Sunday, December 25, 2011

Hãy chữa trị căn bệnh “vô cảm”

Hãy chữa trị căn bệnh “vô cảm”
Viết bởi Lam Yên
“Vô cảm” là biểu hiện của sự xuống cấp về đạo đức, khi người ta chỉ biết đến mình, cái gì có lợi cho mình, còn những chuyện không phải của mình, không thuộc về mình thì không cần quan tâm. “Vô cảm” có nghĩa là thờ ơ với nỗi đau của người khác, không có sự động lòng, không rung cảm khi người khác gặp phải bất hạnh; quay lưng với đồng loại khi họ gặp cảnh khốn cùng. “Vô cảm” đồng nghĩa với lối sống ích kỷ, thiếu tính từ bi, hay cũng có thể nói là thiếu lương tri.

Bệnh thể hiện ở những hiện tượng sau:

Không sẵn lòng giúp đỡ những người gặp khó khăn hoạn nạn, mặc dầu mình có điều kiện có thể giúp đỡ được, hoặc có người, khi thấy những người hành khất thì xua đuổi, dè bỉu. Đi đường gặp người bị tai nạn vẫn bỏ đi không cứu giúp. Thậm chí có kẻ còn nhân cơ hội tìm cách “hôi của” của người bị nạn.

Tôi đã không ít lần chứng kiến sự vô cảm đáng sợ. Trên xe buýt hoặc ở nơi công cộng, thấy người tàn tật không giúp đỡ, không nhường chỗ cho người tàn tật, người già, có khi lại còn cười trước những khuyết tật của họ. Căn bệnh này, có khi còn ở ngay trong công sở, bệnh viện, hoặc cơ quan có thẩm quyền, chẳng hạn những người có trách nhiệm giải quyết vấn đề khúc mắc cho dân, nhưng không quan tâm giải quyết cho người dân, mặc dù người dân phải đến trình bày năm lần bảy lượt, thậm chí còn phải chịu sự quát tháo của người có trách nhiệm giải quyết. Rất nhiều tệ nạn và hiện tượng thể hiện sự vô cảm không thể kể hết.

Hiện tượng học sinh ở thành phố Hà Nội, thành phố Vinh cả tập thể đánh bạn đã làm dấy lên sự khiếp sợ trong cộng đồng, họ sẵn sàng làm nhục bạn rồi đưa lên các trang mạng xã hội, đó là thái độ vô cảm, vô lương tri, chỉ vì thấy không thích bạn là liền đánh người, cái cảnh “mạnh hiếp yếu, a dua” lại có thể xuất hiện ngày một nhiều ở học đường là điều không thể chấp nhận. Sự việc mới đây, cô gái 19 tuổi đã dùng cái đục thợ mộc của cha mình làm hung khí đi giết thiếu phụ đang mang thai gần kỳ sanh nở, đã từng một thời là bạn học chung trường, chỉ vì thiếu phụ ấy đã cưới người mình từng yêu. Mặc dù, người bị hại đã quỳ gối van xin tha chết. Ấy vậy mà những nhác đục oan nghiệt kia vẫn không buông tha hai sinh mạng chỉ để thỏa cơn tức giận vì tự ngã của bản thân mình. Sự vô cảm này quả là tàn khốc.

Còn đó, những cảnh vô cảm ngay trước mắt chúng ta, khi một số thanh thiếu niên tán tận lương tâm, vì cơn nghiện games đã không khống chế nỗi con ma nghiện hoành hành, sẵn sàng ra tay chém đi bà nội của mình lấy chút tiền mọn để thỏa mãn cơn nghiện quái ác… Lại còn cảnh bà cụ đã nâng đỡ một kẻ từng lầm đường lạc lối chỉ vì muốn anh ta làm lại một người hữu ích cho xã hội, thế mà anh đã nhẫn tâm giết đi bà cụ với ánh mắt không nhìn rõ, chỉ vì mấy trăm ngàn đồng dành dụm của bà. Bà cụ đã từng cho anh ăn, cho anh uống, cho anh tá túc khi xã hội và người thân đã ruồng bỏ anh, thế mà anh xuống tay không một chút trắc ẩn của lương tri…

Tôi từng chứng kiến cậu tôi vì đam mê học đánh đàn, đến khuya mới trở về nhà, trên đường bị những con bạc triệt tiêu lẫn nhau đã bắn nhầm trúng trọng thương. Cậu lê lết đến hai trăm mét gần căn nhà nọ kêu cứu, nhưng thật bất hạnh, người trong nhà ấy đã vô cảm, không động lòng trước tiếng kêu cứu của kẻ trọng thương, và cuối cùng Cậu đã quằn quại liên tiếp cho đến khi máu đã không còn chảy nữa…!

Còn vô số những hiện tượng “vô cảm” như thế đang làm nhức nhối xã hội. Làm sao cứu con người thoát khỏi căn bệnh này!

Vì sao con người trở nên vô cảm

Có người bảo rằng: họ không vô cảm, mà họ ích kỷ. Họ ích kỷ không phải vì tham lam (tất nhiên có người tham lam, nhưng không phải đa số), mà họ ích kỷ vì họ sợ. Tại sao sợ, tại vì xã hội nhiễu nhương, người tốt kẻ xấu không thể phân biệt, nên ai cũng đâm ra nghi kỵ lẫn nhau, thành thử lòng rung cảm, tính vị tha bị coi rẻ, thay vào đó là sự lạnh lùng “vô cảm” đã soán ngôi. Thạc sĩ tâm lý Nguyễn Thị Minh, chuyên viên tư vấn tâm lý, giảng viên Học viện Hành chính Quốc gia TP.HCM cho rằng: “Ngày nay khi tốc độ đô thị hóa ngày một nhanh, sự lên ngôi của Chủ nghĩa vật chất, cùng với sự phân hóa giàu nghèo, đã sản sanh tính vị kỷ, khiến mọi người chỉ nghĩ đến hạnh phúc của bản thân hoặc gia đình mình. Vì thế đến khi có kẻ gặp nạn, người ta do vô tình không để ý hoặc cố tình thờ ơ cho rằng đó không phải là việc của mình. Và ngược lại đến khi bản thân họ gặp chuyện cũng chẳng có ai giúp. Đó là hệ lụy tất yếu về mặt tâm lý - theo phân tích của bà.” Xét về yếu tố tâm lý xã hội, thạc sĩ Minh cho rằng “đang có sự thay đổi lớn trong hệ thống giá trị sống của con người qua các thời đại”. Ngày xưa con người sống trọng “nghĩa” hơn, tức là luôn đề cao tinh thần trách nhiệm, sự hy sinh, sẵn sàng xả thân vì cái thiện dù đó là việc của gia đình, đồng loại hay của đất nước. Vì thế mà ở thời ông cha ta những giá trị cốt lõi của tình nghĩa gia đình, thầy trò, tình yêu quê hương đất nước luôn được đặt lên cái “tôi” cá nhân. Trong khi đó con người ngày nay trọng “tình” hơn, tức là thiên về mặt cảm xúc cảm tính và bản năng nhiều hơn. Theo thạc sĩ Minh, không thể phủ nhận tầm quan trọng của tình yêu trong đời sống, song do nó thiên về cảm xúc nên có mặt tiêu cực là sự mù quáng, bởi người ta chỉ dành sự ưu ái cho người mình yêu thương hoặc người thân của mình. Chính vì thế mà con người hiện đại chỉ quan tâm đến người “của mình” và cho phép bản thân bỏ qua các mối quan hệ “ngoài luồng” (tức không thuộc lĩnh vực thân thích hay cốt nhục của mình). (Trích “Bệnh vô cảm xuất phát từ khủng hoảng niềm tin cuộc sống”, thạc sĩ tâm lý Nguyễn Thị Minh).

Quan điểm người viết cũng có phần đồng ý với những gì thạc sĩ Minh đã nêu, song còn nhiều nguyên nhân khác khiến con người trở nên vô cảm. Sở dĩ nảy sinh căn bệnh này vì những người đó không có sự tu dưỡng đạo đức, không rèn luyện phẩm chất đạo đức, không có lòng nhân đạo, không hiểu thiện ác, không tin nhân quả, thờ ơ lãnh đạm với mạng sống của người khác, ý thức tập thể, ý thức cộng đồng kém, không giữ được truyền thống quý báu của dân tộc ta là “thương người như thể thương thân”. Họ chỉ nghĩ đến “tư lợi”, không biết “lợi tha”. Thậm chí là thỏa mãn cái động lực quái ác của mình và tim họ trở nên lạnh băng băng, mới có thể vô cảm đến thế, thậm chí có kẻ còn ra tay cướp đi sinh mạng của người khác một cách ghê sợ.

Xin mọi người hãy rung cảm

Viết đến đây, tôi lại chợt nghĩ đến pháp “lục độ vạn hạnh” của nhà Phật, trong đó chủ yếu giáo dục con người “thi ân bất cầu báo”, vì khi chúng ta cứu giúp một ai đó, không có nghĩa là ta mong cầu sự đáp trả, mà là vì lương tâm, vì lòng từ, vì tình thương giữa người với người mà cứu giúp, dù người mình giúp có quay lưng trở lại gây rắc rối hay ăn vạ mình thì vẫn còn luật pháp, vẫn còn người khác chứng minh cho mình. Chúng ta phải tin rằng, những điều mình làm là đúng là hữu ích cho bản thân và đồng loại, dù ta có gặp phải những phiền phức khó lường, thậm chí có người vì cứu giúp người khác mà vô hình trung lại vướng vào lao lý. Nhưng bản thân người viết nghĩ rằng, Nếu chúng ta cùng suy nghĩ rằng sự cứu giúp người khác là con đường dẫn tới một cuộc sống tốt lành, là việc làm của lương tri thì chúng ta sẽ khởi lòng tin và sẵn sàng cứu giúp mà không có sự hối tiếc hay phòng vệ. Bạn sẽ rất sung sướng thấy mình đã làm một việc có ý nghĩa. Việc mình làm sẽ đem lại cho mình sức mạnh và năng lượng mà ai cũng có thể cảm nhận. Khi có niềm tin vào việc mình làm là hợp với đạo lý, hợp với lẽ sống, nó sẽ cho mình niềm hạnh phúc miên viễn tự trong tâm. “Lục độ vạn hạnh của Phật giáo” là phương pháp hành con đường Bồ-tát đạo, cứu khổ ban vui, là việc “đánh đổi hạnh phúc của ta lấy sự khổ đau của người khác - đấy là pháp hành Bồ tát đạo”. Vậy muốn cứu độ vô lượng chúng sanh, hay sanh khởi lòng từ khi thấy kẻ khác lâm nạn, chúng ta nên rèn luyện chí hướng vị tha, tinh thần đạo đức, đặt lợi ích người khác lên trên cái tôi của mình. Do đây, khi cứu giúp người trong nguy kịch, chúng ta đừng quá đắn đo mà hãy nhanh tay cứu giúp, đừng để sinh mạng của họ mất đi, ta chỉ còn kịp nói lời hối tiếc thì đã quá muộn màng! Chúng ta hãy tưởng tượng xem, đau đớn nào hơn khi người thân họ phải mất đi cha, hay con phải mất đi mẹ, vợ phải mất đi chồng, họ phải mất đi con, thậm chí bao mái đầu bạc phơ lại phải khóc cho trẻ thơ… thật là bất công!

Để khuyến khích con người tránh đi căn bệnh vô cảm, xã hội đã kêu gọi, đánh thức lương tri con người bằng những việc làm nhân đạo, làm công tác từ thiện, hiến máu nhân đạo, giúp các em cơ nhỡ tìm được tương lai nhỏ nhoi nhất để tiếp sức cho đời mình, tiếp giúp cho người vô gia cư có được mái ấm, nâng đỡ những em đã từng lầm lỗi có cơ hội làm lại cuộc đời, giúp đỡ những người bất hạnh trước những cơn bệnh nan y, đưa người đi cấp cứu khi họ gặp phải tai nạn, cơ quan chức năng hãy lắng nghe tiếng nói cũng như sự cầu cứu của người dân khi họ cần, đó là những hành vi mang tính đạo đức, mang tính lương tri… Đối lập với vô cảm là lương tâm, lương tri, sự động tâm trước nỗi thống khổ, bất hạnh của kẻ khác. Người có lương tâm hay lương tri, tâm của họ luôn có sự thúc giục của lòng từ, tình thương của họ vô điều kiện, họ sống trọng đạo nghĩa, họ không khinh khi hay miệt thị kẻ khốn cùng, không vô cảm trước những nỗi đau của người khác, họ luôn xem đồng loại chính là bản thân hay cốt nhục của mình, đây là yếu tố đạo đức cơ bản mà mỗi con người cần nên có, cũng là một trong những hình thức giáo dục con người ta sống có tình thương, có trách nhiệm với con người và cộng đồng. Tình thương được xem là thuộc tính cơ bản của con người. Ở đâu có con người, nơi ấy có tình thương. Đạo Phật là tôn giáo tiêu biểu cho tình thương. Vì lẽ ấy, tình thương không hạn cuộc trong thân thích, cốt nhục, mà còn mở rộng thương khắp cộng đồng.

Khôi phục tính lương tâm

Lương tâm, cũng có thể gọi là đạo đức lương tri, nó là một lĩnh vực vô cùng quan trọng trong cuộc sống, nhưng có lẽ tính lương tri đã và đang bị xói mòn. Nhà Phật còn gọi lương tâm là “đạo đức tâm linh”. Đạo đức tâm linh, hay lương tâm, lương tri là tiếng lòng vô cùng mầu nhiệm và huyền bí. Đạo đức tâm linh nó là động lực có thể chuyển hóa con người hướng thiện, khi họ thật sự hiểu đúng giá trị đích thực của cuộc sống. Hành trình tâm linh giúp con người từ phàm phu trở nên thánh thiện. Hành trình tâm linh đi từ mảnh đất tâm và đích đến cũng là mảnh đất tâm. Đây là tiến trình để hoàn thiện phẩm hạnh đạo đức. Nó không phải là sản phẩm chỉ dành riêng cho tầng lớp xuất gia của đạo Phật mà nó là cơ hội, là nền tảng để mọi người trên cuộc đời cùng nhau thể nghiệm. Con đường này dễ dàng thực tập đối với ai có chí hướng thiện, nhưng nó cũng vô cùng khó đối với ai xem thường giá trị đạo đức. Tác hại của thái độ vô cảm trong cuộc sống không phải là chuyện nhỏ, nó không chỉ làm cho con người ngày càng trở nên sa sút về đạo đức mà còn có thể đưa đến nhẫn tâm, một khi tiếng nói lương tâm trong họ đã bị mỏng dần, hay thậm chí lương tri không còn hiện hữu. Do vậy, để khôi phục lương tâm, cần kíp nhất là công tác giáo dục, bên cạnh dạy kiến thức khoa học cho con em thì cũng cần phải đề cao những giá trị đạo đức, tình cảm gia đình, tình thầy trò, tình yêu thiên nhiên, tình đồng loại, cũng như trang bị cho lớp trẻ những kỹ năng sống, kỹ năng xử lý trong tình huống của cuộc sống. Muốn làm tốt vấn đề này, trước tiên người lớn cần phải làm gương sáng cho trẻ. Nếu cha mẹ, thầy cô cũng như nhà chức trách mà vô cảm thì đừng mong giáo dục được thế hệ trẻ có ý thức hay giàu lòng nhân ái. Còn bản thân người trẻ hãy tự ý thức việc trang bị những kỹ năng sống là của mình chứ đừng chỉ ngồi chờ sự ban phát từ người khác. Nếu thấy người bị nạn hay bị hại mà chúng ta không ra tay cứu giúp hoặc thờ ơ, thì sớm muộn gì trong cuộc sống có lúc chúng ta cũng sẽ phải nhận lấy sự lạnh lùng do người khác đáp trả. Nếu thấy người tàn tật sanh tâm xua đuổi, thì cũng có lúc ta cũng sẽ bị người khác hất hủi, thấy người gặp nguy không cứu, không kêu cứu thì đến lúc ta gặp nguy khốn người khác cũng sẽ lạnh lùng bước đi… Điều quan trọng mọi người cần ý thức rằng, ở đâu cũng có người tốt, kẻ xấu, kẻ nghĩa hiệp, người lãnh đạm, vì thế mà mỗi người cần chung tay nhân cái tốt, dẹp cái xấu để xây dựng xã hội tốt đẹp hơn.

Trước những bất hạnh, khổ đau của tha nhân do con người với con người gây ra, bên cạnh những khổ đau hoạn nạn do thiên tai đem đến, cũng như khi đối diện với cái xấu, cái ác đã và đang len lõi xuất hiện trong cuộc sống này. Giữa con người và con người cần phải giữ tâm “rung cảm” như là chuyện của chính bản thân mình.

Xin anh chị đừng vô cảm, xin mọi người đừng vô cảm, xin đồng loại đừng vô cảm! Trong tất cả chúng ta đều có nước mắt cùng mặn, máu cùng đỏ và cùng ham sống. Xin hãy quay lại nhìn khi có người gặp phải bất hạnh vì họ và chúng ta đều là con người!
(12 tháng 11 năm 2011)

Hạnh phúc một ngày một giờ
Viết bởi Nguyễn Duy Nhiên
Có lần tôi tham dự một buổi thiền trà trong một khóa tu. Buổi thiền trà do vị Thầy hướng dẫn làm trà chủ, và có một vị trà giả phụ giúp ông trong công việc pha và rót trà để mời những vị trà khách đến tham dự. Sau phần uống trà nghi lễ, vị trà chủ mời mọi người cùng chia sẻ, có thể là một bài thơ, một niềm vui, hay là một khó khăn nào đó nếu có. Đến phiên vị trà giả, chị chia sẻ, “Công việc của tôi là pha trà mời mọi người uống, mong tất cả được thưởng thức một tách trà thơm ngon” (My job is to serve you tea). Xong buổi thiền trà, sau khi mọi người đã ra về, vị Thầy quay sang nói với người trà giả, “Con nói như vậy là không đúng, đó không phải là ‘công việc’ mà phải là ‘niềm vui’ của mình mới đúng chứ!” (It's not a job, it's a joy).
Thiết thực hiện tại

Và trên con đường tu học của mình cũng vậy, tôi nghĩ đó phải là một niềm vui. Con đường của Phật dạy có hai yếu tố là thiết thực, practical, và hiện tại, here now, hay nói một cách khác là nó có thể mang lại sự an vui cho ta ngay bây giờ và ở đây. Giáo lý của Phật dạy rất sâu sắc và nhiệm mầu, nhưng đừng vì thế mà chúng ta đánh mất đi yếu tố thiết thực hiện tại của nó.

Có một câu truyện vui kể về nhà hiền triết Nasrudin. Có lần vì gia cảnh túng thiếu nên ông Nasrudin phải đi buôn để kiếm thêm tiền. Nhà ông ở gần biên giới nên mỗi sáng ông cứ đi bộ sang xứ láng giềng và đến chiều thì ông cưỡi một con lừa đi về. Và từ đó ông cũng trở nên giàu có hơn, nhà cửa xây cất rộng lớn hơn. Lính biên phòng nghi ngờ, nghĩ là ông có mua bán thứ gì đó mà không khai báo để trả thuế, nên mỗi ngày khi ông trở về họ khám xét con lừa của ông cưỡi rất kỹ lưỡng, xem ông có cất dấu một món hàng nào đó không. Nhưng ngày qua ngày, khám xét mãi họ vẫn không tìm thấy một điều gì khác thường. Cuối cùng, người lính biên phòng nói với ông Nasrudin, “Chúng tôi biết là ông buôn bán một thứ gì đó mà không khai báo, nhưng tìm không ra. Thôi bây giờ ông cứ nói thật đi, chúng tôi cũng chẳng làm khó dễ ông đâu.” Ông Nasrudin, quay sang nói nhỏ với người lính biên phòng, “Tôi buôn lừa!”

Chúng ta cũng dễ giống như những người lính ấy, có thể vì lo tìm kiếm sâu xa quá mà quên nhìn thấy những gì ở ngay trước mắt. Ta vô tình đánh mất đi những niềm vui thiết thực hiện tại của mình.

Bạn biết không, với một rừng kinh điển mênh mông, chúng ta có thể nghĩ rằng những điều Phật dạy rất là huyền bí cao siêu, khó hiểu, khó thấy, nhưng thật ra chúng cũng rõ ràng ngay trước mắt ta. Tăng Chi Bộ Kinh ghi, có một người ngoại đạo tên Sivaka đến hỏi Phật “Con nghe nói giáo pháp của Ngài là rõ ràng ngay trước mắt (the dhamma is directly visible)... Thưa Ngài thế nào là rõ ràng ngay trước mắt?”

Đức Phật đáp, “Nếu nội tâm có tham, ông có biết ‘nội tâm ta có tham’; nội tâm không có tham, ông có biết ‘nội tâm ta không có tham’ chăng?” Ông Sivaka thưa: “Thưa có.” Phật bảo: “Này Sivaka, nội tâm có tham, ông có biết ‘nội tâm ta có tham’, nội tâm không có tham, ông có biết ‘nội tâm ta không có tham’. Như vậy này Sivaka ‘pháp ấy là rõ ràng ngay trước mắt, (the dhamma is directly visible)...”

Chúng ta đâu cần phải tìm kiếm đâu xa xôi để chuyển hóa những muộn phiền và khó khăn của mình phải không bạn?

Bình đẳng và bao dung

Đức Phật dạy rằng chúng ta sẽ có nhiều niềm vui trong giờ phút hiện tại, nếu như ta biết nhìn lại và tiếp xúc với cái hay cái đẹp của mình. Tôi nghĩ, trong đạo Phật thì những cái hay và đẹp này không phải là sự tài giỏi, thông minh hoặc những thành đạt của ta, mà là ở tấm lòng của mình. Và trong chúng ta ai cũng có một tấm lòng ấy. Bạn nghĩ đi, những khi ta làm một việc tốt, dầu không ai biết đến nhưng mình cũng cảm thấy an vui, khi nghe kể những hoàn cảnh bất hạnh ta cảm thấy thương xót và muốn chia sẻ, giúp đỡ. Và mỗi khi làm một việc gì không tốt ta cảm thấy bứt rứt, khó chịu. Chúng ta cảm nhận được những điều ấy là vì trong ta, tự bản chất, có những hạt giống tốt lành rất lớn.

Ngày xưa đức Phật đã giúp cho biết bao nhiêu người từ bậc vua chúa, tu sĩ, cho đến những hạng thấp nhất trong xã hội. Tiếp xúc với ai Phật cũng nhìn thấy được cái bản chất hay đẹp, những hạt giống thiện lành đang có mặt sẵn trong tất cả mọi người. Có một lần trên đường đi, A Nan gặp một cô thiếu nữ đứng bên cạnh một giếng nước, ngài đi đến gần và xin cô ta một bát nước. Cô thiếu nữ vừa thấy ngài A Nan đến vội tránh xa ra và nói rằng, “Thưa ngài tôi thuộc giai cấp hạ tiện, tôi không có quyền cúng dường nước cho ngài, tôi sợ sẽ làm ô uế ngài.” A nan nhìn cô thiếu nữ và nói rằng, “Tôi đâu có hỏi hay là xin địa vị, giai cấp của cô đâu. Tôi chỉ muốn hỏi xin cô nước mà thôi.”

Lời nói của ngài A Nan thật bao dung quá phải không bạn. Chúng ta nhiều khi cũng giống như cô thiếu nữ ấy, có những quá khứ, có những việc xưa cũ mà mình cứ ôm ấp và giữ chặc mãi, khiến cho ta không còn có thể tiếp xúc được với niềm vui hiện tại.

Empty your cup of suffering

Có lần, thiền sư Nan-in tiếp một vị giáo sư đại học đến để tham vấn về Thiền. Nan-in rót trà mời khách, ông rót đầy tách của vị giáo sư, và cứ tiếp tục rót thêm. Vị giáo sư nhìn trà tràn ra ngoài cho đến lúc ông không nhịn được nữa, “Thưa Ngài tách trà đã đầy tràn ra ngoài rồi, không còn thêm được nữa!”, “Như là tách trà này,” Nan-in nói, “nếu ông đã có đầy ý niệm và thành kiến rồi, làm sao tôi có thể chỉ gì thêm cho ông nữa. Ông hãy đổ sạch tách của ông đi!”

Tôi nghĩ lời khuyên của ngài Nan-in cũng có thể áp dụng cho vấn đề hạnh phúc của chúng ta nữa. Hạnh phúc sẽ không thể có mặt nếu như tách trà của mình còn đầy những muộn phiền. Thật ra chúng ta cũng đâu cần phải đi tìm kiếm hay xây dựng một trạng thái hạnh phúc nào mới lạ đâu, điều chúng ta cần chỉ là biết buông bỏ mà thôi. Ta buông bỏ những ganh tỵ, tham lam, nhỏ nhoi của mình. Có người nghĩ rằng nếu như mình bỏ hết rồi thì ta sẽ còn lại gì đây? Nhưng ta đâu phải chỉ là những tham lam, giận hờn thôi đâu! Chúng là gốc rễ của khổ đau, thì thật ra ta chỉ buông bỏ những nguyên nhân của khổ đau mà thôi. Và hễ không cái này thì là có cái kia. Không mưa thì nắng, không bóng tối thì ánh sáng, không khổ đau thì là hạnh phúc, không có giận hờn thì ta sẽ có niềm vui. Buông cái này thì ta sẽ được cái kia.

Bạn biết không, nếu như ta cứ cầm mãi một tách trà trên tay, thì dầu có nhẹ đến đâu rồi nó cũng sẽ trở thành nặng. Và nếu như ta không đặt tách trà xuống thì làm sao mình có thể nhặt một chiếc lá thu, viết một bài thơ, hứng một hạt mưa, hay nắm tay một người thân. Nếu như một tay ta cứ nắm chặt vào khổ đau bên này, thì dù có cố với mấy ta cũng sẽ không thể nào chạm được hạnh phúc phía bên kia. Buông bỏ là để giúp ta có khả năng đi tới, nhờ buông thả khổ đau mà ta tiếp xúc được với hạnh phúc đang có mặt.

Trong kinh có một danh từ chuyên môn gọi là kiết sử hay là nội kết, samyojana, chúng là những gút thắt, những khối vui buồn, khổ đau được kết tụ lại trong lòng ta theo ngày tháng. Trong chúng ta ai cũng có một số những muộn phiền hoặc khó khăn nào đó. Và tôi thấy, đôi khi muốn mở những gút thắt ấy, thật ra chúng ta cũng không cần phải tìm cách tháo gỡ chúng ra, mà chỉ cần đừng cột chặt thêm vào nữa mà thôi. Sự sống là một dòng sông linh động, nó luôn trôi chảy và biến đổi, không có một hờn giận, muộn phiền nào sẽ còn mãi nếu như ta thôi đừng ôm chặt nó lại. Đừng nhốt sự sống của mình vào một tách nước nhỏ bé, nước nếu bị cô đọng thì dầu trong mát đến đâu cũng sẽ trở thành nước ao tù. Hãy để cho nó được tiếp tục lưu chuyển, để ta có thể tiếp nhận được một hạnh phúc mới của ngày hôm nay.

Ánh xuân về trên đóa hoa tươi

Trên con đường tu học ta ý thức rằng, trong giây phút hiện tại này chúng ta có thể tiếp xúc được với niềm vui, nếu mình muốn. Chúng ta không phải ai cũng đang có hạnh phúc, nhưng đa số chúng ta ai cũng đang có những điều kiện của hạnh phúc. Nếu như chúng ta vẫn còn sức khỏe, vẫn còn nhìn thấy được trời xanh mây trắng, vẫn còn bước đi được trên con dường nhỏ… đó là những điều kiện của hạnh phúc. Tôi nghĩ, nếu sự tu học của mình có hay hơn người khác chăng là ở chỗ mình đã thực tập ý thức điều này được bao nhiêu mà thôi.

Tôi nhớ đến bài thơ của Tế Hanh:

Nếu không có hạnh phúc một đời
Thì tìm hạnh phúc một năm một tháng
Nếu không có hạnh phúc một năm một tháng
Thì tìm hạnh phúc một ngày một giờ

Sáng nay
Tôi tìm thấy hạnh phúc
Sau một đêm yên giấc
Tôi nhìn thấy ánh xuân về
Trên một đóa hoa tươi.

Và nếu như mình có được hạnh phúc trong một ngày một giờ, thì ta cũng sẽ có hạnh phúc trong một đời, phải không bạn. Vì đời sống cũng chỉ làm bằng ngày hôm nay, và hạnh phúc cũng có thể rất đơn sơ như một sợi nắng vàng trên đóa hoa tươi của buổi sáng này...■
Nguồn: Tập San Pháp Luân 81

Mới cập nhật: Thứ sáu, 11 Tháng 11 2011 14:13

No comments:

Post a Comment