Tuesday, February 1, 2011

Phụ nữ Việt bên dòng sông Tonlesap

Phụ nữ Việt bên dòng sông Tonlesap (Phần 1)
Phương Anh, phóng viên RFA
2010-08-18
Từ mấy chục năm qua, dọc theo khu vực Biển Hồ thuộc đất Campuchia, có hàng ngàn gia đình Việt Nam từ khắp nơi tụ về cùng với người dân bản xứ sống cùng sông nước mênh mông.

Photo courtesy of tuoitre.vn
Cuộc sống của hai mẹ con Việt Nam lênh đênh trên sông nước ở Campuchia
Như cánh hoa lục bình
Người xuống nước chài lưới, bắt tôm bắt cá, kẻ trên bờ làm mướn làm thuê, sinh sống đắp đổi qua ngày. Trong số họ, có những chị em phụ nữ đang phải đối diện với hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt, nhất là đối với những phụ nữ nay đã ngoài 50, khi rời Việt Nam chỉ là các thiếu nữ trong lứa tuổi xuân thì.
Có thể nói, đời sống của các chị em người Việt bên dòng sông Mê Kông như cánh hoa lục bình trôi dạt vô định một cách vất vưởng mà rất ít người đoái hoài quan tâm. Đa số đều đi làm mướn vì không phải ai cũng có tiền mua ghe, ngư cụ để sinh sống, làm giàu trên dòng nước bao la với vựa tôm cá khổng lồ. Mỗi người một hoàn cảnh, khi rời Việt Nam, chị em nào cũng mong có một đời sống khá hơn bên cạnh hạnh phúc mình vừa tìm được. Thế nhưng, cuộc đời đâu phải lúc nào cũng như mình mơ ước. Chị Hoàng Thị Anh Thư, năm nay 55 tuổi, cho hay rằng:
Năm đó, mình chỉ có hai mươi mấy tuổi thôi. Mình đi, chỉ nghĩ là chỉ đi làm ăn thôi, ai dè ở bên này luôn, không có tiền đi về thăm nhà.
Chị Hoàng Thị Anh Thư

“Làm ăn vất vả lắm, mình qua đây năm 1984, lấy chồng, theo chồng qua đây ở. Chồng đi làm cá, theo chồng đi làm cá luôn. Quê mình ở Ban Mê Thuột, còn quê chồng ở Sa Đéc. Năm đó, mình chỉ có hai mươi mấy tuổi thôi. Mình đi, chỉ nghĩ là chỉ đi làm ăn thôi, ai dè ở bên này luôn, không có tiền đi về thăm nhà. Cuộc sống vất vả lắm, làm ăn thì bị người ta (người bản xứ) chèn ép, dân mình không được đối xử như dân của người ta, làm ăn khó khăn nên không có tiền về xứ nữa.”
Khi đặt chân lên xứ chùa tháp, cả hai vợ chồng sống trên dòng Mê Kông, lưới cá cũng qua ngày, chắc chị cũng không bao giờ nghĩ rằng có ngày chị lại phải đi bán ve chai, ngày ngày đẩy chiếc xe tự chế, trên chất đầy đồ phế thải để kiếm tiền sinh sống, chị nói:
“Mình làm nghề cá rồi bị người ta đuổi, đi lên bờ, làm nghề ve chai, mình đi lượm ve chai, đẩy xe, đi mua các đồ phế liệu về bán. Con mình thì học chữ được chữ không. Ở đại sứ quán, người ta dậy, mình cho cháu đi học, mười bốn, mười lăm tuổi rồi mà chỉ học tới lớp hai thôi.”
Trường hợp của chị Hứa Thị Hoàng thì thật trớ trêu, vì chuyến vượt biên bằng đường bộ của chị đã đưa đẩy chị đến nơi này, chị kể lại:
“Hồi nhỏ thì ở với bà ngoại, cha thì đi lính, cuộc sống cũng nghèo khổ, không có đất cát gì hết. Bây giờ thì bà ngoại, mẹ chết hết rồi. Sanh ra thì ở Sóc Trăng, nhưng lớn lên thì về Phụng Hiệp, làm giấy tờ ở trong đó. Nghèo, tính đi qua nước ngoài mà đi không được, mà số không đi được, nên ở bên đây đi “mần” kiếm cơm ăn. Hồi đó đi lên núi Ba Chúc ở Núi Sam, đi qua mấy dẫy núi, chỉ còn một dẫy núi sau cùng là tới đất đỏ, thì bị Miên bắt lại, thành ra ở đây luôn.
Đi lên núi Ba Chúc với một chị bạn gái, lớn tuổi hơn mình với một ông là người yêu của chị ấy, nghe nói là đại tá trong tòa đại sứ Mỹ ngày xưa, đi qua tới vịnh đất đỏ, rồi bị bắt lại. Ông đó thì chạy được, còn tôi với người bạn gái thì bị Miên bắt lại rồi thả ra.”
Trôi theo dòng đời

Trẻ em Việt ở Campuchia. Photo courtesy of tuoitre.vn
Theo lời chị cho biết, sau chuyến vượt biên băng rừng lội suối, ròng rã cả mười mấy ngày đói khát, rồi bị lính Campuchia bắt giam trong hai tuần và giao cho bộ đội Việt Nam biên phòng xử lý, chị được trả về quê cũ. Thế nhưng, khi về lại quê nhà, không tiền bạc, không có miếng đất cắm dùi, quá cực khổ, chị lại kiếm đường quay trở lại Campuchia để tìm đường vượt biên sang Thái Lan lần thứ hai, chị nói:
“Về VN, tôi thấy gia đình nghèo quá, tôi lại đi nữa, rồi không tìm được đường đi được nữa, tôi đành ở bên Miên luôn, tôi ở dòng sông Mê Kông. Lúc đó thì đi lấy ve chai, làm mướn, sống qua ngày…Mình cũng mướn đất ở nhưng mắc quá, không ở được, rồi cũng tá túc với cô bác qua ngày.”
Chị cũng tâm sự rằng, khi bỏ xứ ra đi, lòng chị đau như cắt vì phải bỏ đứa con gái duy nhất bé bỏng mới lên 3, là kết quả cuả cuộc hôn nhân không môn đăng hộ đối, bị gia đình chồng lên án kịch liệt, chị kể:
“Lấy chồng hồi còn nhỏ, lúc đó mới 16, 17 tuổi, ở với nhau được hai năm, lúc đó chị có bầu, nói đúng ra, người ta chê mình nghèo, người ta bỏ mình. Con chị được 3 tuổi, chị gửi cho bà ngoại nuôi, chị tính tìm đường đi, nhưng đi không được thì ở bên đây, cũng “mần” kiếm chút đỉnh gửi về cho bà ngọai nuôi cháu…Tới giờ thì bà ngoại cũng mất rồi, mẹ cũng mất rồi, chỉ còn một mình chị bên Miên này thôi.”
Bên cạnh những chị em phụ nữ vì hoàn cảnh đẩy đưa như chị Thư và chị Hoàng, còn có những người phụ nữ vì bị chính gia đình bỏ rơi, hay không chịu nổi sự hành hạ của họ hàng ruột thịt nên đành nhắm mắt liều mình theo tiếng gọi của tình yêu để mong sao gửi gấm đời mình, như trường hợp của chị Nguyễn thị Nại:
Mình đi làm ăn, rồi tự ý bỏ đi như vậy, cho nên bây giờ cũng mắc cỡ với gia đình, em út ở Việt Nam. Tụi nó ở VN thì đầy đủ, mình ở bên này cực khổ, không bằng em, nên về xứ, mắc cỡ không muốn về.
Chị Hoàng Thị Anh Thư

“Hồi còn nhỏ thì cha mẹ nuôi không được nên gửi xuống bà ngọai nuôi, ở quận 1, phường 13. Lớn lên thì đi bán chè trước cổng trường Bùi Thị Xuân, vừa bán vừa đi học trường Bùi Thị Xuân. Khi bà ngoại chết thì ở với cậu mợ. Vì bán vất vả quá nên học cũng đâu tới nơi tới chốn. Nghỉ học rồi bắt đầu đi lao động của TNXP, vì “giải phóng” vô, sợ quá, rồi vô tổ hợp thêu may, rồi phường thấy tội nghiệp, cho vô hợp tác xã làm thủ kho, được 4 năm, sống một mình như vậy rồi đến khi lấy chồng thì đi bên Miên luôn vì sống trong hòan cảnh bị cậu mợ chửi bới hoài, buồn quá, cha mẹ thì chết hết rồi.
Qua Miên sống một thời gian có 3 đứa con thì ảnh bỏ. Lúc đó con 9 tuổi, 7 tuổi và 4 tuổi, mình đi bán “đá bào” nuôi con lớn lên.”
Giờ đây, khi đã ở tuổi 56, chị hồi tưởng lại lúc đi cùng với người chồng cũ cách nay cũng gần 30 năm: “Đi lén, vì ông xã biết đường đi, đi bằng ghe, đi xe đò tới Châu Đốc, rồi đi ghe lên nữa, lên tới Hố Lương, Hố Lương rồi là lên đến đất Miên. Cái khoảng từ Châu Đốc tới Hố Lương là phải đi đò chẻ vì sợ bị bắt, người ta sang cái đò nhỏ, đi 3, 4 người, người ta chở mình đi.”
Với chị, cái cảm giác sợ hãi lúc bấy giờ chẳng là bao vì bên chị đã có người chồng luôn nâng đỡ. Lòng đầy háo hức mơ về một tương lai xán lạn có cơm no áo ấm. Thế nhưng, cũng đồng số phận như chị em khác, cái nghèo lại càng nghèo hơn, kéo đến càng nhanh hơn khi chồng chị đã bỏ đi biệt tích bao năm trời nay.
Da diết nỗi nhớ quê

Trường học cho trẻ em Việt Nam ở Campuchia trên căn nhà thuộc dạng “lai” giữa nhà và thuyền. Photo courtesy of tuoitre.vn
Lòng nhớ nhà, nhớ Việt Nam da diết nhưng chỉ biết để dòng lệ rơi âm thầm hòa với dòng nước sông Mê kông. Chị Võ Thị Sanh, năm nay 55 tuổi, cũng thế, chị kể: “Ở bên này lâu rồi, khổ lắm chị ơi, ngày xưa thì ở Hồng Ngự, là quê của ông nội. Ở đó thì cũng đâu có đất có ruộng gì đâu, cũng đói khổ…
Năm 1982 mình mới lên trên này (dòng Mê Kông) để ở, ở miền dưới thì cũng đâu có đất có ruộng, nên lên đây “đặng đi làm mướn cho người ta”.
Theo lời chị cho hay, sau khi chị sanh được 8 đứa con, cuộc sống càng ngày càng khổ, chồng chết vì lao lực, chị ở vậy nuôi con, chị nói tiếp:
“Có 8 đứa con, ở “giá” 17 năm rồi, có chiếc ghe nhỏ, ở dưới bè nhỏ, con đi làm mướn, thì cũng sống qua ngày, đâu có tiền gì đâu, thì cũng sống qua ngày thôi. 8 đứa con còn nhỏ xíu, mình đi làm mướn cũng có, đi chài lưới cũng có, bữa cơm bữa cháo, từ ngày đó đến bây giờ, lây lất qua ngày, nghèo quá, có ai giúp đỡ gì đâu mà có với người ta được. Sống ở sông Mê Kông ba mươi mấy năm rồi, bị “bể” (đuổi) thì lại chạy đến vùng khác ở nữa.”
Nhớ lắm, nhớ quê hương Việt Nam lắm, nhưng mà mình đâu có về đó được, vì đâu có đất có ruộng đâu…
Chị Võ Thị Sanh

Hầu như tất cả chị em người Việt đang sinh sống bên dòng Mê Kông, nơi xứ người đều có một nỗi nhớ nhà tha thiết, nhưng sự hồi hương không phải là dễ dàng như lời chị Thư tâm sự: "Cũng có, gia đình lâu lâu gửi cho ít tiền, nhưng mình mắc cỡ, không dám nhận…
Mình đi làm ăn, rồi tự ý bỏ đi như vậy, cho nên bây giờ cũng mắc cỡ với gia đình, em út ở Việt Nam. Tụi nó ở VN thì đầy đủ, mình ở bên này cực khổ, không bằng em, nên về xứ, mắc cỡ không muốn về.”
Có những chị em, sẵn sàng trở về quê sinh sống, ngặt nỗi, nghĩ đến kế sinh nhai thì lại chùn chân đổi ý như chị Sanh cho hay: “Nhớ lắm, nhớ quê hương Việt Nam lắm, nhưng mà mình đâu có về đó được, vì đâu có đất có ruộng đâu…”
Hiện tại, cuộc sống của những chị em này ra sao? Nhất là khi không còn được phép trôi nổi với ghe thuyền trên dòng Mê Kông nữa. Và với tuổi già nhanh chóng ập đến, ước mơ của họ là gì trên xứ người? Mời quí vị đón xem bài sau.
Phụ nữ Việt bên dòng sông Tonlesap (Phần 2)
Phương Anh, phóng viên RFA
2010-08-25
Thành ngữ Việt Nam ta có câu: “thuyền theo lái, gái theo chồng”, thật đúng với thân phận của các phụ nữ Việt ở dòng Mê kông thuộc xứ Chùa Tháp.

RFA photo
Ghe hàng Việt Nam trên Biển Hồ
Trang phụ nữ kỳ này xin gửi đến quí vị thông tin về cuộc sống hiện nay của những phụ nữ ấy cùng những ước mơ đơn sơ khi đến tuổi già.
Đã nghèo càng nghèo hơn
Những tưởng đời mình sẽ cuộc sống êm ấm, hạnh phúc bên chồng con cùng vui thú với sông nước, sống trên vựa cá tôm khổng lồ được coi như lớn hàng thứ 3 trên thế giới, tuy không giàu có, nhưng cũng đắp đổi qua ngày. Thế nhưng, khi chính quyền bản xứ ra lệnh cấm thì cuộc đời họ bắt đầu lâm vào hoàn cảnh đầy khó khăn, đã nghèo lại càng nghèo hơn, chị Hoàng Thị Anh Thư cho hay:
Trước đây làm nghề cá, bây giờ họ không cho thì mình lên bờ, đẩy xe đi lượm ve chai bán, lâu lâu thì có những cha ở trên nhà thờ, ở nước ngoài, cho chút đỉnh gạo rồi mình tự sống lấy. Hồi đó ở dưới sông thì không tốn tiền điện, tiền nước, tiền đất. Bây giờ người ta đuổi thì phải lên bờ, mình phải mướn đất, cất nhà, rất là vất vả. Tiền đất là 20 đồng (dollars) một tháng, mình làm cái chòi để ở. Tiền đất, tiền điện, mỗi tháng 4 đồng rưỡi (dollars).
Có người có gia đình, có người không, có người có chồng say sưa, bê tha, làm ăn khi được khi không, phải đi vác mướn ở dưới sông, lặn lội dưới sông kiếm ăn, hoặc phải đi trên vỉa hè lượm từng cái lon, cái chai để kiếm sống, thấy tội lắm.
Chị Anh Thư

Với chị Hoàng, người phụ nữ vượt biên bằng đường bộ hai lần qua ngả Campuchia, kẹt lại Nam Vang rồi trôi nổi bên dòng Mê Kông thì nay chỉ có một mình. Sau khi lên bờ, ở tuổi 56, chị sống nương nhờ trong cái chòi của bà con lối xóm cũng nghèo như chị. Hàng ngày, chị đi lượm ve chai như những phụ nữ khác cùng cảnh ngộ, bữa nào trúng lắm thì được 10 ngàn reil, tương đương chừng 2 dollars rưỡi.
Ở gần lối xóm, sống qua ngày vậy thôi, làm như cái số phận của mình như vậy rồi. Lúc trước thì mười mấy hai chục ngàn ria, bây giờ khổ quá thì “ve chai” ra nhiều, nên kiếm 9, 10 ngàn thôi.
Đó là chưa kể những lúc chị bị trấn lột bởi một số người Campuchia bản xứ.
Trong khi các chị em phụ nữ khác cùng chồng con ráng kéo nhau lên bờ thuê đất, làm chòi, làm nhà để trụ lại, thì chị Võ Thị Sanh, cùng 8 con vẫn bám vào cái ghe nhỏ dưới dòng Mê Kông, chấp nhận rày đây mai đó theo cùng con nước nổi trôi, vì lý do đơn giản: không có tiền thuê đất và làm nhà:
Làm ở dưới sông, bơi xuồng, lội nước, nghèo đói mà, nhưng ở được. Người ta đuổi, nhưng mình vẫn ở dưới sông vì họ đuổi nhưng không làm khó. Đuổi thì chèo ghe đi chỗ khác, chứ lên bờ thì một tháng phải cần tiền mướn đất mười mấy hai chục đô, rồi tiền cất nhà nữa, năm, sáu trăm đô, thành ra cứ chèo ghe chỗ này, chỗ khác…
Muốn lên bờ lắm chứ, ước sao có cái nhà nho nhỏ thôi. Bây giờ thì làm ngày nào ăn ngày đó chứ không có dư.

Cuộc sống trên thuyền cũng là nhà trên sông của các gia đình người Việt. RFA photo
Theo lời chị Anh Thư cho hay, đa số các chị em nghèo, khi không còn được làm nghề chài lưới, các chị em chỉ còn biết đi lượm ve chai trong khi chồng thì đi vác mướn, hay chính mình cũng phải nai lưng làm những việc của cánh đàn ông, cuộc sống vô cùng cực khổ, chị Anh Thư cho hay rằng:
Mình còn có chút trình độ hồi còn ở Việt Nam, nên mình làm ăn còn tương đối, còn có những người rất khổ, không có nhà ở, không có cơm ăn, quần áo còn phải đi xin để mặc. Mình tuy là khổ nhưng còn đỡ, nhiều người thấy tội lắm. Có người có gia đình, có người không, có người có chồng say sưa, bê tha, làm ăn khi được khi không, phải đi vác mướn ở dưới sông, lặn lội dưới sông kiếm ăn, hoặc phải đi trên vỉa hè lượm từng cái lon, cái chai để kiếm sống, thấy tội lắm.
Cũng theo lời chị Thư cho biết, có những gia đình, vì quá túng quẫn, nên làm liều, bán con gái cho đường dây mại dâm ngay từ khi các em còn trong tuổi thơ ấu, chị kể:
Có những gia đình quá khổ, quá cần tiền nên đem con đi bán hay cho làm nghề đó. Thấy tủi nhục lắm vì con còn nhỏ xíu đã phải làm nghề.
Hàng ngày vất vả mưu sinh, chỉ mong sao kiếm chút đỉnh đắp đổi qua ngày, bữa đói, bữa no… Điều các chị sợ nhất là bệnh hoạn, nhất là những hôm trái nắng trở trời, chỉ biết mua thuốc lá cây của người bản xứ uống cho qua. Có những chị, cả đời,chưa hề biết viên thuốc tây là gì, như lời chị Sanh:
Bây giờ chỉ mong sao được trở về Việt Nam sống. Cái mong ước duy nhất là trở về Việt Nam, có một công việc nào làm để dưỡng già, chứ mình cũng không muốn “lông bông” ở xứ người nữa…
Chị Anh Thư

Hổng có bác sĩ, hổng có thuốc men gì hết, thuốc lá cây của Miên uống qua ngày vậy thôi, tui sinh 9 đứa con, ở nhà không thôi, bà mụ ở quê đến giúp, cả đời hổng có biết nhà thương, bác sĩ gì hết…
Ước mơ tuổi già
Tuy sống nghèo khổ trên xứ người, các con nói tiếng Campuchia nhiều hơn tiếng Việt, và cũng chẳng được học hành đến nơi đến chốn, nhưng các chị đều cố gắng dậy dỗ con giữ lấy truyền thống ông bà tổ tiên. Ngày lễ Tết, ai ai cũng cố gắng bớt ra chút đỉnh mua đồ cúng bái, chị Sanh cho hay cũng mua bánh trái về cúng ông bà, lễ, tết, chứ mình đâu có tiền mà mua thịt thà như người ta.
Đối với chị Hoàng, người mẹ có đứa con gái lên 3 khi chị rời Việt Nam, phải để lại cho bà ngoại trông coi, thì niềm đau của chị mãi mãi không nguôi, vì ngày chị trở về gặp con thì cháu đã trưởng thành và đã có gia đình. Tuy mừng rỡ vô cùng nhưng chị vẫn cảm nhận một tình cảm không sao trọn vẹn, vì mừng thì cũng mừng, nhưng tình thương chắc không bằng vì mình không ở kề cận, mình đi quá lâu rồi.

"Ngôi trường" dạy tiếng Việt ở Phnom Penh. RFA photo
Khi hỏi thăm tại sao chị không về sống với con gái duy nhất nơi quê nhà, chị tâm sự rằng, thương nhớ con và quê cha đất tổ da diết, thế nhưng mình không có tiền, thì mình không về, mình về tàn tạ là một, thứ hai nữa là không có đất đai thì mình về làm gì? Con mình cũng đâu có khá đâu, mình về mắc cỡ lắm.
Hầu như các chị em này đều có chung một nỗi niềm thương nhớ và cùng mặc cảm như nhau nếu có ai hỏi đến lý do vì sao không về lại Việt Nam. Bởi thế, nên ngay cả với chị Anh Thư, được coi là “khá nhất” trong các phụ nữ nghèo bên dòng Mê Kông trên xứ Chùa Tháp, cũng tâm sự rằng:
Nhớ và buồn lắm chứ, nhưng mình không có điều kiện để trở về gia đình, quê hương. Mình đi làm ăn xa, bây giờ trở về với hai bàn tay trắng, không có tiền bạc thì không thể về xứ được, mắc cỡ với gia đình anh em. Nhiều lúc buồn lắm, lúc mình còn trẻ thì còn đỡ, bây giờ mình càng ngày càng già rồi, là phụ nữ nữa, sức lực mỗi ngày một yếu.
Bây giờ chỉ còn làm ngày nào ăn ngày đó, biết làm sao bây giờ. Sống phiêu bạt bao nhiêu năm ở xứ người rồi, mình thấy người phụ nữ như mình bị coi rẻ, thấy buồn lắm, rồi cuộc sống của con cái mình không ổn định, học hành thì chẳng được học, ra đời thấy chúng nó tội .
Thực vậy, sau bao năm trôi dạt trên xứ người, chị Hoàng cảm nhận rằng:
Rất đau khổ, cái bất hạnh đến nhiều hơn cái may mắn, mình thấy dòng sông chảy, mình buồn lắm, đâu có biết tâm sự với ai đâu, để trong lòng mình thôi.
Rất đau khổ, cái bất hạnh đến nhiều hơn cái may mắn, mình thấy dòng sông chảy, mình buồn lắm, đâu có biết tâm sự với ai đâu, để trong lòng mình thôi.
Chị Hoàng

Giờ đây, sau những năm tháng bôn ba, đến tuổi về chiều, nhìn lại cuộc sống hiện tại, họ chẳng bao giờ dám mơ ước điều gì. Chị Sanh nói, bây giờ mình nghèo, cũng đâu dám mơ ước gì, có chết thì con cái muốn làm sao đó thì làm.
Chị Anh Thư cũng tâm sự rằng:
Bây giờ chỉ mong sao được trở về Việt Nam sống. Cái mong ước duy nhất là trở về Việt Nam, có một công việc nào làm để dưỡng già, chứ mình cũng không muốn “lông bông” ở xứ người nữa… nhiều lúc nằm nghĩ buồn lắm, lớn tuổi rồi, buồn lắm, xa cha mẹ, xa anh em, xa quê hương, có một mình thôi…
Có thể nói, cho đến giờ phút này, những mảnh đời của các chị em người Việt đang sống bên dòng Mê Kông trên Campuchia vẫn tiếp tục trôi như cánh lục bình vô định, vô hướng. Ngày ngày nhìn dòng nước chảy mà tủi phận, kiếp lầm than vẫn lưu lạc chưa biết đến bao giờ như lời chị Hoàng than thở:
Nhớ lắm, nhất là lúc buổi chiều, nhìn dòng sông nước chảy, buồn lắm, mình chỉ tâm sự với mình, tủi cho thân phận của mình chứ có dám nói với ai đâu, có ai hiểu cho mình đâu mà nói…

No comments:

Post a Comment