Wednesday, February 2, 2011

TRIẾT LÝ KINH DOANH

MỤC TIÊU KINH DOANH
Lợi ích của khách hàng là lợi ích của BSC
TRIẾT LÝ KINH DOANH
BSC: Người bạn đồng hành đáng tin cậy
CHIỂN LƯỢC CẠNH TRANH
Không ngừng đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng, kiến thức, văn hóa ứng xử và đạo đức nghề nghiệp cho nguồn nhân lực hiện có; đồng thời, xây dựng và thực thi các chính sách thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cao nhằm sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu khắt khe của mọi khách hàng.
Nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin, phát triển và đưa vào vận hành hệ thống các phần mềm ứng dụng tiên tiến như định giá chứng khoán, xác định giá trị doanh nghiệp, phân tích cơ bản, phân tích kỹ thuật và đặt lệnh trực tuyến để hỗ trợ kịp thời, có hiệu quả quá trình ra quyết định của các nhà đầu tư.
Tiếp tục cải thiện hệ thống công bố thông tin nhằm cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác, đáng tin cậy và có giá trị sử dụng cho các nhà đầu tư.
Cải thiện chất lượng dịch vụ thông qua việc tập trung đầu tư nguồn lực vào các dịch vụ cho phép tiếp cận trực tiếp vào nhóm các khách hàng mục tiêu.
Đẩy mạnh tài trợ cho các dự án hỗ trợ gia tăng kiến thức đầu tư cho cộng đồng thông qua việc phối hợp với các Trường Đại học, các Học viện, các Viện nghiên cứu để tổ chức đều đặn các chương trình hội thảo khoa học, tư vấn trực tiếp tại các doanh nghiệp, thi tìm hiểu chứng khoán, thi làm giám đốc doanh nghiệp, giám đốc tài chính, thi chứng khoán ảo… nhằm gia tăng uy tín và hình ảnh của BSC.
CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG
Nhận thức rằng chất lượng sản phẩm, dịch vụ cung cấp cho khách hàng là nhân tố có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp, ngay từ đầu, BSC đã hướng mọi nỗ lực vào việc cải thiện và nâng cao số lượng, chất lượng dịch vụ để tối đa hoá lợi ích của khách hàng.
Để tạo điều kiện duy trì tính liên tục và thống nhất của hệ thống quản lý chất lượng; đồng thời, để chuẩn hóa và kiểm soát được rủi ro trong toàn bộ các hoạt động chủ yếu, BSC đã ban hành sổ tay quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000. Đây là tài liệu nêu rõ chủ trương, chính sách, nguyên tắc chung và nội dung về quản lý chất lượng mà BSC cam kết thực hiện để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, phục vụ khách hàng ngày một tốt hơn.
Trên cơ sở hoạch định mục tiêu quản lý chất lượng, hoạch định hệ thống quản lý chất lượng, BSC xây dựng và thực hiện chính sách quản lý nguồn lực, hoạch định và kiểm tra quá trình tạo ra sản phẩm dịch vụ theo mô hình PDCA, quản lý toàn bộ các văn bản, các quy trình trong hệ thống quản lý chất lượng, định kỳ tổ chức thu thập ý kiến của các khách hàng, của các đối tác để đo lường, phân tích, cải tiến, khắc phục các tồn tại để hoàn thiện các sản phẩm, dịch vụ.
TẦM NHÌN
BSC- LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
• Chính thức hoạt động ngày 7 tháng 7 năm 2000, Công ty Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BSC) vinh dự trở thành Công ty chứng khoán đầu tiên trong ngành ngân hàng tham gia kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán và cũng là một trong hai công ty chứng khoán đầu tiên tại Việt Nam.
• Là người tiên phong, BSC tự hào rằng sự khai trương và đi vào hoạt động của BSC với tư cách là một định chế tài chính trung gian hoạt động đa năng cũng đánh dấu cho sự khởi đầu cho ngành chứng khoán nói chung và nghề môi giới, đầu tư và tư vấn đầu tư chứng khoán tại Việt Nam nói riêng.
• Kế thừa và phát huy những kinh nghiệm quý báu từ hoạt động ngân hàng, phân tích thẩm định dự án trong hơn 50 năm qua của hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), với kinh nghiệm, chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cao của đội ngũ chuyên viên, cùng với BIDV, Ngân hàng thương mại quốc doanh được Uỷ ban chứng khoán Nhà nước chỉ định làm ngân hàng thanh toán cho thị trường chứng khoán, BSC đã và đang không ngừng đóng góp những viên gạch vững chắc để xây nền móng ban đầu cho sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán của Việt Nam.
• Hơn 10 năm qua, với sự hậu thuẫn toàn diện, mạnh mẽ và có hiệu quả của BIDV, bằng nỗ lực tự thân của đội ngũ cán bộ nhân viên, BSC đã không ngừng vươn lên để trở thành một trong những Công ty chứng khoán hàng đầu tại Việt Nam. Cuối năm 2010 BSC có vốn điều lệ là 865 tỷ đồng. Hiện BSC có một trụ sở chính, một chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh với hơn tổng cộng hơn 140 nhân viên làm việc trong cả khối hỗ trợ và khối nghiệp vụ. Sự phát triển nhanh chóng về thị phần, sự tăng trưởng đều đặn, vững chắc, lành mạnh trong tất cả các dịch vụ được phép cung cấp, việc liên tục thắng thấu và được chỉ định thầu thực hiện các hợp đồng cung cấp dịch vụ quan trọng cho một số khách hàng lớn là minh chứng sống động về một hình ảnh BSC tự tin, năng động, bài bản, sáng tạo, chuyên nghiệp, và trên hết, một thương hiệu BSC trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
.
BSC- NHỮNG CỘT MỐC ĐÁNG NHỚ
1. Thành lập Công ty: 07/07/2000
2. Thành lập Chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh: 11/07/2000
3. Kết nối thành công đường truyền nhận lệnh và công bố thông tin Hà Nội - Thành Phố Hồ Chí Minh để chuyển lệnh mua 51.300 cổ phiếu của 51 nhà đầu tư trong cả nước vào hệ thống giao dịch của Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh trong phiên giao dịch đầu tiên : 28/7/2000
4. Tư vấn niêm yết trái phiếu Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam:
5. BID1¬_100: 13/11/2000
6. BID1_200: 02/08/2001
7. Thành lập Phòng giao dịch BSC-PVFC: 19/06/2002
8. Khai trương trang Web Công ty, phiên bản 1.0: 20/10/2002
9. Nhận và triển khai thực hiện thành công hợp đồng quản lý danh mục đầu tư cho khách hàng với tổng trị giá 1 tỷ đồng: 17/02/2003
10. Nâng cấp trang Web Công ty, phiên bản 2.0: 20/07/2003
11. Phát hành lần đầu thành công 720.000 cổ phiếu của Công ty Sữa Việt Nam (Vinamilk): 18/10/2003
12. Nhận chứng chỉ hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001: 2000: 27/11/2003
13. Thực hiện dịch vụ quản lý cổ đông (đại lý chuyển nhượng) cho 5.170 cổ đông Vinamilk: 01/12/2003
14. Hoàn thành hợp đồng tư vấn cổ phần hoá và xác định giá trị doanh nghiệp cho Tổng Công ty Thương mại và Xây dựng (Vietracimex): 15/10/2004.
15. Phát hành lần hai 1.827.000 cổ phiếu Công ty Sữa Việt Nam qua Trung tâm giao dich chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh: 17/02/2005
16. Phát hành thành công trái phiếu của Tổng Công ty Điện lực Việt Nam: 06/05/2005
17. Cơ cấu lại bộ máy tổ chức: 01/06/2005
18. Thành lập Phòng giao dịch 20 Hàng Tre: 15/06/2005
19. Khai trương trang Web tiếng Anh, phiên bản 2.1: 07/07/2005
20. Ngày 17/11/2010, đấu giá thành công 10.195.570 cổ phần Công ty Chứng khoán BSC
21. Ngày 01/01/2011, Công ty chính thức chuyển thành Công ty Cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
LỢI THẾ CẠNH TRANH CỦA BSC
• Là công ty con của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, một trong bốn ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất hiện nay, BSC luôn nhận được sự hỗ trợ toàn diện của BIDV trên tất cả các mặt hoạt động
• Tài sản quý giá nhất góp phần tạo nên uy tín và hình ảnh của BSC chính là nguồn nhân lực. Với đội ngũ chuyên viên trẻ trung, năng động, nhạy bén trong kinh doanh, hiểu biết pháp luật, được đào tạo tại các trường đại học danh tiếng trong và ngoài nước, thông qua việc tổ chức thường xuyên các chương trình đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên để cập nhật kiến thức mới, bằng các kinh nghiệm tích luỹ được từ việc thực hiện các hợp đồng, các dự án lớn, BSC luôn đem đến cho khách hàng sự tin cậy bởi hàng loạt các dịch vụ tư vấn bài bản, sáng tạo và chuyên nghiệp.
• Trên cơ sở mạng lưới chi nhánh rộng lớn của BIDV, BSC có khả năng phát triển nhanh chóng hệ thống các điểm giao dịch trong toàn quốc để phục vụ kịp thời nhu cầu của mọi khách hàng.
• Nhờ khai trương ngay từ khi thị trường chứng khoán Việt Nam đi vào hoạt động, cho đến nay, BSC đã xây dựng và phát triển được một cơ sở khách hàng tương đối lớn, thuộc nhiều ngành, nghề và lĩnh vực khác nhau.
• Toàn bộ hoạt động của BSC được xây dựng và vận hành trên cơ sở một nền công nghệ thông tin hiện đại, được thiết kế như một hệ thống mở cho nên không những có thể đáp ứng được nhu cầu giao dịch, vấn tin, tư vấn cho nhà đầu tư, quản lý nội bộ công ty trong giai đoạn hiện tại mà còn có thể được phát triển, hoàn thiện và tích hợp với các hệ thống khác khi có sự thay đổi, nâng cấp trong hệ thống giao dịch và công bố thông tin của Sở Giao dịch chứng khoán trong tương lai.
• BSC cũng là một trong những Công ty chứng khoán đầu tiên được tổ chức đo lường quốc tế BVQI cấp chứng chỉ đạt tiêu chuẩn quản lý chất lượng theo chuẩn ISO 9001:2000
• Với tiềm lực tài chính vững mạnh, với uy tín đã tạo lập và khẳng định trên trên thương trường, ngoài việc thiết lập mối quan hệ với các đối tác trong nước để thực hiện những dự án lớn, BSC có thể thiết lập các mối quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế (WB, IFC, MPDF...) để hỗ trợ toàn diện cho khách hàng.
Duyệt các danh mục thuật ngữ
Chứng khoán
Tài chính ngân hàng
Kinh tế
Tài chính doanh nghiệp
Quỹ đầu tư


Thuật ngữ mới nhất
Thuật ngữ Tiếng Anh Trích dẫn
Chu kỳ kinh doanh
Business Cycle
Chu kỳ kinh doanh (hay còn gọi là chu kỳ kinh tế) là quá trình biến động của nền kinh tế qua các giai đoạn có tính lặp.
Hệ số nguy cơ phá sản
Z-Score
Hệ số nguy cơ phá sản giúp các nhà đầu tư đánh giá rủi ro tốt hơn, thậm chí có thể dự đoán được nguy cơ phá sản của doanh nghiệp trong tương lai gần.
Giá trị hiện tại thuần
Net present value
Giá trị hiện tại thuần là hiệu số của giá trị hiện tại dòng doanh thu (cash inflow) trừ đi giá trị hiện tại dòng chi phí (cash outflow) tính theo lãi suất chiết khấu lựa chọn.
Ngân hàng thương mại
Commercial Bank
Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn.
Dòng tiền
Cash flow
Dòng tiền là một thuật ngữ kế toán dùng để chỉ số tiền mà một công ty nhận được hoặc phải chi ra trong một khoảng thời gian xác định, hoặc trong một dự án nhất định.
Thuyết "Bàn tay vô hình"
The theory of the Invisible Hand
Trong nền kinh tế thị trường, các cá nhân tham gia muốn tối đa hóa lợi nhuận cho mình. Ai cũng muốn thế cho nên vô tình chung đã thúc đẩy sự phát triển và củng cố lợi ích cho cả cộng đồng.
Báo cáo kết quả kinh doanh
Income Statement
Báo cáo kết quả kinh doanh thể hiện các kết quả của hoạt động kinh doanh trong một khoảng thời gian nhất định. Ở đây cụm từ “khoảng thời gian nhất định” có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Cán cân thương mại
Balance of trade
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán quốc tế.
Góp vốn tư nhân
Private Equity
Private Equity được xem như một loại tài sản bao gồm các phần vốn góp vào các doanh nghiệp chưa niêm yết trong khoảng thời gian trung hạn hoặc dài hạn đề giúp doanh nghiệp đó phát triển và thành đạt.
Hệ số thu nhập trên vốn sử dụng
Return On Capital Employed
Hệ số thu nhập trên vốn sử dụng là chỉ số thể hiện khả năng thu lợi nhuận của một doanh nghiệp dựa trên lượng vốn đã sử dụng.





Làm thế nào để kiếm tiền từ các cổ phiếu nhiều rủi ro

Nhiều người tránh cổ phiếu vì loại tài sản này chứa đựng quá nhiều nguy cơ rủi ro. Nhưng cũng giống như trò quay xổ số, chỉ cần một vòng quay may mắn, bạn sẽ trở thành người giàu có, những cổ phiếu rủi ro nhất hoá ra lại là những cổ phiếu hấp dẫn nhất với những người sẵn sàng tham gia trò chơi may rủi.

Năm ngoái Forbes đã xuất bản một bài báo về một số cổ phiếu có độ rủi ro cao đã tăng giá khá mạnh kể từ khi thị trường sụp đổ vào năm trước. Trong một nghiên cứu phân tích đến 2.700 cổ phiếu, công ty nhiên cứu Audit Integrity đã chọn được 10 cổ phiếu nằm trong "danh sách rủi ro" và đây chính là những cổ phiếu đã sinh lời mạnh nhất sau cuộc khủng hoảng tài chính.

Tuy nhiên, những kết quả này cũng chưa hẳn đã hoàn toàn thuyết phục các nhà đầu tư. Nghiên cứu của Audit Integrity cũng cho thấy trong danh sách 100 công ty có độ rủi ro cao nhất năm 2010, trung bình khoảng 8% trong số đó sẽ có thể phá sản. Chắn chắn con số 8% khả năng mất hết tất cả sẽ khiến nhà đầu tư lo sợ. Nhưng nếu bạn biết rằng có thể nhân đôi số tiền đầu tư nếu 92% còn lại thắng thế, tức là công ty đó không phá sản, thì bạn sẽ thấy khoản tiền đầu tư vào tài sản rủi ro thực sự hấp dẫn. Các chuyên gia đưa ra 2 khuyến nghị dưới đây dành cho các nhà đầu tư đam mê các cổ phiếu nhiều rủi ro này:

Hãy tìm cách quản trị rủi ro của bạn. Là một nhà đầu tư, bạn sẽ không bao giờ loại bỏ được hết nguy cơ rủi ro. Chìa khoá để đầu tư thành công là cần phải hiểu và quản trị đựơc rủi ro bằng cách dự báo được một cổ phiếu sẽ phản ứng như thế nào đối với nhiều kịch bản khác nhau. Ngay cả khi một số khoản đầu tư không sinh lời như mong đợi, nếu bạn biết cách cân bằng hợp lý giữa rủi ro và khoản lời lãi, trong dài hạn bạn vẫn có khả năng bỏ thêm tiền lời vào túi.

Có một số cổ phiếu có độ rủi ro cao hơn các cổ phiếu khác. Có một số cổ phiếu có độ rủi ro cao hơn rất nhiều so với các cổ phiếu khác, tuy nhiên loại này cũng có thể đem lại những khoản lời "khủng" cho nhà đầu tư nào đủ dũng khí và thông minh để lựa chọn nó. Chẳng hạn Tim Hanson, chuyên gia đầu tư toàn cầu của Motley Fool, đã sử dụng một nhóm các nhà phân tích các loại cổ phiếu trên toàn thế giới để tìm ra những cổ phiếu đặc biệt này. Kết quả thật bất ngờ, nhóm cổ phiếu mà nhóm Tim Hanson tìm ra mới đây cho thấy chúng có đà tăng trưởng khủng từ 96%, đến 263% hoặc thậm chí đến 356%. Vì vậy, các nhà đầu tư đừng do dự khi đổ tiền vào các cổ phiếu với độ rủi ro cao nhé.


Dưỡng sức, ủ mưu mong kiếm "lãi Mèo từ vốn Cọp"
Vietnam+ - 31/01/2011 4:00:00 CH -




“Cuối năm ngoái thị trường có khó khăn, song Tết vẫn dư giả cho vợ con được chuyến du lịch Trung Quốc. Nhưng năm nay đầu tư chứng khoán thất bát quá, khéo tôi phải mừng tuổi vợ bằng... cổ phiếu mất,” anh Trần Quang, một nhà đầu tư gạo cội trên sàn chứng khoán than thở pha lẫn một chút châm biếm.

Chứng khoán... chợ chiều

Những ngày sát thời gian thị trường chứng khoán đóng cửa nghỉ lễ, mỗi sáng anh Quang vẫn cần mẫn tới sàn chứng khoán. Không phải anh lên sàn để sùng sục mua, bán chứng khoán mà cốt là để gặp gỡ mấy chiến hữu, rủ nhau cà phê qua ngày cho đỡ buồn.

Nhìn cảnh phố phường nhộn nhịp người người mua sắm đón Tết, ai nấy trong nhóm anh không khỏi thở dài. Nhớ lại, giờ này năm trước, họ còn oang oang bàn tán sôi nổi việc “đánh đấm phục thù” lấy lại khoản tài chính bị bay hơi, thâm một phần vào lãi hồi đầu năm kiếm được.

Rồi sau đó, họ lại quay ra khoe nhau những món đồ quý hiếm, đắt tiền mới tậu hay những kế hoạch du xuân hoành tráng cho cả gia đình.

Còn giờ, mọi người chỉ còn biết đồng cảm, động viên nhau bình tâm, chờ đợi những thông tin tốt từ kinh tế vĩ mô, kỳ vọng những cơ hội mới để tìm lại những khối tài sản đã mất.

“Trong nhóm có người mất cả nhà, cả xe thì còn tinh thần đâu mà Tết với nhất. Tôi cũng mất ngót phân nửa tiền vốn, chẳng dám hé lời với mọi người trong gia đình. Vợ hỏi thì cứ ậm ừ cho qua chuyện, chứ mà nói ra chắc lại cô ấy lại rên rỉ, mất hết cả Tết, chỉ tội mấy đứa con,” anh Quang nói.

Cùng cảnh ngộ, anh Nguyễn Thanh Bình cũng buồn không kém. Vốn là một nhà đầu tư khá lâu năm, có nhiều kinh nghiệm, năm 2010, thị trường chứng khoán đi ngang quá lâu, thấy chiến lược đầu tư cũ không có hiệu quả, anh Bình liều lĩnh chuyển sang đầu tư vào nhóm cổ phiếu “nóng” thị giá thấp.

Ban đầu đã thu được một số thành quả nhất định, sau thành ham anh quyết định sử dụng đòn bảy với tỷ suất cao tham gia cùng “đội lái”, kết quả là lãi đi đường lãi, gốc thì chẳng còn là bao.

“Chơi chứng khoán càng ngày càng khó, đầu tư bao nhiêu mất bấy nhiêu. Người nào càng liều lĩnh thì càng mất nhiều. Cuối cùng thì cũng đúc kết được - Ai đi ngược xu thế thị trường thì đều thất bại,” anh Bình buồn bã chia sẻ.

Khi được hỏi về kế hoạch Tết của gia đình, anh Bình trở nên trầm tư. Gia đình thuộc vào hàng khá giả nên thường anh Bình không có thói quen lo lắng, đối với anhTết đến là chuyện mặc nhiên. Vợ chồng con cái thoải mái sắm sửa, trang hoàng nhà của và lễ nghĩa cho cha mẹ.

Nhưng năm nay, không khí đón Tết trong gia đình anh trầm hẳn, khi mà công việc buôn bán của vợ không thuận lợi, cộng thêm khoản nợ nần vì anh trót "đa mang".

“Chẳng còn hào hứng gì, chỉ còn biết bình thản chờ đợi Tết trôi đi lặng lẽ,” anh Bình thơ thẩn nói.

Tự rơi vào bẫy

Anh Nguyễn Tuấn Anh, một người bạn cùng đầu tư với anh Bình cho biết, năm Canh Dần có thể nói là năm làm ăn khó khăn nhất của các nhà đầu tư nào chót gắn bó và có những giao dịch thường xuyên trên thị trường chứng khoán.

Trong năm qua, sự biến động trái chiều giữa VN-Index so với xu hướng chung của thị trường đã khiến nhà đầu tư rơi vào ma trận, lạc lối giữa các dòng cổ phiếu được “đánh lên, đánh xuống” bất thường. Chỉ số này đã không còn mang tính chỉ dẫn hay là cái neo để các nhà đầu tư xác lập cho mình hướng đầu tư.

Tâm lý “càng mất nhiều, càng mong gỡ lại” đã thôi thúc nhiều nhà đầu tư sử dụng đòn bảy tài chính với tỷ trọng lớn khi thị trường có dấu hiệu xuất hiện sóng ngắn. Vì không lường hết được hết tính chất rủi ro của thị trường nên các nhà đầu tư mạo hiểm này đã trở thành nạn nhân của những “cái bẫy cổ phiếu tăng nóng”, mà thậm chí họ cũng có đóng góp một phần tạo ra.

Anh Tuấn Anh chỉ ra một nguyên nhân khác dẫn đến tình trạng trên, khi thị trường kém thanh khoản vì các hoạt động đầu tư giá trị và lướt sóng đều thua lỗ, nhiều nhà đầu tư chuyển sang chơi hàng T+0 (vay mượn cổ phiếu để bán).

Hoạt động đánh lên, đánh xuống từng mã cổ phiếu diễn ra ngay trong phiên khiến giá cổ phiếu lên xuống chập chờn, không thể kiểm soát nổi, đẩy nhiều nhà đầu tư tiếp tục sa lầy.

Đối với bản thân mình, mặc dù theo trường phái đầu tư giá trị, song anh Tuấn Anh cũng đang trong tình trạng âm vốn vài chục phần trăm.

“Thị trường đi ngang, sóng cổ phiếu vừa nhấp nhô đã bị san phẳng. Chứng khoán chưa về đến tài khoản (ngày T+4) thì giá đã lại quay đầu. Thế thì lãi vào đâu! Tết này nghỉ dài ngày, chắc mấy anh em tụi tôi tranh thủ ngủ, lấy sức nghĩ mưu kiếm lại ‘lãi Mèo to bằng vốn Cọp’,” anh Tuấn Anh hy vọng./.


Năm 2011: XK gỗ cõ thể vượt ngưỡng 4 tỷ USD
Diễn đàn Doanh nghiệp điện tử - 01/02/2011 12:25:00 CH -



Với tham vọng đạt tăng trưởng 35%/năm, ngành gỗ Việt Nam sẽ đạt mốc 7 tỷ USD vào năm 2020. Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (Vietforest) dự báo kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ năm 2011 có thể chạm mức 4 tỷ USD.

Tuy nhiên, sự xuất hiện của nhiều đạo luật mới tại các thị trường xuất khẩu chủ lực của đồ gỗ Việt Nam cũng đặt ra nhiều thách thức.

Ông Nguyễn Tôn Quyền - Phó chủ tịch Vietforest cho biết: trong năm 2010, các thị trường xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam đều có mức phục hồi đáng kể so với năm 2009, và kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ vượt chỉ tiêu 3 tỷ USD. Xuất khẩu đồ gỗ vào thị trường Mỹ có mức tăng trưởng tới 15%, ở EU con số này là khoảng 8%.
Nếu không kể năm 2009 do khủng hoảng tài chính, ngành gỗ chế biến luôn có tốc độ tăng trưởng ngoạn mục. Năm 2004 tăng 88% so với năm 2003 (vượt ngưỡng 1 tỷ USD), năm 2005 tăng 35%, năm 2006 là 24,5%... Mục tiêu đến năm 2020 là 7 tỷ USD, con số này có thể đạt nếu ngành gỗ tiếp tục có tăng trưởng 35%/năm. Sản phẩm gỗ chế biến trở thành mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch thứ 5 sau dệt may, dầu thô, giày dép và thủy sản.

Tại thị trường Mỹ, sở dĩ có mức tăng cao như vậy là vì năm ngoái do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế nên các nhà nhập khẩu hầu như không đặt thêm hàng mới mà chỉ “giải phóng” kho nhằm thu hồi vốn. Sang năm nay, sức mua tăng mạnh đã khiến lượng hàng cạn kiệt, các nhà nhập khẩu buộc phải tăng lượng hàng nhập về. Kéo theo điều này, các đơn hàng từ thị trường Hoa Kỳ đã tăng giá thêm từ 3-7% so với trước đó.

Năm nay ở thị trường Mỹ, người tiêu dùng cũng đã có sự thay đổi về thị hiếu. Trước đây nhu cầu thường tập trung chủ yếu vào đồ gỗ ngoài trời thì nay lại hướng vào đồ gỗ nội thất. Thêm nữa, thay vì chuộng các đồ gỗ cao cấp họ có xu hướng chuyển sang các mặt hàng có mức giá “bình dân” hơn. Trong khi những sản phẩm đó lại rất phù hợp với điều kiện sản xuất của Việt Nam.

Ngoài ra, một số doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam cũng đã tiếp cận được với các thị trường mới được đánh giá là có nhiều tiềm năng nhập khẩu đối với mặt hàng đồ gỗ như Ấn Độ, Nga, Trung Đông…

Nói về lợi thế của ngành gỗ Việt Nam, ông Nguyễn Chiến Thắng, Chủ tịch Hội Mỹ nghệ và chế biến gỗ TPHCM (Hawa) cho biết: Nếu như Malaysia có thế mạnh về nguyên liệu gỗ cao su và sắt thép, Thái Lan mạnh về chế biến nguyên liệu gỗ cao su và da, Indonesia ngoài chế biến nguyên liệu gỗ còn có mây, tre, lá thì Việt Nam lại có thế mạnh tay nghề lao động, nhất là thế mạnh về kỹ thuật - cấu trúc kỹ thuật trên sản phẩm gỗ thiên nhiên. Do vậy, DN chế biến gỗ Việt Nam có thể đáp ứng bất kỳ yêu cầu nào về mẫu mã mà nhà nhập khẩu cần. Đặc biệt, DN Việt Nam không chỉ cạnh tranh mạnh thị phần đồ gỗ ngoài trời mà còn lấn sân đồ gỗ chế biến nội thất.

Với thị trường Mỹ, Việt Nam là nước cung cấp đồ gỗ nội thất thứ 3 thế giới. Xu hướng đặt hàng gỗ nội thất tại thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới là Mỹ, đã được nhà nhập khẩu đặt hàng ngày càng nhiều hơn. Giờ đây, ở khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đã vượt qua Thái Lan, Indonesia, để cùng với Malaysia trở thành 1 trong 2 nước xuất khẩu đồ gỗ lớn nhất.

Ngành chế biến gỗ có tốc độ phát triển mạnh mẽ thời gian qua là nhờ chính sách ổn định của Nhà nước và DN đã tận dụng tốt cơ hội khi Trung Quốc bị Mỹ đánh thuế chống bán phá giá đồ gỗ, nhà đầu tư các nước tìm đến Việt Nam xây dựng nhà máy. Nhờ đó, năng lực cạnh tranh và chế biến gỗ tăng gấp 4-5 lần so với năm 2003, giảm tỷ lệ giá trị nguyên liệu gỗ so với trị giá xuất khẩu thành phẩm từ trên 50% xuống 37%. Nhưng nói vậy không có nghĩa là hoàn toàn thuận lợi. Ông Nguyễn Chiến Thắng vẫn luôn dè dặt khi nhận định, năm 2011 vẫn còn là ẩn số.

Theo đánh giá của Vietforest, năm 2011 nhu cầu của thị trường đối với sản phẩm gỗ của Việt Nam là rất lớn. Theo đó, kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này có thể đạt tới 4,1- 4,2 tỷ USD, tăng khoảng 30% so với năm 2010. Nhưng theo ông Quyền những năm tới ngành gỗ phải tiếp tục đạt mức tăng trưởng khoảng 35%/năm thì đến năm 2020 mới đạt được mục tiêu kim ngạch là 7 tỷ USD như chiến lược đã đề ra.

Từ 1/4/2010, đạo luật Lacey của Mỹ về cấm buôn bán gỗ và các sản phẩm gỗ có nguồn gốc bất hợp pháp chính thức có hiệu lực, nhưng theo ghi nhận hơn 6 tháng qua, các lô hàng của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường này đều chưa gặp phải khó khăn từ các quy định. Do đó các doanh nghiệp cần có sự chủ động hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.


Kinh tế Việt Nam - Cải cách để nâng tầm vị thế quốc gia
Sài Gòn Giải Phóng - 02/02/2011 2:30:00 CH -




Lại thêm một năm nền kinh tế thế giới diễn biến hết sức phức tạp với nhiều biến động khôn lường. Trong bối cảnh ấy, năm 2010 nước ta đã ngăn chặn được suy giảm, kinh tế phục hồi và tăng trưởng khá cao: GDP tăng 6,78%, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 1.160 USD; nợ công nằm trong giới hạn an toàn... Tuy nhiên, nước ta cũng đang đứng trước những thách thức to lớn, mà nếu không chủ động hóa giải, sẽ phải đối diện rủi ro rơi vào “cái bẫy thu nhập trung bình” – bước lùi lâu dài sau khi gặt hái thành quả cải cách.

Vượt qua bão tố

Những ngày cuối năm cùng với nhịp điệp xoay vần tạo hóa, vạn vật như tươi mới hơn, lòng người cũng thảnh thơi, nhẹ nhõm hơn để chuẩn bị đón mừng xuân mới. Người dân cả nước với niềm tin và tâm thế mới hân hoan hướng về Đại hội Đảng toàn quốc lần XI với định hướng vạch ra kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2011-2015 và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp.

Sự lạc quan ấy là có cơ sở. Năm 2010, nước ta tổ chức nhiều sự kiện lớn thành công: Đại lễ 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, Hội nghị Cấp cao ASEAN 17 với cương vị Chủ tịch ASEAN... Không chỉ dư luận trong nội khối mà các đối tác lớn trên thế giới đều đánh giá cao vai trò, vị thế Việt Nam. Chưa bao giờ nguyên thủ các nước lớn trên thế giới tụ hội đến Việt Nam đông đảo và với tinh thần cởi mở, có thiện chí hợp tác đến vậy.

Riêng lĩnh vực kinh tế, nước ta không thể thoát khỏi vòng xoáy tiêu cực trong bối cảnh chung tình hình kinh tế thế giới biến động phức tạp. Tuy nhiên Việt Nam là một trong số các nước được đánh giá có giải pháp ứng biến thích nghi thời cuộc, hạn chế tác động tiêu cực hiệu quả. Thực tế đến cuối năm 2009 nước ta đã chống suy giảm thành công, kinh tế phục hồi, việc bù lãi suất chấm dứt. Đầu năm 2010, kinh tế vĩ mô dần được ổn định, lạm phát kiềm chế ở mức thấp nên vào giữa năm Chính phủ chủ trương kích thích kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng, giải quyết việc làm xã hội...

Tuy nhiên vào quý 4-2010 tình hình lại diễn biến phức tạp: Lạm phát tái bùng phát do giá cả thế giới tăng mạnh, thiên tai dồn dập trong nước khiến nhóm hàng lương thực – thực phẩm tăng đột biến. Tuy vậy, nét son đáng ghi nhận là ta đã hoàn thành về cơ bản các chỉ tiêu kinh tế – xã hội trong năm 2010. GDP đạt 6,78%, tăng 0,28% so với chỉ tiêu Quốc hội đề ra. Việt Nam vẫn nằm trong nhóm nước có chỉ số tăng trưởng cao nhất thế giới.

Chúng ta đang sống trong một thế giới không bình yên. Năm 2008 khủng hoảng tài chính - tiền tệ từ Mỹ lan rộng ra toàn cầu; 2009 suy thoái kinh tế, khủng hoảng giá dầu; 2010 khủng hoảng nợ công (châu Âu), khủng hoảng thị trường vàng. Và các chuyên gia đã dự báo có khả năng năm 2011 thế giới sẽ khủng hoảng giá lương thực – thực phẩm. Cuối quý 3 năm nay Viện Nghiên cứu quốc tế các chính sách thực phẩm (IFPRI) cho biết hiện nay có 1 tỷ người trên thế giới bị đói, mỗi tối họ đi ngủ với bao tử rỗng, chủ yếu ở 30 quốc gia châu Phi vùng hạ Sahara và khu vực Nam Á.

Tổ chức này cảnh báo tình trạng trên là “đáng báo động và cực kỳ quan ngại!”. Nước ta không rơi vào tình trạng này và trên một phương diện khác, tình hình diễn biến ngược lại: Theo công bố mới nhất của Tập đoàn AT Kearney (nổi tiếng chuyên xếp hạng bán lẻ trên thế giới) năm 2010 Việt Nam đứng thứ 14 trong 30 thị trường bán lẻ mới nổi hấp dẫn nhất thế giới, có tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tăng 20%/năm. Điều này chứng tỏ dân cư có thu nhập ổn định và ngày càng tăng. Với triển vọng đó, Công ty Nghiên cứu thị trường toàn cầu RNCOS (Mỹ) dự báo thị trường bán lẻ Việt Nam sẽ đạt doanh số 85 tỷ USD vào năm 2012. Hình ảnh này trái ngược với cảnh “thắt lưng buộc bụng” của người dân Âu-Mỹ vào dịp đón năm mới 2011 và lý giải tại sao các mặt bằng ở các địa điểm bán lẻ tốt nhất ở TPHCM, Hà Nội hiện nay đều có các thương hiệu thời trang, hàng tiêu dùng cao cấp hàng đầu thế giới chiếm lĩnh, đón đầu cơ hội kinh doanh trong tương lai gần.

Đột phá khâu then chốt

Điểm yếu lớn nhất nền kinh tế nước ta là tăng trưởng chưa bền vững, nguy cơ lạm phát luôn tiềm ẩn. CPI năm 2010 vượt lên 2 con số, lên đến 11,75% là một thách thức lớn. Nếu không kiềm chế, triệt tiêu hiệu ứng lạm phát nóng thì chỉ tiêu tăng trưởng sẽ mất đi nhiều ý nghĩa, bởi thực tế người lao động sẽ thu nhập âm, không hưởng được thành quả tăng trưởng.

Nguyên nhân sâu xa dẫn đến lạm phát cao là suốt giai đoạn 2005-2009, nước ta đã tăng cung tiền và tín dụng nền kinh tế quá nóng, từ 30-50% để thúc đẩy tăng trưởng, trong khi đó các nước trong khu vực có chỉ số tương ứng chỉ khoảng 10-20%. Năm 2010 các nền kinh tế trong khu vực đều bị tác động bởi giá cả thế giới tăng, thiên tai dồn dập nhưng CPI của Trung Quốc vào khoảng 5,1%; Thái Lan: 3,4%, Philippines: 4,5%... trong khi đó ta tăng vọt đến 2 chữ số! Vấn đề nóng đặt ra năm 2011 là phải tiết chế cung tiền phù hợp với các chỉ tiêu vĩ mô, phối hợp chặt chẽ chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ, không đầu tư ào ạt để “làm đẹp” chỉ số tăng trưởng bằng mọi giá. Có siết chặt đầu vào, tăng hiệu quả đầu ra nền kinh tế mới có thể kiểm soát và tiến tới triệt tiêu mầm móng lạm phát nóng.

Thực trạng nền kinh tế nước ta đang đan xen nhiều gam màu sáng tối. Từ 45,6% tổng GDP cách đây 5 năm, đến 2010 khu vực kinh tế tư nhân đã tăng lên chiếm 48% GDP, tạo ra 50,2% việc làm cả nước. Trong khi đó khu vực kinh tế nhà nước chiếm 40,8% tổng vốn kinh doanh nhưng đóng góp chỉ bằng một nửa khu vực tư nhân, 23,9% tổng số việc làm xã hội, nộp ngân sách vào khoảng 20%.... Sự yếu kém của khu vực kinh tế nhà nước là một trong những nguyên nhân chính gây bất ổn kinh tế vĩ mô, làm gia tăng lạm phát.

Do đó, tình thế mới đòi hỏi phải quyết liệt cải cách, tái cấu trúc nền kinh tế, nâng cao hiệu quả đầu tư. Phải bảo đảm bằng thể chế quyền bình đẳng thật sự về các cơ hội tiếp cận các nguồn lực (đất đai, tín dụng, lĩnh vực đầu tư…) và xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế; xóa bỏ bao cấp và ưu đãi dưới mọi hình thức đối với doanh nghiệp nhà nước; đặt doanh nghiệp nhà nước vào môi trường kinh doanh bình đẳng và chịu sự kiểm soát, giám sát chung như mọi thành phần kinh tế.

Giải tỏa được “điểm nghẽn” này sẽ tạo ra nguồn lực to lớn toàn xã hội đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.

Cải cách, nâng chất nền kinh tế là yêu cầu bức thiết hiện nay. Đó không chỉ là ý muốn của các cấp lãnh đạo, các nhà nghiên cứu hoạch định chính sách vĩ mô mà còn là yêu cầu thực tế của người dân. Bởi lẽ không ai muốn cùng trên một đơn vị diện tích, ngày công lao động, cùng tiêu tốn lượng vật tư, nguyên liệu hữu hình… mà năng suất, hiệu quả không tăng hoặc giảm dần; thu nhập không tăng trong khi chi phí đời sống lại tăng cao. Đó là bài toán cần hóa giải trên bước đường phát triển mới. Nước ta cứ mãi là quốc gia có “thu nhập trung bình” hay có thể đạt ngưỡng “nước có thu nhập cao” tùy thuộc vào việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng, bắt kịp các nước khác, trở thành nền sản xuất có giá trị gia tăng cao. Đó cũng là cách nâng tầm vị thế quốc gia trong thời đại toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế
LÊ TIỀN TUYẾN



Gian nan tìm vốn ngoại
Diễn đàn doanh nghiệp - 02/02/2011 2:52:55 CH -



Ba đại gia trong lĩnh vực năng lượng vừa tái khẳng định quyết tâm phát hành trái phiếu quốc tế trong năm 2011 sau khi kế hoạch được lập cho năm 2010 không thực hiện được.

Tại cuộc gặp mặt báo giới mới đây, ông Đinh La Thăng, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) đã cho hay, kế hoạch phát hành trái phiếu quốc tế trị giá 1 tỷ USD của PVN được lùi lại sang năm 2011, thay vì năm 2010 như đã định. Nguyên do được PVN nêu ra là “thời điểm phát hành trái phiếu 1 tỷ USD không thuận lợi, có những doanh nghiệp, tập đoàn khác trong thời điểm đó tiến hành phát hành trái phiếu nhưng cũng không thành công. Vì vậy, PVN đã xin phép Chính phủ cho dừng phát hành trái phiếu quốc tế năm 2010 để tìm một thời điểm thuận lợi khác”.

Gánh nặng lớn cho năm 2011

Kế hoạch phát hành 1 tỷ USD trái phiếu ra thị trường quốc tế đã được PVN dự kiến từ năm 2009, nhưng gần 2 năm trôi qua, kế hoạch này vẫn chưa được thực hiện. Tuy nhiên trong năm 2010, PVN cũng đã nhận được một khoản tiền nhất định cho Nhà máy lọc dầu Dung Quất trong số 1 tỷ USD trái phiếu quốc tế do Chính phủ phát hành đầu năm 2010.

Còn năm 2011 này, PVN có kế hoạch đầu tư khoảng 5-6 tỷ USD cho các dự án của mình và mục tiêu hướng tới là không vay ưu đãi cho các dự án kinh doanh thương mại thuần túy. Cũng phải lùi kế hoạch phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế còn có Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN). Một quan chức của EVN cho hay, để tập trung vốn cho các dự án điện, trong năm 2011, EVN có kế hoạch phát hành 5.000 tỷ đồng trái phiếu trong nước và 1 tỷ USD trái phiếu quốc tế. Năm ngoái, EVN cũng lên kế hoạch phát hành trái phiếu quốc tế 1 tỷ USD để lo vốn cho các dự án điện, vốn rất khan nguồn, bởi giá bán điện được cho là thấp, không hấp dẫn các nhà đầu tư.

Tuy nhiên, bên cạnh việc phải được sự đồng ý của Bộ Tài chính trong việc phát hành trái phiếu, một quan chức của EVN cũng cho hay, phát hành trái phiếu quốc tế trong thời điểm này sẽ gặp nhiều khó khăn.

Bị hạ mức tín nhiệm…

Có lẽ khó khăn chính cho các doanh nghiệp nói trên trong việc phát hành trái phiếu quốc tế chính là việc một số tổ chức tín dụng quốc tế cuối năm 2010 đã hạ bậc tín nhiệm của doanh nghiệp Việt Nam. Cụ thể, đầu tháng 12/2010, Standard & Poor’s - một trong những công ty định mức tín nhiệm có uy tín trên thị trường quốc tế - đã ra thông báo hạ điểm xếp hạng tín dụng dài hạn đối với Vinacomin từ BB xuống BB-.

Vinacomin trong năm 2010 cũng được biết tới với kế hoạch phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế. Tuy nhiên, rút cuộc doanh nghiệp này phải đình hoãn việc phát hành công trái huy động 500 triệu USD, với thời hạn 10 năm và lãi suất lên tới 7,25%.

Standard & Poor’s, trong thông báo của mình đã giải thích, việc đánh tụt hạng của Vinacomin phản ánh quan điểm của hãng định mức tín nhiệm này. Theo đó, trong trường hợp xảy ra những khó khăn về tài chính, khả năng Chính phủ Việt Nam hỗ trợ đột xuất đặc biệt cho doanh nghiệp là thấp. Trước đó, Standard & Poor’s đã đánh giá khả năng Chính phủ Việt Nam giúp đỡ tài chính cho các doanh nghiệp nhà nước là rất cao. Song những diễn biến trong việc xử lý khoản nợ khổng lồ của Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy (Vinashin) đã làm cho nhà thẩm định này thay đổi lập trường.

Dĩ nhiên hậu quả kéo theo là việc các doanh nghiệp Việt Nam buộc phải đình hoãn hoặc hủy bỏ các kế hoạch phát hành trái phiếu như đã định.

… và hệ lụy khó lường

Chuyên gia tài chính của một trong số các tập đoàn trên thừa nhận, việc hạ định mức tín nhiệm xuống BB- kéo theo với việc lãi suất của khoản vay bị đội lên rất lớn và gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc cân đối tài chính để trả nợ. Ở vào thời điểm phát hành trái phiếu quốc tế của Việt Nam đầu năm 2010, các tổ chức xếp hạng quốc tế đã đưa ra những đánh giá được xem là không có lợi cho Việt Nam. Khi đó trái phiếu của Việt Nam được Moody xếp ở mức Ba3 (thấp hơn 3 bậc so với mức chuẩn của đầu tư trái phiếu Baa3). Còn Standard and Poor’s xếp trái phiếu Việt Nam là BB (cao hơn 1 bậc so với những quốc gia trong khu vực như Philippines và Indonesia).

Tại thời điểm đó, ông Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc Nghiên cứu Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, TP.HCM đã nhận xét, một lý do khiến trái phiếu của Việt Nam có lợi tức 6,95% - cao hơn khoảng 1% so với trái phiếu của các quốc gia láng giềng phát hành cùng thời điểm như Indonesia hay Philippines là do đánh giá của giới đầu tư về độ rủi ro của thị trường Việt Nam vẫn ở mức tương đối cao. “Khi đầu tư vào trái phiếu, các tổ chức thường nhìn vào triển vọng kinh tế dài hạn. Nếu cho rằng một nền kinh tế có độ rủi ro cao hơn, đương nhiên, phần bù rủi ro trong lợi tức trái phiếu của nền kinh tế đó cũng phải cao hơn để có sức cạnh tranh trên thị trường vốn”- ông Vũ Thành Tự Anh nhận định.

Còn ở thời điểm nửa cuối năm 2010, khi các doanh nghiệp lớn của Nhà nước muốn phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế thì câu chuyện Vinashin gặp khó khăn, không trả những khoản nợ đầu tiên đúng hẹn cũng ảnh hưởng không nhỏ tới phát hành trái phiếu quốc tế của các doanh nghiệp kia. PVN dù có lợi thế từ nguồn thu dầu thô xuất khẩu nhưng do đó là tài sản quốc gia nên số tiến bán dầu thu được này sẽ phải nộp về ngân sách nhà nước, rồi sau đó ngân sách mới điều tiết lại một phần cho đầu tư. Năm 2010, PVN được ngân sách điều tiết lại 3.000 tỷ đồng và năm 2011 được 3.500 tỷ đồng cho các dự án đầu tư của mình bên cạnh các nguồn tự cân đối khác. EVN tuy có nguồn thu ổn định từ tiền bán điện nhưng với thực tế giá bán lẻ điện được quy định như hiện nay chưa đủ hấp dẫn các nhà đầu tư nên thu từ tiền điện cũng chưa đủ để EVN tái đầu tư, sản xuất. EVN hiện đang nợ khoảng 24.000 tỷ đồng. Trong kế hoạch năm 2011, EVN phải dành tới 18.478 tỷ đồng để trả nợ gốc và lãi vay.

Ngay Vinacomin tuy cũng có nguồn than xuất khẩu được giá nhưng bởi không phải than khai thác được toàn tốt cả nên cân đối tài chính cũng phải “co kéo” nhất định. Hiện Vinacomin đang tồn 6 triệu tấn than xấu mà chỉ có thể bán được cho khách hàng nước ngoài, vì trong nước không mua! Tuy nhiên, do bị hạn chế xuất khẩu than nên Vinacomin gặp những khó khăn nhất định, ảnh hưởng tới quá trình khai thác than tiếp theo do than xấu không bán được thì khó khai thác tiếp vì lại gây ra tồn lớn.

*Năm 2005, khi Bộ Tài chính thay mặt Chính phủ đứng ra phát hành trái phiếu quốc tế tại thị trường New York, kết quả thu về được đánh giá là mỹ mãn khi các nhà đầu tư quốc tế đặt mua với số tiền lên tới 4,5 tỷ USD, cao gấp 6 lần trị giá chào là 750 triệu USD, với lãi suất 7,125%/năm.

*Đợt thứ 2 vào năm 2007, Việt Nam phát hành 1 tỷ USD trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế với kỳ hạn 10-30 năm và lãi suất quanh mức 7%/năm. Còn đầu năm 2010, 1 tỷ USD trái phiếu quốc tế cũng đã được Bộ Tài chính xúc tiến thực hiện tại các thị trường Hongkong, London, Boston và New York với kết quả tổng giá trị đăng ký đạt 2,4 tỷ USD, cao hơn 2,4 lần nhu cầu phát hành. Trong lần phát hành này, trái phiếu có mức lợi tức phát hành là 6,95%/năm.


Dệt may hướng tới top 3 thế giới về xuất khẩu
VOV - 02/02/2011 7:01:09 SA -



“Trong năm 2011, ngành dệt may phải đầu tư để đảm bảo mục tiêu giá trị gia tăng đạt 60% trở lên, tiếp tục duy trì ở top 5 và tiến lên top 3 trên thế giới về xuất khẩu”.

Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đã yêu cầu như vậy tại hội nghị triển khai nhiệm vụ năm 2011 của ngành dệt may.

Tăng thị phần tại các thị trường lớn

Theo Hiệp hội Dệt May Việt Nam (Vitas), hiện thị phần dệt may Việt Nam chiếm khoảng 2,5% trong tổng thị phần dệt may toàn cầu. Với những dự báo thuận lợi của thị trường, ngành dệt may đặt mục tiêu đạt trên 13 tỷ USD trong năm 2011.

Theo Vitas, năm 2011, thị phần xuất khẩu của dệt may Việt Nam tại một số thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản sẽ tiếp tục tăng. Ông Lê Tiến Trường -Phó Tổng giám đốc thường trực Tập đoàn Dệt May Việt Nam cho rằng: “Đây là 3 thị trường chính, rất quan trọng đối với bất kỳ một nhà xuất khẩu dệt may nào. Năm 2010, Việt Nam là nhà xuất khẩu dệt may đứng thứ 2 vào thị trường Mỹ, đứng thứ 3 ở thị trường Nhật Bản và thị trường châu Âu. Mặc dù ngành Dệt may thế giới giảm sâu 12-15%, nhưng dệt may Việt Nam vẫn duy trì được kim ngạch xuất khẩu không giảm, mà ngược lại còn tăng được thị phần vào cả 3 thị trường này. Điều đó khẳng định, vị thế của dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới đã được nâng lên rất nhiều”.

Ông Vũ Đức Giang- Chủ tịch HĐQT Tập đoàn dệt may Việt Nam (Vinatex) cho biết: Hiện, Mỹ là đối tác lớn nhất của dệt may Việt Nam, chiếm tới 55% sản phẩm dệt may xuất khẩu. Trong năm 2010, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam đạt gần 11,2 tỷ USD thì xuất khẩu vào thị trường Mỹ đạt hơn 6 tỷ USD, tăng 22% so với năm 2009. Tập đoàn Dệt may đang tiến hành làm việc với đối tác Mỹ để được xác nhận chất lượng, tiêu chuẩn của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam.

Theo dự báo của Vitas, năm 2011, thị phần dệt may của Việt Nam vào Mỹ sẽ tăng từ 4,6% lên 5,1%.

Tại thị trường EU, thị phần cũng sẽ tăng nhẹ lên khoảng 2,02%. Đây là thị trường mà ngành dệt may gặp rất nhiều khó khăn trong năm 2010, nhưng vẫn có tăng trưởng khoảng 14% so với 2009, đạt 1,8 tỷ USD.

Dự báo của Vitas cho thấy, trong năm 2011 và một vài năm tới, hàng dệt may Việt Nam vẫn còn nhiều cơ hội để gia tăng thị phần tại EU. Bởi các nước sản xuất và xuất khẩu dệt may vào EU hiện đã có sự phân hoá nhất định.

Do chi phí lao động tăng cao, các nước Đông Âu, Bắc Phi, chuyên cung cấp hàng cho EU đã không còn duy trì được thị phần như trước đây. Từ năm 2005-2009, tại EU, thị phần của Rumani giảm từ 3,9% xuống 1,9%, Thổ Nhĩ Kỳ từ 7,6% xuống 6,3%. Các nước Tuynidi, Moroco cũng đều bị giảm và đây chính là cơ hội cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam tăng xuất khẩu vào thị trường này.

Xuất khẩu dệt may Việt Nam vào thị trường Nhật năm 2010 đã tăng trưởng 20%, đạt 1,2 tỷ USD. Đây là lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu dệt may vào Nhật đạt trên 1 tỷ USD. Và theo vị Tổng giám đốc Công ty Cổ phần May Việt Tiến: “Trong đợt công du vừa qua, chúng tôi đã tiếp xúc với 6 tập đoàn lớn của Nhật Bản, hầu hết họ đánh giá Việt Nam là sự lựa chọn thứ hai, sau Trung Quốc”. Vị Tổng giám đốc này cũng cho rằng, nếu các doanh nghiệp Nhật Bản dịch chuyển 20% năng lực mà họ đang đầu tư tại Trung Quốc sang Việt Nam thôi, ngành dệt may phải tăng gấp đôi năng lực hiện có.

Dưới tác động của Hiệp định Khu vực Mậu dịch tự do (FTA) ASEAN – Hàn Quốc AKFTA, trong số nhóm hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Hàn Quốc, dệt may đã có bước phát triển mạnh mẽ.

Nhóm hàng này được hưởng lợi tương đối lớn từ các cam kết trong AKFTA với mức thuế trung bình đối với hàng dệt được giảm từ 8% xuống 0%, mức thuế trung bình đối với hàng may được giảm từ 13% xuống 0%. Cùng các nước ASEAN, Việt Nam đã hoàn tất đàm phán Hiệp định thương mại tự do với đề xuất phía Hàn Quốc chấp nhận ưu đãi cho Việt Nam hai công đoạn cắt và may.

Ông Lê Văn Đạo, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Dệt may khẳng định: Hàng dệt may vào thị trường Hàn Quốc đã tăng trưởng đột biến sau khi có ưu đãi từ AKFTA. Đặc biệt, tăng tới trên 60% trong năm 2010.

Trong những năm gần đây, một số đơn vị của Vinatex đã chủ động đưa thương hiệu của dệt may Việt Nam ra thị trường thế giới như Việt Tiến đã có tổng đại lý tại Lào và Campuchia, tháng 4 tới đây sẽ có tổng đại lý ở Myanmar và Trung Quốc.

Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải nhìn nhận: “Đây là kết quả của quá trình chúng ta đi từng bước một, từ chuyển dịch cơ cấu giá trị lên giá trị gia tăng cao hơn, chứ không phải ngành dệt may của chúng ta mãi cam chịu làm gia công”.

Ổn định đơn hàng sớm

Đặc biệt, trong năm 2011, khi nhiều ngành công nghiệp khác còn đang chật vật lo đơn hàng cho năm mới thì nhiều doanh nghiệp may xuất khẩu đã có đơn hàng đến hết quý 2. Và trong điều kiện thuận lợi này, các doanh nghiệp có nhiều lợi thế trong đàm phán giá cả với khách hàng.

Thông tin từ Công ty cổ phần Đồng Tiến (Dovitec) cho biết, đã có hợp đồng sản xuất đến tận tháng 10/2011. Khách hàng của Dovitec năm nay khá đông nên có nhiều sự lựa chọn về giá hơn so với mấy năm trước đây.

Phó giám đốc Dovitec Nguyễn Văn Hoàng cho biết, xuất khẩu của Dovitec tập trung ở ba thị trường là châu Âu (chiếm 50%), Mỹ và Nhật. Năm 2011, lượng khách đến từ Nhật nhiều hơn, là cơ hội tốt để công ty mở rộng thị phần ở thị trường này trong thời gian tới. Năm 2010 doanh thu xuất khẩu của Dovitec đạt hơn 300 tỷ đồng, tăng 30% so với năm 2009 và vượt 15% so với kế hoạch năm.

Cũng giống Dovitec, Công ty cổ phần may Đồng Nai (Donagamex) đến nay cơ bản cũng đã có hợp đồng sản xuất đến giữa năm 2011.

Có thể nói, chưa bao giờ doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang có cả thời và thế như hiện nay. Nếu tận dụng tốt điều này, chắc chắn dệt may sẽ nâng cao giá trị gia tăng lên mức cao hơn.

Tuy nhiên theo Vitas khuyến cáo, các doanh nghiệp nên ký hợp đồng thỏa thuận dài hạn cho điều khoản năng lực sản xuất và chỉ chốt giá cho các hợp đồng theo từng quý chứ không nên ký dài hạn. Bởi việc lo được hợp đồng sớm, ngoài việc ổn định tâm lý cho người lao động là có việc làm dài hạn, doanh nghiệp ổn định về kế hoạch sản xuất trong năm của mình, còn phải đề phòng trường hợp thị trường biến động, giá thị trường có thể tăng lên.

Theo các chuyên gia, sở dĩ các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may có được hợp đồng sớm cho năm 2011 là do các nhà đặt hàng tìm thấy sự tin tưởng về chất lượng tay nghề, giá cả phù hợp cho sản phẩm đạt chuẩn chất lượng quốc tế với tiến độ giao hàng đúng hạn nên các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam đang được đánh giá rất cao.

Nội địa hóa để tăng giá trị mặt hàng

Theo đại diện của Vinatex, không phải đợi đến khi có chỉ đạo của Chính phủ thì ngành dệt may mới quan tâm tới vấn đề gia tăng giá trị mặt hàng. Với mục tiêu trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, từ nhiều năm nay vấn đề nội địa hóa được Tập đoàn Dệt May rất coi trọng.

Ông Lê Tiến Trường cho biết, đến năm 2010, Tập đoàn đã tỷ lệ nội địa hoá 49%. Dự kiến đến năm 2015, đưa tỉ lệ nội địa hóa dệt may lên 60%, chủ động được bài toán nguyên liệu.

Tập trung cho các nhu cầu cốt lõi, Vinatex đã mạnh tay đầu tư cho công nghệ xơ sợi. Cụ thể, tháng 7/2011, sẽ đưa vào vận hành nhà máy sản xuất sơ Đình Vũ (Hải Phòng). Dự kiến đến 2014, ngành sơ sẽ đáp ứng khoảng 60-70% nhu cầu trong nước. Hiện Tập đoàn định hướng và đang tiến hành khảo sát để đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất loại xơ pisco- loại xơ có nguồn gốc từ bột cây nguyên liệu giấy (bạch đàn, thông…). Để có nguồn nguyên liệu, hiện Tập đoàn đang xúc tiến dự án trồng rừng tại Lào, tới đây sẽ tiếp tục khảo sát tại Campuchia và Canada để trồng rừng làm nguyên liệu cho sản xuất sơ pisco.

Đối với thị trường trong nước, ông Lê Tiến Trường khẳng định: “Ngay từ những năm đầu thành lập Tập đoàn (khi đó gọi là Tổng công ty), dệt may Việt Nam đã khẳng định chiến lược phát triển là đi bằng cả “2 chân”, cả nội địa và xuất khẩu. Xuất khẩu thuận lợi thì đẩy mạnh hơn, nhưng không quên nội địa. Chúng tôi có chiến lược riêng cho thị trường nội địa, chiến lược về xây dựng thương hiệu, xây dựng chuỗi cửa hàng, siêu thị tập trung để quảng bá và tiêu thụ nội địa...”.

Định hướng chiến lược sản xuất các sản phẩm cao cấp, tới đây, tập đoàn sẽ đầu tư xây dựng các nhà máy sản xuất Veston ở miền Bắc và miền Trung để nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm. Đồng thời đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân và thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải: “Nếu chúng ta không phải mặc đồ của nước ngoài thì đấy là điều rất đáng tự hào”./.
Nhân Trí


Không nắm được luật chơi nên chơi không đúng cách!
Diễn đàn Kinh Tế Việt Nam - 02/02/2011 6:30:00 SA -



Việt Nam tất nhiên là chưa đủ khả năng để bị người ta áp thuế chống độc quyền nhưng thừa khả năng bị áp thuế chống bán phá giá. Vấn đề là Việt Nam vẫn chưa nắm được luật chơi và chơi chẳng giống ai.

Có thể nói là chúng ta chưa nắm được luật chơi khi hội nhập, dù là WTO, TTP hay AFTA (luật chơi gần như giống nhau hoàn toàn chỉ khác quy mô bao nhiêu quốc gia). Luật chơi khá đơn giản, đó là sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp và giữa các quốc gia.

Mục đích của sự bình đẳng này là hạn chế đến mức thấp nhất sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế để tạo sự công bằng về giá cả, chất lượng sản phẩm và tiêu thụ. Nếu phát hiện có sự can thiệp của Nhà nước làm cho hàng hóa rẻ đi bất thường thì người ta sẽ áp thuế chống bán phá giá. Nếu phát hiện có sự nâng giá bất hợp lý nhờ độc quyền về công nghệ thì người ta sẽ áp thuế chống độc quyền.

Việt Nam tất nhiên là chưa đủ khả năng để bị người ta áp thuế chống độc quyền nhưng thừa khả năng bị áp thuế chống bán phá giá. Ví dụ, người tiêu thụ điện phải trả tiền điện bình quân là 7 cent/kwh mà hàng hóa sản xuất ra chỉ phải trả 5 cent/kwh thì rõ ràng có sự hỗ trợ về giá điện của Nhà nước làm cho hàng hóa rẻ đi. Vậy là hàng VN bị áp thuế chống bán phá giá, thế thôi. Nếu mọi đối tượng sử dụng điện đều trả tiền như nhau mà hàng VN vẫn rẻ hơn hàng của nước khác thì giá đó là hợp lệ, đúng luật.

Khi bị áp thuế chống bán phá giá, giá hàng của VN sẽ tăng lên bằng hoặc cao hơn một chút so với hàng không bị áp thuế và phần chênh lệch này chảy vào ngân sách của nước nhập khẩu. Đúng như ông Vũ Khoan nói, trường hợp này ta càng xuất nhiều càng làm giàu cho nước nhập khẩu mặc dù ta xuất siêu vào nước họ.

Trung Quốc rất khôn ngoan, luôn tìm cách chơi đúng luật đồng thời phát hiện xem ai chơi sai luật để đối phó. Trung Quốc không áp thuế chống bán phá giá vào hàng chơi sai luật mà đưa vào danh sách "chờ trả đũa kinh tế". Khi đó Trung Quốc sẽ cho 1 số hàng hóa chơi sai luật của họ xâm nhập thị trường nước đó, hễ anh "oánh" tôi là tôi "oánh" lại anh". Anh có bằng chứng về hàng của tôi thì tôi cũng có tương ứng, xem ai thiệt hơn ai.

Vụ "chân gà" là minh chứng. Người Mỹ không ăn chân gà. Người Trung Quốc thích ăn chân gà rút xương. Chân gà ở Mỹ thường dùng để chế biến thức ăn gia súc có giá trị rất thấp. Khi Mỹ xuất chân gà cho Trung Quốc làm thực phẩm cho con người thì bán giá tất nhiên là cao hơn giá thức ăn gia súc. Trung Quốc biết thế nhưng cứ để đấy. Khi Mỹ áp thuế chống bán phá giá 1 số mặt hàng của Trung Quốc thì họ tuyên bố không nhập chân gà của Mỹ nữa vì giá cao quá. Trung Quốc không mua chân gà của Mỹ thì còn tỷ nơi khác để mua, còn Mỹ không bán chân gà cho họ thì chả bán đi đâu được. Sự khôn ngoan nằm ở chỗ đó.

Chân gà là sản phẩm nông nghiệp có hàm lượng công nghệ rất thấp (chủ yếu là khâu bảo quản) và hàm lượng giá trị gia tăng có thể xem như tuyệt đối. Trừ khâu vận chuyển bảo quản ra, giá trị còn lại của chân gà có thể xem như giá trị ròng (lãi tuyệt đối). Trong khi đó hàng Trung Quốc thường là hàng công nghiệp giá rẻ có giá trị gia tăng thấp, chủ yếu là tạo việc làm cho người lao động. Người Mỹ buộc phải cân nhắc vấn đề chống bán phá giá hàng Trung Quốc.

Nếu nắm được luật chơi, đâu phải cứ bị áp thuế là vác đơn đi kiện. Vừa lâu vừa tốn kém khả năng thắng kiện lại thấp. Trả đũa trực tiếp nhanh và hiệu quả hơn nhiều. Đánh vào hàng có lợi suất cao của người ta thì người ta mới ngán, mới chùn tay không dám mạnh tay với hàng của mình. Việt Nam còn rất kém về vấn đề này nên không bảo vệ được doanh nghiệp và hàng hóa của mình.

Không nắm được luật chơi thì tất nhiên là chơi không đúng cách và cũng chẳng chơi giống ai!
Phan Bảo Lâm


Cá basa Việt Nam "vượt vũ môn"

Từ năm 2000 - 2009, riêng kim ngạch xuất khẩu cá tra, basa đã tăng 930 lần về sản lượng và 560 lần về kim ngạch.

Trong khoảng thời gian chưa tới 10 năm, từ vài chục triệu USD, cá basa đã đem lại kim ngạch xuất khẩu trên 1,4 tỷ USD/năm với sản lượng 1,2 triệu tấn. Cá basa Việt Nam đã có mặt ở hơn 120 nước và dự báo sẽ càng tiến xa hơn nữa.

Ngược dòng Mekong tìm nơi cá đẻ

Cá tra, cá basa đã có ở Việt Nam từ trước năm 1975. Nhưng những năm 1980 - 1985 mới bắt đầu được thế giới biết đến khi có một công ty Úc qua Việt Nam tìm mua cá biển, cá thịt trắng và được giới thiệu cá basa.

Anh Ngô Phước Hậu - Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần thủy sản Agifish (An Giang), nhớ lại: "Lúc đó họ rất ưng ý cá basa, đã đặt hàng chúng tôi xuất khẩu. Sau đó một số nước ở châu Á, châu Âu biết tiếng cũng tìm qua mua với số lượng ngày càng lớn. Tình thế lúc ấy đặt ra cho chúng tôi nếu muốn tiếp tục phát triển con cá này ngày một lớn mạnh thì phải ương được giống nhân tạo. Nhưng lúc ấy ở Việt Nam rất khó tìm ra được con cá có trứng".

"Đó là vào đầu năm 1995. Đoàn gồm có ba thành phần: doanh nghiệp với đại diện là tôi, địa phương với đại diện là anh Bảy Nhị (ông Nguyễn Minh Nhị, nguyên Chủ tịch tỉnh An Giang - PV) cùng 2 nhà khoa học của Viện Cirad - Pháp và ĐH Cần Thơ. Cá ngược dòng sông Mekong, vượt hơn cả ngàn cây số lên đến tận thác Khổng của Lào để đẻ trứng" - anh Hậu kể lại.

Cá lội dưới nước, người đi theo trên bờ. Lúc đến Lào, ra chợ thấy người ta bày bán quá trời cá basa, cả đoàn mừng rỡ vì biết là đã sắp đến "ổ" của chúng. Sau khi đã tìm hiểu kỹ về điều kiện, môi trường sinh sản, đoàn nghiên cứu trở về Việt Nam. Mấy tháng sau đó, tin vui đã đến với bà con chài lưới ĐBSCL: Cá ở ao nghiên cứu ĐH Cần Thơ sau khi đẻ trứng đã nở thành cá!

...Đến vai trò thay thế của cá tra

Khi thị trường nước ngoài bắt đầu chuộng và yêu cầu cung cấp ngày một nhiều hơn thì con cá basa ngày càng thể hiện sự đuối sức. Các nhà nhập khẩu nước ngoài yêu cầu các doanh nghiệp Việt Nam tìm con cá khác thay thế. Họ cử các đoàn chuyên gia, nhà khoa học sang cùng phía Việt Nam nghiên cứu. Sau đó tất cả đã thống nhất chọn con cá tra thay thế vì nó có đặc điểm sinh trưởng, thịt phi lê tương tự cá basa.
Cá tra cũng đã có tại Việt Nam từ rất sớm, khoảng thập niên 50 - 60 đã thấy có cá tra ở vùng Đồng Tháp, An Giang. Cá tra có nguồn gốc từ Biển Hồ Campuchia, cũng xuôi theo dòng Mekong xuống Việt Nam. Sau đó lội ngược dòng về Biển Hồ để đẻ trứng.

Thịt cá tra không ngon bằng cá basa nhưng trứng nhiều, nuôi dễ hơn cá basa. Thời gian nuôi cũng chỉ bằng phân nửa thời gian nuôi cá basa. Cá tra lại có thể nuôi trong ao, rộng rãi hơn nhiều so với nuôi trong nhà bè của các basa. Năng suất cũng cao hơn.

Chính những lợi thế kinh tế này đã khiến cá tra dễ nuôi đại trà hơn và cùng với cá basa, phát triển với tốc độ vũ bão trong những năm sau đó, trở thành sản vật thần kỳ của Việt Nam trong công cuộc chinh phục người tiêu dùng thế giới. Chính cá tra và cá basa (mà Bộ NN&PTNT vừa chính thức ghép chung, coi như một với tên gọi cá basa) đã làm thay đổi toàn bộ diện mạo đời sống, cơ sở hạ tầng, kinh tế của người dân ĐBSCL.

Bơi trong thế giới phẳng
Đầu tư điện tử - 31/01/2011 5:30:00 CH -

Facebook |

Twitter |

Google Bookmarks |


In tin |

Gửi email |


Xuất PDF |


RSS


Chẳng muốn bàn chuyện cũ trong năm mới, nhưng câu chuyện với ông Phạm Đình Đoàn, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Phú Thái, một trong 4 đại gia phân phối lớn nhất Việt Nam, vẫn lại quay về với ước vọng chưa thành về một thương hiệu phân phối nội địa.

Thương hiệu Việt vẫn rất xa

Cách đây 4 năm, vào năm 2007, khi 4 đại gia phân phối là Satra, Saigon Coop, Hapro và Phú Thái Group nắm tay cho ra mắt Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển hệ thống phân phối Việt Nam (VDA) với tổng vốn đầu tư lên tới 6.000 tỷ đồng, nhiều người kỳ vọng về điển hình mới trong liên kết doanh nghiệp Việt Nam. Khi đó, mọi người nói nhiều đến sự liên kết để doanh nghiệp Việt Nam mạnh, chứ chưa nghĩ tới một thương hiệu Việt cạnh tranh với thế giới như những người trong cuộc kỳ vọng.

Còn nhớ, trong kế hoạch của VDA, sau vòng 10 năm sẽ phát triển 150 siêu thị và đại siêu thị mới trên toàn quốc. 4 năm trôi qua, liên kết của các doanh nghiệp mạnh nhất dường như chưa mạnh, thưa ông?

Bản thân chúng tôi cũng đang đi tìm câu trả lời. Sự đồng thuận trong HĐQT của VDA vẫn rất cao. Tham vọng lớn để trở thành một thương hiệu Việt trong lĩnh vực phân phối bán lẻ của khu vực và thế giới vẫn rất nung nấu. Chỉ có điều, tất cả những điều này chưa đủ để làm nên sự thành công của VDA.

Cho đến giờ, chúng tôi vẫn đặt câu hỏi để tìm hướng trả lời, rằng tại sao VDA có tiền, có nhân lực, có tiềm lực, có ý tưởng của các doanh nghiệp hàng đầu trong ngành mà vẫn chưa thành công. Hiện tại, mới có một siêu thị ở Đà Nẵng và một tổng kho hàng hoá ở Cần Thơ được thành lập. Tiền có mà không dễ giải ngân.

Không lẽ, sự liên kết của doanh nghiệp lại khó như vậy. Các ông có thấy rằng, sự chậm trễ của doanh nghiệp Việt trong lĩnh vực này đang là cơ hội cho các thương hiệu, tập đoàn lớn của thế giới?

Có lẽ, tôi nên kể lại câu chuyện này. Ngay sau khi thành lập VDA, chúng tôi đã xúc tiến ngay các buổi gặp với lãnh đạo nhiều địa phương, mọi việc đều rất thuận. Nhưng khi bắt đầu vào việc thật mới thấy khó. Trong lĩnh vực này, địa điểm là quan trọng nhất, nhưng thời gian để tiếp cận đất đai ở các địa phương nhanh cũng phải tới 2 năm, chưa kể các trung tâm kinh tế lớn. Chi phí cho tiếp cận đất đai quá lớn, đáng nói là, trong đó quá nhiều loại không thể giải trình được. VDA là một công ty cổ phần, nó phải hoạt động một cách rõ ràng, minh bạch và chúng tôi cũng muốn mọi hoạt động của VDA rõ ràng, minh bạch.

Khi làm việc với lãnh đạo một địa phương (xin phép không nói tên) để tìm đất cho đại siêu thị của VDA, chúng tôi mới cảm nhận được điều mà nhiều doanh nghiệp đã than phiền, đó là doanh nghiệp Việt Nam luôn phải xếp sau những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ngay cả trong tiếp cận đất đai. Nhìn những đại siêu thị bán buôn của nước ngoài án ngữ những địa điểm đẹp trong thành phố, nhìn sự hồ hởi của lãnh đạo địa phương về những dự án thành lập các siêu thị của nước ngoài, chúng tôi băn khoăn không hiểu tham vọng về thương hiệu phân phối Việt Nam có quá sức không?

Cạnh tranh quốc tế quá gần

Phân phối bán lẻ là một trong những ngành chịu cạnh tranh gay gắt nhất sau khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Áp lực mà các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt không hẳn là sự có mặt của các thương hiệu hàng đầu thế giới ngay khi thị trường trong nước mở cửa, mà chính là sự bành trướng nhanh và bài bản của các thương hiệu này. Mặc dù số lượng các thương hiệu ngoại tại thị trường Việt Nam vẫn đếm được trên đầu ngón tay như Metro Cash & Carry (Đức), Bourbon (Pháp), Parkson (Malaysia) Lotte Mart (Hàn Quốc)… nhưng số lượng, sức hút và cả sức ép của các trung tâm thương mại, siêu thị gắn thương hiệu quốc tế này đang thu hẹp đáng kể thị phần của các doanh nghiệp trong nước.

Có phải doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa vượt qua được điểm yếu liên kết. VDA chưa thành thương hiệu Việt khi mà các đại gia góp vốn vẫn lo nhiều hơn cho các thương hiệu riêng?

Có thể, nhiều người không tin, nhưng người kinh doanh nói chung có một đặc điểm, đó là đã đặt ra kế hoạch thì sẽ nỗ lực thực hiện bằng được. Điều này không hẳn vì mục tiêu kiếm tiền, vì tôi tin rằng, nếu chỉ vì kiếm tiền, tôi và nhiều đồng nghiệp không quá vất vả, trăn trở như vậy.

Cạnh tranh trong lĩnh vực phân phối và bán lẻ là tất yếu, chúng tôi không thể né tránh, cũng không cưỡng lại được xu thế.

Bài toán mà chúng tôi tính toán là sự bành trướng của thương hiệu phân phối và bán lẻ tại Việt Nam đang tác động vô cùng mạnh mẽ tới cả thị trường, hoạt động sản xuất - kinh doanh của nhiều doanh nghiệp. Các doanh nghiệp phân phối, bán lẻ đứng trước nguy cơ bị thâu tóm, doanh nghiệp sản xuất cũng đang chịu sức ép về giá cả, sự chi phối về các điều kiện hợp đồng không mấy sòng phẳng từ các doanh nghiệp này.

Nhiều người cho rằng, thực tế đó buộc phải chấp nhận khi năng lực cạnh tranh không đạt được, nhưng đằng sau sự yếu thế của doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực này sẽ là sự bất ổn của cả hệ thống sản xuất của khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa. Và thế giới cũng đã bắt đầu nói nhiều về sự thuộc địa hàng hoá trong thế giới ngày càng phẳng...

Thực tế thì, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn quá nhỏ và khi gió to vẫn khó vững vàng?

Chúng tôi thừa nhận là doanh nghiệp Việt Nam chưa thực sự khoẻ mạnh, trong cơ thể vẫn còn bệnh nọ, bệnh kia, có thể yếu về vốn, nguồn nhân lực, định hướng phát triển, liên kết lỏng lẻo...

Ngay cả khi cuộc chơi WTO đã qua 4 năm, tôi tin chắc là, nhiều doanh nghiệp Việt Nam mới thấm cái gọi là thách thức của nền kinh tế không biên giới, hay thế giới phẳng. Năm nay, khó khăn vẫn còn quá nhiều. Bất ổn kinh tế vĩ mô khiến nhiều doanh nghiệp phải tính toán lại kế hoạch kinh doanh. Điều đó chưa đáng ngại bằng việc nhiều doanh nghiệp không tính toán được kế hoạch kinh doanh dài hạn.

Một nền kinh tế mà doanh nghiệp chỉ tính ngắn hạn, thì doanh nghiệp không thể lớn được, không thể cạnh tranh được chứ nói gì đến một nền kinh tế mạnh. Hơn thế, nền kinh tế này sẽ chỉ hợp với những nhà đầu cơ, chứ không có chỗ cho những nhà kinh doanh tâm huyết cống hiến.

Tôi cho rằng, điều mà các doanh nghiệp cần hiện nay là có thông tin rõ ràng, đầy đủ và chính xác về các định hướng phát triển kinh tế, phát triển ngành của Chính phủ, của các địa phương. Đó là chính là đèn biển để các doanh nghiệp định hướng trong thế giới phẳng mênh mông như hiện tại.

Với VDA, với tư cách là Phó chủ tịch Hiệp hội Các nhà bán lẻ Việt Nam, chúng tôi sẽ đặt lên bàn Chính phủ một kế hoạch phát triển mạnh mẽ, với sự chung sức của Chính phủ trong nỗ lực phát triển thương mại nội địa.

Có thể hiểu là doanh nghiệp Việt Nam vẫn đang cần sự hỗ trợ để lớn lên?

Chắc chắn, chúng tôi cần hỗ trợ về sự minh bạch của chính sách phát triển, sự sòng phẳng trong tiếp cận đất đai, sự tính toán cẩn trọng vì lợi ích quốc gia trong các cam kết hội nhập...

Có thể, thông tin về việc chỉ cần 2 tỷ USD để mua toàn bộ các doanh nghiệp trong lĩnh vực phân phối bán lẻ của Việt Nam sẽ nói lên nhiều điều. 2 tỷ USD là hai tháng lợi nhuận trung bình của “đế chế” Wal-Mart (Mỹ). Nếu không có sự hâu thuẫn quyết liệt từ Chính phủ, các doanh nghiệp Việt Nam rất khó tự mình vẽ lên bức tranh sáng cho thị trường phân phối, bán lẻ trong nước.

Đồ gỗ xuất khẩu: Ẩn số... lạc quan?
Sài Gòn Giải phóng online - 31/01/2011 10:00:00 SA -

Facebook |

Twitter |

Google Bookmarks |


In tin |

Gửi email |


Xuất PDF |


RSS


Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (Vietforest) dự báo kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ năm 2011 có thể chạm mức 4 tỷ USD. Một con số ấn tượng với tốc độ phát triển rất cao, khoảng 30%. Với tham vọng đạt tăng trưởng 35%/năm, ngành gỗ Việt Nam sẽ đạt mốc 7 tỷ USD vào năm 2020. Tuy nhiên, sự xuất hiện của nhiều đạo luật mới tại các thị trường xuất khẩu chủ lực của đồ gỗ Việt Nam cũng đặt ra nhiều thách thức.

Năm 2010, theo Bộ Công thương, tốc độ tăng trưởng sản phẩm gỗ tăng khoảng 35%, với kim ngạch 3,5 tỷ USD, trong khi dự báo từ đầu năm ở mức 3 tỷ USD. Theo ông Nguyễn Tôn Quyền, Phó chủ tịch Vietforest, năm 2010, các thị trường xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam đều có mức phục hồi đáng kể so với năm 2009, trong đó thị trường Mỹ tăng 15%, các nước EU khoảng 8%. Một số thị trường mới mà tiềm năng nhập khẩu được nhận định lớn như Nga, Ấn Độ, Trung Đông… các doanh nghiệp (DN) Việt Nam cũng đã tiếp cận.

Nếu không kể năm 2009 do khủng hoảng tài chính, ngành gỗ chế biến luôn có tốc độ tăng trưởng ngoạn mục. Năm 2004 tăng 88% so với năm 2003 (vượt ngưỡng 1 tỷ USD), năm 2005 tăng 35%, năm 2006 là 24,5%... Mục tiêu đến năm 2020 là 7 tỷ USD, con số này có thể đạt nếu ngành gỗ tiếp tục có tăng trưởng 35%/năm. Sản phẩm gỗ chế biến trở thành mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch thứ 5 sau dệt may, dầu thô, giày dép và thủy sản.

Ông Nguyễn Chiến Thắng, Chủ tịch Hội Mỹ nghệ và chế biến gỗ TPHCM (Hawa) cho biết, xu thế chung hiện nay sau đợt khủng hoảng tài chính và kinh tế thế giới là xuất hiện doanh nghiệp nhỏ gia công hàng chế biến cho các doanh nghiệp lớn có những đơn hàng khá lớn. Bởi lẽ, những nhà nhập khẩu nhỏ lẻ ở Mỹ bị thu hẹp, chỉ riêng thành phố San Francisco của Mỹ có đến 70% số cửa hàng bán lẻ người Việt đóng cửa, còn lại những nhà nhập khẩu lớn và họ chỉ đặt hàng những doanh nghiệp có năng lực sản xuất.

Từ đó, xuất hiện tình trạng DN nhỏ gia công lại sản phẩm cho DN lớn. Một xu thế khác là sản phẩm đồ gỗ nội thất so với đồ gỗ ngoài trời của các doanh nghiệp đang tăng dần qua từng năm, có giá trị cao hơn, nhưng cũng đòi hỏi nhiều hơn về chất lượng và các chi tiết. Nếu như Malaysia có thế mạnh về nguyên liệu gỗ cao su và sắt thép, Thái Lan mạnh về chế biến nguyên liệu gỗ cao su và da, Indonesia ngoài chế biến nguyên liệu gỗ còn có mây, tre, lá thì Việt Nam lại có thế mạnh tay nghề lao động, nhất là thế mạnh về kỹ thuật - cấu trúc kỹ thuật trên sản phẩm gỗ thiên nhiên. Do vậy, DN chế biến gỗ Việt Nam có thể đáp ứng bất kỳ yêu cầu nào về mẫu mã mà nhà nhập khẩu cần. Đặc biệt, DN Việt Nam không chỉ cạnh tranh mạnh thị phần đồ gỗ ngoài trời mà còn lấn sân đồ gỗ chế biến nội thất.

Với thị trường Mỹ, Việt Nam là nước cung cấp đồ gỗ nội thất thứ 3 thế giới. Xu hướng đặt hàng gỗ nội thất tại thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới là Mỹ, đã được nhà nhập khẩu đặt hàng ngày càng nhiều hơn. Giờ đây, ở khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đã vượt qua Thái Lan, Indonesia, để cùng với Malaysia trở thành 1 trong 2 nước xuất khẩu đồ gỗ lớn nhất.

Ngành chế biến gỗ có tốc độ phát triển mạnh mẽ thời gian qua là nhờ chính sách ổn định của Nhà nước và DN đã tận dụng tốt cơ hội khi Trung Quốc bị Mỹ đánh thuế chống bán phá giá đồ gỗ, nhà đầu tư các nước tìm đến Việt Nam xây dựng nhà máy. Nhờ đó, năng lực cạnh tranh và chế biến gỗ tăng gấp 4-5 lần so với năm 2003, giảm tỷ lệ giá trị nguyên liệu gỗ so với trị giá xuất khẩu thành phẩm từ trên 50% xuống 37%. Nhưng nói vậy không có nghĩa là hoàn toàn thuận lợi. Ông Nguyễn Chiến Thắng vẫn luôn dè dặt khi nhận định, năm 2011 vẫn còn là ẩn số.

Bởi kinh tế thế giới chưa hoàn toàn hồi phục, đơn hàng của không ít DN có dấu hiệu giảm trở lại, nhất là những DN nhỏ. Đơn giá bán vì vậy không thể tăng, nhà nhập khẩu sẵn sàng tăng đơn hàng so với năm 2010, nhưng phải có lộ trình... giảm giá bán. trong khi chi phí đầu vào lại tăng lên, từ điện, nước, lao động…. nhưng đáng nói là nguyên liệu gỗ có xu hướng tăng lên. Trong khi đó, Đạo luật Lacey của Mỹ về cấm buôn bán gỗ và các sản phẩm gỗ có nguồn gốc bất hợp pháp, khi tuân thủ các quy định, giá gỗ nguyên liệu có thể tăng tới 30% và thời gian để có đủ lượng gỗ cần thiết sẽ phải kéo dài hơn. Qua đó, lợi nhuận từ việc tạo ra sản phẩm gỗ chế biến giảm mạnh, đồng nghĩa với rủi ro tăng lên.


Quá trình hình thành và phát triển của công ty
Tên giao dịch: Công ty cổ phần Thương mại Cơ khí và Xây dựng Việt Nhật
Tên Tiếng Anh:Viet Nam Japan Construction and Mechanics Trading Joint Stock
Company
Tên Viết tắt: VIJA TMC .,JSC
Trụ sở: Số nhà 21, 197/32 Đường Hoàng Mai, phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, Hà Nội.
Điện thoại: (84-04). 62840406 ; Fax: (84-04). 62840406
Văn phòng giao dịch: Số 80 Nguyễn Huy Tưởng, Thanh Xuân, Hà Nội
Điện thoại: (84-04). 35579535 ; Fax: (84-04). 35579535
Website: www.vijatmc.com; Email: info@vijatmc.com
Đăng ký kinh doanh số: 0104556698 do sở kế hoạch và đầu tư Hà Nội cấp.
Mã số thuế: 0104556698
Tài khoản số: 01201-000098307-7 Ngân hàng Thương mại cổ phần Công
Thương Việt Nam – Chi nhánh Hai Bà Trưng – Hà Nội

Lĩnh vực hoạt động

• THƯƠNG MẠI
- Cung cấp các loại Máy công cụ gia công cắt gọt như: Máy tiện, Máy phay, Máy xọc……
- Cung cấp các loại Máy xây dựng như : Máy xúc, Máy ủi, Máy khoan cọc nhồi ……
- Cung cấp phụ tùng và các bộ phận phụ trợ của ô tô
- Cung cấp thiết bị trong các dây truyền tự động hóa

• CƠ KHÍ
- Thiết kế, tạo hình 3D CAD, tạo bản vẽ 2D CAD, dữ liệu hóa các bản vẽ từ bản vẽ tay
của các chi tiết cơ khí, máy móc và các dụng cụ gia đình
- Sản xuất, gia công lắp đặt các sản phẩm cơ khí, xử lý và tráng phủ kim loại

• XÂY DỰNG
- Xây dựng các công trình dân dụng và công nghiệp
- Xây dựng các công trình hạ tầng: giao thông, thuỷ lợi, cấp thoát nước và xử lý môi
trường
- Thi công xây dựng các công trình đường dây và trạm biến thế điện
- Thi công xây dựng cầu, đường
- San lấp mặt bằng.
- Lắp đặt kết cấu thép, các thiết bị cơ điện, nước, điều hòa không khí, thông tin tín hiệu,
trang trí nội ngoại thất
- Phá dỡ các công trình dân dụng và công nghiệp
- Sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng
• DỊCH VỤ GIẶT LÀ
- Dàn máy móc hiện đại
- Hoá chất sử dụng được tư vấn trực tiếp theo chuyên gia nước ngoài.
- Chất lượng đồ sau giặt ( quần áo, chăn, ga... ) thường xuyên được kiểm tra định kỳ.
- Mọi vấn đề ảnh hưởng tới đồ giặt hoặc sức khoẻ người mặc đều được giải quyết nhanh chóng
- Công nhân, kỹ thuật viên đều được đào tạo bài bản về công việc giặt tẩy, kinh nghiệm lựa chọn chất liệu vải để tiến hành giặt trong điều kiện thích hợp
- Thái độ phục vụ nhiệt tình, chu đáo

Với các cửa hàng giao nhận chính thức thuộc công ty và hơn 60 đại lý tư nhân rải khắp Hà Nội. Chúng tôi đảm bảo cung cấp tới khách hàng dịch vụ giặt là chất lượng trong thời gian nhanh nhất có thể.
Hãy thử lựa chọn dịch vụ giặt là của Xí nghiệp giặt là Việt Nhật để cảm nhận phong cách mới trên từng bộ đồ bạn mặc. Chúng tôi chăm sóc chu đáo và làm hồi sinh vóc dáng như mới tất cả quần áo của bạn.
Chắc chắn bạn sẽ cảm thấy hài lòng !!!






Tìm kiếm






vijatmc.com google.com






Sản phẩm mới


Xe cẩu KOBELCO

Máy xúc đào HITACHI

Máy tiện CNC HITACHI

Máy phay đứng HIRAOKA

Máy tiện MAZAKU












Hỗ trợ trực tuyến




Kinh doanh


Kỹ thuật






Tỷ giá


USD 19.500
GBP 30.402
HKD 2.525
FRF -
CHF 19.522
DEM -
JPY 229.19
AUD 18.535
CAD 19.017
SGD 14.682
EUR 25.674
NZD 14.305

(Nguồn: Ngân hàng
Ngoại thương VN)









CÔNG TY CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI VÀ CƠ KHÍ XÂY DỰNG VIỆT NHẬT
Địa chỉ: Số 21, 197/32 đường Hoàng Mai, phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, Hà Nội
Điện thoại: +84-4-62840406 - Fax: +84-4-62840406
Website: www.vijatmc.com
Email: info@vijatmc.com



Kim ngạch thương mại Việt-Nhật đạt tới 16 tỷ USD (30/12/2010)

Sản xuất hàng dệt may xuất khẩu tại Khu công nghiệp Thường Tín, Hà Nội
Năm 2010, tổng kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam-Nhật Bản đạt kim ngạch hơn 16 tỷ USD, tăng gần 24% so với cùng kỳ năm 2009; trong đó, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 4,8 tỷ USD, tăng hơn 24% so với cùng kỳ năm ngoái.

Nhật Bản tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam (sau Hoa Kỳ). Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản trong năm 2010 chủ yếu là nông sản thực phẩm, hải sản, may mặc, gỗ và sản phẩm từ gỗ... Bên cạnh đó, Nhật Bản còn là thị trường quan trọng đối với ngành dệt may và da giày của Việt Nam (đứng thứ ba sau Hoa Kỳ và EU).

Phát biểu tại hội thảo “Cơ hội và thách thức khai thác thị trường Nhật Bản” tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 29/12, ông Võ Thanh Hà, Vụ Thị trường châu Á-Thái Bình Dương, Bộ Công Thương, cho biết Nhật Bản là thị trường có tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và chất lượng rất khắt khe; hàng hóa vào thị trường Nhật Bản phải qua nhiều khâu phân phối lưu thông nên đến tay người tiêu dùng giá cả rất cao so với giá nhập khẩu. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần đầu tư để cải tiến từ khâu thiết kế, kỹ thuật, bảo quản, vận chuyển, quản lý chất lượng và tiến hành khảo sát để tiếp cận thị trường Nhật Bản một cách hiệu quả.

Trong những năm qua, Việt Nam và Nhật Bản có nhiều dự án hợp tác ở các lĩnh vực thăm dò, khai thác, bảo vệ môi trường và đào tạo phát triển nguồn nhân lực bằng nguồn vốn tài trợ của Chính phủ Nhật Bản. Hai quốc gia cũng thường xuyên tổ chức các cuộc hội đàm, trao đổi thông tin về than và khoáng sản; đánh giá kết quả thực hiện các dự án và đề xuất các dự án hợp tác tiếp theo.

Các tập đoàn lớn của Nhật Bản như Mitsui, Toray, Marubeni, Nissho Iwai đang hợp tác với Việt Nam trong nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, vẫn còn một số doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu thông tin về thị trường Nhật Bản cũng như kinh nghiệm hợp tác, đầu tư với các doanh nghiệp Nhật Bản.

Ông Lê Quang Lân, Vụ Chính sách Thương mại đa biên, Bộ Công Thương, cho biết sau một năm ký kết Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản (VJEPA), các sản phẩm ngành da giày, dệt may, thủy hải sản, nông sản… của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản đã được hưởng mức thuế 0% và nhiều ưu đãi hơn so với hàng hóa của các quốc gia khác.

Cũng theo hiệp định này, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có lợi thế cạnh tranh về giá các mặt hàng xuất nhập khẩu và mở rộng thị trường ở những lĩnh vực tiềm năng như tham gia vào các chuỗi cung ứng điện-điện tử, hóa chất các loại.

Xuất khẩu rau quả sang Nhật tăng mạnh (16/12/2010)


Xuất khẩu rau quả của VN sang Nhật Bản đang tăng mạnh do nhu cầu cuối năm của thị trường này tăng.
Trong số những nhóm mặt hàng rau hoa quả xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, nhóm rau luôn chiếm tỉ trọng cao nhất với hơn 45%.

Việt Nam đã có 12 loại rau được xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Trong đó, các loại cà đạt kim ngạch cao nhất từ đầu năm tới nay, với 758,2 nghìn USD (trong 10 tháng), tăng 88% so với cùng kỳ 2009 và làm nhóm mặt hàng có tốc độ tăng cao nhất trong những tháng gần đây.

Tiếp đến là cải các loại (bắp cải, cải thảo, cải xanh...) kim ngạch đạt 151,4 nghìn USD. Dưa chuột cũng đạt 112,6 nghìn USD, tăng 23,2% so cùng kỳ 2009… Súp lơ, su hào của VN cũng đã được xuất khẩu sang Nhật Bản nhưng với số lượng còn khiêm tốn. Nửa đầu tháng 12 này, ước xuất khẩu rau hoa quả sang thị trường Nhật Bản đạt khoảng 746.777 USD.
Hội chợ quốc tế Nông nghiệp Việt Nam năm 2010, Cần Thơ - 6-12/12/2010 (10/12/2010)

Đông đảo khách đến tham quan hội chợ sáng 6-12
Sáng 6/12, tại Cần Thơ, Hội chợ Quốc tế Nông nghiệp Việt Nam năm 2010 đã khai mạc, thu hút trên 270 đơn vị, doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia trưng bày sản phẩm tại 500 gian hàng.

Trong số đơn vị tham gia Hội chợ, có 40 đơn vị đến từ Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonessa, Singapore với 60 gian hàng.

Hội chợ là một trong nhiều chương trình xúc tiến thương mại quốc gia của Chính phủ, diễn ra từ ngày 6-12/12, nhằm góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, nông thôn Việt Nam phát triển; đồng thời tạo môi trường thu hút thêm vốn đầu tư và mở rộng liên kết liên doanh trong quá trình hội nhập.

Sản phẩm trưng bày tại Hội chợ gồm máy móc, thiết bị nông nghiệp, dây chuyền sản xuất, chế biến sản phẩm nông nghiệp, bảo quản sau thu hoạch; phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn gia súc, thuốc thú y-thủy sản và nhiều loại vật tư nông nghiệp khác; sản phẩm nông-lâm-thủy-hải sản, đồ gỗ, thực phẩm chế biến; lúa gạo đặc sản các loại, nhiều giống lúa mới, giống cây trồng đạt chất lượng, năng suất cao; nhiều loại cây trồng, vật nuôi lạ, quí hiếm; nhiều loại trái cây ngon tiêu biểu, có thương hiệu, nổi tiếng của nhiều địa phương thuộc miền Trung, Đông Nam bộ, Đồng bằng sông Cửu Long.

Tại Hội chợ còn có hoạt động nông dân giỏi trình diễn kỹ thuật canh tác mang tính sáng tạo như kỹ thuật trồng bưởi cho trái hình vuông và hình hồ lô của tỉnh Hậu Giang, kỹ thuật trồng cây mít lạ không hạt và kỹ thuật sử dụng hiệu quả máy gặt đập liên hợp, máy phun thuốc trừ sâu ở tỉnh Cần Thơ; kỹ thuật sử dụng kéo cắt cành, cần bao trái, béc phun tự động, máy lột vỏ trái dừa, nuôi gà tây, gà sao ở tỉnh Tiền Giang; kỹ thuật sử dụng hiệu quả máy làm sạch và phân loại hạt giống của tỉnh An Giang.

Trong khuôn khổ hội chợ, Ban tổ chức sẽ xét chọn 17 hộ nông dân tiêu biểu về phấn đấu vượt khó vươn lên thuộc 13 tỉnh, thành phố Đồng bằng sông Cửu Long và hỗ trợ 5 triệu đồng mỗi hộ làm vốn mở rộng sản xuất.

Nhân dịp này, Bộ Công thương tặng bằng khen và biểu tượng cho 11 trong 35 doanh nghiệp thuộc các tỉnh Long An, Hậu Giang Tiền Giang, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, có thành tích tốt trong công tác xúc tiến thương mại và góp phần vì sự nghiệp phát triển kinh tế nước nhà; xét tặng huy chương vàng cho sản phẩm phân bón, hạt giống, thuốc thú y-thủy sản, sản phẩm nhựa gia dụng, thuốc bảo vệ thực vật đạt chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trong nước và nước ngoài.

Từ ngày 7-11/12, tại đây còn diễn ra nhiều hoạt động khác như xúc tiến thương mại, ký kết hợp tác, hợp đồng kinh tế, chuyển giao công nghệ, hội thảo với các chủ đề “Nông nghiệp Việt Nam hiệu quả, bền vững,” “Lúa gạo và nông sản hướng tới phát triển bền vững,” “Giới thiệu ứng dụng động cơ Kawasaki vào máy nông nghiệp.”

Riêng Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam, Viện lúa Đồng bằng sông Cửu Long, Trường Đại học Cần Thơ, Sở Nông nghiệp Cần Thơ phối hợp tổ chức tư vấn khoa học kỹ thuật cho nông dân Đồng bằng sông Cửu Long về các quy trình nuôi trồng, canh tác, thu hoạch, bảo quản nông sản; thị trường lao động, việc làm, các chương trình hỗ trợ vốn, đào tạo nghề cho nông dân.

Nguồn: VietnamPlus 06/12/2010 Hội chợ quốc tế Nông nghiệp Việt Nam năm 2010
Tăng trưởng của VN hấp dẫn doanh nghiệp Nhật Bản (07/12/2010)
Theo tờ Thời báo Tài chính (Anh), ông Takahiro Shimonuma, đại diện của Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản tại Hà Nội cho biết cách đây 20 năm, các công ty Nhật Bản coi Việt Nam là một cơ sở sản xuất chi phí nhân công thấp.

Nhưng điều này hiện đã thay đổi và các công ty Nhật Bản đang bị "hấp dẫn" bởi mức tăng trưởng của thị trường Việt Nam.

Tập đoàn Dịch vụ Tài chính Orix (Nhật Bản) đã mua lại 25% cổ phần của Indochina Capital, một trong những công ty đầu tư lớn nhất do nước ngoài điều hành tại Việt Nam. Việc đầu tư của Orix là ví dụ mới nhất về làn sóng tăng cường đầu tư của các doanh nghiệp Nhật Bản vào thị trường Việt Nam nhằm tìm kiếm sự tăng trưởng.

Hiện Chính phủ Nhật Bản coi việc mở rộng các mối quan hệ kinh tế với Việt Nam là một ưu tiên chính sách trong nỗ lực giúp các doanh nghiệp Nhật Bản làm ăn phát đạt ở thị trường ngoài nước.

Khai thác tiềm năng tăng trưởng của Việt Nam và các láng giềng khác ở châu Á được đảng Dân chủ cầm quyền coi là sống còn trong việc thúc đẩy tỷ lệ tăng trưởng kinh tế yếu kém của Nhật Bản, với việc các bộ trưởng đang tập trung vào việc bán những cơ sở hạ tầng như các nhà máy điện hạt nhân hay nhà máy lọc nước.

Tại hội nghị song phương ở Hà Nội hồi tháng 10/2010, Nhật Bản đã đạt được một thỏa thuận, theo đó các công ty Nhật Bản sẽ cung cấp cho Việt Nam 2 nhà máy điện hạt nhân.

Nhật Bản cũng hy vọng sẽ giúp Việt Nam khai thác các nguồn đất hiếm nhằm giảm sự phụ thuộc của Nhật Bản vào nguồn cung loại khoáng sản quan trọng này từ Trung Quốc. Trong tháng 11/2010, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe cũng đã tới Việt Nam và tháp tùng là cả một đoàn doanh nghiệp cỡ nhỏ và trung bình.

Orix khẳng định trong tuyên bố đưa ra ngày 1/12 rằng Orix sẽ giúp phát triển hoạt động quản lý vốn của Indochina Capital. Hai tập đoàn sẽ hợp tác để hướng dẫn cho các doanh nghiệp Nhật Bản muốn làm ăn tại Việt Nam. Ông Peter Ryder, Giám đốc Quản lý của Indochina Capital, nói: "Sự quan tâm tới Việt Nam của các công ty Nhật Bản đã tăng đáng kể trong 6-9 tháng vừa qua."

Ông Peter Ryder cũng cho rằng động lực của làn sóng đầu tư của các công ty Nhật Bản vào Việt Nam chính là các mối liên hệ chính trị được tăng cường giữa hai nước và những diễn biến của đồng nội tệ của cả hai nước.

Trong khi đồng yen của Nhật Bản được định giá một cách công bằng so với đồng USD thì đồng Việt Nam lại bị định giá thấp. Vì vậy, chi phí các công ty Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam thời điểm này sẽ rẻ hơn 20% so với cách đây 6 tháng.

Mặc dù trước đây các nhà đầu tư Nhật Bản chủ yếu tập trung vào các ngành công nghiệp như xây dựng và chế tạo nhưng thời gian gần đây cho thấy các công ty Nhật Bản đã bắt đầu quan tâm tới ngành công nghiệp dịch vụ tài chính non yếu của Việt Nam.

Ngân hàng Shinsei do Chính phủ Nhật Bản và JC Flower sở hữu, đã quyết định liên doanh với Tập đoàn Bảo hiểm lớn nhất của Việt Nam là Bảo Việt, và Tập đoàn Dịch vụ Tài chính SBI (Nhật Bản) đã nhất trí mua 20% cổ phần của Công ty chứng khoán FPT Securities.

Ngoài ra, các tập đoàn bán lẻ Nhật Bản như Takashimaya và Istan Mitsukoshi cũng đang xem xét việc mở các chi nhánh bán hàng tại Việt Nam để nhắm vào tầng lớp trung lưu đang phát triển nhanh chóng của Việt Nam.



Quan hệ hợp tác Việt Nam – Nhật Bản

Về quan hệ ngoại giao, năm 1992, Nhật Bản quyết định mở lại viện trợ cho Việt Nam. Quan hệ giữa Việt Nam-Nhật Bản phát triển nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực và đã bước sang giai đoạn mới về chất và đi vào chiều sâu. Các mối quan hệ kinh tế chính trị, giao lưu văn hóa không ngừng được mở rộng; đã hình thành khuôn khổ quan hệ ở tầm vĩ mô; sự hiểu biết giữa hai nước không ngừng được tăng lên. Hiện nay Nhật Bản là nước hỗ trợ vốn ODA lớn nhất cho Việt Nam, góp phần không nhỏ vào sự phát triển bền vững của Việt Nam.
Mới đây hai nước vừa tổ chức lễ kỷ niệm 35 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt-Nhật (21/9/1973 - 21/9/2008).
Ngày 29/9/2008: Việt Nam và Nhật Bản đã hoàn tất thoả thuận nguyên tắc về Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (EPA Việt Nam - Nhật Bản). Đây là Hiệp định đối tác kinh tế đầu tiên của Việt Nam với một quốc gia. Hiệp định bao gồm các cam kết về tự do hoá thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư và các nội dung hợp tác trên nhiều lĩnh vực.



Về quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại, Nhật Bản là một trong những đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Trong 15 năm qua, Nhật Bản luôn đứng đầu về ODA với trên 13 tỉ USD, trong đó trên 1 tỉ không hoàn lại, chiếm hơn 30% tổng viện trợ của quốc tế cho Việt Nam. Nhật Bản là một trong những bạn hàng lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch hai chiều đạt 12,2 tỉ USD vào năm 2007. Tính đến 7/2008, Nhật Bản đã có gần 1.000 dự án đầu tư trực tiếp tại Việt Nam với tổng số vốn đầu tư đăng ký trên 16 tỉ USD, là thị trường quan trọng hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh vực hợp tác lao động và du lịch. Hợp tác giữa hai nước về văn hoá, giáo duc.


Kính chào Quý khách hàng,
Công ty VIJA TMC.,JSC xin gửi lời chào trân trọng và lời chúc an khang - thịnh vượng tới toàn thể Quý khách hàng. Dưới đây, chúng tôi xin được giới thiệu tới Quý khách những lĩnh vực mà công ty chúng tôi đang hoạt động và chiếm thế mạnh tại thị trường Việt Nam.

THIẾT KẾ, TẠO HÌNH 3D CAD
VIJA TMC.,JSC chuyên thiết kế, tạo hình 3D CAD, tạo bản vẽ 2D CAD, dữ liệu hóa các bản vẽ từ bản vẽ tay của các chi tiết cơ khí, máy móc và các dụng cụ gia đình….dùng các phần mềm thiết kế chuyên nghiệp, hiện đại nhất hiện nay như : CATIA V5, I-DEAS, PRO-E, AUTO CAD…..
Với đội ngũ trẻ, năng động, nhiệt huyết, được đào tạo chuyên môn chuyên nghiệp và đã từng làm việc tại Nhật Bản chúng tôi sẽ đáp ứng tốt nhất nhu cầu của quý khách.

THƯƠNG MẠI
VIJA TMC.,JSC chúng tôi là nhà phân phối và cung cấp các thiết bị trong dây chuyền tự động hóa,các máy công cụ, các máy xây dựng mới, cũ của Mỹ, Châu âu, Nhật Bản...Phục vụ cho mọi ngành công nghiệp như: Gia công cơ khí, luyện kim, hoá chất, thép, trong các công trình xây dựng và rất nhiều lĩnh vực khác.
Với nhiều năm hoạt động và cung cấp tại thị trường Việt Nam, Công ty VIJA TMC.,JSC đã cung cấp sản phẩm cho khách hàng trong cả nước, được sự tín nhiệm và đánh giá cao của nhiều khách hàng là các Tổng công ty và tập đoàn công nghiệp lớn tại Việt Nam, như: Tập đoàn công nghiệp tàu thuỷ VINASHIN, Tổng công ty Cơ khí Xây dựng COMA , Tổng công ty xuất nhập khẩu và xây dựng Việt Nam (VINACONEX) và rất nhiều các doanh nghiệp lớn trong và ngoài quốc doanh.

XÂY DỰNG
VIJA TMC.,JSC chúng tôi đã có nhiều năm kinh nghiệm hoạt động trên trong lĩnh vực xây dựng như :
- Thi công xây lắp các công trình dân dụng, công nghiệp, giao thông, thuỷ lợi, thuỷ
điện, bưu điện; Công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị và khu công nghiệp; Đường dây và
trạm biến áp cao, trung, hạ thế...
- Lắp đặt kết cấu thép, các thiết bị cơ điện, nước, điều hòa không khí, thông tin tín
hiệu, trang trí nội ngoại thất.
- Phá dỡ các công trình dân dụng và công nghiệp, San lấp mặt bằng.
Với đội ngũ kỹ sư, kiến trúc sư có chuyên môn giỏi, tư duy khá mới mẻ, nhảy bén và đầy sáng tạo, với đội ngũ công nhân lành nghề công ty chúng tôi đã khẳng định được thế mạnh của một đơn vị hàng đầu trong thi công xây lắp, được sự tín nhiệm của các chủ đầu tư, và trở thành một đối tác tin cậy đối với nhiều nhà đầu tư nước ngoài đang tìm cơ hội để đầu tư vào Việt Nam.

Oshogatsu: Ngày tết Nhật Bản (30/12/2010)

Đi lễ đầu năm ở đền hay chùa
Không giống như các nước láng giềng khác ở châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc hay Việt Nam, Nhật Bản tổ chức đón năm mới theo dương lịch. Người Nhật gọi dịp này là “Oshogatsu”, và đây là sự kiện để nghênh đón vị thần Toshigamisama...

Người Nhật bắt đầu chuyển sang ăn Tết dương lịch theo phương Tây từ năm Minh Trị thứ 6, tức năm 1873. Phong tục đón năm mới của người Nhật hiện vẫn giữ được những truyền thống Á Đông điển hình, bên cạnh đó cũng thu nhận những nét văn hóa mới từ phương Tây qua quá trình giao lưu, tương tác theo dòng chảy của thời gian.

Oshogatsu vốn là tên gọi riêng tháng giêng nhưng hiện nay thường dùng để chỉ khoảng thời gian từ mồng 1-3 của tháng đầu tiên trong năm. Người Nhật bắt đầu chuẩn bị cho Oshogatsu từ ngày 8-12 (ở vùng Kanto là ngày 13).

Người Nhật có tập quán trang trí cây thông (kadomatsu) trước cửa nhà, trước cửa hàng hay trước cổng công ty. Họ quan niệm cây thông này là nơi đón Toshigamisama - vị thần linh đem lại sự thịnh vượng, may mắn và trường thọ. Ngoài vật tiêu biểu là cây thông thì người Nhật còn dùng các loại thừng bện bằng cỏ, dải giấy trắng... tượng trưng nhiều mong ước, nhiều ý niệm khác nhau cho một năm mới tốt lành.

Cây thông (kadomatsu) trang trí trước cửa nhà. Mỗi khi nhìn thấy cây thông này, người Nhật Bản nào cũng sẽ nao nức nhớ ngay về Oshogatsu

Đêm 30 tết là thời gian gia đình sum họp, cùng nhau ăn tất niên và chờ đón khoảnh khắc giao thừa. Trái với người châu Âu và người Mỹ thường đón Giáng sinh cùng gia đình còn khi giao thừa thì ra những địa điểm công cộng để chào mừng năm mới, người Nhật lại thường đi chơi Giáng sinh với người yêu, bạn bè và quây quần đón năm mới bên gia đình.

Vào đúng 0g đêm giao thừa, khắp các chùa trên đất nước Nhật Bản sẽ đánh 108 hồi chuông với ý nghĩa xua đuổi 108 con quỷ sứ. Tiếng chuông cũng là âm thanh được coi là bậc nhất trong năm âm thanh của Phật pháp.

Thời khắc giao thừa, trong tiếng chuông ngân vang, sau khi nói lời chúc mừng năm mới tới mọi người xung quanh, tất cả sẽ quây quần bên nhau cùng thưởng thức rượu sake và các món ăn truyền thống vào dịp Oshogatsu.

Trên bàn ăn ở các gia đình Nhật Bản những ngày này thường không thể thiếu các loại bánh làm từ gạo (tiếng Nhật gọi là omochi), các món ăn chế biến từ cá và hải sản… Các đồ ăn được từ gạo sẽ là nguồn gốc giúp con người thành đạt.

Là một quần đảo trên Thái Bình Dương, Nhật Bản có nền ngư nghiệp rất phát triển và đất nước này cũng rất nổi tiếng về các món ăn được chế biến tinh tế từ cá và hải sản. Người dân Nhật cũng quan niệm ăn cá giúp trí não con người trở nên thông minh.

Những món ăn truyền thống của Nhật trong dịp Oshogatsu

Cũng giống nhiều nước châu Á như Trung Quốc, Việt Nam… người Nhật thường đi lễ chùa cầu may mắn, tốt lành cho năm mới. Phong tục này trong tiếng Nhật gọi là hatsumode. Người ta sẽ tới ngôi chùa nằm ở hướng được cho là hướng tốt của năm đó.

Trước khi đi lễ phải rửa tay và súc miệng sạch sẽ. Tiền hương hoa dâng Phật là những đồng tiền họ tung vào hòm công đức đặt trước điện thờ. Người làm lễ sẽ chắp tay lạy hai lễ, vỗ tay hai lần, rồi chắp tay cầu nguyện và cuối cùng lạy một lễ. Người Nhật thường bỏ tiền ra để rút quẻ hoặc mua một mũi tên thần nhằm cầu mong được thần Phật phù hộ độ trì một năm mới bình an, phát đạt.

Trong các ngày mồng một, hai và ba, người Nhật thực hiện các cuộc thăm viếng đầu xuân. Họ tới chúc tết các cấp trên ở công ty mình, chúc tết họ hàng, người thân, bạn bè cũng như hàng xóm láng giềng. Thông thường mỗi nhà sẽ để một cuốn sổ kèm bút trước cổng để khách đến chúc tết ghi lại tên hoặc lưu danh thiếp lại thông báo đã tới thăm nhà. Hoặc có nhiều người khách sẽ mang theo nhiều khăn tay nhỏ đề tên mình để tặng chủ nhà làm kỷ niệm.

Oshogatsu là khoảng thời gian yêu thích của trẻ con Nhật Bản vì các em sẽ được nhận tiền mừng tuổi. Tiền mừng tuổi trong tiếng Nhật là “Otoshidama”, từ này xuất phát từ ý nghĩa chỉ sức mạnh của vị thần Toshigamisama.

Hình ảnh một con diều trẻ em thường chơi trong những ngày Oshogatsu

Trong dịp này trẻ em thường chơi các trò như đánh cầu, thả diều… Nếu đọc bộ truyện tranh Đôrêmon nổi tiếng, bạn có thể dễ dàng bắt gặp hình ảnh nhóm bạn nhỏ Nôbita, Xuka, Chaien, Xêkô, Đêkhi… chơi những trò này trong các mẩu chuyện về ngày tết. Tuy nhiên, hiện nay trẻ em Nhật không mấy khi chơi đánh cầu, thả diều… vốn là những trò chơi truyền thống mang niềm tự hào của nước Nhật vào dịp Oshogatsu nữa.
Vào cuối năm, người Nhật Bản thường chuẩn bị các tấm thiệp ghi lời cảm ơn và lời chúc trang trọng nhất nhân dịp năm mới tới những người quen biết. Phong tục này thể hiện rất rõ truyền thống văn hóa “cảm ơn” của người Nhật. Mỗi tấm bưu thiếp dù nhỏ bé khi được gửi đi đều mang trong đó lòng cảm tạ sâu sắc những gì người khác đã làm cho mình. Bưu thiếp sẽ được chuyển tới tay người nhận vào đúng ngày mồng một.

Điều đặc biệt nữa là, đối với những ai có người thân vừa qua đời trong năm thì sẽ không gửi hay nhận thiếp năm mới từ bất kỳ ai để họ có thể tĩnh tâm tưởng nhớ và cầu nguyện cho người đã khuất.

Một trong những nét đặc sắc của phong tục đón tết của người Nhật là tập quán gửi thiếp chúc mừng năm mới. Tập quán này tương đối giống các nước Âu - Mỹ song thực tế khởi nguồn từ Trung Quốc và được du nhập vào Nhật Bản.

Tuy nhiên, từ cuối những năm 1990 thì việc gửi lời chúc mừng năm mới qua điện thoại, e-mail thay vì gửi bưu thiếp trở nên phổ biến hơn. Và khi gặp ai đó dịp đầu năm mới, người Nhật Bản cũng thường nói câu “Happy new year” hơn là sử dụng câu chúc mừng năm mới truyền thống bằng tiếng Nhật

Oshogatsu là một trong những dịp lễ hội tồn tại lâu đời nhất ở Nhật Bản. Hiện nay, không khí Oshogatsu ở Nhật Bản không còn đầy đủ vẻ bình lặng mà mỗi người đều có thể trải qua những khoảng thời gian thư thả vui chơi cùng người thân, gia đình như ngày xưa. Các cửa hàng kinh doanh mở cửa từ ngày mồng một, và mở tivi khiến không khí đường phố trở nên ồn ào.

Nhiều người Nhật trung niên và cao tuổi vào mỗi khi năm mới đến vẫn thường ngưỡng vọng về những ngày Oshogatsu xưa kia.


Giới thiệu hai môn võ Aikido và Kendo tại Việt Nam (10/12/2010)

Biểu diễn môn võ Kendo. Ảnh mang tính minh họa. (Nguồn: internet).
Chiều 4/12, Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam phối hợp với hai câu lạc bộ Aikido Yuki Shudokan và Hanoi Kendo Club tổ chức buổi biểu diễn Aikido và Kendo nhằm mục đích giúp người dân Việt Nam có cơ hội được tiếp cận với hai môn võ thuật mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống của xứ sở hoa Anh đào.

Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam Tanizaki Yasuaki, trong lời phát biểu chào mừng đã nhấn mạnh đến võ đạo nói chung, trong đó Aikido và Kendo có liên quan chặt chẽ với nhau trong nền văn hóa truyền thống của Nhật Bản.

"Cách đây 50 năm, tôi có học Kendo tại Nhật Bản. Tuy thời gian ngắn nhưng tôi vẫn còn nhớ và ấn tượng khi tập môn võ này với những trang phục tập luyện rất đặc trưng của nó," ngài đại sứ nói.

Hoạt động văn hóa thể thao đầy ý nghĩa này được tổ chức đúng vào dịp câu lạc bộ Aikido Yuki Shudokan kỷ niệm 10 năm thành lập, cũng là 10 năm đóng góp đưa môn võ thuật Aikido đến với đông đảo người hâm mộ.

Chủ nhiệm câu lạc bộ Aikido Yuki Shudokan Phạm Quang Hưng cũng bày tỏ hy vọng thông qua việc phát triển bộ môn Aikido có thể cùng với các thành viên góp phần nhỏ bé của mình trong việc tăng cường tình hữu nghị và sự hiểu biết giữa nhân dân hai nước Việt Nam, Nhật Bản.

Nhân dịp này, những người hâm mộ đã trực tiếp chứng kiến một số kỹ thuật biểu diễn Aikido như katatedori, shomenuchi, yokomenuchi, ryotedori của nhóm nidan và kỹ thuật của các sandan.

Câu lạc bộ Hanoi Kendo Club, với những màn đấu kiếm tre đẹp mắt cũng đã nhận được rất nhiều tràng pháo tay cổ vũ, động viên từ phía khán giả.

Nguồn: VietnamPlus 04/12/2010 Giới thiệu hai môn võ Aikido và Kendo tại Việt Nam


[JPF] Thưởng thức âm nhạc đương đại Nhật Bản với những nhạc cụ truyền thống cùng "ĐÊM NHẠC KARIN VÀ TỨ TẤU", Hà Nội - 8-9/12/2010 (05/12/2010)

Cũ gặp Mới: Truyền thống + Hiện đại + Nhật Bản + Việt Nam

Nhân dịp kỷ niệm “1000 năm Thăng Long-Hà Nội”, Trung tâm Giao lưu Văn hóa Nhật Bản tại Việt Nam hân hạnh giới thiệu với khán giả yêu âm nhạc tại Hà Nội “Đêm nhạc của Karin và Tứ tấu” được tổ chức tại Nhà hát Tuổi trẻ vào hai ngày 8 và 9 tháng 12 năm 2010 (thứ Tư và thứ Năm).

Karin và Tứ tấu gồm 4 nhạc sỹ tài năng và giàu sáng tạo hứa hẹn sẽ mang đến cho khán giả yêu âm nhạc một chương trình hấp dẫn, mới lạ và độc đáo. Trưởng nhóm Karin là tác giả của những bản nhạc mang đầy thông điệp đồng thời cũng là nghệ sỹ chơi đàn koto, một loại đàn tranh 25 dây của Nhật Bản được phát triển từ đàn tranh truyền thống 13 dây để phù hợp với nền âm nhạc đang ngày càng hiện đại và phát triển. Karin chu du khắp nơi trên thế giới và miệt mài với những sáng tạo trong âm nhạc.

Người thứ hai trong Tứ tấu là Akihito Obama, nghệ sỹ chơi sáo shakuhachi (Sáo trúc Nhật Bản) nhuần nhuyễn trong kỹ thuật truyền thống và điêu luyện với phong cách Tây phương. Kế đến là Mami Ishizuka, nghệ sỹ dương cầm với phong cách jazz và world music. Người cuối cùng trong bộ tứ là Aki-ra Sunsire, nghệ sỹ biểu diễn bộ gõ với nhạc cụ là những chiếu thau kim loại có chứa nước sẽ hấp dẫn những ai yêu thích sự ngẫu hứng và huyền bí trong âm nhạc.

Đặc biệt hơn nữa là sự kết hợp âm nhạc của “Karin & Tứ tấu” với giai điệu đương đại mới mẻ của đàn tranh Việt Nam do nghệ sỹ Vân-Ánh Vanessa Võ thể hiện, cũng như với tiếng hát chèo cổ của một trong những nghệ sỹ hát chèo hàng đầu Việt Nam, Thu Huyền, sẽ làm nên một sự kiện âm nhạc có một không hai mà không khán giả yêu âm nhạc nào muốn bỏ lỡ.

Vé mời sẽ được phát miễn phí tại Trung tâm Giao lưu Văn hóa Nhật Bản tại Việt Nam (27 Quang Trung, Hoàn Kiếm, Hà Nội/ Điện thoại: 04-3944-7419) từ 10:00 sáng ngày 26 tháng 11 năm 2010.

Nguồn: Trung tâm Giao lưu Văn hóa Nhật Bản tại Việt Nam
Thưởng thức âm nhạc đương đại Nhật Bản với những nhạc cụ truyền thống cùng "ĐÊM NHẠC KARIN VÀ TỨ TẤU"



[VJCC] Chiếu phim tư liệu Project X "Cuộc chiến vì linh hồn của HONDA", 02/12/2010 (27/11/2010)
Thời gian
18:30-19:15 thứ năm 02/12/2010

Phí tham dự
Miễn phí

Địa điểm
TRUNG TÂM VJCC TP.HCM, phòng Seminar
15 Đường D5, Văn Thánh Bắc, P.25, Q. Bình Thạnh
Tel. 08-3512-2151

Đối tượng tham dự
Sinh viên và nhân viên các công ty Việt Nam

Nội dung


Thông Tin Chung




Quan Hệ Thương Mại Việt Nam - Nhật Bản: Vượt Thách Thức Đón Cơ Hội








Kể từ khi Việt Nam và Nhật Bản phấn đấu theo phương châm “đối tác tin cậy, ổn định và lâu dài”, thực hiện Sáng kiến chung Việt – Nhật, ký kết Hiệp định tự do, Xúc tiến và bảo hộ đầu tư Việt Nam – Nhật Bản từ năm 2003, quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản phát triển với tốc độ cao, bình quân tăng trên 19%/năm. Nhật Bản là một trong những đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Trong tuyên bố chung Việt - Nhật năm 2006, hai nước đã nhất trí phấn đấu kim ngạch thương mại hai chiều đạt 15 tỷ USD vào năm 2010.
Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được và cơ hội hứa hẹn vẫn nhìn thấy những thách thức mà các bên cần phải vượt qua trong quan hệ thương mại.

Thị trường tiềm năng

Nhật Bản – nền kinh tế lớn thứ hai thế giới - là một thị trường lớn với dân số khoảng 128 triệu và có sức mua lớn. Người tiêu dùng Nhật Bản ưa chuộng sự đa dạng của sản phẩm. Sản phẩm có vòng đời ngắn nhưng chất lượng tốt, kiểu dáng đẹp, hoàn hảo, tiện dụng là phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng Nhật Bản hiện nay.

Những năm gần đây, kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản ngày càng tăng: năm 2001 đạt 351 tỷ USD, năm 2004 đạt 454 tỷ USD và năm 2006 đạt 580 tỷ USD, năm 2007 đạt 621 tỷ USD (tăng 7,2% so với năm 2006), trong đó: nông thủy sản, thực phẩm là 51 tỷ USD (chiếm 8,3% tổng kim ngạch nhập khẩu), hải sản là 14,6 tỷ USD (chiếm 2,4%), may mặc là 30 tỷ USD (chiếm 4,9%)…

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Nhật Bản năm 2002 đạt 4,9 tỷ USD, tới năm 2007 tăng lên 12,2 tỷ USD, gấp 2,5 lần so với 5 năm trước. Cán cân thương mại giữa hai nước tương đối cân bằng.Từ năm 2000-2004, Việt Nam nhập siêu khoảng trên 50 triệu USD/năm;Năm 2005-2006 Việt Nam xuất siêu trên 300 triệu USD/năm và đến năm 2007, nhập siêu khoảng 108 triệu USD (chủ yếu là do nhập khẩu máy móc thiết bị gia tăng do có sự gia tăng trong đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam). Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật đạt 6,069 tỷ USD, tăng 16,7% so với năm 2006 và Nhật Bản tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam sau Hoa Kỳ. Bước sang năm 2008, với sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp hai nước, kim ngạch thương mại hai chiều đã có tín hiệu tăng trưởng tốt. Tính đến hết tháng 7 năm nay, kim ngạch thương mại hai chiều đã đạt xấp xỉ 10 tỷ USD, tăng 59,8% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó, Việt Nam xuất siêu trên 180 triệu USD. Như vậy, có thể tin tưởng rằng kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Nhật bản của cả năm 2008 sẽ vượt xa con số 15 tỷ USD, hoàn thành trước hai năm mục tiêu mà lãnh đạo cấp cao hai nước đề ra.

Hàng xuất khẩu của Việt Nam ngày càng được chấp nhận tại thị trường Nhật Bản nhưng thị phần vẫn còn rất khiêm tốn, hiện mới đạt xấp xỉ 1% tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản. Trong khi đó, thị phần của Trung Quốc là 20,5%, Thái Lan 2,94%, Malaysia 2,8%, Philippines 1,4%, Singapore 1,13% (số liệu năm 2007).

Sở dĩ kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản còn khiêm tốn là do các DN chưa nắm bắt được hết những lợi thế và khắc phục những khó khăn khi thâm nhập thị trường này.

Đón nhận lợi thế

Quan hệ thương mại giữa hai nước còn rất nhiều tiềm năng phát triển, bên cạnh độ lớn về dung lượng thị trường, có thể thấy, do ở trình độ phát triển khác nhau nên hai nền kinh tế có tính chất bổ sung, hỗ trợ cho nhau nhiều hơn là cạnh tranh với nhau.

Nhật Bản dành ưu đãi GSP cho một số mặt hàng của các nước đang phát triển và kém phát triển, trong đó có Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa sang nước này. Việt Nam đã chính thức ký Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản (AJCEP) vào ngày 1/4/2008 và hiệp định này dự kiến sẽ có hiệu lực từ cuối năm 2008. Trong khuôn khổ AJCEP, Việt Nam cam kết loại bỏ thuế quan đối với 82% giá trị thương mại hai chiều Việt – Nhật trong 16 năm. Việt Nam mặc nhiên hưởng lợi từ ưu đãi của Nhật Bản cam kết dành chung cho ASEAN. Theo cam kết AJCEP, Nhật Bản đã loại bỏ thuế quan đối với gần 94% giá trị thương mại Việt – Nhật trong vòng 10 năm.

Hơn nữa, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO, với cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu hàng hóa từ mức bình quân hiện hành 17,4% xuống còn 13,4% trong vòng 5-7 năm, đây là cơ hội để các DN có thể tận dụng những ưu đãi này để nhập khẩu nguồn nguyên vật liệu và công nghệ của Nhật Bản để sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, hàm lượng công nghệ cao phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Việt Nam và Nhật Bản đã bắt đầu đàm phán chính thức Hiệp định Đối tác kinh tế (EPA) Việt Nam – Nhật Bản từ tháng 1/2007 và đến nay đã trải qua 7 phiên đàm phán chính thức. Hiệp định này thể hiện mối quan hệ hợp tác toàn diện trên nhiều lĩnh vực gồm thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, thủ tục hải quan, di chuyển thể nhân, sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh, cải thiện môi trường kinh doanh, hợp tác kiểm dịch động thực vật (SPS) và các nội dung hợp tác kinh tế khác. Một loạt các chương trình hợp tác kinh tế nhằm cải thiện môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh và các cơ sở hạ tầng phần mềm cho phát triển thương mại được thực hiện sẽ là nền tảng cho phát triển thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản.

Vượt qua khó khăn

Trước hết đó là vấn đề nắm bắt thông tin và hiểu biết về tập quán kinh doanh của người Nhật Bản. Các DN Nhật Bản rất coi trọng chữ “tín” trong quan hệ với bạn hàng và thực hiện nghiêm chỉnh cam kết trong hợp đồng khi đã ký hợp đồng. Họ thường có quá trình tìm hiểu rất kỹ càng về đối tác tiềm năng trước khi có quyết định làm ăn lâu dài, đôi khi đơn hàng có khối lượng không lớn. Trong khi đó, nhiều DN Việt Nam đặc biệt là các DN nhỏ và vừa thiếu thông tin về thị trường Nhật Bản và kinh nghiệm làm ăn với các DN Nhật Bản. Một số DN chưa thật sự hiểu biết thấu đáo về văn hóa, tập quán kinh doanh của Nhật Bản. Bởi vậy, một số DN Việt Nam, mặc dù đã có kết quả kinh doanh tốt ở thị trường Mỹ, các nước EU nhưng lại chưa có kết quả tương tự ở thị trường Nhật Bản.

Một khó khăn nữacần được lưu ý đó là rào cản kỹ thuật đối với hàng nông sản, thủy sản. Vệ sinh an toàn thực phẩm là vấn đề quan trọng nhất trong xuất khẩu hàng nông sản, thủy sản, nhất là đối với thị trường Nhật Bản. Kể từ ngày 29/5/2006, Nhật Bản đã thực hiện Luật Vệ sinh an toàn thực phẩm sửa đổi đối với tất cả các lô hàng thực phẩm nhập khẩu vào Nhật Bản, thắt chặt quy định và bổ sung một số loại dư lượng hóa chất không được phép có trong thực phẩm và tiếp tục nâng mức hạn chế dư lượng hóa chất cho phép. Tôm và mực xuất khẩu của Việt Nam đã bị kiểm tra chất lượng an toàn thực phẩm 100%.

Đối với rau quả, Luật Bảo vệ thực vật của Nhật Bản liệt Việt Nam vào danh sách các nước có dịch bệnh ruồi đục quả, nên Việt Nam không được phép xuất khẩu quả tươi có hạt như thanh long, nhãn, xoài, đu đủ, dưa chuột, cà chua…

Bên cạnh đó là những vấn đề về tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng sản phẩm.Hàng công nghiệp chế tạo của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật (trừ của các công ty liên doanh hay 100% vốn của Nhật Bản) gặp một số khó khăn về tiêu chuẩn kỹ thuật vì các tiêu chuẩn công nghiệp của Nhật (JIS) có nhiều điểm riêng biệt khác với tiêu chuẩn quốc tế, trong khi hầu hết các công ty của Việt Nam là theo hệ thống tiêu chuẩn quốc tế.Người tiêu dùng Nhật Bản có yêu cầu khắt khe về chất lượng, độ bền, độ tin cậy và sự tiện dụng của sản phẩm. Họ sẵn sàng trả giá cao hơn một chút cho những sản phẩm có chất lượng tốt. Yêu cầu này còn bao gồm dịch vụ hậu mãi như sự phân phối kịp thời của nhà sản xuất khi một sản phẩm bị trục trặc, khả năng và thời gian sửa chữa các sản phẩm đó. Những vết xước nhỏ, mẩu chỉ cắt còn sót lại trên mặt sản phẩm dệt may, bao bì xô lệch, v.v… những lỗi nhỏ do sơ ý trong khi vận chuyển, hay khâu hoànthiện sản phẩm cũng có thể dẫn đến tác hại lớn là làm lô hàng khó bán, ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất lâu dài.

Ngoài ra còn những khó khăn về chi phí và hệ thống phân phối. Do yêu cầu cao về chất lượng, các DN cần đầu tư để cải tiến nhiều khâu từ thiết kế, kỹ thuật, bảo quản, vận chuyển, quản lý chất lượng. Việc tiến hành khảo sát và tiếp cận thị trường Nhật Bản cũng khá tốn kém nhất là đối với những DN vừa và nhỏ. Đồng thời, hàng hoá vào thị trường Nhật Bản phải qua nhiều khâu phân phối lưu thông nên đến tay người tiêu dùng giá cả khá cao so với giá nhập khẩu. Yêu cầu đối với nhà sản xuất là đảm bảo đáp ứng đúng yêu cầu của người tiêu dùng và chào hàng với giá cả hợp lý (không bị lệ thuộc vào thông tin về giá bán lẻ ở Nhật Bản)…

(Theo Veno)











Tin khác

Mục Tiêu Kim Ngạch Xuất Khẩu 20 Tỷ USD Vào Năm 2015




Tôn Vinh Doanh Nghiệp Tiêu Biểu Ngành Dệt May Và Da Giày




Thị Trường Bông Thế Giới Tháng 10/2010: Giá Tăng Mạnh Nhất Kể Từ 2007




CHỦ TỊCH UBND TP HỒ CHÍ MINH ĐẾN THĂM VÀ LÀM VIỆC VỚI DỆT MAY GIA ĐỊNH VÀ SÀI GÒN 3




Giá Bông Sẽ Lập “Đỉnh” Mới




Ngành Bông Việt Nam Thực Trạng Và Dự Báo - Phần 1




Giải Thưởng “Doanh Nghiệp Tiêu Biểu Ngành Dệt May Và Da Giày Việt Nam” Lần Thứ 7 Năm 2010: 84 Doanh Nghiệp Được Bình Chọn Tiêu Biểu




Doanh Nghiệp Dệt May Lo Hiệu Quả Kinh Doanh




Giá Bông Sẽ Giảm 12% Trong 3 Tháng Tới




Triển Vọng Thị Trường Bông Tới Cuối Năm: Giá Sẽ Giảm




Công Nghệ Kỹ Thuật




Hàng May Mặc: Chỉ Đẹp Là Đủ?








Chúng ta hẳn ai cũng có lần gặp phiền toái với hàng kém chất lượng, ví dụ khi ta mua những chiếc quần, áo mà trên mác ghi chất liệu "100% cotton" nhưng thực tế, món hàng lại có pha polyeste.
Một chiếc váy quyến rũ khiến chúng ta lượn đi lượn lại nhiều vòng qua nơi bán, nhìn ngắm rồi quyết định bỏ ra số tiền đáng kể để mua thì chỉ sau vài lần mặc bỗng trở nên nhăn nhúm, khác hẳn so với phom dáng ban đầu. Một chiếc quần sang trọng mà mình từng ưng ý mỉm cười trước gương bỗng trở nên ngắn lơ lửng (mà lại chẳng thể coi đó là một chiếc quần ngố); rồi chiếc áo bỗng mất tiêu mấy cái cúc chỉ sau vài lần giặt.

Đó là chưa kể những lúc bạn có thể phát điên lên khi phải loại bỏ vài bộ quần áo mà bạn yêu thích chì vì chiếc áo mới mua của bạn phai màu, khiến tất cả quần áo trong cùng một mẻ giặt bị màu loang lổ.

Tại sao cái sự phiền toái này thường xảy ra? Có hai nguyên nhân chính. Thứ nhất là do người tiêu dùng chưa hình thành thói quen tìm hiểu thật kỹ sản phẩm trước khi mua hoặc trước khi sử dụng; thứ hai là các nhà sản xuất chưa tuân thủ đầu đủ yêu cầu về chất lượng.

Tiêu chuẩn cần thiết

Trên thực tế, các yêu cầu về chất lượng đã được tiêu chuẩn hóa một cách có hệ thống. Ví dụ sản phẩm muốn xuất khẩu vào các nước thuộc khối EU phải tuân thủ theo bộ tiêu chuẩn EN; sản phẩm xuất khẩu vào Mỹ phải tuân thủ theo bộ tiêu chuẩn ASTM hoặc AATCC; sản phẩm xuất khẩu vào Canada phải tuân thủ theo bộ tiêu chuẩn CAN và Việt Nam thì đang áp dụng bộ tiêu chuẩn TCVN. Nhìn chung, bộ tiêu chuẩn được đa số các nước áp dụng.

Vậy nội dung của các bộ tiêu chuẩn này là gì? Các bộ tiêu chuẩn này đặt ra những phương pháp thử nghiệm cho sản phẩm trong các lĩnh vực cơ lý, hóa học và độ an toàn của sản phẩm. Nói một cách cụ thể, một sản phẩm trước khi đưa vào sản xuất phải kiểm nghiệm về độ co, về độ bền màu, độ gắn kết của cúc hay các họa tiết trang trí. Các thử nghiệm này còn là sự phân tích cấu trúc của vải cũng như các thành phần trong sản phẩm.

Đương nhiên, với từng loại sản phẩm cụ thể có những thử nghiệm tương ứng. ví dụ quần áo bơi cần có thử nghiệm độ bền màu với nước biển hoặc nước hồ bơi có thành phần clo; các sản phẩm áo sơ mi cần có thử nghiệm với độ nhăn, và đặc biệt với sản phẩm dành cho trẻ em thì cần thử nghiệm độ an toàn một cách tuyệt đối. Các nút, cúc cũng như mọi chi tiết trang trí phải đảm bảo cho trẻ em không thể dứt ra vì có thể các bé sẽ nuốt, đồng thời cũng không được sắc nhọn để tránh gây nguy hiểm cho trẻ.

Các nút, khuy bấm nếu làm bằng kim loại thì phải qua thử nghiệm cả hàm lượng chì hoặc những kim loại nặng xem có vượt qua tiêu chuẩn cho phép hay không, đề phòng trường hợp trẻ em có ngậm vào miệng cũng không bị nguy hại gì.

Từ tháng 1/2008, sản phẩm hàng may mặc muốn nhập khẩu vào EU bắt buộc phải tuân theo các tiêu chuẩn ECOTEX - tức là các tiêu chuẩn về sinh thái. Có nghĩa là sản phẩm may mặc đó phải đảm bảo không gây nguy hại cho người sử dụng. Dư lượng các hóa chất được sử dụng trong quá trình dệt, nhuộm, may không vượt quá hàm lượng cho phép để có thể gây kích ứng cho da hoặc trở thành tác nhân gây bệnh ung thư.

Nhằm thể hiện trách nhiệm đối với cộng đồng cũng như gìn giữ danh tiếng cho nhãn hiệu và đảm bảo sản phẩm của mình sẽ không bị thu hồi, hầu hết những công ty có tên tuổi trên thế giới như: Nike, Adidas, Kohl's, Walmarrt, Mark & Spencer, D&G, CK, Gap, AEO, A&F, Next... đều tuân thủ các yêu cầu về chất lượng một cách nghiêm ngặt.

Mỗi công ty, tùy thuộc vào dòng sản phẩm cũng như từng loại sản phẩm cụ thể để xây dựng nên các gói thử nghiệm. Theo đó, những mã hàng nào không đạt tiêu chuẩn qui định thì tuyệt đối không được xuất hiện trên thị trường. Thông thường, các công ty này sẽ hợp tác với một phòng thí nghiệm độc lập để đảm bảo rằng những sản phẩm được gửi đến từ các nhà máy sẽ được đánh giá một cách khách quan nhất.

Mặc dù phải trả thêm khoản chi phí thử nghiệm, nhưng hầu hết các nhà sản xuất đều nhận thức rằng đó là sự lựa chọn thông minh, vì rằng nếu phát hiện lỗi ngay từ đầu dây chuyền thì họ có thể có ngay các động tác khắc phục, như vậy sẽ giảm thiểu rủi ro.

Lời kết

Việt Nam là một trong 10 nước có lượng xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất trên thế giới nên không thể nói các nhà sản xuất tại Việt Nam không biết đến vấn đề này. Nhưng việc kiểm soát chất lượng cho sản phẩm tiêu thụ nội địa chưa được siết chặt. Thực sự, quyền lợi của người tiêu dùng tại thì trường nội địa chưa được coi trọng đúng mức.

Chúng ta cũng không thể ngồi đợi các nhà sản xuất trong nước có trách nhiệm đối với khách hàng của mình. Mỗi người hãy làm một "người tiêu dùng thông thái", chúng ta cần phải tỏ thái độ với chất lượng sản phẩm, có cầu ắt có cung. Các nhà sản xuất buộc phải có hành động kịp thời khi người tiêu dùng lên tiếng.




Cô gái Nhật yêu Việt Nam (08/08/2007)
Noguchi Yukari đang làm việc tại bệnh viện huyện Tân Châu, tỉnh An Giang, nhằm giúp đỡ các bệnh nhân điều trị chứng tai biến mạch máu não. Tuy chưa nghe, nói tốt tiếng Việt, nhưng Yukari rất cố gắng để giao tiếp.
Rào cản ngôn ngữ
“Khó khăn lớn nhất của tôi khi đến đây là nói tiếng Việt không được” - Yukari tâm sự. Không có phiên dịch, lại ở nơi đất khách quê người, cô phải nỗ lực rất nhiều để giao tiếp với bệnh nhân và đồng nghiệp. Trong vai trò kỹ sư vật lý trị liệu ở Bệnh viện huyện Tân Châu, Yukari có nhiệm vụ hướng dẫn bệnh nhân cách tập luyện.
Mỗi ngày cô tập cho 6-7 bệnh nhân, mỗi người từ 20 đến 30 phút. Công việc hoàn toàn không đơn giản và khá nặng nhọc khi bệnh nhân của cô thường bị liệt nửa người. Thật vất vả để giúp họ cử động tay chân theo mong muốn của người hướng dẫn.
Đó là chưa kể những hạn chế về ngôn ngữ khiến cô khó chuyển tải điều mình muốn nói đến người bệnh. Không thể dùng ngôn ngữ, Yukari đã có sáng kiến vẽ hình và chú thích số lần tập cho mỗi động tác, để mọi người có thể theo đó tự tập, dù là đang được điều trị tại bệnh viện hay đã về nhà.
Phương pháp vật lý trị liệu do cô phụ trách, theo bác sĩ Hà Văn Tâm, Giám đốc Bệnh viện Tân Châu, là những tinh hoa trong phương pháp điều trị của Nhật Bản, giúp bệnh nhân phục hồi nhanh hơn nhiều so với cách châm cứu cũ của bệnh viện. Tuy vẫn không thể chữa khỏi hoàn toàn nhưng các bệnh nhân sau một thời gian điều trị cũng có thể cử động chân tay, đi lại hay làm việc nhẹ.
Bên cạnh thời gian luyện tập cho bệnh nhân, Yukari còn một nhiệm vụ khác không kém phần quan trọng là hướng dẫn, đào tạo lại cho đội ngũ y - bác sĩ ở các xã và các huyện lân cận về chuyên môn này. Quá trình đào tạo sẽ kéo dài 2 năm, trong suốt thời gian cô công tác tại đây. Ngôn ngữ hạn chế là một thách thức khá lớn, đòi hỏi ở cô gái trẻ tính kiên nhẫn cũng như nỗ lực hòa nhập vào cuộc sống mới.
Tình nguyện để học hỏi
Điều gì đã khiến một kỹ sư trẻ quyết định rời xa cuộc sống sung túc ở Nhật để trở thành một tình nguyện viên? Yukari kể rằng ban đầu chỉ là ý thích được làm việc ở nước ngoài và VN là lựa chọn số 1 vì có môi trường an toàn nhất. Nhờ tổ chức phi chính phủ Jica giới thiệu, cô cùng hơn 50 bạn trẻ Nhật khác đã trở thành những tình nguyện viên tại khắp mọi vùng ở VN.
Làm tình nguyện viên có nghĩa là không hề có thu nhập, nhưng bù lại, Yukari rất vui vì biết thêm nhiều điều. Đó là cơ hội để được đi đó đây, được làm quen với cuộc sống mới và những con người mới, được sử dụng kiến thức vào những việc có ích và cũng học hỏi được nhiều tinh hoa từ cách điều trị tại VN. Yukari mong muốn những vốn sống đó sẽ giúp nhiều cho công việc của mình sau này.
Không nản chí
Cuộc sống tuy không tiện nghi như ở Nhật Bản nhưng Yukari cũng được trang bị một căn phòng có máy lạnh ngay tại bệnh viện. Và quan trọng hơn, cô được các đồng nghiệp luôn sẵn sàng giúp đỡ, được các bệnh nhân rất tôn trọng. Sang VN chưa lâu, chưa có nhiều bạn bè để chia sẻ nên cô rất nhớ nhà.
Không những thế, Yukari còn phải tập ăn uống theo kiểu VN. Nhiều lúc nhớ những món ăn thuần túy kiểu Nhật nhưng đành chịu thèm vì chỗ cô ở không có nhà bếp, còn nhà hàng Nhật ở một huyện nhỏ như Tân Châu thì hiển nhiên là không có rồi. Sách báo Nhật cũng thiếu. Mọi tin tức thời sự, Yukari đều tìm trên Internet.
Lúc rảnh rỗi, Yukari thường lên mạng viết thư về cho bố mẹ hay lấy xe đạp lang thang vài vòng quanh huyện, vừa tập thể dục vừa thư giãn và cũng để làm quen với môi trường và người dân ở đây. Tuy điều kiện sống còn thiếu thốn nhiều, nhưng Yukari không hề nản lòng. Cô chỉ mong muốn làm sao nói tốt tiếng Việt hơn nữa để hiểu mọi người xung quanh và hòa nhập nhanh hơn với cuộc sống mới
Theo Kim Vân, Người lao động

Thời trang không giống ai của giới trẻ Nhật (09/08/2007)
Nói đến thời trang mang phong cách Nhật Bản, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến những khuynh hướng thời trang "không giống ai" của giới trẻ nước này. Điển hình là những phong cách thời trang "made in Japan" như Harajuku (phong cách thời trang quận Harajuku) và Cosplay (mốt hóa trang giống nhân vật trong truyện tranh, video game) vừa mới du nhập vào nước ta hiện nay và đang được giới tuổi teen chào đón nồng nhiệt.
Sức sáng tạo và sự phát triển không ngừng của bộ mặt thời trang tại xứ sở mặt trời mọc đã mang lại nguồn cảm hứng dồi dào cho ngành thời trang quốc tế. Giờ đây, những nhà thiết kế tại Mỹ và châu Âu luôn theo dõi sát sao những khuynh hướng thời trang mới nhất ở Nhật Bản và điều này đóng vai trò quyết định đến công việc kinh doanh của họ.
Người Nhật luôn được biết đến với khả năng sáng tạo trong việc pha trộn và kết hợp các trang phục và đồ trang sức với nhau. Nhiều phụ nữ nước ngoài cũng hết sức ấn tượng đối với cách sử dụng màu sắc tại Nhật Bản. Phái yếu tại xứ sở hoa anh đào luôn được tiếng là một trong những nhóm người sáng tạo nhất trong lĩnh vực phối màu và hình thành phong cách đặc trưng. Không những thế, phụ nữ Nhật còn kết hợp hoàn hảo trang phục với những phục trang khác, từ kẹp tóc, đồ trang sức, túi xách, dù, khăn choàng và thậm chí đến sổ tay... nhằm tạo một phong cách hài hòa, dễ thương.
Ngược lại, họ cũng có thể trông thật nổi loạn với váy cực ngắn, vớ lưới chật căng, những "phụ tùng" cực hot, giày boot cao... Trong khi hầu hết phụ nữ châu Á và phương Tây bị buộc phải trang phục đúng cách trong một số trường hợp cụ thể (như không được ăn mặc quá khêu gọi nơi công sở, chốn đông người), nữ giới Nhật Bản sẵn sàng chấp nhận rủi ro. Điều đó cũng giải thích cho sự ra đời của những khuynh hướng thời trang trong bề ngoài có vẻ như "bất cần đời" của GothLoli, Cosplay, Kogal, Ganguro...
Nói đến thời trang Nhật Bản, không thể không nhắc đến "thủ đô" thời trang Harajuku Tokyo. Đây là trung tâm shopping và thời trang chính trong khu vực. Điểm luôn thu hút đông đảo những người điên cuồng về thời trang chính là chiếc cầu Harajuku, nối liền nhà ga Harajuku với Công viên Yoyogi. Tại đây, bạn sẽ chứng kiến những cô gái Gothic Lolita, hay còn gọi là GothLoli với trang phục thật sự đặc sắc.
GothLoli là trang phục hết sức trẻ trung, có sự phối hợp giữa trắng đen, kèm theo một đống ruy-băng và nơ. Tại đây, bạn cũng có thể phát hiện một khuynh hướng thời trang cũng không kém phần đặc sắc nhưng tương phản với GothLoli chính là Kogal. Kogal, có nghĩa là cô gái nhỏ, văn hóa của nhóm của những cô bé tuổi teen và phụ nữ trẻ thành thị Nhật Bản. Nhìn chung, một kogal có bề ngoài giống như một cô gái ở thung lũng California (Mỹ), với những đôi giày bốt cao, váy cực ngắn, cách trang điểm đậm, mái tóc nhuộm (thường là màu vàng), làn da rám nắng nhân tạo và trang sức đầy mình.

Nếu phải mặt đồng phục đi học, các kogal cũng cố gắng làm chiếc váy ngắn hết mức có thể và mang vớ cao đến đầu gối. Cuộc sống xã hội vô cùng bận rộn và khát vọng luôn sở hữu được những thiết bị điện tử mới nhất đã biến họ trở thành những nhà tiêu thụ hàng đầu Nhật Bản về công nghệ điện thoại di động và dòng hàng hóa cao cấp như Burberry và Louis Vuitton. Các Kogal dành phần lớn quỹ thời gian của mình để lượn lờ quanh các shop và thường "đóng đô" tại quận Shibuya ở Tokyo, cụ thể là tòa nhà 109.
Dù hết sức hiện đại và cá tính trong những bộ trang phục đường phố, nhưng các thiếu nữ Nhật Bản vẫn hết sức trân trọng chiếc áo kimono truyền thống, và những dịp đặc biệt như lễ tết, đám cưới là lúc các cô gái khoác lên mình loại trang phục truyền thống độc đáo này. Khác với thời xưa, những thiếu nữ Nhật Bản thời nay đã có sự điều chỉnh thích hợp để tôn trọng nét truyền thống (kimono) mà vẫn đẹp đẽ thanh lịch theo kiểu hiện đại.


Thiếu công nhân tại các khu công nghiệp

Nhiều cán bộ nhân sự cho rằng, “Chưa bao giờ tuyển lao động lại khó như thời điểm này”. Một lãnh đạo Bộ Lao động - Thương binh và xã hội đã phải thốt lên: “Tôi không hiểu lao động chạy đi đâu hết”. Sắp bước sang quý II của năm 2010, nhưng việc tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp tại các khu công nghiệp, khu chế xuất trong cả nước vẫn đang ở tình trạng cung không đủ cầu. Công ty Cổ phần May Hưng Long ở Phố Nối, Hưng Yên cho biết:
Công ty đang có nhu cầu từ 300 đến 500 lao động phổ thông và sẵn sàng chu cấp chi phí ăn, ở trong 3 tháng để dạy nghề cho lao động mới nhưng chỉ mới tuyển được hơn 200 người. Được biết, đây là công ty may có mức thu nhập vào loại cao (lương bình quân của người lao động đạt 3 triệu đồng/tháng, thưởng Tết cuối năm 2009, công nhân có năng suất lao động trung bình cũng đạt 9 triệu đồng/người).
Nhiều cán bộ nhân sự cho rằng, “Chưa bao giờ tuyển lao động lại khó như thời điểm này”. Một lãnh đạo Bộ Lao động - Thương binh và xã hội đã phải thốt lên: “Tôi không hiểu lao động chạy đi đâu hết”. Sắp bước sang quý II của năm 2010, nhưng việc tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp tại các khu công nghiệp, khu chế xuất trong cả nước vẫn đang ở tình trạng cung không đủ cầu. Công ty Cổ phần May Hưng Long ở Phố Nối, Hưng Yên cho biết:



Công ty đang có nhu cầu từ 300 đến 500 lao động phổ thông và sẵn sàng chu cấp chi phí ăn, ở trong 3 tháng để dạy nghề cho lao động mới nhưng chỉ mới tuyển được hơn 200 người. Được biết, đây là công ty may có mức thu nhập vào loại cao (lương bình quân của người lao động đạt 3 triệu đồng/tháng, thưởng Tết cuối năm 2009, công nhân có năng suất lao động trung bình cũng đạt 9 triệu đồng/người).
Anh Nguyễn Văn Hà, ở Phú Thọ, làm việc tại Khu công nghiệp (KCN) Nam Thăng Long cho biết: Là lao động có bằng trung cấp nghề cơ khí kết cấu, tôi cũng chỉ được trả trên 2 triệu đồng/tháng. 2 năm làm việc chưa được công ty ký hợp đồng lao động, đóng BHXH nên tôi đã quyết định nghỉ việc, tìm cơ hội mới... Theo tìm hiểu của chúng tôi, các KCN tại Hà Nội như Thăng Long, Quang Minh, Nội Bài, cụm công nghiệp Từ Liêm… đều có hiện tượng lao động bỏ việc. Mức thu nhập vẫn là điều khiến lao động có tâm lý làm tạm thời chứ không yên tâm gắn bó lâu dài.
Công ty đang có nhu cầu từ 300 đến 500 lao động phổ thông và sẵn sàng chu cấp chi phí ăn, ở trong 3 tháng để dạy nghề cho lao động mới nhưng chỉ mới tuyển được hơn 200 người. Được biết, đây là công ty may có mức thu nhập vào loại cao (lương bình quân của người lao động đạt 3 triệu đồng/tháng, thưởng Tết cuối năm 2009, công nhân có năng suất lao động trung bình cũng đạt 9 triệu đồng/người).
Anh Nguyễn Văn Hà, ở Phú Thọ, làm việc tại Khu công nghiệp (KCN) Nam Thăng Long cho biết: Là lao động có bằng trung cấp nghề cơ khí kết cấu, tôi cũng chỉ được trả trên 2 triệu đồng/tháng. 2 năm làm việc chưa được công ty ký hợp đồng lao động, đóng BHXH nên tôi đã quyết định nghỉ việc, tìm cơ hội mới... Theo tìm hiểu của chúng tôi, các KCN tại Hà Nội như Thăng Long, Quang Minh, Nội Bài, cụm công nghiệp Từ Liêm… đều có hiện tượng lao động bỏ việc. Mức thu nhập vẫn là điều khiến lao động có tâm lý làm tạm thời chứ không yên tâm gắn bó lâu dài.

No comments:

Post a Comment