Xây Dựng Cấu Trúc Thương Hiệu
Xây dựng thương hiệu dường như là một khái niệm hơi xa lạ đối với các công ty vừa và nhỏ. Tuy nhiên vẫn có nhiều cách và phương pháp để các công ty trên tiếp cận khái niệm này.
Các công ty quảng cáo sáng tạo hàng đầu có những phương pháp “gia truyền” trong việc xây dựng chiến lược thương hiệu. Họ biết tự định vị mình để cạnh tranh với các công ty sáng tạo khác. Họ sử dụng những hình ảnh bắt mắt, ví dụ như vòng tròn, hình tam giác và biểu đồ đề diễn tả về các thuộc tính, giá trị, cá tính và lời hứa.
Đa phần các công ty vừa và nhỏ không quan tâm tới chiến lược thương hiệu. Thay vì vậy, họ phó mặc tên tuổi của mình cho thị trường quyết định, có thể là tốt hơn hay xấu hơn. Sâu xa hơn nữa, nhiều marketer tại các công ty này biết rằng lẽ ra họ nên nỗ lực nhiều hơn trong quá trình xây dựng thương hiệu, nhưng nhiều người lại không biết nên bắt đầu từ đâu.
Tuy nhiên, nếu chịu khó tìm hiểu về phương pháp xây dựng thương hiệu của các công ty quảng cáo, bạn sẽ phát hiện ra nhiều sự tương đồng.
Nếu không có nhiều ngân sách thuê các chuyên gia tư vấn thương hiệu, cũng không nên quá lo lắng. Bằng nỗ lực và một kế hoạch tốt, bạn có thể tự mình xây dựng chiến lược thương hiệu. Dành thời gian tìm hiểu kiến thức thương hiệu cộng với sự kiên trì sẽ giúp bạn vượt qua sự mù mờ về chúng.
Cấu trúc thương hiệu chính là nền tảng chiến lược thương hiệu
Điểm mấu chốt trong toàn bộ chiến lược thương hiệu chính là cấu trúc thương hiệu. Cấu trúc này đặt nền tảng cho toàn bộ các thành tố thương hiệu, và kết nối cá tính thương hiệu, mục đích, lời hứa, câu chuyên, hình ảnh và sự vận hành thành một cấu trúc thống nhất.
Thương hiệu được xây dựng dựa trên cảm xúc, vì vậy cấu trúc thương hiệu cần phải thể hiện rõ ràng những cảm xúc cụ thể mà thương hiệu mang lại.
Để xây dựng cấu trúc thương hiệu, có thể theo quy trình 5 bước sau:
1. Liệt kê từng đặc điểm sản phẩm /dịch vụ. Sau đó viết ra từng lợi ích của chúng là gì
• Đặc điểm là những mô tả về sản phẩm hay thành phần có trong đó. Ví dụ, đặc điểm của một chiếc auto có thể là chúng có rãnh để ván trượt tuyết hay có trang bị hệ thống stereo cải tiến.
• Lợi ích là những gì đặc điểm tạo ra
2. Tâp trung vào các lợi ích. Với từng lợi ích, xác định xem đó là lợi ích chức năng hay cảm xúc
• Lợi ích chức năng liên quan trực tiếp tới chức năng đặc điểm đó tạo ra. Ví dụ hệ thống stereo cải tiến sẽ mang lại chất lượng âm thanh hay hơn.
• Lợi ích cảm xúc giúp đánh thức cảm giác và cảm xúc. Ví dụ hệ thống stereo cải tiến sẽ làm cho người nghe cảm giác như đang tham dự một buổi biểu diễn nhạc rock ngoài trời.
3. Xem xét lại từng đặc điểm và lợi ích, xác định tầm quan trọng của từng yếu tố đối với thị trường. Phân chia chúng theo 3 danh mục sau:
• Được mong đợi: đây là những yếu tố cơ bản và được thị trường chờ đợi; khách hàng sẽ không mua sản phẩm nếu chúng không có những chức năng và đặc điểm này. Mọi sản phẩm / dịch vụ trong danh mục này phải đảm bảo đầy đủ các chức năng trên.
• Gia tăng giá trị: không mong đợi, nhưng hầu hết quyết định của khách hàng sẽ không chỉ dựa vào yếu tố trên. Hơn nữa, việc này giúp sản phẩm, dịch vụ tạo ra khác biệt so với đổi thủ.
• Sẽ mua: khách hàng sẽ chọn sản phẩm của bạn do chỉ tìm thấy những đặc điểm / lợi ích mong muốn từ duy nhất sản phẩm bạn cung cấp.
4. Chấm điểm các đặc điểm và lợi ích. Thương hiệu dựa vào cảm xúc – không ngoại trừ các thương hiệu B2B. Một thương hiệu sẽ trở nên vững mạnh hơn khi được tạo dựng dựa trên những lợi ích cảm xúc. Hãy sử dụng thang điểm sau:
• Đặc điểm được mong đợi = 1
• Đặc điểm gia tăng giá trị = 2
• Đặc điểm sẽ mua = 3
• Lợi ích chức năng được mong đợi = 4
• Lợi ích chức năng gia tăng giá trị = 5
• Lợi ích chức năng sẽ mua = 6
• Lợi ích cảm xúc được mong đợi = 7
• Lợi ích cảm xúc gia tăng giá trị = 8
• Lợi ích cảm xúc sẽ mua = 9
5. Rất ít cấu trúc thương hiệu được xây dựng dựa trên nền tảng đặc điểm, việc đưa chúng vào trong bảng tính điểm cho thấy được tầm quan trọng hơn của lợi ích, và đặc biệt hơn là những lợi ích cảm xúc, những yếu tố sẽ thúc đẩy hành vi mua hàng dựa vào cảm tính. Bước cuối cùng xác định những lợi ích cảm xúc cốt lõi trong chiến lược thương hiệu.
Thông thường, bạn nên tập trung vào những điểm số cao nhất để hình thành nên cấu trúc thương hiệu. Đánh giá tất cả yếu tố với điểm sàn là 6 hay cao hơn. Bạn có thể chọn kết hợp thêm vài lợi ích chức năng với các lợi ích cảm xúc.
Hãy cân nhắc kỹ càng các lợi ích chức năng và cảm xúc bạn chọn đưa vào cấu trúc thương hiệu. Do sẽ cần rất nhiều nguồn lực để truyền tải những giá trị này cho thị trường, nên bạn cần phải kiểm tra sự chấp nhận của nội bộ trước, sau đó là sự chấp nhận của thị trường nếu bạn không chắc chắn về chúng.
Sau khi xây dựng xong cấu trúc thương hiệu, bây giờ có thể bắt đầu tìm hiểu về các yếu tố khác trong chiến lược thương hiệu như: cá tính thương hiệu, cá tính, mục tiêu, lời hứa, câu chuyên thương hiệu, hình ảnh và quy định hoạt động.
Phạm Vũ Hoàng Quân dịch từ Marketing MO
Những Trung Tâm Thời Trang Lớn Nhất Thế Giới
(TNO) Tổ chức phi lợi nhuận Global Language Monitor vừa công bố danh sách 25 thành phố dẫn đầu về lĩnh vực thời trang trên toàn thế giới năm 2008. Theo Reuters, danh sách này được đưa ra dựa vào mật độ xuất hiện của những thành phố này trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên internet và thậm chí trên cả những trang nhật ký ảo - blog thông tin về thời trang.
Đứng đầu danh sách này là New York, thành phố lớn nhất nước Mỹ. Đây là lần thứ 5 liên tiếp, New York chiếm giữ thứ hạng cao nhất. Rome và Paris tiếp tục giữ vững vị trí thứ 2 và 3. Trong khi đó, Milan và London hoán đổi chỗ cho nhau, Milan từ hạng 5 leo một bậc lên hạng 4 và London thì ngược lại.
Gây bất ngờ nhất là Sydney và Dubai, hai trung tâm thời trang nhỏ hơn đã có những bước đột phá khi Sydney từ hạng 12 nhảy lên hạng 6 và Dubai vượt 12 bậc lên hạng 12. Bốn thành phố lần đầu tiên được chọn vào danh sách này là: Cape Town (Nam Phi), New Delhi (Ấn Độ), Stockholm (Thụy Điển) và Madrid (Tây Ban Nha).
Tokyo xứng đáng là kinh đô thời trang của châu Á khi là thành phố châu Á xếp vị trí cao nhất trong bảng xếp hạng này. Tuy nhiên, với hạng 10, Tokyo đã thấp hơn 4 bậc so với năm ngoái. Hồng Kông xếp sau Tokyo một bậc, Bangkok (Thái Lan) rớt tên khỏi danh sách.
Danh sách 25 trung tâm thời trang lớn nhất thế giới:
Nâng Cao Hiệu Quả Ngành May Xuất Khẩu, Có Cần Một Giải Pháp Toàn Diện?
Dệt may đang trở thành ngành xuất khẩu đứng đầu trong nhóm 10 mặt hàng xuất khẩu lớn của đất nước. Tuy nhiên, hiệu quả xuất khẩu của ngành May vẫn được đánh giá là còn thấp, do xuất khẩu theo phương thức gia công là chủ yếu. Đã có nhiều giải pháp đề xuất cho việc nâng cao hiệu quả xuất khẩu của ngành May, nhưng dường như chúng vẫn còn dàn trải, chưa đúng trọng tâm
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về việc nâng cao hiệu quả xuất khẩu của ngành May Việt Nam. Trong đó, ngoài các giải pháp truyền thống là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và trình độ KHCN, người ta còn nhấn mạnh đến việc phát triển các khâu thiết kế thời trang và xâm nhập vào mạng lưới phân phối toàn cầu; nhiều công trình còn nhấn mạnh tới việc phát triển nguồn nguyên liệu bông, xơ (thượng nguồn), nhằm tạo thế chủ động cho sản xuất của Ngành. Song, dường như các giải pháp có tính toàn diện này chỉ mang tính hình thức, bởi lẽ, nó đã được nhắc đến nhiều, nhưng lại không thấy có khả năng triển khai hiệu quả. Hãy thử xem chuỗi giá trị của ngành may xuất khẩu hiện nay thế nào
Theo các nghiên cứu đã được công bố, chuỗi giá trị của ngành may xuất khẩu bao gồm các khâu: sản xuất nguyên, phụ liệu; thiết kế thời trang; may gia công; marketing, phân phối; và được tính toán, phân chia giá trị theo biểu đồ dưới đây:
Từ biểu đồ trên cho thấy, về lý thuyết, có thể có nhiều cách để nâng cao hiệu quả của ngành May xuất khẩu. Đó là:
- Thứ nhất, đầu tư để làm chủ khâu thiết kế thời trang, có thể chủ động đưa ra các mẫu mốt, phù hợp với xu hướng thời trang thế giới. Khi được thị trường chấp nhận, thì giá trị của khâu này trong chuỗi giá trị toàn cầu chiếm 3%;
- Thứ hai, phát triển sản xuất nguyên phụ liệu, kể cả đầu tư để phát triển thượng nguồn (bông, xơ), vải và các loại phụ liệu khác. Làm chủ được khâu này, giá trị trong chuỗi giá trị toàn cầu chiếm 15%;
- Thứ ba, là khâu gia công sản phẩm. Toàn bộ khâu này (cắt, may, hoàn thiện, đóng gói, vận chuyển…) chiếm giá trị là 5-7% trong chuỗi giá trị toàn cầu (bao gồm cả các thủ tục xuất khẩu);
- Thứ tư, vươn lên, xâm nhập vào mạng lưới phân phối toàn cầu để bán được sản phẩm cho các nhà buôn (không phải qua các trung gian môi giới), thậm chí có thể bán đến tận tay người tiêu dùng… Giá trị của khâu này lên tới 75% (?!) trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Tuy nhiên, trên cơ sở hiện trạng và quá trình phát triển của ngành May xuất khẩu Việt Nam trong nhiều năm qua, câu hỏi được đặt ra là: Phải chăng ta sẽ đồng thờì tiến hành tất cả các giải pháp trên, hay sẽ lựa chọn những khâu phù hợp để triển khai?. Người viết xin có một số bình luận và đề xuất hướng phát triển của Ngành như sau:
- Thứ nhất, đầu tư cho thiết kế thời trang: Từ giữa thập kỷ 90 của thế kỷ trước, ở Việt Nam, khâu thiết kế thời trang đã được đặt ra. Qua gần 20 năm, hoạt động thiết kế thời trang của Việt Nam đã có những bước tiến dài. Chúng ta đã đầu tư nhiều công sức và đã có được một đội ngũ các nhà thiết kế khá chuyên nghiệp, một số người đã đạt được những giải thưởng lớn của quốc tế. Nhưng dường như mọi chuyện vẫn chỉ dừng ở đó mà không tiến thêm được.
Câu hỏi đặt ra là tại sao lại như vậy, hay tại chúng ta đầu tư chưa đủ tầm, và cần phải tiếp tục đầu tư, hay vì một lý do nào khác?.
Chính vì câu hỏi này không được giải đáp thấu đáo, nên chúng ta vẫn cứ tiếp tục đầu tư và tiếp tục mong đợi; mong đợi để đến một lúc nào đó, chúng ta sẽ tham gia được vào “mắt xích” thiết kế, trong chuỗi giá trị toàn cầu của ngành may xuất khẩu.
Có thể khẳng định, chúng ta sẽ còn rất lâu, nếu không muốn nói là không thể, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của ngành may xuất khẩu ở “mắt xích” thiết kế.
Thực tế cho thấy, trên thế giới, đã có một số nước thành công trong phát triển ngành dệt may hướng ra xuất khẩu trong giai đoạn đầu mới công nghiệp hoá. Mô hình của các nước NICs với sự thành công của Hồng Kông và Hàn Quốc cách đây hơn 30 năm trong lĩnh vực dệt may là những ví dụ điển hình. Nhưng thực chất, những quốc gia này, cho đến lúc chuyển giao ngành dệt may sang các nước kém phát triển hơn, vẫn không có nước nào thành công ở khâu thiết kế thời trang (Hồng Kông thành công trong việc trở thành trung tâm trao đổi, mua bán nguyên phụ liệu, còn Hàn Quốc thì chuyển sang phát triển các ngành công nghiệp khác. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Hàn Quốc đến nay chỉ khoảng gần 14 tỷ USD/năm).
Hiện tại, những quốc gia mới nổi, như Trung Quốc, Brasin..., cùng lắm cũng chỉ trở thành các công xưởng của thế giới hoặc trung tâm cung cấp nguyên, phụ liệu.
Dường như đã là “định mệnh”, Milano, Franfuôc, Paris… vẫn đang và sẽ mãi mãi là các trung tâm sáng tạo của thời trang quốc tế.
Chấp nhận cách luận giải này, chúng ta sẽ có những bước đi phù hợp cho khâu thiết kế. Và như vậy, nên chăng, chỉ đầu tư cho khâu thiết kế phục vụ thị trường nội địa.
- Thứ hai, xâm nhập vào mạng lưới phân phối toàn cầu. Nói thì có vẻ dễ, nhưng thực tế không phải như vậy. Ngoài những khó khăn về xây dựng mạng lưới phân phối, mà gần như nó đã được định hình từ nhiều năm, theo phương châm “buôn có bạn, bán có phường”, khâu này còn chứa đựng nhiều rủi ro. Có lẽ cũng vì rủi ro cao mà nó chiếm tới 75% giá trị trong chuỗi giá trị toàn cầu của ngành may xuất khẩu.
Ngành May xuất khẩu của ta có khả năng làm được việc này không? Về lý thuyết cũng là “mọi thứ đều có thể”. Tuy nhiên, chi phí cho hoạt động này không phải là nhỏ, mà một doanh nghiệp chắc không thể làm được. Đó là, chúng ta phải thường xuyên có các thương nhân có kinh nghiệm, tham gia hầu khắp (nếu không muốn nói là tất cả) các cuộc trình diễn thời trang hay hội chợ triển lãm quốc tế, để vừa chọn được mẫu của các nhà thiết kế, mang đi chào hàng, rồi tìm các nhà buôn để có thể ký hợp đồng bán hàng… (chưa nói tới việc cần có mạng lưới để bán được hàng đến tay người tiêu dùng, thì lợi nhuận thu được sẽ cao hơn). Tất cả những công việc của khâu này không chỉ là khó khăn về tài chính, về nghiệp vụ và kinh nghiệm kinh doanh, mà đi kèm với nó, như trên đã nói là rủi ro cao trong quá trình vận chuyển và bảo hiểm hàng hoá đến các địa điểm phân phối.
Để có thể triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại kể trên, các doanh nghiệp may Việt Nam cần phải liên kết với nhau về nhân lực và tài chính, với trung tâm là Hiệp hội Dệt - May Việt Nam. Mục tiêu trước mắt là tham gia các hội chợ thương mại quốc tế để giới thiệu các thương hiệu doanh nghiệp có tiếng, như Việt Tiến, May 10, Nhà Bè… với các mẫu mã chất lượng cao đã từng gia công cho khách nước ngoài, nhằm tìm kiếm các nhà buôn trực tiếp mà không cần qua khâu môi giới. Còn các khâu phân phối khác, thì… tiếp cận dần.
Như vậy, với các khâu 1 và 4 trong chuỗi giá trị toàn cầu của ngành may xuất khẩu thì các doanh nghiệp may xuất khẩu của Việt Nam đều khó xâm nhập, hoặc chí ít, trong giai đoạn trước mắt là như vậy. Chỉ còn các khâu 2 và 3.
Ta hãy thử tìm hiểu khả năng của các doanh nghiệp may xuất khẩu Việt Nam trong các khâu này thế nào.
- Khâu thứ hai, phát triển sản xuất nguyên, phụ liệu: Đã từ lâu, tham vọng của nhiều người, là ngành Dệt - May Việt Nam có thể chủ động trong việc cung ứng nguồn nguyên liệu đầu vào, bao gồm các loại bông, xơ…
Những năm gần đây, công nghiệp lọc hoá dầu phát triển đã mở ra cho chúng ta một triển vọng mới trong việc tự túc các loại bông xơ nhân tạo. Tuy nhiên, việc phát triển bông tự nhiên, mặc dầu chúng ta đã có rất nhiều cố gắng trong nhiều năm (khoảng hơn 10 năm), nhưng kết quả còn rất khiêm tốn. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là sự khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên và kỹ thuật canh tác, mà trong tương lai gần (10-15 năm nữa), cũng chưa chắc đã khắc phục được.
Như vậy ở khâu này, chúng ta chỉ còn khả năng phát triển ngành Dệt và phụ liệu để đáp ứng nguyên, phụ liệu cho ngành May.
Chương trình phát triển vải cho ngành May cũng đã được đặt ra từ lâu và gần đây là chương trình liên kết với Đài Loan để sản xuất 1 tỷ mét vải cho ngành may xuất khẩu. Tuy nhiên, cũng vì nhiều lý do khác nhau, chương trình đã khởi động được gần 2 năm, nhưng không mấy tiến triển.
Trong chương trình này, khâu thiết kế mà ta vẫn thường nói tới, lại rất quan trọng. Nhưng là thiết kế vải, chứ không phải thiết kế thời trang cho may, như chúng ta thường nhắc tới. Nhiều nước cũng đã thành công khi đi theo hướng này, mà điển hình là Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc… và gần đây là Thái Lan. Ngoài việc thiết kế ra các loại vải đáp ứng các mẫu thời trang mới, các quốc gia này còn tiên phong trong việc sáng tạo ra các loại vải thân thiện với môi trường (vải chống bụi, diệt khuẩn), vải khoác ngoài nano để giữ ấm, vải có tính hút ẩm cao và mang mùi hương tự nhiên… và nhiều loại vải kỹ thuật khác… Hướng đi này đã giúp cho các quốc gia nói trên cạnh tranh được với các quốc gia khác trên thị trường quốc tế.
Đây có thể là một hướng phát triển cho ngành Dệt, nhằm nâng cao hiệu quả cho ngành May xuất khẩu. Vì vậy, những vướng mắc trong triển khai chương trình 1 tỷ mét vải cho xuất khẩu cần phải được nhanh chóng tháo gỡ.
Cùng với đó là phát triển các loại phụ liệu phục vụ cho ngành May. Chương trình phát triển phụ liệu cho ngành May trong những năm vừa qua đã thu được những kết quả khả quan. Tính đến nay, phụ liệu sản xuất trong nước đã đáp ứng được khoảng trên 50% nhu cầu may xuất khẩu.
Như vậy, phát triển vải và phụ liệu cho may xuất khẩu, mà hiện tại được gọi là phát triển công nghiệp hỗ trợ, là những hướng đi đúng mà ngành Dệt - May Việt Nam cần tiếp tục triển khai, nhằm tạo thêm giá trị gia tăng trong chuỗi giá trị toàn cầu mà mình đang tham gia.
- Khâu thứ ba, gia công sản phẩm: Kết quả khảo sát các doanh nghiệp may xuất khẩu cho thấy, khâu này chiếm 5% giá trị trong chuỗi giá trị toàn cầu và được phân chia thành các khoản mục như sau: Tiền lương (50%), BHXH (10%), Chi phí phụ liệu, bao bì (10%), Chi phí điện nước (8%), Khấu hao tài sản cố định (3%), Chi phí xuất, nhập khẩu (14-16%), lãi (3-5%).
Mặc dầu chỉ chiếm 5% trong chuỗi giá trị toàn cầu, nhưng tất cả những khoản mục này lại thuộc lĩnh vực quản trị doanh nghiệp, mà các doanh nghiệp may hoàn toàn có thể chủ động điều tiết.
Trong các khoản mục chi phí trên, các chi phí ngoài tiền lương, đặc biệt là các chi phí bao bì, chi phí điện nước, chi phí xuất nhập khẩu cần phải được tiết giảm đến mức tối đa.
Giải pháp cho vấn đề này là:
- Rà soát chặt chẽ các khâu mua vào (khuy, chỉ, hòm hộp, túi nilon, nhãn mác…) để có chi phí thấp nhất;
- Bố trí sản xuất, ánh sáng, thông gió… hợp lý để tiết kiệm điện, hơi trong sản xuất;
- Tối ưu hoá khâu vận chuyển (cảng nhập, xuất) và giảm thiểu các thủ tục hành chính (chi phí ngoài luồng) trong các khâu vận chuyển, xuất, nhập khẩu... Để thành công, các khâu này rất cần sự giúp đỡ của các ngành liên quan như công an giao thông, hải quan, cảng biển…
Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả của hoạt động gia công, rất cần các giải pháp có tính truyền thống, như nâng cao năng lực công nghệ, trình độ tổ chức sản xuất và chất lượng nguồn nhân lực để có năng suất lao động cao hơn, có khả năng làm được những sản phẩm khó với tỷ lệ phế phẩm thấp; và cao hơn nữa là làm chủ được kỹ thuật, để không mất chi phí thuê chuyên gia nước ngoài trong việc hướng dẫn kỹ thuật đối với các sản phẩm mới. Bên cạnh đó, hoạt động thi thợ giỏi cần phải trở thành thường xuyên và các điển hình cần phải được nhân rộng để giúp cho đa số người lao động có được kỹ năng và năng suất lao động cao hơn, từ đó góp phần tăng thu nhập và giảm thiểu chi phí cho doanh nghiệp.
Hơn thế nữa, nếu ngành Dệt có khả năng sản xuất được các loại vải đáp ứng yêu cầu của may xuất khẩu, như đã nói ở trên, mà lại có giá cả hợp lý, thì đó là những điều kiện rất tốt cho ngành may giảm chi phí nhập khẩu, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của mình.
Tóm lại, để nâng cao chất lượng hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp may, không nên đặt vấn đề phát triển toàn diện các khâu trong chuỗi giá trị toàn cầu như tư duy vẫn thường có trong nhiều năm qua, mà chỉ nên tập trung vào những khâu phù hợp với trình độ phát triển của chính các doanh nghiệp ngành may và tiềm lực kinh tế của đất nước. Đó là các khâu: phát triển dệt vải, phụ liệu và nâng cao hiệu quả quản trị doanh nghiệp.
Hy vọng, những ý kiến trên sẽ là những gợi mở cho các nhà hoạch định chính sách và các doanh nghiệp Dệt - May Việt Nam xác định đúng hướng phát triển của mình trong thời gian tới. Rất mong những người quan tâm cùng trao đổi.
(Nguồn Tạp chí Công Nghiệp)
Phong Cách Joe Fresh Style
Joe Fresh Style được đưa ra như một thương hiệu năng động, phong cách và giá cả phải chăng. Nhưng điều đáng nói nhất của nó có lẽ là khả năng tiết kiệm thời gian.
Burgess nói rằng với trang phục Joe Fresh Style được trưng bày trong những khoảng không gian nhiều người qua lại - có thể chỉ là ở một hoặc hai lối đi giữa những sản phẩm, tiệm bánh, cửa hàng thịt - Loblaw có thể tăng yếu tố thuận lợi cho khách hàng của mình, phần lớn là những người mẹ bận rộn.
"Chúng tôi thấy rằng cô ta trong cửa hàng và đang mua thức ăn và chúng tôi hiểu rằng cô chính là một trong những người chịu trách nhiệm về tiêu dùng cho gia đình. Chúng tôi đã tiết kiệm cho cô ấy một chuyến mua sắm quần áo. Chúng tôi có thể cho cô ấy lại thời gian của mình." Ông nói. "Dù đó là trang phục hoặc hàng hóa bình thường, chúng tôi đã đang tạo ra sự mua sắm mà khách hàng chỉ việc dừng lại một lần."
Cũng như trong cửa hàng tạp phẩm, Loblaw cập nhật dòng sản phẩm quần áo của mình thường xuyên, thường là đại tu hàng tháng, để bảo đảm rằng nó luôn mới mẻ.Và bởi vì sức mua có thể bị giảm vì nhiều cửa hàng khác, Loblaw luôn xác định giá cho dòng sản phẩm quần áo ở mức hợp lí thấp nhất. Không có sản phẩm đơn lẻ nào trị giá quá 37 đô Canada, và những sản phẩm khác như áo sơ mi và áo trùm đầu cho trẻ em có thể được mua với tiền lẻ trong ví bạn. "Có vị trí cho một thương hiệu với phong cách tươi trẻ, sử dụng tốt và chất lượng tuyệt với giá cả không thể rẻ hơn," Burgess nói.
Loblaw không phải nhà độc quyền trong dòng trang phục giá rẻ khi họ đang bị tuột dốc trên khắc đất nước hơn 1% mỗi năm trong 5 năm qua, theo như Cục số liệu Canada. Lực kéo xuống đến từ nhiều nguồn, bao gồm sự nổi tiếng ngày càng tăng của những cửa hàng giảm giá, nhưng yếu tố quan trọng nhất phải kể đến là những nhà sản xuất chuyển hướng phần lớn sản phẩm của mình sang những thị trường lao động giá rẻ nước ngoài, đặc biệt là Trung Quốc.
Thậm chí với giá rẻ, Joe Fresh Style đã trở thành một thương hiệu có doanh thu hàng năm lên đến 400 triệu đô la Canada, và Burgess nói công ty đang tự tin nó sẽ tăng lên 1 tỉ đô la Canada trong vài năm tới.
Thương hiệu Joe Fresh Style được ban cho một sự phát triển độc nhất trong mùa thu này khi Loblaw giới thiệu cửa hàng trưng bày "bất ngờ" để khai trương bộ sưu tập mới cho trẻ em. Được đặt trên một chiếc xe kéo 18 bánh có khả năng chở 40 khách một lần, nó được trang trí với áo thun cotton in bóng các con vật, quần jeans, và áo khoác nhung. Nó đi vòng quanh đất nước trong 1 năm, trải qua một vài ngày ở những khu vực xa hoa của các thành phố lớn.
Rob Warren, Giám đốc trung tâm Các doanh nghiệp Asper ở trường đại học Manitoba ở Winnipeg, nói rằng rõ ràng người mà Loblaw cho liên kết với Joe Fresh Style là Wal-Mart. Ông nói họ đang cố gắng tạo ra một đòn tấn công ưu tiên trước sự có mặt được cho là chắc chắn của những trung tâm Wal-Mart đồ sộ trên khắp Canada. Những khu vực khổng lồ này đã xẻ ra một phần đáng kể của thị trường tạp phẩm Mỹ cho nhà bán lẻ lớn nhất thế giới và đang trong tiến trình bắc tiến trên đường vĩ tuyến thứ 49.
Warrennói Wal-Mart là một thử thách trong nhiều lĩnh vực đối với Loblaw. Đầu tiên, sức mua của nó là độc nhất vô nhị, bảo đảm rằng nó sẽ không thua trên danh vị là người cung cấp sản phẩm giá rẻ.
Khi Wal-Mart đến Trung Quốc, một nhà sản xuất Trung Quốc nói rằng 'Tôi muốn vận chuyển một công-ten-nơ cho Canada và 10 công-ten-nơ cho Mỹ,' họ có thể có mức giá tốt hơn nhiều từ một nhà cung cấp nước ngoài hơn là Loblaw", ông nói.
Sức mạnh chính thứ hai của Wal-Mart là tiếng tăm trên thị trường
"Căn cứ vào khách hàng, Wal-Mart và Loblaw thực sự giống nhau nhưng điểm Wal-Mart hơn là những khách hàng của nó là những người mua thường xuyên và họ bị thuyết phục rằng Wal-Mart có mức giá tốt hơn. Loblaw đang phải chuẩn bị chống lại một con gorilla nặng 800 pound", ông nói.
Warrennói rằng Wal-Mart rốt cuộc có thể không phải là mối lo ngại lớn nhất của Loblaw về lâu dài. Anh ta đang chờ đợi American Apparel, một công ty được biết đến với lập trường chống bóc lột sức lao động nhân công và sự công bằng, các quảng cáo theo phong cách Polaroid, để thực sự khuấy động đất nước ở phía bắc biên giới này.
"Họ đang thực hiện những bước đúng đắn với tầng lớp khách hàng trẻ. Họ có trách nhiệm về môi trường và xã hội, các dòng trang phục đang trở nên thời trang và khác biệt. Điều này sẽ thu hút mọi người", ông nói.
(Nguồn bandchanel sưu tầm và lược dịch bởi Lanta Brand)
Xây Dựng Thương Hiệu Việt: Mấu Chốt Là Con Người
Thương hiệu Việt Nam đã bắt đầu được biết tới nhiều hơn trên thị trường thế giới vài năm gần đây. Có thể nói, tất cả các thương hiệu Việt Nam đều có cơ hội vươn tầm thế giới nếu được đầu tư đúng đắn.
Thiếu thương hiệu quốc gia
Cho tới nay chúng ta đã có một vài thương hiệu đứng được ở thị trường quốc tế như Café Trung Nguyên, các mặt hàng nông sản phẩm, may mặc… Tuy nhiên hầu hết chỉ là các mặt hàng phục vụ các cộng đồng Á đông ở phương Tây. Hầu như chưa có hoặc rất ít những thương hiệu Việt có thể cạnh tranh trên thương trường quốc tế và thoát khỏi cảnh làm gia công cho các tập đoàn đa quốc gia.
Việc các thương hiệu Việt vẫn còn “ẩn danh” trên thị trường quốc tế phụ thuộc vào nhiều lý do cả chủ quan và khách quan. Yếuu tố chủ quan nằm ở chỗ Việt Nam chưa có một định hướng phát triển chất lượng đúng đắn và có tầm nhìn mang tính thấu trí cho cả nước. Chất lượng của sản phẩm Việt còn nặng tính hình thức và hô hào hơn là thực sự đem lại giá trị lợi nhuận cụ thể cho doanh nghiệp và khách hàng.
Chính vì điều này mà khách hàng quốc tế không (hoặc chưa) tin tưởng vào thương hiệu chất lượng Việt Nam, khác hẳn khi nhắc đến "made in Japan" hay "made in Germany"...
Chúng ta không nên nhìn nhận rất thiển cận rằng thị trường quốc tế chỉ dành cho những giá trị chất lượng cao cấp. Ở các thị trường quốc tế cũng có rất nhiều cấp độ (Ví dụ của Trung Quốc: S1 là thị trường hàng xuất nhập khẩu cao cấp, S2: thị trường của các thương hiệu “copy” loại tốt, S3 & S4 là loại hàng rẻ tiền nội địa, v.v... Do vậy những thương hiệu Việt Nam ở thị trường S2, S3, S4 vẫn có thể xuất khẩu sang Trung Quốc, Châu Phi và các nước khác nếu có chiến lược cạnh tranh, quảng cáo và thương hiệu chất lượng tốt.
Chất lượng quyết định thương hiệu
Ở Việt Nam, chưa có một doanh nghiệp nào thật sự xây dựng một chiến lược chất lượng toàn diện. Sự hỗ trợ của các tổ chức nhà nước, Tổng cục Đo lường Chất lượng cũng rất hạn chế. Các giải thưởng chất lượng và phong trào chất lượng ngày càng xuống cấp và nặng về hô hào, hình thức do thiếu đi vào thực tế và đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Việt Nam đang áp dụng những quy trình quản lý ISO một cách không đúng mực, và chưa tận dụng được hết lợi thế mà hệ thống này có thể mang lại. Chừng nào các doanh nghiệp nhìn hệ thống ISO là một công cụ để giúp cho họ trong quy trình sản xuất và quản lý chất lượng và thực hiện quy trình ISO một cách nghiêm túc, lúc ấy chúng ta có thể mơ đến sự phát triển bền vững và thành công”.
Tuy nhiên trên tất cả yếu tố quan trọng quyết định thành công của một hệ thống quản lý lại là “con người”. Từng con người trong hệ thống quyết định sự thành bại của hệ thống đó. Chúng ta cần thay đổi khái niệm về khách hàng. Chúng ta thường quan niệm khách hàng là người cuối cùng nhận và sử dụng sản phẩm. Và người Việt Nam thì luôn chú trọng đến khâu kiểm tra chất lượng sau cùng để lọc lại sản phẩm hư trước khi gửi ra ngoài. Nhưng như thế là quá chậm vì khi đã thành sản phẩm thì chúng ta đã tốn bao nhiêu tiền của và nhân lực để làm ra những sản phẩm hư.
Cần quan niệm trong một hệ thống khách hàng là người tiếp theo nhận sản phẩm. Ví dụ: trong một dây chuyền sản xuất cô công nhân A đưa cho cô công nhân B một sản phẩm, thì cô công nhân B là khách hàng của cô công nhân A, nếu cô công nhân A luôn đưa cho cô công nhân B sản phẩm tốt thì sản phẩm cuối cùng khi đến tay người tiêu dùng sẽ luôn tốt.
Chất lượng của sản phẩm Việt còn nặng tính hình thức và hô hào hơn là đem lại giá trị lợi nhuận cụ thể cho khách hàng.(Theo TT Thương Mại)
Bàn Về Vấn Đề Thương Hiệu Dệt May Việt Nam
Thương hiệu là được coi là tài sản vô hình của doanh nghiệp, qua đó, khách hàng có thể cảm nhận, đánh giá và phân biệt giữa sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác.
Đối với người tiêu dùng, thương hiệu được coi là một sự đảm bảo về chất lượng từ phía nhà sản xuất và được định hình qua một quá trình trải nghiệm và đúc kết khi sử dụng sản phẩm, dịch vụ mang thương hiệu đó. Thương hiệu được coi như sự xác nhận của doanh nghiệp đối với khách hàng về nguồn gốc và giá trị của sản phẩm, dịch vụ cung cấp. Và do đó, thương hiệu giúp khách hàng giảm thiểu những rủi ro có thể phải gánh chịu khi mua sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp như những sai hỏng về tính năng, những nguy hại đối với sức khoẻ, sự lừa gạt về mặt giá trị, những rủi do về mặt xã hội và những phí tổn về mặt thời gian hao phí trong trường hợp sảm phẩm không đảm bảo.
Đối với doanh nghiệp, một thương hiệu mạnh là công cụ marketing hữu hiệu, đem lại cho doanh nghiệp nhiều lợi thế: giúp khách hàng nhận thức tốt hơn, đầy đủ hơn về sản phẩm dịch vụ, góp phần duy trì và giành được niềm tin của khách hàng, giúp doanh nghiệp thu được lợi nhuận hấp dẫn hơn, giảm thiểu ảnh hưởng của các đối thủ cạnh tranh, giảm thiểu tác động xấu trong điều kiện khủng hoảng thị trường và là sự đảm bảo tốt có lợi thế trong đàm phán, hợp tác kinh doanh. Những thương hiệu mạnh còn là cơ sở để phát triển các cơ hội quảng bá khác cũng như có giá trị thực buộc người sử dụng phải mua bản quyền và được bảo vệ về mặt pháp lí tránh khỏi mọi sự xâm hại.Các chuyên gia khẳng định, vấn đề thương hiệu mới được quan tâm chỉ trong vòng 7 năm trở lại đây trong các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp trong ngành dệt may nói riêng. Nhiều doanh nghiệp đã có nỗ lực đáng kể trong việc xây dựng thương hiệu sản phẩm và thương hiệu doanh nghiệp một họat động hết sức quan trọng đối với một ngành sản xuất hàng tiêu dùng thời trang như ngành dệt may.
Tuy nhiên, ngọai trừ một vài doanh nghiệp, hầu hết đều chưa có sự đầu tư tương xứng cho họat động này, thể hiện qua ngân sách chi cho họat động còn quá thấp và đặc biệt là chưa có một chiến lược dài hạn trong xây dựng thương hiệu. Qua khảo sát trên 40 doanh nghiệp đã có tiếng tại Việt Nam, nhóm khảo sát nhận thấy chỉ có 3 đơn vị là đã hình thành chiến lược xây dựng thương hiệu dài hạn, còn lại đa số các doanh nghiệp chỉ có những họat động quảng bá trước mắt. Đơn vị sử dụng nguồn lực xây dựng thương hiệu cao nhất chiếm tỉ trọng 4% trên doanh thu, còn lại hầu hết chỉ dành nguồn lực từ 0,1 đến 1% trên doanh thu hàng năm. Theo kinh nghiệm đối với ngành hàng thời trang trên thế giới thì thông thường nguồn lực quảng bá xây dựng và phát triển thương hiệu phải chiếm ít nhất 10% doanh thu.
Thương hiệu doanh nghiệp và thương hiệu sản phẩm:
Hai khái niệm này hiện còn được dùng khá lẫn lộn ở rất nhiều doanh nghiệp trong khi mục tiêu và đối tượng quảng bá thì hòan tòan khác nhau. Thương hiệu doanh nghiệp chủ yếu được dùng để quảng bá đến đối tượng là các nhà cung ứng và đặt hàng. Mục tiêu là xây dựng hình ảnh một đơn vị có khả năng quản lý tốt và tin cậy, đảm bảo giao hàng đúng chất lượng và tiến độ, có khả năng đáp ứng nhanh các yêu cầu của người đặt hàng. Còn thương hiệu sản phẩm thì chủ yếu được quảng bá đến người sử dụng cuối cùng. Mục tiêu là xây dựng hình ảnh một sản phẩm có chất lượng tốt và mang đến nhiều giá trị gia tăng cho người sử dụng. Khảo sát cho thấy rất ít doanh nghiệp xây dựng thương hiệu sản phẩm tách rời với thương hiệu doanh nghiệp. Chẳng hạn:
- Công ty Sơn Kim có 2 nhóm sản phẩm với thương hiệu riêng VERA và WOW,
- Công ty May Phương Đông có 3 thương hiệu sản phẩm: F HOUSE, FUX và FUX MEN,
- Công ty Dệt Việt Thắng có 2 thương hiệu sản phẩm: THREE CAMELS và VIỆT THẮNG,
- Công ty May Sài Gòn 2 có thương hiệu SANDING…
- Công ty May Sài Gòn 3 có thương hiệu KAP'S và EVENNA
Còn lại hầu hết các doanh nghiệp đều sử dụng tên công ty làm thương hiệu sản phẩm như: VIỆT TIẾN, THÀNH CÔNG, NHÀ BÈ, AN PHƯỚC, THÁI TUẤN, LEGAMEX, TRIUMP, SCAVI, ĐỨC GIANG, MAY 10, THĂNG LONG .v.v.
Tác động của thương hiệu đối với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
Có thể nói thương hiệu doanh nghiệp hay thương hiệu sản phẩm của doanh nghiệp ở một mức độ nào đó cũng góp phần tạo dựng năng lực cạnh tranh doanh nghiệp và ngược lại, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng được phản ánh phần nào qua sức mạnh của thương hiệu doanh nghiệp hoặc của thương hiệu sản phẩm của doanh nghiệp đó.Đối với thị trường xuất khẩu, chỉ có thương hiệu doanh nghiệp là đang có một số tác động nhất định đến khả năng cạnh tranh xuất khẩu của doanh nghiệp. Khỏang 30% số lượng doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may tại Việt Nam đã được nhiều nhà nhập khẩu biết đến tên doanh nghiệp với nhiều mức độ khác nhau thông qua quan hệ xuất nhập khẩu và đặt hàng thường xuyên, trong đó chỉ có một số rất ít doanh nghiệp Việt Nam được biết rộng rãi trong cộng đồng các nhà nhập khẩu lớn. Và bên cạnh đó, tên nhiều doanh nghiệp đầu tư nước ngòai tại Việt Nam cũng chỉ được các nhà nhập khẩu biết tên thông qua mối quan hệ với công ty mẹ của họ tại nước ngòai.
Đối với sản phẩm xuất khẩu, ngọai trừ một vài doanh nghiệp có sản phẩm xuất khẩu dưới thương hiệu riêng của mình (như Công ty Scavi đang xuất khẩu sản phẩm dưới tên CORENE SCAVI và MAILFIX SCAVI, Công ty May Phương Đông xuất khẩu sản phẩm dưới tên F HOUSE ..); còn lại hầu hết đều xuất khẩu sản phẩm dưới nhãn hiệu của nhà nhập khẩu nước ngòai. Có thể nói hoạt động quảng bá thương hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam ra thị trường nước ngòai gần như chưa có. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do các doanh nghiệp Việt Nam không đủ năng lực tài chính để quảng bá thương hiệu sản phẩm ra nước ngòai, trong khi các doanh nghiệp đầu tư nước ngòai tại Việt Nam thì không quan tâm xây dựng thương hiệu ở Việt Nam mà chủ yếu là sử dụng thương hiệu của công ty mẹ tại nước ngòai. Đối với thị trường nội địa khoảng 85 triệu dân, tuy vẫn còn tâm lý chuộng hàng ngọai, nhưng người tiêu dùng cũng đã từng bước quan tâm đến thương hiệu Việt Nam và đang ngày càng quan tâm nhiều hơn. Do vậy, nhiều doanh nghiệp dệt may đã có chiến lược đúng trong tiếp cận thị trường nội địa, xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm và thương hiệu doanh nghiệp tại thị trường đầy tiềm năng này.
Trong số gần 2000 doanh nghiệp dệt may, đã có khỏang 100 doanh nghiệp có thương hiệu được người tiêu dùng trong cả nước biết đến với những mức độ khác nhau. Các thương hiệu như sơ mi Việt Tiến, sơ mi May 10, veston Nhà Bè, áo thun Thành Công, áo thu đông Đông Xuân, vải KT Việt Thắng, vải gấm Thái Tuấn, Phước Thịnh, đồ lót Vera, áo thun Hoàng Tấn, Ninomax, PT2000, tơ tằm Khaisilk.v.v. đã được biết rộng rãi trong cả nước và liên tục được người tiêu dùng bình chọn danh hiệu Hàng Việt Nam chất lượng cao. Các thương hiệu này đã thực sự trở thành tài sản vô hình đáng kể của doanh nghiệp và đã góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Các chuyên gia nhận xét, tuy đã có bước tiến bộ trong việc phát triển thương hiệu trong những năm gần đây, nhưng tại thời điểm này khi Việt Nam đã gia nhập WTO, để có thể cạnh tranh được với sản phẩm của các đối thủ nặng ký như Trung Quốc, Ấn Độ…trên thị trường quốc tế cũng như ngay tại thị trường nội địa các doanh nghiệp Việt Nam cần coi trọng việc xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu./.(Vietnambranding - Theo VENO)
Tại Sao Bạn Cần Một Website Mang Tính Toàn Cầu
Tại sao bạn cần một website mang tính toàn cầu?
Một trang web toàn cầu là một trong những nền tảng to lớn nhất để thành công trong xu hướng toàn cầu hoá hiện nay. Những ai nhận ra hết những ảnh hưởng của nó và học cách tận dụng nó sẽ thu được những thành công hoặc ngược lại sẽ phải bỏ mạng trên thương trường Thủ tướng Ý, Willy Brandt, từng nói: “Nếu tôi là người bán, tôi sẽ nói bằng ngôn ngữ của bạn”. “Nếu tôi là người mua, dann müssen Sie in meiner Sprache sprechen (tạm dịch: bạn phải nói bằng ngôn ngữ của tôi"
Các cuộc nghiên cứu gần đây cho thấy rằng những người sử dụng Internet thường truy cập vào những trang web có phiên bản sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ của họ. Hãy thử tưởng tượng: bạn có đặt mua một máy tính Dell trên một trang web của Trung Quốc hay không? Nội dung của website được thể hiện bằng ngôn ngữ của địa phương mà nó hoạt động để có thể truyền tải sự trải nghiệm phức tạp tới người truy cập. Điều này không chỉ có tác dụng tích cực trong viện bán hàng mà nó còn đóng góp vào sự thành công của doanh nghiệp bằng nhiều cách. Có 5 nguyên tắc để tăng doanh thu và giảm chi phí khi sử dụng trang web có phiên bản sử dụng ngôn ngữ theo từng địa phương:
1. Website toàn cầu là lực lượng bán hàng hiệu quả nhất.
Điểm khác biệt chính giữa thương mại và thương mại điện tử là ở chỗ: thương mại bán hàng qua con người và thương mại điện tử bán hàng qua nội dung. Điều này được Gerry McGovern giải thích rõ trong cuốn Content Critical. Một trang web giàu thông tin, luôn được cập nhật sẽ giới thiệu sản phẩm và dịch vụ của bạn tới nhóm khách hàng tiềm năng trên toàn thế giới, bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của họ và đặc biệt là nó hoạt động ở mọi lúc mọi nơi.
2. Website toàn cầu giúp bạn tiết kiệm chi phí hoạt động.
Trong tất cả các cuốn sách về toàn cầu hoá, các trang web đều lấy nguyên tắc này làm nguyên tắc vàng. Bạn nên chuẩn bị để có thể tồn tại và phát triển trên thị trường mà bạn xắp sửa xâm nhập. Do sự khác biệt của thị trường đặc biệt là về ngôn ngữ, bạn phải thuê nhân viên sử dụng được tiếng bản xứ là một điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên bạn có thể tiết kiệm được rất nhiều chi phí khi bạn sử dụng trang web sử dụng ngôn ngữ địa phương.
3 Một trang web toàn cầu với nhiều thông tin địa phương sẽ tăng sự hiện diện của thương hiệu ở địa phương mà nó hoạt động.
Đa số các công cụ tìm kiếm phổ biến như Google, Yahoo đều dò tìm thông tin trên các trang web có sử dụng ngôn ngữ địa phương. Ví dụ, nếu doanh nghiệp của bạn đang thực hiện các hoạt động kinh doanh trên nước Đức. Không một nội dung nào trên trang web của doanh ghiệp được đăng tải bằng tiếng Đức. Cơ hội để bạn xuất hiện trên công cụ tìm kiếm Google.de là con số không. Những thông tin được dịch lại hay thông tin mới đều được trình bày bằng ngôn địa phương sao cho phù hợp với từ khoá (admission ticket) mà doanh nghiệp mua từ các công cụ tìm kiếm. Điều đó làm tăng cơ hội xuất hiện của doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp mà phương thức hoạt động phần lớn dựa vào internet hay nhnững doanh nghiệp có nhu cầu gia tăng độ nhận biết của thương hiệu tại thị trường địa phương, thì từ khoá có ý nghĩa rất lớn.
4. Web toàn cầu có thể cung cầp các khoá huấn luyện toàn cầu với các lợi ích mà phương pháp học thông thường không thể có được. Hoc tập là một nhu cầu thiết và không hề xa xỉ trong mội trường cạnh tranh hiện nay. Ngày càng nhiều doanh nghiệp tổ chức các khóa huấn luyện toàn cầu. tuy nhiên các phòng học thông thường ngày càng ít được sử dụng. Họ thực hiện các khoá huấn luyện tại chổ và nội dung của chương trình học thì luôn có sẵn trên trang web và bằng ngôn ngữ địa phương. Học viên thì có thể dễ dàng hiểu và sẵn sàng lĩnh hội
5. Trang web toàn cầu giúp xây dựng văn hoá tập đoàn. Nội dung của trang web nói lên tính đa dạng của tổ chức, ý thức hệ và môi trường làm việc. Một trang web toàn cầu là một trong những nền tảng to lớn nhất đề thành công trong xu hướng toàn cầu hoá hiện nay. Những ai nhận ra hết những ảnh hưởng của nó và học cách tận dụng nó sẽ thu được những thành công hoặc ngược lại sẽ phải bỏ bỏ mạng trên thương trường. (Vietnambranding - Theo marketingneu)
Yếu Thương Hiệu, Thiệt Xuất Khẩu
Các doanh nghiệp trong nước thường thiếu thông tin về thị trường thế giới và không chủ động trong tiếp cận đối tác.
Điều này đã khiến cho rất nhiều sản phẩm của ta khi xuất ra nước ngoài phải mang nhãn mác của các nhà phân phối lớn trên thế giới. PGS.TS Nguyễn Quốc Thịnh, Giám đốc Trung tâm Thương hiệu (Đại học Thương mại) đã có cuộc trao đổi thẳng thắn xung quanh vấn đề này. Ông nghĩ sao khi mà hiện nay có rất nhiều hàng hóa của Việt Nam được xuất khẩu nhưng tên tuổi của chúng ta lại không hề được gắn trên nhãn mác?
Không được tiếp cận trực tiếp với bạn hàng, không những chúng ta phải mất chi phí trung gian mà còn không có cơ hội thể hiện thương hiệu sản phẩm và thương hiệu doanh nghiệp trên thị trường, làm mất đi cơ hội được giới thiệu về sản phẩm và đất nước Việt Nam với thế giới. Người tiêu dùng sử dụng sản phẩm của chúng ta nhưng lại không biết được những sản phẩm đó được sản xuất hoặc được cung ứng từ Việt Nam.
Nhưng cũng có một thực tế là hiện nay, đại bộ phận các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ và vừa, thời gian tham gia hoạt động thương mại quốc tế chưa lâu, vì thế chưa có nhiều điều kiện đầu tư cho xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm và thương hiệu doanh nghiệp.
Nhiều doanh nghiệp còn khá dè dặt và thiếu kỹ năng trong tham gia thị trường quốc tế đã dẫn đến tỷ lệ hàng hoá phải xuất khẩu qua trung gian. Xuất khẩu trong tình trạng bị ép về giá, về chất lượng cũng như các điều kiện giao dịch khác còn khá cao.
Một khảo sát của chúng tôi gần đây đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản, thủ công mỹ nghệ cho thấy, có tới 80% số hợp đồng mà các doanh nghiệp Việt Nam đã ký kết với nước ngoài là do đối tác tự tìm đến với chúng ta.
Cũng có một sự thật đáng buồn là nhiều mặt hàng chúng ta xuất khẩu sang các nước lớn đã bị trả về do không đạt tiêu chuẩn chất lượng…
Thực tế này không chỉ xảy ra với riêng hàng hoá của Việt Nam mà theo tôi là tình trạng tương đối phổ biến đối với hàng hoá của nhiều nước đang phát triển khi mới tham gia thị trường. Nhưng thông qua những vụ việc này, chúng ta cũng cần phải nhận thức và định hướng lại sản xuất ngay từ khâu cung ứng nguyên liệu đầu vào cũng như toàn bộ chuỗi các hoạt động sản xuất, chế biến. Muốn hội nhập thành công và trở thành đối tác tin cậy của các bạn hàng quốc tế, chúng ta phải tuân thủ luật lệ của nước nhập khẩu cũng như các điều ước quốc tế.
Vô hình chung, những điều này đã làm cho hình ảnh sản phẩm - dịch vụ Việt Nam tương đối mờ nhạt trong con mắt của bè bạn quốc tế. Nhiều người mới chỉ biết đến Việt Nam qua món phở. Ông nghĩ sao về vấn đề này?
Dường như bạn đang muốn nói đến thương hiệu quốc gia? Thương hiệu quốc gia không phải là thương hiệu chung cho tất cả những sản phẩm của một quốc gia mà chính là hình ảnh Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế.
Thương hiệu quốc gia là hình ảnh tổng hợp của rất nhiều các hoạt động mà quốc gia đó đã tạo dựng được như thể chế chính trị, con người, hoạt động du lịch, sản xuất hàng hoá, chính sách đầu tư, các quan hệ quốc tế…
Để xây dựng thành công thương hiệu quốc gia, theo ông chúng ta cần có những bước đi như thế nào, và cần thời gian bao lâu?
Xây dựng thương hiệu quốc gia đòi hỏi sự nỗ lực của tất cả mọi ngành, mọi địa phương và của từng người dân, kể cả cộng đồng doanh nhân và người Việt đang sinh sống ở nước ngoài.
Để làm được điều này, chúng ta cần phải có tầm nhìn và chiến lược dài hạn, cần xác định các yếu tố mấu chốt để tạo dựng hình ảnh thương hiệu quốc gia. Trước mắt, bên cạnh các chiến lược phát triển du lịch, thu hút đầu tư, Việt Nam cần tập trung phát triển thương hiệu cho những mặt hàng xuất khẩu có nhiều tiềm năng như: cà phê, hạt tiêu, gạo, thuỷ sản,…
Đây chính là sự tiếp cận đầu tiên và có nhiều cơ hội gây ấn tượng đối với cộng đồng người tiêu dùng thế giới.
Ngoài ra, không ai có thể nói chính xác là cần bao nhiêu thời gian để xây dựng thành công thương hiệu quốc gia. Không ít quốc gia trên thế giới đã phải mất nhiều chục năm nỗ lực không ngừng để tạo dựng hình ảnh quốc gia của họ.
Việt Nam đi sau nhiều quốc gia trong xây dựng thương hiệu quốc gia, vì thế chúng ta có nhiều cơ hội học tập kinh nghiệm của họ. Nhưng để xây dựng thương hiệu quốc gia, chúng ta không nên đốt cháy giai đoạn. Quá trình này không thể tính bằng năm mà phải tính bằng thập kỷ và phải có những nỗ lực không ngừng của mọi thành phần trong xã hội. (Vietnambranding - Theo VnEconomy)
Vội Xây Dựng Thương Hiệu, Lợi Bất Cập Hại
Hiện nay, ở VN cụm từ thương hiệu đang là mốt thời thượng của nhiều doanh nghiệp, nhất là trong lĩnh vực xuất khẩu. Tuy nhiên, theo giới chuyên môn, xây dựng một thương hiệu để có chỗ đứng tại thị trường cạnh tranh cao và khó tính như châu Âu hay Mỹ là chuyện không đơn giản.
Nhiều ý kiến cho rằng, cần phải xây dựng thương hiệu cho một số mặt hàng xuất khẩu của VN từ gạo, cà phê, thủy hải sản cho đến giày dép đồ điện điện tử. Điều này xét về mặt hình thức không phải không có lý, bởi ai cũng biết thương hiệu có thể mang lại thị trường và thu nhập. Tuy nhiên, nếu xây dựng thương hiệu không tốt sẽ cho kết quả ngược lại.
Thương vụ VN tại Mỹ đã dẫn ra 2 mặt hàng cụ thể có kim ngạch xuất khẩu đứng thứ 2 và thứ 3 thị trường nước này là thủy sản đông lạnh và giày dép. Thủy sản đông lạnh và chế biến hiện chỉ đứng dệt may trong bảng xuất khẩu của VN vào Mỹ với tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2004 lên tới hơn 520 triệu USD. Nhưng xây dựng thương hiệu xuất khẩu cho mặt hàng này rất khó, bởi lẽ các đối tác của VN chủ yếu là các nhà nhập khẩu (bao gồm các nhà buôn và phân phối). Những đối tượng này chỉ quan tâm đến chất lượng hàng hóa, giá và thời gian giao hàng mà ít quan tâm đến thương hiệu của người xuất khẩu. Khách hàng của các nhà nhập khẩu tôm, khi đặt món ăn, thường chỉ biết món tôm nói chung chứ không cần biết sản phẩm này nhập từ đâu và thương hiệu nào. Mặt khác, một số nhà nhập khẩu đã có thương hiệu riêng được thị trường chấp nhận. Họ không muốn tốn tiền quảng bá cho một thương hiệu khác.
Tương tự, đối với mặt hàng giày dép nhập khẩu vào Mỹ, các chuyên gia cho rằng, doanh nghiệp xuất khẩu VN chưa cần phải vội xây thương hiệu. Xây dựng thương hiệu từ đầu ở nước ngoài khi chưa tồn tại thương hiệu trong nước là chuyện không tưởng. Thương hiệu là tài sản riêng của doanh nghiệp. Xét điều kiện hiện nay, có thể nói chưa có công ty giày dép 100% vốn VN nào đủ nguồn lực tài chính để làm việc này ở nước ngoài, nhất là tại Mỹ - nơi mà chi phí đắt ngoài sức tưởng tượng của doanh nghiệp VN.
Một khi chưa có khả năng thiết kế mẫu mã riêng của mình và chưa tiếp cận được với hệ thống bán lẻ tại thị trường này thì không thể nói đến xây dựng thương hiệu. Hơn nữa, các công ty nước ngoài đặt mua hoặc gia công giày dép ở VN hiện nay đều có thương hiệu riêng của mình, hoặc chắc chắn sẽ không mua sản phẩm mang thương hiệu của người khác. Ngay như Trung Quốc - cường quốc xuất khẩu giày dép vào Mỹ mỗi năm 10 tỷ USD - cũng không xuất khẩu được các sản phẩm mang thương hiệu của họ, mà phải dựa vào thương hiệu của nhà nhập khẩu, phân phối bản địa.
Các nhà phân tích cho rằng, thay vì đổ tiền vào xây dựng thương hiệu một cách vội vàng và lãng phí, các doanh nghiệp xuất khẩu VN nên tập trung tất cả các nguồn lực để nâng cao năng lực sản xuất, uy tín, ổn định chất lượng sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Thương hiệu phản ánh uy tín, chất lượng của sản phẩm. Thực tế đã chứng minh, thương hiệu sản phẩm dù nổi tiếng đến mấy nhưng chỉ 1 lần bị phát hiện không đảm bảo chất lượng, bị cấm nhập khẩu hoặc bị đưa ra công luận thì tất cả các cố gắng chi phí xây dựng thương hiệu có thể trở thành vô nghĩa. (Vietnambranding - Theo Thương Mại)
Nguyên Tắc "Less Is More" Của Thương Hiệu Cao Cấp
Một trong những đặc tính của con người là đố kỵ. Chúng ta cảm thấy ghen tỵ với thành công của người khác, bởi vì bản thân ta cũng muốn đạt được những thành công đó. Nhà văn kiêm nhà bình luận chính trị người Mỹ Gore Vidal đã từng viết:“Mỗi khi bạn bè thành công thì dường như một phần trong con người tôi đang chết đi”.
Vậy thương hiệu có liên quan gì đến tâm lý của con người, khi chúng ta đều khao khát giành được sự chú ý và lòng ngưỡng mộ của đám đông? Có lẽ chính những thương hiệu đỉnh cao là một trong những phương tiện có thể giúp mọi người thỏa mãn mong muốn này.
Những thương hiệu cao cấp (Very Important Brands- VIB) hướng đến việc tách biệt khách hàng của mình ra khỏi đám đông thông qua những biểu hiện về sự giàu có và địa vị. Nếu trước kia, những món ăn trong bữa tối có thể nói lên nhiều điều về bạn, thì ngày nay, khái niệm “con người bạn thể hiện qua những món hàng bạn mua” đã vào thay thế. Trong thời đại của quảng cáo, của xã hội tiêu dùng ngày nay, những gì bạn sở hữu sẽ nói lên đẳng cấp của bạn. Nếu một người đi xe hiệu BMW đời 7, sử dụng phục trang của hãng Louis Vuitton, đeo đồng hồ Thụy Sỹ có mác Rolex, thì dù cố tình hay vô ý họ cũng tự tách biệt mình ra khỏi đa số những người đi xe bình dân, mặc quần áo được sản xuất đại trà và xem giờ bằng những chiếc đồng hồ “không tên tuổi”.
Tuy không ai trong chúng ta muốn công khai thừa nhận, nhưng chúng ta đều rất khát khao được cảm thấy mình đứng cao hơn người khác. Những chuyên gia quảng cáo là người hiểu được điều này một cách thấu đáo nhất. Các thương hiệu được gán cho những từ như “sang trọng”, “quý phái”, “cao cấp” nhằm làm cho con người cảm thấy thỏa mãn hơn một chút về quyết định của họ khi bỏ tiền ra mua món hàng. Bằng cách đó, uy tín thương hiệu đã thoả mãn mong muốn của con người một cách tinh tế. Chúng không cạnh tranh bằng giá cả hay tiện ích, mà tác động vào tâm thức và cảm nhận của người tiêu dùng. Hẳn bạn cũng nhận thấy rằng thương hiệu VIB đang bán cho người tiêu dùng một giá trị xa xỉ nhưng vô hình. Thực ra, xe hơi BMW7 cũng chỉ mang lại những tiện nghi mà Volkswagen có, trong khi giá cả của dòng xe hạng doanh nhân kia lại đắt hơn gấp 3 lần. Các thương hiệu thời trang cao cấp cũng là một ví dụ điển hình cho nhận định trên, bởi hầu như chưa bao giờ người ta mua chiếc áo hiệu Chanel chỉ vì giá trị sử dụng thực sự của nó.
Trong cuốn sách nổi tiếng mang tựa đề The Blank Slate của mình, nhà tâm lý học Steven Pinker đã liên hệ ý thức về địa vị của con người với ý nghĩa hành vi của các loài vật, chẳng hạn như loài chim công. Ông viết: “Chỉ có những con công trống cường tráng nhất mới sở hữu bộ lông kềnh càng và đẹp mắt. Công mái sẽ chú ý vào mức độ sặc sỡ cũng như độ lớn chiếc đuôi của những anh chàng công trống để chọn ra kẻ xứng đáng nhất cho nó”. Tương tự như thế, con người dùng các thương hiệu tiếng tăm để trang trí cho “cái đuôi” rực rỡ của mình và dường như mức độ xa xỉ của các món đồ trang sức ấy luôn tỷ lệ thuận với sự sành điệu và giàu sang của chủ nhân.
Để có thể thu lợi nhuận nhiều hơn, các công ty phải tìm cách gia tăng doanh số và tìm kiếm thêm nhiều đối tượng khách hàng mới. Lúc này, các thương hiệu VIB sẽ phải đối mặt với một thách thức khác: thị trường càng được mở rộng, càng có thêm nhiều khách hàng thì lợi nhuận càng có nguy cơ sụt giảm và thương hiệu … mất giá. Vì sao vậy? Nguyên nhân ở chỗ nếu có quá nhiều người mua các sản phẩm sang trọng đó thì sẽ dẫn đến việc một lúc nào đó, nó sẽ trở thành thương hiệu đại chúng chứ không còn là thương hiệu VIB nữa và những khách hàng này cũng sẽ không tiếp tục mua. Bạn hãy thử tưởng tượng, khi mọi người đều đeo kính hiệu Gucci, dùng túi xách Christian Dior, mặc trang phục của Dolce & Gabbana hết thảy thì liệu những thương hiệu này có còn “làm mưa làm gió” được nhờ tính chất độc đáo, khác biệt của nó nữa không?
Như vậy, các thương hiệu VIB phải làm mọi cách để luôn giữ được đẳng cấp sang trọng của mình, đồng thời vẫn đảm bảo doanh thu và lợi nhuận. Tuy nhiên, có thương hiệu đã chấp nhận tự “hạ bậc” để sản phẩm của họ có được nhiều khách hàng hơn. Ví dụ hãng Mercedes-Benz đã chơi trò mạo hiểm này khi tung ra những mẫu xe giá rẻ hạng C, E với mục đích vươn tới thị trường bình dân rộng lớn.
Bên cạnh đó, các thương hiệu vẫn có thể áp dụng chiến thuật kép là đi 2 thế cờ cùng lúc. Chẳng hạn như trường hợp của Gucci. Hãng này luôn tuân thủ đúng quy luật chủ đạo của các thương hiệu hạng sang: giới hạn số lượng sản phẩm được cung cấp trên thị trường. Nước hoa mang nhãn hiệu Gucci có thể tìm thấy ở khắp mọi nơi và những nguời có thu nhập trung bình cũng có thể mua được sản phẩm của hãng này. Thế nhưng đặc biệt đối với quần áo và các phụ kiện mang nhãn mác của nó thì Gucci vẫn chỉ giới hạn cung cấp cho một số ít nhà phân phối và rất khắt khe trong việc chọn lựa các cửa hàng phân phối thời trang cao cấp.
Những nhãn hiệu biết phát huy thế mạnh của chiến lược “càng hiếm càng đắt” (less is more) phải kể đến Harley Davidson.
Harley Davidson có thể chưa được công nhận là thương hiệu sang trọng, song nó là một biểu tượng của sự chuẩn mực và chất lượng, có một địa vị nhất định trong nhận thức của người tiêu dùng. Điều này có được là nhờ Harley Davidson đã biết điều tiết lượng hàng bán ra sao cho người ta có cảm giác rằng không phải dễ dàng để mua được sản phẩm mang nhãn mác của nó.
Một thương hiệu muốn tạo cho người tiêu dùng cảm giác ước ao được sở hữu thì lượng cầu của nó bao giờ cũng phải lớn hơn cung. Thương hiệu được đánh giá là bậc thầy trong việc tạo nhu cầu đó chính là Rolex.
Người ta mang chiếc đồng hồ hiệu Rolex không phải vì nó báo giờ chính xác hơn các loại đồng hồ khác, mà là để khẳng định đẳng cấp và chứng minh sự giàu có của mình, bởi vì nếu so với đồng hồ Porsche, thì chất lượng 2 loại là tương đương.
Các cửa hàng bán lẻ đồng hồ Rolex có mặt khắp nơi trên thế giới, nhưng rồi công ty này đã quyết định cắt giảm số lượng các đại lý phân phối của họ chỉ trong vòng vài năm. Không giống như phần lớn các công ty khác luôn tìm cách mở rộng mạng lưới phân phối, Rolex đã chọn cho mình một lối đi riêng. Kết quả, chỉ còn lại một số rất ít các nhà bán lẻ được Rolex “chọn mặt gửi …đồng hồ” và cho phép phân phối loại hàng này. Nhu cầu mua đồng hồ Rolex ngay sau đó đã tăng vọt làm cho hình tượng và địa vị của thương hiệu Rolex càng vững chắc hơn.
Louis Vuitton là một ngoại lệ đã phá vỡ quy luật “càng hiếm càng đắt” của các nhãn hiệu cao cấp. Dù được sản xuất với số lượng lớn ở các nhà máy của mình trên toàn thế giới, Louis Vuitton vẫn giữ được nét quyến rũ của một nhãn hiệu đáng để người tiêu dùng phải thèm muốn. Đâu là bí mật của hãng này? Câu trả lời là khả năng kiểm soát sản phẩm. Louis Vuitton tự tiến hành tất cả các phân đoạn của quá trình làm ra sản phẩm, từ khâu thiết kế đến phân phối. Việc này không những giữ cho chất lượng luôn ổn định, mà còn đảm bảo thu được lợi nhuận nhiều hơn đối thủ cạnh tranh khoảng 45%. Khả năng tự kiểm soát đó cho phép Louis Vuitton đạt được vị trí mà nó mong muốn, giữ được uy tín của một thương hiệu xa xỉ trong tâm trí người tiêu dùng.
Nguyên tắc “càng hiếm càng đắt”, “thị trường càng rộng lớn thì lợi nhuận càng có nguy cơ sụt giảm” đối với các thương hiệu VIB xem ra vẫn có thể bị vô hiệu hóa bằng những thủ thuật khéo léo nhất trong hoạt động xây dựng thương hiệu. Nếu trong tâm trí của khách hàng, thương hiệu của bạn là “số 1” thì bạn hoàn toàn có thể bán sản phẩm của mình với giá cao, thậm chí cao hơn gấp nhiều lần sản phẩm của những thương hiệu khác cùng chủng loại, ví dụ như gói đồ ăn Happy Meal của McDonald’s. Bạn thấy đấy, tất cả chỉ là vấn đề nhận thức mà thôi. (Vietnambranding - Theo Bw Portal)
Cơ Hội Cho Những Thương Hiệu Nhỏ
Những công ty nhỏ có thể biến điểm yếu của những công ty lớn thành điểm mạnh của mình. Vị trí của các công ty nhỏ thường trái ngược với các công ty lớn. Những công ty nhỏ không có tổ chức cầu kỳ như những công ty lớn bởi thế khi quyết định chuyện gì thì rất nhanh và thường tiếp cận dễ dàng hơn với thị trường mình muốn Cơ hội nào cho những thương hiệu nhỏ có thể sinh lợi hay như cả việc sống còn chống lại những tập đoàn đại gia? Những thương hiệu nhỏ có nhiều cơ hội làm cho khách hàng tin tưởng và chọn lựa. Nói cho cùng thì việc xây dựng thương hiệu không phải là một thứ gì mới nhưng đó luôn là nhiệm vụ khó khăn đối với ai muốn nhảy vào kinh doanh và muốn tạo sự tin tưởng cho mọi người. Những công ty nhỏ cần hiểu điều này để có thể kiểm sóat và gia tăng uy tín của mình. Và đồng thời cũng để hiểu rõ hơn điểm mạnh và đểm yếu của những thương hiệu lớn.
Xây dựng được thương hiệu nếu chỉ thông qua quảng cáo, đó là tập hợp bao gồm kinh nghiệm và nhiều thứ khác. Kinh nghiệm đó chính là những điều mà doanh nghiệp gặp phải khi đang tiến hành xây dựng thương hiệu: đó là cách bán sản phẩm hay cách giao tiếp với khách, dịch vụ, giao tế xã hội, và những đóng góp cho xã hội…. Điều tối thiểu mỗi doanh nghiệp phải làm được đó là đáp ứng cho khách hang được những điều mà mình đã hứa. Một trong những vấn đề mà các công ty lớn gặp phải đó là làm sao làm đúng được như những gì đã quảng cáo. Điều đó thật khó cho các công ty lớn vì họ có kênh phân phối quá rộng, bộ máy quá lớn nên không thể quản lý tốt ở mọi khía cạnh từ sản phẩm đến dịch vụ khách hàng. Công ty máy tính Apple là một ví dụ cho chúng ta thấy họ cố gắng xây dựng thương hiệu của mình bằng cách thành lập những cửa hàng mang tên Apple chứ không phụ thuộc vào những kênh bán lẻ máy Macintosh nữa.
Mc Donalds cũng là một ví dụ tốt về thương hiệu đang cố gắng đẩy mạnh thương hiệu của mình bằng cách thâm nhập vào cửa hàng địa phương. Nhưng Mc Donald cũng là một ví dụ mô tả về sự khó khăn trong công tác quản lý. Đã bao nhiêu lần bạn cảm thấy mình đợi quá lâu để có thể mua được cái bánh hamburger hay không? Đã bao nhiêu lần bạn cảm thấy người bán đằng sau quầy giống như đang lạc vào nơi khác khi đang phục vụ bạn hay không? Tuy nhiên, Mc Donald xử lý những tình huống này rất khéo, nhưng nói gì thì nói đó cũng chỉ là sản phẩm đơn giản là bánh hamburger. Bởi thế thật khó khi quản lý các chi nhánh cho dù có chế độ đào tạo tốt như thế nào chăng nữa.
Những công ty nhỏ có thể biến điểm yếu của những công ty lớn thành điểm mạnh của mình. Vị trí của các công ty nhỏ thường trái ngược với các công ty lớn. Những công ty nhỏ không có tổ chức cầu kỳ như những công ty lớn bởi thế khi quyết định chuyện gì thì rất nhanh và thường tiếp cận dễ dàng hơn với thị trường mình muốn. Nhưng ngược lại các công ty nhỏ thì có ít tiền chi trả cho quảng cáo rầm rộ, bù lại vì có quy mô nhỏ bởi thế khả năng tồn tại để tạo ra những dịch vụ độc đáo dành cho khách hàng cao. Với quy mô nhỏ thì việc dễ quản lý hơn và đồng bộ hơn. Khả năng không phải nằm ở chỗ nghĩ cái gì đao to búa lớn mà nằm ở chỗ nghĩ xa hơn, cố gắng tận dụng những thứ mình có tạo ra dich vụ tốt nhất cho khách hàng. (Vietnambranding - Theo Lanta Brand)
Chính Sách Tuyển Dụng
Tuyển dụng và đào tạo
Sài Gòn3 nhận lao động từ nhiều nguồn khác nhau. Công ty sẽ kiểm tra trình độ tay nghề. Đối với những lao động chưa qua đào tạo, Công ty huấn luyện theo giáo trình với nội dung toàn diện, được biên soạn công phu và sát với thực tế sản xuất các đơn hàng quốc tế trong nhiều năm qua.
Mục tiêu chung sau giai đoạn đào tạo là công nhân có kỹ năng nhất định, đủ sức tự học từ thực tế lao động và đáp ứng được yêu cầu trên chuyền sản xuất.
Kinh nghiệm
Đa số các công nhân hiện có của SaiGon3 đều đã từng sản xuất những đơn hàng từ các đối tác nước ngoài như Uniqlo, DKNY, Columbia, JC Penney... Các đơn hàng luôn đặt ra những tiêu chuẩn cao và các sản phẩm do công nhân của SaiGon3 làm ra đã khiến đối tác hài lòng.
Tái đào tạo trong suốt quá trình
Các sản phẩm may mặc thường xuyên thay đổi, kéo theo đó là những áp lực về trình độ sản xuất. Chính vì thế đào tạo, huấn luyện cho người lao động tại SàiGòn3 là một quá trình không bao giờ chấm dứt.
Hàng năm, ngoài đào tạo cho công nhân mới, SàiGòn3 còn tự tổ chức hoặc liên kết với các đơn vị chuyên môn khác đào tạo nâng cao. Nội dung đào tạo gồm nghiệp vụ kiểm tra chất lượng sản phẩm, thiết kế, sơ đồ, quản trị, ngoại ngữ, bồi dưỡng chuyền trưởng, tổ trưởng...
SàiGòn3 luôn tìm kiếm những ứng viên đầy năng động và chuyên nghiệp để cùng phát triển với SàiGòn3. Sau đây là các vị trí tuyển dụng mới nhất:
Công Ty Cổ Phần May Sài Gòn 3- TP . HCM, Luôn Lấy Chăm Lo Làm Gốc
Lời mở đầu
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tế trong khu vực và thế giới, với phương châm “ đa dạng hoá thị trường, đa phương hoá mối quan hệ kinh tế” thông qua con đường xuất khẩu để nâng cao tính cạnh tranh và hiệu quả của sự phát triển. Mà hoạt động xuất khẩu lại đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nó tạo ra nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, góp phần phát triển kinh tế, đồng thời góp phần quan trọng trong việc tạo công ăn việc làm cho người lao độngluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Lao Động Học. Vì vậy, chúng ta cần hoạch định chiến lược, định hướng về xuất khẩu là phải lấy nhu cầu thị trường thế giới làm mục tiêu cho nền sản xuất trong nước sao cho thích ứng với đòi hỏi của thế giới và đặt nền kinh tế quốc gia trong lợi thế so sánh của quốc gia.
Một trong những thị trường có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển kinh tế nước ta nói riêng và của thế giới nói chung đó là Nhật Bản. Nhật Bản có mối quan hệ thương mạiluận văn - báo cáo - tiểu luận chuyên ngành Thương mại với hầu hết các nước trên thế giới, kim ngạch nhập khẩu của Nhật khoảng 550 tỷ USD/năm, xuất khẩu khoảng 670 tỷ USD/năm. Do đó hiện nay thị trường Nhật Bản là thị trường lớn và đầy tiềm năng đối với các doanh nghiệp Việt NamThư Viện Điện Tử Trực Tuyến Việt Nam. Mặt khác, Việt Nam cần đẩy mạnh xuất khẩu hơn nữa sang thị trường này vì không những nó thúc đẩy tiến trình hội nhập mà còn gia tăng sự phát triển và nâng cao tính cạnh tranh của hàng hoá nước ta.
Với những nguyên liệu sẵn có trong tự nhiên như : mây, tre, gỗ, cói, đất sét,…từ ngàn xưa ông cha ta đã tạo ra những sản phẩm thủ công độc đáo nhưng vẫn mang đậm tính dân tộcluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Dân Tộc Học, truyền thống. Vượt qua những khó khăn thử thách, những thăng trầm, những thay đổi của mỗi cộng đồng làng nghề, nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN) của nước ta vẫn được duy trì và ngày càng phát triển hơn. Hàng TCMN không những chỉ dừng lại ở nhu cầu phục vụ khách hàng trong nước mà còn vươn mình ra thị trường nước ngoài đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của toàn thế giới. Đặc biệt là Nhật Bản có nhu cầu rất lớn về mặt hàng này nên dần dần đã trở thành bạn hàng quen thuộc của ta.
Tuy nhiên muốn đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này, trong điều kiện mà nền kinh tế Việt Nam đang ở mức phát triển thấp, tính cạnh tranh kém thì cần phải : nghiên cứu kỹ thị trường NB, hiểu biết thấu đáo về đặc điểm thị trường; đánh giá được chính xác khả năng thực tế của việc xuất khẩu hàng Việt Nam trên thị trường Nhật ở một số mặt hàng chủ lực, đặc biệt là hàng TCMN; từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản.
Nhưng thực tế cho thấy, hoạt động xuất khẩu hàng TCMN có nhiều phức tạp và vấn đề cần phải quan tâm. Cho nên, bất kỳ một doanh nghiệp kinh doanhluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu - sách về Kinh Doanh quốc tếluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Quan Hệ Quốc Tế nào muốn tồn tại và phát triển đều phải có phương hướng và giải pháp nhằm duy trì và phát triển thị trường xuất khẩu của mình. Đây cũng chính là những khó khăn đang được đặt ra đối với HGTC.
Xuất phát từ thực tế trên, sau những năm trau dồi kiến thức và lý luận trong Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh, qua thời gian thực tập tại HGTC, đồng thời được sự giúp đỡ và hướng dẫn nhiệt tình của ThS. Trần Bích Ngọc, cùng Ban lãnh đạo và cán bộ công nhân viên của Trung tâm, em xin chọn đề tài:
“Thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang thị trường Nhật Bản của Trung tâm thương mại Hồ Gươm” làm luận văn tốt nghiệp.
Nhằm đánh giá khái quát những vấn đề thị trường xuất khẩu, xác định phương hướng mục tiêu trong thời gian tới, đồng thời kiến nghị những chính sáchThư viện Sách, Mỗi Ngày Một Cuốn Sách, giải pháp nhằm phát triển thị trường xuất khẩu hàng TCMN của HGTC trong thời gian tới.
Một số ý kiến về hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm rau quả ở Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Với ưu thế về điều kiện sinh thái và lao độngluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Lao Động Học, Việt NamThư Viện Điện Tử Trực Tuyến Việt Nam có tiềm năng lớn về sản xuất các loại rau quả mà thị trường thế giới có nhu cầu như chuối, vải, dứa, xoài, nhãn, chôm chôm… và một số loại rau vụ Đông có giá trị kinh tế cao như dưa chuột, khoai tây, cà chua, ngô rau… Những năm trước đây, khi còn thị trường Liên Xô và các nước trong khối SEV, năm cao nhất Việt Nam đã xuất khẩu được khối lượng rau quả tươi và rau quả chế biến trị giá 30 triệu Rúp chuyển nhượng. Từ khi đất nước chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, do thị trường truyền thống bị thu hẹp, thị trường mới còn đang trong giai đoạn thử nghiệm, chưa ổn định, hơn nữa chất lượng, số lượng, mẫu mã, giá cả sản phẩm đạt được còn rất thấp. Nếu so sánh kim ngạch xuất khẩu các loại rau quả của Việt Nam với mốt số nước Châu Á có tiềm năng vế sản xuất các loại rau quả như nước ta thì kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam còn rất thấp. Điều đó chứng tỏ tiềm năng lớn về xuất khẩu rau quả chưa được khai thác.
Bước đầu tìm hiểu nguyên nhân hạn chế khả năng xuất khẩu rau quả cho thấy ngoài lý do biến động thị trường xuất khẩu truyền thống thì một nguyên nhân quan trọng khác là chưa có những giải pháp hữu hiệu thúc đẩy xuất khẩu rau quả. Một thời gian dài, ở tầm vĩ môTài liệu - Bài Giảng - Giáo Trình - Đề Thi Môn Kinh tế vĩ mô, chúng ta còn coi nhẹ sản phẩm rau quả, chưa đánh giá đúng mức lợi thế so sánh của nó trong lĩnh vực xuất khẩu.
Cho nên, việc nghiên cứu những giải pháp và đề xuất các chính sáchThư viện Sách, Mỗi Ngày Một Cuốn Sách tác động thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thời gian tới là rất cấp thiết góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu rau quả nên em đã quyết định chọn đề tài:
Một số ý kiến về hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm rau quả ở Việt Nam
Đề tài này sẽ tập trung nghiên cứu, đề xuất các chính sách và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu một số sản phẩm rau quả ở Việt Nam từ nay tới năm 2010, trong đó tập trung vào một số loại quả như chuối, dứa, vải và rau vụ Đông.
Tin học hóa hệ thống thông tin kế toán chi tiết vật tư tại công ty cổ phần thiết bị vật tư địa chất
LỜI MỞ ĐẦU :
I. Lý do chọn đề tài:
Ngày nay, ứng dụng công nghệluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Công Nghệ thông tin vào quản lý là một yếu tố rất quan trọng trong chiến lược phát triển của một doanh nghiệp nói riêng cũng như của một quốc gia nói chung. Vì vậy, trên thế giới, các quốc gia dù phát triển hay đang phát triển đều cố gắng đưa tin họcluận văn - báo cáo - tiểu luận chuyên ngành Tin Học vào mọi mặt của đời sống xã hộiluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Xã hội. Tin học hầu như có mặt mọi lúc, mọi nơi, hỗ trợ cho các ngành, các đơn vị nhằm hiện đại hoá quy trình quản lý sản xuất kinh doanhluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu - sách về Kinh Doanh để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, tin học là một bộ phận không thể thiếu của các doanh nghiệp nếu muốn hoạt động có hiệu quả. Thực tế cho thấy, từ khi áp dụng các phần mềm tin học, hoạt động quản lý của doanh nghiệp ngày càng nhẹ nhàng, chính xác và hiệu quả đem lại thành công lớn cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, để có được một phần mềm phù hợp với công tác quản lý, phù hợp với hoạt động của mỗi doanh nghiệp lại không phải là một vấn đề đơn giản.
Trong thời gian thực tập tại Công ty cổ phần thiết bị vật tư địa chất em nhận thấy công tác hạch toán chi tiết vật tư tại công ty đã được tổ chức chặt chẽ, có sử dụng phần mềm kế toánluận văn - báo cáo - tiểu luận chuyên ngành Kế toán trong hạch toán, tuy nhiên vẫn có một số khâu phải làm thủ công, gây mất thời gian, và chưa đáp ứng được nhu cầu của công ty. Chính vì vậy em đã chọn đề tài : “ TIN HỌC HÓA HỆ THỐNG THÔNG TIN KẾ TOÁN CHI TIẾT VẬT TƯ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN THIẾT BỊ VẬT TƯ ĐỊA CHẤT ’’ , nhằm mục đích hoàn thiện quy trình tin học hóa trong công tác hạch toán vật tư tại công ty, giúp cho quá trình đó được thực hiện nhanh chóng, chính xác và đạt hiệu quả cao.
II. Mục đích và phạm vi của đề tài:
1. Mục đích:
-Hoàn thiện thêm hệ thống thông tin quản lý vật tư trong Công ty cổ phần thiết bị vật tư địa chất. Qua đó tạo ra một phần mềm trợ giúp quá trình quản lý và thực hiện công tác kế toán vật tư nhằm nâng cao chất lượng quản lý vật tư đáp ứng nhu cầu sản xuất cho doanh nghiệp.
-Được người sử dụng chấp nhận.
-Cung cấp thông tin một cách chính xác, kịp thời, đầy đủ, nhanh chóng, phục vụ tốt quá trình quản lý kho vật tư.
-Hỗ trợ cho nhân viên kế toán và thủ kho trong việc quản lý nguyên liệu, vật liệu của công ty.
-Giúp công ty nâng cao doanh thu, tiết kiệm chi phí nhờ giảm bớt đội ngũ nhân công, tiết kiệm chi phí do thất thoát, lãng phí nguyên liệu, vật liệu, giảm thiểu sai sót có thể xảy ra trong quá trình quản lý nguyên liệu, vật liệu.
2. Phạm vi đề tài:
Việc phân tích, thiết kế hệ thống nhằm phục vụ cho công tác quản lý vật tư tại công ty một cách tốt nhất cả về số lượng và giá trị, giúp cho kế toán vật tư và thủ kho kiểm soát được tình hình nhập – xuất – tồn kho vật tư, đưa ra được những báo cáo cần thiết cho các nhà quản lý công ty để có những biện pháp kịp thời nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động của Công ty trong hiện tại và tương lai. Nghiên cứu hệ thống kế toán chi tiết vật tư của Công ty, trên cơ sở đó sử dụng ngôn ngữluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Ngôn Ngữ Học lập trình Visual Foxpro để thiết kế được một chương trình quản lý chi tiết vật tư đáp ứng nhu cầu của Công ty.
III. Đối tượng nghiên cứu:
Ø Hệ thống quản lý vật tư tại công ty.
Ø Hệ thống kho của công ty.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
*Thu thập thông tin.
*Phương pháp phát triển hệ thống thông tin quản lý.
*Phương pháp phân tích hệ thống thông tin quản lý.
V. Công cụ sử dụng để nghiên cứu đề tài:
Hiện nay, có rất nhiều hệ quản trịluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Quản Trị Kinh Doanh cơ sở dữ liệu phục vụ cho quá trình nghiên cứu, phân tích, thiết kế hệ thống thông tin quản lý như: Visual FoxPro, Oracle, SQL-Server, Access… Trong đó thì hệ quản trị Visual FoxPro là hệ quản trị xuất hiện từ lâu, trải qua nhiều giai đoạn phát triển theo hướng tương thích đi lên. VFP bao gồm cả chức năng quản trị và chức năng ngôn ngữ lập trình. Hệ quản trị này được sử dụng rất phổ biến ở Việt NamThư Viện Điện Tử Trực Tuyến Việt Nam, do gần vỡi ngôn ngữ người dùng, dễ sử dụng, cài đặt, kết nối với công cụ khác…Trên thực tế có rất nhiều phần mềm được xây dựngluận văn - báo cáo - tiểu luận chuyên ngành Xây Dựng trên cở sở VFP. Chính vì vậy, em đã chọn Visual FoxPro làm công cụ thực hiện đề tài của mình.
VI.Kết cấu của đồ ánđồ án các môn, các ngành:
Tên đề tài : “ Tin học hóa hệ thống thông tin kế toán chi tiết vật tư tại công ty cổ phần thiết bị vật tư địa chất ’’.
Kết cấu đồ án : Gồm có 3 chương
Chương 1 : Nhận thức chung về phân tích thiết kế hệ thống thông tin kế toán chi tiết vật tư trong doanh nghiệp.
Chương 2 : Thực trạng công tác kế toán chi tiết vật tư tại công ty cổ phần thiết bị vật tư địa chất.
Chương 3 :Thiết kế ứng dụng của bài toán kế toán chi tiết vật tư tại công ty cổ phần thiết bị vật tư địa chất.
CHƯƠNG 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ PHÂN TÍCH VÀ THIẾT KẾ HỆ THỐNG THÔNG TIN VÀ CÔNG TÁC KẾ TOÁN CHI TIẾT VẬT TƯ TRONG DOANH NGHIỆP.
1.1.Nhận thức chung về hệ thống thông tin:
1.1.1.Một số khái niệm cơ bản:
- Hệ thống : Là tập hợp các phần tử có các mối quan hệ với nhau và cùng hoạt động hướng tới một mục đích chung
- Dữ liệu ( Data ) : Là những mô tả về sự vật ,con người và sự kiện trong thế giới mà chúng ta gặp bằng nhiều cách thể hiện khác nhau ,như bằng ký tự, chữ viết, biểu tượng, hình ảnh, âm thanh, tiếng nói…
- Thông tin (Information ) : Là dữ liệu được đặt vào một ngữ cảnh với một hình thức thích hợp và có lợi cho người sử dụng cuối cùng.
- Các hoạt động thông tin ( Information activities ) : Là các hoạt động xảy ra trong một HTTT, bao gồm việc nắm bắt, xử lý, phân phối, lưu trữ, trình diễn dữ liệu và kiểm tra các hoạt động trong HTTT.
- Xử lý ( Processing ) : xử lý dữ liệu được hiểu là các hoạt động tác động lên dữ liệu như : tính toán, so sánh, sắp xếp, phân loại, tổng hợp… làm cho nó thay đổi về nội dung, vị trí hay cách thể hiện.
- Giao diện : Là chỗ mà tại đó hệ thống trao đổi dữ liệu với hệ thống khác hay môi trườngluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Môi Trường.
- Môi trường : Là phần của thế giới không thuộc hệ thống mà có tương tác với hệ thống qua các giao diện của nó. .
Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục hải quan điện tử tại chi cục hải quan gia thuỵ
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỦ TỤC HẢI QUAN ĐIỆN TỬ VÀ THỦ TỤC HẢI QUAN ĐIỆN TỬ ĐỐI VỚI HÀNG KINH DOANHluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu - sách về Kinh Doanh
1.1..Khái niệm thủ ,đặc điểm thủ tục hải quan điện tử
Theo Công ước Kyoto về đơng giản hóa và hài hóa thủ tục hải quan ( Công ước Kyoto sửa đổi ): Thủ tục hải quan là tất cả các hoạt động tác nghiệp mà bên liên quan và Hải quan phải thực hiện nhằm bảo đảm đảm tuân thủ Luậtluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Luật Hải quan.
Theo luật Hải quan Việt NamThư Viện Điện Tử Trực Tuyến Việt Nam “ Thủ tục hải quan là các công việc mà người khai hải quan và công chức hải quan phải thực hiện theo quy định của pháp luật đối với hàng hóa ,phương tiện vận tải “.
Trong xu thế hội nhập hiện nay thì Việt Nam đang phải đối pho với những thách thức ,và những cơ hội mới cho chúng ta vì vậy hàng hóa ,phương tiện vận tải ,hành khách xuât cảnh,nhập cảnh ngày càng nhiều nên việc làm thủ tục hải quan sẽ tăng lên,mà với hiện tại việc thực hiện thủ tục hải quan truyền thống không thể đáp ứng được nhu cầu hiện nay.Từ đó việc thay đổi từ thủ tục hải quan truyền thống sang thủ tục hải quan điện tử.Nhưng việc đòi hỏi chuyển đổi đó phải phù thuộc vào tình hình công nghệluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Công Nghệ thông tin hiện nay.Qua mấy năm gần đây trinh độ công nghệ thông tin của nước ta ngày càng phát triển.Nên việc thay đổi phương thức làm việc là tất yếu trong tất cả các ngành và không ngoại trừ trong ngành hải quan .
Thủ tục hải quan điện tử là thủ tục hải được hải quan được thực hiện bằng các thông điệp dữ liệu điện tử thông qua hệ thống xữ lý dữ liệu điện tử của cơ quan hải quan theo quy định của pháp luật.
Trong khái niệm trên thì thông điệp dữ liệu hải quan điện tử là những thông tin được tạo ra ,gửi đi ,được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử để thực hiện thủ tục hải quan điện tử.
Hệ thống dữ liệu điện tử hải quan là hệ thống thông tin do Tổng cục Hải quan quản lý tập trung ,thống nhất ,được sử dụng để tiếp nhận ,lưu trữ ,xử lý và phản hồi các thông điệp dữ liệu điện tử hải quan để thực hiện thủ tục hải quan điện tử
Chứng từ điện tử” là thông tin được tạo ra, gửi đi, nhận và lưu trữ bằng phương tiện điện tử trong hoạt động tài chínhluận văn - báo cáo - tiểu luận chuyên ngành Tài chính. Chứng từ điện tử là một hình thức của thông điệp dữ liệu, bao gồm: chứng từ kế toánluận văn - báo cáo - tiểu luận chuyên ngành Kế toán điện tử; chứng từ thu, chi ngân sáchThư viện Sách, Mỗi Ngày Một Cuốn Sách điện tử; thông tin khai và thực hiện thủ tục hải quan điện tử; thông tin khai và thực hiện thủ tục thuếluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Tài Chính Thuế điện tử; chứng từ giao dịch chứng khoánluận văn - báo cáo - tiểu luận chuyên ngành Chứng Khoán điện tử; báo cáo tài chính điện tử; báo cáo quyết toán điện tử và các loại chứng từ điện tử khác phù hợp với từng loại giao dịch theo quy định của pháp luật.
Hệ thống khai hải quan điện tử: Là hệ thống thông tin do người khai hải quan quản lý, sử dụng để thực hiện thủ tục hải quan điện tử.
Quy trình thủ tục hải quan điện tử có thể tóm tắt như sau
- Người khai hải quan được khai và truyền số liệu khai hải quan bằng phương tiện điện tử đến cơ quan hải quan thông qua tổ chức truyền nhận chứng từ điện tử (người khai hải quan không phải đến cơ quan hải quan để nộp đăng ký tờ khai như quy trình thủ tục hải quan hiện hành )
- Cơ quan hải quan xử lý phân luồng hàng hóa và quyết định hình thức kiểm tra thông qua hệ thống xử lý dữ liệu điện tử tự động trên cơ sở phân tích ,xử lý thông tin
- Người khai hải quan tự khai ,tự nộp thuế và các khoản thu khác ,chịu trách nhiệm về nội dung khai hải quan của mình
- Cơ quan hải quan quyết định thông quan hàng hóa dựa trên kết quả xử lý dữ liệu trên hệ thống công nghệ thông tin.
● Đặc điểm thủ tục hải quan điện tử :
Người khai hải quan và công chức hải quan không phải tiếp xúc trực tiếp khi thực hiện thủ tục hải mà chỉ cần thông qua hình thức truyền dữ liệu điện tử.
- Khi thực hiện thủ tục hải quan điện tử , người khai hải quan sử dụng chữ ký số và phải có trách nhiệm bảo mật tài khoản sử dụng khi giao dịch với cơ quan hải quan thông qua Hệ thống khai hải quan điện tử hoặc hệ thống khai hải quan điện tử dự phòng
- Các chứng từ trong bộ sơ hải quan có thể hiện ở dạng văn bảnThư viện các mẫu văn bản giấy hoăc dạng điện tử chính chứng từ đó thể hiện ở dạng văn bản giấy ,chứng từ điện tử có thể được chuyên đổi từ chứng từ ở dạng văn bản giấy ,chứng từ điện tử có thể được chuyển đổi từ chứng từ đó thể hiện ở dạng văn bản giấy ,chứng từ điện tử có thể chuyển đổi từ chứng từ ở dạng văn bản nếu đảm bảo các điều kiện sau: phản ánh toàn vẹn nội dung của chứng tờ giấy ; có xác nhận trên chứng từ giấy “ ĐÃ CHUYỂN ĐỔI SANG DẠNG ĐIỆN TỬ “ theo ‘ mẫu dấu chứng nhận đã chuyển đổi sang dạng điện tử “ về việc đã được chuyển đổi từ chứng từ giấy sang chứng từ điện tử ,có chữ ký và họ tên của người khai hải quan .Chứng từ giấy đã được chuyển đổi sang chứng từ điện tử phải được kí nhận bởi người đại diện hợp pháp theo quy định của pháp luật.
- Hệ thống xử lý dữ liệu điện tử tiếp nhận tờ khai hải quan điện được thực hiện lien tục vào bất cứ thời điểm nào ,tuy nhiên việc thực hiện thủ tục hải quan ngoài goìư hành chínhluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Hành Chính do Chi cục trưởng Chi cục hải quan nơi thực hiện thủ tục hải quan điện tử xem xét ,quyết định trên cơ sở đăng ký truớc của người khai hải quan .
Thực trạng nhập khẩu hàng hóa tại công ty cung ứng nhân lực quốc tế và th¬ơng mại (sona)
LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ năm 1996, Đảng và nhà Nớc bắt đầu thực hiện việc chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trờng, dới sự quản lý của Nhà Nớc và theo định hớng XHCN. Với cơ chế mới này, nền kinh tế của ta không còn là nền kinh tế tập thể, hợp tác nữa mà là nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế cùng tồn tại song song, cùng bổ xung hỗ trợ cho nhau để cùng tiến lên con đờng CNXH. Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế là một môi trờng kinh doanhluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu - sách về Kinh Doanh hoàn toàn mới mẻ đầy những thuận lợi, những cơ hội và những thách thức đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh nói chung và với công ty nói riêng và cả với các doanh nghiệp nớc ngoài. Những bất cập, những hạn chế còn tồn tại đan xen với những quy luậtluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Luật những quy định mới, khiến các doanh nghiệp phải lao đao, vất vả trong qua trình tồn tại và phát triển của mình trong môi trờng kinh doanh khốc nghiệt đó. Bên cạnh đó cũng có nhiều doanh nghiệp tự mình tìm ra những cơ hội để tự khẳng định mình trong nền kinh tế thị trờng nh hiện nay.
Trớc sự thay đổi đó, công ty cung ứng nhân lực quốc tếluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Quan Hệ Quốc Tế và thơng mại(SONA), một công ty đợc thành lập từ rất lâu, cũng đã phải chải qua nhiều sóng gió để tồn tại và phát triển. Sự phát triển lớn mạnh với uy tín, lợi thế của mình trên thơng trờng và đặc biệt là hoạt động kinh doanh thơng mại đợc ra đời từ năm 1997 đã là một minh chứng cụ thể về sự thành công trên con đờng phát triển của công ty, mặc dù chỉ mới ra đời cha lâu nhng hoạt động kinh doanh thơng mại của công ty cũng đã gặt hái đợc những thành công đáng kể trong hoạt động thơng mại của mình. Để có đợc những thành công bớc đầu nh vậy là cả một sự lỗ lực của ban quản trịluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Quản Trị Kinh Doanh, toàn thể nhân viên của công ty. Công ty đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ mà Đảng và Nhà Nớc, cục quản lý lao độngluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Lao Động Học với nớc ngoài, BLĐTBXH giao cho. Nghĩa vụ nộp ngân sáchThư viện Sách, Mỗi Ngày Một Cuốn Sách cho nhà nớc luôn đợc thực hiện đầy đủ, hơn nữa đời sống của CBCNV ổn định và ngày càng đợc nâng cao
CHƠNG I. CƠ SỬ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÁC DOANH NGHIỆP THƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN.
I. Khái niệm, vai trò, hình thức hoạt động nhập khẩu trong nền kinh tế quốc dân.
Khái niệm.
Từ lâu nay nhập khẩu hàng hóa đã trở thành một việc làm quan trọng trong hoạt động kinh doanh thơng mại. Đó chính là việc trao đổi hàng hóa từ các tôt chức kinh tế, các công ty có pháp nhân tại nớc sở tại và việc tiến hành tiêu thụ hàng hóa nhập khẩu trong thị trờng nội địa hoặc tái – xuất khẩu với mục đích cuối cùng là thu lợi nhuận và nối liền sản xuất vầ tiêu thụ giữa các quốc gia.
2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu đối với nền kinh tế quốc dân.
Nhập khẩu là một hoạt động hữu cơ của hoạt động ngoại thơng nó tác động trực tiếp tới sản xuất và đời sống của mỗi quốc gia. Nhập khẩu thể hiện mức độ gắn bó phụ thuộc lẫn nhau giữa nề kinh tế của mỗi quốc gia với tổng thể của nền kinh tế thế giới. Nó tác động tích cực đến sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng thế mạnh của nền kinh tế mỗi quốc gia về sức lao động, vốn, tài nguyên, và khoa học công nghệluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Công Nghệ. Trong xu thế vận động của nền kinh tế thế giới nh hiện nay, Việt NamThư Viện Điện Tử Trực Tuyến Việt Nam cũng nh hầu hết các quốc gia khác trên thế giới đã và đang không ngừng mở rộng quan hệ buôn bán quốc tế, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn mạnh, cùng với sợ hình thành các trung tâm thơng mại, khối mậu dịch tự do đã chứng tỏ việc lu chuyển hàng hóa giữa các quốc gia không ngừng đợc cải thiện và nâng cao. lúc này vai trò của hoạt động nhập khẩu có ý nghĩa rất lớn đối với việc ổn định và phát triển kinh tế quốc gia nói riêng và phát triển kinh tế thế giới nói chung.
Lý do là:
- Nhập khẩu là cơ sở nhằm bổ sung hàng hóa trong nớc không sản xuất đợc hoặc sản xuất không đủ đáp ứng nhu cầu, hơn nữa nó cũng cho phép đa dạng hóa các chủng loại hàng hóa, chất lợng cho phép thảo mãn nhu cầu trong nớc.
- Nhập khẩu còn khai thác đợc lợi thế so sánh tạo ra đợc sự phát triển vợt bậc trong sản xuất xã hộiluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Xã hội, tiết kiệm chi phí, thời gian tạo ra sự phát triển đồng đều về trình độ xã hội, phá bỏ tình trạng độc quyền trong sản xuất kinh doanh trong nớc, tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế có cơ hội tham gia trên thị trờng quốc tế.
- Nhập khẩu tạo ra sự liên kết trong nớc với nền kinh tế thế giới, tạo điều kiện cho sự phát triển, phân công lao động và hợp tác quốc tế, khai thác đợc lợi thế so sánh trên cơ sở chuyên môn hóa sản xuất.
- Nhập khẩu đem lại cho nền kinh tế trang thiết bị hiện đại, công nghệ sản xuất tiên tiến, tăng cờng chuyển giao công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng CNH – HĐH đất nớc.
- Nhập khẩu có vai trò tích cực đến việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo điều kiện đầu vào cho sản xuất hàng hóa xuất khẩu, tạomt thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng hóa trong nớc ra nớc ngoài, đặc biệt là nớc xuất khẩu.
Ngoài ra nhập khẩu còn góp phần tích cực vào việc thúc đẩy sản xuất nhằm góp phần nâng cao chất lợng sản xuất hàng hóa xuất khẩu, tạo điều kiện cho hàng hóa của một nớc đạt đợc tiêu chuẩn của thế giới quy định.
Tuy nhiên, liệu có thể tận dụng hết đợc lợi thế của hoạt động nhập khẩu còn phải xem chính sách, đờng lối phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Đối với nớc ta, trớc đây quan hệ kinh tế quốc tế chỉ thu hẹp trong một số nớc XHCN, nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, chỉ mang tính tự cung tự cấp, hàng hóa chủ yếu nhập khẩu thông qua các khoản viện trợ và mua bán theo nghị định th đã là mất đi tính đúng đắn của hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp Nhà nớc đđộc quyền. Do vậy hoạt động nhập khẩu rất trì trệ và không đáp ứng đợc nhu cầu về hàng hóa trong nớc.
Nhận đợc tầm quan trọng đó, Đại hội Đảng toàn quốc VI đã là bớc ngoặc mới, một động lực mới đa đất nớc ta đi vào con đờng cải cách triệt để, nhằm thoát khỏi nền kinh tế đó chính là một bớc tiến vĩ đại giúp nền kinh tế nớc ta hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tạo ra một thị trờng nội địa đầy sôi động, hàng hóa phong phú, phát huy mạnh tính cạnh tranh. Trên thực tế đã chứng minh đợc sự năng động của kinh tế thị trờng cũng nh khẳng định rõ vai trò hoạt động nhập khẩu trong nền kinh tế mới.
Nhập khẩu đã góp phần quan trọng vào việc phát triển sản xuất chuyển dich cơ cấu kinh tế theo hớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc, với định hớng phát triển nền kinh tế, nhập khẩu luôn là giải pháp có tầm cỡ chiến lợc, nhằm phục vụ cho việc phát triển nền kinh tế quốc dân. Chính sách nhập khẩu phải luôn tranh thủ nguồn vốn, khoa học công nghệ tiên tiến một cách có hiệu quả nhất cũng nh bồi dỡng đọi ngũ cán bộ kỹ thuậtluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Kỹ thuật và quản lý nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hóa của nớc ta một cách phát triển với mục đích vừa sản xuất vừa tiêu dùng trong nớc, vừa xuất khẩu thu ngoại tệ, tăng tích luỹ cho đất nớc. Nhờ có hoạt động nhập khẩu mà các doanh nghiệp trong nớc có cơ hội tham gia cạnh tranh trên thị trờng quốc tế, khi đó buộc các doanh nghiệp phải hình thành một chiến lợc kinh doanh riêng nhng phải phù hợp với cơ chế thị trờng, đồng thời phải nâng cao năng lực quản lý sao cho phù hợp với xu thế chung nhằm tạo ra nhiều cơ hội mới thồn qua quan hệ với ca đối tác nớc ngoài trên cơ sở các bên cùng hởng lợi.
Nh vậy, để phát huy hết đợc vai trò của hoạt động nhập khẩu là một việc làm không hề đơn giản, nó đòi hỏi mỗi quốc gia nó chung và các doanh nghiệp nói riêng phải có sự lựa xhọn đúng đắn các hình thức nhập khẩu để xác định rõ các nhân tố ảnh hởng đến hoạt động này, nh thế thì với có thể khai thác đợc tối đa lợi thế so sánh.
3. Các hình thức nhập khẩu.
Trong thực tế hoạt động ngoại thơng có nhiều hình thức nhập khẩu, nhng tuỳ theo đặc trng của mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp mà cần phải lựa chọn hình thức nào cho phù hợp nhất. Cũng do tác động của nhiều nhân tố trong nền kinh tế cùng với sự sáng tạo và năng nổ của các nhà kinh doanh đã tạo ra sự đa dạng của các hình thức nhập khẩu chứ không chỉ bó hẹp trong hình thức nhập khẩu trực tiếp.
- Nhập khẩu uỷ thác.
Trong hoạt động ngoại thơng không phải doanh nghiệp nào cũng có thể tham gia vào hoạt động nhập khẩu trực tiếp. Do đó khi một doanh nghiệp có vốn bằng ngoại tệ, lại có nhu cầu nhập khẩu trực tiếp thì họ phải lảm nh thế nào? Từ đó đã hình thành nên nhu cầu nhập khẩu uỷ thác, đó là doanh nghiệp này uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thơng tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên nhân uỷ thác sẽ tiến hành đàm phán với bên đối tác nớc ngoài để làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa theo yêu cầu của bên uỷ thác và lợi nhuận nhận đợc gọi là phí uỷ thác.
Hình thức này có đặc điểm sau:
+ Doanh nghiệp trực tiếp nhập khẩu không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị trờng tiêu thụ do không phải tiêu thụ hàng hóa nhập khẩu, mà chỉ đứng ra làm đại diện ch bên uỷ thác giao dịch với bên nớc ngoài, ký kết hợp đồng, làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa, cũng nh thay mặt cho bên uỷ thác khiếu nại bồi thờng với bên nớc ngoài khi có tổn thất.
+ Các doanh nghiệp đợc uỷ thác nhập khẩu chỉ đợc tính kim ngạch nhập khẩu chứ không đợc tính doanh số, doanh thu, bên cạnh đó các doanh nghiệp nhập khẩu phải lập hai hợp đồng. Một hợp đồng mua bán hàng hóa với nớc ngoài
.
NT372 - Hiện trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu sức lao động tại Công ty Phát triển Công nghệ, Tin học và Cung ứng nhân lực
Lời mở đầu
*********************
Như chúng ta đều biết, với sự phát triển của thế giới ngày nay, không một quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, phát triển hay đang phát triển lại có thể sống trong sự biệt lập với thế giới bên ngoài. Ngược lại, sự tuỳ thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng và tác động trực tiếp đến từng quốc gia, từng khu vực và toàn thế giới. Xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá trên tất cả các lĩnh vực, theo các cung bậc khác nhau và trên những ngả đường khác nhau là tất yếu.
Với nước ta, trong giai đoạn đổi mới hiện nay khi mà Việt NamThư Viện Điện Tử Trực Tuyến Việt Nam đang thực hiện chính sáchThư viện Sách, Mỗi Ngày Một Cuốn Sách đối ngoại với phương châm là “bạn của tất cả các nước” và “mở cửa” nền kinh tế. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, sự giao lưu về chính trịluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành kinh tế chính trị – kinh tế – văn hoá - xã hộiluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Xã hội giữa nước ta với các nước trong khu vực nói riêng và các nước trên thế giới nói chung. Đất nước đang thực sự hoà nhập vào cộng đồng quốc tếluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Quan Hệ Quốc Tế bằng cách tham gia ngày càng sâu sắc vào quy trình phân công lao độngluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Lao Động Học quốc tế và quốc tế hoá đời sống xã hội.
Trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và kinh tế đối ngoại thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã xác định xuất khẩu sức lao động là một trong những hướng trọng tâm và được ưu tiên, tại Nghị quyết Đại hội VIII và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 của Đảng, trong đó có chủ trương “Đẩy mạnh xuất khẩu lao động”, phù hợp với sự phát triển trong nước và quốc tế. Công tác xuất khẩu lao động đã được thể chế hoá bằng Chỉ thị 41-CT/TW của Bộ Chính trị, Đề án xuất khẩu lao động trong thời kỳ 1998 – 2010 và Nghị định số 152/1999/NĐ-CP của Chính phủ.
Tăng cường xuất khẩu sức lao động không chỉ góp phần giải quyết những mục tiêu kinh tế – xã hội như giải quyết việc làm, nâng cao trình độ tay nghề và mức sống cho một bộ phận người lao động, đem lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, mà còn góp phần quan trọng vào việc tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế giữa Việt nam với các nước, củng cố và phát triển cộng đồng người Việt ở nước ngoài hướng về Tổ quốc.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, vấn đề việc làm đã và đang là một vấn đề nóng bỏng, tạo ra sức ép gay gắt, để lại những hậu quả kinh tế không nhỏ, từ năm 1980 đến nay, chúng ta đã tiến hành hoạt động xuất khẩu lao động, đưa người lao động Việt nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Đây là một hoạt động quan trọng trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại của nước ta.
Trong giai đoạn 1980-1990, Việt Nam đã đưa khoảng 300 ngìn lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài. Số lao động này chủ yếu đến làm việc ở Liên Xô (cũ) và các nước XHCN Đông Âu trước đây. Lao động ta cung ứng hoàn toàn do phía bạn bố trí sử dụng, tổ chức và chịu chi phí đào tạo.
Bước sang giai đoạn từ 1991 đến nay, việc xuất khẩu lao động đã có những thay đổi mới. Cơ chế đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở Nước ngoài theo quan hệ cung cầu và khả năng khai thác, mở rộng thị trường của các doanh nghiệp cung ứng lao động theo định hướng và quản lý của Nhà nước. Hiện nay đã có 40 nước và vùng lãnh thổ tiếp nhận lao động và chuyên gia Việt nam. Song để cạnh tranh được với thị trường xuất khẩu lao động trên thế giới hiện nay đòi hỏi chúng ta phải có nhận thức đúng đắn về thực trạng thị trường xuất khẩu lao động của nước ta hiện nay, đặc điểm của các thị trường nhập khẩu lao động cùng những giải pháp hữu hiệu và đồng bộ không những về phía nhà nước mà còn về phía các doanh nghiệp chuyên doanh xuất khẩu lao động.
Xuất phát từ những nhận thức trên, cộng với những kiến thức tôi đã học tập tại trường và là một cán bộ quản lý làm việc trong lĩnh vực xuất khẩu lao động tại Công ty Phát triển Công nghệluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Công Nghệ, Tin họcluận văn - báo cáo - tiểu luận chuyên ngành Tin Học và Cung ứng nhân lực, tôi đã lựa chọn đề tài “Hiện trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanhluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu - sách về Kinh Doanh xuất khẩu sức lao động tại Công ty Phát triển Công nghệ, Tin học và Cung ứng nhân lực.”
* Mục đích của đề tài:
Nhìn nhận hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam trong thời gian qua nói chung và tại Công ty Phát triển Công nghệ, Tin học và Cung ứng nhân lực nói riêng, đánh giá các kết quả đạt được cũng như những khó khăn hạn chế cần khắc phục tại Công ty, nhận định đặc điểm của công tác xuất khẩu lao động tại Công ty hiện nay, trên có sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này tại Công ty.
* Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của khoá luận chỉ giới hạn ở những vấn đề cơ bản nhất có liên quan đến hoạt động xuất khẩu lao động của Công ty Phát triển Công nghệ, Tin học và Cung ứng nhân lực hiện nay, những tồn tại và giải pháp khắc phục.
* Phương pháp nghiên cứu:
Khoá luận áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp liệt kê và thống kê, phương pháp kết hợp giữa lý luận với thực tiễn...
* Nội dung nghiên cứu:
Trong phạm vi đề tài tôi không có đủ khả năng giải quyết mọi vấn đề thực tiễn đặt ra, ở đây tôi chỉ đề cập đến những vấn đề cơ bản trong lĩnh vực xuất khẩu lao động tại Công ty Phát triển Công nghệ, Tin học và Cung ứng nhân lực ở khía cạnh Quan hệ kinh tế quốc tế. Kết cấu của đề tài ngoài lời nói đầu và kết luận gồm 3 chương:
Chương I: Khái quát chung về tình hình xuất khẩu lao động của Việt Nam trong thời gian gần đây.
Chương II: Hoạt động xuất khẩu lao động của Công ty Phát triển Công nghệ, tin học và Cung ứng nhân lực.
Chương III: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả trong hoạt động xuất khẩu lao động của Công ty Phát triển Công nghệ, Tin học và Cung ứng nhân lực. .
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU UỶ THÁC
I. KHÁI NIỆM HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU ỦY THÁC
II. NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU ỦY THÁC
1. Về chủ thể
2. Các văn bảnThư viện các mẫu văn bản của Nhà nước điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu uỷ thác
3. Các nghiệp vụ của hoạt động xuất nhập khẩu uỷ thác
4. Hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu
CHƯƠNG II: HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU UỶ THÁC Ở CÔNG TY TOCONTAP – HÀ NỘI
I. VÀI NÉT VỀ CÔNG TY TOCONTAP VÀ TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU UỶ THÁC Ở CÔNG TY TRONG MẤY NĂM QUA
1. Giới thiệu tóm tắt về Công ty TOCONTAP - Hà Nội
2. Cơ cấu tổ chức của Công ty TOCONTAP
3. Tình hình hoạt động của TOCONTAP trong những năm vừa qua
II. HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU ỦY THÁC Ở CÔNG TY TOCONTAP
1. Giao dịch
2. Chào hàng, đặt hàng
3. Đàm phán
4. Ký kết hợp đồng ngoại
5. Ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu uỷ thác (hay còn gọi là hợp đồng nội)
6. Kiểm tra chất lượng
7. Thuê tàu lưu cước
8. Làm thủ tục hải quan
9. Giao nhận hàng với tàu
10. Lập bộ chứng từ thanh toán
11. Giải quyết tranh chấp khiếu nại (nếu có)
12. Thanh lý hợp đồng
CHƯƠNG III: CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XUẤT NHẬP KHẨU
UỶ THÁC Ở CÔNG TY TOCONTAP
I. PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA TOCONTAP TRONG TUONG LAI
1. Công tác nghiên cứu khách hàng và thâm nhập thị trường
2. Công tác bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các cán bộ trong Công ty
3. Công tác khuyến khích nguồn tài chínhluận văn - báo cáo - tiểu luận chuyên ngành Tài chính của Công ty
II. GIẢI PHÁP
1. Ưu nhược điểm
2. Kiến nghị
KẾT LUẬN
(40 TRANG) .
Đổi mới quản lý nhà nước đối với nông nghiệp Việt Nam trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau 20 năm đổi mới, nông nghiệp Việt NamThư Viện Điện Tử Trực Tuyến Việt Nam đã thu được những thành
tựu to lớn. Nhiều nhà nghiên cứu, tổ chức và quốc gia trên thế giới đã
đánh giá cao những tiến bộ trong sản xuất nông nghiệp Việt Nam - nhất là
việc giải quyết vấn đề lương thực. Có nhiều nguyên nhân tạo nên những
thắng lợi của nông nghiệp, trong đó, sự thay đổi cách thức quản lý nông
nghiệp của nhà nước được đánh giá là nguyên nhân cơ bản. Tuy nhiên,
nông nghiệp Việt Nam vẫn là ngành chậm phát triển. Năng suất, chất
lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh của nông nghiệp còn thấp. Thực tiễn
các nước có ngành nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu kinh tế đã
tham gia WTO cho thấy, việc tham gia vào nền kinh tế thế giới, các nước
đang phát triển có nhiều cơ hội nhưng cũng đứng trước không ít thách
thức. Khu vực nông nghiệp được đánh giá là khu vực nhạy cảm trong thương
mại thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tếluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Quan Hệ Quốc Tế về nông nghiệp có nghĩa là hàng nông
sản Việt Nam có thể bán ở nhiều quốc gia trên thế giới với "luậtluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Luật chơi"
chung, nhưng lãnh thổ Việt Nam cũng trở thành địa bàn, thành "chợ" để
bán hàng nông sản của nhiều quốc gia và các nước thành viên. Trong đó,
không ít nông sản cùng chủng loại với nông sản do Việt Nam sản xuất có
nguồn gốc xuất phát từ những nước có trình độ phát triển nông nghiệp
hàng hoá và tiềm lực ngân sáchThư viện Sách, Mỗi Ngày Một Cuốn Sách nhà nước lớn hơn Việt Nam rất nhiều.
Như vậy, vừa mới bước đầu chuyển sang sản xuất hàng hoá với chủ
thể chính là 13,5 triệu hộ nông dân năng lực thấp, nông nghiệp Việt Nam
đang đứng trước những thách thức mới. Khắc phục những yếu kém, hạn
chế của nông nghiệp không đơn giản, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh
tế quốc tế hiện nay, chắc chắn sẽ xuất hiện những vấn đề mới trong quản
lý nhà nước đối với nông nghiệp.
Chính vì vậy, "Đổi mới quản lý nhà nước đối với nông nghiệp Việt
Nam trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế" được nghiên cứu sinh chọn
làm để tài luận án tiến sĩLuận văn tiến sĩ các ngành.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đến nay, đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu quản lý nhà
nước về kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng và đề cập ở những góc độ
và phạm vi khác nhau, tác giả nghiên cứu về đổi mới quản lý nhà nước đối
với nông nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là công trình
nghiên cứu không bị trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
* Mục đích của luận án: Trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu
kết hợp với khảo sát thực tiễn, mục đích của luận án là đi sâu đánh giá
thực trạng và đề xuất những giải pháp để hoàn thiện quản lý nhà nước đối
với ngành nông nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
* Nhiệm vụ của luận án:
- Nghiên cứu làm rõ những nhận thức lý luận về quản lý nhà nước đối
với nông nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với nông nghiệp Việt Nam
trong quá trình đổi mới của đất nước.
- Luận án đưa ra một số quan điểm cơ bản và các giải pháp đổi mới
quản lý nhà nước đối với nông nghiệp trước yêu cầu hội nhập.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với ngành nông
nghiệp (theo nghĩa hẹp bao gồm trồng trọt và chăn nuôi).
Đề tài không tập trung phân tích các yếu tố tác động đến sự phát triển
nông nghiệp mà chủ yếu phân tích, đánh giá hoạt động quản lý nhà nước
đối với ngành nông nghiệp và từ đó đưa ra kiến nghị và những giải pháp
đổi mới hoạt động quản lý nhà nước đối với nông nghiệp trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế.
Về thời gian nghiên cứu, lấy mốc từ năm 1986 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận án sử dụng phương pháp
nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sửluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Lịch Sử của chủ nghĩaluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành CNXH Mác - Lênin,
3 4
quan điểm của Đảng ta thể hiện trong các nghị quyết về đổi mới quản lý
nhà nước đối với nông nghiệp đồng thời sử dụng phương pháp phân tích
nguyên lý hệ thống, lý thuyết khoa học quản lý kinh tế, khoa học hành
chính, phương pháp phân tích thống kê, phân tích hoạt động kinh tế, kết
hợp giữa nghiên cứu lý thuyết và tổng kết thực tiễn, coi trọng tổng kết
thực tiễn để rút ra kết luận đổi mới quản lý nhà nước đối với nông nghiệp
Việt Nam trong xu thế hội nhập.
6. Những đóng góp của luận án
- Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học
đi trước, luận án góp phần làm rõ những nhận thức lý luận về quản lý nhà
nước đối với nông nghiệp và nêu lên sự cần thiết đổi mới quản lý nhà
nước đối với nông nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
- Làm rõ sự cần thiết khách quan phát triển nông nghiệp hàng hóa đa
dạng, bền vững gắn với thị trường là cơ sở thực hiện mục tiêu nâng cao
mức sống của cư dân nông nghiệp, trong đó vai trò quản lý nhà nước đối
với nông nghiệp có ý nghĩa quyết định.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với nông nghiệp,
luận án chỉ ra những hạn chế của nó trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc
tế, đặc biệt là góp phần làm rõ nguyên nhân của những hạn chế đó để có
những giải pháp khắc phục.
- Dự báo những cơ hội và thách thức khi gia nhập WTO của ngành
nông nghiệp Việt Nam, nêu lên những quan điểm cơ bản và một số giải
pháp chủ yếu mà nhà nước cần thực hiện đối với nông nghiệp Việt Nam
trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Luận án có ý nghĩa thực tiễn là tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch
định chính sách, cũng như đối với người làm công tác nghiên cứu và giảng
dạy trong lĩnh vực này.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận án được trình bày trong 3 chương, .
việt nam và WTO
Trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hoá, nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Xu thế này mở ra nhiều cơ hội,đồng thời cũng đặt các quốc gia trước sự lựa chọn không dễ dàng: đứng ngoài xu thế đó thì bị cô lập và tụt hậu, tham gia thì phải ứng phó với sự cạnh tranh mạnh mẽ. Tuy nhiên, xu hướng chung là các quốc gia lớn nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tếluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Quan Hệ Quốc Tế về kinh tế, thương mạiluận văn - báo cáo - tiểu luận chuyên ngành Thương mại và nhiều lĩnh vực hoạt động khác. Điều đó cũng lý giải tại sao hầu hết các nước, kể cả các nước đang phát triển, thậm chí kém phát triển, cũng tham gia vào quá trình hội nhập, từng bước chấp nhận những “ luậtluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Luật chơi” chung của các tổ chức khu vực và quốc tế.
Trong xu thế chung này, không những các khu vực, các quốc gia mà cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs), nhất là những doanh nghiệp xuất nhập khâủ vừa và nhỏ ở mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ cũng chịu tác động trực tiếp của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Một yêu cầu được đặt ra vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với các doanh nghiệp này là thích ứng được với những thay đổi trong môi trườngluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Môi Trường kinh doanhluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu - sách về Kinh Doanh toàn cầu, các hiệp định thương mại đa phương trong buôn bán quốc tế.
Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu vừa và nhỏ Việt NamThư Viện Điện Tử Trực Tuyến Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế này khi chúng ta là thành viên chính thức của WTO trong tương lai gần. Chúng ta sẽ đứng trước cơ hội cũng như thách thức rất lớn nhưng chúng ta đã biết những gì và đã chuẩn bị những gì cho sự kiện này? Liệu những doanh nghiệp non trẻ của chúng ta có thể đứng vững trước những cơn bão cạnh tranh từ các nền kinh tế năng động khác? Với những kiến thức và hiểu biết của mình, qua đề tài: ”Dự báo về tác động của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO đối với các doanh nghiệp xuất khẩu vừa và nhỏ Việt Nam – Những giải pháp đề xuất” , tôi xin được nêu rõ nhìn nhận của mình về thực trạng các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, về những thuận lợi cũng như khó khăn mà các doanh nghiệp này sẽ gặp khi Việt Nam gia nhập WTO và xin đề xuất một số giải pháp tháo gỡ các khó khăn còn vướng mắc. .
Lời dẫn
Những năm cuối thế kỷ XX, hệ thống xã hộiluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Xã hội chủ nghĩaluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành CNXH lâm vào khủng hoảng toàn diện và nghiêm trọng dẫn đến sự sụp đổ của bộ phận lớn làm thay đổi cơ bản cục diện chính trịluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành kinh tế chính trị của thế giới. Bên cạnh đó, chủ nghĩa tư bản tận dụng được những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Công Nghệ hiện đại nên đã thích nghi và vẫn tiếp tục phát triển.
Trật tự thế giới hai cực tan dã, quan hệ quốc tếluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Quan Hệ Quốc Tế chuyển dần từ đối đầu sang đối thoại, từ đó làm nảy sinh xu hướng đa dạng hoá, đa phương hoá trong tiến trình hội nhập toàn cầu. Hoà bình, ổn định hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các quốc gia. Toàn cầu hoá về kinh tế chiếm vị trí quan trọng trong quan hệ giữa các quốc gia,kinh tê được ưu tiên phát triển và trở thành chủ đề chính trong quan hệ quốc tế hiện nay.
Trước bối cảnh quốc tế và xu thế chung của thế giới đang diễn ra như vậy, các quốc gia đều phải điều chỉnh lại chính sáchThư viện Sách, Mỗi Ngày Một Cuốn Sách đối ngoại của mình để thích ứng với tình hình mới. Việt NamThư Viện Điện Tử Trực Tuyến Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó.
Chính sách đối ngoại là một bộ phận hợp thành đường lối đổi mới của Việt Nam trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởngluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu môn Tư Tưởng HCM Hồ Chí Minhluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu môn TTHCM. Được khởi xướng từ năm 1986 và sau hơn 10 năm thực hiện, chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đã góp phần không nhỏ đến sự phát triển của đất nước, tạo điều kiện khai thác có hiệu quả các nhân tố quốc tế, kết hợp được sức mạnh dân tộcluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Dân Tộc Học với sức mạnh thời đại đưa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng và đi lên.
Chính sách đối ngoại đổi mới là một trong những mốc đánh dấu thành tựu to lớn của Việt Nam trong thế kỷ XX, tạo tiền đề cho Việt Nam vững bước đi vào thế kỷ XXI. Với lý do đó cùng với ham muốn được tìm hiểu chính sách đối ngoại đổi mới và quan hệ quốc tế của Việt Nam giai đoạn này, em mạnh dạn chọn đề tài “Quan hệ quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới” làm chuyên đềChuyên đề các môn học thực tập. .
Tản Mạn Về Xây Dựng Thương Hiệu
Xây Dựng Cấu Trúc Thương Hiệu
Xây dựng thương hiệu dường như là một khái niệm hơi xa lạ đối với các công ty vừa và nhỏ. Tuy nhiên vẫn có nhiều cách và phương pháp để các công ty trên tiếp cận khái niệm này.
Các công ty quảng cáo sáng tạo hàng đầu có những phương pháp “gia truyền” trong việc xây dựng chiến lược thương hiệu. Họ biết tự định vị mình để cạnh tranh với các công ty sáng tạo khác. Họ sử dụng những hình ảnh bắt mắt, ví dụ như vòng tròn, hình tam giác và biểu đồ đề diễn tả về các thuộc tính, giá trị, cá tính và lời hứa.
Đa phần các công ty vừa và nhỏ không quan tâm tới chiến lược thương hiệu. Thay vì vậy, họ phó mặc tên tuổi của mình cho thị trường quyết định, có thể là tốt hơn hay xấu hơn. Sâu xa hơn nữa, nhiều marketer tại các công ty này biết rằng lẽ ra họ nên nỗ lực nhiều hơn trong quá trình xây dựng thương hiệu, nhưng nhiều người lại không biết nên bắt đầu từ đâu.
Tuy nhiên, nếu chịu khó tìm hiểu về phương pháp xây dựng thương hiệu của các công ty quảng cáo, bạn sẽ phát hiện ra nhiều sự tương đồng.
Nếu không có nhiều ngân sách thuê các chuyên gia tư vấn thương hiệu, cũng không nên quá lo lắng. Bằng nỗ lực và một kế hoạch tốt, bạn có thể tự mình xây dựng chiến lược thương hiệu. Dành thời gian tìm hiểu kiến thức thương hiệu cộng với sự kiên trì sẽ giúp bạn vượt qua sự mù mờ về chúng.
Cấu trúc thương hiệu chính là nền tảng chiến lược thương hiệu
Điểm mấu chốt trong toàn bộ chiến lược thương hiệu chính là cấu trúc thương hiệu. Cấu trúc này đặt nền tảng cho toàn bộ các thành tố thương hiệu, và kết nối cá tính thương hiệu, mục đích, lời hứa, câu chuyên, hình ảnh và sự vận hành thành một cấu trúc thống nhất.
Thương hiệu được xây dựng dựa trên cảm xúc, vì vậy cấu trúc thương hiệu cần phải thể hiện rõ ràng những cảm xúc cụ thể mà thương hiệu mang lại.
Để xây dựng cấu trúc thương hiệu, có thể theo quy trình 5 bước sau:
1. Liệt kê từng đặc điểm sản phẩm /dịch vụ. Sau đó viết ra từng lợi ích của chúng là gì
• Đặc điểm là những mô tả về sản phẩm hay thành phần có trong đó. Ví dụ, đặc điểm của một chiếc auto có thể là chúng có rãnh để ván trượt tuyết hay có trang bị hệ thống stereo cải tiến.
• Lợi ích là những gì đặc điểm tạo ra
2. Tâp trung vào các lợi ích. Với từng lợi ích, xác định xem đó là lợi ích chức năng hay cảm xúc
• Lợi ích chức năng liên quan trực tiếp tới chức năng đặc điểm đó tạo ra. Ví dụ hệ thống stereo cải tiến sẽ mang lại chất lượng âm thanh hay hơn.
• Lợi ích cảm xúc giúp đánh thức cảm giác và cảm xúc. Ví dụ hệ thống stereo cải tiến sẽ làm cho người nghe cảm giác như đang tham dự một buổi biểu diễn nhạc rock ngoài trời.
3. Xem xét lại từng đặc điểm và lợi ích, xác định tầm quan trọng của từng yếu tố đối với thị trường. Phân chia chúng theo 3 danh mục sau:
• Được mong đợi: đây là những yếu tố cơ bản và được thị trường chờ đợi; khách hàng sẽ không mua sản phẩm nếu chúng không có những chức năng và đặc điểm này. Mọi sản phẩm / dịch vụ trong danh mục này phải đảm bảo đầy đủ các chức năng trên.
• Gia tăng giá trị: không mong đợi, nhưng hầu hết quyết định của khách hàng sẽ không chỉ dựa vào yếu tố trên. Hơn nữa, việc này giúp sản phẩm, dịch vụ tạo ra khác biệt so với đổi thủ.
• Sẽ mua: khách hàng sẽ chọn sản phẩm của bạn do chỉ tìm thấy những đặc điểm / lợi ích mong muốn từ duy nhất sản phẩm bạn cung cấp.
4. Chấm điểm các đặc điểm và lợi ích. Thương hiệu dựa vào cảm xúc – không ngoại trừ các thương hiệu B2B. Một thương hiệu sẽ trở nên vững mạnh hơn khi được tạo dựng dựa trên những lợi ích cảm xúc. Hãy sử dụng thang điểm sau:
• Đặc điểm được mong đợi = 1
• Đặc điểm gia tăng giá trị = 2
• Đặc điểm sẽ mua = 3
• Lợi ích chức năng được mong đợi = 4
• Lợi ích chức năng gia tăng giá trị = 5
• Lợi ích chức năng sẽ mua = 6
• Lợi ích cảm xúc được mong đợi = 7
• Lợi ích cảm xúc gia tăng giá trị = 8
• Lợi ích cảm xúc sẽ mua = 9
5. Rất ít cấu trúc thương hiệu được xây dựng dựa trên nền tảng đặc điểm, việc đưa chúng vào trong bảng tính điểm cho thấy được tầm quan trọng hơn của lợi ích, và đặc biệt hơn là những lợi ích cảm xúc, những yếu tố sẽ thúc đẩy hành vi mua hàng dựa vào cảm tính. Bước cuối cùng xác định những lợi ích cảm xúc cốt lõi trong chiến lược thương hiệu.
Thông thường, bạn nên tập trung vào những điểm số cao nhất để hình thành nên cấu trúc thương hiệu. Đánh giá tất cả yếu tố với điểm sàn là 6 hay cao hơn. Bạn có thể chọn kết hợp thêm vài lợi ích chức năng với các lợi ích cảm xúc.
Hãy cân nhắc kỹ càng các lợi ích chức năng và cảm xúc bạn chọn đưa vào cấu trúc thương hiệu. Do sẽ cần rất nhiều nguồn lực để truyền tải những giá trị này cho thị trường, nên bạn cần phải kiểm tra sự chấp nhận của nội bộ trước, sau đó là sự chấp nhận của thị trường nếu bạn không chắc chắn về chúng.
Sau khi xây dựng xong cấu trúc thương hiệu, bây giờ có thể bắt đầu tìm hiểu về các yếu tố khác trong chiến lược thương hiệu như: cá tính thương hiệu, cá tính, mục tiêu, lời hứa, câu chuyên thương hiệu, hình ảnh và quy định hoạt động.
Phạm Vũ Hoàng Quân dịch từ Marketing MO
Những Trung Tâm Thời Trang Lớn Nhất Thế Giới
(TNO) Tổ chức phi lợi nhuận Global Language Monitor vừa công bố danh sách 25 thành phố dẫn đầu về lĩnh vực thời trang trên toàn thế giới năm 2008. Theo Reuters, danh sách này được đưa ra dựa vào mật độ xuất hiện của những thành phố này trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên internet và thậm chí trên cả những trang nhật ký ảo - blog thông tin về thời trang.
Đứng đầu danh sách này là New York, thành phố lớn nhất nước Mỹ. Đây là lần thứ 5 liên tiếp, New York chiếm giữ thứ hạng cao nhất. Rome và Paris tiếp tục giữ vững vị trí thứ 2 và 3. Trong khi đó, Milan và London hoán đổi chỗ cho nhau, Milan từ hạng 5 leo một bậc lên hạng 4 và London thì ngược lại.
Gây bất ngờ nhất là Sydney và Dubai, hai trung tâm thời trang nhỏ hơn đã có những bước đột phá khi Sydney từ hạng 12 nhảy lên hạng 6 và Dubai vượt 12 bậc lên hạng 12. Bốn thành phố lần đầu tiên được chọn vào danh sách này là: Cape Town (Nam Phi), New Delhi (Ấn Độ), Stockholm (Thụy Điển) và Madrid (Tây Ban Nha).
Tokyo xứng đáng là kinh đô thời trang của châu Á khi là thành phố châu Á xếp vị trí cao nhất trong bảng xếp hạng này. Tuy nhiên, với hạng 10, Tokyo đã thấp hơn 4 bậc so với năm ngoái. Hồng Kông xếp sau Tokyo một bậc, Bangkok (Thái Lan) rớt tên khỏi danh sách.
Danh sách 25 trung tâm thời trang lớn nhất thế giới:
Nâng Cao Hiệu Quả Ngành May Xuất Khẩu, Có Cần Một Giải Pháp Toàn Diện?
Dệt may đang trở thành ngành xuất khẩu đứng đầu trong nhóm 10 mặt hàng xuất khẩu lớn của đất nước. Tuy nhiên, hiệu quả xuất khẩu của ngành May vẫn được đánh giá là còn thấp, do xuất khẩu theo phương thức gia công là chủ yếu. Đã có nhiều giải pháp đề xuất cho việc nâng cao hiệu quả xuất khẩu của ngành May, nhưng dường như chúng vẫn còn dàn trải, chưa đúng trọng tâm
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về việc nâng cao hiệu quả xuất khẩu của ngành May Việt Nam. Trong đó, ngoài các giải pháp truyền thống là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và trình độ KHCN, người ta còn nhấn mạnh đến việc phát triển các khâu thiết kế thời trang và xâm nhập vào mạng lưới phân phối toàn cầu; nhiều công trình còn nhấn mạnh tới việc phát triển nguồn nguyên liệu bông, xơ (thượng nguồn), nhằm tạo thế chủ động cho sản xuất của Ngành. Song, dường như các giải pháp có tính toàn diện này chỉ mang tính hình thức, bởi lẽ, nó đã được nhắc đến nhiều, nhưng lại không thấy có khả năng triển khai hiệu quả. Hãy thử xem chuỗi giá trị của ngành may xuất khẩu hiện nay thế nào
Theo các nghiên cứu đã được công bố, chuỗi giá trị của ngành may xuất khẩu bao gồm các khâu: sản xuất nguyên, phụ liệu; thiết kế thời trang; may gia công; marketing, phân phối; và được tính toán, phân chia giá trị theo biểu đồ dưới đây:
Từ biểu đồ trên cho thấy, về lý thuyết, có thể có nhiều cách để nâng cao hiệu quả của ngành May xuất khẩu. Đó là:
- Thứ nhất, đầu tư để làm chủ khâu thiết kế thời trang, có thể chủ động đưa ra các mẫu mốt, phù hợp với xu hướng thời trang thế giới. Khi được thị trường chấp nhận, thì giá trị của khâu này trong chuỗi giá trị toàn cầu chiếm 3%;
- Thứ hai, phát triển sản xuất nguyên phụ liệu, kể cả đầu tư để phát triển thượng nguồn (bông, xơ), vải và các loại phụ liệu khác. Làm chủ được khâu này, giá trị trong chuỗi giá trị toàn cầu chiếm 15%;
- Thứ ba, là khâu gia công sản phẩm. Toàn bộ khâu này (cắt, may, hoàn thiện, đóng gói, vận chuyển…) chiếm giá trị là 5-7% trong chuỗi giá trị toàn cầu (bao gồm cả các thủ tục xuất khẩu);
- Thứ tư, vươn lên, xâm nhập vào mạng lưới phân phối toàn cầu để bán được sản phẩm cho các nhà buôn (không phải qua các trung gian môi giới), thậm chí có thể bán đến tận tay người tiêu dùng… Giá trị của khâu này lên tới 75% (?!) trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Tuy nhiên, trên cơ sở hiện trạng và quá trình phát triển của ngành May xuất khẩu Việt Nam trong nhiều năm qua, câu hỏi được đặt ra là: Phải chăng ta sẽ đồng thờì tiến hành tất cả các giải pháp trên, hay sẽ lựa chọn những khâu phù hợp để triển khai?. Người viết xin có một số bình luận và đề xuất hướng phát triển của Ngành như sau:
- Thứ nhất, đầu tư cho thiết kế thời trang: Từ giữa thập kỷ 90 của thế kỷ trước, ở Việt Nam, khâu thiết kế thời trang đã được đặt ra. Qua gần 20 năm, hoạt động thiết kế thời trang của Việt Nam đã có những bước tiến dài. Chúng ta đã đầu tư nhiều công sức và đã có được một đội ngũ các nhà thiết kế khá chuyên nghiệp, một số người đã đạt được những giải thưởng lớn của quốc tế. Nhưng dường như mọi chuyện vẫn chỉ dừng ở đó mà không tiến thêm được.
Câu hỏi đặt ra là tại sao lại như vậy, hay tại chúng ta đầu tư chưa đủ tầm, và cần phải tiếp tục đầu tư, hay vì một lý do nào khác?.
Chính vì câu hỏi này không được giải đáp thấu đáo, nên chúng ta vẫn cứ tiếp tục đầu tư và tiếp tục mong đợi; mong đợi để đến một lúc nào đó, chúng ta sẽ tham gia được vào “mắt xích” thiết kế, trong chuỗi giá trị toàn cầu của ngành may xuất khẩu.
Có thể khẳng định, chúng ta sẽ còn rất lâu, nếu không muốn nói là không thể, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của ngành may xuất khẩu ở “mắt xích” thiết kế.
Thực tế cho thấy, trên thế giới, đã có một số nước thành công trong phát triển ngành dệt may hướng ra xuất khẩu trong giai đoạn đầu mới công nghiệp hoá. Mô hình của các nước NICs với sự thành công của Hồng Kông và Hàn Quốc cách đây hơn 30 năm trong lĩnh vực dệt may là những ví dụ điển hình. Nhưng thực chất, những quốc gia này, cho đến lúc chuyển giao ngành dệt may sang các nước kém phát triển hơn, vẫn không có nước nào thành công ở khâu thiết kế thời trang (Hồng Kông thành công trong việc trở thành trung tâm trao đổi, mua bán nguyên phụ liệu, còn Hàn Quốc thì chuyển sang phát triển các ngành công nghiệp khác. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Hàn Quốc đến nay chỉ khoảng gần 14 tỷ USD/năm).
Hiện tại, những quốc gia mới nổi, như Trung Quốc, Brasin..., cùng lắm cũng chỉ trở thành các công xưởng của thế giới hoặc trung tâm cung cấp nguyên, phụ liệu.
Dường như đã là “định mệnh”, Milano, Franfuôc, Paris… vẫn đang và sẽ mãi mãi là các trung tâm sáng tạo của thời trang quốc tế.
Chấp nhận cách luận giải này, chúng ta sẽ có những bước đi phù hợp cho khâu thiết kế. Và như vậy, nên chăng, chỉ đầu tư cho khâu thiết kế phục vụ thị trường nội địa.
- Thứ hai, xâm nhập vào mạng lưới phân phối toàn cầu. Nói thì có vẻ dễ, nhưng thực tế không phải như vậy. Ngoài những khó khăn về xây dựng mạng lưới phân phối, mà gần như nó đã được định hình từ nhiều năm, theo phương châm “buôn có bạn, bán có phường”, khâu này còn chứa đựng nhiều rủi ro. Có lẽ cũng vì rủi ro cao mà nó chiếm tới 75% giá trị trong chuỗi giá trị toàn cầu của ngành may xuất khẩu.
Ngành May xuất khẩu của ta có khả năng làm được việc này không? Về lý thuyết cũng là “mọi thứ đều có thể”. Tuy nhiên, chi phí cho hoạt động này không phải là nhỏ, mà một doanh nghiệp chắc không thể làm được. Đó là, chúng ta phải thường xuyên có các thương nhân có kinh nghiệm, tham gia hầu khắp (nếu không muốn nói là tất cả) các cuộc trình diễn thời trang hay hội chợ triển lãm quốc tế, để vừa chọn được mẫu của các nhà thiết kế, mang đi chào hàng, rồi tìm các nhà buôn để có thể ký hợp đồng bán hàng… (chưa nói tới việc cần có mạng lưới để bán được hàng đến tay người tiêu dùng, thì lợi nhuận thu được sẽ cao hơn). Tất cả những công việc của khâu này không chỉ là khó khăn về tài chính, về nghiệp vụ và kinh nghiệm kinh doanh, mà đi kèm với nó, như trên đã nói là rủi ro cao trong quá trình vận chuyển và bảo hiểm hàng hoá đến các địa điểm phân phối.
Để có thể triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại kể trên, các doanh nghiệp may Việt Nam cần phải liên kết với nhau về nhân lực và tài chính, với trung tâm là Hiệp hội Dệt - May Việt Nam. Mục tiêu trước mắt là tham gia các hội chợ thương mại quốc tế để giới thiệu các thương hiệu doanh nghiệp có tiếng, như Việt Tiến, May 10, Nhà Bè… với các mẫu mã chất lượng cao đã từng gia công cho khách nước ngoài, nhằm tìm kiếm các nhà buôn trực tiếp mà không cần qua khâu môi giới. Còn các khâu phân phối khác, thì… tiếp cận dần.
Như vậy, với các khâu 1 và 4 trong chuỗi giá trị toàn cầu của ngành may xuất khẩu thì các doanh nghiệp may xuất khẩu của Việt Nam đều khó xâm nhập, hoặc chí ít, trong giai đoạn trước mắt là như vậy. Chỉ còn các khâu 2 và 3.
Ta hãy thử tìm hiểu khả năng của các doanh nghiệp may xuất khẩu Việt Nam trong các khâu này thế nào.
- Khâu thứ hai, phát triển sản xuất nguyên, phụ liệu: Đã từ lâu, tham vọng của nhiều người, là ngành Dệt - May Việt Nam có thể chủ động trong việc cung ứng nguồn nguyên liệu đầu vào, bao gồm các loại bông, xơ…
Những năm gần đây, công nghiệp lọc hoá dầu phát triển đã mở ra cho chúng ta một triển vọng mới trong việc tự túc các loại bông xơ nhân tạo. Tuy nhiên, việc phát triển bông tự nhiên, mặc dầu chúng ta đã có rất nhiều cố gắng trong nhiều năm (khoảng hơn 10 năm), nhưng kết quả còn rất khiêm tốn. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là sự khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên và kỹ thuật canh tác, mà trong tương lai gần (10-15 năm nữa), cũng chưa chắc đã khắc phục được.
Như vậy ở khâu này, chúng ta chỉ còn khả năng phát triển ngành Dệt và phụ liệu để đáp ứng nguyên, phụ liệu cho ngành May.
Chương trình phát triển vải cho ngành May cũng đã được đặt ra từ lâu và gần đây là chương trình liên kết với Đài Loan để sản xuất 1 tỷ mét vải cho ngành may xuất khẩu. Tuy nhiên, cũng vì nhiều lý do khác nhau, chương trình đã khởi động được gần 2 năm, nhưng không mấy tiến triển.
Trong chương trình này, khâu thiết kế mà ta vẫn thường nói tới, lại rất quan trọng. Nhưng là thiết kế vải, chứ không phải thiết kế thời trang cho may, như chúng ta thường nhắc tới. Nhiều nước cũng đã thành công khi đi theo hướng này, mà điển hình là Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc… và gần đây là Thái Lan. Ngoài việc thiết kế ra các loại vải đáp ứng các mẫu thời trang mới, các quốc gia này còn tiên phong trong việc sáng tạo ra các loại vải thân thiện với môi trường (vải chống bụi, diệt khuẩn), vải khoác ngoài nano để giữ ấm, vải có tính hút ẩm cao và mang mùi hương tự nhiên… và nhiều loại vải kỹ thuật khác… Hướng đi này đã giúp cho các quốc gia nói trên cạnh tranh được với các quốc gia khác trên thị trường quốc tế.
Đây có thể là một hướng phát triển cho ngành Dệt, nhằm nâng cao hiệu quả cho ngành May xuất khẩu. Vì vậy, những vướng mắc trong triển khai chương trình 1 tỷ mét vải cho xuất khẩu cần phải được nhanh chóng tháo gỡ.
Cùng với đó là phát triển các loại phụ liệu phục vụ cho ngành May. Chương trình phát triển phụ liệu cho ngành May trong những năm vừa qua đã thu được những kết quả khả quan. Tính đến nay, phụ liệu sản xuất trong nước đã đáp ứng được khoảng trên 50% nhu cầu may xuất khẩu.
Như vậy, phát triển vải và phụ liệu cho may xuất khẩu, mà hiện tại được gọi là phát triển công nghiệp hỗ trợ, là những hướng đi đúng mà ngành Dệt - May Việt Nam cần tiếp tục triển khai, nhằm tạo thêm giá trị gia tăng trong chuỗi giá trị toàn cầu mà mình đang tham gia.
- Khâu thứ ba, gia công sản phẩm: Kết quả khảo sát các doanh nghiệp may xuất khẩu cho thấy, khâu này chiếm 5% giá trị trong chuỗi giá trị toàn cầu và được phân chia thành các khoản mục như sau: Tiền lương (50%), BHXH (10%), Chi phí phụ liệu, bao bì (10%), Chi phí điện nước (8%), Khấu hao tài sản cố định (3%), Chi phí xuất, nhập khẩu (14-16%), lãi (3-5%).
Mặc dầu chỉ chiếm 5% trong chuỗi giá trị toàn cầu, nhưng tất cả những khoản mục này lại thuộc lĩnh vực quản trị doanh nghiệp, mà các doanh nghiệp may hoàn toàn có thể chủ động điều tiết.
Trong các khoản mục chi phí trên, các chi phí ngoài tiền lương, đặc biệt là các chi phí bao bì, chi phí điện nước, chi phí xuất nhập khẩu cần phải được tiết giảm đến mức tối đa.
Giải pháp cho vấn đề này là:
- Rà soát chặt chẽ các khâu mua vào (khuy, chỉ, hòm hộp, túi nilon, nhãn mác…) để có chi phí thấp nhất;
- Bố trí sản xuất, ánh sáng, thông gió… hợp lý để tiết kiệm điện, hơi trong sản xuất;
- Tối ưu hoá khâu vận chuyển (cảng nhập, xuất) và giảm thiểu các thủ tục hành chính (chi phí ngoài luồng) trong các khâu vận chuyển, xuất, nhập khẩu... Để thành công, các khâu này rất cần sự giúp đỡ của các ngành liên quan như công an giao thông, hải quan, cảng biển…
Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả của hoạt động gia công, rất cần các giải pháp có tính truyền thống, như nâng cao năng lực công nghệ, trình độ tổ chức sản xuất và chất lượng nguồn nhân lực để có năng suất lao động cao hơn, có khả năng làm được những sản phẩm khó với tỷ lệ phế phẩm thấp; và cao hơn nữa là làm chủ được kỹ thuật, để không mất chi phí thuê chuyên gia nước ngoài trong việc hướng dẫn kỹ thuật đối với các sản phẩm mới. Bên cạnh đó, hoạt động thi thợ giỏi cần phải trở thành thường xuyên và các điển hình cần phải được nhân rộng để giúp cho đa số người lao động có được kỹ năng và năng suất lao động cao hơn, từ đó góp phần tăng thu nhập và giảm thiểu chi phí cho doanh nghiệp.
Hơn thế nữa, nếu ngành Dệt có khả năng sản xuất được các loại vải đáp ứng yêu cầu của may xuất khẩu, như đã nói ở trên, mà lại có giá cả hợp lý, thì đó là những điều kiện rất tốt cho ngành may giảm chi phí nhập khẩu, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của mình.
Tóm lại, để nâng cao chất lượng hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp may, không nên đặt vấn đề phát triển toàn diện các khâu trong chuỗi giá trị toàn cầu như tư duy vẫn thường có trong nhiều năm qua, mà chỉ nên tập trung vào những khâu phù hợp với trình độ phát triển của chính các doanh nghiệp ngành may và tiềm lực kinh tế của đất nước. Đó là các khâu: phát triển dệt vải, phụ liệu và nâng cao hiệu quả quản trị doanh nghiệp.
Hy vọng, những ý kiến trên sẽ là những gợi mở cho các nhà hoạch định chính sách và các doanh nghiệp Dệt - May Việt Nam xác định đúng hướng phát triển của mình trong thời gian tới. Rất mong những người quan tâm cùng trao đổi.
(Nguồn Tạp chí Công Nghiệp)
Phong Cách Joe Fresh Style
Joe Fresh Style được đưa ra như một thương hiệu năng động, phong cách và giá cả phải chăng. Nhưng điều đáng nói nhất của nó có lẽ là khả năng tiết kiệm thời gian.
Burgess nói rằng với trang phục Joe Fresh Style được trưng bày trong những khoảng không gian nhiều người qua lại - có thể chỉ là ở một hoặc hai lối đi giữa những sản phẩm, tiệm bánh, cửa hàng thịt - Loblaw có thể tăng yếu tố thuận lợi cho khách hàng của mình, phần lớn là những người mẹ bận rộn.
"Chúng tôi thấy rằng cô ta trong cửa hàng và đang mua thức ăn và chúng tôi hiểu rằng cô chính là một trong những người chịu trách nhiệm về tiêu dùng cho gia đình. Chúng tôi đã tiết kiệm cho cô ấy một chuyến mua sắm quần áo. Chúng tôi có thể cho cô ấy lại thời gian của mình." Ông nói. "Dù đó là trang phục hoặc hàng hóa bình thường, chúng tôi đã đang tạo ra sự mua sắm mà khách hàng chỉ việc dừng lại một lần."
Cũng như trong cửa hàng tạp phẩm, Loblaw cập nhật dòng sản phẩm quần áo của mình thường xuyên, thường là đại tu hàng tháng, để bảo đảm rằng nó luôn mới mẻ.Và bởi vì sức mua có thể bị giảm vì nhiều cửa hàng khác, Loblaw luôn xác định giá cho dòng sản phẩm quần áo ở mức hợp lí thấp nhất. Không có sản phẩm đơn lẻ nào trị giá quá 37 đô Canada, và những sản phẩm khác như áo sơ mi và áo trùm đầu cho trẻ em có thể được mua với tiền lẻ trong ví bạn. "Có vị trí cho một thương hiệu với phong cách tươi trẻ, sử dụng tốt và chất lượng tuyệt với giá cả không thể rẻ hơn," Burgess nói.
Loblaw không phải nhà độc quyền trong dòng trang phục giá rẻ khi họ đang bị tuột dốc trên khắc đất nước hơn 1% mỗi năm trong 5 năm qua, theo như Cục số liệu Canada. Lực kéo xuống đến từ nhiều nguồn, bao gồm sự nổi tiếng ngày càng tăng của những cửa hàng giảm giá, nhưng yếu tố quan trọng nhất phải kể đến là những nhà sản xuất chuyển hướng phần lớn sản phẩm của mình sang những thị trường lao động giá rẻ nước ngoài, đặc biệt là Trung Quốc.
Thậm chí với giá rẻ, Joe Fresh Style đã trở thành một thương hiệu có doanh thu hàng năm lên đến 400 triệu đô la Canada, và Burgess nói công ty đang tự tin nó sẽ tăng lên 1 tỉ đô la Canada trong vài năm tới.
Thương hiệu Joe Fresh Style được ban cho một sự phát triển độc nhất trong mùa thu này khi Loblaw giới thiệu cửa hàng trưng bày "bất ngờ" để khai trương bộ sưu tập mới cho trẻ em. Được đặt trên một chiếc xe kéo 18 bánh có khả năng chở 40 khách một lần, nó được trang trí với áo thun cotton in bóng các con vật, quần jeans, và áo khoác nhung. Nó đi vòng quanh đất nước trong 1 năm, trải qua một vài ngày ở những khu vực xa hoa của các thành phố lớn.
Rob Warren, Giám đốc trung tâm Các doanh nghiệp Asper ở trường đại học Manitoba ở Winnipeg, nói rằng rõ ràng người mà Loblaw cho liên kết với Joe Fresh Style là Wal-Mart. Ông nói họ đang cố gắng tạo ra một đòn tấn công ưu tiên trước sự có mặt được cho là chắc chắn của những trung tâm Wal-Mart đồ sộ trên khắp Canada. Những khu vực khổng lồ này đã xẻ ra một phần đáng kể của thị trường tạp phẩm Mỹ cho nhà bán lẻ lớn nhất thế giới và đang trong tiến trình bắc tiến trên đường vĩ tuyến thứ 49.
Warrennói Wal-Mart là một thử thách trong nhiều lĩnh vực đối với Loblaw. Đầu tiên, sức mua của nó là độc nhất vô nhị, bảo đảm rằng nó sẽ không thua trên danh vị là người cung cấp sản phẩm giá rẻ.
Khi Wal-Mart đến Trung Quốc, một nhà sản xuất Trung Quốc nói rằng 'Tôi muốn vận chuyển một công-ten-nơ cho Canada và 10 công-ten-nơ cho Mỹ,' họ có thể có mức giá tốt hơn nhiều từ một nhà cung cấp nước ngoài hơn là Loblaw", ông nói.
Sức mạnh chính thứ hai của Wal-Mart là tiếng tăm trên thị trường
"Căn cứ vào khách hàng, Wal-Mart và Loblaw thực sự giống nhau nhưng điểm Wal-Mart hơn là những khách hàng của nó là những người mua thường xuyên và họ bị thuyết phục rằng Wal-Mart có mức giá tốt hơn. Loblaw đang phải chuẩn bị chống lại một con gorilla nặng 800 pound", ông nói.
Warrennói rằng Wal-Mart rốt cuộc có thể không phải là mối lo ngại lớn nhất của Loblaw về lâu dài. Anh ta đang chờ đợi American Apparel, một công ty được biết đến với lập trường chống bóc lột sức lao động nhân công và sự công bằng, các quảng cáo theo phong cách Polaroid, để thực sự khuấy động đất nước ở phía bắc biên giới này.
"Họ đang thực hiện những bước đúng đắn với tầng lớp khách hàng trẻ. Họ có trách nhiệm về môi trường và xã hội, các dòng trang phục đang trở nên thời trang và khác biệt. Điều này sẽ thu hút mọi người", ông nói.
(Nguồn bandchanel sưu tầm và lược dịch bởi Lanta Brand)
Xây Dựng Thương Hiệu Việt: Mấu Chốt Là Con Người
Thương hiệu Việt Nam đã bắt đầu được biết tới nhiều hơn trên thị trường thế giới vài năm gần đây. Có thể nói, tất cả các thương hiệu Việt Nam đều có cơ hội vươn tầm thế giới nếu được đầu tư đúng đắn.
Thiếu thương hiệu quốc gia
Cho tới nay chúng ta đã có một vài thương hiệu đứng được ở thị trường quốc tế như Café Trung Nguyên, các mặt hàng nông sản phẩm, may mặc… Tuy nhiên hầu hết chỉ là các mặt hàng phục vụ các cộng đồng Á đông ở phương Tây. Hầu như chưa có hoặc rất ít những thương hiệu Việt có thể cạnh tranh trên thương trường quốc tế và thoát khỏi cảnh làm gia công cho các tập đoàn đa quốc gia.
Việc các thương hiệu Việt vẫn còn “ẩn danh” trên thị trường quốc tế phụ thuộc vào nhiều lý do cả chủ quan và khách quan. Yếuu tố chủ quan nằm ở chỗ Việt Nam chưa có một định hướng phát triển chất lượng đúng đắn và có tầm nhìn mang tính thấu trí cho cả nước. Chất lượng của sản phẩm Việt còn nặng tính hình thức và hô hào hơn là thực sự đem lại giá trị lợi nhuận cụ thể cho doanh nghiệp và khách hàng.
Chính vì điều này mà khách hàng quốc tế không (hoặc chưa) tin tưởng vào thương hiệu chất lượng Việt Nam, khác hẳn khi nhắc đến "made in Japan" hay "made in Germany"...
Chúng ta không nên nhìn nhận rất thiển cận rằng thị trường quốc tế chỉ dành cho những giá trị chất lượng cao cấp. Ở các thị trường quốc tế cũng có rất nhiều cấp độ (Ví dụ của Trung Quốc: S1 là thị trường hàng xuất nhập khẩu cao cấp, S2: thị trường của các thương hiệu “copy” loại tốt, S3 & S4 là loại hàng rẻ tiền nội địa, v.v... Do vậy những thương hiệu Việt Nam ở thị trường S2, S3, S4 vẫn có thể xuất khẩu sang Trung Quốc, Châu Phi và các nước khác nếu có chiến lược cạnh tranh, quảng cáo và thương hiệu chất lượng tốt.
Chất lượng quyết định thương hiệu
Ở Việt Nam, chưa có một doanh nghiệp nào thật sự xây dựng một chiến lược chất lượng toàn diện. Sự hỗ trợ của các tổ chức nhà nước, Tổng cục Đo lường Chất lượng cũng rất hạn chế. Các giải thưởng chất lượng và phong trào chất lượng ngày càng xuống cấp và nặng về hô hào, hình thức do thiếu đi vào thực tế và đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Việt Nam đang áp dụng những quy trình quản lý ISO một cách không đúng mực, và chưa tận dụng được hết lợi thế mà hệ thống này có thể mang lại. Chừng nào các doanh nghiệp nhìn hệ thống ISO là một công cụ để giúp cho họ trong quy trình sản xuất và quản lý chất lượng và thực hiện quy trình ISO một cách nghiêm túc, lúc ấy chúng ta có thể mơ đến sự phát triển bền vững và thành công”.
Tuy nhiên trên tất cả yếu tố quan trọng quyết định thành công của một hệ thống quản lý lại là “con người”. Từng con người trong hệ thống quyết định sự thành bại của hệ thống đó. Chúng ta cần thay đổi khái niệm về khách hàng. Chúng ta thường quan niệm khách hàng là người cuối cùng nhận và sử dụng sản phẩm. Và người Việt Nam thì luôn chú trọng đến khâu kiểm tra chất lượng sau cùng để lọc lại sản phẩm hư trước khi gửi ra ngoài. Nhưng như thế là quá chậm vì khi đã thành sản phẩm thì chúng ta đã tốn bao nhiêu tiền của và nhân lực để làm ra những sản phẩm hư.
Cần quan niệm trong một hệ thống khách hàng là người tiếp theo nhận sản phẩm. Ví dụ: trong một dây chuyền sản xuất cô công nhân A đưa cho cô công nhân B một sản phẩm, thì cô công nhân B là khách hàng của cô công nhân A, nếu cô công nhân A luôn đưa cho cô công nhân B sản phẩm tốt thì sản phẩm cuối cùng khi đến tay người tiêu dùng sẽ luôn tốt.
Chất lượng của sản phẩm Việt còn nặng tính hình thức và hô hào hơn là đem lại giá trị lợi nhuận cụ thể cho khách hàng.(Theo TT Thương Mại)
Bàn Về Vấn Đề Thương Hiệu Dệt May Việt Nam
Thương hiệu là được coi là tài sản vô hình của doanh nghiệp, qua đó, khách hàng có thể cảm nhận, đánh giá và phân biệt giữa sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác.
Đối với người tiêu dùng, thương hiệu được coi là một sự đảm bảo về chất lượng từ phía nhà sản xuất và được định hình qua một quá trình trải nghiệm và đúc kết khi sử dụng sản phẩm, dịch vụ mang thương hiệu đó. Thương hiệu được coi như sự xác nhận của doanh nghiệp đối với khách hàng về nguồn gốc và giá trị của sản phẩm, dịch vụ cung cấp. Và do đó, thương hiệu giúp khách hàng giảm thiểu những rủi ro có thể phải gánh chịu khi mua sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp như những sai hỏng về tính năng, những nguy hại đối với sức khoẻ, sự lừa gạt về mặt giá trị, những rủi do về mặt xã hội và những phí tổn về mặt thời gian hao phí trong trường hợp sảm phẩm không đảm bảo.
Đối với doanh nghiệp, một thương hiệu mạnh là công cụ marketing hữu hiệu, đem lại cho doanh nghiệp nhiều lợi thế: giúp khách hàng nhận thức tốt hơn, đầy đủ hơn về sản phẩm dịch vụ, góp phần duy trì và giành được niềm tin của khách hàng, giúp doanh nghiệp thu được lợi nhuận hấp dẫn hơn, giảm thiểu ảnh hưởng của các đối thủ cạnh tranh, giảm thiểu tác động xấu trong điều kiện khủng hoảng thị trường và là sự đảm bảo tốt có lợi thế trong đàm phán, hợp tác kinh doanh. Những thương hiệu mạnh còn là cơ sở để phát triển các cơ hội quảng bá khác cũng như có giá trị thực buộc người sử dụng phải mua bản quyền và được bảo vệ về mặt pháp lí tránh khỏi mọi sự xâm hại.Các chuyên gia khẳng định, vấn đề thương hiệu mới được quan tâm chỉ trong vòng 7 năm trở lại đây trong các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp trong ngành dệt may nói riêng. Nhiều doanh nghiệp đã có nỗ lực đáng kể trong việc xây dựng thương hiệu sản phẩm và thương hiệu doanh nghiệp một họat động hết sức quan trọng đối với một ngành sản xuất hàng tiêu dùng thời trang như ngành dệt may.
Tuy nhiên, ngọai trừ một vài doanh nghiệp, hầu hết đều chưa có sự đầu tư tương xứng cho họat động này, thể hiện qua ngân sách chi cho họat động còn quá thấp và đặc biệt là chưa có một chiến lược dài hạn trong xây dựng thương hiệu. Qua khảo sát trên 40 doanh nghiệp đã có tiếng tại Việt Nam, nhóm khảo sát nhận thấy chỉ có 3 đơn vị là đã hình thành chiến lược xây dựng thương hiệu dài hạn, còn lại đa số các doanh nghiệp chỉ có những họat động quảng bá trước mắt. Đơn vị sử dụng nguồn lực xây dựng thương hiệu cao nhất chiếm tỉ trọng 4% trên doanh thu, còn lại hầu hết chỉ dành nguồn lực từ 0,1 đến 1% trên doanh thu hàng năm. Theo kinh nghiệm đối với ngành hàng thời trang trên thế giới thì thông thường nguồn lực quảng bá xây dựng và phát triển thương hiệu phải chiếm ít nhất 10% doanh thu.
Thương hiệu doanh nghiệp và thương hiệu sản phẩm:
Hai khái niệm này hiện còn được dùng khá lẫn lộn ở rất nhiều doanh nghiệp trong khi mục tiêu và đối tượng quảng bá thì hòan tòan khác nhau. Thương hiệu doanh nghiệp chủ yếu được dùng để quảng bá đến đối tượng là các nhà cung ứng và đặt hàng. Mục tiêu là xây dựng hình ảnh một đơn vị có khả năng quản lý tốt và tin cậy, đảm bảo giao hàng đúng chất lượng và tiến độ, có khả năng đáp ứng nhanh các yêu cầu của người đặt hàng. Còn thương hiệu sản phẩm thì chủ yếu được quảng bá đến người sử dụng cuối cùng. Mục tiêu là xây dựng hình ảnh một sản phẩm có chất lượng tốt và mang đến nhiều giá trị gia tăng cho người sử dụng. Khảo sát cho thấy rất ít doanh nghiệp xây dựng thương hiệu sản phẩm tách rời với thương hiệu doanh nghiệp. Chẳng hạn:
- Công ty Sơn Kim có 2 nhóm sản phẩm với thương hiệu riêng VERA và WOW,
- Công ty May Phương Đông có 3 thương hiệu sản phẩm: F HOUSE, FUX và FUX MEN,
- Công ty Dệt Việt Thắng có 2 thương hiệu sản phẩm: THREE CAMELS và VIỆT THẮNG,
- Công ty May Sài Gòn 2 có thương hiệu SANDING…
- Công ty May Sài Gòn 3 có thương hiệu KAP'S và EVENNA
Còn lại hầu hết các doanh nghiệp đều sử dụng tên công ty làm thương hiệu sản phẩm như: VIỆT TIẾN, THÀNH CÔNG, NHÀ BÈ, AN PHƯỚC, THÁI TUẤN, LEGAMEX, TRIUMP, SCAVI, ĐỨC GIANG, MAY 10, THĂNG LONG .v.v.
Tác động của thương hiệu đối với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
Có thể nói thương hiệu doanh nghiệp hay thương hiệu sản phẩm của doanh nghiệp ở một mức độ nào đó cũng góp phần tạo dựng năng lực cạnh tranh doanh nghiệp và ngược lại, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng được phản ánh phần nào qua sức mạnh của thương hiệu doanh nghiệp hoặc của thương hiệu sản phẩm của doanh nghiệp đó.Đối với thị trường xuất khẩu, chỉ có thương hiệu doanh nghiệp là đang có một số tác động nhất định đến khả năng cạnh tranh xuất khẩu của doanh nghiệp. Khỏang 30% số lượng doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may tại Việt Nam đã được nhiều nhà nhập khẩu biết đến tên doanh nghiệp với nhiều mức độ khác nhau thông qua quan hệ xuất nhập khẩu và đặt hàng thường xuyên, trong đó chỉ có một số rất ít doanh nghiệp Việt Nam được biết rộng rãi trong cộng đồng các nhà nhập khẩu lớn. Và bên cạnh đó, tên nhiều doanh nghiệp đầu tư nước ngòai tại Việt Nam cũng chỉ được các nhà nhập khẩu biết tên thông qua mối quan hệ với công ty mẹ của họ tại nước ngòai.
Đối với sản phẩm xuất khẩu, ngọai trừ một vài doanh nghiệp có sản phẩm xuất khẩu dưới thương hiệu riêng của mình (như Công ty Scavi đang xuất khẩu sản phẩm dưới tên CORENE SCAVI và MAILFIX SCAVI, Công ty May Phương Đông xuất khẩu sản phẩm dưới tên F HOUSE ..); còn lại hầu hết đều xuất khẩu sản phẩm dưới nhãn hiệu của nhà nhập khẩu nước ngòai. Có thể nói hoạt động quảng bá thương hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam ra thị trường nước ngòai gần như chưa có. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do các doanh nghiệp Việt Nam không đủ năng lực tài chính để quảng bá thương hiệu sản phẩm ra nước ngòai, trong khi các doanh nghiệp đầu tư nước ngòai tại Việt Nam thì không quan tâm xây dựng thương hiệu ở Việt Nam mà chủ yếu là sử dụng thương hiệu của công ty mẹ tại nước ngòai. Đối với thị trường nội địa khoảng 85 triệu dân, tuy vẫn còn tâm lý chuộng hàng ngọai, nhưng người tiêu dùng cũng đã từng bước quan tâm đến thương hiệu Việt Nam và đang ngày càng quan tâm nhiều hơn. Do vậy, nhiều doanh nghiệp dệt may đã có chiến lược đúng trong tiếp cận thị trường nội địa, xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm và thương hiệu doanh nghiệp tại thị trường đầy tiềm năng này.
Trong số gần 2000 doanh nghiệp dệt may, đã có khỏang 100 doanh nghiệp có thương hiệu được người tiêu dùng trong cả nước biết đến với những mức độ khác nhau. Các thương hiệu như sơ mi Việt Tiến, sơ mi May 10, veston Nhà Bè, áo thun Thành Công, áo thu đông Đông Xuân, vải KT Việt Thắng, vải gấm Thái Tuấn, Phước Thịnh, đồ lót Vera, áo thun Hoàng Tấn, Ninomax, PT2000, tơ tằm Khaisilk.v.v. đã được biết rộng rãi trong cả nước và liên tục được người tiêu dùng bình chọn danh hiệu Hàng Việt Nam chất lượng cao. Các thương hiệu này đã thực sự trở thành tài sản vô hình đáng kể của doanh nghiệp và đã góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Các chuyên gia nhận xét, tuy đã có bước tiến bộ trong việc phát triển thương hiệu trong những năm gần đây, nhưng tại thời điểm này khi Việt Nam đã gia nhập WTO, để có thể cạnh tranh được với sản phẩm của các đối thủ nặng ký như Trung Quốc, Ấn Độ…trên thị trường quốc tế cũng như ngay tại thị trường nội địa các doanh nghiệp Việt Nam cần coi trọng việc xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu./.(Vietnambranding - Theo VENO)
Tại Sao Bạn Cần Một Website Mang Tính Toàn Cầu
Tại sao bạn cần một website mang tính toàn cầu?
Một trang web toàn cầu là một trong những nền tảng to lớn nhất để thành công trong xu hướng toàn cầu hoá hiện nay. Những ai nhận ra hết những ảnh hưởng của nó và học cách tận dụng nó sẽ thu được những thành công hoặc ngược lại sẽ phải bỏ mạng trên thương trường Thủ tướng Ý, Willy Brandt, từng nói: “Nếu tôi là người bán, tôi sẽ nói bằng ngôn ngữ của bạn”. “Nếu tôi là người mua, dann müssen Sie in meiner Sprache sprechen (tạm dịch: bạn phải nói bằng ngôn ngữ của tôi"
Các cuộc nghiên cứu gần đây cho thấy rằng những người sử dụng Internet thường truy cập vào những trang web có phiên bản sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ của họ. Hãy thử tưởng tượng: bạn có đặt mua một máy tính Dell trên một trang web của Trung Quốc hay không? Nội dung của website được thể hiện bằng ngôn ngữ của địa phương mà nó hoạt động để có thể truyền tải sự trải nghiệm phức tạp tới người truy cập. Điều này không chỉ có tác dụng tích cực trong viện bán hàng mà nó còn đóng góp vào sự thành công của doanh nghiệp bằng nhiều cách. Có 5 nguyên tắc để tăng doanh thu và giảm chi phí khi sử dụng trang web có phiên bản sử dụng ngôn ngữ theo từng địa phương:
1. Website toàn cầu là lực lượng bán hàng hiệu quả nhất.
Điểm khác biệt chính giữa thương mại và thương mại điện tử là ở chỗ: thương mại bán hàng qua con người và thương mại điện tử bán hàng qua nội dung. Điều này được Gerry McGovern giải thích rõ trong cuốn Content Critical. Một trang web giàu thông tin, luôn được cập nhật sẽ giới thiệu sản phẩm và dịch vụ của bạn tới nhóm khách hàng tiềm năng trên toàn thế giới, bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của họ và đặc biệt là nó hoạt động ở mọi lúc mọi nơi.
2. Website toàn cầu giúp bạn tiết kiệm chi phí hoạt động.
Trong tất cả các cuốn sách về toàn cầu hoá, các trang web đều lấy nguyên tắc này làm nguyên tắc vàng. Bạn nên chuẩn bị để có thể tồn tại và phát triển trên thị trường mà bạn xắp sửa xâm nhập. Do sự khác biệt của thị trường đặc biệt là về ngôn ngữ, bạn phải thuê nhân viên sử dụng được tiếng bản xứ là một điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên bạn có thể tiết kiệm được rất nhiều chi phí khi bạn sử dụng trang web sử dụng ngôn ngữ địa phương.
3 Một trang web toàn cầu với nhiều thông tin địa phương sẽ tăng sự hiện diện của thương hiệu ở địa phương mà nó hoạt động.
Đa số các công cụ tìm kiếm phổ biến như Google, Yahoo đều dò tìm thông tin trên các trang web có sử dụng ngôn ngữ địa phương. Ví dụ, nếu doanh nghiệp của bạn đang thực hiện các hoạt động kinh doanh trên nước Đức. Không một nội dung nào trên trang web của doanh ghiệp được đăng tải bằng tiếng Đức. Cơ hội để bạn xuất hiện trên công cụ tìm kiếm Google.de là con số không. Những thông tin được dịch lại hay thông tin mới đều được trình bày bằng ngôn địa phương sao cho phù hợp với từ khoá (admission ticket) mà doanh nghiệp mua từ các công cụ tìm kiếm. Điều đó làm tăng cơ hội xuất hiện của doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp mà phương thức hoạt động phần lớn dựa vào internet hay nhnững doanh nghiệp có nhu cầu gia tăng độ nhận biết của thương hiệu tại thị trường địa phương, thì từ khoá có ý nghĩa rất lớn.
4. Web toàn cầu có thể cung cầp các khoá huấn luyện toàn cầu với các lợi ích mà phương pháp học thông thường không thể có được. Hoc tập là một nhu cầu thiết và không hề xa xỉ trong mội trường cạnh tranh hiện nay. Ngày càng nhiều doanh nghiệp tổ chức các khóa huấn luyện toàn cầu. tuy nhiên các phòng học thông thường ngày càng ít được sử dụng. Họ thực hiện các khoá huấn luyện tại chổ và nội dung của chương trình học thì luôn có sẵn trên trang web và bằng ngôn ngữ địa phương. Học viên thì có thể dễ dàng hiểu và sẵn sàng lĩnh hội
5. Trang web toàn cầu giúp xây dựng văn hoá tập đoàn. Nội dung của trang web nói lên tính đa dạng của tổ chức, ý thức hệ và môi trường làm việc. Một trang web toàn cầu là một trong những nền tảng to lớn nhất đề thành công trong xu hướng toàn cầu hoá hiện nay. Những ai nhận ra hết những ảnh hưởng của nó và học cách tận dụng nó sẽ thu được những thành công hoặc ngược lại sẽ phải bỏ bỏ mạng trên thương trường. (Vietnambranding - Theo marketingneu)
Yếu Thương Hiệu, Thiệt Xuất Khẩu
Các doanh nghiệp trong nước thường thiếu thông tin về thị trường thế giới và không chủ động trong tiếp cận đối tác.
Điều này đã khiến cho rất nhiều sản phẩm của ta khi xuất ra nước ngoài phải mang nhãn mác của các nhà phân phối lớn trên thế giới. PGS.TS Nguyễn Quốc Thịnh, Giám đốc Trung tâm Thương hiệu (Đại học Thương mại) đã có cuộc trao đổi thẳng thắn xung quanh vấn đề này. Ông nghĩ sao khi mà hiện nay có rất nhiều hàng hóa của Việt Nam được xuất khẩu nhưng tên tuổi của chúng ta lại không hề được gắn trên nhãn mác?
Không được tiếp cận trực tiếp với bạn hàng, không những chúng ta phải mất chi phí trung gian mà còn không có cơ hội thể hiện thương hiệu sản phẩm và thương hiệu doanh nghiệp trên thị trường, làm mất đi cơ hội được giới thiệu về sản phẩm và đất nước Việt Nam với thế giới. Người tiêu dùng sử dụng sản phẩm của chúng ta nhưng lại không biết được những sản phẩm đó được sản xuất hoặc được cung ứng từ Việt Nam.
Nhưng cũng có một thực tế là hiện nay, đại bộ phận các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ và vừa, thời gian tham gia hoạt động thương mại quốc tế chưa lâu, vì thế chưa có nhiều điều kiện đầu tư cho xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm và thương hiệu doanh nghiệp.
Nhiều doanh nghiệp còn khá dè dặt và thiếu kỹ năng trong tham gia thị trường quốc tế đã dẫn đến tỷ lệ hàng hoá phải xuất khẩu qua trung gian. Xuất khẩu trong tình trạng bị ép về giá, về chất lượng cũng như các điều kiện giao dịch khác còn khá cao.
Một khảo sát của chúng tôi gần đây đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản, thủ công mỹ nghệ cho thấy, có tới 80% số hợp đồng mà các doanh nghiệp Việt Nam đã ký kết với nước ngoài là do đối tác tự tìm đến với chúng ta.
Cũng có một sự thật đáng buồn là nhiều mặt hàng chúng ta xuất khẩu sang các nước lớn đã bị trả về do không đạt tiêu chuẩn chất lượng…
Thực tế này không chỉ xảy ra với riêng hàng hoá của Việt Nam mà theo tôi là tình trạng tương đối phổ biến đối với hàng hoá của nhiều nước đang phát triển khi mới tham gia thị trường. Nhưng thông qua những vụ việc này, chúng ta cũng cần phải nhận thức và định hướng lại sản xuất ngay từ khâu cung ứng nguyên liệu đầu vào cũng như toàn bộ chuỗi các hoạt động sản xuất, chế biến. Muốn hội nhập thành công và trở thành đối tác tin cậy của các bạn hàng quốc tế, chúng ta phải tuân thủ luật lệ của nước nhập khẩu cũng như các điều ước quốc tế.
Vô hình chung, những điều này đã làm cho hình ảnh sản phẩm - dịch vụ Việt Nam tương đối mờ nhạt trong con mắt của bè bạn quốc tế. Nhiều người mới chỉ biết đến Việt Nam qua món phở. Ông nghĩ sao về vấn đề này?
Dường như bạn đang muốn nói đến thương hiệu quốc gia? Thương hiệu quốc gia không phải là thương hiệu chung cho tất cả những sản phẩm của một quốc gia mà chính là hình ảnh Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế.
Thương hiệu quốc gia là hình ảnh tổng hợp của rất nhiều các hoạt động mà quốc gia đó đã tạo dựng được như thể chế chính trị, con người, hoạt động du lịch, sản xuất hàng hoá, chính sách đầu tư, các quan hệ quốc tế…
Để xây dựng thành công thương hiệu quốc gia, theo ông chúng ta cần có những bước đi như thế nào, và cần thời gian bao lâu?
Xây dựng thương hiệu quốc gia đòi hỏi sự nỗ lực của tất cả mọi ngành, mọi địa phương và của từng người dân, kể cả cộng đồng doanh nhân và người Việt đang sinh sống ở nước ngoài.
Để làm được điều này, chúng ta cần phải có tầm nhìn và chiến lược dài hạn, cần xác định các yếu tố mấu chốt để tạo dựng hình ảnh thương hiệu quốc gia. Trước mắt, bên cạnh các chiến lược phát triển du lịch, thu hút đầu tư, Việt Nam cần tập trung phát triển thương hiệu cho những mặt hàng xuất khẩu có nhiều tiềm năng như: cà phê, hạt tiêu, gạo, thuỷ sản,…
Đây chính là sự tiếp cận đầu tiên và có nhiều cơ hội gây ấn tượng đối với cộng đồng người tiêu dùng thế giới.
Ngoài ra, không ai có thể nói chính xác là cần bao nhiêu thời gian để xây dựng thành công thương hiệu quốc gia. Không ít quốc gia trên thế giới đã phải mất nhiều chục năm nỗ lực không ngừng để tạo dựng hình ảnh quốc gia của họ.
Việt Nam đi sau nhiều quốc gia trong xây dựng thương hiệu quốc gia, vì thế chúng ta có nhiều cơ hội học tập kinh nghiệm của họ. Nhưng để xây dựng thương hiệu quốc gia, chúng ta không nên đốt cháy giai đoạn. Quá trình này không thể tính bằng năm mà phải tính bằng thập kỷ và phải có những nỗ lực không ngừng của mọi thành phần trong xã hội. (Vietnambranding - Theo VnEconomy)
Vội Xây Dựng Thương Hiệu, Lợi Bất Cập Hại
Hiện nay, ở VN cụm từ thương hiệu đang là mốt thời thượng của nhiều doanh nghiệp, nhất là trong lĩnh vực xuất khẩu. Tuy nhiên, theo giới chuyên môn, xây dựng một thương hiệu để có chỗ đứng tại thị trường cạnh tranh cao và khó tính như châu Âu hay Mỹ là chuyện không đơn giản.
Nhiều ý kiến cho rằng, cần phải xây dựng thương hiệu cho một số mặt hàng xuất khẩu của VN từ gạo, cà phê, thủy hải sản cho đến giày dép đồ điện điện tử. Điều này xét về mặt hình thức không phải không có lý, bởi ai cũng biết thương hiệu có thể mang lại thị trường và thu nhập. Tuy nhiên, nếu xây dựng thương hiệu không tốt sẽ cho kết quả ngược lại.
Thương vụ VN tại Mỹ đã dẫn ra 2 mặt hàng cụ thể có kim ngạch xuất khẩu đứng thứ 2 và thứ 3 thị trường nước này là thủy sản đông lạnh và giày dép. Thủy sản đông lạnh và chế biến hiện chỉ đứng dệt may trong bảng xuất khẩu của VN vào Mỹ với tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2004 lên tới hơn 520 triệu USD. Nhưng xây dựng thương hiệu xuất khẩu cho mặt hàng này rất khó, bởi lẽ các đối tác của VN chủ yếu là các nhà nhập khẩu (bao gồm các nhà buôn và phân phối). Những đối tượng này chỉ quan tâm đến chất lượng hàng hóa, giá và thời gian giao hàng mà ít quan tâm đến thương hiệu của người xuất khẩu. Khách hàng của các nhà nhập khẩu tôm, khi đặt món ăn, thường chỉ biết món tôm nói chung chứ không cần biết sản phẩm này nhập từ đâu và thương hiệu nào. Mặt khác, một số nhà nhập khẩu đã có thương hiệu riêng được thị trường chấp nhận. Họ không muốn tốn tiền quảng bá cho một thương hiệu khác.
Tương tự, đối với mặt hàng giày dép nhập khẩu vào Mỹ, các chuyên gia cho rằng, doanh nghiệp xuất khẩu VN chưa cần phải vội xây thương hiệu. Xây dựng thương hiệu từ đầu ở nước ngoài khi chưa tồn tại thương hiệu trong nước là chuyện không tưởng. Thương hiệu là tài sản riêng của doanh nghiệp. Xét điều kiện hiện nay, có thể nói chưa có công ty giày dép 100% vốn VN nào đủ nguồn lực tài chính để làm việc này ở nước ngoài, nhất là tại Mỹ - nơi mà chi phí đắt ngoài sức tưởng tượng của doanh nghiệp VN.
Một khi chưa có khả năng thiết kế mẫu mã riêng của mình và chưa tiếp cận được với hệ thống bán lẻ tại thị trường này thì không thể nói đến xây dựng thương hiệu. Hơn nữa, các công ty nước ngoài đặt mua hoặc gia công giày dép ở VN hiện nay đều có thương hiệu riêng của mình, hoặc chắc chắn sẽ không mua sản phẩm mang thương hiệu của người khác. Ngay như Trung Quốc - cường quốc xuất khẩu giày dép vào Mỹ mỗi năm 10 tỷ USD - cũng không xuất khẩu được các sản phẩm mang thương hiệu của họ, mà phải dựa vào thương hiệu của nhà nhập khẩu, phân phối bản địa.
Các nhà phân tích cho rằng, thay vì đổ tiền vào xây dựng thương hiệu một cách vội vàng và lãng phí, các doanh nghiệp xuất khẩu VN nên tập trung tất cả các nguồn lực để nâng cao năng lực sản xuất, uy tín, ổn định chất lượng sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Thương hiệu phản ánh uy tín, chất lượng của sản phẩm. Thực tế đã chứng minh, thương hiệu sản phẩm dù nổi tiếng đến mấy nhưng chỉ 1 lần bị phát hiện không đảm bảo chất lượng, bị cấm nhập khẩu hoặc bị đưa ra công luận thì tất cả các cố gắng chi phí xây dựng thương hiệu có thể trở thành vô nghĩa. (Vietnambranding - Theo Thương Mại)
Nguyên Tắc "Less Is More" Của Thương Hiệu Cao Cấp
Một trong những đặc tính của con người là đố kỵ. Chúng ta cảm thấy ghen tỵ với thành công của người khác, bởi vì bản thân ta cũng muốn đạt được những thành công đó. Nhà văn kiêm nhà bình luận chính trị người Mỹ Gore Vidal đã từng viết:“Mỗi khi bạn bè thành công thì dường như một phần trong con người tôi đang chết đi”.
Vậy thương hiệu có liên quan gì đến tâm lý của con người, khi chúng ta đều khao khát giành được sự chú ý và lòng ngưỡng mộ của đám đông? Có lẽ chính những thương hiệu đỉnh cao là một trong những phương tiện có thể giúp mọi người thỏa mãn mong muốn này.
Những thương hiệu cao cấp (Very Important Brands- VIB) hướng đến việc tách biệt khách hàng của mình ra khỏi đám đông thông qua những biểu hiện về sự giàu có và địa vị. Nếu trước kia, những món ăn trong bữa tối có thể nói lên nhiều điều về bạn, thì ngày nay, khái niệm “con người bạn thể hiện qua những món hàng bạn mua” đã vào thay thế. Trong thời đại của quảng cáo, của xã hội tiêu dùng ngày nay, những gì bạn sở hữu sẽ nói lên đẳng cấp của bạn. Nếu một người đi xe hiệu BMW đời 7, sử dụng phục trang của hãng Louis Vuitton, đeo đồng hồ Thụy Sỹ có mác Rolex, thì dù cố tình hay vô ý họ cũng tự tách biệt mình ra khỏi đa số những người đi xe bình dân, mặc quần áo được sản xuất đại trà và xem giờ bằng những chiếc đồng hồ “không tên tuổi”.
Tuy không ai trong chúng ta muốn công khai thừa nhận, nhưng chúng ta đều rất khát khao được cảm thấy mình đứng cao hơn người khác. Những chuyên gia quảng cáo là người hiểu được điều này một cách thấu đáo nhất. Các thương hiệu được gán cho những từ như “sang trọng”, “quý phái”, “cao cấp” nhằm làm cho con người cảm thấy thỏa mãn hơn một chút về quyết định của họ khi bỏ tiền ra mua món hàng. Bằng cách đó, uy tín thương hiệu đã thoả mãn mong muốn của con người một cách tinh tế. Chúng không cạnh tranh bằng giá cả hay tiện ích, mà tác động vào tâm thức và cảm nhận của người tiêu dùng. Hẳn bạn cũng nhận thấy rằng thương hiệu VIB đang bán cho người tiêu dùng một giá trị xa xỉ nhưng vô hình. Thực ra, xe hơi BMW7 cũng chỉ mang lại những tiện nghi mà Volkswagen có, trong khi giá cả của dòng xe hạng doanh nhân kia lại đắt hơn gấp 3 lần. Các thương hiệu thời trang cao cấp cũng là một ví dụ điển hình cho nhận định trên, bởi hầu như chưa bao giờ người ta mua chiếc áo hiệu Chanel chỉ vì giá trị sử dụng thực sự của nó.
Trong cuốn sách nổi tiếng mang tựa đề The Blank Slate của mình, nhà tâm lý học Steven Pinker đã liên hệ ý thức về địa vị của con người với ý nghĩa hành vi của các loài vật, chẳng hạn như loài chim công. Ông viết: “Chỉ có những con công trống cường tráng nhất mới sở hữu bộ lông kềnh càng và đẹp mắt. Công mái sẽ chú ý vào mức độ sặc sỡ cũng như độ lớn chiếc đuôi của những anh chàng công trống để chọn ra kẻ xứng đáng nhất cho nó”. Tương tự như thế, con người dùng các thương hiệu tiếng tăm để trang trí cho “cái đuôi” rực rỡ của mình và dường như mức độ xa xỉ của các món đồ trang sức ấy luôn tỷ lệ thuận với sự sành điệu và giàu sang của chủ nhân.
Để có thể thu lợi nhuận nhiều hơn, các công ty phải tìm cách gia tăng doanh số và tìm kiếm thêm nhiều đối tượng khách hàng mới. Lúc này, các thương hiệu VIB sẽ phải đối mặt với một thách thức khác: thị trường càng được mở rộng, càng có thêm nhiều khách hàng thì lợi nhuận càng có nguy cơ sụt giảm và thương hiệu … mất giá. Vì sao vậy? Nguyên nhân ở chỗ nếu có quá nhiều người mua các sản phẩm sang trọng đó thì sẽ dẫn đến việc một lúc nào đó, nó sẽ trở thành thương hiệu đại chúng chứ không còn là thương hiệu VIB nữa và những khách hàng này cũng sẽ không tiếp tục mua. Bạn hãy thử tưởng tượng, khi mọi người đều đeo kính hiệu Gucci, dùng túi xách Christian Dior, mặc trang phục của Dolce & Gabbana hết thảy thì liệu những thương hiệu này có còn “làm mưa làm gió” được nhờ tính chất độc đáo, khác biệt của nó nữa không?
Như vậy, các thương hiệu VIB phải làm mọi cách để luôn giữ được đẳng cấp sang trọng của mình, đồng thời vẫn đảm bảo doanh thu và lợi nhuận. Tuy nhiên, có thương hiệu đã chấp nhận tự “hạ bậc” để sản phẩm của họ có được nhiều khách hàng hơn. Ví dụ hãng Mercedes-Benz đã chơi trò mạo hiểm này khi tung ra những mẫu xe giá rẻ hạng C, E với mục đích vươn tới thị trường bình dân rộng lớn.
Bên cạnh đó, các thương hiệu vẫn có thể áp dụng chiến thuật kép là đi 2 thế cờ cùng lúc. Chẳng hạn như trường hợp của Gucci. Hãng này luôn tuân thủ đúng quy luật chủ đạo của các thương hiệu hạng sang: giới hạn số lượng sản phẩm được cung cấp trên thị trường. Nước hoa mang nhãn hiệu Gucci có thể tìm thấy ở khắp mọi nơi và những nguời có thu nhập trung bình cũng có thể mua được sản phẩm của hãng này. Thế nhưng đặc biệt đối với quần áo và các phụ kiện mang nhãn mác của nó thì Gucci vẫn chỉ giới hạn cung cấp cho một số ít nhà phân phối và rất khắt khe trong việc chọn lựa các cửa hàng phân phối thời trang cao cấp.
Những nhãn hiệu biết phát huy thế mạnh của chiến lược “càng hiếm càng đắt” (less is more) phải kể đến Harley Davidson.
Harley Davidson có thể chưa được công nhận là thương hiệu sang trọng, song nó là một biểu tượng của sự chuẩn mực và chất lượng, có một địa vị nhất định trong nhận thức của người tiêu dùng. Điều này có được là nhờ Harley Davidson đã biết điều tiết lượng hàng bán ra sao cho người ta có cảm giác rằng không phải dễ dàng để mua được sản phẩm mang nhãn mác của nó.
Một thương hiệu muốn tạo cho người tiêu dùng cảm giác ước ao được sở hữu thì lượng cầu của nó bao giờ cũng phải lớn hơn cung. Thương hiệu được đánh giá là bậc thầy trong việc tạo nhu cầu đó chính là Rolex.
Người ta mang chiếc đồng hồ hiệu Rolex không phải vì nó báo giờ chính xác hơn các loại đồng hồ khác, mà là để khẳng định đẳng cấp và chứng minh sự giàu có của mình, bởi vì nếu so với đồng hồ Porsche, thì chất lượng 2 loại là tương đương.
Các cửa hàng bán lẻ đồng hồ Rolex có mặt khắp nơi trên thế giới, nhưng rồi công ty này đã quyết định cắt giảm số lượng các đại lý phân phối của họ chỉ trong vòng vài năm. Không giống như phần lớn các công ty khác luôn tìm cách mở rộng mạng lưới phân phối, Rolex đã chọn cho mình một lối đi riêng. Kết quả, chỉ còn lại một số rất ít các nhà bán lẻ được Rolex “chọn mặt gửi …đồng hồ” và cho phép phân phối loại hàng này. Nhu cầu mua đồng hồ Rolex ngay sau đó đã tăng vọt làm cho hình tượng và địa vị của thương hiệu Rolex càng vững chắc hơn.
Louis Vuitton là một ngoại lệ đã phá vỡ quy luật “càng hiếm càng đắt” của các nhãn hiệu cao cấp. Dù được sản xuất với số lượng lớn ở các nhà máy của mình trên toàn thế giới, Louis Vuitton vẫn giữ được nét quyến rũ của một nhãn hiệu đáng để người tiêu dùng phải thèm muốn. Đâu là bí mật của hãng này? Câu trả lời là khả năng kiểm soát sản phẩm. Louis Vuitton tự tiến hành tất cả các phân đoạn của quá trình làm ra sản phẩm, từ khâu thiết kế đến phân phối. Việc này không những giữ cho chất lượng luôn ổn định, mà còn đảm bảo thu được lợi nhuận nhiều hơn đối thủ cạnh tranh khoảng 45%. Khả năng tự kiểm soát đó cho phép Louis Vuitton đạt được vị trí mà nó mong muốn, giữ được uy tín của một thương hiệu xa xỉ trong tâm trí người tiêu dùng.
Nguyên tắc “càng hiếm càng đắt”, “thị trường càng rộng lớn thì lợi nhuận càng có nguy cơ sụt giảm” đối với các thương hiệu VIB xem ra vẫn có thể bị vô hiệu hóa bằng những thủ thuật khéo léo nhất trong hoạt động xây dựng thương hiệu. Nếu trong tâm trí của khách hàng, thương hiệu của bạn là “số 1” thì bạn hoàn toàn có thể bán sản phẩm của mình với giá cao, thậm chí cao hơn gấp nhiều lần sản phẩm của những thương hiệu khác cùng chủng loại, ví dụ như gói đồ ăn Happy Meal của McDonald’s. Bạn thấy đấy, tất cả chỉ là vấn đề nhận thức mà thôi. (Vietnambranding - Theo Bw Portal)
Cơ Hội Cho Những Thương Hiệu Nhỏ
Những công ty nhỏ có thể biến điểm yếu của những công ty lớn thành điểm mạnh của mình. Vị trí của các công ty nhỏ thường trái ngược với các công ty lớn. Những công ty nhỏ không có tổ chức cầu kỳ như những công ty lớn bởi thế khi quyết định chuyện gì thì rất nhanh và thường tiếp cận dễ dàng hơn với thị trường mình muốn Cơ hội nào cho những thương hiệu nhỏ có thể sinh lợi hay như cả việc sống còn chống lại những tập đoàn đại gia? Những thương hiệu nhỏ có nhiều cơ hội làm cho khách hàng tin tưởng và chọn lựa. Nói cho cùng thì việc xây dựng thương hiệu không phải là một thứ gì mới nhưng đó luôn là nhiệm vụ khó khăn đối với ai muốn nhảy vào kinh doanh và muốn tạo sự tin tưởng cho mọi người. Những công ty nhỏ cần hiểu điều này để có thể kiểm sóat và gia tăng uy tín của mình. Và đồng thời cũng để hiểu rõ hơn điểm mạnh và đểm yếu của những thương hiệu lớn.
Xây dựng được thương hiệu nếu chỉ thông qua quảng cáo, đó là tập hợp bao gồm kinh nghiệm và nhiều thứ khác. Kinh nghiệm đó chính là những điều mà doanh nghiệp gặp phải khi đang tiến hành xây dựng thương hiệu: đó là cách bán sản phẩm hay cách giao tiếp với khách, dịch vụ, giao tế xã hội, và những đóng góp cho xã hội…. Điều tối thiểu mỗi doanh nghiệp phải làm được đó là đáp ứng cho khách hang được những điều mà mình đã hứa. Một trong những vấn đề mà các công ty lớn gặp phải đó là làm sao làm đúng được như những gì đã quảng cáo. Điều đó thật khó cho các công ty lớn vì họ có kênh phân phối quá rộng, bộ máy quá lớn nên không thể quản lý tốt ở mọi khía cạnh từ sản phẩm đến dịch vụ khách hàng. Công ty máy tính Apple là một ví dụ cho chúng ta thấy họ cố gắng xây dựng thương hiệu của mình bằng cách thành lập những cửa hàng mang tên Apple chứ không phụ thuộc vào những kênh bán lẻ máy Macintosh nữa.
Mc Donalds cũng là một ví dụ tốt về thương hiệu đang cố gắng đẩy mạnh thương hiệu của mình bằng cách thâm nhập vào cửa hàng địa phương. Nhưng Mc Donald cũng là một ví dụ mô tả về sự khó khăn trong công tác quản lý. Đã bao nhiêu lần bạn cảm thấy mình đợi quá lâu để có thể mua được cái bánh hamburger hay không? Đã bao nhiêu lần bạn cảm thấy người bán đằng sau quầy giống như đang lạc vào nơi khác khi đang phục vụ bạn hay không? Tuy nhiên, Mc Donald xử lý những tình huống này rất khéo, nhưng nói gì thì nói đó cũng chỉ là sản phẩm đơn giản là bánh hamburger. Bởi thế thật khó khi quản lý các chi nhánh cho dù có chế độ đào tạo tốt như thế nào chăng nữa.
Những công ty nhỏ có thể biến điểm yếu của những công ty lớn thành điểm mạnh của mình. Vị trí của các công ty nhỏ thường trái ngược với các công ty lớn. Những công ty nhỏ không có tổ chức cầu kỳ như những công ty lớn bởi thế khi quyết định chuyện gì thì rất nhanh và thường tiếp cận dễ dàng hơn với thị trường mình muốn. Nhưng ngược lại các công ty nhỏ thì có ít tiền chi trả cho quảng cáo rầm rộ, bù lại vì có quy mô nhỏ bởi thế khả năng tồn tại để tạo ra những dịch vụ độc đáo dành cho khách hàng cao. Với quy mô nhỏ thì việc dễ quản lý hơn và đồng bộ hơn. Khả năng không phải nằm ở chỗ nghĩ cái gì đao to búa lớn mà nằm ở chỗ nghĩ xa hơn, cố gắng tận dụng những thứ mình có tạo ra dich vụ tốt nhất cho khách hàng. (Vietnambranding - Theo Lanta Brand)
Chính Sách Tuyển Dụng
Tuyển dụng và đào tạo
Sài Gòn3 nhận lao động từ nhiều nguồn khác nhau. Công ty sẽ kiểm tra trình độ tay nghề. Đối với những lao động chưa qua đào tạo, Công ty huấn luyện theo giáo trình với nội dung toàn diện, được biên soạn công phu và sát với thực tế sản xuất các đơn hàng quốc tế trong nhiều năm qua.
Mục tiêu chung sau giai đoạn đào tạo là công nhân có kỹ năng nhất định, đủ sức tự học từ thực tế lao động và đáp ứng được yêu cầu trên chuyền sản xuất.
Kinh nghiệm
Đa số các công nhân hiện có của SaiGon3 đều đã từng sản xuất những đơn hàng từ các đối tác nước ngoài như Uniqlo, DKNY, Columbia, JC Penney... Các đơn hàng luôn đặt ra những tiêu chuẩn cao và các sản phẩm do công nhân của SaiGon3 làm ra đã khiến đối tác hài lòng.
Tái đào tạo trong suốt quá trình
Các sản phẩm may mặc thường xuyên thay đổi, kéo theo đó là những áp lực về trình độ sản xuất. Chính vì thế đào tạo, huấn luyện cho người lao động tại SàiGòn3 là một quá trình không bao giờ chấm dứt.
Hàng năm, ngoài đào tạo cho công nhân mới, SàiGòn3 còn tự tổ chức hoặc liên kết với các đơn vị chuyên môn khác đào tạo nâng cao. Nội dung đào tạo gồm nghiệp vụ kiểm tra chất lượng sản phẩm, thiết kế, sơ đồ, quản trị, ngoại ngữ, bồi dưỡng chuyền trưởng, tổ trưởng...
SàiGòn3 luôn tìm kiếm những ứng viên đầy năng động và chuyên nghiệp để cùng phát triển với SàiGòn3. Sau đây là các vị trí tuyển dụng mới nhất:
Công Ty Cổ Phần May Sài Gòn 3- TP . HCM, Luôn Lấy Chăm Lo Làm Gốc
Lời mở đầu
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tế trong khu vực và thế giới, với phương châm “ đa dạng hoá thị trường, đa phương hoá mối quan hệ kinh tế” thông qua con đường xuất khẩu để nâng cao tính cạnh tranh và hiệu quả của sự phát triển. Mà hoạt động xuất khẩu lại đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nó tạo ra nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, góp phần phát triển kinh tế, đồng thời góp phần quan trọng trong việc tạo công ăn việc làm cho người lao độngluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Lao Động Học. Vì vậy, chúng ta cần hoạch định chiến lược, định hướng về xuất khẩu là phải lấy nhu cầu thị trường thế giới làm mục tiêu cho nền sản xuất trong nước sao cho thích ứng với đòi hỏi của thế giới và đặt nền kinh tế quốc gia trong lợi thế so sánh của quốc gia.
Một trong những thị trường có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển kinh tế nước ta nói riêng và của thế giới nói chung đó là Nhật Bản. Nhật Bản có mối quan hệ thương mạiluận văn - báo cáo - tiểu luận chuyên ngành Thương mại với hầu hết các nước trên thế giới, kim ngạch nhập khẩu của Nhật khoảng 550 tỷ USD/năm, xuất khẩu khoảng 670 tỷ USD/năm. Do đó hiện nay thị trường Nhật Bản là thị trường lớn và đầy tiềm năng đối với các doanh nghiệp Việt NamThư Viện Điện Tử Trực Tuyến Việt Nam. Mặt khác, Việt Nam cần đẩy mạnh xuất khẩu hơn nữa sang thị trường này vì không những nó thúc đẩy tiến trình hội nhập mà còn gia tăng sự phát triển và nâng cao tính cạnh tranh của hàng hoá nước ta.
Với những nguyên liệu sẵn có trong tự nhiên như : mây, tre, gỗ, cói, đất sét,…từ ngàn xưa ông cha ta đã tạo ra những sản phẩm thủ công độc đáo nhưng vẫn mang đậm tính dân tộcluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Dân Tộc Học, truyền thống. Vượt qua những khó khăn thử thách, những thăng trầm, những thay đổi của mỗi cộng đồng làng nghề, nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN) của nước ta vẫn được duy trì và ngày càng phát triển hơn. Hàng TCMN không những chỉ dừng lại ở nhu cầu phục vụ khách hàng trong nước mà còn vươn mình ra thị trường nước ngoài đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của toàn thế giới. Đặc biệt là Nhật Bản có nhu cầu rất lớn về mặt hàng này nên dần dần đã trở thành bạn hàng quen thuộc của ta.
Tuy nhiên muốn đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này, trong điều kiện mà nền kinh tế Việt Nam đang ở mức phát triển thấp, tính cạnh tranh kém thì cần phải : nghiên cứu kỹ thị trường NB, hiểu biết thấu đáo về đặc điểm thị trường; đánh giá được chính xác khả năng thực tế của việc xuất khẩu hàng Việt Nam trên thị trường Nhật ở một số mặt hàng chủ lực, đặc biệt là hàng TCMN; từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản.
Nhưng thực tế cho thấy, hoạt động xuất khẩu hàng TCMN có nhiều phức tạp và vấn đề cần phải quan tâm. Cho nên, bất kỳ một doanh nghiệp kinh doanhluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu - sách về Kinh Doanh quốc tếluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Quan Hệ Quốc Tế nào muốn tồn tại và phát triển đều phải có phương hướng và giải pháp nhằm duy trì và phát triển thị trường xuất khẩu của mình. Đây cũng chính là những khó khăn đang được đặt ra đối với HGTC.
Xuất phát từ thực tế trên, sau những năm trau dồi kiến thức và lý luận trong Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh, qua thời gian thực tập tại HGTC, đồng thời được sự giúp đỡ và hướng dẫn nhiệt tình của ThS. Trần Bích Ngọc, cùng Ban lãnh đạo và cán bộ công nhân viên của Trung tâm, em xin chọn đề tài:
“Thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang thị trường Nhật Bản của Trung tâm thương mại Hồ Gươm” làm luận văn tốt nghiệp.
Nhằm đánh giá khái quát những vấn đề thị trường xuất khẩu, xác định phương hướng mục tiêu trong thời gian tới, đồng thời kiến nghị những chính sáchThư viện Sách, Mỗi Ngày Một Cuốn Sách, giải pháp nhằm phát triển thị trường xuất khẩu hàng TCMN của HGTC trong thời gian tới.
Một số ý kiến về hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm rau quả ở Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Với ưu thế về điều kiện sinh thái và lao độngluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Lao Động Học, Việt NamThư Viện Điện Tử Trực Tuyến Việt Nam có tiềm năng lớn về sản xuất các loại rau quả mà thị trường thế giới có nhu cầu như chuối, vải, dứa, xoài, nhãn, chôm chôm… và một số loại rau vụ Đông có giá trị kinh tế cao như dưa chuột, khoai tây, cà chua, ngô rau… Những năm trước đây, khi còn thị trường Liên Xô và các nước trong khối SEV, năm cao nhất Việt Nam đã xuất khẩu được khối lượng rau quả tươi và rau quả chế biến trị giá 30 triệu Rúp chuyển nhượng. Từ khi đất nước chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, do thị trường truyền thống bị thu hẹp, thị trường mới còn đang trong giai đoạn thử nghiệm, chưa ổn định, hơn nữa chất lượng, số lượng, mẫu mã, giá cả sản phẩm đạt được còn rất thấp. Nếu so sánh kim ngạch xuất khẩu các loại rau quả của Việt Nam với mốt số nước Châu Á có tiềm năng vế sản xuất các loại rau quả như nước ta thì kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam còn rất thấp. Điều đó chứng tỏ tiềm năng lớn về xuất khẩu rau quả chưa được khai thác.
Bước đầu tìm hiểu nguyên nhân hạn chế khả năng xuất khẩu rau quả cho thấy ngoài lý do biến động thị trường xuất khẩu truyền thống thì một nguyên nhân quan trọng khác là chưa có những giải pháp hữu hiệu thúc đẩy xuất khẩu rau quả. Một thời gian dài, ở tầm vĩ môTài liệu - Bài Giảng - Giáo Trình - Đề Thi Môn Kinh tế vĩ mô, chúng ta còn coi nhẹ sản phẩm rau quả, chưa đánh giá đúng mức lợi thế so sánh của nó trong lĩnh vực xuất khẩu.
Cho nên, việc nghiên cứu những giải pháp và đề xuất các chính sáchThư viện Sách, Mỗi Ngày Một Cuốn Sách tác động thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thời gian tới là rất cấp thiết góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu rau quả nên em đã quyết định chọn đề tài:
Một số ý kiến về hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm rau quả ở Việt Nam
Đề tài này sẽ tập trung nghiên cứu, đề xuất các chính sách và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu một số sản phẩm rau quả ở Việt Nam từ nay tới năm 2010, trong đó tập trung vào một số loại quả như chuối, dứa, vải và rau vụ Đông.
Tin học hóa hệ thống thông tin kế toán chi tiết vật tư tại công ty cổ phần thiết bị vật tư địa chất
LỜI MỞ ĐẦU :
I. Lý do chọn đề tài:
Ngày nay, ứng dụng công nghệluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Công Nghệ thông tin vào quản lý là một yếu tố rất quan trọng trong chiến lược phát triển của một doanh nghiệp nói riêng cũng như của một quốc gia nói chung. Vì vậy, trên thế giới, các quốc gia dù phát triển hay đang phát triển đều cố gắng đưa tin họcluận văn - báo cáo - tiểu luận chuyên ngành Tin Học vào mọi mặt của đời sống xã hộiluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Xã hội. Tin học hầu như có mặt mọi lúc, mọi nơi, hỗ trợ cho các ngành, các đơn vị nhằm hiện đại hoá quy trình quản lý sản xuất kinh doanhluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu - sách về Kinh Doanh để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, tin học là một bộ phận không thể thiếu của các doanh nghiệp nếu muốn hoạt động có hiệu quả. Thực tế cho thấy, từ khi áp dụng các phần mềm tin học, hoạt động quản lý của doanh nghiệp ngày càng nhẹ nhàng, chính xác và hiệu quả đem lại thành công lớn cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, để có được một phần mềm phù hợp với công tác quản lý, phù hợp với hoạt động của mỗi doanh nghiệp lại không phải là một vấn đề đơn giản.
Trong thời gian thực tập tại Công ty cổ phần thiết bị vật tư địa chất em nhận thấy công tác hạch toán chi tiết vật tư tại công ty đã được tổ chức chặt chẽ, có sử dụng phần mềm kế toánluận văn - báo cáo - tiểu luận chuyên ngành Kế toán trong hạch toán, tuy nhiên vẫn có một số khâu phải làm thủ công, gây mất thời gian, và chưa đáp ứng được nhu cầu của công ty. Chính vì vậy em đã chọn đề tài : “ TIN HỌC HÓA HỆ THỐNG THÔNG TIN KẾ TOÁN CHI TIẾT VẬT TƯ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN THIẾT BỊ VẬT TƯ ĐỊA CHẤT ’’ , nhằm mục đích hoàn thiện quy trình tin học hóa trong công tác hạch toán vật tư tại công ty, giúp cho quá trình đó được thực hiện nhanh chóng, chính xác và đạt hiệu quả cao.
II. Mục đích và phạm vi của đề tài:
1. Mục đích:
-Hoàn thiện thêm hệ thống thông tin quản lý vật tư trong Công ty cổ phần thiết bị vật tư địa chất. Qua đó tạo ra một phần mềm trợ giúp quá trình quản lý và thực hiện công tác kế toán vật tư nhằm nâng cao chất lượng quản lý vật tư đáp ứng nhu cầu sản xuất cho doanh nghiệp.
-Được người sử dụng chấp nhận.
-Cung cấp thông tin một cách chính xác, kịp thời, đầy đủ, nhanh chóng, phục vụ tốt quá trình quản lý kho vật tư.
-Hỗ trợ cho nhân viên kế toán và thủ kho trong việc quản lý nguyên liệu, vật liệu của công ty.
-Giúp công ty nâng cao doanh thu, tiết kiệm chi phí nhờ giảm bớt đội ngũ nhân công, tiết kiệm chi phí do thất thoát, lãng phí nguyên liệu, vật liệu, giảm thiểu sai sót có thể xảy ra trong quá trình quản lý nguyên liệu, vật liệu.
2. Phạm vi đề tài:
Việc phân tích, thiết kế hệ thống nhằm phục vụ cho công tác quản lý vật tư tại công ty một cách tốt nhất cả về số lượng và giá trị, giúp cho kế toán vật tư và thủ kho kiểm soát được tình hình nhập – xuất – tồn kho vật tư, đưa ra được những báo cáo cần thiết cho các nhà quản lý công ty để có những biện pháp kịp thời nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động của Công ty trong hiện tại và tương lai. Nghiên cứu hệ thống kế toán chi tiết vật tư của Công ty, trên cơ sở đó sử dụng ngôn ngữluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Ngôn Ngữ Học lập trình Visual Foxpro để thiết kế được một chương trình quản lý chi tiết vật tư đáp ứng nhu cầu của Công ty.
III. Đối tượng nghiên cứu:
Ø Hệ thống quản lý vật tư tại công ty.
Ø Hệ thống kho của công ty.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
*Thu thập thông tin.
*Phương pháp phát triển hệ thống thông tin quản lý.
*Phương pháp phân tích hệ thống thông tin quản lý.
V. Công cụ sử dụng để nghiên cứu đề tài:
Hiện nay, có rất nhiều hệ quản trịluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Quản Trị Kinh Doanh cơ sở dữ liệu phục vụ cho quá trình nghiên cứu, phân tích, thiết kế hệ thống thông tin quản lý như: Visual FoxPro, Oracle, SQL-Server, Access… Trong đó thì hệ quản trị Visual FoxPro là hệ quản trị xuất hiện từ lâu, trải qua nhiều giai đoạn phát triển theo hướng tương thích đi lên. VFP bao gồm cả chức năng quản trị và chức năng ngôn ngữ lập trình. Hệ quản trị này được sử dụng rất phổ biến ở Việt NamThư Viện Điện Tử Trực Tuyến Việt Nam, do gần vỡi ngôn ngữ người dùng, dễ sử dụng, cài đặt, kết nối với công cụ khác…Trên thực tế có rất nhiều phần mềm được xây dựngluận văn - báo cáo - tiểu luận chuyên ngành Xây Dựng trên cở sở VFP. Chính vì vậy, em đã chọn Visual FoxPro làm công cụ thực hiện đề tài của mình.
VI.Kết cấu của đồ ánđồ án các môn, các ngành:
Tên đề tài : “ Tin học hóa hệ thống thông tin kế toán chi tiết vật tư tại công ty cổ phần thiết bị vật tư địa chất ’’.
Kết cấu đồ án : Gồm có 3 chương
Chương 1 : Nhận thức chung về phân tích thiết kế hệ thống thông tin kế toán chi tiết vật tư trong doanh nghiệp.
Chương 2 : Thực trạng công tác kế toán chi tiết vật tư tại công ty cổ phần thiết bị vật tư địa chất.
Chương 3 :Thiết kế ứng dụng của bài toán kế toán chi tiết vật tư tại công ty cổ phần thiết bị vật tư địa chất.
CHƯƠNG 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ PHÂN TÍCH VÀ THIẾT KẾ HỆ THỐNG THÔNG TIN VÀ CÔNG TÁC KẾ TOÁN CHI TIẾT VẬT TƯ TRONG DOANH NGHIỆP.
1.1.Nhận thức chung về hệ thống thông tin:
1.1.1.Một số khái niệm cơ bản:
- Hệ thống : Là tập hợp các phần tử có các mối quan hệ với nhau và cùng hoạt động hướng tới một mục đích chung
- Dữ liệu ( Data ) : Là những mô tả về sự vật ,con người và sự kiện trong thế giới mà chúng ta gặp bằng nhiều cách thể hiện khác nhau ,như bằng ký tự, chữ viết, biểu tượng, hình ảnh, âm thanh, tiếng nói…
- Thông tin (Information ) : Là dữ liệu được đặt vào một ngữ cảnh với một hình thức thích hợp và có lợi cho người sử dụng cuối cùng.
- Các hoạt động thông tin ( Information activities ) : Là các hoạt động xảy ra trong một HTTT, bao gồm việc nắm bắt, xử lý, phân phối, lưu trữ, trình diễn dữ liệu và kiểm tra các hoạt động trong HTTT.
- Xử lý ( Processing ) : xử lý dữ liệu được hiểu là các hoạt động tác động lên dữ liệu như : tính toán, so sánh, sắp xếp, phân loại, tổng hợp… làm cho nó thay đổi về nội dung, vị trí hay cách thể hiện.
- Giao diện : Là chỗ mà tại đó hệ thống trao đổi dữ liệu với hệ thống khác hay môi trườngluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Môi Trường.
- Môi trường : Là phần của thế giới không thuộc hệ thống mà có tương tác với hệ thống qua các giao diện của nó. .
Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện thủ tục hải quan điện tử tại chi cục hải quan gia thuỵ
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỦ TỤC HẢI QUAN ĐIỆN TỬ VÀ THỦ TỤC HẢI QUAN ĐIỆN TỬ ĐỐI VỚI HÀNG KINH DOANHluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu - sách về Kinh Doanh
1.1..Khái niệm thủ ,đặc điểm thủ tục hải quan điện tử
Theo Công ước Kyoto về đơng giản hóa và hài hóa thủ tục hải quan ( Công ước Kyoto sửa đổi ): Thủ tục hải quan là tất cả các hoạt động tác nghiệp mà bên liên quan và Hải quan phải thực hiện nhằm bảo đảm đảm tuân thủ Luậtluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Luật Hải quan.
Theo luật Hải quan Việt NamThư Viện Điện Tử Trực Tuyến Việt Nam “ Thủ tục hải quan là các công việc mà người khai hải quan và công chức hải quan phải thực hiện theo quy định của pháp luật đối với hàng hóa ,phương tiện vận tải “.
Trong xu thế hội nhập hiện nay thì Việt Nam đang phải đối pho với những thách thức ,và những cơ hội mới cho chúng ta vì vậy hàng hóa ,phương tiện vận tải ,hành khách xuât cảnh,nhập cảnh ngày càng nhiều nên việc làm thủ tục hải quan sẽ tăng lên,mà với hiện tại việc thực hiện thủ tục hải quan truyền thống không thể đáp ứng được nhu cầu hiện nay.Từ đó việc thay đổi từ thủ tục hải quan truyền thống sang thủ tục hải quan điện tử.Nhưng việc đòi hỏi chuyển đổi đó phải phù thuộc vào tình hình công nghệluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Công Nghệ thông tin hiện nay.Qua mấy năm gần đây trinh độ công nghệ thông tin của nước ta ngày càng phát triển.Nên việc thay đổi phương thức làm việc là tất yếu trong tất cả các ngành và không ngoại trừ trong ngành hải quan .
Thủ tục hải quan điện tử là thủ tục hải được hải quan được thực hiện bằng các thông điệp dữ liệu điện tử thông qua hệ thống xữ lý dữ liệu điện tử của cơ quan hải quan theo quy định của pháp luật.
Trong khái niệm trên thì thông điệp dữ liệu hải quan điện tử là những thông tin được tạo ra ,gửi đi ,được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử để thực hiện thủ tục hải quan điện tử.
Hệ thống dữ liệu điện tử hải quan là hệ thống thông tin do Tổng cục Hải quan quản lý tập trung ,thống nhất ,được sử dụng để tiếp nhận ,lưu trữ ,xử lý và phản hồi các thông điệp dữ liệu điện tử hải quan để thực hiện thủ tục hải quan điện tử
Chứng từ điện tử” là thông tin được tạo ra, gửi đi, nhận và lưu trữ bằng phương tiện điện tử trong hoạt động tài chínhluận văn - báo cáo - tiểu luận chuyên ngành Tài chính. Chứng từ điện tử là một hình thức của thông điệp dữ liệu, bao gồm: chứng từ kế toánluận văn - báo cáo - tiểu luận chuyên ngành Kế toán điện tử; chứng từ thu, chi ngân sáchThư viện Sách, Mỗi Ngày Một Cuốn Sách điện tử; thông tin khai và thực hiện thủ tục hải quan điện tử; thông tin khai và thực hiện thủ tục thuếluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Tài Chính Thuế điện tử; chứng từ giao dịch chứng khoánluận văn - báo cáo - tiểu luận chuyên ngành Chứng Khoán điện tử; báo cáo tài chính điện tử; báo cáo quyết toán điện tử và các loại chứng từ điện tử khác phù hợp với từng loại giao dịch theo quy định của pháp luật.
Hệ thống khai hải quan điện tử: Là hệ thống thông tin do người khai hải quan quản lý, sử dụng để thực hiện thủ tục hải quan điện tử.
Quy trình thủ tục hải quan điện tử có thể tóm tắt như sau
- Người khai hải quan được khai và truyền số liệu khai hải quan bằng phương tiện điện tử đến cơ quan hải quan thông qua tổ chức truyền nhận chứng từ điện tử (người khai hải quan không phải đến cơ quan hải quan để nộp đăng ký tờ khai như quy trình thủ tục hải quan hiện hành )
- Cơ quan hải quan xử lý phân luồng hàng hóa và quyết định hình thức kiểm tra thông qua hệ thống xử lý dữ liệu điện tử tự động trên cơ sở phân tích ,xử lý thông tin
- Người khai hải quan tự khai ,tự nộp thuế và các khoản thu khác ,chịu trách nhiệm về nội dung khai hải quan của mình
- Cơ quan hải quan quyết định thông quan hàng hóa dựa trên kết quả xử lý dữ liệu trên hệ thống công nghệ thông tin.
● Đặc điểm thủ tục hải quan điện tử :
Người khai hải quan và công chức hải quan không phải tiếp xúc trực tiếp khi thực hiện thủ tục hải mà chỉ cần thông qua hình thức truyền dữ liệu điện tử.
- Khi thực hiện thủ tục hải quan điện tử , người khai hải quan sử dụng chữ ký số và phải có trách nhiệm bảo mật tài khoản sử dụng khi giao dịch với cơ quan hải quan thông qua Hệ thống khai hải quan điện tử hoặc hệ thống khai hải quan điện tử dự phòng
- Các chứng từ trong bộ sơ hải quan có thể hiện ở dạng văn bảnThư viện các mẫu văn bản giấy hoăc dạng điện tử chính chứng từ đó thể hiện ở dạng văn bản giấy ,chứng từ điện tử có thể được chuyên đổi từ chứng từ ở dạng văn bản giấy ,chứng từ điện tử có thể được chuyển đổi từ chứng từ đó thể hiện ở dạng văn bản giấy ,chứng từ điện tử có thể chuyển đổi từ chứng từ ở dạng văn bản nếu đảm bảo các điều kiện sau: phản ánh toàn vẹn nội dung của chứng tờ giấy ; có xác nhận trên chứng từ giấy “ ĐÃ CHUYỂN ĐỔI SANG DẠNG ĐIỆN TỬ “ theo ‘ mẫu dấu chứng nhận đã chuyển đổi sang dạng điện tử “ về việc đã được chuyển đổi từ chứng từ giấy sang chứng từ điện tử ,có chữ ký và họ tên của người khai hải quan .Chứng từ giấy đã được chuyển đổi sang chứng từ điện tử phải được kí nhận bởi người đại diện hợp pháp theo quy định của pháp luật.
- Hệ thống xử lý dữ liệu điện tử tiếp nhận tờ khai hải quan điện được thực hiện lien tục vào bất cứ thời điểm nào ,tuy nhiên việc thực hiện thủ tục hải quan ngoài goìư hành chínhluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Hành Chính do Chi cục trưởng Chi cục hải quan nơi thực hiện thủ tục hải quan điện tử xem xét ,quyết định trên cơ sở đăng ký truớc của người khai hải quan .
Thực trạng nhập khẩu hàng hóa tại công ty cung ứng nhân lực quốc tế và th¬ơng mại (sona)
LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ năm 1996, Đảng và nhà Nớc bắt đầu thực hiện việc chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trờng, dới sự quản lý của Nhà Nớc và theo định hớng XHCN. Với cơ chế mới này, nền kinh tế của ta không còn là nền kinh tế tập thể, hợp tác nữa mà là nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế cùng tồn tại song song, cùng bổ xung hỗ trợ cho nhau để cùng tiến lên con đờng CNXH. Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế là một môi trờng kinh doanhluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu - sách về Kinh Doanh hoàn toàn mới mẻ đầy những thuận lợi, những cơ hội và những thách thức đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh nói chung và với công ty nói riêng và cả với các doanh nghiệp nớc ngoài. Những bất cập, những hạn chế còn tồn tại đan xen với những quy luậtluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Luật những quy định mới, khiến các doanh nghiệp phải lao đao, vất vả trong qua trình tồn tại và phát triển của mình trong môi trờng kinh doanh khốc nghiệt đó. Bên cạnh đó cũng có nhiều doanh nghiệp tự mình tìm ra những cơ hội để tự khẳng định mình trong nền kinh tế thị trờng nh hiện nay.
Trớc sự thay đổi đó, công ty cung ứng nhân lực quốc tếluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Quan Hệ Quốc Tế và thơng mại(SONA), một công ty đợc thành lập từ rất lâu, cũng đã phải chải qua nhiều sóng gió để tồn tại và phát triển. Sự phát triển lớn mạnh với uy tín, lợi thế của mình trên thơng trờng và đặc biệt là hoạt động kinh doanh thơng mại đợc ra đời từ năm 1997 đã là một minh chứng cụ thể về sự thành công trên con đờng phát triển của công ty, mặc dù chỉ mới ra đời cha lâu nhng hoạt động kinh doanh thơng mại của công ty cũng đã gặt hái đợc những thành công đáng kể trong hoạt động thơng mại của mình. Để có đợc những thành công bớc đầu nh vậy là cả một sự lỗ lực của ban quản trịluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Quản Trị Kinh Doanh, toàn thể nhân viên của công ty. Công ty đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ mà Đảng và Nhà Nớc, cục quản lý lao độngluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Lao Động Học với nớc ngoài, BLĐTBXH giao cho. Nghĩa vụ nộp ngân sáchThư viện Sách, Mỗi Ngày Một Cuốn Sách cho nhà nớc luôn đợc thực hiện đầy đủ, hơn nữa đời sống của CBCNV ổn định và ngày càng đợc nâng cao
CHƠNG I. CƠ SỬ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÁC DOANH NGHIỆP THƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN.
I. Khái niệm, vai trò, hình thức hoạt động nhập khẩu trong nền kinh tế quốc dân.
Khái niệm.
Từ lâu nay nhập khẩu hàng hóa đã trở thành một việc làm quan trọng trong hoạt động kinh doanh thơng mại. Đó chính là việc trao đổi hàng hóa từ các tôt chức kinh tế, các công ty có pháp nhân tại nớc sở tại và việc tiến hành tiêu thụ hàng hóa nhập khẩu trong thị trờng nội địa hoặc tái – xuất khẩu với mục đích cuối cùng là thu lợi nhuận và nối liền sản xuất vầ tiêu thụ giữa các quốc gia.
2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu đối với nền kinh tế quốc dân.
Nhập khẩu là một hoạt động hữu cơ của hoạt động ngoại thơng nó tác động trực tiếp tới sản xuất và đời sống của mỗi quốc gia. Nhập khẩu thể hiện mức độ gắn bó phụ thuộc lẫn nhau giữa nề kinh tế của mỗi quốc gia với tổng thể của nền kinh tế thế giới. Nó tác động tích cực đến sự phát triển cân đối và khai thác tiềm năng thế mạnh của nền kinh tế mỗi quốc gia về sức lao động, vốn, tài nguyên, và khoa học công nghệluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Công Nghệ. Trong xu thế vận động của nền kinh tế thế giới nh hiện nay, Việt NamThư Viện Điện Tử Trực Tuyến Việt Nam cũng nh hầu hết các quốc gia khác trên thế giới đã và đang không ngừng mở rộng quan hệ buôn bán quốc tế, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn mạnh, cùng với sợ hình thành các trung tâm thơng mại, khối mậu dịch tự do đã chứng tỏ việc lu chuyển hàng hóa giữa các quốc gia không ngừng đợc cải thiện và nâng cao. lúc này vai trò của hoạt động nhập khẩu có ý nghĩa rất lớn đối với việc ổn định và phát triển kinh tế quốc gia nói riêng và phát triển kinh tế thế giới nói chung.
Lý do là:
- Nhập khẩu là cơ sở nhằm bổ sung hàng hóa trong nớc không sản xuất đợc hoặc sản xuất không đủ đáp ứng nhu cầu, hơn nữa nó cũng cho phép đa dạng hóa các chủng loại hàng hóa, chất lợng cho phép thảo mãn nhu cầu trong nớc.
- Nhập khẩu còn khai thác đợc lợi thế so sánh tạo ra đợc sự phát triển vợt bậc trong sản xuất xã hộiluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Xã hội, tiết kiệm chi phí, thời gian tạo ra sự phát triển đồng đều về trình độ xã hội, phá bỏ tình trạng độc quyền trong sản xuất kinh doanh trong nớc, tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế có cơ hội tham gia trên thị trờng quốc tế.
- Nhập khẩu tạo ra sự liên kết trong nớc với nền kinh tế thế giới, tạo điều kiện cho sự phát triển, phân công lao động và hợp tác quốc tế, khai thác đợc lợi thế so sánh trên cơ sở chuyên môn hóa sản xuất.
- Nhập khẩu đem lại cho nền kinh tế trang thiết bị hiện đại, công nghệ sản xuất tiên tiến, tăng cờng chuyển giao công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng CNH – HĐH đất nớc.
- Nhập khẩu có vai trò tích cực đến việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo điều kiện đầu vào cho sản xuất hàng hóa xuất khẩu, tạomt thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng hóa trong nớc ra nớc ngoài, đặc biệt là nớc xuất khẩu.
Ngoài ra nhập khẩu còn góp phần tích cực vào việc thúc đẩy sản xuất nhằm góp phần nâng cao chất lợng sản xuất hàng hóa xuất khẩu, tạo điều kiện cho hàng hóa của một nớc đạt đợc tiêu chuẩn của thế giới quy định.
Tuy nhiên, liệu có thể tận dụng hết đợc lợi thế của hoạt động nhập khẩu còn phải xem chính sách, đờng lối phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Đối với nớc ta, trớc đây quan hệ kinh tế quốc tế chỉ thu hẹp trong một số nớc XHCN, nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, chỉ mang tính tự cung tự cấp, hàng hóa chủ yếu nhập khẩu thông qua các khoản viện trợ và mua bán theo nghị định th đã là mất đi tính đúng đắn của hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp Nhà nớc đđộc quyền. Do vậy hoạt động nhập khẩu rất trì trệ và không đáp ứng đợc nhu cầu về hàng hóa trong nớc.
Nhận đợc tầm quan trọng đó, Đại hội Đảng toàn quốc VI đã là bớc ngoặc mới, một động lực mới đa đất nớc ta đi vào con đờng cải cách triệt để, nhằm thoát khỏi nền kinh tế đó chính là một bớc tiến vĩ đại giúp nền kinh tế nớc ta hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tạo ra một thị trờng nội địa đầy sôi động, hàng hóa phong phú, phát huy mạnh tính cạnh tranh. Trên thực tế đã chứng minh đợc sự năng động của kinh tế thị trờng cũng nh khẳng định rõ vai trò hoạt động nhập khẩu trong nền kinh tế mới.
Nhập khẩu đã góp phần quan trọng vào việc phát triển sản xuất chuyển dich cơ cấu kinh tế theo hớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc, với định hớng phát triển nền kinh tế, nhập khẩu luôn là giải pháp có tầm cỡ chiến lợc, nhằm phục vụ cho việc phát triển nền kinh tế quốc dân. Chính sách nhập khẩu phải luôn tranh thủ nguồn vốn, khoa học công nghệ tiên tiến một cách có hiệu quả nhất cũng nh bồi dỡng đọi ngũ cán bộ kỹ thuậtluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Kỹ thuật và quản lý nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hóa của nớc ta một cách phát triển với mục đích vừa sản xuất vừa tiêu dùng trong nớc, vừa xuất khẩu thu ngoại tệ, tăng tích luỹ cho đất nớc. Nhờ có hoạt động nhập khẩu mà các doanh nghiệp trong nớc có cơ hội tham gia cạnh tranh trên thị trờng quốc tế, khi đó buộc các doanh nghiệp phải hình thành một chiến lợc kinh doanh riêng nhng phải phù hợp với cơ chế thị trờng, đồng thời phải nâng cao năng lực quản lý sao cho phù hợp với xu thế chung nhằm tạo ra nhiều cơ hội mới thồn qua quan hệ với ca đối tác nớc ngoài trên cơ sở các bên cùng hởng lợi.
Nh vậy, để phát huy hết đợc vai trò của hoạt động nhập khẩu là một việc làm không hề đơn giản, nó đòi hỏi mỗi quốc gia nó chung và các doanh nghiệp nói riêng phải có sự lựa xhọn đúng đắn các hình thức nhập khẩu để xác định rõ các nhân tố ảnh hởng đến hoạt động này, nh thế thì với có thể khai thác đợc tối đa lợi thế so sánh.
3. Các hình thức nhập khẩu.
Trong thực tế hoạt động ngoại thơng có nhiều hình thức nhập khẩu, nhng tuỳ theo đặc trng của mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp mà cần phải lựa chọn hình thức nào cho phù hợp nhất. Cũng do tác động của nhiều nhân tố trong nền kinh tế cùng với sự sáng tạo và năng nổ của các nhà kinh doanh đã tạo ra sự đa dạng của các hình thức nhập khẩu chứ không chỉ bó hẹp trong hình thức nhập khẩu trực tiếp.
- Nhập khẩu uỷ thác.
Trong hoạt động ngoại thơng không phải doanh nghiệp nào cũng có thể tham gia vào hoạt động nhập khẩu trực tiếp. Do đó khi một doanh nghiệp có vốn bằng ngoại tệ, lại có nhu cầu nhập khẩu trực tiếp thì họ phải lảm nh thế nào? Từ đó đã hình thành nên nhu cầu nhập khẩu uỷ thác, đó là doanh nghiệp này uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thơng tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên nhân uỷ thác sẽ tiến hành đàm phán với bên đối tác nớc ngoài để làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa theo yêu cầu của bên uỷ thác và lợi nhuận nhận đợc gọi là phí uỷ thác.
Hình thức này có đặc điểm sau:
+ Doanh nghiệp trực tiếp nhập khẩu không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị trờng tiêu thụ do không phải tiêu thụ hàng hóa nhập khẩu, mà chỉ đứng ra làm đại diện ch bên uỷ thác giao dịch với bên nớc ngoài, ký kết hợp đồng, làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa, cũng nh thay mặt cho bên uỷ thác khiếu nại bồi thờng với bên nớc ngoài khi có tổn thất.
+ Các doanh nghiệp đợc uỷ thác nhập khẩu chỉ đợc tính kim ngạch nhập khẩu chứ không đợc tính doanh số, doanh thu, bên cạnh đó các doanh nghiệp nhập khẩu phải lập hai hợp đồng. Một hợp đồng mua bán hàng hóa với nớc ngoài
.
NT372 - Hiện trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu sức lao động tại Công ty Phát triển Công nghệ, Tin học và Cung ứng nhân lực
Lời mở đầu
*********************
Như chúng ta đều biết, với sự phát triển của thế giới ngày nay, không một quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, phát triển hay đang phát triển lại có thể sống trong sự biệt lập với thế giới bên ngoài. Ngược lại, sự tuỳ thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng và tác động trực tiếp đến từng quốc gia, từng khu vực và toàn thế giới. Xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá trên tất cả các lĩnh vực, theo các cung bậc khác nhau và trên những ngả đường khác nhau là tất yếu.
Với nước ta, trong giai đoạn đổi mới hiện nay khi mà Việt NamThư Viện Điện Tử Trực Tuyến Việt Nam đang thực hiện chính sáchThư viện Sách, Mỗi Ngày Một Cuốn Sách đối ngoại với phương châm là “bạn của tất cả các nước” và “mở cửa” nền kinh tế. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, sự giao lưu về chính trịluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành kinh tế chính trị – kinh tế – văn hoá - xã hộiluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Xã hội giữa nước ta với các nước trong khu vực nói riêng và các nước trên thế giới nói chung. Đất nước đang thực sự hoà nhập vào cộng đồng quốc tếluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Quan Hệ Quốc Tế bằng cách tham gia ngày càng sâu sắc vào quy trình phân công lao độngluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Lao Động Học quốc tế và quốc tế hoá đời sống xã hội.
Trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và kinh tế đối ngoại thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã xác định xuất khẩu sức lao động là một trong những hướng trọng tâm và được ưu tiên, tại Nghị quyết Đại hội VIII và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 của Đảng, trong đó có chủ trương “Đẩy mạnh xuất khẩu lao động”, phù hợp với sự phát triển trong nước và quốc tế. Công tác xuất khẩu lao động đã được thể chế hoá bằng Chỉ thị 41-CT/TW của Bộ Chính trị, Đề án xuất khẩu lao động trong thời kỳ 1998 – 2010 và Nghị định số 152/1999/NĐ-CP của Chính phủ.
Tăng cường xuất khẩu sức lao động không chỉ góp phần giải quyết những mục tiêu kinh tế – xã hội như giải quyết việc làm, nâng cao trình độ tay nghề và mức sống cho một bộ phận người lao động, đem lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, mà còn góp phần quan trọng vào việc tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế giữa Việt nam với các nước, củng cố và phát triển cộng đồng người Việt ở nước ngoài hướng về Tổ quốc.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, vấn đề việc làm đã và đang là một vấn đề nóng bỏng, tạo ra sức ép gay gắt, để lại những hậu quả kinh tế không nhỏ, từ năm 1980 đến nay, chúng ta đã tiến hành hoạt động xuất khẩu lao động, đưa người lao động Việt nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Đây là một hoạt động quan trọng trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại của nước ta.
Trong giai đoạn 1980-1990, Việt Nam đã đưa khoảng 300 ngìn lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài. Số lao động này chủ yếu đến làm việc ở Liên Xô (cũ) và các nước XHCN Đông Âu trước đây. Lao động ta cung ứng hoàn toàn do phía bạn bố trí sử dụng, tổ chức và chịu chi phí đào tạo.
Bước sang giai đoạn từ 1991 đến nay, việc xuất khẩu lao động đã có những thay đổi mới. Cơ chế đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở Nước ngoài theo quan hệ cung cầu và khả năng khai thác, mở rộng thị trường của các doanh nghiệp cung ứng lao động theo định hướng và quản lý của Nhà nước. Hiện nay đã có 40 nước và vùng lãnh thổ tiếp nhận lao động và chuyên gia Việt nam. Song để cạnh tranh được với thị trường xuất khẩu lao động trên thế giới hiện nay đòi hỏi chúng ta phải có nhận thức đúng đắn về thực trạng thị trường xuất khẩu lao động của nước ta hiện nay, đặc điểm của các thị trường nhập khẩu lao động cùng những giải pháp hữu hiệu và đồng bộ không những về phía nhà nước mà còn về phía các doanh nghiệp chuyên doanh xuất khẩu lao động.
Xuất phát từ những nhận thức trên, cộng với những kiến thức tôi đã học tập tại trường và là một cán bộ quản lý làm việc trong lĩnh vực xuất khẩu lao động tại Công ty Phát triển Công nghệluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Công Nghệ, Tin họcluận văn - báo cáo - tiểu luận chuyên ngành Tin Học và Cung ứng nhân lực, tôi đã lựa chọn đề tài “Hiện trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanhluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu - sách về Kinh Doanh xuất khẩu sức lao động tại Công ty Phát triển Công nghệ, Tin học và Cung ứng nhân lực.”
* Mục đích của đề tài:
Nhìn nhận hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam trong thời gian qua nói chung và tại Công ty Phát triển Công nghệ, Tin học và Cung ứng nhân lực nói riêng, đánh giá các kết quả đạt được cũng như những khó khăn hạn chế cần khắc phục tại Công ty, nhận định đặc điểm của công tác xuất khẩu lao động tại Công ty hiện nay, trên có sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này tại Công ty.
* Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của khoá luận chỉ giới hạn ở những vấn đề cơ bản nhất có liên quan đến hoạt động xuất khẩu lao động của Công ty Phát triển Công nghệ, Tin học và Cung ứng nhân lực hiện nay, những tồn tại và giải pháp khắc phục.
* Phương pháp nghiên cứu:
Khoá luận áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp liệt kê và thống kê, phương pháp kết hợp giữa lý luận với thực tiễn...
* Nội dung nghiên cứu:
Trong phạm vi đề tài tôi không có đủ khả năng giải quyết mọi vấn đề thực tiễn đặt ra, ở đây tôi chỉ đề cập đến những vấn đề cơ bản trong lĩnh vực xuất khẩu lao động tại Công ty Phát triển Công nghệ, Tin học và Cung ứng nhân lực ở khía cạnh Quan hệ kinh tế quốc tế. Kết cấu của đề tài ngoài lời nói đầu và kết luận gồm 3 chương:
Chương I: Khái quát chung về tình hình xuất khẩu lao động của Việt Nam trong thời gian gần đây.
Chương II: Hoạt động xuất khẩu lao động của Công ty Phát triển Công nghệ, tin học và Cung ứng nhân lực.
Chương III: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả trong hoạt động xuất khẩu lao động của Công ty Phát triển Công nghệ, Tin học và Cung ứng nhân lực. .
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU UỶ THÁC
I. KHÁI NIỆM HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU ỦY THÁC
II. NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU ỦY THÁC
1. Về chủ thể
2. Các văn bảnThư viện các mẫu văn bản của Nhà nước điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu uỷ thác
3. Các nghiệp vụ của hoạt động xuất nhập khẩu uỷ thác
4. Hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu
CHƯƠNG II: HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU UỶ THÁC Ở CÔNG TY TOCONTAP – HÀ NỘI
I. VÀI NÉT VỀ CÔNG TY TOCONTAP VÀ TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU UỶ THÁC Ở CÔNG TY TRONG MẤY NĂM QUA
1. Giới thiệu tóm tắt về Công ty TOCONTAP - Hà Nội
2. Cơ cấu tổ chức của Công ty TOCONTAP
3. Tình hình hoạt động của TOCONTAP trong những năm vừa qua
II. HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU ỦY THÁC Ở CÔNG TY TOCONTAP
1. Giao dịch
2. Chào hàng, đặt hàng
3. Đàm phán
4. Ký kết hợp đồng ngoại
5. Ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu uỷ thác (hay còn gọi là hợp đồng nội)
6. Kiểm tra chất lượng
7. Thuê tàu lưu cước
8. Làm thủ tục hải quan
9. Giao nhận hàng với tàu
10. Lập bộ chứng từ thanh toán
11. Giải quyết tranh chấp khiếu nại (nếu có)
12. Thanh lý hợp đồng
CHƯƠNG III: CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XUẤT NHẬP KHẨU
UỶ THÁC Ở CÔNG TY TOCONTAP
I. PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA TOCONTAP TRONG TUONG LAI
1. Công tác nghiên cứu khách hàng và thâm nhập thị trường
2. Công tác bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các cán bộ trong Công ty
3. Công tác khuyến khích nguồn tài chínhluận văn - báo cáo - tiểu luận chuyên ngành Tài chính của Công ty
II. GIẢI PHÁP
1. Ưu nhược điểm
2. Kiến nghị
KẾT LUẬN
(40 TRANG) .
Đổi mới quản lý nhà nước đối với nông nghiệp Việt Nam trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau 20 năm đổi mới, nông nghiệp Việt NamThư Viện Điện Tử Trực Tuyến Việt Nam đã thu được những thành
tựu to lớn. Nhiều nhà nghiên cứu, tổ chức và quốc gia trên thế giới đã
đánh giá cao những tiến bộ trong sản xuất nông nghiệp Việt Nam - nhất là
việc giải quyết vấn đề lương thực. Có nhiều nguyên nhân tạo nên những
thắng lợi của nông nghiệp, trong đó, sự thay đổi cách thức quản lý nông
nghiệp của nhà nước được đánh giá là nguyên nhân cơ bản. Tuy nhiên,
nông nghiệp Việt Nam vẫn là ngành chậm phát triển. Năng suất, chất
lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh của nông nghiệp còn thấp. Thực tiễn
các nước có ngành nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu kinh tế đã
tham gia WTO cho thấy, việc tham gia vào nền kinh tế thế giới, các nước
đang phát triển có nhiều cơ hội nhưng cũng đứng trước không ít thách
thức. Khu vực nông nghiệp được đánh giá là khu vực nhạy cảm trong thương
mại thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tếluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Quan Hệ Quốc Tế về nông nghiệp có nghĩa là hàng nông
sản Việt Nam có thể bán ở nhiều quốc gia trên thế giới với "luậtluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Luật chơi"
chung, nhưng lãnh thổ Việt Nam cũng trở thành địa bàn, thành "chợ" để
bán hàng nông sản của nhiều quốc gia và các nước thành viên. Trong đó,
không ít nông sản cùng chủng loại với nông sản do Việt Nam sản xuất có
nguồn gốc xuất phát từ những nước có trình độ phát triển nông nghiệp
hàng hoá và tiềm lực ngân sáchThư viện Sách, Mỗi Ngày Một Cuốn Sách nhà nước lớn hơn Việt Nam rất nhiều.
Như vậy, vừa mới bước đầu chuyển sang sản xuất hàng hoá với chủ
thể chính là 13,5 triệu hộ nông dân năng lực thấp, nông nghiệp Việt Nam
đang đứng trước những thách thức mới. Khắc phục những yếu kém, hạn
chế của nông nghiệp không đơn giản, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh
tế quốc tế hiện nay, chắc chắn sẽ xuất hiện những vấn đề mới trong quản
lý nhà nước đối với nông nghiệp.
Chính vì vậy, "Đổi mới quản lý nhà nước đối với nông nghiệp Việt
Nam trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế" được nghiên cứu sinh chọn
làm để tài luận án tiến sĩLuận văn tiến sĩ các ngành.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đến nay, đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu quản lý nhà
nước về kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng và đề cập ở những góc độ
và phạm vi khác nhau, tác giả nghiên cứu về đổi mới quản lý nhà nước đối
với nông nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là công trình
nghiên cứu không bị trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
* Mục đích của luận án: Trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu
kết hợp với khảo sát thực tiễn, mục đích của luận án là đi sâu đánh giá
thực trạng và đề xuất những giải pháp để hoàn thiện quản lý nhà nước đối
với ngành nông nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
* Nhiệm vụ của luận án:
- Nghiên cứu làm rõ những nhận thức lý luận về quản lý nhà nước đối
với nông nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với nông nghiệp Việt Nam
trong quá trình đổi mới của đất nước.
- Luận án đưa ra một số quan điểm cơ bản và các giải pháp đổi mới
quản lý nhà nước đối với nông nghiệp trước yêu cầu hội nhập.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với ngành nông
nghiệp (theo nghĩa hẹp bao gồm trồng trọt và chăn nuôi).
Đề tài không tập trung phân tích các yếu tố tác động đến sự phát triển
nông nghiệp mà chủ yếu phân tích, đánh giá hoạt động quản lý nhà nước
đối với ngành nông nghiệp và từ đó đưa ra kiến nghị và những giải pháp
đổi mới hoạt động quản lý nhà nước đối với nông nghiệp trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế.
Về thời gian nghiên cứu, lấy mốc từ năm 1986 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận án sử dụng phương pháp
nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sửluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Lịch Sử của chủ nghĩaluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành CNXH Mác - Lênin,
3 4
quan điểm của Đảng ta thể hiện trong các nghị quyết về đổi mới quản lý
nhà nước đối với nông nghiệp đồng thời sử dụng phương pháp phân tích
nguyên lý hệ thống, lý thuyết khoa học quản lý kinh tế, khoa học hành
chính, phương pháp phân tích thống kê, phân tích hoạt động kinh tế, kết
hợp giữa nghiên cứu lý thuyết và tổng kết thực tiễn, coi trọng tổng kết
thực tiễn để rút ra kết luận đổi mới quản lý nhà nước đối với nông nghiệp
Việt Nam trong xu thế hội nhập.
6. Những đóng góp của luận án
- Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học
đi trước, luận án góp phần làm rõ những nhận thức lý luận về quản lý nhà
nước đối với nông nghiệp và nêu lên sự cần thiết đổi mới quản lý nhà
nước đối với nông nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
- Làm rõ sự cần thiết khách quan phát triển nông nghiệp hàng hóa đa
dạng, bền vững gắn với thị trường là cơ sở thực hiện mục tiêu nâng cao
mức sống của cư dân nông nghiệp, trong đó vai trò quản lý nhà nước đối
với nông nghiệp có ý nghĩa quyết định.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với nông nghiệp,
luận án chỉ ra những hạn chế của nó trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc
tế, đặc biệt là góp phần làm rõ nguyên nhân của những hạn chế đó để có
những giải pháp khắc phục.
- Dự báo những cơ hội và thách thức khi gia nhập WTO của ngành
nông nghiệp Việt Nam, nêu lên những quan điểm cơ bản và một số giải
pháp chủ yếu mà nhà nước cần thực hiện đối với nông nghiệp Việt Nam
trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Luận án có ý nghĩa thực tiễn là tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch
định chính sách, cũng như đối với người làm công tác nghiên cứu và giảng
dạy trong lĩnh vực này.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận án được trình bày trong 3 chương, .
việt nam và WTO
Trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hoá, nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Xu thế này mở ra nhiều cơ hội,đồng thời cũng đặt các quốc gia trước sự lựa chọn không dễ dàng: đứng ngoài xu thế đó thì bị cô lập và tụt hậu, tham gia thì phải ứng phó với sự cạnh tranh mạnh mẽ. Tuy nhiên, xu hướng chung là các quốc gia lớn nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tếluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Quan Hệ Quốc Tế về kinh tế, thương mạiluận văn - báo cáo - tiểu luận chuyên ngành Thương mại và nhiều lĩnh vực hoạt động khác. Điều đó cũng lý giải tại sao hầu hết các nước, kể cả các nước đang phát triển, thậm chí kém phát triển, cũng tham gia vào quá trình hội nhập, từng bước chấp nhận những “ luậtluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Luật chơi” chung của các tổ chức khu vực và quốc tế.
Trong xu thế chung này, không những các khu vực, các quốc gia mà cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs), nhất là những doanh nghiệp xuất nhập khâủ vừa và nhỏ ở mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ cũng chịu tác động trực tiếp của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Một yêu cầu được đặt ra vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với các doanh nghiệp này là thích ứng được với những thay đổi trong môi trườngluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Môi Trường kinh doanhluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu - sách về Kinh Doanh toàn cầu, các hiệp định thương mại đa phương trong buôn bán quốc tế.
Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu vừa và nhỏ Việt NamThư Viện Điện Tử Trực Tuyến Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế này khi chúng ta là thành viên chính thức của WTO trong tương lai gần. Chúng ta sẽ đứng trước cơ hội cũng như thách thức rất lớn nhưng chúng ta đã biết những gì và đã chuẩn bị những gì cho sự kiện này? Liệu những doanh nghiệp non trẻ của chúng ta có thể đứng vững trước những cơn bão cạnh tranh từ các nền kinh tế năng động khác? Với những kiến thức và hiểu biết của mình, qua đề tài: ”Dự báo về tác động của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO đối với các doanh nghiệp xuất khẩu vừa và nhỏ Việt Nam – Những giải pháp đề xuất” , tôi xin được nêu rõ nhìn nhận của mình về thực trạng các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, về những thuận lợi cũng như khó khăn mà các doanh nghiệp này sẽ gặp khi Việt Nam gia nhập WTO và xin đề xuất một số giải pháp tháo gỡ các khó khăn còn vướng mắc. .
Lời dẫn
Những năm cuối thế kỷ XX, hệ thống xã hộiluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Xã hội chủ nghĩaluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành CNXH lâm vào khủng hoảng toàn diện và nghiêm trọng dẫn đến sự sụp đổ của bộ phận lớn làm thay đổi cơ bản cục diện chính trịluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành kinh tế chính trị của thế giới. Bên cạnh đó, chủ nghĩa tư bản tận dụng được những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Công Nghệ hiện đại nên đã thích nghi và vẫn tiếp tục phát triển.
Trật tự thế giới hai cực tan dã, quan hệ quốc tếluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Quan Hệ Quốc Tế chuyển dần từ đối đầu sang đối thoại, từ đó làm nảy sinh xu hướng đa dạng hoá, đa phương hoá trong tiến trình hội nhập toàn cầu. Hoà bình, ổn định hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các quốc gia. Toàn cầu hoá về kinh tế chiếm vị trí quan trọng trong quan hệ giữa các quốc gia,kinh tê được ưu tiên phát triển và trở thành chủ đề chính trong quan hệ quốc tế hiện nay.
Trước bối cảnh quốc tế và xu thế chung của thế giới đang diễn ra như vậy, các quốc gia đều phải điều chỉnh lại chính sáchThư viện Sách, Mỗi Ngày Một Cuốn Sách đối ngoại của mình để thích ứng với tình hình mới. Việt NamThư Viện Điện Tử Trực Tuyến Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó.
Chính sách đối ngoại là một bộ phận hợp thành đường lối đổi mới của Việt Nam trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởngluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu môn Tư Tưởng HCM Hồ Chí Minhluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu môn TTHCM. Được khởi xướng từ năm 1986 và sau hơn 10 năm thực hiện, chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đã góp phần không nhỏ đến sự phát triển của đất nước, tạo điều kiện khai thác có hiệu quả các nhân tố quốc tế, kết hợp được sức mạnh dân tộcluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Dân Tộc Học với sức mạnh thời đại đưa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng và đi lên.
Chính sách đối ngoại đổi mới là một trong những mốc đánh dấu thành tựu to lớn của Việt Nam trong thế kỷ XX, tạo tiền đề cho Việt Nam vững bước đi vào thế kỷ XXI. Với lý do đó cùng với ham muốn được tìm hiểu chính sách đối ngoại đổi mới và quan hệ quốc tế của Việt Nam giai đoạn này, em mạnh dạn chọn đề tài “Quan hệ quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới” làm chuyên đềChuyên đề các môn học thực tập. .
No comments:
Post a Comment