, bánh kẹo…vv… Bố mẹ tôi, bà chị cả tôi và ông anh rể hàng ngày
vẫn đánh tổ tôm, tài bàn. Bọn trẻ chúng tôi thì đi lang thang dong chơi trong
làng, ngoài đồng, thăm các đền miếu quanh vùng, hoặc xa hơn nữa thì đi các chợ
Chì, chợ Hồ chơi hay lên tận núi Dạm viếng chùa Hàm Long…
Cùng tản cư về Quảng Lãm có gia đình người anh con ông bác ruột của
tôi là Nguyễn Đăng Thục. Ông Thục là kỹ sư hoá học, nhưng lại chuyên nghiên
cứu triết học cổ phương Đông: Nho, Phật, Lão. Bố vợ ông Thục cũng có nhà đất
ở Quảng Lãm. Ông Thục thường đến chơi với ông bố tôi. Có lần tôi nghe lỏm
được ông nói với bố tôi thế này: “ Đảng cộng sản Pháp phê bình đảng cộng sản
Việt Nam cướp chính quyền sớm quá”. ở Quảng Lãm được ít lâu thì gia đình
Nguyễn Đăng Thục trở về Hà Nội ( lúc ấy gọi là dinh tê - entrer).
Một buổi sáng kia, tôi không nhớ là ngày nào, bọn Pháp đánh sang bờ Bắc
sông Đuống, sục vào các làng mạc ở ven sông, trong đó có Quảng Lãm. Như thế
là chúng đánh tới các vùng phía Nam sông Đuống trước ( thuộc các huyện
Thuận Thành, Lang Tài gì đó), rồi từ bờ Nam tràn qua bờ Bắc. Tôi nhớ lúc ấy
bố mẹ, anh chị tôi đang đánh tổ tôm, vội vàng vơ vét ít của cải, tay xách nách
mang, hốt hoảng chạy, cứ men theo bờ ruộng chạy về phía làng mạc cách xa
sông Đuống. Tiếng súng tắc bọp nổ ngay đầu xóm. Tàu bay thì cứ lượn trên đầu,
thỉnh thoảng lại xả súng xuống. Những lúc ấy chỉ biết nằm rạp xuống bờ ruộng
trống trải, hoàn toàn trông vào sự may rủi. Đạn bắn xuống, nhiều khi nước ruộng
bắn cả vào người… May mà không ai việc gì.
Tụi Pháp đánh sang bờ Bắc sông Đuống nhưng không đóng lại mà rút về
bờ Nam. Tuy thế gia đình tôi từ đó không dám quay lại Quảng Lãm nữa. Nhưng
vẫn chưa chịu đi xa mà chỉ quanh quẩn cách Quảng Lãm mấy cây số thôi, khi ở
làng Và, khi ở núi Dạm. Thóc lúa thì cho người về chuyển đi. Đồ đồng, đồ sứ thì
đào hố chôn ngay xuống nền nhà.
Chiến sự ngày càng lan tới, không thể quanh quẩn ở vùng Bắc Ninh được
nữa, gia đình tôi quyết định tản cư hẳn lên phía Bắc. Lúc đầu ở Bắc Giang, (
làng Vân Cẩm, gần chợ Lữ, chợ Thắng), sau lên Thái Nguyên ( Phương Độ –
Phú Bình ). Nhưng vẫn chưa chịu đi xa hẳn- khi thấy yên yên, lại quay trở lại
Vân Cẩm.
Vợ chồng bà chị cả tôi không chịu được khổ, đến năm 1951 thì bỏ vào Hà
Nội. Các chị thứ hai, thứ ba thì xoay ra buôn bán ở các chợ quê ( hàng tấm, hàng
xén) Lúc này tiền nong đem theo đã cạn kiệt. May sao tôi có bà chị thứ hai (
Nguyễn Thanh Tần ) buôn bán rất giỏi, coi như chỗ dựa về kinh tế của cả gia
đình.
Năm 1949, máy bay Pháp bắn phá chợ Thắng ( tên đầy đủ là chợ Đức
Thắng thuộc huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang). Chị Tần bị trúng đạn xã hẳn một
bên vai. Như thế là chúng đánh đúng vào cây cột trụ về kinh tế của gia đình tôi.
Bố mẹ tôi quyết định chaỵ thẳng lên miền Bắc tỉnh Thái Nguyên (ở chân dốc
Đình, thuộc huyện Đại Từ) dựa vào gia đình một ông chú (em họ mẹ tôi) có sẵn
cơ sở ở đấy. Chị Tần mở một quán nước ở bên đường. Chị thứ ba và em gái tôi
thì đi học sư phạm và ra dạy cấp một. Anh tôi thì vào bộ đội. Đây là thời kỳ khổ
nhất của gia đình tôi. Một mặt vì người chị đảm đang nhất của gia đình không
còn sức khoẻ để xông pha như trước, mặt khác, bọn Pháp vẫn đánh lên. Nhiều
khi phải vào ẩn nấp chui rúc trong rừng. Có lúc gia đình tôi phải ăn cháo sắn trừ
bữa, thậm chí phải ăn củ chuối thay cơm. Hàng ngay tôi cùng mẹ vào rừng lấy
củi và hái măng. Tôi nhớ có lần giường sụt gẫy (giường đan bằng nứa đặt trên
mấy cọc gỗ tươi có ngàm chặt trong rừng ngay sau nhà), nồi cháo sắn để trên đó
đổ vào chân mẹ tôi khiến người bị bỏng nặng.
Hoàn cảnh nhà tôi như thế mà vẫn có một anh bạn học của tôi đến ăn và ở
nhờ một thời gian. Ngày ngày hai bữa cơm độn ngô, độn sắn. Vì trường học giải
tán mà bố mẹ anh ta lại ở mãi trong nội thành Hà Nội.
Trong thời gian gia đình tôi về Quảng Lãm hay chạy lên Bắc Giang, Thái
Nguyên, tôi vẫn tiếp tục đi học, khi ở trường Hàn Thuyên sơ tán lên Bắc Lý,
thuộc Bắc Giang, khi ở trường Lương Ngọc Quyến đóng ở xã Phương Độ huyện
Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.
ở Lương Ngọc Quyến tôi được thấy một vụ án mạng rất khủng khiếp, nạn
nhân là bố con thầy Đoàn Hùng, hiệu trưởng của trường. Không biết do thù oán
gì mà kẻ hành hung đâm chết một lúc thầy Hùng và con trai cả tên là Hiền. Thầy
Hùng mất, thầy Dương Xuân Nghiên lên thay.
ở Lương Ngọc Quyến tôi học năm thứ tư ( tức năm cuối của PTCS). Bạn
cùng lớp, tôi chỉ còn nhớ mấy người: Nhân, Nhiệm, Trứ, Viêm, Ngà... Không
biết giờ ở đâu, còn hay mất. Hồi này tôi nổi tiếng nghịch ngợm. Viết bích báo ký
Spitfire. Bạn bè thì đặt cho cái tên rất dữ: “ Mãnh Tăng”.
Giữa năm 1947, tốt nghiệp cấp II ở Lương Ngọc Quyến, tôi tìm lên Phú
Thọ học tiếp cấp III ở trường Trung học Kháng chiến vốn là trường Chu Văn An
Hà Nội sơ tán lên. Trường phân ra ba chuyên ban, nên gọi là trung học chuyên
khoa, đóng ở Đào Gĩa thuộc huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Tôi học ban Toán –
Lý – Hoá ( hai ban khác là ban vạn vật và ban Sinh ngữ).
Trường dựng trên một khu đồi. Người ta làm một ngôi nhà sàn lớn, tầng
trên là phòng ngủ, tầng dưới vừa làm nhà ăn vừa làm lớp học, khi cần thì dùng
làm hội trường.
Học sinh hầu hết là dân thành phố ở dưới xuôi lên, cách sinh hoạt rất khác
với dân địa phương. Phụ trách ăn uống là một nhà hàng ở thị trấn Thái Ninh (
gọi là hàng bủ Tài Lâm) ngày hai bữa gánh cơm canh vào, học sinh ăn xong, lại
dọn đi.
Hồi ấy học đến trung học chuyên khoa ( bậc tú tài) phải là con em những
gia đình khá giả. Nhiều cậu đàn nhạc rất giỏi. Chiều thứ bảy họ vào trong làng tổ
chức hoà nhạc, gọi là Soirée musicale, đôi khi gây ra những chuyện rắc rối đối
với trai gái trong làng, thậm chí dẫn đến xung đột.
Những ngày Đào Giã (1947, 1948) tính cho đến nay đã hơn nửa thế kỷ.
Trong trí nhớ của tôi chỉ còn thấp thoáng một số ấn tượng về cảnh và người của
một vùng đất một thời đã lùi xa.
Đại khái tôi nhớ ở đấy có những cái giếng nước rất nông, nước trong vắt.
Có một cái giếng gọi là giếng Thần, nước dâng cao hơn cả mặt đất, người ta
phải ken gỗ cao quanh miệng giếng cho nước khỏi tràn ra. Giếng Thần ở ngay
cạnh đường đi. Vậy mà những cô gái làng cứ tắm truồng thoải mái quanh giếng
một cách rất hồn nhiên tự nhiên. Có khi phía này giếng, đàn bà tắm, phía bên

kia, đàn ông tắm. Có cô gái từ bên này lại còn với tay sang bên kia “ xin tý xà
phòng”.
Về món ăn “ đặc sản” của địa phương, không hiểu sao tôi cứ nhớ mãi
món trám trắng. Người ta giã quả trám cả hột rồi rang mặn ( ăn tựa như món
sườn lợn băm nhỏ rang muối)- một món ăn nghèo nhưng thường có trên mâm
cơm người dân nơi đây, gọi là ăn cho “ mặn miệng”.
Về tiếng địa phương thì “bầm”, “bủ” là tiếng gọi thân tình những bà mẹ-
hai tiếng này đã đi vào thơ kháng chiến của Tố Hữu nên trở thành quen thuộc: “
Bầm ơi có rét không bầm?”, “Bà bủ nằm ổ chuối khô, Bà bủ không ngủ bà lo
bời bời...”.
Về các bạn học thì dễ nhớ nhất là những người có kèm tên riêng rất
nghịch do bạn bè đặt cho dựa theo một đặc điểm nào đấy ( dù học những lớp hay
chuyên khoa khác nhau) như Minh Khừng, Thịnh Rề, Thịnh Lợn, Xán Còi, Chí
Mọi, Nga mẹ nghệ... Một số khác do quan hệ riêng nên sau này tôi hay gặp, như
Nguyễn Đình Nghi, đạo diễn sân khấu, Lưu Công Nhân, hoạ sĩ, Phan Ngọc Đức,
bác sĩ... có người rất nhớ chỉ vì nổi tiếng hung hăng, hay gây sự đánh nhau, như
Ngô Thế Uông (gọi là Uông khùng) Răng Đông ( không hiểu sao lại có cái tên
rất lạ như thế?). Ngoài ra, gần đây, có một số bạn tôi thường được gặp nhờ
những cuộc hội họp hàng năm do Ban liên lạc trường Trung học kháng chiến
Chu Văn An tổ chức, như Đặng Lan Anh, Nguyễn Kiều Nga, Nguyễn Tài Thu,
Lê Diễm Tuyết, Đỗ Sâm, Trần Đỗ Trinh, Nguyễn Duy Khoa, Trần Thục
Phi...vv...
Về giáo viên của trường thì tôi cũng chỉ nhớ lõm bõm: dạy toán có thầy
Ngô Thúc Lanh, Nguyễn Văn Hoàn, Dương Trọng Bái, dạy văn có thầy Trần
Văn Giáp, dạy tiếng Pháp có thầy Bảng, cô Thục Viên, dạy hoá có thầy Cát...
Hiệu trưởng là thầy Trần Văn Khang, dạy sử. Thầy rất tốt bụng, thương học trò
như con đẻ ( vì thế học sinh thường gọi là Ba Khang). Hiệu phó là thầy Nguyễn
Văn Chiển, chuyên ngành địa chất. Phụ trách y tế có anh Phạm Khuê ( con
Phạm Quỳnh), lúc bấy giờ đang là sinh viên đại học y khoa. Ngoài ra có một anh
y tá tên là Phi Long, đi đâu cũng dắt theo một con chó lài...
* *
*
Tôi tìm đến trường Trung học Kháng chiến Đào Giã một cách khá phiêu
lưu: nếu không được cấp học bổng thì lấy gì mà ăn học? Mà đã chắc gì được
cấp! Gia đình tôi lúc bấy giờ đang trong tình trạng túng quẫn không thể cấp
lương ăn cho tôi được. Nhưng con người ta hồi ấy là thế, rất lạc quan tin tưởng ở
lòng tốt của mọi người: cùng đồng bào với nhau, cùng đi kháng chiến với nhau
thì phải thương yêu nhau, phải giúp đỡ nhau chứ! Mà quả thực là thế. Hồi ấy đi
công tác đường trường, trời tối, có thể vào bất cứ nhà ai bên đường cũng có thể
được mời nghỉ lại và cho mượn mọi dụng cụ để nấu ăn. Người ta đều thế cả,
huống chi hiệu trưởng Trường Trung học kháng chiến lại là “ ba” Khang, nổi
tiếng thương học trò.
22
ở trường Lương Ngọc Quyến, Thái Nguyên, tôi tình cờ làm quen được
một anh vừa học xong năm thứ nhất Trung học kháng chiến có cô em gái tên là
San học lớp dưới cùng trường với tôi. Anh tên là Bùi Mạnh Sán. Anh trở lại
Đào giã, rủ tôi cùng đi. Tôi đi luôn.
Cuộc đi của tôi vào khoảng mùa thu năm ấy (1947) từ bến Phương Độ,
huyện Phú Bình ( một huyện thuộc phía Nam tỉnh Thái Nguyên) lên Đào Giã
huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ, là cuộc đi đầu tiên của tôi từ miền trung du lên
miền thượng du Việt Bắc. Nghĩa là từ miền xuôi lên vùng núi cao. Cuộc đi
đường thật vui, đúng là “ Đường vui”, ông Nguyễn Tuân nói thế, hình như cũng
đúng vào thời điểm này. Lần đầu tiên trông thấy rừng núi, cái gì cũng lạ, cái gì
cũng đẹp. Tôi rất thích những rừng tre, rừng nứa bên đường với những thân nứa
như những cần trúc vươn lên cao rồi uốn cong rủ xuống với những chùm lá xoè
ra rất đều từ các đốt, đúng là những sáng tạo hoàn hảo của Tạo hoá; những bờ
lau phơ phất như tự cháy sáng lên dưới ánh mặt trời; những bờ hoa cúc dại vàng
tươi nở bạt ngàn bên đường; những bông chuối rừng đỏ như son nổi lên như
những nụ cười sơn cước rất tươi trên màu xanh thăm thẳm của núi rừng; những
dòng suối đầu nguồn trong vắt len lỏi qua những tảng đá, soi bóng những bông
hoa dại trăng trắng hay tim tím lả lay theo dòng nước xiết. Đến Phú Thọ thích
nhất là những đồi cọ với những tàu lá lớn xoè ra như tàn như lọng, bóng loáng,
dập dờn xôn xao trong nắng gió. Đang giữa thẳm rừng, vui nhất là bỗng bắt gặp
một bản làng cheo leo nơi sườn núi. Trời đất như sáng hẳn lên với những ngôi
nhà sàn dựng giữa những vườn mơ, vườn mận hoa trắng xoá; những cối nước
chậm rãi gieo nhịp chày đều đặn vào cái vắng lặng mênh mông của núi rừng;
những thửa ruộng bậc thang như cắt, như gọt vào sườn đồi, chân núi những
đường nét uốn lượn đều đặn nhịp nhàng... Những cô gái dân tộc áo váy chàm, cổ
đeo vòng bạc, cắm cúi làm lụng trên nương, trên rẫy, hoặc gùi măng, gùi củi từ
rừng về bản...vv...
Giữa cảnh núi rừng, nhiều khi, thấy tựa vào vách đá, ẩn dưới gốc cây, một
quán nước đơn sơ. Người bán hàng là một cô gái, tuy ăn mặc giản dị nhưng
chưa xoá hết vẻ thanh lịch thị thành. Chúng tôi bèn tưởng tượng ra những thiếu
nữ từng sống cuộc sống phong lưu nơi thành thị, do cơn binh lửa mà trôi dạt tới
nơi âm u heo hút này để sống một cuộc sống lam lũ thiếu thốn. Trong lòng thằng
học sinh liền nổi lên một mối tình trắc ẩn, một niềm cảm khái rưng rưng đầy
chất thơ lãng mạn:
Cũng có kẻ màn loan trướng huệ
Những cậy mình cung quế phòng hoa
Một phen thay đổi sơn hà
Tấm thân chiếc lá biết là về đâu!
( Nguyễn Du )
*

Đến trường Trung học kháng chiến, việc đầu tiên của tôi là đi gặp “ba”
23
Khang để xin học bổng. “ Ba” nói hết suất rồi, nghĩa là từ chối. Được Sán phổ
biến kinh nghiệm, tôi cứ kiên trì bám riết lấy ông, không chịu bỏ cuộc. Ông đi
xem xét việc xây dựng các lớp học, tôi cứ lẽo đẽo theo sau. Ông quay lại gắt:
“Anh cứ đòi cái người ta không có là nghĩa làm sao! Cụ Hồ không có con gái
mà anh cứ đòi làm rể ông Cụ có được không?”
Gắt gỏng mà lại pha giọng đùa như thế là không phải gắt thật sự rồi. Đúng
là như thế. Vì cuối cùng tôi đã được cấp học bổng.
Hồi ấy, chưa thấy có chuyện lãnh đạo chính trị, lãnh đạo tư tưởng, lãnh
đạo văn hoá văn nghệ chặt chẽ như sau này. Vì thế chúng tôi sinh hoạt, ăn nói
rất tự do, có thể gọi là “vô chính trị”. Những buổi liên hoan văn nghệ, vẫn thích
hát những bài ca lả lướt, tình tứ, vẫn ngâm thơ tình lãng mạn của Xuân Diệu:
Hãy sát đôi đầu, hãy kề đôi ngực
Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài…
Mấy năm sau, khoảng từ 1951, 1952 trở đi, học sinh chỉ cần đọc dấu diếm
một bài “ Thơ mới” lãng mạn hay một cuốn tiểu thuyết nào đó của Tự Lực Văn
Đoàn, nhà trường bắt được, là có thể bị kỷ luật, thậm chí bị đuổi học.
Ta hiểu vì sao, trước năm 1950 có thể ra đời những bài thơ như Màu tím
hoa sim của Hữu Loan, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Tây Tiến của
Quang Dũng, truyện Chùa Đàn, tập tuỳ bút Đường vui của Nguyễn Tuân…Mấy
năm sau, những tác phẩm này đều bị qui kết là “ mộng rớt”, “ngắm rớt”, “nhắm
rớt”, “ buồn rớt” hoặc chủ nghĩa “yêng hùng”, nghĩa là những biểu hiện khác
nhau của cái gọi là khuynh hướng “ lãng mạn tư sản”. Và tất nhiên những tác
phẩm ấy không được phép có chỗ đứng trong sách giáo khoa văn học được biên
soạn trước thời kỳ đổi mới (1986).
Năm 1947, giặc Pháp mở một cuộc tấn công đại qui mô lên Việt Bắc
nhưng bị đánh bại. Đó là chiến thắng vang dội đầu tiên của quân dân ta từ ngày
toàn quốc kháng chiến.
Một hôm, hình như vào đầu năm 1948, chúng tôi thấy một sĩ quan quân
đội cưỡi ngựa đến trường, có một vệ sĩ đi theo. Trông oai vệ lắm! ( Hồi ấy
những sĩ quan quân đội cấp bậc tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng, áo bốn túi,
đeo súng ngắn, là niềm mơ ước của các cô gái xinh đẹp). Chúng tôi được giới
thiệu đó là ông Đào Văn Trường ( sau này được phong tướng). Ông đến nói
chuyện với giáo viên, học sinh về chiến thắng thu đông 1947. Ông treo bản đồ
lên bảng, chỉ vào bản đồ mà thuyết giảng về các trận đánh. Nội dung khá hấp
dẫn, chúng tôi vỗ tay luôn luôn. Sau cuộc nói chuyện ít ngày, chúng tôi được
biết, ông Trường đã chiếm luôn được trái tim cô Diễm Tuyết, hoa khôi của
trường. Chúng tôi ngã ngửa người, nói đùa với nhau một cách cay đắng: “ Hôm
trước chúng mình đã hăng hái vỗ tay một cách dại dột”.
Vào khoảng cuối năm 1948, giặc Pháp nhảy dù xuống Việt Trì. Chiến sự
có thể lan rộng. Nhà trường quyết định sơ tán các lớp học vào rừng sâu. Nơi sơ
tán gọi là Núi Sất, cách Đào Giã khoảng sáu, bảy cây số gì đó. Một vùng rừng
núi rất âm u. Đêm nghe tiếng hổ gầm. Sáng dậy, thấy nhiều vết chân hổ ngay
chung quanh các lán ở của học sinh. ở đây, có một kỷ niệm tôi không bao giờ
quên là đã gặp hổ giữa rừng.
Hôm ấy, tôi từ núi Sất đi về Đào Giã để lĩnh học bổng. Nhiều phòng ban
của trường vẫn làm việc ở cơ sở cũ. Đường đi xuyên rừng phải qua chín con
suối, gọi là đường “ chín suối” – cái tên thật dễ sợ. Tôi ngờ rằng đấy chỉ là chín
khúc của một con suối chảy vòng vèo quanh đi quanh lại trong rừng. Khởi hành
từ sáng nhưng khi trở về thì trời đã ngả về chiều. Đến quãng chỉ còn cách núi
Sất khoảng ba cây số, cách hai con suối, tôi trông thấy một con hổ rất lớn đi
ngang qua đường. Đúng là một Chúa Sơn lâm oai vệ, thân màu vàng, vằn đen
sẫm. Nó đi chậm chạp, ung dung. Tôi sợ quá. Trong tay chỉ có một cái gậy ngắn
để khua khoắng phòng khi gặp rắn rết gì đó. Cây cối bên đường thì toàn lau sậy
và nứa. Không có cây lớn để leo lên. Đi tới thì sợ, đi lùi thì đường xa và rất có
thể lại gặp một chú hổ khác! Thật là tiến thoái lưỡng nan. Nhưng số tôi hình như
có quí nhân phù trợ nên đứng tần ngần một lúc bỗng thấy có một đoàn người
dân tộc thiểu số đi tới. Tôi nói với họ là vừa thấy hổ đi qua. Họ dừng lại, trao đổi
gì đó với nhau bằng tiếng dân tộc rồi quyết định quay trở lại. Hình như họ cho là
có dấu hiệu động rừng. Tất nhiên, tôi đi theo họ.
Vùng núi Sất bây giờ chắc khác hẳn rồi. Nhưng hồi ấy đúng là “ u tì
quốc”. Dân ở đây không biết thuộc sắc tộc gì, hình như là Mán Cao Lan, đời
sống rất nghèo khổ, lại bị bệnh sốt rét hoành hành, người xanh xao, gầy còm.
Những cô gái mười bẩy, mười tám tuổi mà tưởng như cô bé con chỉ có da bọc
xương. Đời sống quá cực khổ như thế, có lẽ con gái mất cả tuổi dạy thì.
ở núi Sất một thời gian thì trường giải tán. Nhiều bạn gia nhập quân đội.
Tôi vì có tật ở chân từ nhỏ, đành phải tìm đường trở về nhà.
Tôi đi cùng với hai bạn nữa, cùng về Thái Nguyên. Chúng tôi đi qua Đoan
Hùng men theo sông Lô về phía Bình Ca, đáp phà sang Sơn Dương (Châu Tự
do) rồi vượt qua đèo Khế về Thái Nguyên. Những vùng chúng tôi đi qua, dân
chúng sơ tán hết, làng xóm vắng tanh. Tất nhiên chẳng có hàng quán nào cả suốt
dọc đường. Qua Đoan Hùng thấy xác mấy cái tầu chiến Pháp bị bắn đắm còn nổi
lập lờ trên sông Lô. Tôi nhớ, lúc ấy đói quá, chúng tôi vào những vườn bưởi:
bưởi lúc lỉu trên cây, bưởi rụng đầy đất, những trái bưởi đặc sản nổi tiếng đất
Đoan Hùng, Phú Thọ bầy ê hề ra trước mắt. Chúng tôi xà vào, ăn hết quả này
đến quả khác, ăn chán rồi, mỗi thằng lại xâu mấy trái đeo vào ba lô làm lương ăn
đường. Tất nhiên là chẳng thay cơm được nên vẫn đói, đói cồn cào ruột gan.
Qua đèo Khế, thấy ở bên đường thỉnh thoảng có những vạt vườn bỏ hoang. Chắc
là nơi ở cũ của đồng bào nào đấy bỏ đi đã lâu. Chúng tôi vào đó kiếm cái ăn.
Chẳng có gì cả, chỉ có mấy cây mít, nhưng trái còn non lắm, gọi là dái mít. Mặc,
cứ vặt cho vào miệng. Nhưng ăn vào ruột càng cồn cào hơn.
Gần hai ngày đường, đi mãi đến tận chân đèo Khế thuộc địa phận Thái
Nguyên mới thấy có người, có hàng quán. Tất nhiên, chúng tôi “đánh” một bữa
ra trò và chưa bao giờ thấy ngon miệng đến thế.
*
Tôi về đến nhà giữa lúc gia đình quẫn bách. Chị Tần tuy bị thương tật ở
vai, vẫn phải xoay xoả nuôi cả gia đình. Chị Thuý dạy học, người ta trả lương
bằng thóc, nhưng hết tháng cũng chẳng có, vì nhà nước nợ lương (!). Đời sống
dân tản cư hồi này rất khó khăn. Có một gia đình người Hà Nội cũng tản cư lên
chỗ chúng tôi ( dốc Đình, Đại Từ), cũng mở một quán nước kiếm ăn lần hồi. Hai
vợ chồng còn trẻ có một ông bố già. Không hiểu tình cảnh cùng quẫn thế nào mà
ông cụ vào rừng thắt cổ chết.
Không phải ngẫu nhiên mà khoảng những năm 1949, 1950, 1951 có một
phong trào “ dinh tê” trong đám dân tản cư. Chị cả tôi cũng “dinh tê” trong dịp
này. Mẹ tôi cũng liều lần về Quảng Lãm xem có kiếm được ít thóc lúa nào
không. Nhưng chẳng ăn thua gì.
Cảnh nhà như thế, tôi là một thằng con trai đã lớn, chẳng lẽ cứ ngồi ăn
bám gia đình ngày hai bữa, dù chỉ là cơm độn ngô, độn sắn! Mẹ tôi bàn với tôi
xin đi dạy cấp một trong làng. Tôi cũng thấy xuôi xuôi. Nhưng giữa lúc ấy, có
tin ở Lục Ba ( Đại Từ ) người ta mở trường cao đẳng mỹ thuật ( khoá Tô Ngọc
Vân ). Tôi bèn tìm đến xin học. Từ lâu tôi rất thích vẽ và cũng có chút năng
khiếu. Vả lại, thành hoạ sĩ hay không, lúc ấy, chưa quan trọng. Quan trọng là
không phải ngày hai bữa ăn bám gia đình.
Từ nhà tôi đến Lục Ba không xa. Hoạ sĩ Nguyễn Khang phụ trách thường
trực. Xem chừng trường rất cần có người học nên ông hoạ sĩ thường trực thấy
tôi thì mừng lắm. Ông động viên tôi: “ ở đây ta có thể vào rừng lấy măng thêm
vào bữa ăn”. ý nói tuy thiếu thốn nhưng vẫn có cách tự cải thiện.
Nhưng tôi không trở lại nữa, vì nhiều người khuyên không nên học cái
nghề vẽ vạch ấy làm gì. Thời buổi chiền tranh này, vẽ vạch thì sống thế nào, phù
phiếm quá!
Rất may là tôi có một ông cậu em họ mẹ tôi làm phó chủ tịch tỉnh. Ông
xin cho tôi vào công tác ở một cơ quan của đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đóng ở
Thịnh Đán, thuộc vùng ngoại ô thành phố Thái Nguyên.
Hồi này đảng chưa ra công khai. Cơ quan tôi đến công tác gọi là “ Ban tài
chính tỉnh đảng bộ Thái Nguyên”. Nghĩa là phụ trách cung cấp tài chính cho
đảng như kinh phí hoạt động của các cơ quan đảng hay lương của cán bộ
đảng…vv…
Theo chỗ tôi được biết thì các nguồn thu nhập tài chính của đảng gồm:
tịch thu và phát mại hàng hoá buôn lậu từ vùng địch ra vùng kháng chiến, xây
dựng một số xí nghiệp nhỏ để kinh doanh, chẳng hạn như làm giấy, chế tạo nông
cụ… Tất nhiên là kỹ thuật hết sức thô sơ.
ở cơ quan đảng, lúc đầu tôi được giao phụ trách văn thư. Chả có việc gì,
hết sức nhàn rỗi. Đây là nơi tập trung nhiều sách báo: sách chính trị, sách triết
học Macxít, tạp chí văn nghệ, báo Nhân dân, Cứu quốc…vv… Tôi suốt ngày
ngồi đọc, rất mê cuốn Triết học sơ giản của Polizer, cuốn Chính trị kinh tế học
của Ségal, rồi sách của Staline, Jdanov, những tiểu luận phê bình của Nguyễn
Đình Thi, Hoài Thanh, tuỳ bút của Nguyễn Tuân…vv… trên tạp chí Văn
nghệ…
Thấy tôi rỗi việc, suốt ngày đọc sách, thủ trưởng cơ quan nảy ra một ý:
nhờ tôi soạn bài nói chuyện với anh chị em cán bộ công nhân của các cơ sở đảng
quanh vùng: Xuởng in, xưởng giấy, xưởng chế tạo nông cụ… Dựa vào sách báo
đọc được, tôi nói về những vấn đề văn học nghệ thuật mà tôi cho là không đến
nỗi khô khan, có thể mua vui cho anh em được. Tôi không nhớ hồi ấy đã ba hoa
những gì đối với một đối tượng văn hoá thấp như anh chị em công nhân thời
kháng chiến chống Pháp. Hình như tôi nói thiên về những thứ lý luận mới học
được thì phải. Vậy mà cũng thấy được hoan nghênh, và tôi lúc ấy cũng tỏ ra tự
đắc lắm. Té ra mình cũng có tài ăn nói đấy chứ! Bây giờ nghĩ lại mới thấy vô lý.
Người ta vỗ tay hoan nghênh chắc là để lấy lòng mình mà thôi.
ở cơ quan này, thỉnh thoảng cấp trên lại cử về một vài cán bộ lý luận huấn
luyện cho anh em về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Tôi cũng được tham gia. Tôi còn được học điều lệ đảng cùng với các đảng viên.
Nhưng khi chi bộ tuyên truyền tôi vào đảng thì tôi từ chối. Lúc ấy tôi cho rằng
vào đảng thì mất tự do. Tôi công tác ở cơ quan này chỉ là tạm bợ, học hành dở
dang, còn phải tiếp tục học nữa chứ. Vào đảng để bị trói buộc hẳn ở đây à! Thời
gian này ( trước 1950 ), vào đảng rất dễ. Các chi bộ, đảng bộ thi đua phát triển
đảng. Hồi ấy trong quan niệm của những người như tôi, đảng không cao giá,
không thiêng liêng như mấy năm sau này. Có lẽ một phần vì đảng chưa ra công
khai, người ta chưa biết vai trò độc quyền, độc tôn của tổ chức đảng, của người
đảng viên trong mọi công việc lớn nhỏ của đất nước và chưa thấy rõ vào đảng
thì được lợi những gì.
Cơ quan đóng ở nhà dân. có dựng thêm nơi làm việc và bếp ăn. Cán bộ,
nhân viên không có lương lậu gì cả. Ngoài hai bữa cơm tập thể, mỗi người chỉ
được phát một ít tiền, không nhớ là bao nhiêu, chỉ biết đủ để cắt tóc và thỉnh
thoảng ăn một tấm bánh, cái kẹo, hút vài điếu thuốc ở quán nước ngoài Thịnh
Đán. Vì thế bà chị hai của tôi ở Dốc Đình vẫn phải gửi cho quần áo mặc. Và bà
chị cả lúc ấy chưa “ dinh tê”, ngày ngày bán hàng xén ở chợ thị xã, thỉnh thoảng
lại tạt qua cơ quan, gọi ra, dúi cho một tấm bánh.
Cán bộ cơ quan phần lớn rất trẻ nên sinh hoạt rất vui. Lâu rồi, không còn
nhớ được chi tiết gì nữa. Loáng thoáng chỉ còn mường tượng vài gương mặt:
anh Tấn có vẻ trí thức, nói chuyện hay liên hệ đến một vài nhân vật trong tiểu
thuyết Pháp, anh Thái phổ biến kinh nghiệm ăn cơm sao cho tránh được sạn:
chan nhiều nước rau vào, lấy đũa khuấy cho sạn lắng cả xuống đáy rồi hãy xúc
cơm ăn. Cậu Nhân chuyên đánh máy chữ. Một anh không nhớ tên, người to lớn,
gốc miền Nam, thường mặc quần áo bà ba đen, chuyên ngồi gác một kho xà
phòng không biết tịch thu được ở đâu. Anh nói từng hoạt động thời cách mạng
tháng Tám ở Quảng Ninh. ở đấy, người ta chặt đầu người như chặt củ chuối. Cô
Phương, cậu Dật hay đùa vui với nhau. Mỗi lần Dật trêu ghẹo gì đó, cô Phương
mắng: “ chơi kiểu gì đấy?”, Dật trả lời “ Kiểu ban tài chính tỉnh đảng bộ Thái
Nguyên”. Mọi chuyện chỉ còn nhớ mang máng thế thôi. Duy có ấn tượng không
thể quên được là không khí hết sức ấm áp, thân mật giữa những người trẻ tuổi
rất hồn nhiên và lạc quan.
Trước sau thì cái chí của tôi vẫn là phải tiếp tục đi học. ở cơ quan Ban tài
chính tỉnh đảng bộ Thái Nguyên được ít lâu, được tin người ta mở trường Sư
phạm trung cấp trung ương ở Tuyên Quang, tôi liền xin phép cơ quan cho đi
học.
Cuộc đi Tuyên Quang lần này cũng không kém phần phiêu lưu. Vì thật ra
chưa rõ tiêu chuẩn tuyển sinh thế nào và ngày khai giảng cũng lơ mơ. Nhưng cứ
đi, đến đâu hay đó. Tôi không nhớ, trong hoàn cảnh nào mà lại gặp được một
anh bạn cùng đi. Anh ta tên là Quang, con một gia đình có quen biết với gia đình
tôi hồi còn ở phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Cũng chả thân thiết gì lắm.
Nhưng hồi chiến tranh là thế, quen ít cũng thành quen nhiều, sơ giao cũng thành
thâm giao. Quang cũng đang học hành dở dang và rất hăng hái học tiếp. Anh ta
là một đầu óc còn phiêu lưu và lãng mạn hơn tôi nữa kia.
Đến Tuyên Quang chúng tôi mới biết phải còn một tháng nữa trường mới
gọi học sinh nhập học. Một tháng nữa, sống thế nào đây? Rất may, Quang là một
tay tháo vát và có phần liều lĩnh. Anh ta gạ gẫm thế nào mà một gia đình ở ngay
thị xã nhận cho chúng tôi ở nhờ, nhân tiện kèm cặp một cô con gái đang học cấp
II và một cậu con trai đang học lớp một, trả công: Cơm nuôi ngày hai bữa. Tôi
còn nhớ gia đình này gọi là gia đình bà Nhuần ( có lẽ gọi theo tên cô con gái của
bà).
ở thị xã Tuyên Quang ít ngày thì mùa lụt đến. Thị xã Tuyên Quang ở ngay
bờ sông Lô, hình như năm nào cũng bị lụt. Tôi thấy người ta ào ào chạy đi nhổ
rau trồng ở bãi sông quăng lên đường phố bán chạy một cách rẻ mạt. Quang
cảnh những ngày lụt ở Tuyên Quang thật là náo nhiệt. Chúng tôi thì tha hồ được
“ cải thiện” bằng món rau luộc rẻ tiền.
Ngày nhập học đã đến. Chúng tôi lên đường tìm đến trường. Trường đặt ở
một khu lán trại của bọn hàng binh Âu Phi vừa rút, gồm mấy dẫy nhà lá, vách
đất nhồi rơm ( torchis), một hội trường lớn, một căn nhà sàn mượn của dân dành
cho nữ sinh, một sân vận động. Địa điểm trường thuộc thôn Cảm Nhân, xã Mỹ
Gia, huyện Yên Bình, tỉnh Tuyên Quang. Cách trường độ sáu bảy cây số có một
thị trấn nhỏ gọi là Chợ Ngọc kề bên bờ sông Chảy. ở đây có chợ búa và nhiều
hàng quán, đặc biệt, tôi nhớ có món phở chua. Gần hơn, cách trường chỉ độ hơn
cây số là phố Cảm Nhân, thuộc xã Mỹ Gia, cũng có vài hàng phở, quán nước.
Ngoài ra là rừng, và rải rác gần xa, có những làng bản người Tày, dân cư thưa
thớt, sống trên những ngôi nhà sàn nằm giữa những vườn mơ, vườn mận… (
Ngày nay tất cả đều bị đánh chìm xuống lòng hồ thuỷ điện Thác Bà).
Giáo viên của trường hầu hết đều từ trường Trung học kháng chiến Đào
Giã chuyển tới, nên có thể coi trường chuyên khoa Đào Giã Phú Thọ là tiền thân
của trường Sư phạm trung cấp trung ương Tuyên Quang. Tuy nhiên không thấy
có thầy Trần Văn Giáp và “ ba” Khang. Người mới thì có thầy Nguyễn Lương
Ngọc, thầy Văn Tân, Vũ Trương Dự, Lê Bá Thảo, Nguyễn Đăng Thiệp… Hiệu
trưởng là thầy Nguyễn Văn Chiển, hiệu phó là thầy Nguyễn Lương Ngọc.
Từ ngày học cấp hai trường tư thục Gia Long sơ tán về thị xã Thái Bình,
nay tôi mới được gặp lại thầy Ngọc. Thầy vẫn rất hiền. Thầy nhận tôi vào lớp 9,
vì tôi đã học năm thứ hai trường trung học chuyên khoa .( hồi ấy lớp 9 là lớp
cuối cấp của bậc phổ thông trung học.) Còn Quang thì bị loại. Nhưng anh ta cứ
nhất quyết bám lấy trường với hi vọng vu vơ là rồi sẽ xin được vào học. Anh ta
tìm đến một nhà dân ở gần trường xin làm gia sư để tá túc một thời gian, mãi
đến khi hoàn toàn hết hi vọng mới bỏ đi. Đúng là một đầu óc phiêu lưu và lãng
mạn.
Thời gian học ở trường sư phạm trung cấp trung ương, nói về sinh hoạt
vật chất, là những ngày cực khổ nhất của đời tôi. Tôi chỉ nói về sinh hoạt vật
chất thôi, vì về tinh thần vẫn rất vui. Đây là thời kỳ đùa tếu, nghịch ngợm nhất
của tôi. Thời kỳ làm báo, vẽ tranh, diễn kịch vui, phát biểu những câu ngang
ngược trong những cuộc họp ( đại khái như đề nghị cho ăn thịt trâu già để trâu
non sản xuất, hoặc ăn thịt chó theo quan điểm Mác Lênin…), thời kỳ phá nội
quy, trốn ra các hàng quán ăn quà rồi gán luôn áo mặc trên người hay bút máy...
Hồi ấy những vật phẩm công nghệ dưới xuôi rất được đồng bào miền núi ưa
thích, như bút máy, bật lửa…vv… Tôi có người anh đi bộ đội gửi cho một cái áo
chiến lợi phẩm của lính Marốc ( gọi là lính tabor ) rộng thùng thình. Lâu ngày
không được ăn uống tử tế, tôi bèn rủ một thằng bạn ra quán đánh một bữa no say
rồi cởi áo gán luôn.
Vui thì có vui, nhưng khổ thì thật khổ. Quần áo có vài bộ, mặc mãi cũng
rách, bèn lấy chỉ buộc túm, hoặc lấy hồ dán những chỗ thủng. Mùa rét, chỉ có
một chiếc áo trấn thủ bằng vải nâu và một tấm chăn chiên mỏng. Giường thì lấy
lá chuối khô làm nệm, đốt củi lấy than cời bên dưới. Giầy dép không có, guốc
cũng không, phải lấy gỗ củi đẽo làm guốc. Có anh mùa rét không có áo ấm, cứ
ngang nhiên khoác chăn ngồi trong lớp học. ăn uống thì thường là cơm độn sắn
lại ăn với canh sắn… Hàng tuần được một bữa ăn tươi, mỗi người được phát
một tảng thịt trâu luộc, ai muốn đẽo, muốn thái thế nào, tuỳ. Để cải thiện thêm,
người thì đi đào măng trong rừng, người thì kiếm rau tàu bay về nấu với muối
trong ống bơ hay ca nhôm. Thèm ăn quá mà không có tiền, chúng tôi thường
đem suất dầu ( dầu chẩu thắp đèn) nhà trường phát ra phố bán lấy tiền đổi lấy
tấm bánh, bát phở hay nắm xôi của bủ So ( một bà mẹ người dân tộc thường
đem đến bán cho học sinh những gói xôi sắn.) Có người mò ra nhà đồng bào dân
tộc gạ gẫm bữa cơm, bữa xôi. Tình cảnh hết sức nhếch nhác, bệ rạc.
Cố nhiên không phải ai cũng vậy. Có những học sinh nhận được tiếp tế
của gia đình từ vùng xuôi, vùng tề gửi ra. Thường là nữ sinh. Họ vẫn ăn mặc
sạch sẽ, giày dép đàng hoàng và vẫn có đồng ra đồng vào. Các cô còn có cả
vàng nữa kia. Do xẩy ra một vụ mất cắp trên đường di chuyển của trường mà
mọi người biết được. Hồi ấy loại người như chúng tôi không bao giờ dám mơ
ước đến họ và nghĩ bụng, chắc họ coi mình như rác. Những cô gái xinh đẹp, lại
phong lưu thường rất kiêu ngạo...
Sinh hoạt như thế lại ở nơi rừng núi, nên chúng tôi hầu hết không tránh
khỏi sốt rét. Những cơn sốt rung cả giường chiếu mà chẳng có ai săn sóc, chẳng
có gì bồi dưỡng. Thường chỉ tự cải thiện bằng bát canh rau rừng nấu với muối
cho đỡ háo. Thuốc men thì sốt nhẹ được uống mấy viên quinacrine màu vàng,
sốt nặng thì được tiêm nửa ống quinoforme. Thày Nguyễn Lương Ngọc thường
đích thân xuống tiêm cho chúng tôi. Tiêm tĩnh mạch gọi là tiêm ven (veine).
Thuốc không sẵn nên một ống thuốc phải chia làm đôi tiêm cho hai người.
Nhiều khi mạch chìm quá, thày chọc kim vào rồi mà mò mãi không thấy ven.
Những lúc ấy chắc thày thương chúng tôi lắm, và chúng tôi cũng rất thương
thày.
Thầy Ngọc thật hiền. Nội qui của trường cấm không cho học sinh ra khỏi
khu vực trường mà không xin phép. Danh giới khu vực trường là một con suối,
vượt qua con suối ấy là ra phố Cảm Nhân. Có lần tôi và vài thằng bạn lần ra
chơi ở Cảm Nhân, ăn quà xong, sẵn giường chiếu ở quán hàng, bèn làm một
giấc. Khi tỉnh dậy thấy thầy Ngọc ngồi ngay bên cạnh. Chà! Mấy thằng vừa sợ
vừa xấu hổ. Nhưng thầy Ngọc không hề mắng mỏ gì, chỉ khuyên bảo nhẹ nhàng
mấy câu rồi lẳng lặng quay về trường.
Thầy Ngọc tính điềm đạm, ít nói, vẻ trầm lặng. Bây giờ tôi không còn nhớ
rõ thày đã dạy chúng tôi những gì trong giờ văn. Hình như thày có nói về Bài ca
vỡ đất của Hoàng Trung Thông thì phải. Hồi ấy những bài như Tây tiến của
Quang Dũng, Màu tím hoa sim của Hữu Loan đã bị phê phán là “ mộng rớt”, “
buồn rớt”, Đường vui của Nguyễn Tuân thì bị quy là vẫn thể hiện cái máu giang
hồ xê dịch, chưa thoát khỏi chủ nghĩa duy mỹ và thói “ ngắm rớt”, “ nhắm rớt”.
Còn thơ chính trị, thơ viết về công nông binh cuả Hoàng Trung Thông, Chính
Hữu, Tố Hữu...vv, chắc thầy chưa thưởng thức được. Trong tâm hồn của thầy,
tôi đồ rằng vẫn sinh sống những áng văn chương cũ. Tôi đoán thế, vì năm ấy, ở
lại trường ăn Tết âm lịch với chúng tôi, thầy tập hợp chúng tôi lại, kể cho nghe
về tác phẩm Đi tìm thời gian đã mất ( à la recherche du temps perdu ) của
Marcel Proust. Và có lúc tôi nghe thầy ngâm khe khẽ những vần thơ rất buồn
của Vũ Hoàng Chương:
Gió lùa gian gác xép
Đời tàn trong ngõ hẹp...
(...) ôi lòng ta sao buồn không nguôi?
Niềm u uất dâng cao hề tháng ngày trôi xuôi...
ở Sư phạm trung cấp trung ương hồi ấy, chúng tôi còn được gặp ông Hoài
Thanh. Hình như ông công tác ở một cơ quan nào đó thuộc bộ văn hoá thì phải.
Cơ quan này cũng đóng ở thôn Cảm Nhân, Mỹ Gia. Vì tôi thấy loáng thoáng ở
đấy có các ông Phan Khôi, Thế Lữ, và một số trí thức khác. Thế Lữ có lần tập
cho học sinh sư phạm diễn vở kịch Đề Thám xuất quân và vở “ Bõ già” của ông.
Hoài Thanh ở một ngôi nhà tranh gần khu trường Sư phạm quay lưng ra một con
suối nhỏ. Lúc ấy, các anh Nguyễn Đức Dũng ( Từ Sơn), Nguyễn Đức Hân (
Phan Hồng Giang) còn nhỏ, tôi thấy các cậu thường đùa nghịch bên bờ suối
hoặc leo trèo cây cối quanh nhà. Có lần ông Hoài Thanh đến trường nói chuyện
với chúng tôi về thơ ca kháng chiến, có bà Phan Thị Nga là vợ ngồi bên. Ông
nói nhỏ nhẹ nhưng say sưa. Bà Nga ngồi cạnh, thỉnh thoảng lại giục chúng tôi: “
Ghi đi chứ!”, “Ghi đi chứ!”
Học sinh chúng tôi thỉnh thoảng tổ chức liên hoan văn nghệ, chủ yếu là ca
hát, hoặc làm trong hội trường, hoặc đốt lửa trại diễn ngoài sân vận động.Tôi
nhớ có đóng góp một vở kịch rất tếu, tất nhiên là kịch cương. Kịch tuyên truyền
bình dân học vụ. Hồi ấy, để động viên đồng bào đi học chữ quốc ngữ, ngày
phiên người ta thường ngăn người lại ở cổng chợ. Ai đọc được chữ thì cho vào
cổng chính, ai không đọc được thì phải chui qua một cái lỗ nhỏ và thấp gọi là
“cổng mù”. Ca dao kháng chiến thì có những câu rất vui, đại thể như:
Em về anh chẳng cho về
Anh níu vạt áo anh đề câu thơ
Vì anh mới học i tờ...
Tôi bèn nghĩ ra một vở kịch cũng để phục vụ bình dân học vụ và đã huy
động được cả lớp diễn tập thể trong một đêm liên hoan ngoài trời. ấy là vở Sơn
Tinh, Thuỷ Tinh. Vua Hùng có một con gái mà có hai thần đến xin làm rể. Cả
hai đều tài giỏi, biết chọn ai? Vua Hùng bèn cho hai thần đấu võ với nhau. Lớp
chia làm hai phe, mỗi phe làm quân của một thần. Hai thần dùng đến cả những
ngón chẳng “ anh hùng” tí nào, như cắn nhau, cù nách nhau. (tếu thế cho vui)
Nhưng rút cục vẫn bất phân thắng bại.
Vua đành cho hai thần tạm nghỉ. Ngài mời hai thần ngồi ghế, uống nước,
đọc báo. Sơn Tinh đọc báo làu làu, còn Thuỷ Tinh thì cầm báo ngược, té ra là
mù chữ.
Vua Hùng quyết định gả Mị Nương cho Sơn Tinh và khuyên Thuỷ Tinh
trở về cố học bình dân học vụ để thoát nạn mù chữ.
Trong trường Sư phạm trung cấp, lớp 9 chúng tôi được coi là lớp đàn anh,
vẻn vẹn chỉ có khoảng mười lăm người. Mấy năm gần đây, những bạn cùng lớp
ở quanh Hà Nội thường tổ chức họp mặt luôn: nữ có Diệu Vân, Phạm Thị Tỉnh,
Ngọc Dung, Phượng, Hồng ( phần lớn đã goá chồng ), nam có Lê Năng An, Mai
Bình, Thuần, Tiệp, Lê Mạnh Giao và tôi. Tất cả đều đã trên 70 tuổi. Có người
lưng còng gập hẳn xuống, trông rất tội. Những bạn ở xa không có dịp gặp lại
nhưng vẫn nhớ: Phú, người nhỏ nhắn, Nhạ, trông như một anh lính nông dân,
thường đeo ở thắt lưng chiếc bát ăn cơm bằng gáo dừa; Huy Giao rất giỏi nhạc,
em nhạc sĩ Huy Du; Nguyễn Bản một anh chàng có vẻ thích sống khép kín. Bản
sau này viết văn: có tài, chịu học, có cá tính, lời văn tinh tế, mượt mà. Truyện
ngắn của anh thiên về cảm hứng lãng mạn, thường gợi lại kỷ niệm về những mối
tình thơ mộng thời học sinh, sinh viên. Vừa rồi anh cho in tập truyện ngắn Nợ
trần gian. Nhà xuất bản nhờ tôi viết lời tựa; Thuỷ Hà, nam mà như nữ, từ tính
cách, giọng nói đến cả tên gọi đều rất nữ tính. Kết thúc năm lớp 9 ở chợ Ngọc,
Hà “ dinh tê” vào Hà Nội rồi vào Nam. Anh sang Pháp học cử nhân toán rồi trở
về Sài gòn dạy học. Sau 1975 anh ở lại Sài gòn, một thời gian có hoạt động kinh
doanh gì đó. Năm ngoái, anh có ra Hà Nội tìm gặp một số bạn cũ, tình cảm
quyến luyến lắm. Già rồi, nhưng tính cách vẫn thế: ăn nói nhỏ nhẹ, bẽn lẽn như
con gái. Tôi nhớ ngày xưa, các bạn thường gọi đùa là “Chị Hà”. Thịnh ( nữ) lớn
tuổi nhất lớp, vợ ông Văn Tân, nhà sử học. Thịnh ( nam) trắng trẻo, hiền lành,
quá thật thà, hầu như không biết đùa. Không hiểu sao hồi ấy chúng tôi lại gọi là
“ Thịnh nhà giàu”. Tô Thanh Thúc và Tô Thanh Tùng là hai anh em ruột cùng
học một lớp. Thúc tính hiền lành nhưng hơi lẩm cẩm. Anh tự phong là thầy lang
và rất nhiệt tình “ bốc” cho chúng tôi những thang thuốc bằng toàn những thứ
hoa quả, lá lẩu có thể hái lượm được ở quanh trường, như chanh, ớt, mơ, mận,
rau thơm...vv... Anh nói mỗi thứ có chứa một lượng vitamin khác nhau. Tuỳ
theo thể trạng của mỗi người, anh “bốc” cho những “vị”khác nhau, nghĩa là “
hành nghề” nghiêm chỉnh hệt như một thầy lang chính hiệu vậy. Đúng là một
tay có máu gàn. Tùng thì khác, lanh lẹn, thông minh, làm gì cũng hăng hái, sôi
nổi... Tùng rất tài hoa, chơi guitare khá lắm. Tôi thường gạ Tùng đánh cho nghe
bài “ Phiên chợ Ba Tư”...
Đầu năm 1950, trường sư phạm trung cấp trung ương được lệnh chuyển
sang khu học xá Việt nam ở Nam Ninh ( Quảng Tây, Trung Quốc).
Trường di chuyển qua nhiều trạm. Trạm thứ nhất ở một vùng nông thôn
cũng thuộc huyện Yên Bình, gần phía thị xã Yên Bái. Chúng tôi ở đây một thời
gian khá lâu rồi mới chuyển đi Lạng Sơn. Chúng tôi dừng lại ít lâu ở một địa
điểm thuộc huyện Bắc Sơn, kề bên một hang đá lớn, phòng khi có máy bay địch
thì chạy vào ẩn. Đây là trạm dừng chân cuối cùng của chúng tôi trước khi vượt
biên giới. Từ đây, chúng tôi được phiên chế theo tổ chức quân đội, chuẩn bị một
cuộc hành quân sang Trung Quốc. Tôi được phong làm đại đội phó. Sáng sáng
cũng đứng nghiêm báo cáo quân số. Tiểu đội báo cáo trung đội. Trung đội báo
cáo đại đội. Một trung đội trưởng là Đoàn Trọng Huy, hàng ngày phải đứng
nghiêm, chào theo lối quân sự và báo cáo tôi. Chỉnh đốn xong hàng ngũ, tôi phát
biểu một số nhận xét trước “hàng quân”, như một chính trị viên. Thường nhận
xét lăng nhăng về tình hình tư tưởng của đại đội được phản ánh qua báo tường.
Tôi nhớ trong đại đội có Tô Linh, con ông Tô Dĩ ( Lê Giản) vẽ giỏi, được giao
minh hoạ bích báo.
Nghỉ lại một thời gian ở Bắc Sơn, chúng tôi lên đường đi Trung Quốc.
Chúng tôi hành quân bộ tới Đồng Đăng, từ Đồng Đăng qua Mục Nam quan sang
thị trấn ải Khẩu, từ ải Khẩu đến Bằng Tường. Từ Bằng Tường thì được đi ô tô
tới Nam Ninh.
Cuộc hành quân bộ của chúng tôi phải nói là rất nhếch nhác. Có người đi
đất, guốc dép không có. Sợ máy bay nên đi đêm. Mỗi người xách một cái đèn
dầu, đặt trong một ống bương có khoét mấy cái khe cho ánh sáng lọt ra một cách
hạn chế.
Từ Bằng Tường tới Nam Ninh, xe ô tô phải đi mất hai ngày. Ngày thứ
nhất dừng lại nghỉ ở một địa điểm gọi là Minh Ninh. ở đây chúng tôi được chiêu
đãi một bữa tiểu táo hay đặc táo gì đó. Đã lâu không được một bữa như thế,
nhiều anh không tiêu hóa được, đứng sắp hàng nối đuôi nhau trước nhà vệ sinh (
vẫn có giải phóng quân đứng gác để bảo vệ).
Khu học xá Nam Ninh đóng tại một vùng nông thôn gọi là Tâm Khư
thuộc tỉnh Quảng Tây, cách thành phố Nam Ninh mấy cây số.
Đây chỉ là địa điểm tạm thời. Ngoài một số nhà gạch, chắc mượn của địa
phương dùng làm hiệu bộ và nhà ở cho giáo viên và nữ sinh, còn thì là những
nhà lợp lá, cột kèo bằng cây que còn để nguyên cả vỏ buộc vào nhau bằng
những nút lạt, dùng làm lớp học và nơi ở của học sinh nam.
Việc ăn uống thì có cấp dưỡng người Trung Quốc lo. Đến bữa, họ gánh
cơm canh đến, ăn xong lại dọn đi. Buổi sáng thì ăn bánh bao.
Quần áo, trang phục thì mỗi người được phát một bộ quần áo bông, một
mũ bông có lưỡi trai, một đôi giày vải, một chăn bông, tất cả đều màu xanh công
nhân. Anh nào chị nấy xúng xa xúng xính, lấy làm sung sướng lắm. Đang trong
thời chiến tranh, hoàn cảnh vô cùng cực khổ, thiếu thốn, bỗng được sống trong
hoà bình, được phục vụ như thế, được cấp phát như thế, thì đúng là một sự hậu
đãi quá sức tưởng tượng. Ai nấy đều xúc động biết ơn Bác Mao vô cùng.
Tâm Khư cũng có một thị trấn nhỏ gồm nhiều cửa hàng tạp hoá, hàng ăn.
ở Tâm Khư, một lần nữa tôi lại thấy một bằng chứng về sự ở bẩn của
người Tầu. Nhà ở của dân thường là nhà gạch, nhưng rất thấp và tối tăm. Lợn
nuôi ở trong nhà dường như ở chung với người, vì thấy các chú lợn cứ đi ra đi
vào rất tự do thoải mái. Lợn thả rông, phóng uế bừa bãi ra sân, ra đường, ra bờ
ao. Người cũng bắc cầu phóng uế xuống ao. Nhưng nước ăn, nước uống đều lấy
ở đấy cả. Tất nhiên tắm rửa cũng ở đấy.
Tâm Khư chỉ cách thành phố Nam Ninh độ mươi cây số, vậy mà sao
người dân quá lạc hậu. Họ gầy guộc đen đủi, thường mặc quần áo đen. Ra ngoài
mỗi người thường trang bị một cái cặp bằng tre để gắp phân. Buổi tối thỉnh
thoảng nghe thấy họ hát. Tiếng hát tựa như tiếng hú, nghe vừa thê thảm vừa
hoang dã. ở đây người chết người ta cho vào quan tài đặt nổi trên mặt đất. Ngày
giỗ, ngày kỵ thì bày cỗ ăn uống ngay chung quanh quan tài...
Tôi ở Tâm Khư vào đúng dịp cải cách ruộng đất. Địa chủ, phú nông,
những phần tử bị quy là phản động, tất cả đều phải mặc quần đỏ và bị cưỡng bức
lao động cải tạo. Những người chắc là tội nặng thì bị trói díu vào nhau phơi
ngoài trời suốt ngày suốt đêm.
ở khu học xá vào những ngày lễ Tết hay kỷ niệm cách mạng, chúng tôi
thường được một bữa ăn tươi, thịt cá ê hề. Thỉnh thoảng lại được ra thành phố
Nam Ninh xem chiếu bóng. Chúng tôi sắp hàng đi bộ, có giải phóng quân đi
kèm. Thường là phim đề tài cách mạng của Trung Quốc, Liên Xô, như “Cờ
hồng trên núi Thuý”, “ Công phá Bá Linh”...
ở khu học xá Nam Ninh, người lãnh đạo cao nhất là Võ Thuần Nho (em
Võ Nguyên Giáp). Thời ấy con người ta dễ phát sinh tâm lý sùng bái cá nhân,
một thứ tâm lý bầy đàn rất thích có một thủ lĩnh để tôn thờ. Vì thế Võ Thuần
Nho một thời được tôn vinh như một lãnh tụ, một cụ Hồ của khu học xá. Thời ấy
một người cũng gây được ấn tượng đậm nét là anh Việt Phương. Thông minh,
hoạt bát, nói rất giỏi. Anh thường nói chuyện về lý tưởng thanh niên và được
hoan nghênh đặc biệt. Không phải ngẫu nhiên mà có nhiều nữ sinh mê anh. Có
cô đã chủ động tỏ tình với anh. Trong số người mê Việt Phương có cả một cán
bộ nữ người Trung Quốc.
Hồi ấy ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam, chuyện quan hệ luyến ái nam
nữ, quan hệ tình dục ngoài hôn nhân trong cán bộ, học sinh bị coi là trọng tội,
nên ở Tâm Khư, riêng nữ sinh được ở trong một ngôi nhà gạch kiên cố, hai bên
cửa ra vào có hai giải phóng quân đứng gác nghiêm chỉnh.
Nhưng chuyện ấy vẫn xẩy ra. Đời sống đầy đủ, con người béo tốt hồng
hào hơn, thì nhu cầu “ấy” càng cao hơn, có khi càng cấm càng gây bức xúc. Cho
nên có bà vợ giáo sư nọ, ở tuổi hồi xuân, thông dâm với một anh y tá, có cô gái
xinh đẹp nọ mắc bệnh tâm thần nặng, thế mà khi bị một thằng cha liều lĩnh hãm
hiếp đã khỏi hẳn bệnh ( cả hai đều bị đuổi về nước)...vv...
ở khu học xá, tôi và một số bạn học cùng lớp được đề bạt lên làm giáo
viên ( gọi là giáo sinh ) dạy sư phạm sơ cấp. Vì học hết lớp 9 thì coi như đã học
xong trung học phổ thông hay sư phạm trung cấp rồi. Học sinh nói chung lớn
hơn thầy vì phần nhiều là cán bộ đi học. Chả có sách giáo khoa gì cả. Bài văn
giảng lấy luôn trên báo chí một cách rất tuỳ tiện. Bài giảng được soạn tập thể.
Cùng nhóm soạn bài với tôi có Đức Minh làm nhóm trưởng ( sau này làm viện
trưởng viện khoa học giáo dục), có Lê Năng An, Phạm Thị Tỉnh, Diệu Vân và
bà Phan Thị Nga là vợ ông Hoài Thanh...
Vào tháng 6 năm 1952, trên lệnh cho khu học xá Nam Ninh phải tổ chức
một đoàn học sinh sư phạm về nước dạy học, gọi là khoá đặc biệt. ( bao gồm cả
giáo sinh dạy cấp một, cấp hai). Tôi được tuyển vào đoàn này. Cùng đoàn, tôi
chỉ còn nhớ có Đỗ Bình Trị, Phạm Luận, Dương Đức Tuấn, Nhạ, Tô Thanh
Tùng, Nguyễn Văn Lô, một cô dạy cấp một tên là Bồng ( Đỗ Bình Trị yêu cô
này, thường ký tên Đỗ Bồng Trị ).
Trước khi về nước, chúng tôi được ban giám đốc khu học xá cho đi thăm
một khu học xá Việt Nam khác ở Quế Lâm, học sinh phần nhiều là thiếu sinh
quân. ở đây chúng tôi được các cán bộ, nhân viên Trung Quốc đón tiếp rất nồng
nhiệt và được chiều chuộng hết nhẽ từ việc ăn uống đến giải trí. Ngủ, có người
đến dắt màn cho cẩn thận... Người Tầu quả có truyền thống biệt đãi khi họ thấy
cần. Nhưng khi không cần nữa, đá luôn.
ở khu học xá Nam Ninh tuy đời sống rất đầy đủ, vậy mà chúng tôi rất vui
khi được về nước. Đường về rất gian khổ nhưng đầy hào hứng. Đích tập trung
của chúng tôi là Sở giáo dục Liên Khu Việt Bắc đóng tại xã Dân Chủ cách thị xã
Thái Nguyên độ vài chục cây số về phía Bắc.
Từ biên giới về Thái Nguyên tất nhiên là đi bộ. Những ngày mưa, đường
lầy lội, đi rất khổ. Dọc đường, tiện đâu nghỉ đấy, tạt vào nhà dân nhờ nấu cơm
ăn và ngủ lại. Nhưng tôi nhớ mọi người đều rất hăm hở, rất tin tưởng và đầy tự
hào, y như được đào tạo ở tận khu học xá Trung Quốc là oai lắm, vững vàng lắm
cả về chuyên môn và tư tưởng. Và được về nước sớm để phục vụ là vinh dự lắm.
ở sở giáo dục Liên Khu Việt Bắc, chúng tôi được phân công đi công tác
các nơi bằng lối rút thăm. Rút được nơi nào thì đi nơi ấy- gọi là “ tam bất kỳ”.
Rút xong, có thể đổi chỗ cho nhau cũng được, miễn là cùng tự nguyện.
Riêng ba người: tôi, Tô Thanh Tùng ( dạy toán), Nguyễn Văn Lô ( dạy
cấp một) thì được giữ lại công tác tại sở.

Chương III: Quá trình công tác
1. Những ngày làm việc ở Sở giáo dục Liên Khu Việt Bắc.
Cơ quan của Sở giáo dục Liên Khu Việt Bắc gồm hai ngôi nhà lá dựng
kín đáo dưới những vòm cây, kề bên một cái hang đá, gọi là Hang Giơi, thuộc
xã Dân Chủ, huyện Đồng Bẩm, tỉnh Thái Nguyên. Cán bộ cơ quan phần lớn
thuộc thế hệ cha anh, chú bác của chúng tôi. Tôi còn nhớ lõm bõm: Phó giám
đốc phụ trách phổ thông là anh Thích, phó giám đốc phụ trách bình dân học vụ
và bổ túc văn hoá là anh Đinh Khắc Nhĩ và anh Phan Văn Kim. Cán bộ già có
bác Hạo, bác Nhiệm, bác Nham, trẻ hơn có anh Sính, chị Diệu, anh Nguyễn
Trọng Cổn, anh Lã Hữu Quỳnh... Tôi không thấy có giám đốc. Sau này về thay
anh Thích là anh Nguyễn Hữu Dụng, và một thời gian sau thấy trên điều về một
ông tên là Phùng, người dân tộc Tày làm giám đốc. Nhưng thực chất điều hành
mọi việc vẫn là anh Dụng. Tất cả đều gọi nhau bằng anh tuốt – cách xưng hô
trong cán bộ thời kháng chiến chống Pháp đều như thế (học trò cũng xưng hô
như thế với các thầy giáo).
Ba chúng tôi thuộc lớp trẻ hơn cả và xem chừng cũng được ưu ái hơn cả
như là những của quý hiếm hồi ấy. Lô đề nghị thành lập một chi đoàn thanh niên
cứu quốc, tuy chỉ có ba người. Tôi được bầu là phó bí thư. Chúng tôi đều chưa
vợ. Buổi chiều tan giờ làm việc hay vào ngày chủ nhật, các cán bộ khác đạp xe
về nhà, bọn tôi chả biết đi đâu, rủ nhau lang thang ngoài đường cái chơi. Trong
một xóm gần đấy có ngôi nhà của một ông giáo tên là Thìn dạy tiểu học, thấp
thoáng thấy có cô con gái chắc là con của ông giáo có dáng một nữ sinh. Cô học
ở đâu đó, ngày chủ nhật mới về nhà. Chúng tôi lảng vảng quanh vùng, rồi kiếm
cớ đến thăm ông giáo để xem mặt. Cô tên là Bảo Ngọc, học cấp hai trường Hàn
Thuyên, Bắc Ninh, sơ tán lên Thái Nguyên. Xem mặt vớ vẩn thế thôi chứ cũng
chẳng có mục đích nghiêm chỉnh gì. Vài chục năm sau, tình cờ tôi gặp lại cô gái
ấy trong một chuyến đi chơi Chùa Hương do trường Đại học sư phạm Hà Nội tổ
chức. Hoá ra Bảo Ngọc về sau học Đại học sư phạm Hà Nội và được giữ lại làm
cán bộ giảng dạy khoa tâm lý. Bảo Ngọc đã mất cách đây vài chục năm do bệnh
ung thư.
ở Sở giáo dục Việt Bắc, tôi thích trò chuyện nhất với anh Lã Hữu Quỳnh.
Anh có bằng tú tài bản xứ. Tiếng Pháp giỏi. Anh lại là một nhạc sĩ, một cây
violon. Anh có vẻ thích triết học. Tôi kém anh nhiều tuổi, được anh coi là bạn
vong niên. Có lần anh định làm mối cho tôi một cô cháu gái của anh, nhưng việc
không thành. Một hôm tôi đưa ra nhận xét: “Những cái vòi của các cây bí, cây
bầu cứ vừa bò vừa dò dẫm để bắt lấy, quấn lấy những thanh tre bắc trên giàn,
dường như cũng là một thứ sinh vật có cảm giác, có linh hồn vậy”. Anh Quỳnh
nói: “ anh có khuynh hướng về triết học đấy”.
Anh Quỳnh tỏ ý phục chúng tôi, chỉ vì chúng tôi thuộc thế hệ trẻ, thế hệ
của tương lai. Anh cho tôi mượn nhiều cuốn sách rất quý, thường là sách tiếng
35
Pháp, như Faust của Goethe hay cuốn Nguồn gốc gia đình, tư hữu tài sản và nhà
nước (tiếng Pháp) của Engels. Tôi rất mê cuốn sách này, suốt ngày đọc và ghi
chép. Tư tưởng sâu sắc mà văn cũng rất hay.
Hồi ấy nhiều thư viện ở các thành phố dưới xuôi sơ tán lên Việt Bắc. Họ
chẳng biết chứa vào đâu, bèn tập trung ở cơ quan Sở giáo dục. Dù sao đây cũng
là cơ quan văn hoá, có nhiều trí thức. Họ làm những cái giàn để chứa sách hết
sức sơ sài. Giàn đan bằng tre nứa, tựa bên hang đá. Sách mà để như thế tất nhiên
rất dễ hư nát. Vì thế thỉnh thoảng người ta lại soạn ra những cuốn bị mối mọt
đem đốt. Công việc của tôi hồi ấy rất nhàn rỗi. ấy là thời của bình dân học vụ,
của việc xoá nạn mù chữ và bổ túc văn hóa cho nhân dân, cán bộ. Tôi phụ trách
giáo dục phổ thông nên ít việc. Đã thế lại chưa có vợ con, cha mẹ thì ở xa, hết
giờ làm việc và ngày chủ nhật, thiên hạ tranh thủ về với gia đình cả, tôi và mấy
đứa cùng cảnh ngộ biết làm gì cho hết thì giờ! Thế là lôi sách chất trong những
cái giàn kia ra đọc. Không hiểu sao tôi rất mê cuốn tiểu thuyết Đỏ và đen của
Stendhal, đặc biệt là mê tính cách của nhân vật Julien Sorel. Anh chàng này xuất
thân bình dân nhưng rất thông minh, giàu nghị lực và luôn luôn nuôi chí lớn.
Anh ta muốn nhiều thứ lắm: muốn là con chim đại bàng bay lượn hiên ngang
trên chót đỉnh bầu trời, muốn là một Napoléon thứ hai, muốn là một giám mục
đầy uy quyền, muốn tấn công và chiến thắng giới quý tộc, chinh phục được
những phụ nữ của tầng lớp cao sang nhất: chỉ là một cậu gia sư quèn mà quyết
tự hẹn với mình đúng giờ ấy, phút ấy, phải nắm lấy tay bà thị trưởng De Rênal
để tỏ tình với bà ta, thậm chí dám bắc thang leo lên lầu riêng của một cô gái đại
quý tộc kiêu kỳ, đài các nhất Paris...
ở Sở giáo dục Việt Bắc, tôi được dự một cuộc đấu tố địa chủ đầu tiên ở
Việt Nam. Đây là cuộc thí điểm để rút kinh nghiệm nên chưa đưa ra công khai.
Tổ chức ban đêm. Vì cơ quan chúng tôi đóng ngay tại xã địa phương nên được
tới dự. Người ta cẩn thận bắt nộp danh sách và điểm danh từng người mới cho
vào dự đấu. Tôi nhớ địa chủ tên là Kim, hình như từng là lý trưởng. ông ta già,
để râu dài. Dân quân giải ông ra trường đấu, bắt bò bốn chân như chó, sau đó bắt
quỳ lên một cái bục gỗ .Những bần cố nông được bồi dưỡng từ trước lần lượt ra
đấu. Cách đấu đều theo một công thức chung: trước hết nắm râu địa chủ bắt
ngẩng mặt lên và hỏi: “ Mày có biết tao là ai không?”. Địa chủ trả lời lí nhí điều
gì đó. Người đấu kể tội địa chủ và kết thúc bằng một cú đạp khiến địa chủ ngã
ngửa ra đất. Dân quân lập tức bắt địa chủ quỳ lại như cũ và một cốt cán khác ra
đấu tiếp. Tôi không biết địa chủ Kim (mà đã chắc gì là địa chủ thật) có thể sống
được bao lâu nữa sau cuộc đấu và đạp như thế.
Nhiều trường hợp, qua lời tố khổ, thấy tội của địa chủ chẳng đáng gì.
Chẳng hạn có một bà vốn làm nghề lái đò ngang lên đấu: “ Hôm ấy mày gọi đò,
tao chậm đến, mày chửi mắng tao!”. Thế mà cũng đạp một cái cho địa chủ ngã
ngửa ra đằng sau.
Tôi để ý có vài cán bộ đi lại ở vòng ngoài đấu trường chắc là những người
trực tiếp chỉ đạo cuộc đấu tranh. Tôi nhớ hình như có ông Hoàng Quốc Việt và
bà Hoàng Thị ái thì phải.
36
Cuộc đấu Nguyễn Thị Năm sau này là cuộc đấu công khai đầu tiên. Hôm
ấy tôi cũng được dự. Hàng nghìn người tập trung trong một khu rừng để dự đấu.
Đấu cả ngày nên mọi người phải đem theo cơm nắm để ăn trưa. Lần này địa chủ
không phải bò bốn chân và không phải quỳ nữa, nhưng người ta đào một cái hố,
bắt địa chủ đứng xuống đấy cho thấp hơn nông dân khi đấu tố.
Nguyễn Thị Năm là một điền chủ lớn ở Đồng Bẩm Thái Nguyên. Đồn
điền của bà ta từng là nơi đóng cơ quan Nhà nước và bộ đội ta. Tất nhiên bà ta
đã giúp đỡ nhiều cho cách mạng. Hai con bà là sĩ quan quân đội. Vậy mà bà đã
bị lôi ra đấu và bị xử bắn luôn.
Năm 1952-1953 có thể gọi là mùa chỉnh huấn để chuẩn bị cho cuộc phát
động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất. Tôi cũng được dự một cuộc
chỉnh huấn tổ chức tại một khu rừng ở huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Hội
trường căng một khẩu hiệu lớn “ Học tập chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Mao
Trạch Đông, tác phong Hồ Chí Minh”. Chúng tôi được nghe giảng về lý luận
giai cấp, được nghe một số báo cáo điển hình của bần cố nông tố cáo tội ác của
đế quốc, phong kiến. Học xong phải viết thu hoạch và kiểm thảo. Căng thẳng
nhất là thời gian viết kiểm thảo. Để động viên mọi người tự phê bình thành
khẩn, người ta giăng khẩu hiệu khắp nơi: hội trường, phòng ngủ, phòng ăn,
giếng nước... đâu đâu cũng hô hào kiểm thảo thật thà, thành khẩn, nghiêm khắc.
Bản kiểm thảo phải đọc trước nhóm để nghe tập thể bổ sung và phân tích phê
phán. Thôi thì ai nấy đều phải tự bới móc khuyết điểm cho nhiều, chuyện nhỏ
cũng xé ra to để qui kết là có tác hại đến nhân dân, Tổ quốc. Nhóm chỉnh huấn
của chúng tôi gồm: Lã Hữu Quỳnh, nhóm trưởng, nhóm viên có Đặng Thị Hạnh,
Nguyễn Đăng Mạnh và mấy bạn nữa cũng là giáo viên, lâu ngày không nhớ tên.
Chúng tôi học văn, dạy văn nên thường mắc vào tư tưởng gọi là lãng mạn tư
sản, từng say mê tiểu thuyết Tự lực văn đoàn và Thơ mới...vv...
Để bồi dưỡng lập trường giai cấp và lòng căm thù địa chủ phong kiến cho
học viên, nhà trường tổ chức chiếu phim Bạch Mao Nữ. Đến đoạn địa chủ
Hoàng Thế Nhân tỏ ra độc ác quá, bỗng nghe có tiếng ai đó hô lớn: “ Đả đảo địa
chủ phong kiến!”. Rồi chỗ này có người ngất, chỗ kia có người ngất. Y tá nhà
trường chạy đi chạy lại cấp cứu rất vất vả. Lúc ấy tôi tự thấy quá kém về tình
cảm giai cấp, vì chẳng cảm thấy xúc động gì đến nỗi phải ngất xỉu đi như thế.
Có một điều rất lạ là giữa không khí chỉnh huấn nghiêm khắc như thế,
mọi người đều tỏ ra ăn năn, sám hối, muốn rửa ruột, rửa gan, muốn tẩy não cho
sạch như thế mà thỉnh thoảng vẫn xảy ra những vụ mất cắp và hủ hoá ngay trong
đám học viên.
Năm 1953, cuộc kháng chiến ngày càng ác liệt. Trên phổ biến phải đề
phòng địch dùng chiến tranh vi trùng. Bộ y tế cử người đi khắp nơi phổ biến
cách phòng chống chiến tranh vi trùng. Có một lớp học mở ra ở khu Việt Bắc để
huấn luyện cán bộ tuyên truyền. Tôi được cử đi học để về truyền đạt lại cho cán
bộ cơ quan. Sau đó, có một lớp bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ phụ trách
mẫu giáo của các ty giáo dục thuộc mười ba tỉnh trong Liên khu Việt Bắc, tôi
được cử sang đó để nói chuyện về phòng chống chiến tranh vi trùng.ở đây tôi
gặp lại một vài cô giáo cấp một từng được đào tạo ở khu học xá Nam Ninh, như
cô Giang Tiến ( sau này lấy anh Lê Bá Thảo từng là chủ nhiệm khoa địa lý, Đại
học sư phạm Hà Nội).
ở lớp bồi dưỡng này, có một học viên tên là Trần Ngọc Nhị, công tác tại
Quảng Ninh.Trong cơ quan Sở giáo dục Liên khu Việt Bắc có một anh tên là
Tham vốn xưa cũng công tác ở Quảng Ninh, có quen Nhị. Tham bèn làm mối
Nhị cho tôi. Chúng tôi đã gặp gỡ nhau vài lần và xem chừng mọi chuyện đều
suôn sẻ. Kết thúc lớp học, trở về Quảng Ninh, Nhị có viết cho tôi một lá thư, lời
lẽ rất thắm thiết. Nhưng đúng lúc ấy gia đình Nhị bị quy là phản động và tôi
không được phép liên hệ ( chính gia đình tôi tuy đã tản cư lên Thái Nguyên cũng
bị quy là địa chủ. Mỗi lần về thăm bố mẹ tôi đều phải ra công an trình diện và
xin phép.)
Tháng 7 năm 1954, chiến thắng Điện Biên Phủ. Hiệp định Giơnevơ được
ký kết. Miền Bắc được giải phóng.
Mấy tháng sau tôi được cơ quan cử đi dự một cuộc họp của bộ giáo dục ở
Hà Nội. Không khí những ngày hoà bình mới được lặp lại rất phấn khởi. Tôi
nhớ trên chuyến xe hôm ấy về Hà Nội, hành khách đua nhau hò hát suốt dọc
đường.
Hà Nội đẹp quá! Những cô gái áo dài quần lụa trắng trông rất thanh lịch.
Chúng tôi họp ở một ngôi nhà hai tầng ngay bờ hồ Hoàn Kiếm và cũng nghỉ
luôn ở đấy. Đứng trên ban công trông xuống đường phố Hà Nội chạy quanh Hồ
Gươm, thú vị vô cùng. Các giáo chức lưu dung vẫn ăn mặc lịch sự complet,
cravate, giầy da. Còn chúng tôi, cán bộ kháng chiến, thì ăn mặc nhem nhuốc: mũ
lá, áo trấn thủ, dép lốp... Nhưng chẳng ngượng ngịu chút nào, lại còn tỏ ra tự hào
mình là người kháng chiến. Lúc ấy nghèo lại là một giá trị. Giàu là một mối lo.
Ăn mặc sang trọng là học đòi lối sống tư sản. ( về sau này, trong một cuộc hội
thảo về đổi mới tư duy trong giảng dạy văn học tổ chức ở khoa văn Đại học sư
phạm Hà Nội sau đại hội VI của đảng, anh Nguyễn Kiên có cung cấp cho hội
nghị một bài báo cắt ra từ một tờ Quân đội nhân dân(1), phê phán một số sĩ quan
quân đội có sinh hoạt tư sản hoá: ngủ màn tuyn, mặc pyjama, bịt răng vàng,
dùng nước hoa... Cả hội nghị cười ồ, quên rằng có một thời quan niệm của cán
bộ ta là như thế).
Chiến tranh chấm dứt, cơ quan Sở giáo dục chuyển về thị xã Thái
Nguyên, đóng ở một nơi ven thị xã gọi là Kép le ( chắc là tên một chủ đồn điền
người Tây từng có trang trại ở đây). Sở được bổ sung nhiều cán bộ mới, trong
đó có mấy cán bộ miền Nam tập kết. Tôi được đề bạt làm trưởng phòng giáo dục
phổ thông.
Hồi ấy có một loạt giáo viên văn cấp ba được đào tạo ở lớp dự bị Đại học
khu bốn, khoá đầu tiên, như Đặng Thanh Lê, Nguyễn Văn Hoàn, Nguyễn Xuân
Nam, Phan Trọng Luận... được điều lên Việt Bắc dạy trường Hàn Thuyên và
Lương Ngọc Quyến. Nhiệm vụ của Sở giáo dục giao cho tôi là phải nắm được
tình hình chuyên môn của các trường phổ thông, đặc biệt là các trường trọng
điểm. Vì thế tôi phải đến dự lớp một số giáo viên, trước hết ở các trường lớn
thuộc tỉnh Thái Nguyên.
Tôi chỉ là một anh giáo viên cấp hai, nhưng lại phải dự lớp và đánh giá
việc giảng dạy của giáo viên cấp ba, tuy họ chỉ tốt nghiệp dự bị Đại học đâu vài
năm gì đó, nhưng từng là học trò của những giáo sư danh tiếng như Đặng Thai
Mai, Trần Văn Giầu, Trương Tửu, Đào Duy Anh, Cao Xuân Huy...vv... thì quả
là đã phải làm một công việc quá sức. Vì thế tôi rất lo lắng. Trước khi dự lớp
nghe giảng một bài nào đó, tôi phải đọc những sách vở có liên quan đề phòng
khi cần, phải đối thoại với các “ông” giáo, “ bà” giáo rất trẻ nhưng kiêu ngạo ra
trò, vì các vị đúng là những trí thức có bằng cấp cao nhất lúc bấy giờ. Tôi nhớ đã
dự lớp Phan Trọng Luận dạy truyện thơ nôm Phan Trần và Đặng Thanh Lê dạy
truyện Kiều. Hồi ấy anh Đỗ Đức Hiểu bị điều từ trường Hùng Vương ( Phú Thọ)
về trường Lương Ngọc Quyến và Hoàng Ngọc Hiến thi chạy trốn cải cách ruộng
đất từ Khu Bốn lên Thái Nguyên. Tôi có dự lớp anh Hiểu dạy kịch LeCid của
Corneille và dự giờ Hiến dạy ca dao,tục ngữ gì đó. Hiến chưa qua đại học. Anh
được “kê” lên làm giáo viên cấp ba nên chỉ được dạy lớp đầu cấp ( lớp Tám).
Hàng năm vào dịp hè, Sở giáo dục thường tổ chức những lớp tập huấn
giáo viên. Trong một cuộc tập huấn giáo huấn giáo viên cấp một, tôi gặp một cô
giáo vốn cũng được đào tạo ở khu học xá Nam Ninh.Cô tên là P.C, dạy học ở
Phổ Yên. Tôi có cảm tình với cô. Chuyện chưa đâu vào đâu, đã dại dột viết thư
tỏ tình nên không được đáp lại.Tôi tự ái, làm bài thơ “Chắc rằng em chưa biết”,
đại ý: anh là người chân thật và không đến nỗi xoàng xĩnh đâu, yêu anh sẽ tìm
được hạnh phúc tuyệt vời đấy. Em coi thường anh chẳng qua là vì chưa biết anh
nên chưa tin đấy thôi:
Chắc rằng em chưa biết
Hay là em chưa tin,
Nên đợi hoài anh chẳng thấy thư em...
Thơ làm xong, tôi gửi cho tuần báo Văn, ai ngờ lại được đăng ( 1957), chỉ
có điều họ xoá đi mất mấy chữ đề tặng P.C ghi ở đầu bài thơ.
Bài thơ này vậy mà đã được phổ nhạc.
Một buổi sáng, vào năm 1980, tôi đang đứng trước cửa phòng thuộc tầng
năm, nhà B2, khu tập thể Đại học sư phạm Hà Nội, thì có một ông trạc bốn
mươi tuổi dắt theo một bé gái đến hỏi tôi: “ Cho tôi hỏi thăm nhà ông Nguyễn
Đăng Mạnh?”. Tôi nói, chính tôi là Nguyễn Đăng Mạnh. Ông khách tự giới
thiệu là Hiền An, nhạc sĩ Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam. Ông cho biết vừa
phổ nhạc một bài thơ của tôi. Tôi ngạc nhiên trả lời: “ Chắc là ông lầm rồi, tôi
có làm thơ bao giờ đâu”. Ông nhạc sĩ nói, đúng là thơ của anh mà! Tôi hỏi, vậy
bài thơ tên gì? Ông ta nói, tên là “ Chắc rằng em chưa biết”. Tôi nhớ ra đúng là
có làm bài thơ ấy thật. Lâu ngày quên mất.
Tôi mời nhạc sĩ vào nhà. Hiền An nói: “ Tối nay, chín giờ anh mở đài ra
nghe phát bài hát lần đầu. Lẽ ra ca sĩ là Ngọc Tân hát, nhưng vì Ngọc Tân vừa
vượt biên ( hụt) nên không được hát trên đài, phải thay bằng tiếng hát của Tiến
Thành. Xin lỗi anh, tôi có sửa vài chữ trong bài thơ cho phù hợp với nhạc, còn
tiền thù lao thì anh một nửa tôi một nửa”.
Lâu ngày rồi, tôi không nhớ số tiền là bao nhiêu, chỉ nhớ là rất rẻ mạt, có
lẽ chỉ tương đương với năm mươi đồng ngày nay.
Nhưng hồi đó tôi túng thiếu quá, đài thu thanh cũng không có. Tôi phải
sang mượn cái đài của anh Đinh Nho Chương ở hàng xóm. Nhưng anh Chương
nói, cái đài của anh hay trục trặc lắm, phải anh đích thân sang sử dụng mới
được.
Thế là tối hôm ấy anh Chương mở đài, tôi, vợ tôi và thằng cháu Thanh,
con trai tôi, ngồi nghe. Đài vặn lên được một lát thì tắc luôn. Anh Chương cuống
quýt chạy về nhà lấy tournevis sang sửa. May sao cái đài lại bật lên được đúng
vào lúc bắt đầu giới thiệu tác giả của nhạc và lời bài hát.
Bài nhạc vừa dứt, thằng con tôi bỗng lăn đùng ra rồi nằm ngửa trên
giường chổng bốn vó lên cười hô hố: “ Thơ của bố không ra gì mà nhạc cũng
chẳng ra sao!”
*

Vào khoảng cuối năm 1954, tôi được trên điều động đi tham gia cải cách
ruộng đất đợt cuối cùng, tức đợt năm. Trước khi xuống xã, chúng tôi phải tập
trung để học về chính sách cải cách ruộng đất. Người ta dựng một loạt lán trại
bằng tre nứa lá trên một khu đồi thuộc tỉnh Phúc yên. Lớp học kéo dài hàng
tháng. Bài học chính là lý luận giai cấp, và đường lối cách mạng của đảng ở
nông thôn ( dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn kết với trung nông, cô lập phú nông,
đánh đổ địa chủ. Tuyệt đối không được dựa vào tổ chức cũ, vì đã bị địa chủ và
bọn Quốc dân đảng chui vào lũng đoạn; đặc biệt là phải nắm vững tiêu chuẩn
phân định thành phần giai cấp ở nông thôn cùng với con số tỷ lệ của mỗi giai
cấp, thí dụ 5% hộ dân là địa chủ, 4% là phú nông...vv...).
Học xong phải viết thu hoạch và kiểm thảo về lập trường giai cấp. Sau đó
phiên chế thành đội để đi xuống các xã.
Trong thời gian học tập, lại nghe báo cáo điển hình của bần cố nông, lại
xem phim Bạch Mao Nữ, lại hô đả đảo địa chủ phong kiến, lại ngất xỉu chỗ này
chỗ khác... và lại ăn cắp, hủ hoá...
Đội của tôi được điều về xã Gia Trường, huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh
Bình. Đội trưởng tên là Hồng, trông trắng trẻo hiền lành như một thư sinh, đội
phó phụ trách tổ chức tên là Hải, đội phó phụ trách toà án là một bộ đội tên là
Tại. Ngoài ra là những đội viên độ năm sáu người. Tôi chỉ còn nhớ hai nữ, một
tên là Nết, một tên là Huyên và hai nam, một người miền Nam tên là Chánh, một
là bộ đội mù chữ tên Khả.
Xe ô tô đưa chúng tôi đến cách Gia Trường khoảng vài trăm mét thì đỗ
lại, chúng tôi đi bộ vào làng, mỗi người tìm đến một thôn đã được phân công
trước. Thôn tôi phụ trách gọi là Yên Hạ. Lý luận học được là không được dựa
vào tổ chức cũ, không được tin vào bất cứ ai ( phải cảnh giác, ở đâu cũng có
địch hết ). Phải tự mình tìm nghèo hỏi khổ. Tôi đi loanh quanh trong làng một
lúc và phát hiện một gia đình chắc nghèo lắm, ở trong một túp lều rách nát bên
một bờ tre. Tôi liền vào để gợi khổ chủ nhà. Đó là một người đàn ông tuy bộ
dạng tiêu tuỵ, quần áo rách rưới, nhưng nhìn vẻ mặt thấy không có vẻ vui mừng
phấn khởi gì khi được đội đến nhà. Nói năng thì lúng túng, lạnh nhạt, hình như
không muốn bắt chuyện. Chán quá, ngồi một lúc, tôi bỏ đi. Có một người làng
đi qua, ghé tai nói thầm với tôi: “ Nó là địa chủ đấy, địa chủ Thợi bị đuổi ra khỏi
nhà trong phát động giảm tô đấy”. Tôi ngượng quá. Tuy nhiên về sau cũng tìm
được một bần nông thật và đào tạo được thành một cốt cán.
Đi cải cách thì phải ba cùng. Mùa rét phải đi cấy lúa, tuy lúng ta lúng túng
làm có ra gì đâu. Có lần tôi còn bị điều ra một thôn chuyên chài lưới. Trời mùa
đông mà phải đi đánh cá từ nửa đêm, người ta chèo chiếc thuyền nan ra giữa
sông quăng lưới. Giữa lòng thuyền đặt một bếp lửa để sưởi. Lưới kéo về thì ngồi
gỡ cá.
Vì tôi là người được xem là có chữ nghĩa trong đội nên ít lâu sau được gọi
về làm văn phòng đội. Từ đấy không phải ba cùng nữa, ăn uống thì cũng khá
hơn vì có tiêu chuẩn riêng. Văn phòng đóng ở nhà một cốt cán tên là Lờng.
Có một buổi tối, đội trưởng đội phó đi đâu vắng, tôi điều khiển một cuộc
họp xóm ngay tại sân nhà văn phòng đội. Cuộc họp vừa kết thúc, nghĩa là mọi
người vừa giải tán thì tôi được báo cáo có một bà cụ gọi là bà cụ Phẩm vừa ở
đây về, hộc máu chết ngay giữa nhà. Tôi vội chạy đến ngay. Hồi ấy bất cứ xảy
ra chuyện gì có vẻ bất thường một chút là người ta nghĩ ngay đến hoạt động của
địch. Nhà bà cụ khá rộng rãi. Bà ở với một đứa cháu trai tên Phẩm làm du kích.
Tôi vào nhà một mình.( Phải cảnh giác, ngoài đội ra, không ai được vào, vì địch
có thể tới để phá dấu vết gây án.) Tôi thấy từ ngoài sân vào tới nhà đều có máu
và phân của bà cụ. Bà cụ nằm chết ngay trên nền nhà. Khám xác bà cụ, tôi
chẳng phát hiện ra điều gì. ( thí dụ như bị bóp cổ hay bị đổ thuốc độc chẳng hạn)
Mà “ chúng nó”giết bà cụ để làm gì chứ? Tôi lúng túng chẳng biết xử trí ra sao.
Chuyện xảy ra lập tức được thông báo ngay cho ban chỉ huy đội. Anh đội
phó phụ trách toà án vội tới ngay hiện trường. Anh ta hội ý nhanh chóng với một
cán bộ khác cũng là bộ đội, và lệnh bắt giam ngay một chị hàng xóm làm nghề
buôn bán gì đó và có quan hệ với địa chủ Thợi. Họ giao cho tôi tra hỏi chị về vụ
“ bức tử” bà cụ Phẩm. Cuộc tra hỏi truy bức chẳng ăn thua gì. Tôi một mặt thấy
mình bất lực hèn kém quá, chẳng được tích sự gì. Mặt khác lại nghĩ, có lẽ chả có
chuyện gì hết, chẳng qua là bà cụ bị trúng gió độc đấy thôi. Hồi ấy, những loại
người như tôi, gia đình địa chủ, bản thân là tiểu tư sản, thường không tin lắm ở “
lập trường” của bản thân mình. Sau này mới biết, đúng là chẳng có chuyện gì
thật.
Mấy năm sau, trở thành cán bộ giảng dạy ở trường Đại học sư phạm Vinh
( Nghệ An), tôi có lần được giao phụ trách một đoàn sinh viên thực tập ở trường
Lương Văn Tuỵ, tỉnh Ninh Bình. Thực tập làm công tác chủ nhiệm lớp, sinh
viên phải đi thăm học sinh ở các nhà trọ quanh trường. Một lần tôi cùng sinh
viên đến một nhà trọ, ở đó có một học sinh kể chuyện ngày xưa mẹ cậu ta ở thôn
Yên Hạ xã Gia Trường bị bắt và bị truy hỏi về một vụ án nào đấy trong thời kỳ
cải cách ruộng đất. Tôi giật mình. Đúng là người đàn bà bị bắt oan trong vụ bà
cụ Phẩm chết đột tử và chính tôi là người tra hỏi, truy bức. Tôi xấu hổ quá, vội
lảng ngay đi.
Thời gian làm cán bộ văn phòng của đội cải cách ruộng đất, tôi thường
phải lên cơ quan đoàn uỷ nộp báo cáo hoặc lĩnh lương về cho cán bộ đội. Cơ
quan đoàn uỷ đóng ở Kim Sơn, Phát Diệm. Đoàn uỷ phụ trách các đội cải cách
trong tỉnh. Từ Gia Trường đi Phát Diệm, có lần tôi theo đường bộ, có lần nằm
đò dọc. Dọc đường, đâu đâu cũng đấu tố, xã nào cũng có bắn người, vì đâu đâu
cũng có cường hào gian ác và bọn phản động Quốc dân đảng chống phá.
Nhưng riêng xã tôi thì tìm mãi không ra thằng nào gian ác đáng xử bắn.
Đoàn uỷ bèn cử người về chấn chỉnh. Tôi nhớ anh cán bộ đoàn uỷ tập hợp toàn
đội lại ở một chái nhà dân quanh một cái cối giã gạo. Anh ta xỉ vả chúng tôi một
trận thậm tệ: “ Không bắn thằng nào thì quần chúng còn bị nó khống chế, đến
bao giờ mới ngóc đầu lên được! Lập trường giai cấp để dâu? Hữu khuynh
nghiêm trọng! Đảng nuôi cho các anh ăn để ngồi chơi à? Phải kiểm điểm
nghiêm khắc, rồi đi sâu đi sát tìm ra thằng đầu xỏ để bắn!”.
Thế là lãnh đạo đội đêm ngày lo tìm ra thằng đầu xỏ phản động. Họ nghĩ
đến một người tên là Cớt, bí thư chi bộ đảng, và gợi ý mớm lời cho cốt cán phát
hiện ra những hoạt động của bọn Quốc dân đảng đội lốt cộng sản. Lập tức hồ sơ
tội trạng của Cớt ngày càng dầy lên, và bí thư chi bộ cộng sản thành bí thư chi
bộ Quốc dân đảng. Dĩ nhiên là Cớt bị bắt giam và không tránh khỏi sẽ bị xử bắn.
Nhưng phúc đời cho Cớt, cuối đợt cải cách có lệnh sửa sai. Các đội được
triệu tập để nghe ông Hoàng Quốc Việt về nói chuyện. Tất cả tù nhân ở các trại
giam đều được thả ra hết.
Cải cách ruộng đất đúng là một sai lầm nghiêm trọng. Bắt oan, giết oan
hàng vạn người. Mà thật ngu xuẩn. Làm sao địa chủ lại nhiều thế: 5%! Làm sao
mà Quốc dân đảng lại có ở khắp mọi nơi. Đúng là rập khuôn theo Trung Quốc
một cách cực kỳ ngu xuẩn. Quốc dân đảng là đảng chính thống, đảng cầm quyền
ở Trung Quốc hàng bao nhiêu năm mới có lắm quốc dân đảng như thế chứ.
Thực ra trước khi sửa sai, chúng tôi cũng có ngờ ngợ thế nào ấy. Bởi vì thấy
nhiều địa chủ chẳng giầu có gì lắm. Và họ cũng lao động ra trò, cũng biết đi cày
đi cấy. Con cái hiền lành, ngoan ngoãn. Tôi từng được giao triệu tập con cái địa
chủ lại để giáo dục, tôi thấy như thế. Bây giờ sửa sai, thấy sai lầm của cải cách
ruộng đất là chuyện dĩ nhiên và rất dễ hiểu. Nhưng chỉ không hiểu sao thời ấy cả
nước từ trên xuống dưới lại ngu xuẩn đến thế, sai từ đường lối chính sách đến
các biện pháp cụ thể. Phát động quần chúng, mà quần chúng sợ đội quá sợ cọp,
làm sao dám nói trái ý đội. Tôi lúc đó chỉ là một thằng thanh niên ngoài hai
mươi tuổi, vậy mà đi lại trong làng, có những cụ già râu dài, chắp tay vái “ lạy
đội ạ!”. Một chính sách lớn như thế, liên quan đến sinh mạng hàng vạn dân mà
giao phó cho những cốt cán dốt nát thực hiện. Cán bộ đội cũng thế, trong đôi tôi
có một anh tên là Khả mù chữ. Mù chữ mà giảng chính sách và vận dụng chính
sách- một chính sách rất lớn và rất phức tạp- vào việc bắt người, bắn người, tịch
42
thu tài sản của người! Cải cách ruộng đất đúng là một trường hợp điển hình thô
bỉ nhất của vụ cưỡng hiếp của Tầu đối với Việt Nam về chính trị và văn hoá.
Nguyễn Huy Thiệp nói đúng: “ Đặc điểm lớn nhất của xứ sở này là nhược tiểu.
Đây là một cô gái đồng trinh bị nền văn minh Trung Hoa cưỡng hiếp. Cô gái ấy
vừa thích thú, vừa nhục nhã, vừa căm thù nó” ( Vàng lửa). Sau này Đỗ Hoàng
Diệu cũng diễn tả nỗi nhục nhã ấy bằng hình tượng Bóng đè.
Sai lầm cải cách ruộng đất càng nghĩ càng thấy có tác hại sâu sắc và lâu
dài đối với truyền thống tư tưởng, văn hoá của dân tộc. Vô nhân đạo, coi mạng
người như cỏ rác. Mượn cớ căm thù giai cấp để biện minh (justifier) cho cái ác.
Cái ác mà được cho là đúng đắn, là cách mạng thì cái ác tất sẽ được nhân lên
hàng trăm lần. Làm ác mà vẫn yên ổn với lương tâm thì thật vô cùng khủng
khiếp. Cuộc cải cách đã huỷ hoại những truyền thống tinh thần tốt đẹp của gia
đình, họ tộc, làng xã, của văn hoá, phong tục Việt Nam. Đánh địa chủ, phú nông
trong hoàn cảnh bấy giờ vô hình chung là đánh vào giới trí thức, là huỷ hoại văn
hoá, vì ở nông thôn hồi ấy thường những gia đình khá giả trong làng mới có điều
kiện đi học, và có sách vở truyền lại từ tổ tiên, ông cha. Cải cách ruộng đất đốt
hết. Sách chữ Hán, chữ Nôm không đọc được càng phải đốt triệt để. Tôi đã
chứng kiến những cuộc đốt như thế. Sách tiếng Pháp người ta gọi là tài liệu phản
động, sách chữ Hán, chữ Nôm thì cho là văn tự cướp ruộng của nhân dân. Đốt
hết. Anh chủ nhà bị quy là địa chủ ngồi ở góc nhà nhìn đống lửa ở ngoài sân
chắc là tiếc lắm. Anh nói nhỏ với tôi khi tôi đi qua trước mặt: “Đội cho con xin
lại cuốn từ điển tiếng Pháp”. Tôi đã giữ lại cho anh ta cuốn từ điển ấy.
Cải cách ruộng đất còn tạo cơ hội rất thuận lợi cho sự phát triển của chủ
nghĩa cơ hội trong nông dân. Muốn được đội cất nhắc, cứ tha hồ tố oan, tố điêu
cho người... Như trên đã nói, về sai lầm của cải cách ruộng đất, trước khi sửa
sai, chúng tôi đã hơi ngờ ngợ, vì thế mà khi có lệnh sửa sai, lập tức hiểu ngay,
chẳng cần nghe giảng về chính sách sửa sai cũng đã vỡ lẽ rồi.
Tuy nhiên cũng phải nói rằng, dân xã Gia trường đã gặp may. Đội của
chúng tôi cũng mắc sai lầm rất nhiều. Đúng thế. Nhưng không bắn ai, đúng ra là
chưa kịp bắn ai. Vì thế dân làng gọi chúng tôi là “ đội hiền”. Mấy năm sau, nhân
đưa sinh viên Đại học sư phạmVinh đi thực tập ở Ninh Bình, tôi có tạt về thăm
nơi cải cách ngày xưa. Tôi thấy dân làng đón tiếp rất tình cảm, giành nhau mời
về nhà ăn cơm. Nông dân Việt Nam quả là tốt bụng. Họ sẵn sàng bỏ qua mọi tội
lỗi của cán bộ, của đảng. Nhưng xét ra đó cũng là một nhược điểm: ngu muội
quá, an phận quá. Trên nói gì là tin như thế. Bảo đúng là đúng, bảo sai là sai,
bảo căn bản thắng lợi là căn bản thắng lợi. Cải cách ruộng đất vẫn được đánh giá
là “ Căn bản thắng lợi”.
Sau đợt cải cách ruộng đất, đội giải tán, ai về nhà nấy hoặc trở về nơi
công tác của mình. Trước khi trở lại Sở giáo dục Liên khu Việt Bắc, tôi theo
Khả ( anh đội viên mù chữ ) về nhà anh chơi. Nhà anh ở một xóm nhỏ nơi chân
núi Hiên Ngang thuộc huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh. Anh người rất xấu trai, lại
mù chữ, nhưng là bộ đội cụ Hồ nên rất có giá. Tôi gặp ở nhà anh một cô gái tên
là Thiêm khá xinh đẹp. Cô đến anh chơi, có vẻ quyến luyến anh lắm. Khả ở
vùng ngụy, trốn ra vùng tự do để tham gia bộ đội. Nay trở về làng, mặc quân
phục trông cũng oách, lại là đội viên cải cách ruộng đất. Đó là những ánh hào
quang đã che lấp mọi nhược điểm của anh. Cô Thiêm mê là phải. Một tình
huống cảm động. Tôi nẩy ra ý đồ viết một truyện ngắn về Khả và Thiêm. Nhưng
viết không đạt nên bỏ.
2. Những ngày học tập ở Đại học sư phạm Hà Nội.
Tôi tiếp tục công tác ở sở giáo dục Liên khu Việt Bắc khoảng một năm
nữa thì được cử đi học Đại học sư phạm Hà Nội.
Cử đi học nhưng vẫn phải qua kỳ thi tuyển. Tôi rất bất bình. Cán bộ công
tác trong ngành, nay được cử đi học thêm lại còn phải thi. Tôi bèn viết một bức
thư lên Bộ giáo dục phản đối. Lời lẽ có chỗ rất xược: “ Bộ trưởng mà đi thi cũng
có thể trượt, vì công tác lâu ngày quên hết kiến thức rồi còn gì”. Thực ra chúng
tôi sợ nhất: nếu trượt thì rất xấu hổ với cơ quan cử mình đi học. Nhưng thư
không có hồi âm và tôi vẫn phải đi thi. Năm ấy không hiểu sao bộ giáo dục lại
chủ trương hạn chế rất chặt sinh viên đại học sư phạm. Cả khoá chỉ lấy 20 người
( như thế là tuyển 20 trên tổng số 120 người thi ). Thành ra trượt rất nhiều, may
mà tôi lại đỗ. Cả khoá học của chúng tôi như thế là có 20 người trúng tuyển,
cộng với 8 người lưu ban là 28. Hai mươi tám người hầu hết là cán bộ đi học:
Già nhất là Phạm Dư, Quách Hy Dzong, Nguyễn Nghĩa Dân, Lê Hồng Chi, tiếp
đến Hoàng Nhân, Hồ Đình Lư, Đinh Trọng Lạc.ít tuổi hơn nữa là Nguyễn Đăng
Mạnh, Phạm Luận, Đỗ Bình Trị, Vũ Châu Quán, Phan Đình Đài. Trẻ nhất trong
số cán bộ đi học là Thành Thế Thái Bình. Ngoài ra có một số học sinh trúng
tuyển: Loan, Châu (nữ), Châu (nam), Hiển, Tâm, Liên, Chinh, Huân, Tục, Bội...
Tôi gặp lại một số bạn đã từng sống với nhau ở trường sư phạm trung cấp trung
ương ở Chợ Ngọc Tuyên Quang, và ở khu học xá Nam Ninh, Trung Quốc, như
Phạm Luận, Thành Thế Thái Bình, Đỗ Bình Trị ( kiểm lại khoá học này, tính
đến hôm nay, đã có bảy người không còn nữa).
Đi học nên không được hưởng nguyên lương, mỗi tháng chỉ được lĩnh ba
mươi lăm đồng. Chúng tôi bèn kéo nhau lên ban giám hiệu nhà trường đấu
tranh, nhưng chẳng ăn thua gì. Có người gia đình khó khăn quá, hết năm thứ
nhất phải bỏ học, như Phan Đình Đài. Có người đông con quá như Quách Hy
Dzong thì phải tổ chức dạy bổ túc văn hoá cho cán bộ, công nhân để kiếm thêm.
Học phí do học viên đóng rất thấp. Tôi tuy chưa vợ con nhưng cũng tham gia
dạy cho công nhân một xí nghiệp trình độ cấp một, tối nào cũng dạy vậy mà tiền
thù lao cả tháng chỉ tương đương năm mươi nghìn đồng bây giờ. Mỗi lần được
lĩnh tiền thù lao, lại đánh chén một bữa cho bõ lúc thèm khát.
Bọn cán bộ đi học chúng tôi, trong thời gian học, có một lần được nhận
một món tiền truy lĩnh lương. Tôi không nhớ cụ thể lý do được truy lĩnh, chỉ biết
nhờ có món tiền đó mà tôi mới mua được một cái xe đạp cũ ( xe Junior, mua lại
của Đỗ Bình trị ). Đây là lần đầu tiên tôi có xe đạp.
Chúng tôi học đại học ngay sau vụ Nhân văn- Giai phẩm, Đất mới nên có
một số giáo sư đã bị đình chỉ giảng dạy như Trần Đức Thảo, Trương Tửu, Đào
Duy Anh... Chúng tôi chỉ còn được học các thầy Đặng Thai Mai ( dạy Văn học
Trung Quốc ), Nguyễn Mạnh Tường ( dạy Văn học Phương Tây ), Hoàng Xuân
Nhị ( dạy Văn học Nga Xô Viết ), Nguyễn Lương Ngọc dạy lý luận văn học,
Cao Xuân Huy ( dạy tâm lý học ) và một số cán bộ giảng dạy trẻ hơn như Lê
Hoài Nam, Đinh Gia Khánh, Phan Ngọc, Cao Xuân Hạo, Nguyễn Phan Cảnh,
Nguyễn Đình Chú, Trần Văn Bính, Nguyễn Hải Hà... Sau này có thêm thầy
Nguyễn Lân, thầy Tảo dạy môn giáo dục học và các vị ở Ban tu thư của Bộ giáo
dục chuyển đến. Đây là những giáo viên cấp ba xuất sắc được Bộ triệu về viết
sách giáo khoa phổ thông. Trại tu thư làm xong việc thì giải tán, các vị được
chuyển sang dạy đại học sư phạm ( nhân cùng làm sách giáo khoa, họ tập hợp
nhau lại, lập ra nhóm Lê Quý Đôn viết bộ Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam ).
Đó là các anh Lê Trí Viễn, Vũ Đình Liên, Huỳnh Lý, Đỗ Đức Hiểu, Trương
Chính. Ngoài ra có ông Hoài Thanh, viện phó viện văn học cũng được mời sang
dạy mấy bài về văn học trung đại Việt Nam: Cung oán, Chinh Phụ, Kiều, Hoa
Tiên, Phan Trần. Ngoài ra còn có một vài chuyên gia Liên Xô, Trung Quốc sang
dạy giúp.
Nói chung ít có bài giảng xuất sắc. Nguyễn Mạnh Tường dạy hời hợt,
chẳng thấy hay ho gì. Hoàng Xuân Nhị thì phải nói là dạy rất yếu, cứ chuyện nọ
sọ chuyện kia rất tuỳ tiện, chẳng hạn giờ dạy Goócky lại xoay ra nói về Từ ấy
của Tố Hữu. Thầy Nguyễn Lương Ngọc thì chỉ đọc nguyên văn giáo trình, mà
giáo trình thì cứ rập theo đúng các luận điểm của những Abramovits, Lưu Diễn
Văn, Ba Nhân... Tôi chắc đó là do không khí đấu tranh chống Nhân văn, giai
phẩm lúc bấy giờ còn nóng hổi nên thầy phải cẩn thận không dám có ý kiến
riêng, mà tính thầy thì vốn dĩ rất thận trọng. Cụ Đặng Thai Mai cũng hay nói
chuyện lan man, lạc đề, ít khi dạy đúng vào bài giảng. Thí dụ, dạy Kinh Thi, cụ
lại toàn nói chuyện ngày xưa cụ học chữ Hán như thế nào. ấn tượng đậm nét
nhất về thầy Đặng Thai Mai là trí nhớ tuyệt vời. Cụ có thể đọc thuộc lòng hàng
trang sách tiếng Pháp các vở kịch của Corneille, Racine hay Molière... Cụ Cao
Xuân Huy dạy tâm lý học, tôi rất thích. Cụ thường chứng minh các quy luật tâm
lý bằng việc phân tích tâm lý các nhân vật văn học, như Kiều, LeCid... Tôi nhớ
có lần giảng bài nửa chừng, cụ ngừng lại hỏi học trò: “các anh có hiểu không?”.
Một cậu đứng lên đáp: “ không hiểu”. Cụ nói rất to: “ Đúng rồi, hiểu thế nào
được, khó lắm!”.
Riêng những bài giảng của ông Hoài Thanh thì nói chung hấp dẫn. Ông
chuẩn bị bài giảng rất nghiêm túc và dạy rất nhiệt tình, tỏ ra là một người vừa
yêu văn chương vừa mê nghề dạy học.
Trong khoá học của chúng tôi, nếu có ai đó sau này trở thành người làm
khoa học tốt thì chủ yếu là do tự học. Hồi ấy đại học là một cái gì rất thiêng
liêng, được coi là đỉnh cao của nền văn hoá đất nước. Vậy phải làm sao cho
xứng đáng với danh hiệu sinh viên đại học- Chúng tôi nghĩ thầm trong bụng như
thế, cho nên rất hăm hở, rất hào hứng học tập. Đi thư viện suốt. Đọc đủ cả
Jliade, Odyssée, Shakespeare, V.Hugo, Balzac, Tolstoi qua tiếng Pháp, rồi đọc
thơ Đường, Ly Tao, Tây Sương Ký (bản dịch rất hay của Nhượng Tống), Tam
quốc, Thuỷ hử...vv... Rồi đọc văn học Việt Nam từ trung đại đến hiện đại, từ văn
học dân gian tới văn học viết. Đọc có ghi chép, có phân tích, thậm chí viết thành
bài để có thể thuyết trình trước lớp. Ngoài ra học được gì về phương pháp tư duy
khoa học, lập tức vận dụng ngay trong học tập. Thí dụ, thấy ông Nubarốp trình
bày về một tác giả Xô viết, đi từ tác phẩm ở thời kỳ tài năng phát triển chín nhất
rồi mới quay ngược trở lại tác phẩm đầu tay, tôi thấy rất hay bèn bắt chước,
cũng thử suy nghĩ và trình bầy như thế về Phan Bội Châu...
Khoá chúng tôi học ba năm (1957-1960 ), lúc đầu học chung với đại học
tổng hợp ở giảng đường Lý Thường Kiệt ( ngồi chung một lớp. Tổng hợp, Sư
phạm, mỗi bên ngồi một dẫy bàn.). Đến năm 1958 thì tách riêng hẳn ra. Tổng
hợp ở lại địa điểm cũ, còn Sư phạm thì chuyển về Cầu Giấy, sát nhập với Cao
đẳng sư phạm ở địa điểm của trường hiện nay. Tất nhiên lúc ấy toàn nhà lợp lá,
vách đất.
Kết thúc khoá học, một số sinh viên là cán bộ đi học được giữ lại làm cán
bộ giảng dạy: Quách Hy Dzong, Nguyễn Nghĩa Dân, Hoàng Nhân, Đinh Trọng
Lạc, Phạm Luận, Cù Đình Tú, Trần Gia Linh, Đỗ Bình Trị, Thành Thế Thái
Bình, Nguyễn Xuân Khoa, Nguyễn Đăng Mạnh.
Ba năm học đại học cũng có nhiều chuyện vui, chuyện buồn, chuyện hay
chuyện dở trong cái tập thể hai mươi tám người này.
Bí thư chi bộ tên là Dư, người Miền Nam, có quan hệ luyến ái với một
bạn nữ học khoa Địa lý, bị đưa ra kiểm thảo rất gay gắt. Hồ Đình Lư hay tiếp
xúc với một số bạn quen ngày xưa có dính dáng đến nhóm Nhân văn hay Đất
mới gì đó, bị chi bộ Đảng theo dõi như một phần tử phản động. Lư tuy học giỏi,
nhưng chẳng những không được giữ lại làm cán bộ giảng dạy mà sau khi tốt
nghiệp còn bị chi bộ thông báo với nơi công tác của Lư về tư tưởng, gọi là phản
động của anh và đề nghị hãy khoan không cho lên lớp. Tôi hay chơi với Hồ
Đình Lư, cũng bị nhắc nhở như là quan hệ với địch. Chi uỷ giao cho Định Trọng
Lạc, đảng viên dự bị, đến thông báo với tôi như thế. Thực ra, đó là do Hoàng
Nhân, chi uỷ viên, một tay cơ hội chủ nghĩa hạng nặng vốn đố kỵ với Lư hồi họ
cùng dạy học với nhau ở Nghệ An. Anh ta nhân dịp này ra tay trị Lư.
Có một lần, chúng tôi, mấy thằng chơi thân với nhau góp mỗi người vài
đồng ra Hàng Buồm đánh chén một bữa. Vậy mà cũng bị phê phán là có tư
tưởng hưởng lạc. Hồi ấy trong số cán bộ đi học, tôi và Đỗ Bình Trị bị coi là
thuộc loại phần tử cá biệt, vì ăn nói tự do và có vẻ kiêu ngạo. Hồ Đình Lư thì là
“ địch” hẳn hoi rồi. Mấy anh là học sinh Hà Nội thời tạm chiến thì bị coi như là
những đối tượng phải bồi dưỡng tư tưởng lâu dài. Quách Hy Dzong, Thành Thế
Thái Bình, Trần Gia Linh là những người gần Đảng hơn cả. Trần Gia Linh rất
hăng hái, được giao làm trưởng lớp. Anh em thì gọi là “hồng vệ binh.”
Trong thời gian học Đại học sư phạm Hà Nội, tôi bỗng nhiên được giao
làm một công việc rất bất ngờ và quá sức: trang bị lại toàn bộ phông màn của
sân khấu hội trường Đại học sư phạm Hà Nội. Chuyện lớn lắm và rất khó đối
với tôi: phải lĩnh hàng trăm mét tem phiếu để mua hàng xúc vải đắt tiền như xa
tanh, crếp, nhung để làm riđô, cánh gà, rèm, phông... Phải tính toán kích thước
thế nào, màu sắc ra sao... Ôi! Sao lại giao cho tôi một công việc cần đến những
hiểu biết chuyên môn rất cụ thể tỉ mỉ như thế mà kết quả sẽ là bao nhiêu cặp mắt
trông vào để khen chê, đánh giá. Chiều sao được ý kiến của hàng trăm hàng
nghìn người mỗi lần có biểu diễn nghệ thuật! Tôi chắc đây là do Đỗ Bình Trị.
Ông Đỗ Đức Uyên, anh ruột của Trị, lúc bấy giờ là bí thư đảng uỷ, hiệu phó
trường Đại học sư phạm Hà Nội. Chắc Trị đã xui ông anh giao việc này cho tôi
vì cho tôi biết vẽ vạch lăng nhăng tý chút nên có đầu óc mĩ thuật.
Tôi lo quá. Tự nhiên phải lao động cật lực về việc này. Tôi phải xin giấy
giới thiệu của nhà trường đi nghiên cứu các sân khấu ở Hà Nội, như sân khấu
Nhà hát lớn, rạp Hồng Hà, rạp Công Nhân... Đến đâu cũng lo lắng quan sát màu
sắc, đo đạc tỉ lệ, tính tính toán toán, suy nghĩ để lập một phương án hợp với sân
khấu Đại học sư phạm Hà Nội. Rồi phải dò hỏi xem ở đâu có những ông thợ
chuyên may phông màn cho các sân khấu ở Hà Nội. Tôi đã tìm ra được một ông
thợ đã có tuổi, chuyên về việc này, nhà ở phố Chân Cầm gần Hàng Bông. Cuối
cùng là lĩnh tem phiếu và tiền để đi mua hàng đống vải, chở xích-lô đến Tô
Châu thuê nhuộm các mầu sao cho hài hoà và hợp với ánh sáng điện. Rồi chở
đến hiệu ông thợ may ở phố Chân Cầm, giao cho ông ta. Thời bao cấp, tất cả
đều phải tem phiếu hết. Đâu phải có tiền là mua được! Vậy mà nếu làm hỏng thì
thực là nguy.
Vậy mà cuối cùng tôi cũng đã thành công. Sân khấu ra mắt công chúng,
mọi người thấy cũng được.
Thời gian ba năm ở Đại học sư phạm Hà Nội có một sự kiện rất quan
trọng đối với cuộc đời tôi: gặp NTT, yêu nhau, cưới nhau. T học năm thứ nhất,
tôi học năm thứ ba. Cù Đình Tú, vốn quen T hồi học ở trường Hùng Vương Phú
Thọ, làm mối. Việc trôi chảy. Chúng tôi thường đi chơi với nhau mỗi chiều thứ
bảy, khi thì ở đê sông máng phía Mai Dịch, khi ở đường Láng, khi ở đường
Bưởi. Khoá của T chỉ học có hai năm. Năm 1961, T tốt nghiệp, chúng tôi cưới
nhau ở Hải Phòng. Gia đình T quê ở Xuân Cầu ( xã Nghĩa Trụ), huyện Văn
Giang tỉnh Bắc Ninh ( nay thuộc Hưng Yên) nhưng trước cách mạng buôn bán ở
Hải Phòng. Thời gian kháng chiến chống Pháp tản cư lên Phú Thọ. Hoà bình lập
lại (1954) lại trở về Hải Phòng. Anh Quách Hy Dzong lúc đó cũng ở Hải Phòng
đã giúp tôi tổ chức tiệc trà. Hồi ấy từ nhẫn cưới đến bánh kẹo liên hoan đều phải
có giấy đăng ký kết hôn mới mua được. Cưới xong chúng tôi vào Vinh ( Nghệ
An) công tác. Tôi bị điều vào dạy Đại học sư phạm Vinh còn T thì dạy trường
cấp ba Huỳnh Thúc Kháng.
3. Ở Đại học sư phạm Vinh. Vài nhận xét về đất và người xứ Nghệ.
Trường Đại học sư phạm Vinh thành lập 1959. Một loạt cán bộ giảng dạy
của Đại học sư phạm Hà Nội bị điều vào phục vụ. Nói riêng về khoa văn, có Lê
Hoài Nam, Nguyễn Khắc Phi, Lê Bá Hán, Hoàng Tiến Tựu, Tạ Mạnh Tường,
Phùng Văn Tửu, Nguyễn Gia Phương tốt nghiệp các khoá trước. Khoá tôi thì có
Cù Đình Tú, Trần Gia Linh, Nguyễn Xuân Khoa và tôi. Khoá sau có Trần Duy
47
Châu, Tưởng Đăng Trữ. Vài năm tiếp theo có thêm Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn
Duy Bình, Nguyễn Văn Giai, Từ ĐứcTrịnh, Lương Duy Thứ, Trần Đình Sử, từ
Đại học Liên Xô, Trung Quốc về. Tiếp nữa là một số sinh viên Đại học sư phạm
Vinh khoá một được giữ lại làm cán bộ giảng dạy như Nguyễn Sĩ Cẩn, Nguyễn
Trung Hiếu, Đậu Văn Ngọ, Trần Lê Xuân, Đỗ Đức Huyến.
Tôi bắt đầu dạy học ở Đại học sư phạm Vinh từ 1961. Đến năm 1969 thì
được chuyển ra Đại học sư phạm Hà Nội. Trường Đại học sư phạm Vinh lúc đầu
có hai cơ sở: một dành cho gia đình cán bộ công nhân viên đặt trong một cái nhà
tu kín của đạo Thiên Chúa. Nhà gạch hai tầng. Tầng trên gồm nhiều phòng quay
mặt vào nhau, giữa là một hành lang dài. Xưa, mỗi phòng chắc là dành cho một
nữ tu sĩ, nay phân cho một gia đình cán bộ. Hai là nơi làm việc của ban giám
hiệu, các phòng ban, lớp học và nơi ở của sinh viên.
Vợ chồng tôi vẫn ăn bếp tập thể nhưng lấy cơm về nhà, có nấu thêm ít
thức ăn. Lương lúc đó chưa được sáu chục đồng, nhưng tôi nhớ, vì giá cả rất rẻ,
nên sinh hoạt không đến nỗi khổ.
Khí hậu Vinh rất khắc nghiệt. Sợ nhất gió Lào. Những ngày hè nóng nực,
tiếng xe cút kít rít lên trong gió Lào, nghe như xé tai. Sợ nhất là những trận cháy
lớn, có khi đốt trụi cả một khu phố ( hồi ấy phần lớn là nhà tranh). Gió Lào thổi
tàn lửa bay rất xa. Người ta phải đứng trên mái nhà, dội nước và cầm lăm lăm
cây sào để hễ tàn lửa bay đến thì dập ngay. Lại phải đào sẵn hố trước nhà để lỡ
không chạy kịp đồ đạc thì quẳng luôn xuống hố, lấp đất. Từ bảy tám giờ sáng
đến năm giờ chiều thành phố Vinh cấm lửa. Mọi thứ nấu nướng phải lo làm
trước và sau thời gian đó.
Tính cách người Nghệ đặc biệt ráo riết, chắc đã được đẻ ra trong không
khí gió Lào này. Vậy mà có thời gian, đài phát thanh Vinh lại còn mở đầu từ
sáng sớm bằng bài hát Đi hùng binh: “ Nào anh em nghèo đâu!...”, Nằm ở Vinh
mà đọc bài Gió Lào của Nguyễn Tuân thì tuyệt.
Năm 1965, máy bay Mỹ đánh phá miền Bắc, Vinh là một toạ độ lửa.
Trường phải sơ tán về nông thôn, lúc đầu ở Thanh Chương, sau ra Nghi Lộc,
cuối cùng chuyển hẳn ra Thanh Hoá: từ Hà Trung, Vĩnh Lộc đến Thạch Thành...
Đến Thạch Thành thì tôi được chuyển ra Hà Nội.
Những ngày sơ tán thế mà cũng có lúc vui đáo để.
Máy bay Mỹ đánh phá, dân địa phương sản xuất ra nhiều thứ không có
nơi tiêu thụ, đành bán tại chỗ với giá rất rẻ mạt: mật ong, trứng gà ở Thanh Khê,
Thanh Chương, cá biển, lạc, ở Nghi Thuận, Nghi Lộc. Hồi ấy, nhà bếp chưa tổ
chức ngay được ở nơi sơ tán, họ giao gạo, tiền cho chúng tôi nấu ăn lấy. Trần
Duy Châu, tôi và Hoàng Ngọc Hiến nấu ăn chung. Châu người Huế, nấu ăn giỏi,
được giao làm bếp. Tôi làm tiếp liệu, nghĩa là mua rau cỏ, thịt cá người ta gánh
qua nhà. Hiến không biết làm gì, nhận việc xách nước, rửa bát. Ăn xong, rửa bát
là khốn nạn nhất nên Hoàng Ngọc Hiến gọi rửa bát là thứ lao động thô bỉ.
Thời gian sơ tán, nói chung rỗi rãi. Nhưng hoàn cảnh chiến tranh chẳng có
gì giải trí, chúng tôi bèn nghĩ ra nhiều trò đùa rất vớ vẩn. Hình như nghĩ những
điều có nghĩa lý mãi cũng mệt và chán - khoa học là chuyên nói lý, suy lý - nên
phải bầy ra những trò vô nghĩa lý để thư giãn với nhau. Nguyễn Gia Phương
chẳng hạn, nghĩ ra cái trò lừa dối anh em chơi:
- Này xin nghỉ phép về nhà, phải chuẩn bị hai hào lệ phí đấy.
- Này, cậu có thư ở văn phòng, đến mà lấy
- ủng là hàng chiến lựơc, cậu mới mua ủng, phải ra ngay công an đăng kí
không thì bị tịch thu đấy.
Thực ra toàn bịa đặt. Vậy mà cũng có khối anh mắc lừa.
Tôi và Hoàng Ngọc Hiến rỗi rãi ngồi tán chuyện với nhau. Hiến nghĩ ra
trò phân loại các cán bộ trong khoa theo tiêu chuẩn ăn cắp, ăn cướp. Hoàn toàn
không theo nghĩa đen, chỉ căn cứ vào tướng mạo, khẩu khí, cung cách ứng xử,
sinh hoạt. Anh nào trông lúi xùi, không đàng hoàng thì gọi là ăn cắp, anh nào ăn
to nói lớn, trông có vẻ hiên ngang thì gọi là ăn cướp. Nói chung ăn cướp sang
trọng hơn ăn cắp.
Chuyện đến tai chi bộ đảng. Các vị hiểu theo nghĩa đen nên cho là một
hiện tượng tư tưởng cực kỳ nghiêm trọng. Bí thư chi bộ Huỳnh Lý bèn quyết
định gặp chúng tôi để xem xét và chấn chỉnh. ( Hiến là đảng viên)
Hôm ấy, tôi với Hiến đang ngồi chơi, thấy anh Huỳnh Lý đến. Từ xa, anh
nói to, ướm thử một giọng vui trước khi vào chuyện:
- “ Thế nào, các cậu nói chuyện ăn cắp, ăn cướp thế nào đấy?” Hoàng
Ngọc Hiến trả lời ngay:
- “ Chúng tôi phân cho anh là ăn cướp là danh giá lắm rồi, anh còn thắc
mắc gì nữa?”
Chuyện trở thành trò đùa. Thế là hoà cả làng.
Viết đến đây, tôi không thể không ghi lại mấy dòng về anh Huỳnh Lý.
Anh làm Chủ nhiệm khoa văn Đại học Sư phạm Vinh được vài năm thì bị ốm
nên được chuyển trở lại Hà Nội. Sau 1975, anh vào ở trong Sài Gòn. Anh rất tốt
bụng, giầu tình cảm. Chế Lan Viên gọi anh là Huỳnh Tình.
Khi nghe tin anh mất, tôi có gửi vào viếng anh một đôi câu đối: Tên là Lý,
dạ thì tình, đất Bắc anh đi, xa vẫn nhớ; Tuổi tuy già, lòng vẫn trẻ, trời Nam anh
khuất, vắng càng thương.
Anh Lý mất ngày 21 – 5 – 1993.
Xin trở lại những ngày tôi ở Đại học Sư phạm Vinh.
Hồi khoa văn Đại học sư phạm Vinh sơ tán ở Thạch Thành, để tiện sinh
hoạt chuyên môn, khoa chủ trương những người cùng tổ nên ở với nhau (nhà
dân). Nhưng Hoàng Ngọc Hiến nhất định đến với tôi, tuy anh dạy Văn học Nga
Xô Viết, còn tôi thì dạy Văn học Việt Nam. Chúng tôi ở nhà một ông thầy cúng
người Mường tên là Cò Lửa.
Hàng ngày, nếu không đi dạy thì chúng tôi đọc sách, viết lách bài này bài
khác, chán thì quay ra tán ngẫu. Tôi nhớ trong những ngày ấy Hoàng Ngọc Hiến
viết bài Triết lý truyện kiều, còn tôi viết bài Con đường Nguyễn Tuân đi đến bút
ký chống Mỹ. Vừa viết vừa trao đổi ý kiến với nhau. Hiến rất chú ý học chữ, đặc
biệt những chữ có sức diễn đạt mạnh, anh gọi là đích đáng. Anh lấy làm khoái
trí khi học được ở ông Cò Lửa hai chữ “ bõ hờn”. Trong bài Con đường Nguyễn
Tuân đi đến bút ký chống Mỹ, tôi viết: “ Mùa xuân năm 1965, về thăm Quảng
Bình, Vĩnh Linh, trong lửa đạn, anh mừng rỡ được gặp lại một người bạn cũ.
Hoá ra, ở ngay chỗ này đây, người bạn thân năm nào vẫn hào hoa phong nhã,
nụ cười “ hoa” như thách thức với bom đạn, như hoà vui trong chiến thắng của
con người: Giữa phòng khách Uỷ ban Bảo Ninh vàng nức một nhánh hoàng
mai…”. Hoàng Ngọc Hiến đề nghị tôi chữa “ hoá ra” thành “ té ra”. Đúng là
đích đáng hơn, đã hơn, hay nói như Hoàng Ngọc Hiến, thật là “ bõ hớn”.
Khi chúng tôi ngồi tán chuyện với nhau, ông Cò Lửa thường quanh quẩn
quan sát. Hoá ra ông xem tướng chúng tôi. Và ông đưa ra những nhận xét khá
bất ngờ: “ Thầy Mạnh có tướng võ, rất có uy, còn thày Hiến thì tướng văn”. Sau
này Hiến còn khoe với tôi: “ Ông Cò Lửa cho mình có bàn chân Phật”. Hiến ta
rất lấy làm đắc ý về nhận xét ấy. Còn tôi thì không rõ mình có uy ở chỗ nào.
Thạch Thành rất nhiều ốc sên, chúng bám đầy những thân cây chuối mọc
hoang trong làng. Tôi và Hiến ban đêm xách đèn đi bắt, rồi mỗi người một đầu
đòn gánh khiêng về nhà, lấy gạch quây lại làm lương ăn dần.
Con ốc sên có hai cái vòi trông rất tởm. Nhưng thịt cá không có, đành
phải ăn, lâu rồi cũng quen, lại được khuyến khích bởi một tin đồn: ba con ốc sên
bằng một quả trứng vịt, xét về lượng prôtít.
Làm ốc sên, công việc khó khăn nhất là làm sao rửa sạch hết nhớt của nó.
Người ta thường lấy tro bếp rắc vào rồi rửa và kỳ cọ thật kỹ, nhưng vẫn không
hết nhớt. Về sau Nguyễn Duy Bình phát hiện: Cứ đun sôi mãi lên, nhớt ốc sên sẽ
tan thành nước lã, hắt đổ đi là xong. Khác với ốc ao, ốc sên càng ninh lâu càng
giừ, ăn như thịt bò hầm vậy. Bỏ vào ít lá quýt, ăn rất thơm ngon. Vừa rồi tôi đi
Pháp, thấy ở Paris có cửa hàng bán món ốc sên. Chị Thuỵ Khuê cũng có lần làm
món ốc sên cho tôi ăn. ốc sên ở pháp nhỏ và không có vòi dài như ốc sên Việt
Nam, nhưng ăn không ngon. Người ta thường chiên bơ, tôi không thích.
ở Thạch Thành, có một dạo, không hiểu sao bọn nữ sinh bỗng phát bệnh
thần kinh hàng loạt, như là một nạn dịch. Người ta nói do khủng hoảng sinh lý.
Có người lại cho là do ăn phải nước ở vùng này. Những cô gái bỗng dưng cười
cười nói nói lăng nhăng như rồ như dại. Mà rất dễ lây. Cố nhiên không lây theo
đường vi trùng, virút gì, mà do tác động về tâm lý.
Tôi không nhớ tình trạng này đã chấm dứt như thế nào và vì sao mà chấm
dứt.
Tôi ở Nghệ An khá lâu, từ 1960 đến 1968. Có một điều lạ là, một mặt tôi
thấy người Nghệ Tĩnh có nhiều đức tính rất quý. ở nhà dân nhiều, tôi thấy họ
thật thà, trung thực, cần cù. Tôn sư trọng đạo có lẽ là một truyền thống của Nghệ
Tĩnh ( tôi không nói truyền thống của dân tộc Việt Nam). Vì đây là đất Nho giáo
rất thịnh.Họ rất quý các thầy giáo. Chúng tôi ăn cơm ở bếp tập thể, nhưng
thường lấy về nhà ăn. Nhà chủ thường cung kính đem lên cho thầy giáo vài món
ăn thêm, đặt vào khay, bưng tới thày. Mở ra thì là mấy con dế mèn rán hoặc đĩa
nhút thế thôi. Nhưng tôi hiểu tấm lòng của họ rất quý thầy.
Tôi cũng có mấy người bạn thân quê Nghệ Tĩnh, như Hoàng Ngọc Hiến,
Nguyễn Duy Bình…
Tuy vậy tôi vẫn không sao có cảm tình đối với người Nghệ Tĩnh nói
chung, nhất là loại cán bộ.
Hoàng Ngọc Hiến quê Hà Tĩnh, nhưng từ nhỏ sống ở Nam Định. Có lẽ vì
thế mà anh có cái nhìn khách quan đối với quê hương mình chăng? Anh định
nghĩa: “ Người Nghệ Tĩnh cái gì cũng biết, trừ hạnh phúc.”
Tôi thì cho rằng dân Nghệ Tĩnh sống quá khắc khổ và có một ý chí rất
quyết liệt. Họ đã muốn gì thì phải tranh đoạt bằng được. Và quá tự hào, tự phụ
về quê hương mình. Cãi nhau với người Nghệ Tĩnh là dại. Vì họ tự cho là đúng
nhất, giỏi giang nhất và vì thế cãi đến cùng, lý sự đến cùng, căng thẳng, quyết
liệt đến cùng, khiến đối phương mệt quá, đành phải bỏ cuộc. Dân Nghệ Tĩnh nói
chung có tật hay khoe khoang. Khoe tài, khoe giỏi, khoe quê hương cái gì cũng
nhất, từ chính trị đến văn hoá nghệ thuật. ở đâu, trên xe lửa, trong ôtô bus, hay ở
những cuộc gặp mặt đông người nào đó, tiếng Nghệ Tĩnh cứ oang oang như
muốn lấn át tất cả… Nghe nói Vũ Ngọc Khánh có in một cuốn sách tập hợp
những bài viết về mình, đặt tên là “ Sao Khuê ngàn Hống”. Đúng là một biểu
hiện lộ liễu của tính cách huênh hoang Nghệ Tĩnh.
Nghệ Tĩnh xem ra là vùng đất độc tôn của đạo Nho. Phật giáo không sao
phát triển được. Tôi để ý, ở đây có rất nhiều đền miếu nhưng rất ít chùa. Cả
thành phố Vinh chỉ có một ngôi chùa Sư nữ và chùa này không được địa phương
coi trọng. Các nhà sư tụ trì chùa Sư nữ đã phàn nàn với tôi như vậy.
Có một lần, khi tôi đã chuyển ra Hà Nội rồi, nhưng được trường Đại học
sư phạm Vinh mời vào dạy giúp. Tôi nhớ lúc ấy đang mùa hè và ở sân động
Vinh có cuộc đấu bóng giữa Việt Nam và Cu ba, gọi là đá bóng quốc tế. Một
học sinh cũ mua cho tôi một vé vào xem. Anh nói, trận đấu bắt đầu từ một giờ
rưỡi chiều, nhưng phải đến từ 11 giờ trưa mới có chỗ ngồi. Đến muộn chỗ đứng
cũng không có. Tôi không nghe, vì biết sân vận động Vinh hồi ấy rất thô sơ, mái
che không có, chỗ đi toalét cũng không. Mà trời nắng nóng thế này! Anh học trò
đành nhân nhượng, nhưng anh nói, dù sao cũng phải đến sớm.
Chúng tôi đến vào khoảng 1 giờ chiều. Quả là chỗ đứng cũng phải chen
chúc nhau rất chật vật. Vì người ta cứ bán vé bừa bãi. Gần đến giờ đấu, thấy
người vào quá đông, anh gác cửa sân vận động bèn đóng cửa lại. Thế là hò hét,
gào thét. Nguy hiểm nhất là từ ngoài cứ ném đá vào. Công an phải ra sức dẹp
mới yên.
Vào đến sân vận động, tôi thấy có một điều rất lạ là nhiều đàn bà, con gái
đã chiếm được chỗ ngồi hẳn hoi. Chắc là họ đến sớm lắm. Nhưng trông bộ dạng
không có gì là văn minh cả. Hình như phần lớn lại là dân lao động hay buôn bán
rau cỏ gì đó. Vì có người đem theo cả thúng mủng, quang gánh. Chẳng lẽ đàn bà
Nghệ An lại văn minh hơn cả phụ nữ phương Tây? Đàn bà phương Tây cũng
không ham xem đá bóng đến thế. Tôi nghĩ bụng thế và lấy làm khó hiểu.
Nhưng tôi đã nhầm. Trận đấu diễn ra được độ mười phút thì thấy họ lục
tục kéo ra. Phải nói đi ra còn khó hơn đi vào. Vì phải chen lấn quyết liệt. Nhưng
đã quyết thì phải ra bằng được, dù có phải bước qua đầu, qua vai người ta. Và
thế là chửi nhau, đánh nhau, không ai chịu ai. Tưởng đá bóng quốc tế hay ho thế
51
nào nên phải vào sớm để chiếm chỗ, té ra chẳng ra quái gì, chỉ là tranh giành
nhau trái bóng! Thế là phải ra thôi và họ quyết ra bằng được. Đấy, dân Nghệ
Tĩnh là như thế đấy.
ở Đại học sư phạm Hà Nội có hai ngôi nhà năm tầng dành cho các gia
đình cán bộ công nhân viên, gọi là nhà B2, B3, gần kề sân vận động. Sáng sớm
các thầy giáo thường ra đó tập thể dục. Tập thì ít mà nói chuyện thì nhiều. Tôi
bèn đem câu chuyện trên kia ra kể. Nhiều anh người Nghệ Tĩnh lấy làm khó
chịu. Có anh nói với tôi nửa đùa nửa thật: “ Này Nghệ Tĩnh là quê cụ Hồ đấy,
đừng có láo!” Tôi trả miếng ngay: “ Ông có biết vì sao cụ Hồ vĩ đại không? Vì
cụ đã bỏ Nghệ Tĩnh mà đi, đi rất xa và rất lâu. Nếu ở lại Nghệ Tĩnh có khi chỉ
trở thành một ông đồ gàn. Đấy bà chị, ông anh của cụ Hồ là thế đấy! Các danh
nhân Việt Nam quê Nghệ Tĩnh xưa nay đều thế cả, như Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hương…”
Năm 1961,vợ tôi cùng vào Vinh với tôi, dạy ở trường cấp III Huỳnh Thúc
Kháng. Đến năm 1965 thì đựơc ra Hà Nội bổ túc thêm về chuyên môn một năm.
Nhân giặc Mỹ đánh phá miền Bắc, các tỉnh miền Trung thành túi bom, vợ tôi
bèn xin ở lại Bắc, không trở lại Vinh nữa. Từ đó tôi luôn phải ra ra vào vào, đạp
xe mỗi lần hơn ba trăm cây số ( xe cà tàng, đang đi có lần tụt cả pêđan, phải dắt
bộ hàng chục cây số đến chỗ chữa), phần để đọc sách, phần để thăm gia đình.
Nói chung làm khoa học mà ở tỉnh nhỏ rất khó phát huy khả năng. Đã thế chính
sách cán bộ của Vinh lại hẹp hòi, nghiệt ngã kiểu “ cá gỗ”. Vì thế ngay những
cán bộ quê Nghệ Tĩnh cũng chả muốn gắn bó với trường Vinh. Văn Như Cương,
người nghệ An, có làm một bài nhại thơ cụ Hồ:
Thân thể ở trong Vinh
Tinh thần ở ngoài Vinh;
Muốn nên sự nghiệp lớn,
Thì phải chuồn cho nhanh.
Hoàng Ngọc Hiến xui tôi: “ muốn thoát khỏi Đại học sư phạm Vinh thì
phải quậy phá. Cậu cứ đòi đi học tiếng Nga ở Hà Nội ( Đại học sư phạm ngoại
ngữ) trước đã, sau đó sẽ hay.
Năm 1968 tôi theo lời Hiến xin đi học. Năm sau (1969) thì Đại học sư
phạm Vinh cho chuyển ra Hà Nội. Không biết có phải là do mẹo của Hiến
không?
4. Qua Thanh Hoá. Vài nhận xét về mỹ học Xứ Thanh.
Trong thời gian công tác ở Đại học sư phạm Vinh, đi ra đi vào Hà Nội –
Nghệ An, tất nhiên tôi phải qua Thanh Hoá. ( sau này trường Đại học sư phạm
Vinh lại sơ tán mấy năm ở đất Thanh).
Vào đầu những năm 60 của thế kỷ trước, đường xe lửa từ Hà Nội vào
Nam chỉ chạy đến thị xã Thanh Hoá. Đi tiếp vào Vinh, phải đáp ôtô. Thời bao
cấp, ôtô không nhiều. Xuống tầu ở ga Thanh Hoá, tôi phải đợi vài ba tiếng đồng
hồ mới có ôtô vào Nghệ An. Thành ra mỗi lần từ Hà Nội vào Đại học sư phạm
Vinh, tôi cứ phải lang thang ở thị xã Thanh Hoá vài ba tiếng đồng hồ. Làm gì
cho tiêu hết thì giờ? Rất may là tôi có một cái thú riêng mỗi khi đến một vùng
đất mới là quan sát cảnh và người rồi rút ra những nhận xét khái quát về đặc
điểm của địa phương ấy. Chẳng để làm gì cả. Chỉ là một cách giải trí riêng, một
trò chơi trí tuệ thế thôi.
Lang thang ở thị xã Thanh Hoá, tôi thấy nhà nào cũng quét vôi xanh xanh
đỏ đỏ và kẻ chỉ màu, nhà nào cũng căng riđô màu xanh nhạt ở cửa sổ, trong nhà
thì cắt những tranh ảnh ở hoạ báo dán lên tường…vv… Một thứ trang trí bay
bướm tựa như lối trang trí thường thấy ở những tiệm thợ cạo quê mùa- tôi gọi là
“ mỹ thuật phó cạo”.
Tôi đặc biệt để ý đến những bức tranh áp phích treo ở các cột điện minh
hoạ luật giao thông. Hình như thị xã đặt một tay hoạ sĩ vườn nào đó chuyên vẽ
những bức tranh này. Nói về luật giao thông, nhưng chủ đề tuyên truyền luật
giao thông lại bị chìm đi trong một khung cảnh được vẽ rất tỉ mỉ. Chẳng hạn, vẽ
hai xe đạp do đi cùng chiều nên đâm vào nhau, ý nói như thế là trái luật. Nhưng
hình ảnh hai cái xe đạp tông vào nhau kia lại được vẽ rất nhỏ. Nhà hoạ sĩ gia
công nhiều hơn vào việc tô vẽ quang cảnh xung quanh: vườn hoa, cây cối, nền
trời xanh với những đám mây trắng, đàn chim bay…vv…
Tôi kết luận, khuynh hướng thẩm mỹ của dân Thanh Hoá đúng là chỉ
thích vẽ vời hoa lá cành, chứ không chú trọng thể hiện một nội dung gì nghiêm
chỉnh, sâu sắc. Và tôi liên hệ đến mấy cây bút Thanh Hoá, như Hà Minh Đức (
ông Hoài Thanh rất khó chịu về câu văn của Hà Minh Đức), Văn Tâm( Nguyễn
Huy Thiệp rất tinh. Anh nói, văn của Văn Tâm là “ làm dáng trí thức”), Nguyễn
Thanh Hùng ( diễn đạt rắc rối, làm ra vẻ uyên bác, thực chất chả có nội dung gì),
Nguyễn Văn Lưu thì chỉ gia công vào cái giọng mạt sát chua ngoa hàng tôm
hàng cá. Còn Lê Xuân Đức thì huyênh hoang một cách ngu xuẩn… Cách viết và
lối giảng bài của anh Nguyễn Trác cũng thiên về bóng bẩy, hùng hồn, nội dung
thì rất đơn giản.
Tôi có lần trình bầy nhận xét này với Chu Văn Sơn. Anh phản đối:
“Những cây bút ấy đâu phải tiêu biểu cho Thanh Hoá. Thanh Hoá còn có Hữu
Loan, Trần Mai Ninh, Nguyễn Duy nữa chứ! ( Chắc anh không tiện nói có cả
Chu Văn Sơn nữa). Tôi không nghĩ nhận xét của mình đúng với mọi cây bút
Thanh Hoá, nhưng chắc có nói được một điều gì đó có thể gọi là đặc điểm của
người đất Thanh, của mỹ học đất Thanh. Vả lại trên đời này cái gì chẳng có
ngoại lệ. Mọi qui luật, mọi khái quát đều nghèo nàn hơn sự thật. Nhưng cứ để ý
mà xem, có phải chính Chu Văn Sơn cũng có một cái gì rất Thanh Hoá: thích
dùng chữ nghĩa tân kỳ, thích diễn đạt bay bướm hoa lá cành, tuy anh không phải
không muốn phát biểu những suy nghĩ riêng có chiều sâu?
Từ năm 1965, giặc Mỹ đưa không quân ra đánh phá miền Bắc nước ta,
trường Đại học sư phạm Vinh phải sơ tán ra Thanh Hoá, khi ở Hà Trung, khi ở
Vĩnh Lộc, khi lên tận vùng núi Thạch Thành. Sống nhiều với dân Thanh Hoá,
tôi thấy, nói chung họ cởi mở và thoải mái hơn dân Nghệ, tuy cũng hay nói trạng
như dân Nghệ, nhưng để tán cho vui hơn là để khoe tài, khoe giỏi. Thanh Hoá
đúng là đất đẻ ra lắm truyện cười như Trạng Quỳnh, Xiển Ngộ… Chính dân
Thanh Hoá đã tự giễu mình bằng bài vè gọi là “ Quốc ca Thanh Hoá” rất tếu, thể
hiện rất đúng tính cách dễ vui, dễ cười, thích tán, thích đùa của dân Thanh Hoá.
5. Trở lại Đại học sư phạm Hà Nội.
Những ngày gian khổ sau chiến tranh
(1975)
Năm 1970, vợ chồng tôi được đoàn tụ ở Hà Nội. Tôi ở Vinh ra. Vợ tôi ở
Thái Nguyên về.
Thực ra tôi được chuyển ra Đại học sư phạm Hà Nội từ năm 1969 giữa
lúc trường còn ở nơi sơ tán ( Yên Mỹ, Hưng Yên). Năm 1970 trường tuy đã trở
về địa diểm cũ, nhưng vì nhà cửa, phòng ốc chưa được sửa sang, xây dựng đầy
đủ, nên nhiều lớp học phải đặt tạm thời ở Đình Thọ ( Bưởi) hoặc nhà kho của
một hợp tác xã ở Cổ Nhuế.
Năm 1971, vợ chồng tôi mới được phân cho một gian nhà lá, nền đất,
vách đất trong một dãy nhà gọi là K2. Bốn người, hai vợ chồng, hai đứa con (có
khi lại thêm bà nhạc đến chơi với cháu nữa) ở chen chúc trên mười mấy mét
vuông. Mùa hè nóng quá, có khi phải kê giường ngủ ngoài hè. Sách vở đặt trên
những xích đông làm bằng tre nứa.
Cuối năm 1972, máy bay Mỹ lại trở lại oanh tạc miền Bắc, dội B52 xuống
Khâm Thiên, Hà Nội. Vợ chồng tôi lại phải sơ tán một lần nữa, khi ra Tây Tựu,
khi đến Quốc Oai (Sơn Tây), khi về Xuân Cầu ( Hưng Yên). Trường thì lúc đầu
chạy lên Đan Phượng, sau lại chuyển về nơi sơ tán cũ ở Yên Mỹ, Hưng Yên.
Hồi ấy anh Lê Trí Viễn làm chủ nhiệm khoa. Nguyễn Văn Hạnh, Trần
Thanh Đạm làm phó. Có thời gian anh Viễn giao mọi việc cho Hạnh gọi là
quyền chủ nhiệm khoa. Hạnh chỉ định tôi làm trợ lý giảng dạy: theo dõi giảng
dạy, dự lớp giáo viên, tổ chức ra đề và chấm thi tốt nghiệp…vv…
Nhớ lại hồi ấy, tôi tỏ ra rất hăng hái. Viết cũng nhiều, dạy cũng đầy nhiệt
tình. Vì dù sao cũng được về Hà Nội và được đoàn tụ với gia đình.
Ngày 30-4-1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Đây là những ngày rất vui. Tuy nhiên, về đời sống vật chất thì vẫn khổ, có
khi còn khổ hơn cả thời chiến tranh. Vẫn cơm độn mì hay bo bo. Vẫn xếp hàng
chầu chực từ rất sớm để mua gạo mậu dịch. Mì để lâu bị mọt, sinh ra dòi bọ. Tôi
đã thấy một lần như thế trong bát cơm của mình. Sợ quá! Ngày tết thì đem bột
mì đi thuê làm bánh bích quy và xếp hàng mua hàng Tết. Làm gì cũng phải xếp
hàng, phải chầu chực. Quyền thế nhất lúc bấy giờ là bà chủ kho gạo, là cô hàng
mậu dịch… Hồi ấy hay nói đùa: “ Đẹp nhất là hình ảnh một người ngồi giữa hai
bao gạo đầy”. Đây là lúc Hoàng Ngọc Hiến từng phát biểu một câu rất tội: “ Đi
đường thấy một xu ai đánh rơi cũng phải nhặt. Kiếm đâu ra một xu bây giờ!”
Giới nhà văn cũng không hơn gì. Nguyễn Tuân cũng phải xếp hàng mua bia hơi
( ông gọi là bia bơm). Đi đường, ông mang theo một bi đông rượu cuốc lủi,
thỉnh thoảng lại rót ra cái nắp uống. Thương cho cụ Nguyễn quá, bây giờ cụ còn
sống thì tha hồ Wisky, Cognac… Cán bộ miền Nam tập kết, trở lại quê hương
cũng chẳng sướng hơn. Người thì bán cà phê, thuốc lá, người thì bán đá cục,
người thì đêm đêm hì hục làm sữa chua để sáng sớm hôm sau chạy đi bỏ ở các
54
hàng quán…
Vào khoảng 1997, 1998 gì đó, Nguyễn Hưng Quốc về nước có đến thăm
tôi. Anh vốn là học sinh ở Sài Gòn dưới thời Nguyễn Văn Thiệu. Sau 30-4-
1975, anh ở lại thành phố và học văn ở Đại học sư phạm Sài Gòn. Tốt nghiệp,
anh được giữ lại làm cán bộ giảng dạy. ít lâu sau, anh vượt biên sang Pháp rồi
sang úc và hiện đang làm việc ở đấy.
Anh nói, sở dĩ anh vượt biên không phải vì sợ khổ mà cảm thấy tương lai
mù mịt. Anh kể tôi nghe một chuyện thật tội nghiệp.
Hồi ấy còn chế độ bao cấp, mọi thứ thực phẩm đều được phân phối theo
tem phiếu, mà tiêu chuẩn thì rất hạn chế. Tuy nhiên do sự tháo vát của công
đoàn, thỉnh thoảng anh em cũng được mua thêm ít thịt, ít cá ngoài tiêu chuẩn.
Anh nhớ hôm ấy công đoàn kiếm đâu được một mớ thịt đem về chia đều
cho mỗi người một suất. Tất nhiên dù chia cẩn thận đến thế nào vẫn không thể
đều nhau tuyệt đối được. Trong khi chia thịt, mọi người đứng vây xung quanh.
Không ai bảo ai nhưng người nào cũng chăm chăm quan sát các suất thịt xem
miếng nào ngon hơn, miếng nào nhỉnh hơn.
Chia xong, bắt đầu nhận phần. ưu tiên nhận trước phải dành cho bậc cao
niên nhất trong khoa, ấy là thầy Viễn – Lê Trí Viễn. Do đã nhằm sẵn, nhằm kỹ
trước rồi nên được lệnh, thầy chộp ngay lấy một miếng ngon nhất và có phần
nhỉnh hơn các miếng khác một chút.
“ Ôi! – Nguyễn Hưng Quốc nói tiếp – em phấn đấu đến bao giờ mới thành
giáo sư Viễn để được chộp lấy miếng thịt kia! Phải vượt biên thôi! Vượt biên
thôi!”
Tình cảnh cán bộ, trí thức hồi ấy, giờ nghĩ lại, muốn rớt nước mắt.
Hoàng Ngọc Hiến, sau 1975, có vào Sài Gòn, đến thăm một người họ
hàng. Anh nói, khi trở về Bắc, chỉ mong người ta tặng cho mấy thứ đồ điện như
tivi, tủ lạnh hay quạt máy. Nhưng do kính trọng ông giáo sư Bắc Hà quá, người
ta lại chỉ gửi ra toàn đồ mỹ phẩm đắt tiền để tặng bà giáo.
Anh Lê Quang Long vào Huế cũng gặp phải một trường hợp được kính
trọng một cách tai hại như thế. Năm 1977, tôi và anh được mời vào dạy cho Đại
học sư phạm Huế – gọi là thỉnh giảng. Trường cao đẳng sư phạm ở gần kề
trường đại học mời anh sang nói chuyện. Họ đón tiếp rất long trọng: tặng hoa,
và giới thiệu giáo sư bằng những lời lẽ rất to tát, sang trọng. Nhưng chẳng thấy
đưa phong bì gì cả. Đợi mãi mấy hôm cũng không thấy gì. Té ra ở trường này có
một anh bạn cũ của Lê Quang Long dạy học ở đấy từ trước 1975. Người bạn này
một hôm đến gặp anh Long và nói: “ Bọn giám hiệu Cao đẳng nó ngu quá! Nó
định đưa tiền cho anh đấy. Tôi vội gạt đi: “ Đừng làm thế, bất lịch sự! Ông ấy là
giáo sư đấy!”
Lê Quang Long nói với tôi: “ Mình chỉ mong nó khinh mình, chứ kính
trọng thế thì tai hại quá!”
6. Sài gòn, Nam bộ. Vài suy nghĩ về đất và người phương Nam.
Tôi có một bà chị ở Sài Gòn nên xin được vào thành phố này ngay cuối
năm 1975. Hồi ấy muốn vào Sài Gòn phải có giấy phép với lý do có người nhà
trong ấy. Có giấy phép thì mới được đổi tiền Bắc lấy tiền Nam và được đưa vào
theo một đường dây có tổ chức. Từ Hà Nội đi xe lửa đến một chặng nào đấy thì
được chuyển sang ô tô. Chỗ ăn chỗ ngủ đều có người bố trí chu đáo. Lâu rồi, tôi
không còn nhớ nơi ăn ngủ dọc đường, chỉ biết là người ta xếp vào những nhà
dân đã được chuẩn bị sẵn.
Bây giờ nghĩ lại thấy không hiểu sao hồi ấy tôi không có nổi một chiếc áo
veston hay blouson chẳng hạn. Tôi phải mượn ông anh bộ đội chiếc áo kaki bốn
túi của sĩ quan để phủ ra ngoài chiếc sơ mi nhếch nhác ( sau này vào thỉnh
giảng ở Sài Gòn, bà chị tôi may cho một chiếc áo sơ mi cộc tay bằng vải ni lông
trắng. Mỗi khi lên lớp, chỉ có cái áo ấy là trông được. Vì thế ban đêm tôi phải
giặt áo phơi trong phòng ngủ rồi mở quạt hong cho khô, sáng hôm sau mặc lại.)
Lần đầu tiên vào Nam, tôi rất xúc động. Thực ra khi dạy ở Đại học sư
phạm Vinh tôi đã có dịp được tham quan Cửa Tùng, Vĩnh Linh. Tôi còn nhớ
nhìn sang bờ Nam sông Bến Hải, thấy một khẩu hiệu rất lớn quay sang bờ Bắc –
cốt cho người Bắc đọc: “ ở đâu con tố cha, vợ tố chồng?”
Bây giờ xe tôi vượt qua sông Bến Hải. Tôi dán mắt vào bên đường cố ghi
lại mọi cảnh vật. Đây là vùng nguỵ, có gì khác với miền Bắc? Bao nhiêu địa
danh nổi tiếng thường nghe qua đài phát thanh hay đọc trên báo, nay hiện ra
trước mắt mình đây: Gio Linh, Cồn Tiên, Dốc Miếu, Đông Hà, Quảng Trị, Huế,
Đà Nẵng, Hải Vân, Chu Lai…vv…
ấn tượng nổi bật nhất là một màu cát trắng trải dài suốt dọc đường Quảng
Trị với những mái nhà tôn hoang phế, những xác xe cơ giới và giây thép gai
chưa dọn hết, dấu vết cuộc chiến ác liệt còn nguyên vẹn. Càng vào phía Nam
càng lắm dừa. Dừa miền Nam là cây tre của miền Bắc. Rất ấn tượng là những
cây dừa đơn độc đứng trụ hiên ngang trước gió biển mặc cho những tàu lá tung
bay tơi tả - biểu tượng của miền Nam kiên cường bất khuất đó chăng? Tôi bỗng
thấy mình có cái say sưa hào hứng như là đại diện cho một dân tộc chiến thắng
đang tiến quân vào Sài Gòn…
Lần đầu tiên vào Sài Gòn, tôi mới thấm thía được thế nào là sự kì diệu của
tiếng nói dân tộc. Ta vẫn nói, Nam Bắc là một nhà, Việt Nam là thống nhất. Tôi
vào Nam, thấy nhiều điều xa lạ khác hẳn miền Bắc. Nhưng khi nghe người dân
nói, thì đúng là vẫn ngôn ngữ ấy, vẫn tiếng nói ấy của người Việt. Vậy là vẫn
người một nước, vẫn anh em một nhà. Tôi thật sự xúc động.
Chỉ có điều chính sách, thái độ chính trị của ta đã khiến họ trở thành xa lạ,
thậm chí đối địch. Hồi giải phóng Thủ đô, ta đã đốt sách đốt vở rất nhiều. Sách
vở dưới chính quyền nguỵ đều bị coi là văn hóa nô dịch, phải phát động thanh
niên, học sinh tập trung lại, đốt hết. Tưởng việc làm quá khích và dại dột ấy
không lặp lại một lần nữa, khi giải phóng Sài Gòn. Té ra vẫn thế. Vẫn tập trung
và đốt. Tôi đã được chứng kiến những kho sách tịch thu được gom lại ở sở Văn
hoá Sài Gòn. Nhiều sách báo rất quý lẽ ra đưa vào thư viện để nghiên cứu đã bị
quăng hàng đống dưới đất, chắc rồi sẽ bị huỷ hoại hết. Nghe nói nhiều người
dân Sài Gòn sợ liên luỵ, ban đêm đã phải lén lút đem sách vở của thư viện gia
56
đình vất đi. Một hiện tượng thật vô văn hoá, phản tri thức.
Sau 1975, có lần tôi được cử vào Sài Gòn để nói chuyện với các giáo viên
văn học dưới chính quyền cũ về quan điểm của miền Bắc đối với các tác phẩm,
các xu hướng văn học tiền chiến. Học viên đều là những thầy giáo cô giáo đã
đứng tuổi, trong số đó, nhiều người đã viết sách giáo khoa, thậm chí đã là những
cây bút thành danh. Thế mà sau mỗi tiết học, anh đại diện lớp lại lễ phép nói với
tôi: “ Xin phép thầy cho anh chị em hát một bài”. Và họ sắp hàng đồng ca những
bài hát cách mạng mới học được. Thái độ rất nhiệt tình.
Có ai bắt họ làm như thế đâu. Họ tự nguyện hưởng ứng cách mạng đấy
thôi.Vậy mà nghe nói, chỉ vài năm sau, nhiều người đã vượt biên.
Vì sao như thế? Vì ai mà họ cảm thấy không có tương lai, tiền đồ gì, nếu
ở lại với chúng ta?
* *
*
Nhưng hãy trở lại với chuyến đi Sài Gòn của tôi cuối năm 1975.
Về đời sống vật chất, trong tương quan với Hà Nội lúc bấy giờ, Sài Gòn
thật là giầu có, phồn vinh. Hàng hoá đầy ắp các cửa hiệu, tràn cả ra hè phố, cả
lòng đường. Toàn những thứ miền Bắc rất khan hiếm, đặc biệt là quần áo, vải
vóc và đồ dân dụng. Xe máy rất nhiều, trong khi miền Bắc xe đạp cũng không
dễ có.
Vào Sài Gòn ngay sau 1975, người miền Bắc quả đã bị choáng ngợp. Nếu
có chê thì chê theo một định kiến cũ kỹ về mặt đạo đức. Thí dụ, đàn bà con gái
mặc áo dài không có áo lót, hở ra bên hông (Ông Vũ Thuần Nho gọi là triangle
sexuel.) Nhiều cô mặc áo như cái maillot, có cô mặc quần soóc đi ngoài
đường…vv… Giờ thì những cách ăn mặc như thế rất phổ biến ở ngoài Bắc.
Tôi ở Sài Gòn với bà chị ít lâu rồi trở lại Hà Nội, xin được bà chị cái tivi
nhỏ xíu 9 inch, và mua được một ít quần áo và đồ gia dụng lặt vặt.
Dọc đường trở ra Hà Nội, thấy một hình ảnh rất phổ biến và cũng rất tiêu
biểu của những cán bộ, bộ đội được nghỉ phép trở về Bắc: người nào cũng khuân
theo một khung xe đạp và một con búp bê nhựa. Lính thì đi bộ, gánh một đầu cái
khung xe, một đầu con búp bê. Khung xe cho bố mẹ, búp bê là quà cho con. Sĩ
quan thì đi xe ô tô. Đến các bến phà thì lính cũng như quan dừng cả lại để chờ
phà sang sông. Lính nhòm vào xe quan, thấy không phải khung xe đạp, mà ti vi,
tủ lạnh, quạt điện…
Hồi ấy có câu: “ Miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng”. Một cách
chơi chữ thật thần tình.
Sau chuyến đi này, tôi còn có nhiều dịp vào Sài Gòn và các tỉnh đồng
bằng Sông Cửu Long. Nhìn chung người nông dân miền Nam ăn ở rất luộm
thuộm, tuỳ tiện. Nhà nếu không lợp tôn thì lợp lá. Mái rất mỏng, vách cũng ghép
bằng lá. Nền đất lụp sụp, tối tăm, ẩm thấp. Chung quanh cỏ mọc um tùm. Nhà
vệ sinh làm ngay cạnh đường đi quay lưng ra những kênh rạch. Không kín đáo
gì cả. Người ngồi hở mặt nhìn ra đường. Ngay ở Sài Gòn cũng vậy. ở những
xóm nghèo, thấy nhiều nhà chỉ ghép bằng những mảnh gỗ thùng, đóng đinh.
57
Chỗ đi tiểu có khi đặt ngay giữa nhà. Đồ đạc bên trong thì đủ cả ti vi, tủ lạnh, xe
máy, nhưng nhà cửa thì cứ tạm bợ vậy. Những con kênh chảy qua thành phố thì
hôi thối. Bờ kênh chen chúc những túp lều dựng ngay trên những đống rác,
chuột bọ chạy lung tung. Cầu tiêu bắc ngay ra giữa kênh, đàn bà đi tiêu giữa ban
ngày, chỉ lấy cái nón che…
Quan sát cảnh vật và sinh hoạt của con người từ Bắc vào Nam, tôi nảy ra
ý khái quát này: từ Bắc vào Nam là đi từ miền đất nghèo đến nơi giầu có, từ chỗ
hàng năm hễ gặp hạn hán hay lụt lội là đói khát, đến nơi dường như sờ đâu cũng
có cái ăn, cây trái, tôm cá ê hề, muốn chết đói cũng khó.
Nhưng mặt khác, đi từ Bắc vào Nam là đi từ nơi văn hoá cao đến nơi văn
hoá thấp.
Quan sát sinh hoạt, còn thấy người Nam chịu ảnh hưởng Tầu rất rõ,
nhưng là Tầu bình dân, như thích màu sắc thật tươi: xanh, vàng, đỏ. Nhiều món
ăn gốc Tầu. Ngôn ngữ của người bình dân Nam bộ một mặt hết sức nôm na, chất
phác ( ruột, vỏ xe, hộp quẹt…vv…) một mặt lại hay pha chữ Hán (nóc gia, con
lộ, quá giang, khổ qua, đau bao tử, làm đại đi,..vv…) Chùa chiền đặt ngay bên
đường cái, quét vôi xanh xanh đỏ đỏ. Tượng Phật Bà đứng, nằm lồ lộ không kín
đáo gì cả. Tiểu thuyết Tầu ( Tam quốc, Thuỷ hử, Chinh Đông chinh Tây…) và
các loại truyện võ hiệp Tầu ảnh hưởng rất sâu vào văn chương Nam Bộ. Nhiều
cây bút đầu thế kỷ XX phỏng theo truyện Tầu, viết về những Phàn Lê Huê, Tiết
Nhân Quý, Tiết Đinh San…vv… Tiểu thuyết của Bửu Đình, Phú Đức thì bao
giờ cũng xen vào những pha võ hiệp ly kỳ, giật gân… Các nhân vật tiểu thuyết
Tầu còn nhập hẳn vào văn chuơng bình dân Nam Bộ thành nhân vật trong vè, ca
dao, dân ca…
Miền Bắc cũng ảnh hưởng Tầu rất sâu, nhưng chủ yếu không phải văn
chương bình dân, tiểu thuyết bình dân, mà khai thác văn chương bác học, đặc
biệt là thơ Đường, thơ Tống…
Như thế là, về sự tiếp nhận văn hoá Trung Hoa, từ Bắc vào Nam, vẫn là đi
từ nơi văn hoá cao đến miền văn hoá thấp.
Cho nên thời nào cũng vậy những tác gia văn học lớn, những sự kiện văn
học lớn thường xuất hiện chủ yếu ở ngoài Bắc: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ
Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Tú Xương,
Tản Đà, Thơ mới lãng mạn( 1932-1945), Tự lực văn đoàn, Nguyễn Tuân, Vũ
Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài… vv… Những cây bút xuất sắc của Sài Gòn
trước 1975 phần lớn cũng là người miền Bắc, miền Trung di cư vào.
Cho nên chủ nghĩa thực dân xâm nhập vào miền Nam rất sớm, ngay từ
cuối thế kỷ XX. Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trọng Quản đã là những trí thức Tây
học và đã viết văn quốc ngữ theo bút pháp phương Tây hiện đại. Như vậy là cái
tôi cá nhân đã có điều kiện thức tỉnh rất sớm. Vậy mà tiếng nói văn chương của
nó phải đợi đến những năm 30 của thế kỷ XX mới thực sự ra đời với văn thơ
miền Bắc. ở Nam bộ, theo Xuân Diệu, cái tôi cá nhân chỉ có thể cất lên thành ca
cải lương trên cơ sở nhạc tài tử ở miền Lục tỉnh.
58
Nhà văn đích thực của Nam bộ cao nhất chỉ đến Nguyễn Đình Chiểu, Hồ
Biểu Chánh, Phi Vân, Sơn Nam, Nguyễn Quang Sáng. Văn Anh Đức thì nhiều
chỗ như văn cải lương, đồng thời lại bị Bắc hoá. Nguyễn Thi tuy là người Bắc
nhưng lại xứng đáng được coi là tiếng nói văn chương đích thực của nông dân
Nam bộ thời chống Mỹ.
Gần đây xuất hiện Nguyễn Ngọc Tư ( Cánh đồng bất tận) và Mạc Can (
Tấm ván phóng dao). Văn Nam bộ hay nhất không ở tư tưởng mới lạ mà ở thứ
ngôn ngữ địa phương bộc trực, chắc khoẻ, góc cạnh, đầy sức sống. Nhưng các
tác giả thường lạm dụng thứ ngôn ngữ ấy khiến văn của họ trở nên thiếu trong
sáng, khó đạt tới trình độ chuẩn mực cổ điển.
7. Cố đô Huế và quý tộc Huế
Sau 1975, tôi cũng có nhiều dịp vào Huế, hoặc để dạy cho Đại học sư
phạm Huế, hoặc để dự những lớp tập huấn giáo viên phổ thông trung học về
chương trình và sách giáo khoa cải cách giáo dục.
Huế có những đặc điểm rất dễ thấy. Huế là đất cố đô, nên người Huế rất
tự hào về quê hương mình như một trung tâm chính trị, văn hoá. Nhưng Huế lại
lọt vào giữa hai cái đèo cao: Đèo Ngang và Hải Vân, nên tâm lý người Huế có
một cái gì hẹp hòi, co lại, địa phương chủ nghĩa, nghĩa là vẫn một thứ tâm lý
tỉnh nhỏ, không có tầm văn hoá toàn quốc.
Đất kinh đô, nhưng hẹp và nghèo. Thiên nhiên cũng không có gì to tát,
hùng vĩ: “ Sơn bất cao, thuỷ bất thâm”. Từ cách ăn mặc, nói năng, đi đứng, ăn
uống, người Huế tỏ ra rất quý tộc, nghĩa là cầu kỳ, đài các. Nhưng là quý tộc
nghèo. Nguyễn Tuân đã liệt kê ra mười hai thứ muối của người Huế. Cầu kỳ,
tinh vi, đài các đấy, nhưng mà tinh vi ăn muối. Huế là đất có rất nhiều thứ bánh
cũng rất tinh vi cầu kỳ, nhưng tất cả đều làm bằng bột sắn, trong Nam gọi là
khoai mỳ, một loại bột rất rẻ tiền. Có thứ bánh gọi là bánh bèo, nhỏ chỉ bằng
móng tay, đặt trong những chiếc đĩa cũng nhỏ tý xíu. Ăn thứ bánh này, phải làm
cả một mâm may ra mới no được. Cũng là một thứ đài các của quý tộc nghèo.
Huế từng là kinh đô. Người Huế là người kinh đô, nhưng không có tư
cách người kinh đô thật sự, nghĩa là tiêu biểu cho cả nước. Người Huế không
được các địa phương khác quý mến. “ Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay co,
Bình Định hay lo, Thừa Thiên ních hết”. Người Quảng Bình, Quảng Trị, Đà
Nẵng, Quảng Nam đều rất ghét dân Huế. Tôi cũng không ưa người Huế, đúng ra
là không ưa đàn ông Huế:
Sơn bất cao,
Thuỷ bât thâm;
Nam đa trá,
Nữ đa dâm.
Nguyễn Văn Hạnh nói, tôi làm hiệu trưởng Đại học Huế mấy năm mà
không hiểu được bụng dạ người Huế thế nào. Hôm trước vừa phong một anh là
chiến sĩ thi đua, vì rất tiến bộ, rất tích cực công tác. Hôm sau được tin anh ta đã
vượt biên rồi!
59
Viết về Huế, tôi cho có hai cây bút xuất sắc nhất. Một là Phan Du viết rất
hay về tầng lớp quý tộc Huế thất thế, rơi vào tình trạng bần cùng, tuy thực chất
thì rất bệ rạc nhếch nhác, nhưng vẫn làm ra vẻ quý tộc- một thói sĩ diện hão, đài
các rởm nên trở thành hài hước. Hai là Hoàng Phủ Ngọc Tường, tuy không phải
người Huế, nhưng viết rất hay về vẻ đẹp của cảnh và người xứ Huế.
Cảnh Huế thì đẹp thật. Đẹp một cách dịu dàng, thơ mộng. Dòng sông
Hương quả là độc đáo, một dòng sông êm đềm trôi giữa thành phố, soi bóng
những đền chùa, lăng tẩm, những đồi thông, ruộng lúa, nương ngô…
Tôi đã được đi thuyền nhiều lần trên sông Hương, ghé vào thăm lăng tẩm
các vua chúa, nghe ca Huế. Tôi cũng đã nhiều lần được vào Đại Nội và xem
biểu diễn vũ đạo cung đình.
Có lẽ Hoàng Phủ Ngọc Tường là người hiểu Huế và yêu Huế hơn ai hết.
Anh cố gắng gắn Huế với lịch sử lâu đời của dân tộc – không phải từ thời Chúa
Nguyễn vào đất Phú Xuân – mà từ thuở Bà Trưng, Bà Triệu, đời Lý, đời Trần.
Anh lại gắn Huế với Nguyễn Du và Truyện Kiều, và lắng nghe như thấy vọng
về, qua giọng ca Huế, tiếng đàn thánh thót của Thuý Kiều: “ Trong như tiếng
hạc bay qua, Đục như nước suối mới sa nửa vời…”
Bài “ Ai đã đặt tên cho dòng sông” của anh có thể xem là một áng văn
tuyệt đẹp. Anh không những nói về Huế – văn hoá, Huế – thơ mộng, mà còn
phát hiện Huế – anh hùng từ thời viễn cổ từng bảo vệ biên thuỳ phía Nam của
nước Đại Việt. Anh đã làm sang nhiều cho Huế.
Nhưng tôi thì thích Huế vừa vừa thôi.
Huế tham quan ít ngày thì thích, ở lâu thì buồn, ở mãi thì chán. Hồi
Nguyễn Văn Hạnh làm hiệu trưởng Đại học Huế có thuyết phục tôi vào với anh.
Anh nói, qui luật phát triển của dân tộc ta là vô Nam, là Nam tiến. Vào Huế với
anh là đúng qui luật.
Nhưng tôi đã từ chối. Và đó là một quyết định đúng.

No comments:

Post a Comment