Sunday, May 30, 2010

Quê ngoại

Quê ngoại thân yêu Thứ bảy, 17/04/2010 22 giờ 01 GMT+7
Truyện ngắn của NGUYỄN KIM
Quê ngoại tôi là một làng tiếp giáp đường liên xã có con rạch với những rặng dừa xanh um dày đặc chen lẫn hàng bần, mắm già sần sùi ven bờ. Sau hơn mấy mươi năm, bây giờ nhắm mắt lại tôi vẫn có thể hình dung ra từng con người, từng vị trí thân quen những năm thơ ấu. Đường đất vào làng đầy lỗ chân trâu, hai bên gần như bị che khuất bởi hàng trâm bầu, loại cây sống bám rễ mạnh mẽ trên đất cằn khô. Ngang qua gò lức là đến khu vườn nhà ông Hội. Ngôi nhà cổ, tường loang lổ rêu xanh, ấn tượng nhất là trước cổng có hai con hổ đá bệ vệ ngồi chầu mà lúc nào tôi cũng ngại ngần mỗi khi leo lên lưng vui đùa cùng đám bạn. Ông Hội có ăn học, thuộc dòng dõi gia thế. Thời chín năm kháng Pháp, ông tuy là hương chức làng nhưng do liên lạc, ủng hộ kháng chiến nên nhà cầm quyền bãi chức. Ông chẳng lấy làm buồn vì dân làng vẫn quí mến, tôn trọng ông trong các cuộc hội hè, đình đám... Nghe kể rằng cô con gái duy nhất của ông Hội hồi học ở Sài Gòn lỡ yêu say đắm một chàng sinh viên trường thuốc và sau bị phụ bạc thành người thất tình, sống nửa mê nửa tỉnh. Người ta bảo cô điên theo mùa, tôi tin như vậy. Mùa hè, cô lang thang tìm nhặt hoa phượng xâu thành vòng mang vào cổ. Rồi với chiếc áo dài trắng sờn cũ, hoa đỏ điểm trang, cô tung tăng hát líu lo giữa khoảng sân rộng chói chang ánh nắng. Tôi nhớ hình ảnh ông Hội gầy gò, tay chống ba-ton đứng nhìn cô trân trối, vầng trán đầy nếp nhăn đau khổ. Khi lá rụng trơ cành, cô lại nép mình bên song cửa, thỉnh thoảng bọn trẻ chúng tôi im lặng nghe vọng ra tiếng đàn măng-đô-lin réo rắt trong ấy, mơ hồ, huyền hoặc...
Bà ngoại tôi có bốn người con: má tôi, cậu Ba, hai dì, đều mồ côi cha từ bé. Ông ngoại tôi theo một hội kín nào đó, bị bắt đày ra Côn Đảo, vượt ngục rồi mất tích luôn. Một năm sau phong trào Đồng khởi Bến Tre, dượng Tư tôi từ du kích xã thoát ly lên bộ đội chủ lực tỉnh, lâu lắm mới kết hợp công tác về thăm gia đình một đêm. Câu Ba thì mê đờn ca, hồi thanh niên bỏ nhà theo ghe hát cải lương lưu lạc khắp miền Hậu Giang, chừng tóc hơi hoa râm nhớ quê trở về mở lớp học bình dân dạy đám trẻ đầu trần khét nắng nghịch phá như quỷ sứ. Gian nhà nhỏ khung tre trát đất nhồi rơm nép dưới hai cây mù u là chỗ bọn trẻ chúng tôi ê a đọc bài đã bị sập hai lần vì pháo đêm từ chi khu bắn vào lúc chiến sự lan rộng.
Sự vất vả, kham khổ khiến mọi người trong làng như héo hắt, riêng dì Út tôi vẫn tươi tắn tựa bông hoa nở giữa cánh đồng khô cháy. Đêm trăng êm ả hiếm hoi, ngoại thường nấu nồi bắp, khoai... bày ra sân để mọi người tụ họp bàn chuyện sản xuất, đào hầm, vót chông, rào làng... Thời điểm ấy nhà nào cũng có “trảng-xê” (hầm trú ẩn) nổi đắp bằng đất để tránh đạn pháo bất thần bắn vào làng. Trong “trảng-xê” lót đệm sẵn, tối tối ngoại bắt mấy đứa nhỏ vô đó ngủ mới yên bụng. Các ngả đường cách khoảng đều có đào công sự phòng khi đi làm đồng gặp trực thăng quần đảo, sẵn chỗ ẩn nấp. Tâm trạng ai cũng căng thẳng, nhất là những lúc địch càn, nhưng riết rồi quen và lạc quan, gan góc hơn. Bọn trẻ chúng tôi ngoài giờ học hay lân la giúp các bác, các chú kẻ khẩu hiệu, cắm thêm rào tre gai các nơi hiểm yếu. Tôi thích thằng Nhân con cậu Ba vì nó lanh lợi, bắn nạng thun giỏi và có lẽ thâm tâm tôi thương nó mồ côi mẹ. Ngày mợ Ba bắt còng ngoài rẫy bị máy bay bỏ bom xăng đặc bỏng khắp người, hấp hối, đau đớn ba ngày rồi chết. Thằng Nhân nấc lên, chạy ra sau cây rơm ngồi khóc, ngoại tôi tìm gặp và hai bà cháu ôm nhau hòa chung dòng nước mắt. Nó lớn hơn tôi ba tuổi, nhưng chúng tôi vẫn gọi nhau là “mày, tao” - mặc dù theo vai vế thì nó xếp hạng em tôi!
***
Đêm Rằm tháng Chạp, ngoại nấu nồi chè khoai môn và khi cúng bàn thiên xong biểu tôi chạy kêu thằng Nhân qua ăn. Tôi đi men bờ ruộng chừng nửa giờ thì cùng về với Nhân. Chợt hai đứa sững sờ lo lắng khi thấy ngoại vừa khóc vừa lay gọi dì Tư đang vật vã dưới nền đất:
- Má cũng đứt từng đoạn ruột... con ơi! Thôi ráng mà chịu đựng...
Tin báo tử dượng Tư tôi do anh liên lạc xã mang đến khiến cả nhà buồn rầu khôn nguôi. Trận đánh vào chi khu quận thật ác liệt và lúc sắp chiếm được đài truyền tin thì dượng Tư hy sinh. Ngoại se sắt mân mê cái ống ngoáy trầu gò bằng vỏ đạn mười hai ly bảy của dượng Tư làm từ tháng trước chưa có dịp mang về tặng. Giọng ngoại run run đứt quãng:
- Chồng con Tư... đời trai xứng đáng, nợ nước đã đền... Con đừng áo não hoài, nó chết hổng an!
Tuổi còn nhỏ, nhưng tôi cảm nhận rằng ngoại đang nén lòng, nhận hết đau xót về mình để làm chỗ dựa chung cho con cháu đứng lên. Cuộc sống trong làng ngày càng bị khuấy động, sôi sục lên bởi đại đội biệt kích khét tiếng hung hãn từ tỉnh về tăng cường phục kích, đánh phá vỡ dần từng mảng đề kháng của ta. Nhưng các hầm bẫy, chông tre... ngụy trang kín đáo cũng bắt chúng trả giá thương vong không ít. Theo chủ trương cấp trên, cán bộ cơ sở rút vào hoạt động bí mật, phối hợp cùng du kích đặt trái, bắn tỉa... không theo quy luật nào, biến vùng đất này thành cảnh ngày địch đêm ta. Ngoại thấp thỏm không yên, thúc hối biểu cậu Ba đưa tôi về chợ gấp, lúc này ba má tôi cũng có thư nhắn. Thằng Nhân đã vào đội du kích, mang cây súng trường dài thậm thượt ra vẻ chững chạc lắm. Nó nhíu mày suy nghĩ như người lớn rồi khẽ dặn tôi:
- Mày vô trong đó ráng học cho giỏi nghen... Có khi mình không gặp lại, nhưng mày nhớ đừng bao giờ làm hại, làm khổ bà con làng xóm mình... Tao đã thề sống chết ở đây, nói một lời thôi!
Tôi nhìn vào mắt Nhân thắm thiết, hiểu nó nói thật lòng và chỉ biết xiết chặt tay nhau thay lời từ biệt. Buổi chiều cuối cùng trước khi đi, nhìn cảnh vật quê ngoại sao tôi buồn muốn khóc. Mấy cây cau lão cạnh rào xương rồng, bụi tre đầu ngõ, mái tranh ám khói, khạp nước mẻ miệng... ôi... quyến luyến thắt lòng. Khuya đó, ngoại chống gậy đưa một đoạn tới gò lúc rồi đứng lại trông theo. Đi với cậu Ba, chân bước vấp váp mà tôi cứ ngoái nhìn bóng dáng ngoại gầy gò, không sao cầm được nước mắt...
Thời gian dần trôi, quê ngoại tôi đồn bót giăng giăng, nhưng bọn lính vẫn e sợ mỗi khi vào càn quét bởi du kích xã vẫn còn hoạt động mạnh bên kia sông. Hết bốn năm trung học, tôi lên tỉnh tiếp tục học và ít dịp về thăm ngoại. Cuối năm đó, tin Nhân hy sinh đến với tôi. Bà Tư, người cùng làng bùi ngùi kể lại:
- Đêm gần sáng, Nhân cùng hai đồng đội vượt lộ đặt mìn phá cây cầu huyết mạch nối liền hai xã nhằm cắt đường chuyển quân, tiếp tế hậu cần của địch, chuẩn bị cho chiến dịch lớn của quân chủ lực ta. Mọi việc xong xuôi, ba người vừa định rút lui thì bọn biệt kích phát hiện. Chúng bắn đuổi ráo riết, tiếng súng nổ vang không ngớt. Nhân cố đánh lạc hướng địch, thu hút hỏa lực về mình nhằm che giấu mục tiêu và bảo vệ đồng đội. Tới ngã ba gò lức đường vào xóm nhà ngoại, Nhân trúng loạt đạn hy sinh ngay trên mảnh đất quê hương, cùng lúc tiếng nổ long trời khiến chiếc cầu gục xuống dòng sông, chiến công rực sáng. Bọn biệt kích tức giận định kéo xác Nhân ra lộ lớn phơi bày, nhưng ngoại, cậu Ba, cô Tư, cô Út cùng hết thảy bà con trong làng kéo ra ngăn đường, đấu tranh dữ dội. Rốt cuộc, chúng phải thất thểu kéo nhau về đồn mang theo ba xác chết. Nhân được an táng nơi đất vườn nhà, người trong làng sớm hôm thăm viếng, đó cũng là niềm an ủi lớn cho ngoại cùng những người thân...
***
...Năm năm sau ngày đất nước giải phóng, ngoại bệnh rồi mất ở tuổi ngoài tám mươi, lòng thanh thản gần gũi đủ đầy con cháu trong thời khắc cuối đời. Làng xóm bây giờ phát triển mọi mặt, chuyện học hành, sản xuất được chăm lo, quan tâm hơn xưa. Mỗi lần về quê ngoại, chiều chiều sau khi thắp nhang trên mộ mợ Ba, mộ Nhân; tôi hay đi vẩn vơ trên con đường đất quen thuộc để hồi tưởng những điều buồn vui với bao con người đôn hậu, kiên cường mãi sống trong tâm hồn tôi...

No comments:

Post a Comment