Saturday, December 10, 2011

RƯỢU SƯƠNG MÙ-ĐẶC SẢN NÚI MẪU SƠN LẠNG SƠN

RƯỢU SƯƠNG MÙ-ĐẶC SẢN NÚI MẪU SƠN LẠNG SƠN SẢN PHẨM ĐÃ ĐƯỢC CỤC SỞ HỮU TRÍ TUỆ VIỆT NAM CÔNG NHẬN
[+]
Ngày đăng: 29/03/2011 Khu vực: Toàn quốc
Lượt xem: 337
SƯƠNG MÙ - MẪU SƠN
Mùa đông, núi Mẫu Sơn luôn bị mây mù bao phủ và che kín. Về mùa hè, nắng vàng rực rỡ. Còn khi vào xuân, cả vùng Mẫu Sơn đỏ rực sắc hoa đào. Giữa cái nắng ngút ngàn và cái gió mênh mang trải rộng trên các sườn núi bao la, chúng tôi đến Mẫu Sơn trong một ngày đẹp trời như vậy để rồi cảm nhận và thưởng thức đầy đủ mọi âm thanh, hương vị cùng những gì tinh túy nhất của những sản vật ở Mẫu Sơn.
Người dân huyện miền núi Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn vẫn thường tự hào khi nhắc tới Mẫu Sơn, ngọn núi "huyền thoại" không chỉ mang đến cho họ vẻ đẹp thiên nhiên nhiều màu sắc mà còn dâng hiến cho họ rất nhiều sản vật quí hiếm như trái cây, hoa và đặc biệt là rượu Mẫu Sơn đã từ lâu trở thành đặc sản của người dân xứ này.rượu Mẫu Sơn, thứ rượu nóng nồng nàn mùi thơm bếp lửa. Nhấp ngụm rượu Mẫu Sơn đậm đà, mang hương vị thơm dịu của lá, rễ cây thuốc miền núi Lạng Sơn, bạn sẽ có những giây phút say sưa với vị ngọt ngào bất tận không bao giờ quênsự khác nhau giữa rượu Mẫu Sơn với các loại rượu thông thường: Cái đặc biệt của rượu Mẫu Sơn là ở chỗ nó được làm nên từ gạo và men lá của đồng bào Dao vùng núi cao Mẫu Sơn, và nó phải được chưng cất từ nước suối nguồn chảy từ các khe đá trên núi Mẫu Sơn. Có thứ nước này rượu Mẫu Sơn mới thực sự xứng danh với thương hiệu Mẫu Sơn. Về với Mẫu Sơn là về với xứ Lạng - Nơi có những rừng hồi, rừng quế bạt ngàn, hùng vĩ. Có lẽ mảnh đất này hấp dẫn người ta không chỉ bởi cảnh vật thiên nhiên hùng vĩ mà còn bởi cái nồng nàn của những người dân xứ này. Có đến đây, có cảm nhận được sự đậm đà và chân thành trong tình cảm mến khách của người Dao ở Mẫu Sơn, ta mới chợt hiểu vì sao lòng mình muốn gửi lại chốn này.
Doanh nghiệp tư nhân Hải Hà ,xin kính chào quý khách!Doanh nghiệp chúng tôi chuyên sản xuất rượu đặc sản Sương Mù - mẫu Sơn ,Lạng Sơn .Với công nghệ cổ truyền của đồng bào Dao vùng núi cao Mẫu Sơn ,được sử dụng nguyên liệu men cá lây rừng ,gạo cùng nguồn nước tinh khiết của vùng núi Mẫu Sơn ,đã tạo lên một cảm giác êm dịu ,thơm ngon đặc biệt dễ chịu cho người tiêu dùng .Rượu Sương Mù - Mẫu Sơn ,Lạng Sơn là đặc sản tinh khiết ,chất lượng đã được Bộ Khoa học và công nghệ ,Cục Sở hữu trí tuệ và tổng cục đo lường chất lượng Việt Nam cấp giấy chứng nhận ,đăng kí thương hiệu hàng hóa ,với hình thức nhãn mác hài hòa ấn tượng .Hiện nay rượu Sương Mù - Mẫu Sơn ,Lạng Sơn đang có bán tại các đại lý và các tỉnh vùng núi phía Bắc. Với uy tín chất lượng sản phẩm của thương hiệu ,tất cả vì khách hàng .Doanh nghiệp tư nhân Hải Hà hân hạnh được phục vụ quý khách hàng.
Đ/c : Doanh nghiệp tư nhân Hải Hà
Số:180 Đường Lê Hồng Phong - P.Tam Thanh Thành phố Lạng Sơn
MỌI CHI TIẾT XIN LIÊN HỆ : MR.GIANG (0977.107.170)


Uống rượu quý và tắm nước thuốc trên đỉnh Mẫu Sơn
Tags: Mẫu Sơn, Ông Tăng Phúc, Lộc Bình, Đặng Tăng Phúc, Ông Đặng Tăng Phúc, Lạng Sơn, Người Dao, trên đỉnh, nước thuốc, uống rượu, trên dưới, đã có, tắm, núi, đến


ông Đặng Tăng Phúc trong hầm rượu của mình
Chỉ riêng xã Mẫu Sơn thuộc huyện Lộc Bình có khoảng 670 hộ người Dao sinh sống thì đã có tới trên dưới 500 hộ nấu rượu men lá. Mỗi ngày họ chưng cất được 100 đến 200 lít rượu.
Trên đỉnh núi Mẫu Sơn, mây mù và khí núi đặc kín. Những chùm hoa đào đỏ thắm dưới thung, trên sườn núi và những cành mai rung rinh trong buổi tân xuân không giảm đi cái lạnh ướt nhòe nhoẹt vốn có của ngọn núi cao trên 1.541 m so với mặt nước biển.
Tôi lặng lẽ bước đi trong mây mù giăng kín lối. Thấp thoáng những bức tường cổ trầm mặc còn sót lại đìu hiu.Tôi chợt thấy trước mặt một ngôi biệt thự có dòng chữ còn khá mới treo trên tường: “Rượu người Dao”.
Tôi bước vào ngôi biệt thự. Một người đàn ông đội mũ nồi xuất hiện bất thình lình. Ông Tăng Phúc! Ông lặng lẽ dẫn tôi vào một ngách của ngôi nhà, lấy ra một bình rượu nhỏ: “Làm một chén cho ấm bụng đã. Sương mù làm ướt cả ghế, cả nhà rồi...”. Tôi biết ông Đặng Tăng Phúc từ thời ông còn giữ cương vị là Trưởng ban Định canh - định cư của tỉnh Lạng Sơn.
Ông trầm tính, ít nói và chân tình. Đặng Tăng Phúc là một người Dao ở xứ Lạng được học hành đến nơi đến chốn. Ông sinh năm Giáp Thân (1944). Ông đi học nghiệp vụ sư phạm và là “hạt giống đỏ” để quay lại bản người Dao xã Mẫu Sơn huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn, dạy học kiêm Hiệu trưởng trường làng. Năm 1965, Đặng Tăng Phúc vừa làm Hiệu trưởng, vừa dạy học và kiêm cả Chủ tịch UBND xã… Năm 1984 ông là Phó Giám đốc sở Lâm nghiệp kiêm Trưởng ban Định canh- định cư của tỉnh LS cho đến ngày 1/1/2003 thì được nghỉ chế độ hưu...
Ông Tăng Phúc mở cửa một căn phòng trong ngôi nhà mái bằng cạnh ngôi biệt thự. Trong đó có một cái bồn bằng gỗ Kháo- một loại gỗ quý săn chắc có mùi thơm, không sâu mọt mọc trên đỉnh Mẫu Sơn. Ông Tăng Phúc bảo: “Nhà báo thử ngâm mình nửa tiếng thôi là bao mệt mỏi ưu phiền và những chất độc trong người được gột rửa hết!”. Rồi ông giới thiệu với tôi: Người Dao chúng tôi thường xuyên tắm thuốc hoặc ngâm rượu uống để tránh khí độc cũng như thời tiết khắc nghiệt của núi rừng. Và vậy, người phụ nữ đẻ được ba ngày là có thể trỉa bắp, làm nương ngay...
Tôi ngồi vào chiếc bồn tròn to khoảng hai người ôm. Nước nóng ào vào da thịt làm dãn nở các lỗ chân lông. Mùi thơm ngai ngái, ấm nóng và ngòn ngọt rất đặc trưng xông vào mũi làm tôi ngây ngất...
Ông Đặng Tăng Phúc bảo: “Nước nóng này được dẫn từ một đường ống trên tầng xuống. Nơi đó có nồi đun 20 vị thuốc quý như: Nẹ nặm, Tầm thông phíu thông (đại phong - tiểu phong), Địa chủn, Đìn gián, Quyền dòi mây, áp chúa dâu... Đồng bào thì tắm bằng máng dài còn tôi làm bồn tròn cho tiện. Tắm xong nước thuốc sẽ chống được cảm cúm, mệt mỏi, lưu thông khí huyết”.
Tôi hỏi: “Hôm nào cũng có người tắm thì lấy thuốc đâu cho đủ ?”. Ông nhìn sâu vào đại ngàn rồi cười lớn: “Núi rừng mênh mông lấy ngàn đời chắc gì đã hết. Nhiều cây thuốc quý, đa công dụng có khi chúng ta còn chưa biết tới”. Nói rồi ông cho biết, thuốc tắm bồn chủ yếu tự tay ông và vợ là bà Lương Thị Sinh năm nay 57 tuổi, người dân tộc Tày đi núi hái về. Độ một tuần trăng ông bà lại đi núi một lần. Đi rừng sâu kiếm thuốc quý không bao giờ về tay không.
Hôm qua ông lấy được 3 bao thuốc, khoảng 50 kg cây Địa chủn, Địa giản... ở rừng Thán Dìu. Ngoài ra đồng bào Dao ở các bản lân cận biết khách du lịch thỉnh thoảng lên núi Mẫu Sơn có vào tắm thuốc nên đã lên rừng hái cây thuốc về bán cho gia đình ông. Giá mỗi cân khoảng 3 nghìn đồng. Nhiều người khi nông nhàn là lên rừng hái thuốc về bán.
Ông Tăng Phúc giục tôi lau người và cho uống một chén rượu nhỏ có màu nâu đục và bảo: “Đây là rượu ngâm 36 thứ thuốc bổ ở Mẫu Sơn gồm có các vị chủ yếu: Huyết đằng, Tái quất bổ, Cẩu ngầu lực, Thiên lý hương...
Núi Mẫu sơn có diện tích 10.470 ha và cách thành phố Lạng Sơn chừng 30 km về phía Đông. Mẫu Sơn khí hậu ôn hoà, nhiệt độ trung bình năm 15,6 độ C.
Sau khi tắm và uống chén rượu thuốc người tôi như nhẹ bỗng. Vừa ăn cơm trưa xong vậy mà tôi đã cảm thấy đói. Ông Đặng Tăng Phúc bảo: “Quan trọng nhất là pha thuốc. Đây là bài thuốc gia truyền do tổ tiên để lại. Tự tay mình hoặc bà vợ tôi phải trực tiếp pha thuốc tắm... Ngay cả ngày đi núi cũng phải chọn ngày, giờ đẹp. Tốt nhất là phải qua ngày Sương gián (tiết hanh khô). Qua ngày này thì thuốc mới không bị mọt và thuốc sẽ có nhiều nước và tập trung độ thuần khiết cao nhất...”
Ông Phúc dẫn tôi đi tới một cửa hầm có khoá nắp. Một tay ông mở khoá, tay kia cậy nhẹ nắp hầm. Một con đường nhỏ ngoằn ngoèo dẫn sâu xuống lòng đất. Cái lạnh và ẩm thấp phả ra từ các ngách đường làm ánh đèn pin từ tay ông Tăng Phúc như nhòe đi...
Ông Tăng Phúc đến một ngách hầm bật công tắc. ánh đèn điện mờ tỏ làm rõ hơn không gian căn hầm. Tôi đoán diện tích hầm rượu này khoảng gần 30 mét vuông, bên trong xếp ngăn nắp khoảng 10 chum rượu to, mỗi chum màu trắng bạc có nắp bịt kín hiện ra trước mắt chúng tôi. Mùi rượu thơm lừng.
Ông Tăng Phúc mở một chum rượu lấy một cái gáo vục xuống chum rượu: “Anh uống thử đi. Rượu người Dao Mẫu Sơn mà ngâm ở hầm có độ ẩm khoảng 10 độ C sẽ ngon hơn những loại rượu mà anh đã uống !”. Tôi đón lấy gáo rượu và đưa lên miệng. Men lá Mẫu Sơn sực nức hương rừng và đam mê lòng người.
Chỉ riêng xã Mẫu Sơn thuộc huyện Lộc Bình có khoảng 670 hộ người Dao sinh sống thì đã có tới trên dưới 500 hộ nấu rượu men lá. Mỗi ngày họ chưng cất được 100 đến 200 lít rượu.
Ông Đặng Tăng Phúc chỉ cho tôi thấy những chiếc can to để góc nhà và nói: “Bà con mang rượu đến gửi tôi bán hộ. Rượu ngon lắm, bán giá chưa đến 10 nghìn/lít. Nhưng còn nhiều rượu chưa bán được vì đường “sá xa xôi cách trở...!”.
Mẫu Sơn, tháng ba - 2005
Nguyễn Duy Chiến
Việt Báo (Theo_Tien_Phong)

Lên Mẫu Sơn, thưởng rượu làng nghề
Rượu Mẫu Sơn thơm ngon, trong vắt như nước suối, uống rất dịu, vị đậm đà, lại không quá cay nồng mà cũng không quá nhạt, mang hương vị đặc trưng, thơm dịu của lá và rễ cây thuốc miền núi Xứ Lạng, mà hễ ai đã từng một lần uống thì mãi không thể quên được.
Từ một loại men bí truyền
Rượu Mẫu Sơn do chính tay những người dân tộc Dao sống trên đỉnh Mẫu Sơn(Lộc Bình-Lạng Sơn) chưng cất ở độ cao 800-1000m so với mặt biển bằng phương thức truyền thống, được lưu truyền tứ đời này qua đời khác.
Để chưng cất được loại rượu có một không hai này, ngoài nguyên liệu chính là gạo và nước suối (lấy từ những con suối chảy trong núi có độ cao hơn 1000m so với mực nước biển), thì chất gây men không thể thiếu là lá rừng. Men lá được pha chế từ hơn 30 loại thảo dược quý hiếm như: Cây 30 rễ, dây nước, trầu rừng, dây ngọt... có tác dụng chữa lành vết thương, phong thấp, thấp khớp, đau lưng… Sau khi các loại thảo dược đã được rửa sạch, băm nhỏ và phơi khô thì mang trộn đều chúng lại với nhau, giã nhỏ và đem đun. Đợt nước đầu dùng để nhào bột, nước hai để ngâm gạo (gạo tẻ, không ẩm mốc).


Trộn men
Già làng Triệu Sáng Hiển năm nay 70 tuổi, là một trong những người nắm giữ bí kíp pha chế loại men lá quý này cho biết: “Men phải ủ ít nhất trong 15 ngày. Men càng trắng, càng phồng thì càng tốt. Đặc biệt phương thức làm men chỉ truyền cho con trai và con dâu chứ không truyền cho con gái". Nhờ loại men lá này mà rượu Mẫu Sơn trở nên nổi tiếng và hấp dẫn du khách thập phương.
Cách chưng cất truyền thống độc đáo
Theo anh Triệu Văn Thắng – một người nấu rượu lâu năm ở đây cho biết: "Để có được những chai rượu trong vắt và mát rượi, đòi hỏi sự tỷ mỉ và kiên nhẫn qua từng công đoạn: nấu cơm, trộn men, ủ lên men và cho vào hũ (chum, vại) bịt kín trong khoảng 15-25 ngày mới đem chưng cất, ủ được càng lâu càng tốt".
Công đoạn chưng cất rượu giống như quá trình đồ xôi. Tuy nhiên, cái chõ nấu rượu phải có một lỗ thủng gần miệng để dẫn rượu ra. Trên miệng chõ đặt một cái chảo, đổ đầy nước và cứ nước trong chảo nóng là phải thay để ngưng tụ rượu, bảo đảm độ rượu. Sau 4 giờ liên tục thay nước, đun lửa đều, công đoạn chưng cất mới hoàn thành. Chưng cất cầu kỳ và mất nhiều thời gian như vậy nhưng rượu Mẫu Sơn không đắt, chỉ 13.000 đồng/lít.


Một lò rượu thường thấy ở Mẫu Sơn
Cũng theo anh Thắng thì nấu rượu lãi chẳng là bao nhưng người dân ở đây chưa bao giờ có ý định bỏ nghề. Ở Mẫu Sơn hiện có gần 80 hộ gia đình nấu rượu và đã mở rộng tới nhiều hộ gia đình khác. Sở dĩ người dân vẫn đeo đuổi nghề nấu rượu vì nó như một thứ di sản và nay đã trở thành sản phẩm du lịch không thể thiếu, phần nào làm nên niềm tự hào của người dân Mẫu Sơn.
Khẳng định thương hiệu: "Đệ nhất danh tửu"xứ Lạng
Thương hiệu rượu Mẫu Sơn đã đoạt giải thưởng “Sao vàng đất Việt” từ năm 2002. Chỉ có nguồn nước Mẫu Sơn, cách chưng cất thủ công hàng nghìn năm và loại men của người dân bản địa nơi đây mới làm nên hương vị thơm nồng, êm dịu của rượu Mẫu Sơn. Bà Triệu Thị Nảy – một người dân bản địa cho biết: "Cũng đã có nhiều người thử đưa nước và men từ Mẫu Sơn đi nấu tại nơi khác nhưng rượu nấu không thành. Chúng tôi nấu rượu ở đây thì không phải lo đầu ra, vì đã có Công ty Du lịch xuất nhập khẩu Lạng Sơn và nhiều của hàng, đại lý thu mua hết. Ngoài ra còn có khách từ nhiều tỉnh thành khác nhau lên thăm quan khu du lịch Mẫu Sơn mua rất nhiều, mỗi tháng tôi bán được gần 3000 lít ượu".


Người phụ nữ này đang chuẩn bị lò rượu
Với rượu Mẫu Sơn chính gốc, lỡ khi quá chén không hề gây đau đầu... Người nấu rượu lâu năm không cần nếm cũng có thể thẩm định được chất lượng của rượu bằng cách lắng nghe tiếng rơi của rượu trong vại sành lúc chưng cất và hương rượu thoáng qua.Theo những người sành rượu, rượu Mẫu Sơn có những nét riêng ít loại rượu nào có được. Đưa rượu lên rót nghe thánh thót trong veo, hơi rượu thơm nồng, nước rượu trong như pha lê. Rượu rót ra chén sủi bọt sủi tăm, uống vào không có cảm giác gắt, hay nóng cháy cổ khiến người ta giật mình, e ngại. Tiếng lành đồn xa, rượu Mẫu Sơn không còn bó hẹp trong không gian thôn làng nữa mà vươn đến các địa phương khác. Nhiều người khi ghé qua đất Lạng Sơn đều muốn nếm thử một lần cho biết hoặc mua một ít về làm quà biếu người thân.
Tuy nhiên, để thương hiệu rượu Mẫu Sơn đứng vững trên thị trường thì việc cần phải tính đến là gìn giữ những thảo dược quý để làm men. Việc khai thác dược liệu phải hợp lý nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển của cây, đồng thời có kế hoạch tiến hành ươm trồng những giống cây đang trở nên khan hiếm. Vì như lời của ông Triệu Sáng Lùng – một người làm men lâu năm cho biết thì các loài cây dùng làm men hiện rất khó tìm và ít đi nhiều do đã bị khai thác quá nhiều. Lo lắng của ông Triệu Sáng Lùng cũng là nỗi lo chung những người làm rượu ở đây.
Rượu Mẫu Sơn không kén gạo, mà kén men, kén nước. Chỉ có nước và khí hậu ở trên đỉnh Mẫu Sơn này mới có thể tạo nên loại rượu có một không hai này. Trong rượu Mẫu Sơn, không chỉ có tấm lòng, công sức người dân nơi đây, mà còn có độ cao hùng vĩ núi non Mẫu Sơn, có sự tinh khiết của suối, sự ngạt ngào của hương rừng Mẫu Sơn./.
Hoàng Văn Hương
(Theo VOV)
“Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em…”
Câu ca dao lưu truyền từ bao đời ấy cất lên như mời gọi du khách hãy một lần lên thăm xứ Lạng - mảnh đất địa đầu của Tổ quốc để cùng khám phá vẻ đẹp hòa quyện của núi và mây, của hang và động, của phố và chợ - một vẻ đẹp huyền ảo và thơ mộng mà tạo hoá đã ban tặng cho cảnh quan thiên nhiên xứ Lạng, để rồi đắm mình trong những làn điệu Then, Sli, lượn Tày, Nùng ngọt ngào đằm thắm, để cùng khám phá những nét văn hoá độc đáo của đồng bào các dân tộc nơi đây hay để nghiêng ngả say trong men rượu trên đỉnh Mẫu Sơn hùng vĩ…
• Lạng Sơn – vùng đất “sơn thuỷ hữu tình”
Một lần đặt chân đến với Lạng Sơn, hẳn bạn sẽ không khỏi ngỡ ngàng bởi vẻ đẹp nên thơ “sơn thuỷ hữu tình” của cảnh quan thiên nhiên nơi đây. Cùng với dòng sông Kỳ Cùng chảy ngược về phương Bắc nằm giữa lòng thành phố như một điểm nhấn ấn tượng là quần thể di tích Nhị - Tam Thanh – “Đệ nhất bát cảnh Xứ Lạng” và nổi tiếng hơn với biểu tượng về lòng chung thuỷ sắt son của người phụ nữ Việt Nam – nàng Tô Thị bồng con đứng ngóng chồng nơi ải Bắc…
Phố chợ Kỳ lừa

Chợ Kỳ Lừa
Chợ Kỳ Lừa ở Lạng Sơn là nơi mua bán t Sơn. Chợ Kỳ lừa mỗi tháng họp 6 phiên vào các ngày 2, ngày 7 âm lịch, có hàng hoá sản vật của hầu hết các tỉnh . Người đến chợ có khi không cốt để mua bán mà chỉ để thăm hỏi, bàn chuyện làm ăn, Thanh niên nam nữ các dân tộc đến chợ để gặp ban thân, tìm bạn đời qua các lời ca giao duyên sli, lượn, tìm đến những niềm đồng cảm bao quanh. Tại chợ, cùng với những màu sắc đa dạng của những hàng thổ cẩm, trang phục, còn có các món ăn đậm đà hương vị miền núi Xứ Lạng. Mỗi năm Lạng Sơn có Hội chợ Kỳ lừa, kéo dài từ 22 đến ngày 27 tháng giêng âm lịch, là nét sinh hoạt văn hoá cổ truyền đậm đà bản sác dân tộc. Chợ Kỳ lừa ngày nay đã được tôn tạo và mở cửa cả ngày và đêm. Với không khí trong lành của núi rừng miền biên cương, cùng với cảnh và người đi chợ đêm gây được ấn tượng sâu sắc khó phai đối với khách đến Lạng Sơn

Nàng Tô Thị
Nàng Tô Thị
Nằm trong quần thể danh lam thắng cảnh Nhị, Tam Thanh, truyền thuyết về Nàng Tô Thị đã đi vào tâm khảm của dân tộc Việt Nam thiên nhiên đã tạo ra hình tượng người mẹ ôm con đứng chờ chồng trên đỉnh núi cao như một biểu tượng của lòng thuỷ chung son sắt của người phụ nữ Việt Nam.
Chùa Tam Thanh
Có từ thời Lê, theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí ghi rằng “Chùa Tam Thanh nằm trong động núi đá thuộc địa phận xã Vĩnh Trại, Châu Thoát Lãng nay là phường Tam Thanh Thành phố Lạng Sơn. Trải qua bao thăng trầm của thời gian, lịch sử chùa Tam thanh vẫn giữ được nhiều vẻ đẹp ban đầu hấp dẫn du khách gần xa bằng vẻ đẹp tự nhiên vốn có của di tích. Trong động có tượng phật A Di Đà lớn tạc nổi vào vách đá từ thế kỷ XV là tác phẩm nghệ thuật giá trị cao,hồ Âm Ti nước trong xanh quanh năm không bao giờ vơi cạn, với muôn trùng nhũ đá thiên tạo từ ngàn xưa tạo nên những hình thù sinh động, hấp dẫn .

Chùa Tam Thanh
Động Nhị Thanh
Là Chùa Tam Giáo, trong Động có nhiều tượng thánh bày thờ theo nhiều hình thức - Động Nhị Thanh gắn liền với danh nhân Ngô Thì Sỹ khi Ông được cử lên làm quan đốc trấn Lạng Sơn từ năm 1777 - 1780. Trong khoảng thời gian ngắn, ông đã làm cho bộ mặt Lạng Sơn thay đổi phát triển đi lên về các mặt Chính trị - Kinh tế, bảo vệ đất nước Đặc biệt về văn hoá, ông đã có công phát hiện ra 8 cảnh đẹp Xứ Lạng ( Trấn doanh bát cảnh ) trong đó có động Nhị Thanh. Tháng 5 năm 1779 ông đã thuê thợ khởi công xây dựng tôn tạo khu động. Động bên trái cao, thế đất tốt hơn làm chùa Tam Giáo thờ 3 vị thánh là Khổng Tử - Lão Tử - Phật Thích Ca. Động Nhị Thanh ở bên dưới chùa Tam Giáo, là một hang đá tự nhiên từ cửa trước ra cửa sau dài hơn 500m, với nhiều cảnh đẹp tự hiên kỳ vĩ. Ngày nay, tại di tích này có hệ thống văn bia tạc trên vách đá của các danh nhân thi sĩ qua lại các thời kỳ lưu lại. Đây là nguồn sử liệu, những tác phẩm văn học hết sức quí giá, thông tin về lịch sử và di tích Lạng Sơn, nơi đây còn có tượng truyền thần của Ngô Thì Sĩ tạc cùng năm 1779 rất đẹp và có giá trị mỹ thuật cao.
• Lạng Sơn - vùng đất đậm đà bản sắc văn hóa
Lạng Sơn là tỉnh miền núi biên giới có 253 km đường biên, có cửa khẩu quốc tế và quốc gia, cửa ngõ giao lưu kinh tế và văn hóa với nước láng giềng Trung Quốc. Đây là những nền tảng cơ bản tạo nên sự đa dạng, phong phú về văn hoá của tỉnh Lạng Sơn. Từ hàng nghìn năm, bằng ý chí độc lập tự cường dân tộc, nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã phát huy, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, hòa nhập với cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Ngày nay, những di sản văn hóa truyền thống Lạng Sơn đã trở thành nét tiêu biểu của nền văn hóa Việt Nam. Với những lợi thế về địa lý và truyền thống văn hóa sẵn có, văn hoá Lạng Sơn đã tạo được nét chấm phá riêng, độc đáo và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng du khách mỗi khi đến với Lạng Sơn.
Di tích lịch sử - dấu ấn văn hoá xứ Lạng

Thành Nhà Mạc
Lạng Sơn còn có một hệ thống DSVH vô cùng phong phú và đa dạng với các loại hình như: Di tích ghi dấu chiến công chống giặc ngoại xâm: Ải Chi Lăng, Đường số 4, khu di tích Khởi nghĩa Bắc Sơn, khu du kích Chi Lăng, khu du kích Ba Sơn; Di tích ghi dấu sự kiện lịch sử: Sân vận động Đông Kinh (TP Lạng Sơn) - nơi Bác Hồ nói chuyện với đồng bào các dân tộc Lạng Sơn, Di tích Trạm khí tượng thuỷ văn Tràng Định – nơi Bác Hồ đến thăm năm 1961; Di tích lưu niệm các nhân vật lịch sử: di tích lưu niệm đồng chí Hoàng Văn Thụ (Văn Lãng), Nhà số 8 phố Chính Cai (TP Lạng Sơn), di tích lưu niệm đồng chí Lương Văn Tri ( Văn Quan). Rồi các di tích khảo cổ học như: Thẩm Khuyên, Thẩm Hai, Mai Pha, Phai Vệ, Phia Điểm, Ba Xã, Lũng Yêm… Cho đến các di tích văn hoá - nghệ thuật: Đình Bắc Sơn, Nông Lục (Bắc Sơn); chùa Tam Giáo, chùa Tam Thanh, chùa Thành, chùa Tiên (TP Lạng Sơn), chùa Bắc Nga (Cao Lộc), chùa Trung Thiên (Lộc Bình); đền Kỳ Cùng, đền Cửa Tây, đền Tả Phủ, đền Vua Lê; di tích Đoàn Thành Lạng Sơn, Thành Nhà Mạc…
Lễ hội truyền thống
Lạng Sơn - miền địa đầu của Tổ quốc, nơi sinh tụ của các dân tộc anh em: Nùng, Tày, Kinh, Dao, Hoa, Mông, Sán chay,... cũng là quê hương của biết bao lễ hội truyền thống hấp dẫn, thú vị. Trải qua hàng nghìn năm dựng làng, giữ nước, đồng bào các dân tộc Lạng Sơn đã sáng tạo nên truyền thống văn hóa phong phú và đa dạng. Từ chiếc nôi văn hóa dân tộc ấy, lễ hội Lạng Sơn luôn được nhìn nhận như một thành tố quan trọng với những nét riêng và độc đáo.
Lễ hội Lạng Sơn nhiều về số lượng, phong phú về nội dung, loại hình. Đặc biệt, lễ hội Lạng Sơn vừa mang những đặc trưng của lễ hội cổ truyền Việt Nam và vùng Việt Bắc vừa mang sắc thái riêng của vùng văn hóa Xứ Lạng. Các lễ hội thường được tổ chức vào mùa xuân, từ tháng riêng đến tháng tư âm lịch hàng năm. Các lễ hội đều mang nội dung xây dựng và bảo vệ cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Ngoài các giá trị về tinh thần, văn hóa, lịch sử, các lễ hội Lạng Sơn còn chứa đựng giá trị văn hóa - du lịch sâu sắc.
Lễ hội Lồng Tồng

Lễ hội được tổ chức vào ngày 4 tháng giêng âm lịch hàng năm, một trong những lễ hội lớn nhất vùng với nghi lễ tín ngưỡng cầu thành hoàng và thần nông. Qua khảo sát sơ bộ của ngành văn hoá - thông tin Lạng Sơn, toàn tỉnh có khoảng hơn 200 lễ hội Lồng Tồng với quy mô tổ chức theo một thôn, bản, một xã, một khu vực hay vài xã. Chẳng hạn, huyện Tràng Định có những lễ hội nổi tiếng là Thổng Bủng Kham ở xã Đại Đồng, Thổng Nà Mòn ở xã Chi Lăng, huyện Bắc Sơn có hội Long Đống,...
Mở đầu cho phần hội là nghi lễ cúng thần nông, khởi thủy từ tín ngưỡng coi thần nông là vị thần cai quản ruộng vườn, đất đai, có thể hô gió, gọi mưa cho mùa màng, cây cối tươi tốt, cho cuộc sống dân bản một năm mới bình an, vụ mùa bội thu. Từ đó, bà con các dân tộc có tục cúng thần Nông vào đâu xuân năm mới để cầu thần phù hộ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp. Mở đầu hội, Pú Mo làm lễ cúng thần linh, thành hoàng ở ngoài đình làng hoặc miếu, thần nông được cúng ở khu ruộng rộng hoặc trên một ngọn đồi cao. Đồ lễ cúng, bao gồm: gà thiến luộc, các loại bánh trái, hoa quả, rượu trắng. Sau lễ cúng, mọi người cùng ăn cỗ, uống rượu tại lễ hội. Tiếp theo, nghi lễ cầu cúng là các trò chơi dân gian như đánh đu, bắn nỏ, tung còn. Thậm chí, dân làng còn mời đội múa sư tử ở làng bên về tham gia lễ hội với quan niệm ngày Tết có sư tử đến chúc mừng là dịp may mắn cho gia đình, báo hiệu một năm mới làm ăn phát đạt, sức khoẻ dồi dào.
Lễ hội Bủng Kham
Thường được tổ chức vào mùng 4 tháng giêng âm lịch hàng năm. Lễ hội được hình thành bởi quan niệm Bủng Kham (thôn Nà Phái, xã Đại Đồng, huyện Tràng Định). Tương truyền, Bủng Kham là nơi vui chơi giải trí của thần tiên. Người dân địa phương và du khách thập phương thường đến đây thắp hương cầu mong được các nàng tiên phù hộ làm ăn phát đạt, cuộc sống bình yên, gia đình ấm no hành phúc.
Lễ hội Bủng Kham được tổ chức tại hai khu vực gần nhau, bên gò đá phía tây Bùng Kham và miếng đất thoai thoải trước mặt là nơi tổ chức hành lễ và hát dân ca. Nơi thờ các thiên thần chia làm 3 bậc. Bậc trên cùng là nơi để ba bàn thờ và đồ tế thiên thần, bậc thứ hai đựng mâm lễ của 24 thôn, bậc thứ 3 phần bên trái là lán của thầy mo, phần bên phải là nơi 5 già làng và các đoàn đến làm lễ. Sau khi dâng rượu trà, thầy mo khấn xin phép mở hội bằng cách thả xuống đất đồng xu hoặc hai mẩu gỗ để xin âm dương. Sau khi các chàng trai, cô gái đại diện cho 24 thôn xã lần lượt bưng lễ đến và hát giới thiệu về mâm cỗ của làng mình, thầy mo sẽ tiến hành khấn. Nội dung của bài khấn xoay quanh mong muốn cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, chăn nuôi phát đạt, làng bản yên vui, mọi nhà đều ấm no hạnh phúc. Tiếp đến, các cụ già đến thắp hương ở 3 bàn thờ thần tiên: thần nông, thần hoàng trùng (Vua sâu bọ) và nàng tiên cá với nội dung như thầy mo đã khấn.
Trọng tâm của lễ hội Bùng Kham là trò gieo lộc và thụ lộc rất độc đáo. Trò chơi diễn ra vào buổi chiều, biểu tượng của thần lộc ở đây là bỏng thóc nếp. Đến giờ đã định, thầy mo đóng vai thần nông sẽ đem thúng lộc ra chòi, từ trên cao, cầm từng nắm bỏng xung tay vãi đều trong tiếng trống thanh la, não bạt giục liên hồi cùng tiếng reo hò náo nhiệt của người dân tham gia lễ hội. Lộc vãi xuống, bà con và du khách trẩy hội thi nhau nhặt vì họ cho rằng ai nhặt được nhiều lộc thánh thì năm đó làm ăn sẽ phát đạt, gia đình ấm no, hạnh phúc. Chiều tối, mọi người tập trung tại nơi hành lễ để thắp hương và làm thủ tục cuối cùng, kết thúc lễ hội, mọi người ra về
Lễ hội đầu pháo Kỳ Lừa

Tổ chức từ ngày 22 đến 27 tháng riêng âm lịch tại đền Tả Phủ, chợ Kỳ Lừa, xã Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn. Trong lễ hội này, một dây pháo dài khoảng 8 tấc, to 1,5 phân, đầu pháo có vòng đồng đính, sẽ được làm lễ đốt sau ngày khai hạ. Người nào cướp được vòng đồng ở đầu pháo sẽ được thưởng một con gà, một cân xôi, một cân rượu và quan trọng hơn cả là năm ấy, họ sẽ được mạnh khỏe, phát tài.
Lễ hội đầu pháo chợ Kỳ Lừa được tổ chức từ ngày 22 đến ngày 27 tháng giêng. Nhưng thực ra, không khí ngày hội đã có thể nhận thấy ngay từ sau rằm tháng giêng. Từ ngày 16 trở đi, trong đền Tả Phủ, đèn nến được thắp sáng trưng, khói hương nghi ngút suốt ngày đêm. Trong những ngày này, người dân nơi đây tổ chức đón rước thổ công, thần thánh ở các đền miếu lân cận về dự hội. Từ ngày 16 đến ngày 21, các gia đình có "đầu pháo" lấy được từ năm trước trả lại đền, kèm theo món lễ tạ và những tràng pháo để thông báo cho hàng phố biết. Sáng ngày 22, sau khi khai mạc lễ hội, một đoàn kiệu rước trang hoàng lộng lẫy, có thanh niên trai tráng, trang phục chỉnh tề gọi là "đồng nam" khiêng kiệu và một tốp thiếu niên gọi là "đồng tử" khiêng đình hoàng trầm cùng với đội sư tử Kỳ Lừa múa một vòng quanh sân đền rồi hướng thẳng xuống đền Kỳ Cùng để rước thần sông Kỳ Cùng về dự hội. Sau khi làm lễ đón rước, đúng giờ Ngọ, đoàn kiệu rước thần sông Kỳ Cùng quay về đền Tả Phủ. Trên quãng đường đoàn kiệu rước qua, các gia đình bày biện mâm lễ, cúng xôi, gà, hoa quả để cầu may, cầu tào lộc và đốt pháo chào mừng. Ngày 23, 24, tổ chức lễ tế và chuẩn bị đầu pháo. Ngày 25, 26 tổ chức đốt đầu pháo, đây là đỉnh điểm của lễ hội, lôi cuốn mọi người tham gia. Quyền châm lửa đốt pháo thuộc về người năm trước đoạt giải, giây phút quyết định sẽ đến khi quả pháo đại nổ hất tung vòng thép đỏ (đầu pháo) lên không trung, rơi xuống và mọi người sẽ vào nhặt lấy.
Ngày 27, đúng giờ ngọ đoàn kiệu lại rước, trả thần sông về đền Kỳ Cùng và đưa thổ công, thần thánh về các miếu lân cận, lễ hội kết thúc. Từ khi Chính phủ cấm đốt pháo nổ, tên gọi "Hội đầu pháo" được đổi thành "Lễ hội xuân đền tả Phủ". Hiện nay, còn có một lễ hội gắn liền với lễ hội đền Tả Phủ, đó là lễ hội đền Kỳ Cùng.
Lễ hội chùa Tam Thanh
Chùa Tam Thanh nằm trong động Tam Thanh - di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng của Xứ Lạng. Theo như các nhà nghiên cứu khoa học, di tích này nguyên là nơi thờ tự của Đạo giáo. Tên gọi Tam Thanh tức Ngọc Thanh, Thượng Thanh và Thái Thanh, là 3 cung thanh cao nhất được coi là 3 nơi tiên cảnh, mỗi cung do một vị thần cai quản. Sau này, do ảnh hưởng nhiều yếu tố, Đạo giáo mờ nhạt trong tâm thức nhân dân địa phương. Người dân địa phương đã đưa các yếu tố thờ tự của Phật giáo vào di tích này để thờ tự.
Theo thông lệ hàng năm, cứ đến ngày rằm tháng riêng, người dân Lạng Sơn lại mở hội chùa Tam Thanh. Vào buổi sáng, các cụ già tập hợp trước Tam bảo tụng kinh, gõ mõ, cầu đức Phật phù hộ cho dân chúng một năm mới bình an, mạnh khỏe,... Lúc này, các đội sư tử lên chùa múa lễ, mọi người dân đi theo sau thắp hương lễ Phật, thánh, Mẫu trong chùa. Quy trình tế lễ gồm các tuần hương, hoa, trà, tửu, đọc chúc văn, hóa vàng,... trình tự tế giống như tế ở các đình đền chùa khác. Về phần hội, bao gồm: những hoạt động phong phú như đấu cờ người, thi múa võ, ném còn,... và các làn điệu sli, then, lượn, quan họ, chèo hòa theo cùng tiếng đàn then, đàn nhị,... tạo nên không khí ngày hội sôi động, hào hứng.
Ngoài ra, chùa Tam Thanh còn gắn liền với danh thắng tượng đá nàng Tô Thị đã đi vào ca dao của dân tộc. Tượng đá nàng Tô Thị đứng chếch trên sườn núi trước mặt chùa như một biểu tượng của lòng chung thủy sắt son của người phụ nữ.
Lễ hội Chùa Tiên

Lễ hội Chùa Tiên xuất phát từ tín ngưỡng thờ đá và thờ nguồn nước của cư dân nông nghiệp. Đây là một trong những mô típ hình thành lễ hội rất phổ biến ở Việt Nam. Trong dịp đầu năm mới, lễ hội Chùa Tiên là ngày hội văn hóa truyền thống đặc sắc được tổ chức đông vui, nhộn nhịp và điển hình nhất ở Lạng Sơn.
Có nhiều truyền thuyết liên quan đến nguồn gốc của lễ hội Chùa Tiên, song phổ biển nhất là truyền thuyết Giếng Tiên. Chuyện kể rằng: "Ngày xưa, vào năm trời hạn hán đến nỗi sông Kỳ Cùng cũng cạn nước, đất đai nứt nẻ, cỏ cây héo khô, ruộng đồng xơ xác, dân làng Phia Luông không có nước dùng. Bữa nọ, một bầy trẻ chăn trâu trong làng gặp một cụ già ăn mặc xềnh xoàng, dáng thiểu não đến gặp chúng xin ăn, lũ trẻ vui vẻ chia phần cơm của chúng cho ông cụ và thành thực nói rằng: chúng cháu chỉ có cơm cho cụ ăn nhưng chẳng biết lấy gì mời cụ uống vì lâu nay làng đã không có nước. Cảm kích trước tấm lòng hiếu thảo của lũ trẻ, vừa nhận cơm xong, cụ già liền lấy gót chân giẫm xuống tảng đá, lập tức một dòng nước ngọt trong vắt phun lên. Từ đó, dân làng Phia Luông có đủ nước dùng. Sau này, người dân địa phương cho rằng: cụ già đó chính là ông Tiên đã ra tay cứu giúp làng qua cơn hoạn nạn, nên gọi nguồn nước đó là Giếng Tiên. Sau này, người dân địa phương đã lập miếu thờ Tiên ngay cạnh giếng bên sườn đồi Đèo Giang - Văn Vỉ.
Lễ hội được diễn ra trong ngày 18 tháng giêng. Phần lễ, bao gồm: các lễ hội thờ Phật, với nghi thức khai hội và phần nghi lễ tế. Điều đặc biệt ở lễ hội Chùa Tiên, các đồ lễ vật đặt lên các bàn thờ không được dâng lợn quay - vật lễ thường được dâng cúng ở các lễ hội khác.
Trong cuộc sống hiện đại đầy những lo toan, bộn bề, trở về không khí lễ hội, du khách như bỏ lại đằng sau những tháng ngày mệt mỏi, cùng hoà mình vào không khí tưng bừng của lễ hội, sôi nổi, tham gia vào những trò chơi dân gian giản dị và thú vị hay trở lại những quan niệm tâm linh thời xưa. Tất cả những cảm giác đó như mãi là lời mời gọi du khách đến với Lạng Sơn để cùng tham dự một lễ hội truyền thống đầy chất huyền thoại.
Văn hoá Ẩm thực
Xứ Lạng mang trong mình một dòng văn hoá ẩm thực đặc biệt với những món ăn hấp dẫn, những món ăn dân dã nhưng lại mang đầy phong vị độc đáo, rất Lạng Sơn. Một lần đến với Lạng Sơn và thưởng thức những món ăn của miền đất này hẳn sẽ khiến bạn nhớ mãi bởi sự độc đáo, tinh túy và mang đậm bản sắc quê hương của ẩm thực nơi đây.
Phở chua xứ Lạng: Đây là đặc sản của xứ Lạng, được chế biến khá cầu kỳ và có hương vị vô cùng hấp dẫn. Phở chua Lạng Sơn phải ăn nhẩn nha mới thưởng thức hết hương vị đặc biệt của nó. Phở chua gồm hai phần: nguyên liệu khô và phần nước. Phần khô trước hết phải kể đến bánh phở. Cũng vẫn là thứ bánh phở quen thuộc nhưng cái khác ở đây là bánh phở được làm se lại sao cho vừa dẻo vừa dai. Tiếp đó là món khoai tây thái chỉ và miếng doang được thoa qua mỡ sao cho thật giòn và vàng rộm lên. Gan lợn thái mỏng bằng nửa lòng bàn tay rán cháy cạnh. Thịt lợn ba chỉ loại ngon và dạ dày lợn đem quay trong chảo mỡ. Phần nước phở gồm: nước báng tỏi, dấm, đường, mì chính... Chính thứ nước hỗn hợp này làm cho người ăn không không cảm thấy ngấy. Còn nước lèo chính là thứ nước múc từ bụng con vịt quay, vừa có vị ngậy của mỡ vịt, vừa thơm phức nhờ những gia vị ướp trước khi quay.
Phở chua là món ăn hàn thực nên nó được ưa chuộng nhất vào mùa thu và mùa hè. Phở chua được coi là món ăn đặc sản đáng tự hào của người Lạng Sơn, bởi vậy nó là món không thể thiếu trong các dịp đón khách quý tới nhà.
Thịt lợn quay: Đây là món ăn đặc sản không thể thiếu trong các bàn ở Lạng Sơn và không chỉ ngon mà còn chế biến cầu kì và mang hương vị riêng của xứ Lạng. Món ăn lợn quay không chỉ ngon mà còn được chế biến cầu kỳ, có hương vị rất riêng. Lợn quay phải chọn những con khoảng 20-35kg, vừa quay lợn trên đống than đang cháy hồng, vừa bôi mật ong pha dấm để bì lợn khi chín có màu vàng sậm, giòn và không bị nứt. Lợn quay có vị ngọt béo ngậy của thịt vừa chín tới, vị thơm của lá mác mật, ăn một lần là nhớ mãi
Món khâu nhục: Đây cũng là món ăn chế biến cầu kì từ thịt lợn, món ăn này được tiếp nhận kỹ thuật của người Hoa ở Lạng Sơn và từ lâu đã trở thành món ăn đặc sản, thường được dùng trong cỗ bàn sang trọng hoặc để tiếp khách phương xa. Muốn có món khâu nhục ngon phải công phu từ khâu chọn thịt. Thịt ba chỉ của con lợn 70-80kg là vừa không bị béo quá, phải là thịt ba chỉ ngon (không lấy thịt ba chỉ bị long), ước lượng mỗi bát khâu nhục là 8 miếng, mỗi bát khoảng 0,5kg thịt, làm bao nhiêu bát thì cứ thế nhân lên.
Thịt ba chỉ cạo sạch lông, rửa sạch để ráo nước, cắt miếng to khoảng 0,5kg cho vào nồi luộc chín tới. Vớt thịt ra để nguội rồi dùng que nhọn đâm chi chít nhiều lần liên tục lên bì lợn, châm thịt kỹ để bì có khả năng hấp thụ nước cho thật mềm, càng châm kỹ miếng thịt sẽ càng ngon mềm hơn. Cho thịt vào chậu giấm ngâm, sau đó vớt ra tẩm tiếp húng lìu, xì dầu và bỏ vào chảo mỡ chao vàng miếng thịt; lấy ra để ráo mỡ và nguội. Khoai môn hoặc khoai lang gọt vỏ, thái miếng cho vào mỡ chao giòn, vớt ra để nguội. Gia vị của món khâu nhục rất cầu lì. Lá tàu soi (một loại rau muối mặn dùng để làm thức ăn mặn của người Hoa, Tày, Nùng ở Lạng Sơn), đem rửa cho hết sạn và độ mặn, băm nhỏ rồi trộn đều với tương tàu choong, xì dầu, húng lìu, tỏi giã nhỏ xếp xuống dưới đĩa, trên là khoai môn hoặc khoai lang.
Thái thịt thành từng miếng độ dày mỗi miếng khoảng 1,5cm (mỗi bát 8 miếng) xếp thịt lên trên đĩa thành hình tròn, úp bát to vào lật lại để nguyên đĩa, xếp từng bát thịt vào nồi hấp cách thủy độ 3-4 giờ cho thịt chín và mềm nhừ; khi xếp cỗ hoặc bày mâm bê bát khâu nhục ra ăn nóng. Mùi vị thật thơm ngon.
Món vịt quay: Thịt vịt quay cũng là món ăn chế biến công phu và có hương vị riêng của xứ này, muốn làm thịt vịt quay ngon phải chọn giống vịt bầu Bắc Kinh, mỡ ít, thịt dày. Thất Khê, một thị trấn của huyện Tràng Định đã lai tạo được giống vịt này, dùng để quay hay luộc đều ngon. Vịt làm sạch lông, chú ý không để rách da vịt, mổ vịt lấy bộ lòng ra để làm món xào hoặc canh gừng. Dùng ống đu đủ hoặc ống nhựa thổi cho phồng da con vịt lên, đem nhúng qua nước sôi rồi treo từng con vịt lên để ráo nước (cũng có nơi không nhúng qua nước sôi).
Trước khi đem quay, người ta dùng mật ong pha chút giấm và nước sôi bôi đều lên mình vịt. Quạt than cho hồng, bắc dàn sắt lên đặt con vịt vào sấy đến độ da bên ngoài se lại, sau đó tẩm ướp vịt bằng các loại lá mác mật, lá gừng băm nhỏ trộn đều với xì dầu và tương tàu choong chưng lên múc vào trong lòng vịt (độ 1 muôi), khâu kín bụng vịt rồi thả vào chảo mỡ đang sôi để quay. Khi quay đảo thật đều đến khi nào vịt chín ngả màu vàng sẫm thì vớt ra, chặt miếng xếp vào đĩa, dưới nước lủ lên ăn nóng càng ngon. Món vịt quay Lạng Sơn rất nổi tiếng, khách xa gần đến Lạng Sơn đều muốn tìm ăn để thưởng thức hương vị thật độc đáo.
Rượu Mẫu Sơn: Rượu mẫu sơn: nổi tiếng thơm ngon, không quá cay nồng mà cũng không quá nhạt. Rượu Mẫu Sơn mang cái ấm nóng xua tan bầu không khí giá lạnh, mang cái vị man mát của núi rừng Mẫu Sơn. Rượu được lên men từ lá cây rừng (men lá) và nguồn nước mạch tinh khiết trên đỉnh núi cao. Sau khi quá trình ủ rượu đã hoàn thành sẽ được chưng cất ở nhiệt độ cao trên đỉnh Mẫu Sơn trong lành quanh năm mây mù phủ kín.
Vẻ đẹp của thiên nhiên, tấm lòng của những con người hiền hoà, chân thật và hết lòng mến khách cùng những nét văn hoá đặc trưng, những lớp lang văn hoá - lịch sử được kế thừa, bảo tồn, gìn giữ qua nhiều thế hệ các dân tộc anh em sống chung trên mảnh đất Lạng Sơn như đang mời gọi bạn hãy một lần đến với Lạng Sơn để cùng cảm nhận và khám phá.

Cinet tổng hợp

HUYỀN THO� I VỀ MẪU S� N


Mẫu Sơn thuộc vùng núi cao của hai huyện Cao Lộc và Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn với khoảng 80 ngọn núi to nhỏ nằm liền bên nhau. Đặc biệt nhất là ở khu vực cao nhất của Mẫu Sơn, núi không mang tên loài cây, loài hoa, tên con vật hay tên con người mà lại chỉ mang tên núi Cha, núi Mẫu, núi Con và núi Cháu.

Chuyện người xưa kể lại: Gia đình họ gồm người Cha khoẻ mạnh và dũng cảm, người mẹ khéo léo, chung thuỷ và đảm đang, những người con tuy nhỏ tuổi nhưng ngoan ngoãn. Họ sống hoà thuận và no đủ trong một mái nhà trên vùng núi quanh năm mây phủ, có con sông Kỳ Cùng chảy vòng quanh.

Một ngày nọ, có quân ngoại xâm đến xâm lược. Vâng mệnh nhà Vua, người Cha cưỡi ngựa, cầm gươm, vác giáo theo đoàn quân của nhà Vua ra trận chiến đấu bảo vệ bờ cõi biên cương.

Rồi một ngày cuối Đông, người Cha cũng đã trở về, sau khi đã dũng cảm chiến đấu cùng Đại quân của nhà Vua đánh tan giặc xâm lăng, được nhà Vua ban tặng cho nhiều phần thưởng cao quý và được giải ngũ. Về với gia đình trong niềm vui khôn tả của người Mẹ và các con, người Cha tưởng rằng từ đây gia đình lại tiếp tục cuộc sống êm ấm, vui vẻ như những năm xưa. Nào có ai ngờ từ đây bắt đầu một huyền thoại bi tráng.

Chuyện bắt đầu từ một gia nhân trong gia đình, khi người Cha đi vắng đã đem lòng yêu người Mẹ nhưng hễ cứ ngỏ lời thì lại bị Người Mẹ cương quyết từ chối. Trong thời gian đó, có chàng thanh niên tên Chóp Chài quê ở gần đó, hoàn cảnh nhà nghèo khó nhưng chăm chỉ và tốt bụng, vẫn thình thoảng qua lại bản buôn bán và giúp đỡ nhiều người trong bản, nhiều hôm do mải làm việc, khi định về nhà thì trời đã tối, thời ấy nếu đường xá xa xôi, cọp beo rừng hung dữ không thể đi đêm về hôm được nên chàng Chóp Chài vẫn thường xin được ăn cơm và ngủ lại nhà ba mẹ con, chờ hôm sau trời sáng mới về. Nghĩ chàng Chóp Chài là người làm ăn chăm chỉ và tốt bụng nên ba mẹ con cùng yêu quý, hay giúp đỡ chàng.

Không được đáp lại tình yêu còn bị khinh miệt, những ghen ghét, xấu hổ và hằn học chất chứa trong lòng ngày càng lớn, gã gia nhân luôn nung nấu ý định trả thù người Mẹ. Vì vậy, ngay sau buổi cả bản đón người Cha trở về, gã đê tiện kia đã thưa với người Cha rằng trong những năm tháng người Cha đi ra trận, người mẹ ở nhà có tình ý với Chóp Chài, không còn giữ lòng trung thuỷ với chồng. Giận quá hoá mất khôn, không nén nổi nỗi bực tức và không bình tĩnh nghe lời can ngăn của bất cứ ai, người Cha rút gươm kề ngay vào cổ vợ mà đòi dẫn đi tìm bắt người thanh niên Chóp Chài để giết chết cả hai người cho hả nỗi hận trong lòng. Nhưng ngày hôm đó Pò Chài ở nhà, không đến bản bán hàng. Người Mẹ nước mắt lưng tròng, thanh minh hết lời về nỗi oan khuất của mình nhưng người Cha không hề rung động. Cuối cùng, người Mẹ chỉ kịp đề nghị người Cha để những đứa con của mình chạy ra khỏi nhà, quay mặt đi nơi khác để không nhìn thấy cảnh đầu rơi máu chảy rồi vén tóc cúi đầu để người Cha ra tay. Máu của người Mẹ đã đổ xuống chảy tràn trên đất, chảy mãi thành suối, thành sông.

Sau cơn cuồng giận, người Cha chợt tỉnh ngộ, nhận ra sự nóng giận vô lý đã cướp mất người vợ yêu thương nhất mực thuỷ chung và đảm đang của mình. Người Cha vạch áo vợ lên xem bụng, thấy những dấu tích ngày nào vẫn vẹn nguyên, chứng tỏ người vợ bị oan khuất, bèn vác gươm tìm kẻ gia nhân ty tiện kia trừng phạt nhưng hắn đã cao chạy, xa bay. Người Cha tột cùng đau khổ đã gọi các con quay trở về, lập miếu thờ người vợ yêu quý của mình và đêm ngày gào thét cầu xin người vợ được sống lại.

Sau khi hồn lìa khỏi xác, người Mẹ tìm lên Trời, đòi gặp Ngọc Hoàng Thượng Đế để kể về nỗi oan khuất và mong Người giải oan cho mình. Ngọc Hoàng bèn cử bảy Nàng tiên bay xuống trần gian, giả làm người trần để tìm hiểu sự việc. Các Nàng tiên đã đáp xuống vùng đất rừng rậm rạp của bản, sau nhiều thời gian xác minh, các Nàng tiên trở về tâu lại với Ngọc Hoàng sự thực. Nay người Cha rất hối hận và mong Ngọc Hoàng cho gia đình họ khi sống được gần nhau, khi chết cũng được ở bên nhau. Ngọc Hoàng đã chấp nhận lời đề nghị của các Nàng Tiên. Vì vậy sau khi chết, gia đình họ được chôn cất gần nhau, sau này những ngọn núi mọc cao lên, mang tên Núi Cha, Núi Mẫu, Núi Con, Núi Cháu. Cả khu vực cảnh quan thiên nhiên kỳ vỹ san sát những ngọn núi cao vòi vọi đó luôn xanh mát màu xanh cây lá, quanh năm khí hậu tốt lành và ưu đãi cho con người sống ở đây nhiều sản vật quý báu, họ luôn yêu thương, thân thiện và chuyên cần với cuộc sống mà cha ông họ đã để lại.

Ngày nay, đến Mẫu Sơn, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn, bạn sẽ thấy những huyền thoại đó hiện hữu ở khắp mọi nơi. Núi Cha là ngọn núi cao nhất nhìn từ mọi phía. Núi Mẹ thấp hơn nằm về phía Đông. Đứng từ phía núi Cháu (Khu Du lịch Mẫu Sơn hiện nay) hoặc từ thị trần Cao Lộc thuộc huyện Cao Lộc nhìn lên, núi Mẫu đứng gần hai núi Con, núi Cha đứng xa hơn một chút như bằng chứng sự yêu thương che chở của Người Mẹ đối với hai đứa con khi Người Cha đánh giặc vắng nhà. Đứng từ phía Thị trấn Chi Ma hoặc thị trấn Lộc Bình thuộc huyện Lộc Bình nhìn lên, núi Cha đứng xích gần hai núi Con, núi Mẫu thấp hơn núi Cha và đứng tách ra một chút như là sự đau khổ xa cách âm dương. Những Núi Cháu đứng vòng quanh trong một gia đình sung túc, đâu biết trong mỗi gia đình đều có những đau khổ không thể nào nguôi ngoai.

Những giọt máu đào của người Mẹ đổ xuống đã rải đỏ trên các triền núi mỗi mùa Xuân về, thấm trên những cánh hoa Bích đào đỏ thắm trong sương mù, huyền ảo và quyến rũ. Đào Mẫu Sơn nổi tiếng trong thiên hạ không chỉ bởi vị thơm ngon mà có lẽ cũng vì vẻ đẹp tuyệt diệu của những cánh hoa và cái cách phát triển đặc biệt độc đáo của trái đào: hình thành quả từ sau khi hoa rụng, trái Đào tiên đỏ rực như trái ớt chín, khi lớn lên chúng mới dần trở nên hồng nhạt.

Vùng núi Mẫu Sơn hiện có hơn chục dòng suối chảy từ khu vực đỉnh núi xuống xung quanh và đều chảy vào sông Kỳ Cùng. Phía Bắc có suối Pắc Đây, Làng Kim, Co Khuông, Khuổi Phiêng, Khuổi Luông. Phía Nam có Khuổi Lầy, Khuổi Tẳng, Khuổi Cấp, Nà Mẫu, Lặp PJạ, Bản Khoai. Đó là máu oan khuất của người Mẹ, nước mắt hối hận của Người Cha. Mỗi dòng suối đều có vẻ đẹp riêng, là nguồn sống của hàng trăm hộ dân sinh sống quanh vùng. Thứ nước nguồn thấm đẫm mối tình oan khuất và đau khổ này làm nên sự nổi tiếng của Rượu Mẫu Sơn, làm nên chất lượng tuyệt hảo của Chè Mẫu Sơn.

Tất cả các ngọn núi đều có nhiều ao hồ, thác ghềnh quanh năm đầy nước, dù ở độ cao rất lớn so với mực nước biển. đặc biệt có những nơi có cảnh đẹp nên thơ như thác Long Đầu, vũng Soong Cải, … tương truyền là nơi các Nàng tiên khi đáp xuống trần gian xác minh nỗi oan khuất của người vợ vẫn thường xuống tắm. Khi đứng ở các ngọn núi khác nhìn vào, thấy lấp loáng ánh sáng phản chiếu từ những vùng nước đó ra như những mảnh gương thần các Nàng Tiên để lại cho trần thế trước khi về Trời. Xung quanh những vùng nước mát quanh năm tươi tốt các loại cây trái, đặc biệt trên núi Mẫu Sơn có một loại chanh cây to trái nhỏ rất ngon, nếu đem muối cùng măng ớt hoặc muối không sẽ trở thành một loại gia vị có hương thơm đặc biệt, ai đã dùng một lần sẽ không quên được hương vị tuyệt vời quyến rũ của nó. Tương truyền ai đã thưởng thức món ăn này sẽ luôn luôn bị thôi thúc phải trở lại nơi này để lại được thưởng thức chúng vào vụ tới - những trái cây tròn nhỏ xíu đó chính là những giọt nước mắt ân hận của Người Cha mà thành.

Đêm đêm, Mẫu Sơn ngày nay đã có ánh đèn điện sáng lung linh, song trong mờ mịt sương mù vẫn luôn được nghe nghe tiếng gào thét rền rĩ của gió, văng vẳng như những lời than vãn khóc gào bi ai của Người Cha sau khi giết nhầm người vợ yêu quý của mình. Càng về khuya, tiếng thét gào càng thảm thiết và ai oán, gợi trong lòng du khách- những người sống – gờn gợn những cảm nhận sâu sắc và đau xót về mối oan tình huyền thoại Mẫu Sơn.

Còn Chóp Chài, chàng trai bị nghi oan được biết Người Mẹ bị giết chết trong oan khuất cũng không nguôi nỗi trăn trở, khi chết đã biến thành ngọn núi cao đứng xa xa nhìn về, đơn độc khắc khoải như lời nhắc nhở với con người về những nỗi uẩn khúc của cuộc sống. Ngọn núi này du khách có thể nhìn thấy từ thành phố Lạng Sơn hay từ vùng núi Mẫu Sơn, có hình chóp nón rất đẹp, đứng độc lập ở vùng Văn Lãng - Đồng Đăng, Lạng Sơn ngày nay.

Trên núi Mẫu còn một vết sạt trắng, mỗi khi có mưa xuống, hình thành một con thác trắng xoá bọt nước, tương truyền đó là vết vạch trắng ở bụng Người Mẹ, nơi Người Cha xác định được sự thuỷ chung của vợ mình sau khi đã giết chết vợ. Những ngày trong trời, đứng từ phía Núi Cháu nhìn sang, vết trắng đó càng hiện rõ trên nền cây xanh ngút ngàn của những cánh rừng trên núi. Núi Mẫu hiện còn phế tích của một ngôi đền cổ, cột bằng những tảng đá liên khối, được gọt đẽo và dựng trên nền đá từ rất lâu, tương truyền là ngôi đền do Người Cha dựng lên trong tột cùng của đau khổ và tuyệt vọng để thờ cúng vợ oan khuất của mình. Khách du lịch có thể tới đó bằng cách đi ôtô theo đường qua thị trấn Lộc Bình, trên nửa đường đến của khẩu Quốc Tế Chi Ma thì rẽ về bên tay trái. Hết đường ôtô, du khách đi bộ khoảng 1 giờ đồng hồ nữa là đến Đền cổ. Mạo hiểm hơn, nếu đi từ khu Du lịch Mẫu Sơn, du khách phải tích cực leo núi khoảng 6 giờ đồng hồ liên tục cũng có thể đến được. Đền cổ này đã từng ghi dấu chân nhiều tháng lăn lộn tìm tòi của Giáo sư Sử học Trần Quốc Vượng trước khi ông mất (năm 2005).

Bây giờ, khách đến thăm Mẫu Sơn có thể được thưởng thức nhiều sản vật tự nhiên của núi rừng như mật ong khoái, bọng ong còn nguyên sữa ong non, nấm hương, ếch hương, trà rừng xanh, những nông sản do bà con đồng bào các dân tộc thiểu số trồng trọt, khai thác như các loại rau xanh, su su, ngót rừng, hoa chuối rừng. Những sản vật theo mùa vụ cũng được bà con bày bán trên đỉnh núi như đào, đu đủ, khoai sọ, nấm hương. Những sản vật là kết quả lao động của bà con được thiên nhiên khu vực ưu ái có Rượu gạo, gà sáu cựa, thịt lợn hun khói, thịt lợn quay, chè Shan tuyết, thuốc tắm, thuốc chữa nam bệnh… Chính những người dân nơi đây đang cố gắng chăm chỉ lao động sản xuất và mong muốn có sự giúp đỡ có hiệu quả của mọi người để nhanh chóng thoát khỏi cái đói nghèo, tiến kịp theo sự phát triển của Miền xuôi. Một doanh nghiệp đã khai thác kinh doanh thứ nước nguồn tuyệt hảo này để sản xuất nước Mẫu Sơn đóng chai, một doanh nghiệp khai thác và kinh doanh thứ rượu Mẫu Sơn và một doanh nghiệp khác đang khai thác nguồn chè Shan tuyết tuyệt vời của Mẫu Sơn phục vụ nhu cầu tiêu dùng của khách du lịch. Mẫu Sơn như nàng công chúa ngủ trong rừng bắt đầu chuyển mình thức dậy.
Ghi theo lời kể của ông Đặng Tăng Phúc - Dân tộc Dao-
Người hiện đang sống tại khu Du lịch Mẫu Sơn, Lạng Sơn
[ Quay lại ]

Khu linh địa cổ Mẫu Sơn: Bí ẩn vùng đất thiêng
Thứ tư - 29/06/2011 20:32




Khu linh địa cổ Mẫu Sơn: Bí ẩn vùng đất thiêng
Qua lời kể của các già làng người Dao ở Mẫu Sơn, khu linh địa cổ còn nằm trong một huyền thoại khác bao trùm cả quần thể núi non trùng điệp, rừng xanh, suối mát của Khu du lịch Mẫu Sơn
Kỳ I: Huyền tích linh địa cổ

Quả thực, vẫn đọc trong sách phong thủy về cái thế đất đắc địa “Tả thanh long, hữu bạch hổ, mặt nhìn sông, lưng tựa núi” mà đôi khi cảm thấy còn mù mờ lắm, chẳng mường tượng nổi cái thế đất đại cát, đại lợi, đại phúc ấy hình dáng ra sao. Vậy mà, chỉ đặt bước chân đầu tiên lên khu linh địa cổ Mẫu Sơn mọi mơ hồ đều được sáng tỏ.



Hành trình trên con đường độc đạo

Trung tuần tháng 4 vừa rồi, Ban quản lý Khu du lịch Mẫu Sơn mời chúng tôi cùng tham gia chuyến khảo sát thực địa khu linh địa cổ Mẫu Sơn, thôn Lặp Pịa, xã Mẫu Sơn, huyện Lộc Bình. Đúng là “mừng như bắt được vàng”, bởi cái địa danh đượm màu huyền thoại ấy luôn tạo nên một sức hút kỳ lạ đến khó tả, đặc biệt là với mấy anh em phóng viên chúng tôi. Chuyến đi rất vất vả với khoảng 3 tiếng đồng hồ leo núi liên tục, nhưng những xúc cảm có được khi đặt chân lên vùng lãnh địa tôn nghiêm ấy quả là xứng đáng với tất cả gian truân trong suốt cuộc hành trình. Đứng giữa một vùng không gian tâm linh huyền bí, trong chúng tôi cứ trào dâng mãi niềm tự hào về những trầm tích văn hóa, lịch sử lâu đời của quê hương Xứ Lạng.

Trong chuyến khám phá khu linh địa cổ Mẫu Sơn, chúng tôi đã chụp hơn 500 bức ảnh về những cảnh sắc kỳ vĩ trong mây gió mịt mù suốt dọc cuộc hành trình lên đỉnh cao ngàn mét. Những bức ảnh minh chứng cho sự hiện hữu của quá khứ ngàn năm trên một vùng lãnh địa linh thiêng, tôn nghiêm, huyền bí. Trong sự ám ảnh ấy, có cả nỗi day dứt về những trầm tích văn hóa, lịch sử đang đứng trước quy luật nghiệt ngã của 2 chữ còn và mất. Để rồi, những day dứt đó dẫn dắt chúng tôi không tiếc công sức tìm kiếm những khám phá của đoàn khảo cổ học 8 năm về trước cùng những nhân chứng lịch sử liên quan đến đỉnh non thiêng.



Ngổn ngang những phiến đá nhân tạo trên nền linh địa

Xin hãy khoan bàn về những dấu ấn văn hóa, lịch sử của khu linh địa cổ, bởi chỉ nội việc những huyền tích xung quanh vùng đất này đã tạo nên biết bao mê hoặc rồi. Từ đầu thế kỷ XX, dân quanh vùng Mẫu Sơn vẫn truyền tụng nhiều chuyện kể, huyền tích, huyền thoại về khu linh địa cổ. Một trong những chuyện khá ấn tượng bắt đầu từ một gia đình người Dao sinh sống ở thôn Lặp Pịa, xã Mẫu Sơn, huyện Lộc Bình về “những phiến đá thiêng rỉ máu”. Chuyện kể: Cách đây đã rất lâu, trong một chuyến đi săn, ông chủ gia đình người Dao đã vác về một phiến đá kỳ lạ từ khu linh địa cổ. Với suy nghĩ thuần phác của người dân có thể dùng phiến đá này vào công việc cá nhân của gia đình. Thật kỳ lạ là mờ sáng hôm sau, vừa tỉnh giấc, ông chủ nhà đã tá hỏa khi tận mắt nhìn thấy phiến đá hôm qua mình mang về đang rỉ ra những giọt máu, vết máu loang đỏ cả sân nhà. Người ông lạnh toát sống lưng và thầm nghĩ mình đã làm một việc động trời, ông vội vã cùng gia đình thành khẩn cõng phiến đá thiêng lên trả lại chỗ cũ và cầu xin thần linh tha thứ. Câu chuyện cứ thế lan truyền mãi trong ký ức của người Dao và các dân tộc khác trong vùng. Nơi có phiến đá thiêng và cả vùng phụ cận đã trở thành một “vùng lãnh địa linh thiêng”.



Nước non hùng vĩ trên hành trình

Qua lời kể của các già làng người Dao ở Mẫu Sơn, khu linh địa cổ còn nằm trong một huyền thoại khác bao trùm cả quần thể núi non trùng điệp, rừng xanh, suối mát của Khu du lịch Mẫu Sơn. Đó là câu chuyện đau buồn của một bi kịch gia đình tan vỡ bởi những ghen tuông mù quáng. Tương truyền rằng, thủa xưa tại khu vực này có một gia đình đầm ấm, hạnh phúc. Người chồng khỏe mạnh, dũng cảm, người vợ thủy chung, đảm đang sinh được những người con xinh đẹp, ngoan ngoãn. Họ sống hòa thuận và no đủ trong một vùng rừng núi quanh năm mây phủ, có con sông Kỳ Cùng uốn lượn chảy quanh. Một ngày, đất nước có giặc xâm lăng, người chồng vâng mệnh vua lên đường xung quân giết giặc, bảo vệ bờ cõi biên cương. Trong thời gian người chồng ra trận, một tên gia nhân trong gia đình đã đem lòng thương yêu người phụ nữ vắng chòng, nhưng hễ cứ ngỏ lời lại bị kiên quyết từ chối. Không được đáp lại tình yêu còn bị khinh miệt, những ghen ghét, xấu hổ và hằn học chất chứa trong lòng ngày càng lớn, gã gia nhân luôn nung nấu ý định trả thù người phụ nữ ấy. Trong thời gian ấy, có chàng Chóp Chài tốt bụng vẫn thường qua lại giúp đỡ gia đình trong khi người cha của những đứa trẻ vắng nhà. Sau khi người cha lập công thắng trận trở về, gã đê tiện kia đã không ngừng xúc xiểm, bịa đặt rằng trong những năm tháng người cha ra trận, người mẹ đã có tình ý với Chóp Chài, không còn giữ lòng chung thủy với chồng. Mặc cho người mẹ thủy chung cạn nước mắt thanh minh, người cha vẫn một mực tin vào lời tên gia nhân xấu bụng. Bi kịch rồi cũng đến vào một ngày xuân, trong cơn nóng giận vì ghen, người cha đã xuống tay giết chết người vợ mà mình đã hết mực yêu thương. Dòng máu oan khuất của người mẹ chảy mãi, chảy mãi, chảy thành hằng trăm con suối quanh vùng, thấm đẫm cả những cánh hoa đào, để đến nay Mẫu Sơn vẫn luôn nức tiếng với những cành bích đào đỏ thắm trong huyền ảo sương mù mỗi dịp xuân sang. Về phần người cha, sau cơn cuồng giận, ông chợt tỉnh ngộ, nhận ra mình đã nhẫn tâm sát hại người vợ thủy chung bao năm trọn vẹn những mặn nồng, người cha rơi vào những tột cùng của khổ đau, ông ngày đêm gào thét để cầu xin cho vợ mình được sống lại, tiếng gào thét của ông trở thành những cơn gió da diết thổi quanh năm trên đỉnh Mẫu Sơn, nước mắt của ông hòa vào dòng máu người vợ trở thành những dòng nước nguồn thấm đẫm mối tình oan khuất, người dân đã lấy thứ nước ấy cất thành loại rượu Mẫu Sơn cay ngọt, say nồng nổi tiếng sau này. Dòng nước mắt ấy cũng đã nuôi dưỡng những cây chè cổ thụ trên đỉnh Mẫu Sơn, thứ chè kỳ lạ luôn mang vị ngọt đắng của một tấn bi kịch ngàn năm. Người cha cứ lang thang vô định trong rừng thẳm để tìm hình bóng người vợ xưa, những giọt nước mắt của ông rải khắp núi rừng, đọng lại trên lá thành những trái chanh rừng bé xíu, tròn mọng, người dân khi hái về ngâm muối đã tạo nên thứ gia vị có hương thơm đặc biệt khiến ai đã một lần thưởng thức sẽ không thể nào quên. Và cuối cùng, người cha trong những đau khổ, tuyệt vọng tột bậc đã một mình dùng dao phạt trắng một khoảng rừng thành một vùng đất trống, ròng rã trong nhiều ngày trời, ông đẽo gọt những phiến đá lớn gần đó để dựng lên một khu đền cổ thờ cúng người vợ oan khuất của mình... ông gục chết vì kiệt sức sau khi xây dựng ngôi đền ấy. Cảm động trước câu chuyện tình bi thương, Ngọc Hoàng Thượng Đế đã biến họ thành những ngọn núi bất tử ngàn năm, tiếc thương cho một gia đình tan vỡ, người dân đã lần lượt gọi những ngọn núi ấy là núi cha, núi mẹ, núi con... tạo nên quần thể Khu du lịch Mẫu Sơn ngày nay. Và hằng năm, người dân trong vùng vẫn hành hương về khu linh địa cổ nơi lưng chừng núi mẹ để thực hiện các nghi lễ tâm linh, tín ngưỡng thiêng liêng, để tưởng nhớ về một huyền thoại bi thương nhưng thấm đượm tính nhân văn sâu sắc...

Kỳ II: Lần theo dấu chân những người tiên phong
Tác giả bài viết: Hoàng Thái - Trúc Lam
Nguồn tin: baolangson.vn

Khu linh địa cổ Mẫu Sơn: Bí ẩn vùng đất thiêng (Kỳ II)
Thứ ba - 05/07/2011 00:02




Khu linh địa cổ Mẫu Sơn: Bí ẩn vùng đất thiêng (Kỳ II)
Đã được nghe nhiều câu chuyện hư hư thực thực về Khu linh địa Mẫu Sơn, đã có đôi chút mường tượng về vùng đất linh thiêng ấy qua lời kể của những người từng đặt chân đến, đã tìm hiểu một số hồ sơ nghiên cứu, khai quật khảo cổ học, đã có vài nét hình dung qua những bức ảnh tư liệu vàng ố màu thời gian…
Kỳ II: Lần theo dấu chân những người tiên phong

* Kỳ I: Huyền tích linh địa cổ



Vượt suối đến khu linh địa Mẫu Sơn

Qua trạm thu phí giao thông cửa khẩu Chi Ma chừng 3km, rẽ trái vào con đường đất khoảng vài km nữa, chúng tôi xuống xe tại một con dốc cuối cùng gần Trường tiểu học thôn Lặp Pịa. Đoàn gồm 12 người: 9 cán bộ của Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch, 2 phóng viên Báo Lạng Sơn, anh Hoàng Văn Tạ, Phó Trưởng Công an xã Mẫu Sơn - một tay đi rừng lão luyện dẫn đường. Chiếc mũ tai bèo bạc màu sương gió, con dao quắm sắc lẹm trong tay, anh Tạ thoăn thoắt xé đám cây bụi dẫn chúng tôi men theo con đường độc đạo chỉ vẻn vẹn vừa dấu chân một người đi. Cứ dò dẫm từng bước nhỏ, hết bờ dốc, lại đổ đèo, được khoảng 1/3 quãng đường chúng tôi đã cảm thấy chân cẳng rã rời. Đứng tựa vào gốc cây thở dốc, nhìn lên đỉnh núi mây mù xa vòi vọi phía trước mà trong đầu cứ lan mãi cái ý nghĩ bỏ cuộc giữa chừng...

Anh em trong đoàn đa phần là thanh niên trai tráng mà cứ liên tục “xin” anh Tạ cho nghỉ, tay đi rừng thành thần ấy thì lúc nào cũng bỏ xa chúng tôi một quãng dài và cứ đứng trên đỉnh núi xa tít luôn miệng quát vọng xuống dọa: “đi ề à thế này tối nay chắc chắn phải ngủ lại ở khu linh địa rồi.” Hoảng quá, lại cố nhấc những bước chân nặng như chì leo dốc... Vậy mà trong khoảng thời gian từ 2002 đến 2004, con đường độc đạo chúng tôi đang men theo vẫn thường xuyên in dấu chân của một ông lão đã ở cái tuổi “xưa nay hiếm” với mái tóc bạc trắng như cước. Người ấy chính là cố giáo sư sử học Trần Quốc Vượng - cây đại thụ của nền sử học Việt Nam, một trong tứ trụ sử học Việt Nam đương đại “Lâm, Lê, Tấn, Vượng” (tức gồm các giáo sư Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn và giáo sư Trần Quốc Vượng). Năm 2002, Bảo tàng Tổng hợp Lạng Sơn, Công ty XNK Du lịch Lạng Sơn đã mời đoàn cán bộ chuyên ngành ở Trung ương cùng phối hợp tiến hành điều tra di tích Mẫu Sơn.

Đoàn do giáo sư Trần Quốc Vượng đứng đầu đã tiến hành điều tra 2 di tích khảo cổ học là Chóp Chài và Mẫu Sơn. Kết thúc đợt điều tra, giáo sư Trần Quốc Vượng thay mặt đoàn công tác đã gửi báo cáo sơ bộ đến các cơ quan chức năng ở Lạng Sơn và gửi bài cho Hội nghị thông báo những phát hiện mới về khảo cổ học toàn quốc tổ chức tại Hà Nội tháng 9/2003. Là một trong những nhà khoa học đầu tiên đặt chân đến khu linh địa Mẫu Sơn để khảo cứu vùng đất linh thiêng, huyền bí và tôn nghiêm này, giáo sư Trần Quốc Vượng đã góp phần lớn trong việc khai lộ những trầm tích văn hóa, lịch sử rất có giá trị của khu linh địa Mẫu Sơn đến với giới chuyên môn cả nước và công chúng. Cuộc khảo cứu của giáo sư Trần Quốc Vượng cùng các đồng nghiệp đã mở đường cho một đợt khai quật chính thức với quy mô lớn tại khu linh địa Mẫu Sơn.

Ngày 14/10/2003, Bộ Văn hóa Thông tin đã ra Quyết định số 3505 cho phép Sở Văn hóa Thông tin Lạng Sơn tiến hành khai quật lần thứ nhất khu di tích linh địa Mẫu Sơn, thời gian khai quật trong 2 tháng từ 15/10/2003 đến 15/12/2003, diện tích khai quật 700m2, người phụ trách khai quật là tiến sĩ Nguyễn Văn Cường, Phó Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin lúc bấy giờ. Năm 2004, cuộc khai quật kết thúc với rất nhiều khám phá bất ngờ đồng thời phát hiện hàng ngàn hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa cao.

Tiếc thay, vào tháng 8/2005, giáo sư Trần Quốc Vượng qua đời vì trọng bệnh, ông để lại nhiều công trình nghiên cứu còn dang dở về văn hóa hầm mộ “cự thạch” (đá lớn) ở Việt Nam, trong đó có khu linh địa Mẫu Sơn. Những bước chân tiên phong trên con đường khám phá khu linh địa Mẫu Sơn của vị giáo sư đáng kính, một nhà sử học, nhà khảo cổ học hàng đầu - một ông lão ở cái tuổi 70 vẫn bền bỉ, miệt mài băng rừng, vượt dốc, ăn lương khô, ngủ lán trại đẫm sương, uống nước suối khe ròng rã nhiều ngày trời chỉ bởi sức hút của những trầm tích văn hóa, lịch sử một vùng đất thiêng thực sự đã gây cho chúng tôi nhiều xúc cảm.



Chõ đồ xôi bằng sành được phát hiện tại khu linh địa Mẫu Sơn

Xin được trích lời của tiến sĩ Vũ Thế Long, Viện Khảo cổ học Việt Nam, người đã từng khảo cứu khu linh địa khi vùng đất này vẫn còn là một điều vô cùng bí ẩn: “Các đồng nghiệp bàn luận: Liệu nơi đây có phải là “Linh địa” không? Đã từng đến vị trí này, khảo cứu ở vị trí này và cũng từng ngủ qua đêm, uống rượu, ngắm trăng, dãi nắng, dầm mưa và đón mặt trời mọc, tiễn mặt trời lặn ở nơi đây, tôi cảm thấy đây đúng là một vị trí thiên nhiên kỳ diệu. Mây luôn luồn vào lán trại chờn vờn với con người. Bên dưới nắng chói chang nhưng trên khu linh địa vẫn mát lạnh. Đứng ở vị trí những phế tích của nền kiến trúc cổ mà ta nhìn xuống chân núi có thể thu vào tầm mắt muôn trùng nước non, có thể nhìn thấy cả giang sơn trong một bức tranh gấm vóc. Tôi không được học về khoa tử vi, tướng số cũng như thuật xem đất cát, nhưng qua thực tế mà người xưa đã lựa chọn để làm nơi thờ cúng cùng với những gì đã thấy ở đây. Tôi đồng ý với ý kiến cho rằng: về mặt địa lý, nơi đây đúng là một đắc địa. Cần phải gìn giữ, tu bổ để mọi người đến thưởng lãm.”


Cần phải gìn giữ, tu bổ để mọi người đến thưởng lãm. Đó phải chăng là mong muốn lớn nhất của cố giáo sư Trần Quốc Vượng khi ông đặt chân đến khám phá vùng đất linh thiêng ngàn năm tuổi này. Chúng tôi nói nhỏ với nhau: Sau này khi khu linh địa được trùng tu, phục dựng với một con đường thuận tiện cho du khách vãn cảnh, không chắc con đường ấy sẽ đi theo lối mòn này, nhưng những dấu chân tiên phong mà giáo sư Trần Quốc Vượng đã đi qua để đến với khu linh địa Mẫu Sơn, hẳn sẽ trở thành con đường riêng mang tên ông. Mọi ước vọng còn ở tương lai, giống như những ngọn núi phủ mây phía trước mà chúng tôi sẽ phải vượt qua. Nhưng sau tiếng giục lên đường của anh Tạ, bỗng thấy bước chân vượt dốc như nhẹ nhàng hơn...
Tác giả bài viết: Hoàng Thái - Trúc Lam

No comments:

Post a Comment