Sunday, December 25, 2011

Về một vùng đất phong lưu

Về một vùng đất phong lưu
Huy Nguyên

Miền Tây Nam Bộ luôn là một vùng đất kỳ thú, thu hút nhiều du khách. Đối với tôi, Miền Tây là một nỗi niềm ám ảnh, khiến tôi luôn nghĩ đến và muốn đến. Từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước, học ở Sài Gòn, lúc nào rảnh rỗi, có điều kiện là tôi đi xuống Miền Tây. Bây giờ cũng thế! Đến nay, có thể nói bước chân của tôi đã đi qua hầu hết các tỉnh Miền Tây. Tất nhiên làm sao mà đi khắp các làng xã của vùng đất rộng lớn này! Chủ yếu là đi du lịch, đến nhiều nơi và đi thăm những thắng tích nổi tiếng, ngắm nhìn cảnh sắc và làm quen với những con người chân chất, thân thương ở những địa danh quen thuộc.

Đi, đến nhiều nơi, nhưng vẫn thiếu. Một lần từ TP Hồ Chí Minh, đi xe đò xuống Cà Mau, xe chạy xuyên qua Bạc Liêu, chỉ nhìn ngắm được cảnh vật hai bên đường. Chưa ghé thăm Bạc Liêu được, thì tạm ghi nhận qua Internet vậy!

Bạc Liêu là vùng đất tận cùng của đất nước mới được khai phá từ đầu thế kỷ 18. Trước đó Bạc Liêu còn là nơi hoang vu, sau được người Hoa gốc Triều Châu đến đây lập thành làng xóm, sống bằng nghề chài lưới. Địa danh Bạc Liêu xuất phát từ tiếng Triều Châu là Pò Léo, có nghĩa là xóm chài lưới (hạ bạc). Bức tranh Bạc Liêu xưa được mô tả qua câu ca dao:
Bạc Liêu là xứ quê khờ
Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu
Nói về Xứ Cạnh Đền (nay thuộc xã Ninh Thạnh Lợi, huyện Hồng Dân, Bạc Liêu).
Gả con về xứ Cạnh Đền,
Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lềnh tựa bánh canh.

Nhắc đến Bạc Liêu là nhiều người nghĩ ngay đến giai thoại về công tử Ba Huy nổi tiếng phong lưu, ăn chơi bạt mạng và lắm vợ, nhiều bồ. Là người hào hoa phong nhã, Ba Huy ăn chơi nức tiếng như chuyện Ba Huy đốt tiền nấu chè thi gan với công tử Phước (Phước Georges, người xứ Mỹ Tho, con trai Đốc phủ sứ Sảng). Công tử Bạc Liêu đã từng quậy tưng bừng tại khu Đại Thế Giới, là khách quen của hầu hết các nhà hàng sang trọng tại Sài Gòn. Ba Huy đã từng bao cả nhà hàng một đêm để đãi duy nhất một người đẹp. Nhà Công tử Bạc Liêu tại số 13, Điện Biên Phủ, thành phố Bạc Liêu. Hiện nay căn nhà này được dùng làm khách sạn trong hệ thống Nhà hàng - Khách sạn công tử Bạc Liêu.

Bạc Liêu xưa là đất ăn chơi nổi tiếng. Nhiều đại điền chủ Nam Kỳ lục tỉnh vào những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, đến đây tung tiền xây cất dinh thự. Du khách tới TP Bạc Liêu sẽ không khỏi ngỡ ngàng khi nhìn thấy nơi đây có những dãy nhà Tây sang trọng, với vật liệu trang trí nội thất như cửa và chấn song cửa, gạch và đá cẩm thạch ốp tường hoặc lát nền đều nhập từ Paris về.

Về Bạc Liêu, lại nhớ đến soạn giả Cao Văn Lầu - người sáng tác ra bản nhạc “Dạ cổ hoài lang” độc đáo.
Cao Văn Lầu (1892 – 1976) quê gốc ở Long An nhưng cha mẹ vì nghèo, bị áp bức nên tìm đến đất Bạc Liêu sinh sống. Vợ chồng ông ăn ở với nhau suốt ba năm không có con, khiến mẹ chồng phật ý, bắt phải ly dị. Sáu Lầu đối diện với nỗi đau xa cách người vợ thương yêu, ngày ngày xách đờn ra bìa ruộng, nơi vợ chồng biệt ly để đàn những bản nhạc vợ ông ưa thích. Một đêm trung thu năm 1919, ông trằn trọc không ngủ được, tiếng trống sang canh vọng lại càng khiến ông đau lòng. Mình thì chưa ra trận mà vợ đã thành người vọng phu.

Và thế là: Từ là từ phu tướng. Bảo kiếm sắc phán lên đàng. Vào ra luống trông tin nhạn. Năm canh mơ màng... Dạ cổ hoài lang ra đời. Mượn tiếng trống đêm (dạ cổ) để làm nhịp cầu chở nhớ thương, mong đợi của người thiếu phụ vọng phu (hoài lang).
Hiện nay ở thành phố Bạc Liêu có đường phố Cao Văn Lầu và giải thưởng VHNT của tỉnh Bạc Liêu mang tên Cao Văn Lầu.
Về vùng đất này, ta nghe lại những bài hát hay, nhưng giọng điệu buồn thương, ngậm ngùi nhớ về một thời khổ đau mở đất năm xưa: Bài ca Đất Phương Nam, Điệu buồn Phương Nam, Đêm Gành Hào nghe điệu Hoài Lang…
Lời ai ca... dưới ánh trăng nay...
rừng nước mênh mông, đêm Gành Hào chợt thương nhớ ai,
ngày ấy ra đi con sông buồn tiếc một dòng trôi
Bạc Liêu ơi... có nhớ chăng người ...
thuở ấy thanh xuân trăng Gành Hào tròn như chiếc gương
giờ tóc pha sương qua Gành Hào tiếc một vầng trăng.
Cũng từ chất phong lưu, tài tử đã thành truyền thống, đất Bạc Liêu ngày nay có nhiều sinh hoạt văn nghệ khá phong phú, cả về phương diện sáng tác lẫn diễn tấu. Trung Tâm VH TP, CLB Hồ Nam mỗi đêm trong tuần đều diễn ra hoạt động văn nghệ. Đầu tuần thì hát karaoké, cuối tuần thì hát nhạc sống và khiêu vũ, thưởng thức nhạc Trịnh...Các TTVH huyện tổ chức tụ điểm hát với nhau. Nghe đâu phong trào này đang gặp khó khăn, nhưng với chất tài tử của người Bạc Liêu, chắc phong trào sẽ được vực dậy và có bước phát triển mới.

Gần đây tôi có vào blog Gió Phương Nam để đọc thơ của người Bạc Liêu. Thơ Gió Phương Nam có giọng trẻ trung, tha thiết. Mới xuất hiện nhưng cô đã viết khá nhiều về tình người, tình đất với nhiều địa phương khác nhau, nhưng điều đáng quý nơi cô là tấm lòng tha thiết với quê hương. Lứa tuổi của cô lớn lên nơi vùng đất phương nam của thời hiện đại, với vẻ đẹp tân kỳ, đâu còn chất phèn chua mặn của những ngày khai hoang vỡ đất đau thương, nên thơ cô viết về Bạc Liêu tươi trẻ, sinh động với làng quê, phố thị đẹp đẽ, reo vui. Điều đó làm nên chất nhạc, chất thơ mới của Bạc Liêu hôm nay.

Sinh ra và lớn lên ở TP Bạc Liêu, lấy chồng Người Phương Bắc, nhưng Gió Phương Nam vẫn sống và làm việc (ngành Y) trong địa bàn tỉnh Bạc Liêu. “Con sáo sang sông”, nhưng luôn nhớ đất quê, và “Chim Sáo quay về”:
Mùa xa gió cũng lim dim nhớ
mưa đến rồi đi nắng ngủ vùi
chim sáo quay về thăm bến cũ
ngập ngừng con nước áo lụa phơi

Vì trong lòng luôn “Thương Lắm Bạc Liêu”:
Bạc Liêu ơi quê mình thương lắm
Vẫn ngàn đời muối mặn gừng cay
Những cánh chim phương nào có mỏi
Hãy về nghe mưa nắng đong đầy!

Đọc bài thơ, tự nhiên tôi nhớ đến lời bài hát “Điệu buồn Phương Nam” của Vũ Đức Sao Biển:
Chợt thương con sáo bay xa bầy
sương khói buồn để lại lòng ai
Con sáo sang sông
Sáo đã sổ lồng
Bay về Bạc Liêu, con sáo bay theo phương người
Bay về Trà Vinh, con sáo bay qua đời tôi.

Nhưng nỗi ngậm ngùi xưa “Về phương Nam ngắm sông ngậm ngùi, Thương những đời như lục bình trôi..” thì không còn nữa, chỉ có nụ cười vui tươi, pha chút dí dỏm trong tâm tư của “Chim Sáo quay về”:
Trách hờn chi những con thuyền giấy
chở câu hò đưa sáo qua sông
hàng dừa nước cong mình tay vẫy
sóng nôn nao… sóng đổ nghiêng lòng

“Mai Anh Về” là lời mời gọi tha thiết, thắm đượm chất tình, nhưng đó không phải là cái tình dành cho một người, mà là tình yêu lớn, nỗi tự hào về quê hương tươi đẹp của mình:
Mai anh về Bạc Liêu với em
Nhặt câu vọng cổ rớt bên thềm
Để tin có sóng dâng lên mắt
Gió mát từ môi…mát xuống đêm

Anh có về mà nghe lúa hát
Lời phù sa kể chuyện trăm năm
Biển hào phóng mặn mòi hạt muối
Đất bao dung ngọt mát hương tràm
Thơ văn viết về vùng đất phương nam thì nhiều lắm. Ngày trước tôi đã từng nôn nao với những trang văn của Đòan Giỏi, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Trang Thế Hy…, bây giờ thì cứ vào trang web Sông Cửu Long tha hồ mà đọc! Nhưng nói riêng một chút về Gió Phương Nam, nhờ người bản địa cảm hộ cái đẹp, vẻ hấp dẫn của Bạc Liêu hôm nay. Đó cũng là cách “mượn hoa bái Phật”, Gió Phương Nam chắc cũng vui lòng, không trách đâu!
Thôi, tìm hiểu về Bạc Liêu như vậy cũng tạm đủ rồi! Bài viết này chủ yếu ghi chép tư liệu từ Internet, copy nhiều, các bạn thông cảm. Mong sớm có dịp đến vùng đất này này để được nhìn ngắm những thắng tích : Phước Đức cổ miếu, Chùa Xiêm Cán, Tháp Vĩnh Hưng, Vườn chim, Vườn nhãn….Ngày ấy, tôi sẽ đến chợ Bạc Liêu nếm thử Cốn xại (cải muối), Xá bấu (củ cải muối), Bánh Củ cải - những món ăn truyền thống của người Hoa. Đi theo đường Cao Văn Lầu chạy ra mé biển, đến Giồng Nhãn (Hiệp Thành) ăn Bánh Xèo; đến chùa cô Bảy (P.5, TPBL) ăn Lẫu Mắm; đến đường Lý Tự Trọng ăn Bánh Tằm bì. Có điều kiện thì đi Hồng Dân ăn Mắm Cá trắm, đến thị trấn Ngan Dừa ăn Bánh Tằm... Chắc ở những nơi này thế nào cũng có Bún Bò Cay ăn sáng, và trưa chiều ăn cơm với món Cá chốt kho sả kèm với rau đắng, hoặc dưa bồn bồn, dưa năn bộp. Gặp mùa nhãn, thì đến một khu vườn nào đó nằm đu đưa trên võng, ăn thử nhãn da bò mà nghe ca vọng cổ. Còn nào là Mắm Chua Vĩnh Hưng, Đuông Chà là...Làm sao thưởng thức cho hết những món bình dị, dân dã nhưng ngon nổi tiếng của vùng đất này đây! Có thể những món trên, một vài nơi khác cũng có, nhưng món ăn Bạc Liêu có hương vị riêng, hấp dẫn, làm nên đặc sản của xứ Bạc Liêu!
Mời các Bạn nghe lại bài hát: Chim Sáo Phương Nam:
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=bC90vRBJkP

VỀ MỘT VÙNG ĐẤT
Anh về thăm đất Bạc Liêu
Gặp người con gái mỹ miều dễ
thương
Ra đi lòng dạ vấn vương
Ước gì ta có người thương chốn này.
Anh nói vậy chứ thực tình chưa biết Bạc Liêu nằm giáp tỉnh nào cả. Khi nào đó cũng phải đi một chuyến. Cám ơn GPN đã giới thiệu quê mình với bạn đọc, qua câu chuyện “Về với vùng đất phông lưu”


Chất thơ của vùng đất phương Nam
Bản sắc riêng của thơ Tây Nam Bộ, có hay không? Tôi cho là có. Chỉ còn chuyện là tìm. Cùng nhau đi tìm. Cần bàn bạc, trao đổi. Chớ nên áp đặt. Cũng không nên nghĩ là có thể dễ dàng giải quyết qua một cuộc hội thảo, cho dầu đó là cuộc Hội thảo được chuẩn bị chu đáo, rất nhiều tâm huyết, rất nhiều kỳ vọng.
Chẳng hạn, có người cho rằng, sự chân tình và giản dị chính là hồn cốt của thi ca miền Tây. Rất có thể. Chỉ xin đừng tuyệt đối hóa những đặc tính ấy. Đọc Kim Ba, tôi lại thấy khác. Ấn tượng nhất có được từ bài Trăng hoàng hôn là những câu thơ chất chứa suy tưởng:
Ta vẫn quen nghĩ về trăng một vật thể cổ xưa mà quên rằng trăng có khoảnh khắc hóa thân này bởi làn ánh sáng biết run rẩy!
Ta vẫn quen nghĩ về trăng một hành tinh chết lặng mà quên rằng trăng tự tái sinh mỗi ngày như tín hiệu tình yêu tồn tại!
Đây là nỗ lực tìm tòi để đổi mới thơ theo hướng hiện đại. Có lẽ nhờ vậy mà anh được Giải nhất Cuộc thi thơ của Báo Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh năm 1993.
Tuy nhiên, không ở đâu cái chất triết lý lại đậm đặc như trong thơ của bậc kỳ lão Trang Thế Hy. Tôi đã có dịp đến thăm ông, chăm chú lắng nghe ông nói. Toàn những điều thú vị được chắt lọc từ đời sống nhất là từ sách vở. Ông đọc rất nhiều, đủ loại sách Đông Tây kim cổ. Phần nhiều là văn chương. Và tôi biết ông nghĩ còn nhiều hơn. Phụ bản thơ Báo Văn nghệ số 3 năm 2003 có trân trọng giới thiệu một chùm thơ của ông. Định lý và định lý là một bài thơ đặc sắc. Thật khó quên những khái quát sau của một nhà hoạt động văn nghệ lịch lãm: “Một cơn đói ngắn hạn có khi là cô đỡ giúp một thiên tài đẻ ra tuyệt tác / Còn sự đói bụng kéo dài quá lâu của một cộng đồng quá lớn người nghèo khổ chỉ đẻ ra nhà giam để nhốt người phạm pháp mà thôi. Thơ Trang Thế Hy thường thế! Là một nhà viết truyện bậc thầy, ông quen dùng hình thức thơ - văn xuôi để diễn tả những cảm xúc và suy nghĩ sâu lắng của mình. Các bài thơ khác như: Người bạn đường có tên là Hy vọng, Dấu răng, Từ một món đồ chơi của tuổi thơ nghèo... “ cũng cùng một cách nghĩ, cách cảm, cách viết tương tự. Có thể chân tình, nhưng không thể bảo chỉ có giản dị.
Để nhận ra nét riêng biệt của một vùng thơ, điều quan thiết nhất có lẽ là cùng xác định cơ sở xuất phát chung. Có thế mới dễ trao đổi và mới đi đến hiệu quả. Đó là gì vậy? Phải chăng đó là nét đặc thù của lịch sử, của thiên nhiên, của văn hóa. Cần chú trọng điểm sau cùng. Và cũng cần lưu ý đến đặc trưng của nghệ thuật, ở đây là thi ca, mà điểm nổi bật là cái chung phải được chuyển hóa trong cảm nhận riêng của từng người cầm bút.
Đội ngũ sáng tác thơ ở Đồng bằng Sông Cửu Long có thể nói là khá hùng hậu. Ta có thể dễ dàng bắt gặp bóng dáng sông nước, hình ảnh con người Nam bộ qua tâm tình của bất cứ cây bút thơ nào ở đây. Bài Tản mạn hoàng hôn của Quốc Bình chọn những ý thơ thật đẹp:
Chờ ai qua buổi muộn màng
Đò ngang chở giọt nắng tàn rơi theo
Người về bến cũ gieo neo
Trả cho sông lạnh cánh bèo phân ly
Những con đò, bến cũ, sông lạnh, cánh bèo... có lẽ không mới, thế mà vẫn gieo vào lòng ta một cảm giác bâng khuâng. Hình như ta đã bắt gặp đâu đó cảnh tượng ấy. Và thế là lòng ta cứ như có sóng vỗ... Cây bút trẻ Vũ Hồng chuyên viết văn xuôi và có thể xem là đã sớm thành danh trên địa hạt này khi có dịp đến với thơ cũng đã tạo nên nhiều ấn tượng. Bài Người Phương Nam nói với tôi về điều đó:
Người Phương Nam say thì say trọn
Người Phương Nam buồn thì buồn sâu
Không rõ có gì trong những vần thơ dung dị kia lại có thể găm vào trí nhớ của tôi ngay từ lần đầu được nghe ở Đà Lạt. Cảnh và người ở Đà Lạt có phần khác, chính vì thế cái lạ của hai câu thơ thể hiện cái lạ của cảnh và người miền Tây có dịp nổi bật lên chăng!
Các tác giả ở đây phần đông đều ý thức được trách nhiệm xã hội đặt lên vai mình. Đây, hai câu đầu bài Vô đề của Tô Nhược Châu:
Vắt cạn máu đời lên nghiên mực
Giận mình không viết được câu thơ
Người cầm bút có trách nhiệm nào đều hơn một lần trải nghiệm điều ấy. Sống hết mình mà sao vẫn cứ chật vật trước một câu thơ? Cố nhiên, đây là những câu thơ tâm huyết trong mong đợi của ta và của người. Tâm huyết chứ chưa hẳn là hay. Hay được, dẫu chỉ là một câu, là khó lắm. Có khi phải đánh đổi một đời. Hai câu sau đẩy ý thơ đi xa hơn:
Quẩn quanh giữa trận đồ hư thực
Trang giấy buồn hiu cứ đợi chờ
Không đúng vậy sao! Ngoài chuyện riêng - chung ra, thi ca bao đời nay rút cuộc chỉ xoay quanh chuyện hư - thật. Lúc nghiêng về phía này, khi ngả về phía kia. Rất cần sự hòa quyện giữa chúng. Đã mấy ai đắc đạo thi. Lòng buồn hiu như tranh giấy trắng. Vẫn cứ đợi cứ chờ. Vẫn không thôi vươn tới. Người ta gọi văn chương là cái nghiệp, phải quá rồi. Thật đáng yêu, đúng quý cái sự bất lực trong thể hiện ý đồ sáng tạo thi ca kiểu ấy. May thay, hướng đi của các cây bút thơ Đồng bằng sông Cửu Long nhìn chung được xác định rõ ràng: Thơ, nói gì thì nói, cần phải hữu ích.
Người đọc lắng nghe gì trong thơ? Tâm tình. Tình lại được khởi phát từ cảnh, từ sự, như nhà bác học Lê Quý Đôn từng dạy. Nhập vào cảnh và sự để cái tình phát lộ. Muốn được như vậy, người cầm bút không chỉ là nhân chứng mà phải nhập cuộc, thật sự nhập cuộc, như một thành viên, không một phút tách rời. Nếu không, những vần thơ nhàn nhạt, quá dư thừa, có cơ nảy nở. Thơ chấp chới bởi người viết chấp chới; chân không tới đất, cật không tới trời. Kiểu như: “Ơi cô gái miền Tây / Ngực căng đầy sức sống/ Sau một ngày lao động / Dường như em đẹp thêm / Cô gái miền Đông Nam Bộ không thế chăng?/ Miền Bắc, miền Trung không thế chăng?”. Hay như: “Có một thời ta nói với nhau / Về hạnh phúc về những gì rất thật / Trái ổi chín sau vườn thơm nức / Chim sẻ bay qua buổi sáng trong lành”. Đọc lên nghe cũng dìu dịu, êm êm. Nhưng chẳng vương chút vị đậm đà nào như vị sầu riêng miệt vườn, chỉ một lần nếm là nhớ mãi. Chớ nên viết những câu thơ hợp với mọi nơi, mọi thời, khi chưa thật sự có tài. Tôi e những câu thơ trên sẽ như con chim sẻ không có chỗ đậu, do thế mà bay đi mất hút.
Thơ hay cần được ghi dấu địa chỉ tâm hồn. Câu chữ, hình ảnh là chuyện đến sau. Có dịp dừng chân ở thị xã Trà Vinh, bạn sẽ thấy bạt ngàn cây xanh. Phần nhiều là cổ thụ. Nhà thơ Lê Tân, một trong những chủ nhân của thị xã đáng yêu ấy, có lần đưa chúng tôi đi dạo, không sao kìm nén được niềm tự hào. Nếu có gọi là tự mãn thì cũng chẳng quá đâu. Đáng tự mãn, tự kiêu lắm chứ! Xin cảm ơn Thái Hồng đã sáng tạo nên Tình ca xanh để ca ngợi Trà Vinh xanh:
Giọt đàn thánh thót chiều êm
Chừng như trong tiếng gió mềm lá rơi
Tinh tế, quả là tinh tế. Lại còn phát hiện ra vẻ chung tình, rất chung tình nữa kia:
Ví như tình đã trăm năm
Lá vàng cứ rụng vẫn thầm đợi nhau
Liên tưởng khoáng đạt mà nhất quán. Đọng, rất dễ đọng trong tâm trí.
Sáng hôm ấy, Lê Tân còn cho tôi đi qua Cầu Ngang - một địa danh nổi tiếng ở Trà Vinh. Chợt hiện trong tôi những câu thơ của Tăng Hữu Thơ:
Lơ lửng chiều, cò trắng chớp trong mây
Mùi rơm rạ, mùi trâu bò vương vất
Và:
Chân chưa chạm mặt đường, chân đãmê bước tới
Người chưa rõ mặt người, hồn đã vang tiếng gọi
Thương mến ơi! Tình đã thắm bao ngày
Thi ca giúp tăng thêm ấn tượng của một chuyến đi. Chúng tôi dừng chân ở Ba Động. Lê Tân chỉ cho tôi hoa muống biển và đọc cho tôi nghe những vần thơ quen thuộc viết về loài hoa ấy của chính mình:
Đã đi cuối đất cùng trời
Hoa lan, hoa cúc... giữa đời ngát hương
Mà sao cứ nhớ, cứ thương
Màu hoa muống biển suốt đuờng tôi qua
Và cho tới lúc này, hồi ức tôi vẫn còn âm vang Chiều Ba Động của Châu Thị Cẩm Liên:
Chân trần êm êm cát mịn
Tôi về Ba Động chiều nghiêng
Tôi thích cái cảm giác đặt bàn chân trần trên cát mịn, như muốn hòa quyện hồn vía vào đất mẹ, lấy sức mạnh từ nơi đất mẹ. Cát êm hay lòng êm? Chiều nghiêng hay lòng nghiêng? Để rồi tôi có dịp gặp lại hoa muống biển trong thơ qua một cảm nhận khác, giữa động cát, xao xuyến đến ngỡ ngàng:
Động cao trải dài năm tháng
Triền xanh muống biển dịu dàng
Nhớ ai mà hoa tím vậy
Vỗ bờ biển hát chung chiêng
Ám ảnh ta nơi đồng bằng không chỉ có hoa muống biển. Còn có màu điên điển nở vàng như nỗi nhớ, vàng đến nao lòng. Rất nhiều lần, dọc ngang miền Tây trên xe máy cùng với một người bạn, tôi đã dừng lại, lặng ngắm từng cánh hoa điên điển với mong muốn lưu giữ thật lâu dư vị của đồng bằng. Tiếc là trời không cho tôi khiếu làm thơ để có thể viết về loài hoa đặc trưng kia như Mai Nhã Tú đã viết: “Thương loài hoa chân chất/ Cánh bé nhỏ đơn sơ/ Rụng vàng bên bờ đất/ Trong gió đồng phất phơ”. Vâng, cánh hoa điên điển quả là mảnh mai, không một chút kiêu sa, chính vì vậy mà có thể hòa vào sông nước mênh mông, vào màu xanh ngút ngàn của Đồng bằng Nam Bộ. Nghĩ về loài hoa ấy không hiểu sao tôi lại liên tưởng tới những con người của vùng đất ấy, rất bình dị, khoáng đạt và thủy chung. Trước hết là những người con gái:
Nơi những cô gái gội tóc bằng tro bếp
Xõa dài cho gió hong khô
Như ngô non thơm mát hồn nhiên
Râu lún phún đón phấn vàng hào phóng
Vòng ngực căng hơi thở nội đồng
( Trầm Hương - Vết nhẫn trên ngón tay thiếu nữ)
Đất ấy đã sinh ra người ấy với những phẩm chất thật thanh cao. Và khi đã sống hòa vào thiên nhiên và cảnh vật thì con người hình như có sức quyến rũ riêng, ít đâu có được:
Có phải em thường ngủ chung với ngâu
nên em thơm... buổi chiều quá đỗi!
Và:
Em thường lội hái sen
Sao em thoang thoảng giữa sen và nước
Hoa đẹp hơn hay người đẹp hơn? Khó mà đoán định nổi. Bài thơ Gái và hoa của La Quốc Tiến muốn thể hiện điều đó chăng? Xin cảm ơn những cây bút Đồng bằng đã giúp người và hoa ngoài đời thăng hoa trong nghệ thuật với vẻ đẹp vừa hư vừa thực ấy! Dấu ấn của đất trời và con người phương Nam trong thơ Đồng bằng quả là sâu đậm.

No comments:

Post a Comment