Cố Hương
Một Giai Đoạn Ngậm Ngùi
» Tác giả: Phan Xuân Sinh
» Dịch giả:
» Thể lọai: Hồi ký
» Số lần xem: 2439
1. Một Giai Đoạn Ngậm Ngùi
Cũng như phần đông các sĩ quan miền Nam, sau 75, tôi cũng phải đi trình diện, mặc dù tôi đã bị thương (mất một bàn chân phải trong trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 tại Quảng Nam)....Bởi vì tôi cứ kéo dài tình trạng tại ngũ để được ăn lương, không chịu ra hội đồng giải ngũ sớm. Mỗi khi chuẩn bị đưa tôi ra hội đồng, tôi lại khai còn đau chỗ nầy, đau chỗ nọ nên nằm mãi tại Trung tâm I Hồi lực, được 29 ngày tái khám. Tính trạng kéo dài năm nầy qua năm khác… Đến khi tôi vào Sài Gòn mới chuyển qua Trung tâm III Quản trị, chờ ngày ra Hội đồng để lượng định mức độ tàn phế thì quá muộn. Quân Giải phóng đã cận kề Sài Gòn. Như vậy sau 30 tháng 4, trên danh nghĩa tôi vẫn còn tại ngũ, nhưng trên thực tế tôi là một phế binh.
Khi trình diện tại trường trung học kỹ thuật Don Bosco (Gò Vấp), tôi bỏ chân giả ở nhà, đi bằng nạng gỗ đến trình diện Ủy ban Quân quản. Cuối ngày họ gọi tôi lên cấp cho một cái giấy chứng nhận có trình diện, cho về lại địa phương quản lý (vì phế binh), khi nào có lệnh gọi đích danh tôi mới đi cải tạo. Như vậy, họ thấy tôi trở ngại quá cho việc tập trung cải tạo, nên đựơc cho về là vì vậy.
Yên tâm về chuyện không đi cải tạo, lúc bấy giờ tôi mới lo đến chuyện kiếm cơm sống qua ngày. Tôi và hai thằng bạn khác ra ngoài chợ trời Trương Minh Ký (Trương Minh Giảng nối dài), thuê một chỗ kê một cái bàn nhỏ, mua bán các các đồ vật dụng cũ mà khách hàng chính lúc đó là các lính bộ đội miền Bắc mới vào Sài Gòn còn rất ngu ngơ, chưa biết đường đi nước bước. Một cái đồng hồ không người lái, một cửa sổ trị giá 30 đồng bán ra gấp ba, bốn lần (lâu quá không còn nhớ giá cả lúc ấy), hàng bán như tôm tươi: Radio, quạt máy, bàn ủi điện, đồng hồ, máy may, v.v… không có món gì mà ế ẩm hết. Tốt, xấu, cũ, mới, mang ra là bán được ngay lập tức. Tiền lúc ấy vô dễ quá mà đầu ra cũng dễ như vậy.
Bạn bè của ba đứa tôi, từ miền Trung chạy vào thất tha thất thểu, đói lên đói xuống, tứ cố vô thân, gặp nhau giữa cái đất Sài Gòn phải giúp nhau thôi. Chết thì chết chùm chứ không thể bỏ được. Ban ngày tản mác đi khắp nơi, đến 12 giờ trưa tập trung lại chừng hai chục thằng khố rách áo ôm. Mỗi thằng đến tiệm cơm bình dân gần đó lãnh một dĩa cơm sườn, một điếu thuốc, một ly trà đá, (thật tình tụi tôi thấy bạn bè đói rách quá tự nguyện làm chuyện nầy). Đến chiều tối trước khi dọn dẹp ra về, tôi mang tiền qua trả cho chủ tiệm cơm bình dân ấy. Cầm cự được vài tháng như vậy thì hết vốn, tiền lời không đủ nuôi chừng đó miệng ăn, hơn nữa lúc sau không còn bán đắt hàng như lúc trước. Thêm vào đó, công an áo vàng đuổi không cho tập trung buôn bán bên lề đường nữa (lần đầu chúng tôi mới thấy bộ đồ vàng của công an), đành dẹp tiệm. Bạn bè tản mác, mỗi thằng phải tự lo thân, không dựa vào nhau được.
Sáng nào ba thằng bán chợ trời chung, cũng gặp nhau ở tiệm cà phê, bàn tính chuyện làm ăn khác. Nhưng bí, không tìm ra phương cách sống, tiền thì không còn. May cho tôi, ba tôi từ Đà Nẵng vào tìm vì không biết tin tức của tôi sống chết ra sao. Ba tôi bảo phải về Đà Nẵng sống với gia đình. Vì hơn ai hết, ba tôi biết tôi là một phế nhân, không thể đi cày, đạp xích lô, đi lao động được. Về với gia đình đùm bọc lẫn nhau, có mắm ăn mắm, có muối ăn muối, nhưng tôi không chịu, với lý do đơn giản là ngoài đó khó sống, những người thắng trận quá sắt máu, dìm những thành phần thuộc diện sĩ quan như tụi tôi đến chết, bắt tụi tôi tay không đi gỡ mìn đủ toi mạng rồi (bao nhiêu đứa bạn không chết trong chiến tranh, nhưng đã chết vì đi gỡ mìn trong lúc hòa bình). Dù sao thì ở Sài Gòn cũng dễ thở hơn. Những đêm nằm ngủ với tôi, ba tôi nhận thấy điều tôi trình bày chí lý.
Một buổi sáng ông dậy sớm, pha trà rồi gọi tôi dậy để cha con nói chuyện, trước khi ông về lại quê nhà. Ông trao cho tôi một cái đãy nhỏ trong đó chứa ba lượng vàng, đây là số vàng dành dụm suốt một đời đi dạy học của ông. Tôi đưa ba tôi ra xe đò, lòng tôi trĩu nặng. Lúc đó tôi mới thấy thương ông, với số tuổi đã cao mà không còn nghĩ tới bản thân vẫn lo lắng cho con dù con đã lớn rồi. Xe đò rời khỏi bến, nhìn theo ba, tôi rưng rưng nuớc mắt, đến khi xe chạy khuất, tôi mới đạp xe trở về.
Hồi đó hàng tiêu dùng đã bắt đầu khan hiếm, bao nhiêu hàng hóa trong Nam đều chở ra Bắc, tạo nên một lỗ hổng to lớn. Không biết ai gợi ý, tụi tôi bắt đầu làm xà bông bột. Ba thằng đều thuộc loại có vấn đề với chế độ mới, là cựu sĩ quan “ngụy quân”, giấy tờ tùy thân không có, hộ khẩu không có, phải tìm một thằng có lý lịch “cách mạng” để đứng mũi chịu sào. Người đó là bạn của một người bạn tôi, trước năm 75 cũng làm xà bông nhưng sạt nghiệp, có một lý lịch tuyệt vời là trốn quân dịch, cha tập kết. Đúng với mong ước của tụi tôi. Mỗi đưa hùn vốn ba cây vàng. Anh Hùng (người bạn mới) không có tiền, nhưng có bộ khuôn in bản hiệu trên bao nylon đựng bột giặt hiệu Bạch Long, xem như góp vốn. Anh Hùng đứng ra xin giấy phép sản xuất tại số 212 Bạch Đằng, Phường 24, quận Bình Thạnh (Căn nhà nầy lúc đầu thuê, sau tụi tôi mua luôn).
Chúng tôi xem như làm một canh bạc lớn trong đời. Tôi có biết sơ qua cách làm bột giặt vì có học của một người bạn, nhưng chỉ có ý niệm sơ sơ thôi. Thế nhưng khi bốn thằng họp nhau lần cuối để quyết định, để các bạn tin tưởng, tôi quả quyết là tôi làm được bột giặt. Chính lời hứa ngu xuẩn nầy làm cho tôi mất ăn mất ngủ mấy tháng trời. Tôi cũng đi mua hóa chất về làm y như người bạn chỉ dạy trước đây, thế nhưng bột giặt của tôi làm ra như một thứ cháo đặc, không phóng thích nước ra được. Tôi mò mẫm đêm nầy qua đêm khác, đi hỏi những người chuyên môn về hóa chất, lượm lặt ý kiến mỗi người mỗi ít.
Tôi không dám làm thí nghiệm ban ngày vì sợ mấy thằng hùn vốn thấy tôi quờ quạng, nên chờ khi chúng nó về nhà, tối tối tôi mới mang đồ ra làm. Sáng nào tôi cũng thấy tụi nó mặt mày méo xẹo, tuyệt vọng, xem như chín cây vàng đi đời, mong gì gỡ gạc lại cho nổi. Thế nhưng trời thương hại kẻ khù khờ, tôi đã thành công cách phóng thích được nước, bột giặt khô ráo, nở phồng (cám ơn Trời Phật, cám ơn ý kiến mỗi người một ít giúp tôi). Đêm đó một mình tôi bỏ hóa chất vào máy trộn đến sáng, một tấn bột giặt. Sáng ngày mấy thằng bạn tới, mở cửa thấy bột giặt chất cao tràn ngập, thằng nào cũng mừng chảy nước mắt. Tụi nó dẫn tôi ra tiệm hủ tiếu thưởng cho một tô, bù lại mấy tháng chỉ ăn cơm với nước mắm. Nên nhớ lúc đó giá thành một đồng, bán ra mười đồng (Lâu quá không nhớ chính xác giá cả, nhưng khoảng chừng vốn một, lời mười).
Nguồn vốn khởi đầu 9 cây vàng, vừa hóa chất vừa máy móc. Sau 4 tháng nguồn vốn lên 400 cây vàng. Chỉ có anh Hùng có vợ con, còn ba đứa còn lại độc thân, mới 26 tuổi, sống trên đống bạc, bấy giờ là lúc tiêu tiền cho biết mặt. Chẳng có thằng nào biết dành dụm, cất giấu. Tiền dư đi mua thêm đồ về tiếp tục làm, càng nhiều càng tốt, thuê một kho hàng chất đồ. Lúc đó cả nước đói khổ, đi toàn xe đạp. Tụi tôi mỗi thằng chơi một chiếc xe hơi. Chính cái cách chơi trội nầy, đã giết tụi tôi trong tức tửi sau nầy.
Tụi tôi thường mang sản phẩm đi kiểm nghiệm. Phòng Kiểm nghiệm của thành phố lúc đó có một người kỹ sư hóa học ở Cộng hòa Dân chủ Đức về, người đó trạc tuổi cỡ chúng tôi nhưng phách lối và hợm hĩnh, coi trời bằng vung. Ông mặc áo blue trắng, bên ngoài đeo súng như một tay cao bồi. Dưới quyền của ông nầy là vài giáo sư đại học Sài Gòn, các kỹ sư của miền Nam, thuộc diện khoa học kỹ thuật. Buổi sáng mọi người xếp hàng để cho ông ấy điểm danh (ở hải ngoại chắc cũng còn một vài vị làm việc tại Cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Thành phố HCM lúc 75-76, còn nhớ chuyện nầy). Thân phận của kẻ bại trận thật nhục nhã, thật tồi tệ.
Nhớ có lần tôi có hỏi ông kỹ sư nầy, trong phòng toàn những người trí thức, chân yếu, tay mềm, ông mang súng làm gì? Ông trả lời một cách xấc xược: “Nếu chúng nó không nghe lời, thì nỏ vào đầu chúng nó”. Thế đó, tư cách của một người trí thức thắng trận rất phách lối, chà đạp nhân phẩm, hiu hiu tự đắc, không chịu được. Những người cô thế như các vị khoa bảng miền Nam bị thất trận, đành cúi đầu nhẫn nhục.
Mỗi buổi sáng, người đứng xếp hàng mua bột giặt dài thườn thượt ngoài đường. Mỗi người được năm ký lô, đem ra chợ bán lại có được một ngày đi chợ mua thức ăn đơn giản, đạm bạc cho gia đình. Còn các bạn bè của chúng tôi thì được 50 ký lô giao ở cửa sau, trong số đó có gia đình anh Tường Linh (nhà thơ), và ông Vũ Hạnh (nhà văn) còn sống ở Việt Nam. Không biết các ông còn nhớ giai đoạn khó khăn nầy không? Tôi nhớ anh Tường Linh mang bà Vũ Hạnh tới chỗ sản xuất bột giặt Bạch Long gặp tôi. Đây là cơ hội giúp đỡ bạn bè và người thân. Lấy hàng đi bán, chiều thu tiền mang lại trả. Có khi bị công an hốt sạch thì xí xóa, lấy cái khác đi bỏ mối. Giai đoạn nầy cả nước khốn khổ. Thú thật, người ta để yên cho tụi tôi sản xuất thì phải chi từ trên xuống dưới, ăn nhậu, đút lót, quà cáp,… người đứng ra làm chuyện nầy là anh Hùng, vì có cái mác gia đình cách mạng. Chi cho công việc cũng nhiều, mà chi cho riêng ảnh cũng nhiều. Thế nhưng tiền kiếm được cũng khá nên lờ đi mấy cái chuyện lẻ tẻ nầy.
Sau đó thì đến giai đoạn đổi tiền, anh em tôi phải vác hai “bao tạ” tiền đi đổi (loại bao bố tời đựng 100 kg gạo hồi ấy); hai nhân viên đếm tiền riêng cho tụi tôi mất một ngày, rồi tụi tôi lãnh 500 đồng tiền mới (lúc ấy mỗi gia đình được 200 đồng. Cơ sở sản xuất được 500 đồng). Tụi tôi mất vố nầy khá đậm. (Anh bạn thân hay đến chỗ chúng tôi chơi, hiện đang sống tại Canada là TCN, biết rất rõ về tụi tôi trong giai đoạn tranh tối, tranh sang nầy nhất. Anh là độc giả của talawas, chắc anh sẽ đọc hồi ký nầy.)
Tôi cũng xin nói qua về khung cảnh xã hội Sài Gòn lúc đó. Tất cả đều tê liệt, cán bộ đến từng nhà kêu gọi đi kinh tế mới bằng mọi thủ đoạn như dọa nạt cũng có mà năn nỉ cũng có, nhất là đối với các gia đình quân nhân, công chức của chế độ cũ. Rồi bắt ép mọi người mua công khố phiếu, gửi tiền tiết kiệm, đi thanh niên xung phong, làm thủy lợi. Một ông cụ bên nhà tôi, hưởng ứng gửi tiền tiết kiệm, nghe những cám dỗ đường mật lọt tai. Trong nhà có gì vơ vét hết, bán đồ trong nhà để có tiền gửi lấy lời sống qua ngày. Sau hai năm số tiền lớn ông gửi vào ngân hàng, lời đâu không thấy, khi lấy ra cả vốn lẫn lời không đủ tiền mua một bao gạo, gia đình ông khóc hết nước mắt.
Cái dễ sợ nhất và tàn nhẫn nhất là “Đánh tư sản mại bản”. Toàn dân miền Nam từ giàu tới nghèo như ngồi trên đống lửa, không biết nhà nước giở trò gì đây, mà trò gì cũng từ chết tới bị thương. Không biết lúc nào người ta đóng chốt nhà mình để kiểm tra. Khi kiểm tra nhà nào là nội bất xuất, ngoại bất nhập. Họ đào xới không chừa một chỗ nào, không thể giấu đâu được với họ. Rồi tống những gia đình nầy đi kinh tế mới, lấy nhà giao cho cán bộ. Nhà lớn thì giao cho cấp lớn, nhà nhỏ thì giao cho cấp nhỏ. Một cuộc cướp bóc trắng trợn và bất nhân. Người dân nuốt hận ê chề và cũng chính lúc nầy phong trào vượt biên bắt đầu lớn mạnh, họ bất kể sống chết, bất kể tới đích hay không. Phải trốn thoát khỏi một chế độ kinh người. Rất nhiều gia đình treo cổ tự tử lúc đó vì uất hận.
Ông Bảy Quân (phó chủ tịch quận Bình Thạnh), trong một buổi họp công thương nghiệp, nói về chuyện tự tử của dân chúng. “So với sự hy sinh của cách mạng quá to lớn trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ, thì cái chết lẻ tẻ của những gia đình tư sản nầy chỉ là giọt nước trong biển cả. Họ chết thì cứ chết, ta cứ tiến lên.” Dễ sợ và khát máu chưa? Người dân không có gạo, ăn bo bo. Con nít tối nào cũng tập trung hát hò ca tụng Bác Hồ, người lớn đi họp để nghe rao giảng sự đẹp đẽ của chế độ, do những cán bộ từ trong rừng ra chủ trì, ba hoa lớn lối, trình độ học vấn chẳng có bao nhiêu, người dân cứ ngủ gà ngủ gật.
Tôi nhớ một lần ở cư xá Thanh Đa, trong đêm trao trả quyền công dân cho những “ngụy quân, ngụy quyền” trong đó có tôi. Khi gọi tôi ra trình diện trước dân chúng, một người hàng xóm không quen biết có ý kiến về tôi: “Anh nầy là người tốt, hay giúp đỡ bà con chòm xóm. Tôi đề nghị trả quyền công dân cho ảnh để đi bầu cử”. Đồng bào bên dưới vỗ tay rần rần. Khi ra về, tôi tìm tới ông nầy để nói lời cảm ơn. Ông nầy nói nhỏ vào tai tôi: “Khi anh lên, không có ai biết anh là ai, nên không có ý kiến. Thấy vậy tôi đứng lên nói cho xong chuyện để về nhà ngủ sớm còn mai phải đi làm. Chứ để cù cưa cú cứa biết khi nào xong”. Đúng, dân Sài Gòn phần đông họ rộng lượng với những người thuộc chế độ cũ. Quả thật dân chúng quá ngán ngẩm những buổi họp như thế nầy, cắn răng chịu đựng. Sống trong sự giả dối, ăn nói giả dối, làm việc giả dối v.v… từ cán bộ cho tới dân chúng ai cũng biết như vậy, nhưng răm rắp tuân theo như thật.
Sau khi cơ sở làm bột giặt của tụi tôi thành công, chúng tôi đi mua một cơ sở lớn hơn tại số 9 đường Đinh Bộ Lĩnh, Phường 24, Bình Thạnh. Đây là một building lớn của ông chủ hãng tôn lợp nhà bằng nhựa, vì sa cơ thất thế và cũng sắp sửa đi Pháp nên ông bà đó bán lại cho tụi tôi. Chúng tôi dọn cơ sở làm bột giặt về đây, còn căn nhà trên đường Bạch Đằng chúng tôi thành lập tổ hợp làm bột trẻ em hiệu Đông Phương. Chúng tôi gọi bạn bè góp vốn, ai có tiền thì trả, ai không có tiền thì chúng tôi cho mượn vốn trả sau (đây là một quyết định sáng suốt, tránh khỏi một tai họa giáng xuống đầu chúng tôi sau nầy). Building nầy nằm giữa hai building của hai người đều nổi tiếng. Nhà số 7 của ông Nguyễn Quang Minh (hiện nay ở Pháp), tiến sĩ kinh tế, Tổng Giám đốc Việt Nam Thương tín của ông Nguyễn Tấn Đời. Căn nhà số 11 của ông Mười Thơ, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố.
Nhà ông tiến sĩ Minh mở cái quán cà phê trước cổng vào nhà, ông đứng pha cà phê cho khách. Thật chạnh lòng cho một trí thức bị thất sủng, ai vào gọi cà phê, ông “dạ” rất lớn và khúm núm bưng cà phê ra cho khách. (Ngoài tụi tôi ra, không ai biết đây là một trí thức danh tiếng của miền Nam trước 75. Sau nầy ông vượt biển qua Mã Lai, được chính phủ Pháp tiếp nhận ngay.) Thế nhưng ông có một hành động rất dũng cảm. Một lần ông Mười Thơ cho người qua mời ông qua nhà, nhờ ông giảng giải về kinh tế của tư bản mỗi đêm. Ông thẳng thừng từ chối nêu lý do vì sức khỏe ông phải ngủ sớm, con mắt ban đêm lem nhem và sách vở bị tịch thu, không còn tài liệu. Người em cột chèo với ông, anh Nguyễn Tiến Khải (em của bác sĩ Nguyễn Tiến Hỷ, nhà chính trị tên tuổi của miền Nam trước 75, anh Khải bây giờ cũng đang sống tại Pháp) nói với tôi rằng, làm sao ông giảng giải kinh tế cho một người mà trình độ chưa qua tiểu học. Từ chối cho nó khỏi lôi thôi.
Ông Phó Chủ tịch Phường 24, Bình Thạnh tên Minh, vào cơ sở tụi tôi mượn chiếc xe Renault 10 (chiếc xe nầy tụi tôi mua lại của ông Giám đốc hãng Renault Sài Gòn, trước khi ông về Pháp bán lại), để đám cưới cho đứa con. Có một người bạn mượn xe nầy đi Đà Lạt chưa về. Anh Hùng nói với ông là xe đã cho mượn không có ở đây. Ông Minh nghĩ rằng tụi tôi làm khó không cho ông mượn, ông ghim chuyện nầy trong lòng, rồi lợi dụng lúc Chủ tịch Phường đi vắng ông mang một đoàn kiểm kê đến đóng chốt cơ sở bột giặt Bạch Long, lúc đó phong trào cải tạo thương nghiệp đang ở cao điểm, không ai có thể cản trở được, mặc dù chúng tôi thuộc diện công nghiệp (tức là nơi sản xuất của cải vật chất), không ở trong diện cải tạo. Đoàn kiểm kê này làm việc cả tuần lễ, người trưởng đoàn nói chuyện với tôi là ông Minh ra lịnh đóng chốt ở đây, vì nghi ngờ đây là cơ sở mua gian bán lận. Khi vào mới biết đây là cơ sở sản xuất, trưởng đoàn có trình lên cấp trên nhưng vì đã đóng chốt rồi không thể rút lui. Thi hành trước, khiếu nại sau. Như vậy vì thù vặt cá nhân, biến công cuộc cải tạo thương nghiệp thành một cuộc trả thù. Tụi tôi tưởng rằng một Phó Chủ tịch Phường mà làm được gì, thế nhưng khi nằm trong danh sách đã bị cải tạo mới biết tất cả đều do phường báo cáo lên trên, phát sinh những nhà buôn bán mới mà chưa kịp báo cáo, ngay tức khắc dẫn dắt các toán kiểm kê đóng chốt (cơ sở của tụi tôi ở trong trường hợp nầy).
Dĩ nhiên phường không xơ múi gì được những đồ tịch thu, xe của thành phố tới chở đi. Tất cả cái gì có trong cơ sở đều bị vơ vét, tụi tôi bước ra mình không với vài bộ áo quần cũ và chuẩn bị đi vùng kinh tế mới. Từ những người có nhà lầu, xe hơi, tiền bạc vào ra như nước, sau một đêm trở thành những kẻ bần cùng, thân tàn ma dại. Những người thân, bạn bè cũ một phần sợ liên lụy, một phần sợ nhờ vả, không ai dám gặp tụi tôi. Đứng ngoài đường nhìn đoàn xe chở đồ đạc của mình đi nơi khác, anh em ôm nhau rơi nước mắt. Chị vợ của anh Hùng có mấy lượng vàng của hồi môn cha mẹ để lại, khi làm biên bản tịch thu để câu: “kim khí màu vàng”, chứ không xác định đó là vàng. Anh Hùng thắc mắc chuyện nầy thì ông trưởng đoàn giải thích, không có đồ phân loại cho nên không thể xác nhận là vàng được, ghi như vậy cho cấp trên giải quyết. Tôi nghĩ trong bụng khi mà tới kho nhà nước toàn là đồ đồng, vàng thật đã vào tay cán bộ.
Ngày xưa bước đến Ủy ban Nhân dân Phường, mọi người chào hỏi nhau như người thân. Còn bây giờ ra phường chờ đợi giấy tờ, ngồi trong góc chẳng ai thèm hỏi han, ai cũng muốn tránh né. Những bộ mặt thân thiện ngày nào, bây giờ thay đổi một cách nhanh chóng, lạ lẫm. Chúng tôi là loại tội phạm của chế độ, không có thuốc “ba con năm” để mời nhân viên, nên họ nhìn mình bằng cặp mắt xa lạ. Cũng may chiếc xe Renault 10 cho một người bạn mượn đi Hà Nội nên không bị tịch thu. Chỉ tịch thu bốn chiếc xe đang đậu trong hãng. Tụi tôi chờ đợi đi kinh tế mới, nơi tụi tôi chọn là Phương Lâm (Định Quán).
Trong khi chờ đợi, một người bạn rủ tụi tôi đi Cai Lậy chơi, luôn tiện mua một “thùng” gạo (khoảng chừng 10 ký lô) để dành về ăn, đến trạm Tân Hương kiểm soát thấy tụi tôi chở gạo, nên xe bị giữ lại. Hai ngày sau tụi tôi xuống Mỹ Tho nhận lại xe thì được biết chiếc xe Renault 10 bị tịch thu. Chở chỉ 10 kí gạo mà tịch thu một chiếc xe, đó là hành động ăn cướp. Tụi tôi làm đơn khiếu nại nhưng không có nơi nào giải quyết. Số phận của chiếc xe không mất trong kiểm kê thì mất trong trường hợp cướp cạn nầy. Vừa rồi về Việt Nam nhìn cảnh dân oan của mấy tỉnh phía Nam lên Sài Gòn kiện tụng đất đai, tôi nghĩ lại chuyện thưa kiện của mình mà thương cho họ, có ngồi mòn đít quần, tốn tiền tốn của, chỉ thiệt thân cho mình thôi. Làm sao con kiến mà kiện củ khoai cho được. Các cấp chính quyền không có ai thương xót, mặt họ lạnh như băng. Chỉ có dân chúng qua lại thông cảm nỗi đau của họ, nhưng chẳng giúp được gì.
Sống trong nước giữa thời điểm đó có quá nhiều bất trắc cho dân chúng, các ông Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Trường Chinh, ráng gân cổ gào thét: “Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội”. Nhưng dân chúng đều thờ ơ, ngơ ngác, đói rát ruột, áo quần te tua, làm sao tiến nhanh, tiến mạnh được. Cỗ xe cứ ì ạch chạy không nổi. Sao con đường bước đến xã hội chủ nghĩa dài và nhiêu khê quá vậy, biết bao giờ mới tới được nơi đó. Đời cha tới đời con đều còng lưng kéo lê cuộc đời vô sản vẫn chưa thấy được một chút ánh sáng le lói nơi chân trời, chỉ đi mãi trong tăm tối. Thật quá ngao ngán và mệt mỏi. Đường phố Sài Gòn các xe chạy bằng xăng sửa lại, gắn một cái thùng phía sau chạy bằng than như hồi đầu thế kỷ 20. Muốn bước qua thiên đường, phải bước qua ngưỡng cửa địa ngục trước, đúng vậy.
Tụi tôi sửa soạn lên đường đi kinh tế mới thì bố của anh Hùng ngoài Bắc vào. Ông thuộc loại cách mang năm 30 còn lại (tức là những đảng viên kỳ cựu của thời mới thành lập Đảng). Ông thấy con cháu ông sắp sửa rời thành phố, cũng đau lòng nên ông mang đơn gặp thẳng ông Sáu Dân (Võ Văn Kiệt) kêu cứu cũng mất mấy ngày. Một buổi chiều nọ, ông hớn hở mang giấy về, tạm hoãn cho tụi tôi đi kinh tế mới, vì đây thuộc diện công nghiệp, được ở lại thành phố tiếp tục sản xuất.
Anh em tụi tôi bám vào Bột trẻ em Đông Phương đã thành lập trước đây. Chở vợ con trên chiếc xe đạp đi làm (lúc nầy tôi đã có cháu đầu lòng), bây giờ mới thấy sáng mắt cho cái chuyện phùng xòe của tuổi trẻ, khi bị tống ra khỏi hãng Bạch Long không có đứa nào còn tiền. Không có nơi ở, chạy đôn chạy đáo mượn tiền mua một cái nhà nhỏ trong con hẻm chợ Cây Thị , Phường 11, Quận Bình Thạnh. Thề trong bụng, sau nầy làm ăn khấm khá cũng không bao giờ mua nhà to cửa rộng, chỉ mua vừa đủ chỗ cho vợ con chui rúc ra vào.
Vợ chồng cùng làm trong hãng bột nuôi trẻ Đông Phương, đây là một tổ hợp đúng nghĩa. Tình trạng sữa cho trẻ em khan hiếm, Bột Đông Phương đáp ứng kịp thời, mỗi ngày sản xuất hàng tấn bột. Những gia đình đi thăm nuôi các anh em trong trại cải tạo đến đặt hàng cũng nhiều. Tinh thần mấy đứa tụi tôi bắt đầu khôi phục, chia lời cho mỗi thành viên trong tổ hợp cũng khá, nên cuộc sống cũng bắt đầu khởi sắc. (Tổ hợp Đông Phương sau nầy có 40 thành viên.)
Lúc nầy quân đội Khmer Đỏ khuấy nhiễu biên giới tây nam. Bộ đội chuẩn bị tấn công Campuchia. Một buổi sáng, một chiếc xe bộ đội đổ trước cửa Bột Đông Phương, một số sĩ quan bước vào muốn gặp Ban Chủ nhiệm. Anh Tường Linh (nhà thơ) lúc đó là tổ trưởng Bột Đông Phương tiếp chuyện. Sau một hồi anh Linh gọi tôi ra cho biết là Quân khu 7 muốn đặt một số bánh lương khô phát cho binh sĩ (kèm theo mẫu lương khô của Tàu). Tôi trả lời có thể làm được, chỉ tương tự chứ không giống hẳn như bánh của Tàu (lúc đó tôi giữ phần kỹ thuật sản xuất). Tất cả đều đồng ý. Tuần sau họ tới lấy mẫu để về trình lên cấp trên. Thật tình thì lương khô nầy cũng bao gồm hàm lượng dinh dưỡng đại khái, không có gì đặc biệt lắm, nên cũng không đòi hỏi kỹ thuật và chất lương cao.
Quận Bình Thạnh cấp cho tụi tôi một cơ sở rộng rãi ở đường Đinh Bộ Lĩnh (cơ sở nầy trước đây là Viện bào chế thuốc Tây của dược sĩ Phạm Doãn Điềm) để sản xuất lương khô. Chúng tôi phải trang bị thêm máy ép bánh, máy sấy, máy rang ngũ cốc, máy xay v.v… trong thời gian ngắn nhất, để đáp ứng với nhu cầu cần cho bộ đội tiến đánh Campuchia. Việc sản xuất cũng trôi chảy không trở ngại. Chừng một tháng thì phòng sấy bị cháy, lửa bốc lên ngùn ngụt thiêu rụi một khu nhà sản xuất. Đến lúc nầy mới thấy mệt. Những người có mặt tại hiện trường lúc cháy phải trình diện công an điều tra vì bị nghi ngờ phá hoại, cản trở sự tiến quân của bộ đội vào Campuchia (dưới con mắt của người cộng sản, cái gì cũng có thể nghi ngờ và cái gì cũng nhuộm màu sắc chính trị). Nghe tin nầy đứa nào cũng sợ té đái, vì lòi ra toàn là thứ “ngụy quân, ngụy quyền” của chế độ cũ. Đoàn kiểm tra của Quân khu 7 tới xác nhận đây là “sự cố” kỹ thuật, phải dọn dẹp ngay và trang bị kịp thời để tái sản xuất (bên công an phải ngưng điều tra). Trong lúc sửa chửa cơ sở thì bộ đội đã tiến vào Nam Vang, Quân khu 7 thông báo cho biết là chấm dứt hợp đồng. Tụi tôi mừng hết lớn, thoát ra được cái vòng kim cô siết mình vào toàn những chuyện không đâu, mất ăn mất ngủ mấy tháng trời.
Trong giai đoạn nầy cả nước lâm vào tình trạng bi đát. Hàng hóa của thân nhân từ hải ngoại gửi về bị hải quan lục xét một cách tận tình và thô bạo; để tìm dollar cất giấu, các típ kem đánh răng được tháo ra, quậy nát. Không có đồng dollar nào chui lọt được. Mức thuế trên những thùng hàng hóa gửi về thật nặng nề và tùy tiện. Sau khi đến tay người nhận chỉ còn vào khoản 20% - 30%. Tình trạng cấm vận gây cho người dân nghèo mạt rệp. Giữa lúc nầy ở phía Bắc, lính Trung Quốc tràn qua biên giới “dạy cho cộng sản Việt Nam” một bài học vì đã tráo trở, quên công ơn họ giúp trước đây. Không biết Đảng Cộng sản có nhận bài học nầy không, chứ còn nhân dân thì lãnh đủ. Vừa đói, vừa giặc giã hết biên giới phía Nam, đến biên giới phía Bắc, người dân khốn đốn trăm bề.
Vài năm sau tôi thấy tình hình có vẻ ổn định, tôi muốn về nhà mở một cơ sở làm kem đánh răng (còn vợ tôi vẫn làm ở Đông Phương). Tôi lấy hiệu là kem đánh răng Mimosa. Trước khi mở cơ sở tôi phải làm mẫu để đi kiểm nghiệm. Không biết tại sao công an phường cứ vài ngày đi xét nhà tôi một lần, liên tục như vậy cả tháng. Lần cuối họ hỏi thẳng tôi vì thấy những mẫu kem để trên bàn không có nhãn hiệu. Tôi bảo với họ là tôi chuẩn bị sản xuất kem đánh răng, nên phải làm mẫu kiểm nghiệm. Khi tôi ra phường xin phép thì bà Thùy Trâm (dân Quảng Nam,) bí thư, cho tôi biết là phường đã nghe dân chúng báo cáo là tôi làm kem giả. Hèn gì công an xét nhà tôi bao nhiêu lần mà không thấy gì cả là vì vậy. Bắt đầu tôi mới thấy sợ sự kiểm soát khắt khe trong dân chúng, tai mắt của họ khắp nơi, nhứt cử nhứt động không qua được họ.
Lúc đó kem đánh răng khan hiếm trên thị trường, nhất là các tỉnh phía Bắc. Tôi ký hợp đồng với thương nghiệp cung cấp kem cho các tỉnh. Giá thành trong hợp đồng quá thấp, vì vậy kem đánh răng chất lượng rất tồi, để một thời gian lâu sẽ bị khô. Với giá cả quá thấp như vậy không thể nào tốt được. Nhưng thương nghiệp quốc doanh cần như vậy, có còn hơn không. Thế nhưng vẫn bán được và sản xuất đều đặn. Không có cái gì tốt hơn và cũng không có loại nào khác hơn để mua, buộc lòng dân chúng phải mua đồ “dỏm” nầy để dùng.
Một điều khó và giết chết những nhà sản xuất lúc đó là ngân hàng. Các công ty thương nghiệp trả bằng check, cầm cái check nộp vào ngân hàng thì không được lãnh tiền ra ngay vì nhiều lý do. Ngân hàng không có tiền, chế độ quan liêu bè phái, hối lộ cửa sau v.v… người sản xuất trăm bề khó khăn. Đồng bạc càng ngày càng mất giá, tất cả tính toán bằng giá vàng trên thị trường. Mua hàng hóa sản xuất trị giá bằng vàng, nhưng khi bán hàng của mình cho nhà nước thì trị giá bằng tiền. Sự khác biệt nầy gây cho nhiều cơ sở sản xuất phải khánh tận (giá vàng lên nhanh quá, theo không kịp). Tôi đã khốn đốn khổ sở rất nhiều trong thời gian nầy. Làm ăn quần quật nhưng rốt cuộc chẳng còn gì, bao nhiêu tiền vợ chồng dành dụm đều mất sạch (khoản thời gian nầy chắc anh Đào Hiếu hiểu rõ, vì lúc đó ảnh có tham gia làm kem đánh răng ở một chỗ khác.)
Lúc bấy giờ mới nghĩ tới chuyện vượt biển, chạy ra Phước Tỉnh (Bà Rịa - Vũng Tàu) mua ghe, vài anh em hùn vốn. Đến ngày lên đường thì mới biết mình bị lường gạt. Tàu đã chở nhóm người khác ra khơi trước một đêm, đúng giờ ra chỗ hẹn, chờ dài cổ vẫn biệt tăm. Bị công an phát hiện chạy trối chết, một số bị bắt. Chưa có lúc nào ngao ngán lòng người như vậy. Lấy tiền xong chỉ điểm cho công an đến bắt, không tin vào ai được. Tiền của không còn, về lại Sài Gòn làm lại cuộc đời, chờ đợi ông già vợ bảo lãnh cho chắc ăn.
Hồ sơ bảo lãnh cho gia đình, tôi nộp vào năm 1979, thế nhưng không biết lạc nơi đâu. Những người nộp hồ sơ sau tôi đều lần lượt ra đi. Tôi làm đơn khiếu nại tại văn phòng Bộ Nội vụ ở đường Nguyễn Trãi, Sài Gòn, nhiều lần, nhưng không thấy trả lời. Đến khi có chương trình HO, tôi mang hồ sơ đến trung tâm dịch vụ của Bộ Nội vụ (đây là nơi làm tiền một cách trắng trợn, nhưng rất được việc), vài tháng sau họ báo cho biết là tôi sẽ được cấp visa và chuẩn bị phỏng vấn. Còn hai cái ải quan trọng mà tôi phải bước qua là thuế và nhà đất.
Tôi là người có đứng tên trên vài cơ sở làm ăn sau nầy, nên phải thanh toán tất cả nợ nần thiếu thuế trước khi rời khỏi đất nước. Một nhân viên ra cho tôi biết là tôi còn thiếu thuế nhiều quá nên chưa thể cấp giấy cho tôi được (một cú đánh phủ đầu trước, cho tôi choáng váng mặt mày). Ngày hôm sau, có người làm trong phòng thuế quen với tôi tới nhà cho biết là tôi phải chi một ít tiền, vài ngày sau tới nhận giấy chứng nhận không thiếu thuế. Giờ phút nầy họ đòi bao nhiêu cũng phải bóp bụng đưa, chứ không còn con đường nào khác hơn. Rồi đến nhà đất cũng vậy. Qua xong hai cái ải nầy, rồi đến cái ải phi trường. Không biết mình có bị giữ lại không? Đến khi máy bay cất cánh mới biết mình không việc gì, mới thở phào. (Tôi ra đi cùng một lúc với các anh chị cải tạo HO 4 - tháng 6 năm 1990.)
Từ năm 1975 đến 1990, tôi đã sống đúng 15 năm trong xã hội chủ nghĩa. Tôi đã chứng kiến những chiếc xe tăng T54 phá sập cổng chính Dinh Độc Lập (xem như thành trì cuối cùng Việt Nam Cộng hòa bị xô ngã). Tôi đã sống trong một đất nước hòa bình, người dân không còn lo sợ súng đạn, nhưng sợ sự đố kỵ, sự phân biệt, sự kỳ thị. Tôi đã ngụp lặn trong một cuộc sống đầy rủi ro, chấp nhận những miệt thị lớn lối của kẻ thắng trận. Họ được quyền chà đạp nhân phẩm của người khác, rêu rao vẽ vời một chủ nghĩa xa lạ và bắt dân chúng thuần phục như những tín đồ.
Tôi đã chứng kiến cảnh “ngăn sông cấm chợ”, chứng kiến những anh em, bạn bè của mình đi học tập cải tạo, đi kinh tế mới, đi vượt biên. Chứng kiến một xã hội băng hoại, tham nhũng có tổ chức, chèn ép dân chúng để hối lộ, bao che cho nhau những việc làm vô đạo đức. Những cảnh “sửa sai, sai sửa”, hy sinh hết lớp nầy đến lớp khác v.v…, còn nhiều thứ không kể hết. Nhưng bao giờ tôi cũng mong, vẫn tin tưởng một ngày nào đó những tệ nạn ấy không còn bao trùm trên đầu dân chúng. Một giai đoạn “không đẹp” mà tôi đã bước qua, sẽ trôi vào quên lãng, chôn kín, và xem đây như một lầm lỗi, lịch sử không lặp lại.
Houston, 23/7/2009
Nhớ Về Trại Tị Nạn Galang
» Tác giả: Nguyễn Duy An
» Dịch giả:
» Thể lọai: Hồi ký
» Số lần xem: 6115
1. Nhớ Về Trại Tị Nạn Galang
Chiều hôm qua, trên quãng đường từ bãi biển trở về với các em “minors” tôi đã tình cờ gặp lại một người lớp đàn anh học cùng trường từ trước năm 1975. Tôi không thể nào tưởng tượng được là anh ta vẫn còn ở Galang. Anh ấy đã rời Việt Nam từ cuối năm 1980. Tại sao? Tại sao lại có những người phải ở trại tị nạn một thời gian dài đến thế? Nhớ Về Trại Tị Nạn Galang
Cuối tháng 7, 2008 tôi nhận được Email của ông Trần Đông, giám đốc Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam từ Úc gởi qua mời tham dự Chuyến Đi Về Bến Tự Do V (Back to the Shore of Freedom) để thăm lại 2 trại tị nạn Bidong (Mã Lai Á) và Galang (Indonesia) từ ngày 9 đến 17 tháng 9, 2008.
“Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam (Archive of Vietnamese Boat People) là một tổ chức thiện nguyện. Mục tiêu tối hậu của VKTNVN là sưu tập tài liệu và di vật thuyền nhân Việt nam để đưa vào hệ thống Văn khố hay Bảo tàng viện quốc gia hay quốc tế. Các thế hệ mai sau sẽ tìm hiểu về nguồn gốc di dân của mình. Những tài liệu này sẽ là nguồn dữ kiện vô giá để các cháu nghiên cứu và tìm hiểu. Công tác Văn Khố do vậy là công tác thuần tuý lịch sử, văn hóa và xã hội…”
Một câu nói được đăng trên trang web http://www.vnbp.org đã thúc đẩy tôi tìm về với kỷ niệm từ 25 năm trước ở trại tị nạn Galang, Indonesia: “Nếu không được thu thập có hệ thống và khoa học, chỉ 10 năm hay 20 năm nữa, khi những thế hệ thứ nhất của người Việt ở các trại tị nạn không còn, khi những người làm việc ở các trại tị nạn cũng không còn, khi ấy những dữ kiện về Thuyền Nhân Việt Nam cũng sẽ theo năm tháng chôn vùi!”
Tôi xin trích đoạn một vài trang “Nhật Ký Đời Tị Nạn” để tưởng nhớ quãng thời gian tôi đã “tạm trú” ở trại tị nạn Galang, Indonesia.
Ngày… tháng 6, 1983:
Tôi đến Galang vào một buổi chiều trời mưa như thác đổ. Cùng với hơn 300 người được chuyển tới từ đảo Kuku trên chiếc tầu Tegu Mulia, tôi chạy vội vào “trung tâm tiếp cư” của Cao Uỷ là một căn nhà trống ở bến tàu Galang để làm thủ tục nhập trại. Có tiếng ai đó vọng đến từ loa phóng thanh: “Đây Galang, ngưỡng cửa của Tự Do và Tình Người xin chào đón các bạn.” Tim tôi rộn rã một niềm vui không bút mực nào diễn tả được. Tôi đã đặt chân tới bến bờ Tự Do sau gần một tuần lênh đênh trên biển cả và hơn một tháng đợi chờ ở Singkawang, rồi Kalimatan Barat trước khi được chuyển tới đảo Kuku…
Tôi thấy lòng mình se lại! Tôi muốn bắt chước một vị yếu nhân nào đó quỳ mọp xuống để hôn lên mảnh đất của Tự Do và Tình Người nhưng tôi không đủ can đảm làm việc đó vì tôi chỉ là một tên “vô danh tiểu tốt” vừa mới thoát khỏi Việt Nam trên một chiếc thuyền tre nhỏ bé... Tôi bần thần xúc động. Tôi muốn khóc cho niềm vui Tự Do nhưng mắt tôi vẫn trơ trơ ráo hoảnh. Còn đâu nữa những giọt nước mắt thương đau để trào ra sau hơn 8 năm sống kiếp đọa đày với bao nhiều lần vượt biên thất bại, bị bắt và “cải tạo” ở B5 (Biên Hòa), Bầu Lâm (Xuyên Mộc), rồi Cây Gừa (Cà Mau)… và những tháng ngày sống lây lất ở vùng “khỉ ho cò gáy” Bình Giả – Xuân Sơn, ngày hai bữa khoai mì không đủ no! Tôi đã tới được bến bờ Tự Do. Tôi đã chứng kiến bao nhiêu cảnh thương tâm của đồng bao tôi đang gánh chịu trong lòng đất mẹ Việt Nam – Quê hương yêu dấu của chúng ta. Mẹ Việt Nam ơi, con xin phép được quên đi những ngày tháng lang thang “đầu đường xó chợ” để bắt đầu lại một cuộc đời mới. Con muốn được cùng với hơn một triệu người dân Việt đang sống tha hương nơi đất khách quê người nối kết lại một vòng tay chờ ngày trở về xây dựng lại quê Mẹ dấu yêu. “Mẹ Việt Nam ơi, xin Mẹ đừng khóc nữa vì chúng con vẫn còn đây, những đứa con mang dòng máu đỏ da vàng…”
Tôi được chuyển tới Barrack 1, Zone 1, trại tị nạn Galang I. Tôi nằm thao thức mãi tới gần sáng vì những người đến trước đã kể cho tôi nghe nhiều chuyện “Galang nửa mảnh tình xù” với những đổ vỡ thương tâm, chuyện ăn chơi trác tác, chuyện tranh giành quyền lợi, vu khống, trả thù và thanh toán lẫn nhau của nhiều phe nhóm trong trại. Ôi! Trớ trêu thay cho cuộc đời! Vì không thể chịu đựng được cuộc sống mất tự do ở quê nhà nên tôi đã liều mạng ra đi bất chấp sóng gió đại dương. Tôi ra đi để làm gì? Một dấu hỏi thật lớn đã xuất hiện trong đầu làm tôi không ngủ được. Tôi sẽ lao mình vào cuộc sống hưởng thụ tạm thời ở đây chăng? Có thể lắm. Tôi đã trải qua biết bao nhiêu gian khó để vượt thoát đến đây, tôi có quyền tìm kiếm một chút gì đó để tự đền bù cho chính tôi. Tôi chỉ muốn buông xuôi theo dòng đời, phó mặc cho thời gian, người ta sao mình vậy. Không được. Lương tâm tôi tự nhắc nhở. Tôi đã bất chấp rủi ro, tù tội, và cả cái chết, để cùng bạn bè xuống thuyền vượt biển tìm Tự Do. Tôi đã thành công. Tôi phải vươn lên. Tôi phải sống làm sao để không hổ thẹn với lòng mình khi nghĩ tới những người còn ở lại: Cha mẹ, anh chị em, bạn bè và cả dân tộc Việt Nam đang từng ngày rên rỉ kéo lê tấm thân tàn trong tuyệt vọng vì “cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc” nhưng vẫn khắc khoải trông mong và đợi chờ một “ngày mai trời lại sáng.” Tôi không thể buông xuôi. Tôi không thể sống trong tuyệt vọng. Tôi phải can đảm đứng lên làm lại từ đầu.
Ngày… tháng 7, 1983:
Tôi nhận lời Cha Đỗ Minh Trí (Gildo Dominici) dọn vào trung tâm “Unaccompanied Minors” để “cùng ăn cùng ở” với gần 200 trẻ em không thân nhân như một người anh cả của đám trẻ ngang bướng và ngỗ nghịch nhất ở trại tị nạn Galang. Tại đây, tôi đã gặp một vài em chỉ mới 6, 7 tuổi rất tội nghiệp vì cha mẹ của các em bị “rớt” lại lúc di chuyển từ “taxi” ra thuyền lớn... Tôi đã trằn trọc suốt đêm sau khi nghe một em bé mồ côi kể lại chuyến hải hành đầy máu và nước mắt, và chính em đã tận mắt chứng kiến cảnh cha mẹ bị hải tặc dùng búa tạ đập vỡ sọ trước khi vất xác xuống biển!
Theo chỉ thị của Cao Uỷ, trung tâm chỉ nhận những trẻ em không thân nhân dưới 16 tuổi; tuy nhiên, cũng có rất nhiều em đã lớn nhưng khai rút tuổi nên “ban lãnh đạo” còn phải đứng ra dàn xếp nhiều chuyện “gỡ rối tơ lòng” của tuổi đôi mươi mặc dầu đa số chúng tôi cũng chỉ lớn hơn các em vài tuổi. Trung tâm được các huynh trưởng của đoàn Thanh Niên Công Giáo, Tin Lành, Gia Đình Phật Tử và Hướng Đạo Việt Nam tận tình giúp đỡ nên chỉ trong một thời gian ngắn, tất cả các em đều được “đoàn ngũ hóa” và sắp xếp theo học các lớp tại trung tâm Giáo Dục Phổ Thông.
Ngày… tháng 9, 1983:
Sáng nay tôi buồn kinh khủng! Tôi chỉ muốn “nằm mộng nghe kèn” suy nghĩ vẩn vơ, nhưng rồi tôi cũng vượt thắng được tính ươn lười, chỗi dậy đánh răng rửa mặt rồi lững thững lê gót lên trung tâm Sinh Ngữ để vào lớp dạy. Tôi không muốn làm mất niềm tin của hơn 30 học trò trong lớp Anh Văn tôi đang phụ trách. Tôi đã tự hứa sẽ cố gắng hết sức để hướng dẫn các bạn tôi trau dồi thêm tiếng Anh chuẩn bị cho bước đường định cư. Tôi được may mắn học hành tạm đầy đủ lúc còn ở quê nhà, bây giờ tôi phải đem hết khả năng ra phục vụ đồng bào đang chờ đợi ở trại Galang này. Tôi và “học trò của tôi”, chúng tôi đã gặp gỡ, chia sẻ tâm sự thật nhiều từ ngày đầu tiên tôi đến nhận lớp. Tôi phải “hiên ngang” lên lớp mặc dầu tôi đang “rầu thối ruột!”
Chiều hôm qua, trên quãng đường từ bãi biển trở về với các em “minors” tôi đã tình cờ gặp lại một người lớp đàn anh học cùng trường từ trước năm 1975. Tôi không thể nào tưởng tượng được là anh ta vẫn còn ở Galang. Anh ấy đã rời Việt Nam từ cuối năm 1980. Tại sao? Tại sao lại có những người phải ở trại tị nạn một thời gian dài đến thế? Tôi đã thấm thía cảm nhận được thân phận của một người tị nạn không có thân nhân qua lời tâm sự của anh: Cậu không thể ngờ được là mình vẫn còn ở đây phải không? Mình bỏ nước ra đi với bao nhiêu hoài bão phải không Duy? Nhưng bây giờ, sau gần 3 năm đợi chờ, mình đã chán nản và tuyệt vọng lắm rồi. Cậu nghĩ xem, mình chưa xong Đại Học thì “nước mất nhà tan”, lang thang mãi hơn 5 năm sau mới tìm được đường ra đi. Mình không còn là “minor” nhưng cũng chưa đủ lớn để đi lính hay làm việc cho chính quyền trước năm 1975 nên không có tiêu chuẩn ưu tiên đi Mỹ. Tới đảo được 3 tháng mình bị phái đoàn Úc “đá đèn” vì lúc ấy có quá nhiều người xin đi Úc, nhân viên phái đoàn cứ rút đại một số đơn trong xấp hồ sơ, ai hên được gọi phỏng vấn, mình không may nên lọt sổ. Sau đó mình được Canada nhận nhưng 6 tháng sau bị từ chối vì sức khỏe của mình “mèng” quá! Cậu nghĩ xem, từ lúc đi “nông trường” sau năm 1975, mình hút hết thuốc lào rồi thuốc rê để chống muỗi, sang đây cứ 5 ngày một bịch P3V, thân nhân không có, mình lấy đâu ra tiền để tẩm bổ mà sức khỏe chẳng “mèng”, phổi nào mà chẳng có vấn đề, phải không? Mình nản quá, không còn tin tưởng gì ở tương lai… Mình cóc thèm học hành hay làm thiện nguyện việc gì cho mệt xác, cứ ngày hai bữa Cao Uỷ nuôi!
Đêm qua tôi lại mất ngủ! Tôi không tài nào hiểu được tại sao người đàn anh đáng kính cùng trường với tôi bây giờ lại bạc nhược đến thế. Tại sao? Tại sao một người có trình độ đại học như anh mà không được phái đoàn nào nhận? Tại sao một người có học thức như anh mà bây giờ lại chấp nhận một cuộc sống tẻ nhạt và chán chường đến thế? Người tị nạn chúng tôi chẳng có một lựa chọn nào hết. Chấp nhận bỏ nước ra đi là chấp nhận tất cả… Biết đâu rồi cá nhân tôi cũng dần dần bại xuội như thế! Hoàn cảnh bây giờ đã khác xưa nhiều lắm. Nhân dân và chính phủ các nước đồng minh đã không còn đủ kiên nhẫn để cưu mang mãi một dòng người từ Việt Nam bỏ nước ra đi kéo dài đến bất tận. Người ta đang nhìn chúng tôi, những người tị nạn, như là một gánh nặng cần phải vứt bỏ càng sớm càng tốt. Đã có nhiều nơi người ta xua đuổi không cho thuyền của người tị nạn vào bờ!
Xin cám ơn Thượng Đế, Cao Uỷ tị nạn, chính quyền và nhân dân Indonesia… còn để lại cho chúng tôi một cái phao. Galang là một trong những trạm dừng chân cuối cùng còn mở cửa tiếp nhận thuyền nhân Việt Nam. Đã có không biết bao nhiêu ngàn người đã dừng chân nơi đây trong những năm vừa qua, và cũng đã có nhiều người chọn nơi này làm quê hương vĩnh viễn trong một nghĩa trang hiu quạnh bên con đường nhỏ nối liền hai trại tị nạn ở Galang. Tôi cứ miên man suy nghĩ suốt đêm dài để buồn thương thật nhiều cho thân phận của người tị nạn. Sáng nay tôi đến lớp như một cái xác không hồn. Tôi cứ bị ray rứt mãi khi được biết còn quá nhiều người đang sống trong tuyệt vọng ở nơi đây!
Một khi niềm tin và hy vọng đã chết, con người sẽ sống như tôi con vật. Tôi lo lắng rồi mai đây chính tôi cũng sẽ lâm vào tình trạng như thế. Tôi cứ thắc mắc mãi với hai tiếng tại sao. Tôi đã quyết định phải tự kiềm chế bản thân trước mọi gian khó để không bao giờ tuyệt vọng. Tôi phải luôn luôn tỉnh thức để không bao giờ buông xuôi theo hoàn cảnh đẩy đưa, cho dẫu tôi có khổ cực tới mức nào ở trại tị nạn cũng chẳng thấm vào đâu nếu đem so sánh với những người còn kẹt ở lại quê nhà. Ở đây tôi không có thân nhân “viện trợ” nên phải ăn uống cực khổ ư? Tôi có bao giờ nghĩ tới bao nhiêu người đang phải vật lộn với cuộc sống đói khổ rau cháo qua ngày trên quê hương yêu dấu Việt Nam hay không? Tôi bị các phái đoàn từ chối và phải ở đây làm “chúa đảo” ư? Tôi phải bình tĩnh suy nghĩ lại. Tôi không thể quên rằng lúc này vẫn còn hàng ngàn bạn bè đang vật vã trong trại cải tạo hay trên những nông trường lao động không công… Ai khổ hơn ai? Tôi đã vượt thoát tới được “ngưỡng cửa của Tự Do và Tình Người” trong khi hàng ngàn người khác đã ra đi nhưng chẳng bao giờ tới bến. Bây giờ tôi không làm được gì cho quê hương, dân tộc Việt Nam ở bên kia bờ biển Thái Bình Dương, nhưng tôi có cả một cộng đồng trước mặt đang cần đến bàn tay phục vụ của những người như cá nhân tôi. Tôi phải sống xứng đáng là “con rồng cháu tiên!” Tôi tự hứa sẽ cố gắng hết mình để vươn lên. Gian khó hôm nay chuẩn bị cho vinh quang ngày mai.
Ngày… tháng 11, 1983:
Bao nhiêu mộng đẹp và ước vọng về tương lai của tôi đã hoàn toàn sụp đổ sau 5 tháng ở Galang, sau khi biết tin mình không được xếp vào bất cứ một “diện ưu tiên” nào để đi Mỹ… Tôi chỉ còn biết nằm chờ một dịp may rất nhỏ khi phái đoàn Mỹ mở hồ sơ “hốt rác” mỗi năm một lần! Chán nản. Buông xuôi. Tôi ngồi lỳ trong quán cà phê suốt buổi sáng, bỏ mặc học trò đến lớp chờ đợi rồi lang thang “bát phố” vì không có người hướng dẫn. Tôi bực mình. Tôi thất vọng. Tại sao phái đoàn Mỹ không chịu mở hồ sơ phỏng vấn tôi? Tôi làm thông dịch viên cho Cao Uỷ. Tôi trông coi các trẻ em không thân nhân trên đảo, trong đó cũng có nhiều em “lai Mỹ”. Tôi dạy tiếng Việt cho nhân viên các phái đoàn… Tôi đã lăn lộn tối ngày sáng đêm với bao nhiêu công tác thiện nguyện nhưng có được nâng đỡ gì đâu! Tôi bỏ bê mọi sự. Tôi chỉ muốn lè phè cho qua ngày.
Chiều nay tôi nhận được lá thư đầu tiên của Mẹ từ Việt Nam gởi qua. Tôi thật sự xúc động khi đọc lại những dòng chữ thân thương của mẹ. Mẹ tôi như đã biết trước tâm trạng của tôi lúc này nên viết cho tôi những lời khuyên xác thực. Lá thư của mẹ đến thật đúng lúc. Tôi đã tìm lại được nghị lực. Tôi phải chỗi dậy bắt đầu lại. Tôi không có quyền lè phè trong khi ở quê nhà còn bao nhiêu người thân yêu đang sống trong tức tưởi, mòn mỏi đợi chờ và hy vọng những người đã ra đi như tôi sẽ làm được một chút gì đó cho quê hương, dân tộc. Tôi đã ngã quỵ nhưng tôi phải thu hết can đảm đứng lên đương đầu với thực tế để vươn lên và vươn lên mãi. Tôi phải tiếp tục đi theo con đường phục vụ thay vì phè phỡn ăn chơi cho qua ngày tháng ở trại tị nạn. Tôi phải tìm lại niềm vui cho chính mình để tiếp tục sống những ngày đáng sống ở Galang trong niềm vui phục vụ… Rồi sóng gió cũng sẽ qua nhanh.
Ngày… tháng 3, 1984:
Tôi đang chuẩn bị di chuyển vào Galang II để theo học khóa C.O. 26 (Cultural Orientation). Tôi đã được phái đoàn Mỹ nhận mấy ngày trước tết Âm Lịch. Mùa xuân thứ nhất xa quê hương, tôi đã buồn thật nhiều vì nhớ nhà, nhưng nỗi buồn đã qua mau nhờ hình bóng một người con gái. Tôi gặp nàng trong một bữa tiệc tất niên. Tôi làm quen, và…
Cô bé ấy có đôi mắt bồ câu thật đẹp và mái tóc thề xõa ngang vai mang dáng dấp một thiên thần. Lúc tôi đến làm quen, nàng đã mỉm cười thật tươi với đôi má lúm đồng tiền nho nhỏ. Nói tóm lại là tôi đã tìm được “chiếc xương sườn cụt” lạc mất từ lúc chào đời. Tôi quyết định sẽ xin nghỉ tất cả công tác thiện nguyện với lý do sắp sửa phải vào khóa học chuẩn bị lên đường định cư; nhưng thực ra là tôi muốn có nhiều giờ rảnh rỗi để đến với nàng. Cô bé đã ngỏ ý nhờ tôi dạy thêm tiếng Anh. Thôi, từ nay mình đã có người lo cơm nước, đỡ phải lang thang và cũng không phải bận tâm lo lắng cho đám trẻ nghịch ngợm ở trung tâm “Unaccompanied Minors” nữa. Tôi đã làm việc phục vụ gần một năm trời ở trại, và bây giờ tôi có quyền nghỉ ngơi.
Nhưng rồi một người bạn, nói đúng ra là một người đàn anh, đã đến tìm tôi và vạch ra một công tác mới để tôi có thể tiếp tục phục vụ đồng bào trong thời gian theo học khóa C.O. 26 ở Galang II. Tôi đã phải miễn cưỡng nghe theo vì sợ bị chê trách là “chí lớn không đong đầy đôi mắt giai nhân!” Đã hơn một lần tôi buồn vì công việc quá bận rộn nên tôi không có được những giây phút thần tiên bên nàng. Tinh thần trách nhiệm đã khiến tôi phải xa nàng, và nàng cũng đã xa tôi để tìm vui bên một người thanh niên lúc nào cũng kề cận sẵn sàng an ủi và giúp đỡ nàng. Tôi thất tình! Tôi đã buồn khổ một mình biết bao nhiêu đêm nhưng không dám bỏ bê công việc. Mãi rồi tôi cũng tìm lại được niềm vui trong phục vụ. Tôi quyết định sẽ dùng đôi tay và khối óc làm việc phục vụ cho tới ngày rời đảo.
Ngày… tháng 7, 1984:
Cầm tờ giấy nợ (promissory notes) ra khỏi văn phòng Cao Uỷ tôi chợt thấy lòng mình chùng xuống, buồn man mác. Trời vẫn còn mưa. Mưa Galang dai dẳng buồn không chịu được. Tôi đã chạy như bay, bất chấp trời đang mưa nặng hạt khi nghe loa gọi lên văn phòng Cao Uỷ ký giấy nợ. Niềm vui chợt đến vì mình có tên đi định cư vào ngày 28-07-1984. Nhưng bây giờ, sau khi đã hoàn tất thủ tục giấy tờ rời đảo, tôi mới thấy thấm thía câu nói “ra đi là chết ở trong lòng một nửa!” Tôi buồn vì chẳng còn bao lâu nữa tôi sẽ vĩnh viền ra đi, mãi mãi rời xa Galang, nơi được mệnh danh là “ngưỡng cửa của Tự Do và Tình Người.” Tôi buồn vì mấy ngày nữa tôi phải giã từ tất cả những kỷ niệm dấu yêu và bạn bè thân thương ở trại tị nạn để một mình bước vào một con đường mới hoàn toàn xa lạ. Nơi tôi sẽ đến là một tỉnh nhỏ ở phía Tây Bắc của tiểu bang Pennsylvania… Tôi nghe nói ở vùng đó việc tìm gặp một người Việt Nam còn khó hơn đi tìm vàng. Buồn!
Hơn một năm trời ở Galang với bao nhiêu kỷ niệm vui buồn, tôi xin gởi lại tất cả cho đồng bào tôi, những người còn ở lại. Tôi xin khắc ghi vào tâm khảm để không bao giờ quên Galang và “tình người” nơi đây: Những lúc miệt mài, vất vả vì công việc; những giờ phút thoải mái trong một quán nước bên đường; những ngày đứng giảng bài trong lớp học oi bức; những bữa cơm đạm bạc từ khẩu phần P3V; những giờ phút chán nản và tuyệt vọng; những kỷ niệm và hình bóng thân thương của bạn bè còn ở lại nơi đây… Một lần nữa, tôi xin được vẫy tay từ giã Galang, ngưỡng cửa của Tự Do và Tình Người để lên đường định cư.
* * *
Đã 25 năm qua rồi kể từ khi tôi đặt chân đến Galang… Trại tị nạn Galang đã bị đóng cửa hoàn toàn vào năm 1996, khi Cao Uỷ kết thúc chương trình trợ giúp thuyền nhân Việt Nam và giao trả trại lại cho chính quyền Indonesia. Đã có hơn 250 ngàn người tị nạn đã từng tạm trú một thời gian ở Galang trước khi lên đượng định cư, và cũng có gần 300 người đã vĩnh viễn ở lại trong những ngôi mộ ở nghĩa trang Galang. Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân ở Galang được khánh thành vào ngày 24.03.2005 cũng đã bị đục bỏ vào cuối tháng 5, 2005!
Sau đây là một vài chi tiết về đài tưởng niệm chỉ tồn tại vỏn vẹn 2 tháng ở Galang: Xây bằng bê-tông cốt sắt cao 2 mét, rộng 1 mét, dày 15 phân, dựng trên một bệ tam cấp bằng bê-tông cốt sắt vuông mỗi cạnh khoảng 2 mét. Hai mặt đài là hai tấm đá hoa cương lớn, cao 1 mét, rộng 70 phân, dày 3 phân, một tấm màu đen, một tấm màu trắng.
Tấm màu trắng là Bia Tri Ân có nội dung như sau: “In appreciation of the efforts of UNHCR, the Red Cross and Indonesian Red Crescent Society and other world relief organizations, the Indonesian Government and people as well as all countries of first asylum and resettlement. We also express our gratitude to the thousands of individuals who worked hard in helping the Vietnamese refugees. OVERSEAS VIETNAMESE COMMUNITIES, 2005.” (Tri ân những nỗ lực của Cao Uỷ tị nạn Liên hiệp quốc, của Hội Hồng thập tự và Hội Hồng Nguyệt Nam dương cùng các tổ chức cứu trợ quốc tế khác, Chính phủ và nhân dân Nam dương cũng như các quốc gia tạm dung và các quốc gia định cư. Chúng tôi cũng tri ân hàng ngàn người đã làm việc tận lực để giúp đỡ người tị nạn Việt nam. CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI 2005).
Tấm màu đen là Bia Tưởng Niệm có nội dung như sau: “In commemoration of the hundreds of thousands of Vietnamese people who perished on the way to Freedom (1975-1996). Though they died of hunger or thirst, of being raped, of exhaustion or of any other cause, we pray that they may now enjoy lasting peace. Their sacrifice will never be forgotten. OVERSEAS VIETNAMESE COMMUNITIES, 2005.” (Tưởng niệm hàng trăm ngàn người Việt đã bỏ mình trên con đường đi tìm Tự do (1975-1996). Dù họ chết vì đói khát, vì bị hãm hiếp, vì kiệt sức hay vì bất cứ lý do nào khác, chúng ta thảy đều cầu nguyện để họ được yên nghỉ dài lâu. Sự hy sinh của họ sẽ không bao giờ bị lãng quên. CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI 2005).
Trại tị nạn Galang không còn nữa, nhưng cũng như hàng ngàn người đã từng “đi qua” Galang, tôi sẽ không bao giờ quên được những tháng ngày sống ở trại tị nạn Galang, ngưỡng cửa của Tự Do và Tình Người muôn năm.
Nguyễn Duy An
Thanh Sơn
Không phải đến bây giờ sau bao nhiêu năm sống xa quê hương, đất nước, con người mới thấy nhớ về hồn quê xưa cũ. Cho dù ngày nay những người bỏ xứ ra đi đã lắm vị làm nên sự nghiệp huy hoàng, nắm những vai trò nổi nang trong xã hội mới. Thế nhưng lòng hoài hương vẫn nặng trĩu trong tâm tư trên bước đường lữ thứ. Chiều chiều lại nhớ chiều chiều, nhớ người áo trắng khăn điều vắt vai. Nhìn đàn chim bay theo đàn trong bóng hoàng hôn tím thẫm, dõi theo cánh chim về tận nơi nao, người nghệ sĩ đã có lần cất tiếng hỏi : ơi hỡi chim ơi, chim bay về nơi nao, có phải chim bay về cố hương ?
Cố hương, tiếng gọi yêu thương, nhưng làm đắm lòng người xa xứ. Bóng nắng nhàn nhạt trên chót ngọn cây cao của buổi chiều Seattle, Houston, Cali hay Paris, London có nhắc chăng đọt nắng trên tàng cây kơ nia Dăk lăk ? Rồi giữa dòng xe vùn vụt của giờ tan sở sao vẫn mang mang một góc trời của Dalat, Saigon. Muốn tìm một hàng chùm bao trên đường Phan Đình Phùng đã giúp ta đỡ đói trong những trưa tan học đi bộ về nhà từ Dakao đến Bến Thành, bây giờ không còn tìm đâu ra nữa. Nhớ ngày xưa lớn tồng ngồng còn khoả thân nhẩy tùm xuống tắm tại bùng binh Nguyễn Huệ Saigon chẳng chút thẹn thò, sao thấy tuổi thơ hồn nhiên quá đỗi. Đêm thắp đèn thi nhau học ôn với cô gái trước nhà như thầm nhắn nhau quyết thi đỗ khoá sau, không nói ra như đã cùng vẽ lên một tương lai hồng thắm. Bây giờ tất cả đã xa đi, như bong bóng nước ngày mưa lớp này dập tan lớp trước, người xưa nay đã biền biệt nơi đâu ?
Tháng 3 trời Cali vẫn còn rét. Cái rét nhắc nhở về mùa đông quê hương với một chút nỗi buồn thoang thoảng. Bây giờ quê hương đã xa vời biền biệt. Chiều chiều trông theo bóng phi cơ vừa cất cánh tự hỏi trên chuyến bay đó có ai về thăm lại quê nhà. Quê hương nghẹn ngào trong nỗi nhớ. Quê hương uất hận trong ngục tù. Nhớ quê lòng tự hỏi lòng bao giờ sẽ về lại. Thà ăn mắm muối dưa cà mà vẫn giữ cho nhau tấm lòng yêu thương hơn sống đầy đủ mà xem nhau như người xa lạ. Hoa vàng lại nở rồi, thung lũng lại ánh lên màu hoa lãng mạn. Hôm nay đây những người con Việt ra đi có chút xót thương nào lấn cấn tâm hồn khi nghĩ đến những người không may còn ở lại.
" Thăm em anh hãy nhớ qua
Bước chân nhè nhẹ kẻo mà mẹ hay "
Như một tình yêu vụng trộm, thương nhau biết mấy cho vừa. Tình quê đó ngày nay sống tha phương bỗng như tan rã cả. Anh còn nhớ những đêm không trăng hẹn nhau ngoài đồng ruộng. Cầm tay nhau mà không thoát khỏi sự run. Cứ gì phải hôn nhau mới gọi là đính ước. Có đâu như bây giờ người ta hôn nhau ngay giữa học đường. Xin hồn quê hãy thắm tràn những con dân sống đời xa xứ. Xin buổi chiều quê hương ngân lên hồi chuông dẫn độ trở về. Câu kinh giải thoát xin dâng lên cho những người đã mất. Những người một thời đã nghĩ " tử biệt cho tổ quốc tồn sinh " Bây giờ nước cũng tan đằng nước, người chết đi cảm thấy ngậm ngùi. Trách ai đây?
Thanh Sơn
Có Những Mùa Xuân Bất Tận ...
Từ Tú Trinh
(Kính dâng Mẹ Dấu Yêu !)
Lâu lắm rồi, những mười năm đã qua đi …
Cũng có nghĩa là, ngần ấy mùa Xuân trên mảnh đất tạm dung nầy; gia đình chúng tôi không còn bóng dáng một người thân yêu bên cạnh nữa . Đó là, Mẹ của chúng tôi .
Từ ngữ Mẹ ! Nếu được ghi xuống bằng chữ viết, lúc nào tôi cũng muốn viết hoa . Tức là, viết cái chữ ấy to hơn những dấu chữ bình thường . Hơn thế nữa, tôi cũng đã viết hoa chữ Mẹ thật lớn ngay từ trong cõi lòng thẫm sâu, kỳ bí nhất .
Điều nầy, là lẽ đương nhiên . Nó chẳng lạ lùng gì đối với tất cả mọi người, bởi ai ai cũng từng có Mẹ ! Và cũng bởi, tất cả những người Mẹ có mặt trên thế gian nầy, đều là món quà tinh thần diễm tuyệt, hiếm hoi, vô giá nhất đối với những người con . Mẹ ! Từ ngữ đã từng được biết bao văn nhân thi sĩ tài danh ca tụng bằng hầu hết những mỹ từ thần tiên, bay bổng, tuyệt vời . Chữ Mẹ, nếu chúng ta kiên nhẫn bỏ chút thời giờ ra nghiền ngẫm, tư duy; lại thấy dường như cái ý nghĩa càng thêm đậm đà, thâm thuý; mà thiết tưởng, không còn từ ngữ nào khác hay ho hơn nữa để thay vào (!?) Vì thế, đôi khi vụt nghe qua bằng âm thanh, tiếng nói từ ai đó thốt lên; hoặc có lúc, chợt thoáng nhìn qua từ trên những dòng chữ viết – thì cũng chính danh từ Mẹ ấy - đã lập tức, đã không ngờ, đã tự nhiên gợi cho chúng ta liên tưởng đến cái hình ảnh thân quý, yêu thương; vĩnh viễn, suốt đời chẳng thể phai nhoà …
Những dòng chữ về Mẹ mà tôi ghi lại trong bài viết hôm nay; đúng ra, tôi nên viết vào những mùa Vu Lan của nhiều năm đã qua rồi . Nhưng rất đỗi lạ lùng: ngay trong những ngày Lễ ấy, dù tôi có nghĩ thật nhiều đến hình bóng Mẹ thân yêu, dù lòng cũng da diết ngậm ngùi, lao xao tưởng nhớ; thế mà, cố "nắn nót" mãi vẫn chẳng tuôn ra được ít nhất một hàng chữ mảy may nào; khả dĩ nói lên đôi phần nỗi niềm hoài nhớ đến người đã từng cưu mang, sinh dưỡng chúng tôi từ thuở ấu thơ đến lúc trưởng thành . Đó có phải, như một tắc nghẽn, một trở trăn nào đó ở tâm linh, sau thời gian thật dài không còn Mẹ nữa; để chờ đến lúc, cái khối đau thương sầu não đông cứng lâu ngày kia chợt dưng bùng dậy, vỡ oà và trở thành nỗi tan tác – xanh xao hơn bao giờ hết ! Nó lại rơi đúng vào thời điểm nầy đây . Thời điểm của những mùa Lễ lớn: của mùa Giáng Sinh; và cạnh bên, là mùa Xuân Quê Hương - Dân Tộc . Mùa Lễ . Đang rón rén, e dè từng bước chân quen; đang lấp lửng, thập thò bóng hình xinh tươi trước ngõ; đang hân hoan, thân ái nở sẵn trên môi nụ cười vui; để đến thật gần, để chào mừng ngày tương ngộ, đoàn viên với hầu hết mọi người, mọi vật . Nó cũng nhắc nhớ, một mùa Giáng Sinh, một mùa Xuân của mười năm xưa cũ ; Mẹ đã thật sự xa rời chúng tôi, xa rời luôn cõi người mà bản chất vốn dĩ bất toàn, mong manh, hữu hạn .
Mẹ đi, như một bất ngờ quá đỗi ! Mẹ rời khỏi, như từ trong cõi mộng ngỡ ngàng, lờ lững, bâng khuâng … Dáng Mẹ, nằm an nhiên như còn say ngoan trong cơn ngủ muộn màng . Dáng Mẹ, hết sức bình yên . Bình yên, như đã vô vàn mãn nguyện, thật sự hài lòng . Bình yên, như đã thấu hiểu tận tường tấm lòng hiếu thuận của những đứa con mà người một lòng thương yêu, trân quý ! Mẹ thoát, cái xác thân còm cõi già nua . Mẹ thoát, cái kiếp người tử – sinh – bệnh – khổ . Nhưng từ ngay những giọt lệ rớt rơi còn sót; những giọt nóng sau cùng nào còn đọng lại trong ánh mắt héo queo, khô khốc, lạc thần; vẫn còn phảng phất vẻ hạnh phúc, ấm vui, an nhàn, thanh thản . Mẹ đã thật sự, làm tròn trọng trách thiêng liêng, mầu nhiệm nhất cuộc đời: "Được làm mẹ của một bầy con." – Mẹ từng nói vậy – Và Mẹ, đã thể hiện thật trọn vẹn vai trò mà Tạo Hoá cố ý dành riêng cho tất cả những bà Mẹ ở thế gian nầy . Mẹ cũng làm bổn phận một người vợ thật chu toàn, hoàn tất . Đặc biệt hơn cả, người mãi mãi lưu lại trong tâm khảm chúng tôi, một hình ảnh, một dấu ấn sâu đậm nhất, mà thời gian không dễ dàng xoá mất, lãng khuây; hình ảnh, một người Mẹ chân chất – hiền lành – nhẫn nhục – vị tha – từ ái … và còn nữa, người Mẹ chúng tôi còn biết bao đức tính khác theo cùng – nhưng vốn liếng từ ngữ của tôi hình như vẫn còn bị nhốt giam trong giới hạn – vướng mắc – nghèo nàn – không đủ đầy, không trọn nghĩa; để chở chuyên, để dàn trải mọi điều cao đẹp về người cho công bằng, cho thấu suốt .
Chỉ chắc chắn . Một điều . Còn giữ lại từ sâu kín nhất cõi lòng của những người con . Lòng tri ân, tưởng nhớ, khắc ghi về công ơn, nghĩa cử, tấm tình của người làm Mẹ; điều đó, không phải chỉ được đánh dấu từ những ngày Lễ Hội xôn xao, hoặc chỉ bằng cái tâm tư nhất thời, cạn cợt . Mà niềm thương, nỗi nhớ; vẫn nằm rất khuất, rất im từ hút sâu đáy vực tâm hồn . Nó như, dòng máu đỏ thẫm nuôi sống thân người còn mãi luân lưu trong từng huyết quản . Nó như, mỗi tế bào rất đỗi chi li, vô vàn nhỏ nhiệm; nhưng gắn chặt vào, kết dính vào để làm thành tấm hình hài đang sinh tồn hằng mỗi phút giây . Mẹ đã rời xa, thật xa … cách ngăn chúng tôi từ vạn nẻo trùng khơi, mịt mù sương khói; từ thế giới xa vời nào vẫn như còn lắm vẻ mơ hồ, huyễn hoặc, mông lung … (!?) Nhưng bóng hình người, dù đã từng chuyển đổi qua bao lần khốn khó, lầm than: từ thời xuân trẻ đến lúc già nua, từ thuở mạnh lành đến khi hoại tàn, bệnh khổ; vẫn mãi là, một hình bóng Mẹ ngút ngàn thương quý của chúng tôi: "một trái tim lớn; của từng trái tim non"; bất biến - đời đời . Mẹ vắng mất bằng hình dung thể chất, nhưng tâm linh giữa Mẹ và Con; vẫn tương thông trong mỗi nhịp tim, trong từng hơi thở . Và tấm lòng, tình thương bao la sâu rộng của người; vẫn mượt mà, êm ả như đồng lúa chiều hôm bát ngát tươi xanh; vẫn ngọt ngào, tinh khiết, mát trong như dòng suối huyền năng tưới tẩm – thấm suốt vào lòng những người con yêu dấu còn mãi ngụp lặn, bon chen giữa cõi trầm luân, tạm bợ nầy; của Mẹ ! Mãi, vẫn còn nguyên đó; một điều duy nhất, thuỷ chung: dù rằng trong hiện tại, dù đã là quá khứ, dù thấp thoáng tương lai – thì cái bóng hình của tất cả những người Mẹ một thời có mặt ở thế gian nầy – vẫn muôn đời bất diệt trong tận cùng ngăn lòng kính yêu, thương tưởng, tiếc nhớ của tất cả những người con; mà Mẹ đã khổ nhọc sinh thành, dầy công nuôi dưỡng !!!
Và ý nghĩa tốt đẹp, thiêng liêng, trường cữu của mùa Xuân; nếu có, hẳn là phải có, ngay từ giây phút ban sơ của một đời người; khi mầm sống nhỏ nhoi vừa chớm thành hình trong lòng của Mẹ ... đến lúc nào đó, bất chợt cất lên tiếng khóc đầu tiên để chào đón cuộc đời, chấp nhận phận người; đã là, khởi đầu cho thời điểm của mùa Xuân thứ nhất . Rồi thời gian qua, con của Mẹ lớn dần, cùng theo đó những mùa Xuân tiếp nối; mùa Xuân nhiệm mầu, mùa Xuân vĩnh cữu hiện hữu trong lòng những người con quả thật diễm phúc vì đã từng một lần, có Mẹ ! Và ngược lại, cũng là những mùa Xuân tình thương, mùa Xuân tuyệt diệu từ trong Mẹ ban phát một cách vô điều kiện, không vụ lợi, chẳng mưu cầu; cho cả đàn con ! Đó là, Những Mùa Xuân Lòng; Giữa Mẹ Và Con !!! Đó cũng chính là, Những Mùa Xuân Nhân Gian; Tươi Thắm – Nở Hoa, Trong Vô Cùng – Trong Bất Tận !!! – Có phải thế không ??? Hở Mẹ Yêu Dấu ??? Của Chúng Con; Ngàn thuở – Muôn đời !!!
(Tưởng nhớ Mẹ ! Giáng Sinh 2004 – Xuân 2005)
TÔI VỀ
Bích Xuân
Mùa hè ở Sài Gòn buổi chiều thường có những cơn mưa phùn làm dịu bớt cơn nóng trong người. Tôi nằm lì trong khách sạn chờ mặt trời lặn rồi mới bước ra đường. Ở Pháp trên hai mươi năm, lần đầu tiên về thăm quê hương, nhớ lúc máy bay vừa hạ cánh rồi dừng hẳn lại, lòng tôi cảm thấy hồi hộp, lo âu điều gì viển vông ...
Các cửa quầy hộ chiếu của nhân viên làm việc trong phi trường Tân Sơn Nhất được che ngang tấm kính, họ mặc đồng phục màu xanh lá mạ biểu tượng màu xanh của Tầu Cộng. Tôi nhìn chung quanh, nhân viên làm việc trong phi trường, hết chín mươi phần trăm là người miền Bắc. Có được một chỗ làm nơi đây không phải là dễ, nghe đâu phải mất trên mười cây vàng, nhưng cũng chỉ làm được vài năm thôi, chỗ làm của họ cũng sẽ được “bán” lại cho một người khác sắp vào.
Tôi đưa passport hồi hộp chờ đợi...Người nhân viên ngước nhìn tôi, rồi nhìn vào tấm hình trong hộ chiếu không nói gì rồi trả lại passort cho tôi. Tôi đã đi lung tung khắp nơi không sợ, ấy vậy mà khi về VN tôi lại... run , y như là nhõng nhẽo với mình chưa từng đi đâu bao giờ !
Hai ngày đã quen với sinh hoạt ở Sài Gòn, nhưng tôi chưa dám ra mua một thứ gì, hay ăn một món gì trong các quán cơm bên cạnh. Hai ngày đầu tôi chỉ ăn hủ tiếu và cơm cá kho mặn tại khách sạn, không dám ăn uống vô tư ở ngoài, sợ bị đau bụng như báo chí trong nước thường nói đến. Tôi ít thích ăn cơm, ăn tiếp ba ngày là thấy ngán. Tôi ăn trái cây thì khỏi phải sợ bị trúng độc.
Khách sạn ở đường Lý Thường Kiệt, phòng còn mới nên rất sạch sẽ ở gần chợ Bến Thành. Khách sạn có camera đặt ở mỗi hành lang. Ban đêm có hai bảo vệ canh gác. Để cạnh tranh, giá thuê phòng cá nhân khách sạn 30 đô, tụt xuống còn 25 đô một ngày, còn ở đường Phạm Ngũ Lão và đường Bùi Viện thì giá 10 đô, phòng sạch sẽ, nhưng hơi cũ đã có mùi ẩm ướt. Con đường nhỏ rất ồn ào vì người qua lại rất nhiều. Nghe đâu có khách ngoại quốc đã mất máy vi tính cầm tay (laptop) và máy camera, không phải kẻ lạ vào phòng mà chính là khách đến thuê phòng rồi thừa cơ phá cửa vào lấy trộm. Chuyện du khách mất đồ trong khách sạn đòi chủ nhân bồi thường là chuyện không tưởng. Để cho bảo đảm, vật sở hữu nào có giá trị nên gởi lại cho khách sạn mỗi khi ra ngoài, ngay như cả passport cũng vậy. Ngày đầu mướn phòng tôi chỉ đưa bằng photocopy, sau thì tôi gởi passport cho khách sạn giữ luôn. Trước khi ngủ hoặc đi đâu, tôi đều khóa valise lại (cẩn thận vẫn hơn). Về ở trên quê hương của mình mà lòng cứ nơm nớp phập phồng như đến một xứ nào lạ hoắc lạ huơ...
“ Chợ Đêm” ở Bến Thành bắt đầu sáu giờ chiều người ta che “tăng” để làm quán ăn, nấu nướng ngay tại chỗ, đủ các món ăn kể cả món thịt ếch còn sống treo tòng teng trên bếp, chờ khách thích con nào đem xuống chặt đầu, lột da bỏ vào chảo dầu. Ui chao, giữa trung tâm đô thị về đêm mà nhìn mấy chàng ếch đang treo cổ, đưa cái bụng trắng tinh nằm chờ chị bếp cho vô vạc dầu, để làm khoái tỷ cái lưỡi của bợm nhậu làm tôi bỗng lạnh mình. Nằm san sát quán ăn là các hàng bán áo quần, đủ loại, đa số là hàng của Trung quốc và đồ lưu niệm .
Trời về đêm, sau cơn mưa có mùi âm ẩm, tôi đứng (không dám đứng lâu) nhìn chị bếp xào nấu giữa bếp lộ thiên, bị muỗi chích một phát đau điếng vội vàng bỏ đi, vừa đi vừa nhìn những món thịt, tôm, ốc, trứng v.v... chưng bày trong tủ, được bao che bởi một miếng kính nhưng cũng thấy rõ những con muỗi và bù hong bu chung quanh đống thịt nguội. Hèn chi mà khách nước ngoài ăn vào bị trúng độc, bị tiêu chảy, đau bụng ói mửa đến mật xanh, ruột gan đau đớn như muốn bung ra ngoài. Ăn uống không cẩn thận là vậy !
Ngày cũng như đêm, ở quận nào người và xe chật ních. Xe gắn máy, xe hơi, người đi bộ đầy trên đường phố, mạnh xe ai nấy chạy, mạnh người nào nấy đi bất kể khi đèn đỏ. Hôm nay tôi cũng muốn đi tìm cảm giác lạ nên cũng nhảy lên xe gắn máy, ngồi phía sau thằng em để nối đuôi chạy theo đoàn xe hít thở bụi đường. Thỉnh thoảng tôi hét “ái ái” rồi co chân lên tới cằm, sợ chiếc xe bên kia gần như muốn húc vào chân mình chỉ còn trong gang tấc... Khói xe hòa bụi mờ trong rừng người, tạo thành một khung cảnh hỗn độn vô trật tự giữa trưa hè bỏng rát. Mồ hôi nhễ nhại trên mặt mỗi khi xe ngừng lại, thấm ướt không biết mấy cái khăn giấy. Khăn giấy ở Việt Nam chùi một cái đã bỡ ngấy, vụn nát.
Đang trên đường, bỗng một người đi xe ngược hét lớn: “ Có công an anh ơi !” thằng em định quay đầu lại thì đã trễ, anh công an đứng ở góc đường, đưa tay ngoắc bảo nó tấp xe vào lề. Thằng em tôi lẩm bẩm:“Chết! đi ngược chiều rồi”. Tôi ngồi phía sau vội nhét “tờ trăm xanh bác Hồ” vô túi nó. Xe ngừng, anh công an nói: “Anh có biết đã vi phạm luật đi đường không ? ” Thằng em tôi lí nhí: “Dạ biết! ”Anh công an hỏi “Biết tại sao anh đi ngược!” Tôi có tính tinh nghịch tiếp lời thằng em:“ Dạ, vì nó không thấy anh đứng đây, nếu thấy anh nó không dám vào đâu !” Anh công an bỗng bật cười, thằng em tôi cười theo và nhanh tay nhét vội tờ trăm xanh vào tay anh công an. Anh công an ra dấu biểu nó đi đi ...
Xe Honda của Trung quốc bảy triệu đồng một chiếc, (chừng $450 đô) Honda Nam Hàn thì mười triệu (chừng $700 đô ) nhưng cũng còn rất nhiều người nghèo, nên việc mua xe Honda không phải là dễ...Hàng nội hóa của Trung quốc nhất là áo quần bán ở VN so ra rẽ rề, nhưng sờ đến máy móc ví dụ như máy ảnh, máy vi tính (Laptop) v.v... mắc hơn giá bán ở nước ngòai . Một tuần ở Sài Gòn đi đâu tôi cũng đi bằng taxi, con đường gần mà mấy ông taxi chạy vòng thành đường xa, một tuần lễ tính ra hơn hai trăm đô. Sài Gòn các cô đi xe máy, xe đạp sợ nắng ăn da nên ra đội mũ tai bèo, găng tay gần nách, mặt che kín chỉ chừa đôi mắt, thoạt nhìn giống như đàn bà của xứ Ả Rập.
Tôi mướn xe Honda mỗi ngày 5 đô nhưng họ đòi passport, tôi không chịu đưa, nên nhờ người quen đứng thuê xe dùm. Cuốn sổ passport là “linh hồn”, chớ dại mà đưa bất cứ ai trong bất cứ trường hợp nào. Tôi luôn luôn có hai, ba tờ phoyocopy trong xách, cần hỏi là có sẵn. Tôi có tính cẩn thận nên trước khi về VN cũng đã photos vé máy bay và passport gởi đến tòa Đại sứ Pháp ở VN, nếu có gì thì tôi đã có tất cả hồ sơ trong sứ quán Pháp rồi. Khi đến Việt Nam tôi không bị một trở ngại gì với Việt cộng, nhưng bị “Việt gian” (từ để gọi những người Việt Nam buôn gian bán lận) trong giới thương mại đụng đâu “chém” đó và giới taxi cứ chạy vòng vo khi trả tiền méo...mồm luôn. Chuyện này cũng là thường tình đối với Việt kiều thôi .
Đi một vòng Sài Gòn ban đêm nhất là các quán cóc trên các vĩa hè, giới buôn thúng bán bưng đủ loại. Thành phố xô bồ như cái chợ. Ban đêm hay ban ngày, dù mưa hay nắng, dù ruồi muỗi bên đống sình, người dân ở thành phố họ ăn đứng, ăn ngồi, ăn chồm hỗm dưới đất thật ngon lành, nhìn họ ăn như một lối...thiền .
Ba mươi năm, bây giờ Việt Nam là thời đại của máy vi tính. VN có những siêu thị lớn, nhỏ như tiêu chuẩn quốc tế. Tôi vào một siêu thị có mấy anh cận vệ đứng kiểm soát không cho đội mũ và mang xách vào, (phải gởi tại quầy ở ngoài). Giá cả ghi sẵn, mắc gấp hai lần so với ở ngoài.
Đi Thủ Thiêm, sau khi mua vài ký thịt, chị bán hàng mời mua nốt phần còn lại. Chị chỉ cái cân thấy rõ 650/gr nhưng chỉ tính tiền 500/gr thôi. Khi về, người nhà đem cân lại chỉ còn 300/gr. Chị bạn dặn, lần sau không nên mua hàng bán rong ngoài đường. Qua Thủ Thiêm phải ngang một con sông. Nước sông Thủ Thiêm đục đen, mùi hôi nồng nực của bùn sình xông vào mũi như muốn ọe ra, tôi phải nín hơi để ra đến giữa sông mới thở lại bình thường.
Tôi bước vào một quán ăn. Đôi chân của hai người ngoại quốc đập vào mắt tôi. Hai vế chân của họ bị muỗi cắn nát đến sưng u, đỏ hỏn. Bất chợt tôi nhìn xuống đôi chân mình, chỉ có hai dấu răng của muỗi chích thôi. Mỗi khi ra đường, dù là ban ngày tôi đều thoa thuốc chống muỗi từ bắp chân xuống đến bàn chân, ấy vậy mà muỗi nó lại chui tuột dưới lòng bàn chân cắn tí “thịt” hút máu Việt kiều một phát cho đã mới thôi !...Mà lạ lùng ban ngày ngồi uống nước, mấy con muỗi cứ nhắm chân tôi mà cắn, ngứa đến không chịu được, trong khi những người ngồi bên cạnh thì không sao! Hình như muỗi nó cũng biết phân biệt cái “mùi” da của người ở nước mgoài? Không tin quý vị về Việt Nam sẽ biết ngay.
Nhà Bè, bồng bềnh trên mặt nước, (lần đầu tiên tôi được nhìn thấy). Nước sông vàng ngầu, người ta nói nước đục quanh năm, và chủ nhà ở ngay tại đó, dưới sàn nhà là ao nuôi cá. Bây giờ thì tôi hiểu thế nào là cá sông, cá biển. Chúng tôi đi trên chiếc thuyền vào những con kênh nhỏ, hai bên có hai hàng dừa, cao khoảng hai thước, thật là trữ tình nên thơ...Chúng tôi tận mắt thấy dân bản xứ tại đây làm kẹo dừa bằng tay. Dừa xay ra lấy nước nấu với đường, vừa nấu vừa quậy khi nào cho thật keo rồi đổ ra, phả lại một lần cho bằng như tấm ván, để nguội 15 phút, cuối cùng cắt ra từng miếng nhỏ, gói trong một tờ giấy mỏng như sương. Cứ thế mà làm hết ngày này tháng nọ. Dừa còn làm dầu để thoa tay chân và tóc để khỏi bị khô...Tôi cùng các du khách mỗi người mua vài gói kẹo để làm kỷ niệm. Đến mua tận gốc mà mắc gấp hai lần giá bán ở chợ. Doanh thu mỗi ngày càng nhiều trên các du khách là một thành công, nhưng người ta quên một điều chỉ được một lần rồi thôi. Ngành du lịch ở Việt Nam chỉ biết “chém” tiền khách chứ không giữ chân khách trở lại lần thứ hai. Về VN tôi đã có chút kinh nghiệm, ấy vậy mà vẫn bị...lầm ! Đâu phải có kinh nghiệm rồi mà không bị lừa ! Khách nước ngoài đến VN càng đông, nhờ vào lối quảng cáo hấp dẫn, nhưng có những con buôn làm tiền trắng trợn quá làm cho người mua đôi khi đâm ra nghi ngờ e ngại !
Bị “chặt” những số tiền vô lý, dù không là bao, nhưng cũng rất bực mình. Họ làm tiền rất trắng trợn. Ví dụ: Trên tàu (có ghế ngồi) để ra Cù Lao Chàm chúng tôi trả tiền gấp ba lần mà không được ngồi ghế, hỏi tại sao thì chủ tàu nói vì là người nước ngoài, mặc dù người trong gia đình và chủ tàu là chỗ đã quen biết. Đáng lý tôi mua vé đi tours có tổ chức đàng hoàng hơn, nhưng phải mua vé trước một ngày, không để phí thời giờ chúng tôi đi tàu dành cho giới buôn bán. Khi trở vô lại bờ, chúng tôi cẩn thận hỏi giá cả trước, nhưng cũng bị tăng giá ngang xương và còn “chém” thêm một khoản tiền nữa và ba người Việt trong nội địa đi cùng cũng lấy theo giá của người nước ngoài. Thấy chuyện vô lý ông người Việt ở nội địa tức giận la lớn. Số hành khách trên tàu xầm xì “Việt gian” Chủ tàu “quê” quá trả lại tiền cho ba người Việt trong nước, nhưng vẫn “chém” hai vé ngọt xớt của Việt kiều. Hỏi tại sao ? “Việt gian” liền đáp chát: tiền bảo hiểm ! Nghe ba tiếng tiền bảo hiểm tôi bật cười thành tiếng. Tiền giữ xe tôi phải trả mười ngàn đồng thay vì hai ngàn đồng một chiếc. Còn đi taxi thì họ chạy vòng vo, biết vậy mà không làm sao tránh được .
Tây ba lô dưới mắt người Việt ở trong nước là dân nghèo, nên giới con buôn không thèm chào mời. Các phi công người Pháp làm cho hãng máy bay Vietnam Airlines khôn lắm, khi ra phố cũng quần cụt, xách đeo lưng như vậy họ sẽ được yên thân. Từ một xứ văn minh, người ta đã hưởng đủ thứ tiện nghi trên đời, cần gì mà phải xa xỉ một nơi mà người dân chưa rành luật đi đường. Có những nhóm người Âu Châu, vai đeo ba lô đi tận vào thôn quê hoang vắng, chong lều để tìm cảm khoái lạ, hay là muốn tìm hiểu một cái gì đó! Một cô gái địa phương chỉ nhóm người vừa đi ngang qua nói với tôi: “Tây ba lô nghèo!” Khi nghe tôi giải thích cô gái “A” một tiếng ý là như đã hiểu ra. Người Việt mình nhìn khách du lịch ba lô kiểu này coi thường lắm! Người đời cũng lạ! Cái lớp bề ngoài đôi khi cũng dễ đánh lừa được người ta. Ai thích làm đại gia áo lượt, quần là sẽ được “Việt gian” o bế tận tình và“ chém” đẹp vô tội vạ biết chừng nào !
Tôi ngồi bên cạnh người vá giày ở trên đường Nguyễn Huệ chờ làm đóng lại cái đế giày với giá 15.000 đồng một đôi (khoảng $1 đô) thấy rẻ, tôi đóng hết cả ba đôi vừa mới mua. Trong khi chờ đợi tôi hỏi chuyện anh thợ giày:
“ Làm nghề này lâu chưa anh ? ”
“ Trên hai mươi lăm năm rồi cô”
“ Có bị đóng thuế không ?”
“ Nghề làm chui mà thuế gì cô”
“ Làm vậy mà gọi là chui sao ?”
“ Khi nào thấy “mấy ổng” tụi tôi ôm đồ chạy thấy mồ đó chớ !”
“ Chỗ làm của anh có người tới dành thì sao ?”
“ Thì mình năn nỉ “họ” trả lại chỗ cho mìnhï, vảû lại họ biết chỗ này của mình rồi “nó” không chiếm đâu”.
Tôi nhìn anh thợ giày trẻ tuổi đang ngồi phía trước, có khuôn mặt khôi ngô, trên tóc có nhuộm vài sợi tóc màu vàng, rất hợp thời trang đang làm mấy chiếc giày của tôi một cách thong thả, không có gì là vội vàng, mặc dầu bên cạnh còn nguyên một xách giầy chưa làm xong. Cứ ba mươi phút có khách đưa giày đến làm. Tôi nhìn người đánh giày trẻ tuổi rồi quay sang hỏi anh đánh giày lớn tuổi:
“Đệ tử của anh đó hả ?”
“ Lúc trước là đệ tử, bây giờ tôi phải trả lương cho nó”
“Bao nhiêu mỗi tháng ?”
“ Một trăm ngàn đồng mỗi ngày” (khoảng $5 đô )
“ Anh ngồi đây thấy có gì lạ không ?”
“ Lạ chứ !”
“Lạ như thế nào?”
“Lạ là ...à mà sao cô hỏi kỷ quá vậy, nhà báo hả ? Thôi, tôi không nói đâu, lần trước có một anh đến hỏi rồi đem chuyện tôi nói lên báo, mà còn đăng hình tôi nữa. Thôi tôi không nói đâu ...
Đang nói chuyện có người đẩy xe bán nước dừa đi ngang qua, người đi đường xúm lại mua, trời nóng quá mà, tôi cũng đến mua một trái giá với giá 4.000 đồng. Bỗng một người đàn bà to lớn, mặt rất dữ tợn, từ trong quán bước ra, đầu đội nón, mặc bộ đồ bông đỏ, chống nạnh la lớn:
“ Ê ! thằng kia ! Đ.M mầy bán dừa phá giá phải không ?
Anh bán dừa vừa thối tiền cho khách vừa trả lời:
“ Bốn ngàn một trái mà phá giá ? bán bốn ngàn cũng như chị .. .”
Người đàn bà trợn mắt hét :
“Đ.M, dừa ở đây tao bán năm ngàn, mày bán bốn ngàn mà nói không phá giá hả ? Mày còn đứng đó tao đập bể nát xe bây giờ.”
Thấy người đàn bà hung tợn chưởi anh bán đừa, mấy người khách không dám mua họ liền bỏ đi. Người bán dừa cũng vội đẩy xe đi một mạch. Tôi hỏi nhỏ anh làm giày: “ Có phải chỗ này của bà ta không ?”
“ Hỏng có ! Người ta bán ngoài đường, ai muốn mua thì mua ! Mấy bà ở chợ dữ như chằng cô ơi !
Đang nói chuyện thì có khách đến lấy giày, người khách hỏi trả bao nhiêu anh làm giày nói 5.000 đồng, A! giày của tôi cũng đóng đế giống nhau mà phải trả 15.000 đồng một đôi, so ra hơn gấp ba lần .. .
Gặp lại anh bạn cũ của thời thơ ấu, bây giờ là họa sĩ Nguyễn Thiên Chương, anh trình bày các bìa sách báo ở Sài Gòn, anh đưa tôi đi uống cà phê bên lề đường trong một góc phố, ít người và xe qua lại. Tôi không thích ngồi quán cóc, vì ghế không có chỗ dựa lưng. Ghế thấp thật khó chịu cho cái bụng vô cùng. Độ mười lăm phút thì nhà thơ Phạm Thiên Thư (tác giả bài thơ Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng, được Phạm Duy phổ thành nhạc) nổi tiếng trước năm bảy lăm. Nhà thơ bây giờ bị điếc một tai nên nói chuyện phải nói lớn, hoặc kề sát gần tai. Bây giờ ông hơi lừng khừng, viết một câu văn không thành, phải có người đọc thì ông viết được. Nhà thơ Phạm Thiên Thư mở tiệm cà phê lấy tên Hoa Vàng, tiệm nhỏ nhưng rất xinh, có bàn ngồi uống cà phê ở trên sân thượng rất trữ tình. Chỗ tôi ngồi uống cà phê bên lề cũng là của ông. Ngồi bên này đường nhìn sang bên kia đường là tiệm cà phê Hoa Vàng. Ông tặng tôi tập thơ Tự Điển Cười dày gần bằng một gang tay nặng quá chừng. Ông hỏi Nguyễn Thiên Chương viết ký tặng làm sao ? Anh Chương đọc, ông ghi lại y chang. Khi tôi chào ông để ra về ông nói: “Nghe anh Chương nói cô làm thơ tình hay lắm hả ? Đọc vài câu nghe chơi”. Tôi kề sát vào tai ông đọc nhỏ (trích bài thơ Yêu Em):
... .. . .. . .. . .
Hãy cọ sát cho châu thân nóng bỏng
Đôi vòng tay chao động ngực no tròn
Đưa hồn em cùng ra biển lên non
Hương da thịt còn tê mê đầu lưỡi .
Nghe xong, ông kêu “Uùi giời ơi! ui giời ơi!” rồi khoái chí cười hô hố đến híp mắt, ông nói lần sau nhớ đem bài thơ này cho ông xem. Sau này, tôi trở lại lần thứ hai từ giã ông để về Pháp. Ông nói:“ Bây giờ già rồi đâm ra lú lẫn, làm ơn đọc tôi nghe mấy câu thơ tình của cô cho già tỉnh lại chút nào chăng ?” Tôi tinh nghịch kề môi vào tai ông nói nhỏ:
Ước gì em hóa thành mèo
Để em cào cấu leo trèo lên anh
.. . .. .
Ước em làm nắng thế mưa
Để anh khát nước sáng trưa đến chiều .. .
Oâng nhà thơ nổi tiếng một thời,vừa nghe xong mấy câu thơ như bị ai thọt lét, ông hét lớn: “Ui giời ơi, ui giời ơi” rồi cười ré lên khanh khách. Tôi lại kề sát vào tai ông thủ thỉ:
Bây giờ em vui em hát reo cười
Đang run rẩy trên làn môi đợi cắn ….
Lại “ui giời ơi, ui giời ơi”, ông vừa cười ha hả vừa chu cái môi trên hàm răng hô của ông, trông ngồ ngộ đến tức cười. Tôi cảm thấy hạnh phúc khi biết ông đã đồng cảm mấy câu thơ trên, và tôi cũng rất may mắn được gặp một người mà tôi từng ái mộ từ lâu. Ông xuề xòa, tính nết dễ chịu, tôi càng quý mến thêm, không ngờ gặp ông thật tình cờ, âu trời cũng không phụ lòng người. Xin từ giã nhà thơ, ông để lại trong tôi một ngày hạnh ngộ nhiều kỷ niệm thân thương khó quên.
Mấy ông bạn ở Việt Nam có cái nhìn hơi lập dị, thường đưa tôi đi cà phê ở quán cóc. Mấy ông họa sĩ này không hiểu họ nghĩ cái chi mà sáng mô cũng ngồi trên cái ghế tí tẹo gần sát mặt đất. Xe cộ qua lại hà rầm, ông đi qua bà đi lại nhìn nhìn, ngó ngó, tôi không thấy tự nhiên tí nào, lần sau thì tôi từ chối không ngồi cà phê kiểu này nữa, không như ngồi quán với nhà văn Văn Quang trong tiệm có máy lạnh, mát mẻ mới thấy khoan khoái trong lòng. Trời Sài Gòn nóng quá ít ra cũng phải vậy. Văn Quang là nhà văn nổi tiếng trước năm bảy lăm, có nhiều tác phẩm được làm phim, hiện giờ vẫn còn viết cho các báo trong nước và ở hải ngọai, ông viết về phóng sự nhiều hơn. Ông cộng tác với ba tờ báo ở nước ngoài. Một lần khác, ngồi quán cà phê tình cờ trúng ngay quán cóc con trai họa sĩ Thái Tuấn, Thái Tuấn hiện cư ngụ tại Pháp không ngờ tôi gặp con trai ông ở đây.
Bích Xuân & nhà văn Văn Quang
Đà Nẵng là nơi tôi sinh ra và lớn lên, ai ra đi cũng mong có ngày về thăm lại làng thôn của mình, nhưng bây giờ làng xưa lối cũ không còn nữa. Tôi ngạc nhiên làng xưa bây giờ hoàn toàn đổi khác. Ngôi làng có ruộng đồng cây xanh lá, lưa thưa vài mái nhà bây giờ biến thành một khu nhà xây cất chằng chịt theo từng lô đất có giới hạn, không có nhà nào có dư đất để làm vườn. Những ngôi nhà cũ đã giải tỏa, nhà của ba mẹ tôi cũng đã bị giải tỏa, và dọn đến ở nơi khác trên một miếng đất nhỏ xíu. Nhà nào bề ngang cũng năm thước đất, bề dài hai mươi lăm thước. Đất ít thì xây cao lên ba, bốn tầng (nhìn như cái hộp).
Chị em tôi đi thăm thắng cảnh Ngũ Hành Sơn ở Non Nước, bây giờ lên núi phải mua vé. Tất cả những gì như chùa chiền, hang động ở đây vẫn còn nguyên theo năm tháng của bụi mù. Những bức tượng thật đẹp do những bàn tay nghệ nhân điêu khắc thật tinh vi sắc sảo, thể hiện trong thần hồn linh động. Tôi mua một tượng Di Lặc bụng phệ ngồi xếp bằng cười toe toét, thật là vui nhìn ai cũng phải cười theo . Tôi lại mua thêm ba miếng mề đay bằng đá xanh Phật Bà với giá 60.000 thay vì 6.000 (lại bị gạt vì đá giả )
Đi vào phố cổ Hội An tôi càng ngạc nhiên hơn. Phố cổ Hội An lịch sự trong yên lặng đằm thắm. Đường phố có lớp lang đâu vào đó (không buôn bán xô bồ) và qua cách trình bày các sản phẩm thể hiện về nghệ thuật, nhiều nhất là các gian hàng về hội họa, và đồ thủ công nghệ rất khéo tay. Các nữ chủ nhân đa số nói được tiếng Pháp. Tôi cảm thấy có cái gì đó rất gần gũi và thương mến với mình. Hội An có bờ biển cát trắng là Cửa Đại, sóng nhẹ nước trong, xuất phát từ cảng du lịch đến với thắng cảnh thiên nhiên Cù Lao Chàm 20 phút bằng tàu cao tốc, tàu thường một tiếng. Cù Lao Chàm đã có cách đây 300 năm tuổi nằm giữa đại dương mênh mông cách phố cổ Hội An 19km về phía đông. Từ thế kỷ mười lăm trở về trước, người Champa là chủ nhân của Cù Lao Chàm. Thế kỷ mười sáu người Việt đã có mặt và định cư ở đây. Dân số chừng 3.000 người, sinh sống bằng nghề biển tại hai bãi lớn nhất: Bãi Làng và Bãi Hương. Hồn Cù Lao rất phong phú tuyệt vời, quanh đảo cả một đại dương tĩnh lặng, chỉ nghe tiếng sóng vỗ vào bờ cát mịn hòa nhịp với tiếng gió như cõi thiên đường hoang sơ, đã gợi lòng khách nhiều bâng khuâng lưu luyến đến lúc ra về có chút quà: Bánh su xê, Bánh ít lá gai do bàn tay của người trên đảo làm ra. Cù Lao Chàm đã xứng đáng được bình chọn làm khu bảo tồn biển thứ hai tại Việt Nam, sau Hòn Mun (Nha Trang, Khánh Hòa) .
Đến Hội An, tình cờ tôi gặp lại họa sĩ Từ Duy trong một tòa nhà lớn với hai tầng lầu treo đầy tranh ảnh của anh nằm ngay trung tâm thành phố . Từ Duy đã từng được mời sang Paris và Hồng Kông triển lãm tranh ảnh nghệ thuật, đặc biệt tại Paris được phu nhân Tổng Thống Mitterant mua một bức tranh để kỷ niệm với người họa sĩ tài hoa. Từ Duy tâm sự đó là một vinh hạnh lớn trong cuộc đời một người nghệ sĩ trong chuyến đi ở hải ngọai vừa qua. Trong dòng máu đã có dấu ấn nghệ sĩ thì cái nhìn nghệ thuật sẽ khác hơn người thường. Gặp anh, tôi nhớ lại lần gặp anh ở Paris, tôi đã mến cái vẻ “bụi” của anh liền, râu ria bồm xồm, áo quần xốc xếch với cái túi vải một bên vai đúng là một nghệ sĩ. Hôm nay, anh vẫn áo thô quần nội hóa, nhưng không mất đi cá tính hài hước nghệ sĩ có duyên của anh. Tôi ra lại Đà Nẵng, ngay buổi chiều hôm đó anh đi tìm tôi để cùng gặp họa sĩ Vũ Dương. Vũ Dương cũng đã từng đi Paris triễn lãm tranh. Vũ Dương có cái nhìn về nghệ thuật cao, nhưng anh đạo mạo và áo quần đâu vào đó, nhìn anh như nhà mô phạm hơn là một nghệ sĩ. Ba chúng tôi ngồi dưới hàng thông bên cạnh biển Nam Ô ôn lại dĩ vãng những ngày hai anh gặp tôi tại Paris . Nhưng hôm đó tôi quá mệt, ( vì đi nhiều) trước gió biển mát mẻ, tiếng lá thông vi vu, tôi nói hai anh tiếp tục nói chuyện và chờ tôi một tí. Nói xong tôi nằm lăn trên cát ngủ vùi một giấc. Tỉnh dậy mà người vẫn còn mệt.
Để tránh bị “chém” một cách vô tội vạ trong chuyến đi Hà Nội, tôi mua trọn gói chuyến du lịch cá nhân từ Đà Nẵng, Hà Nội đi bằng máy bay trong năm ngày, (ăn ba buổi tại khách sạn), hai ngày ở vịnh Hạ Long và ba ngày ở Hà Nội. Bước ra khỏi phi trường Nội Bài là có người của hãng du lịch đón chúng tôi tại cổng và đưa thẳng ra vịnh Hạ Long..
Ra khỏi phạm vi của phi trường, đường ra vịnh Hạ Long chỉ một con đường đi thẳng. Hai bên là đồng quê và những ngôi nhà nghèo của nông dân, có vài ba căn nhà cao chen kẽ được xây hai, ba tầng, bề ngang nhỏ chừng năm thước, không thấy nhà nào rộng lớn xây cất theo như trong Nam. Thỉnh thoảng thấy bên lề đường tấm bản ghi “Mèo xuất” và “Ô tô đỗ” tôi hỏi anh tài “Bắc kỳ nho nhỏ” thì được giải thích “Mèo Xuất” là quán ăn có món thịt Mèo! “Ô tô đỗ” là có chỗ đậu xe . Đúng là Bắc kỳ. Kỳ cục…
Con đường đến Vịnh Hạ Long chúng tôi ghé Hải Dương mua bánh gai và bánh đậu xanh, hai món này đặc sản tại đây. Bánh gai thì chẳng có gì đặc biệt, họ gói cả một đống lá chuối dày đặc, bên trong bánh mỏng tí tẹo, còn bánh đậu xanh từng miếng nhỏ trong hộp , vừa lấy ra thì đã nát tan trước khi cho vào miệng. Suốt con đường cách 10 phút có bản để “Thịt Chó” và “Mèo xuất”. Quán thịt Chó nhiều hơn là quán thịt Mèo .
Khách sạn Vân Hải nổi bật nằm ngay trên cảng du lịch, vì cao hơn các khách sạn khác. Khách sạn có các anh bảo vệ đứng trước cửa khi có khách đến họ ra mở cửa xe và mang hành lý đến tận phòng. Đứng trên tầng lầu 11 tôi nhìn thấy rõ dãy núi phía trước thuyền lớn có, nhỏ có trôi trên sóng nước mà ngày mai tôi sẽ lên thuyền ra viếng thăm những dãy núi nơi đó. Sáng hôm sau hai chị em ăn điểm tâm theo kiểu buffet, nhân viên phục vụ rất chu đáo. Phòng ăn trang hoàng đúng theo tiêu chuẩn, bàn ghế đẹp, lịch sự. Riêng hệ thống máy lạnh khách sạn ở VN hầu như mọi nơi đều giống nhau, ra khỏi phòng, cửa đóng, tự động máy lạnh tắt. Về, mở cửa, máy lạnh chạy. Đi chơi buổi trưa nắng cháy, muốn chui vô phòng cho mát, mát đâu không thấy chỉ thấy căn phòng nóng hừng hực, phải chờ 20 phút sau mới mát . Tivi ở khách sạn này chỉ có ba đài thôi, ba đài đều của quân đội nhà nước. Khách sạn cũng không có máy vi tính, không như các khách sạn tư nhân ở Sài Gòn. Khi biết mình đã“nằm” trong tours du lịch của nhà nước, tôi lo sợ những nguy hiểm chực chờ, nên khi thuyền ra giữa sông Hạ Long, tôi dặn dò thằng em tôi nói năng cẩn thận. Tôi cứ phập phồng sợ bị “gài bẫy” bất cứ lúc nào.
Sáng sớm trong sương trên sông Hạ Long, trăm chiếc thuyền đổ ra biển, thuyền tôi thuộc loại thuyền nhỏ (cho hai người), đi như vậy không vui bằng đi tập thể. Aên, chúng tôi cũng chỉ có hai người, thật chẳng vui chút nào. Biết vậy khi ra Hà Nội đi theo tours giá rẻ mà lại vui hơn.
Hạ Long như bức bình phong che chắn sừng sững trong lớp sương mờ trên sóng nước, từng cánh buồm chập chờn giữa biển, không gió chướng, không mưa rơi. Động Thiên Cung, trong vẻ đẹp lung linh của các rặng đá thiên nhiên trong hang núi. Núi này không có bãi biển, khi tàu cặp bến có chiếc cầu đi thẳng vào hang động. Trong núi còn có năm, sáu hang động khác nữa, nhưng cũng thường thôi. Chỉ có động Thiên Cung là chính vì có vẻ đẹp huyền bí. Khi đoàn người du lịch vào hang động kế bên có vẻ hoang dã hơn, thì các con chim dơi to, đen kêu chiêm chiếp đập cánh bay ra...
Thuyền chị em tôi lướt sóng đi qua một hòn đảo khác, nơi đây có bãi biển để tắm, có quán nước, có cửa hàng bán đồ lưu niệm, tôi mua một chuổi hạt trai với giá 35 đô, thay vì chỉ 25 đô bán trong phố, (mua bị hố). Có bãi biển nhưng ít người xuống tắm vì nước biển đục. Vài chiếc ghe nhỏ bán hàng rong đậu dưới bến. Khách du lịch đa số là dân bản xứ, rất ít người da trắng, lưa thưa dăm ba người nước ngòai, hình như họ là dân Đại Hàn và Nhật Bản. Thấy nước đục và rác rưới dưới biển, chị em tôi không tắm bèn tháp tùng với đám du khách ngoại quốc trèo lên trên đỉnh núi cao .
Một ngày lênh đênh ngoài vịnh Hạ Long tôi không có cảm giác hứng khởi rạo rực trong lòng, thằng em tôi cũng vậy. Hay là tôi có quá nhiều ấn tượng về vịnh Hạ Long qua sách báo ở hải ngọai, hoặc là tôi đã đi qua một Hòn Cù Lao Chàm thơ mộng, với biển cát mênh mông, nên khi nhìn thấy hang động Thiên Cung ở Hạ Long bớt đi cảm xúc chăng ?
Buổi tối chúng tôi viếng đảo Tuần Châu. Nơi đây họ trang trí và để nhạc trong các hàng cây theo nhạc điệu Trung Hoa. Tôi hỏi anh tài xế có phải đảo này do người Tàu thành lập ? Anh tài xế nói người đề xướng thắng cảnh đảo Tuần Châu này thành nơi du lịch là cá nhân của một người Việt gốc miền Nam. Giữa rừng có một ngôi nhà màu trắng, xây theo kiến trúc của Ý. Bên trong treo các ảnh thời chiến tranh trước năm bảy lăm, và hình ảnh các tướng lãnh trong Đảng. Hai chị em tôi đi chưa hết một phần ở hành lang, mồ hôi chảy rân rân trong lưng như con giun bò từ trên xuống dưới. Bước vào ngôi nhà triển lãm, bịt bùng, hừng hực nóng như lò lửa, tôi cảm thấy ngột ngạt đến khó thở. Hai chị em tôi vội vàng bước ra. Quái! ban đêm giữa hòn đảo mà trời im gió lặng thế này ? Mồ hôi ra như tắm, vừa rít vừa mệt làm tôi buồn ngủ vô cùng. Khiếp, du ngoạn gì nóng nực khổ sở quá vậy nè ! Mệt, làm tôi bước đi không vững...
Từ Nhà Hát Lớn ngay trung tâm phố Hà Nội, chúng tôi đi bộ đến hai bờ hồ này không xa lắm. Hồ Hoàn Kiếm và Văn Thánh kề sát bên hồ Trúc Bạch. Giữa thành phố có “nước xanh liễu rũ” rất thơ mộng nhìn mát lòng khách giữa cơn nóng hiu hiu buổi trưa. Liễu rũ trên mặt hồ năm tháng rơi. Nước xanh không thấy chỉ thấy nước hồ sền sệt, màu xanh của nước đã ngã màu lục thẩm, liễu rơi đầy năm tháng không vớt nên nước hồ đã đổi màu, nhìn xa xa cảnh bờ hồ đẹp, đến gần thì cảm giác đẹp bớt đi.
Băng qua con đường là đến phố Hàng Điếu, Hàng Đào, Hàng Gai, Hàng Trống, Hàng Gà, Hàng Nón, Hàng Bông, Hàng Hòm v.v...Trên các con đường, đường nào, tiệm nấy cũng nhỏ hẹp. Phía trên để ở, phía dưới làm nơi buôn bán. Khách nước ngoài, khách nội địa, dân của địa phương qua lại tấp nập trên những con đường buôn bán chính. Ban đêm trên con đường này, khi cánh cửa các gian hàng khép lại, có đủ loại quán cóc lộ thiên ngay bên lề. Có người chỉ cần một cái bếp nhỏ liêu xiêu bên con hẻm, mùi hành tỏi bay ra làm hấp dẫn khách đi đường. Suốt con đường Hàng Điếu (Hàng Điếu là gì ?) chỉ nhờ vào đèn đường xe rọi sáng, người ta để một cái dĩa (bánh hay thịt gì đó) dưới đất, trên miếng thịt có cây tăm. Bên lề đường có những khúc xương và giấy lau miệng ngổn ngang dưới đất (hình ảnh này Sài Gòn cũng thấy). Hai người ngồi chồm hỗm ăn một dĩa, mà ba, bốn người một dĩa cũng có. Tôi có cảm tưởng người dân ở đây họ không quan trọng đến bụi bặm, ruồi muỗi, nóng nực mà chỉ chú trọng đến cái thú ăn đêm là chính. Lúc đầu tôi tưởng là dân bia rượu nhưng họ là cũng tình nhân vì họ còn rất trẻ.
Tôi có ấn tượng đẹp về Hà Nội trong văn chương “Ba mươi sáu phố phường”. Hôm nay, nhìn một ba mươi sáu phố phường của Hà Nội vắng những cơn mưa, hay hoa sữa thôi bay trong bụi mờ đã vội tan ngay lòng như cục nước đá giữa buổi trưa hè. Tôi cố tìm một dáng Phố Hàng Đào, Hàng Giấy, Hàng Bông thơ mộng nhưng có gì đâu? Hỗn tạp như cái chợ ...
Chị em tôi ngủ tại khách sạn nằm gần ga xe lửa. Đang trong giấc ngủ ngon khoảng ba, bốn giờ sáng đã nghe tiếng còi xe lửa tru tréo đánh thức. Trong giấc ngủ nửa mê nửa tỉnh, chị em chúng tôi cứ chập chờn cho đến sáng. Thật không có gì bực cho bằng, khi giấc ngủ không được “trọn gói”. Trong hợp đồng du lịch, ngày ba bữa ăn, trừ nước uống khách phải chịu. Điểm tâm buổi sáng dân Hà Nội cũng như Sài Gòn ăn giống như buổi chính : Mì, phở, hủ tiếu v.v.. .Chị em tôi không ăn mặn buổi sáng chỉ uống cà phê, khi rời khỏi phòng điểm tâm, nhân viên tính tiền cà phê, tôi ngạc nhiên thì họ nói cà phê là nước uống đấy ạ !
Chấm dứt những ngày ở Hà Nội, anh tài xế đưa chúng tôi trở ra phi trường Nội Bài. Anh để nhạc ngoại quốc, tôi yêu cầu mở nhạc Việt, anh đổi sang nhạc Việt và mở rất nhỏ, nhưng tiếng ca réo rắt chát chúa thật khó nghe, tôi nhăn mặt, anh ta đổi sang nhạc khác thấy dễ chịu và hợp với phong cảnh đồng quê hơn.
Trên chuyến bay Vietnam Airlines từ Hà Nội vào Sài Gòn để chuyển máy bay Air France về lại Pháp, tôi ngã người ra hết phía sau, nhắm mắt hít thở không khí êm đềm trên không gian trong sáng. Tôi nhớ lại những gì đã qua. Nhớ bà chủ khách sạn và mấy cô dọn phòng làm tôi thật ngại ngùng lúng túng khi đưa ly cà phê cho tôi bằng hai tay. Nhớ con cháu dâu khúm núm cúi khom người khi tôi gọi nó đến ngồi ăn cơm. Trời! Mấy người làm kiểu gì kỳ vậy ? bộ tôi là Hoàng Hậu sao, mà có Hoàng Hậu mấy người cũng đừng làm thế ! Thời buổi này.. . Mấy người làm tôi “quê” quá! A, tôi nhớ lại rồi, khi tôi đi xe taxi người ta có vẻ “nể” hơn là đi xe gắn máy. Thấy ai có chiếc xe hơi riêng là những người xung quanh tự động hạ thấp giá trị của mình liền.
Nhớ lúc đi cho đến lúc về, buồn vui lẫn lộn. Buồn là không thấy ngôi nhà thương yêu ngày xưa và mảnh vườn bây giờ thành quán cà phê trong có máy lạnh của một người nào đó lạ hoắc. Tôi về, muốn nhìn ngược lại thời gian nơi mình sinh ra và lớn lên, nơi mà ngày trông cho mau tàn, đêm mong chóng lớn, nhưng nơi ấy không còn nữa. Tôi bùi ngùi nhìn những ngôi mộ bên nội tổ và bố mẹ tôi sắp dời đến một phần đất nào đó, mà đã ba lần đã giải tỏa rồi. Mộ phần người chết vẫn chưa được yên. Vui, gặp anh chị em cô bác gần xa, và một thị xã Đà Nẵng quê hương tôi đã một chiều hướng thay đổi. Tôi không nói đến Sài Gòn, Hà Nội vì hai nơi này với tôi vẫn còn xa lạ vì tuổi thơ tôi chưa có ý thức cảm xúc. Tôi ở Sài Gòn, Hà Nội như người du khách phương xa. Những ngày ở Hà Nội chị em tôi không dám ăn một thứ gì , mâm cơm ở khách sạn dọn lên còn nguyên, chúng tôi chỉ ăn chén cơm chan tí tương xì dầu cho qua cơn đói, vì nghĩ đến các dĩa thịt trên bàn sợ có món thịt .. . chó và món “mèo xuất” pha trộn thì hoảng hồn. Sài Gòn chẳng có gì để lưu luyến tôi trở lại, thành phố sống động nhưng ồn ào. Tôi muốn trở lại Pháp ngay sau khi đến Đà Nẵng, nhưng tháng tám có nhiều du khách đến VN không còn chỗ, nên tôi tìm cách đi chơi, chờ đến hết ngày để về và những ngày ở trên biển cát làm tôi có nhiều cảm giác thú vị, vui thích. ..
Chuyện Việt kiều về Việt Nam thăm gia đình, thăm bạn bè hỏi ra ai cũng có tâm trạng na ná như nhau. Chuyện quà cáp anh em trong gia đình, người nói nhiều kẻ chê ít, phàn nàn, giận dỗi, ôi thôi là bực mình ! Việt kiều ngu ngơ như tôi rất sợ “Việt...gian”. Còn Việt cộng ở trong nước dễ dãi với Việt kiều, là để thâu ngọai tệ cho nhiều, chuyện này ai cũng biết, đó là về mặt tâm lý chính trị kinh tế, nhưng đừng tưởng bỡ mà không cẩn thận, nói năng cẩu thả sẽ biết hậu quả ngay .
Tôi rất thoải mái và rất hạnh phúc khi về lại căn nhà nhỏ thân yêu của mình bên dòng sông Seine trong vùng Ivry ngoại ô Paris. Tôi bỗng mỉm cười bâng quơ, mơ màng đâu đây những hình ảnh sau một chuyến du lịch vừa hồi hộp vừa lo xa với ít nhiều kỷ niệm vừa qua.
Bích Xuân
E-Mail: bichxuanparis@yahoo.com
Website: http://bichxuanparis.online.fr
M Ộ T G ó c T r ờ i Q u ê H ư ơ n g
Phạm Hoài Hương
Các bạn Ninh Hòa thân mến,
Một góc Trời Quê Hương nhằm gởi đến các bạn chút ký ức về làng Xuân Hòa nơi tôi sinh ra thời thập niên 40. Một vài dấu tích mà ngày nay đã mai một. Những bạn trẻ sau này khó lòng mà hình dung ra được... Và có thể đó là góc trời quê hương của riêng mình... Cũng giống như một số đông anh, chị cùng thời, cuộc chiến đã đưa đẩy chúng ta đi đến những nơi chốn khác nhau, khiến cho việc biết về quê hương của minh quá ít...
Tôi mang một ao ước, nếu các bạn có dịp đọc bài viết thô thiển này, hy vọng sẽ nảy sinh ra từ các bạn một bài viết khác về góc Trời Quê Hương của Bạn. Để chúng ta có thể biết về Ninh Hòa của chúng ta nhiều hơn...
Phạm Hoài Hương
Làng tôi: Xuân Hòa nằm dọc theo khúc quanh của con Sông Cái ranh giới hai đầu là làng Đại Cát ở hướng Tây đánh dấu bởi một cái bàu nước, mùa Hè sen nở khắp mặt hồ, tỏa hương ngào ngạt nên có tên là Bàu Sen. Một đầu khác giáp ranh với làng Điềm Tịnh với con sông nhỏ chạy xuyên cánh đồng mang tên Sông Đục vì nước lúc nào cũng có màu bùn ở hướng Đông. Mặt Nam, mặt tiền của làng: một nửa nằm sát bờ sông Cái, bên kia sông là làng Bình Thành, một nửa là vùng đất soi - đất ven sông, bên kia bờ là đất của làng Tuân Thừa, Hiệp Thịnh. Mặt Bắc là mặt sau của làng nơi có cánh đồng lúa, giáp ranh với làng Nghi Phụng.
Ngày tôi còn học bậc Tiểu Học, có dịp tôi nghe các vị lớn tuổi, có chức việc trong làng cho rằng: Làng mình sẽ bành trướng, sẽ đông dân không phải vì dân trong làng sinh sản nhanh mà chính vì dân tứ xứ sẽ đổ đến vì một nửa làng được hưởng trọn phần con Quốc lộ 21 chạy ngang qua, thuận lợi cho việc giao lưu xuống Quận lỵ Ninh Hòa đi chợ Dinh hay lên hướng đi Ban Mê Thuột nơi cây số 9, số 10 để lấy củi đun, gỗ súc làm nhà. Mùa lụt lội cũng bớt đi nỗi nhọc nhằn vì lầy lội so với những làng khác. Chính vì nằm bên Quốc lộ nên có những gia đình gốc Hoa mở tiệm buôn bán tạp hóa, sửa, bán xe đạp, thu mua lúa gạo, ngũ cốc. Họ xây lên các căn phố lầu.
Làng, Xóm, Quê tôi có đủ. Làng tên gọi chung của bốn xóm: Xóm Trên, xóm Dưới, xóm Giữa, xóm Sau. Không có sự phân định rõ ràng người dân xóm giữa tùy theo nhu cầu sẽ nói: đi xuống xóm dưới, đi lên xóm trên, đi ra xóm sau. Xóm trên đánh dấu bằng một dãy gò chồi với mả mồ có chủ và vô chủ, mả đắp đất lớn nhỏ tùy theo gia chủ nghèo hay có tiền, lác đác những mả vôi lâu đời, gọi là mả Hời xây thành hình con voi phục, có mả lớn hơn của các quan quyền nhưng tất cả hầu như không có mộ bia. Các ngôi mộ không nằm thành hàng nhưng theo tục lệ thì đầu hướng về hướng Tây - Bắc, xin keo chỗ nào còn trống mà thần linh chứng là chôn được. Nơi đầu làng được đánh dấu bằng Ngôi Đình - mới được xây lại đầu thập niên 50 có thành chung quanh, có sân, có cổng, có rồng, phụng trên mái. Tôi không có lịch sử về ngôi đình được xây từ đời nào, vua nào ban sắc phong, lúc nhỏ tôi thấy mỗi lần Làng có lễ tế thì có tổ chức rước sắc về Đình. Sắc được giao cho một người nào có uy tín trong Làng được phép cất giữ - thường là để trên khám thờ, trang thờ... một cách trân trọng. Sắc được đặt trong một chiếc hộp hình chữ nhật bằng gỗ sơn màu đỏ và còn được phủ lên một tấm khăn màu đỏ có dấu vết phai úa thời gian. Tôi sẽ có dịp viết tiếp theo về sự linh hiển của ngôi Đình - một sự kiện có liên hệ đến sinh mệnh của những người trong làng đứng ra lãnh trách nhiệm xây cất, trùng tu. Cho đến đầu thập niên 70, ngôi Đình như một cột mốc, trước mặt sau lưng đều quang đãng, nhà cửa của cư dân tuy không cấu thành văn nhưng được mặc nhiên tôn trọng là không ai được phép xây nhà cửa trước, sau và phần đất kế trên ngôi Đình.
Nếu lấy ngôi Đình đầu làng làm chuẩn, sau đó theo Quốc lộ 21 đi về hướng Đông xuống Ninh Hòa thì trong khoảng một trăm năm chục mét sẽ có một con đường tẻ chạy ra hướng Bắc, đường đất rộng đủ cho một xe ô tô, nơi này được gọi là Quán Tre - cái tên nghe lạ tai nhưng có lẽ bắt nguồn từ sự hình thành ngôi chợ sơ sài: Quán là hàng quán, và Tre là vật liệu bằng tre - một hình thức sạp để trình bày các thứ bán ra. Nơi này tụ tập dân ở Đại Cát, Nghi Phụng và Xuân Hòa sinh hoạt buôn bán như một ngôi chợ nhỏ; xe ngựa và sau này có xe Lambretta nơi tiếp nhận hành khách đi chợ Ninh Hòa và các nơi khác.
Qua khỏi Quán Tre, đi thêm sẽ gặp Bến Cây Me bên tay phải, đối diện Cây Me sẽ có một con đường chạy thẳng ra hướng Bắc để dân trong làng thuộc xóm Trên tiện đi lại. Sở dĩ được gọi là Bến Cây Me, vì ở đây có một cây me thật lớn, sống lâu đời hàng mấy chục năm không chừng, bóng cây tỏa rộng, thân cây sần sùi cở hai người ôm. Nơi này thường là điểm tập trung khi có việc hệ trọng, nhất là thời kháng Pháp. Bến Cây Me luôn đông đúc vì dân xóm trên xử dụng bến này để giặt, tắm, lấy nước không chỉ cho người mà còn cho gia súc, trâu bò, ngựa kéo xe...
Từ Bến Cây Me đi thêm một đỗi sẽ gặp Bến Bà Thất - Thất là tên gọi người con gái lớn của gia đình họ Văn có ngôi nhà gạch bề thế trong làng. Đây là một gia đình giàu có với ruộng đất tậu mãi ở các nơi khác, với mấy chiếc xe ngựa chở khách - Bến này không tấp nập bằng Bến Cây Me, chính yếu là nơi để tắm mgựa do gia đình này mở ra để xử dụng cho tiện. Gia đình họ Văn không chỉ được biết đến về sự giàu có mà còn có một thế đứng riêng, Ông Thất - một người được nhìn nhận về trình độ học vấn hơn hẳn người khác trong làng. Ông chết trong thời kháng chiến, một cái chết không bình thường, dư luận bao gồm: Tây giết vì nghi ông là Việt Minh; Việt Minh giết vì nghi ông làm việc cho Pháp... Sự bí mật này đến nay hầu như không ai nhắc đến... Chết trong chiến tranh vào thời kỳ nhá nhem này, những ai có chút học vấn dễ thành nạn nhân.
Từ Bến Bà Thất đi thêm một đỗi sẽ gặp một ngả ba lớn, một con đường tư ích nối vào Quốc lộ 21 chạy dọc theo bờ sông về hướng Đông cho đến cuối làng và cây cầu Sông Đục là ranh giới giữa làng Xuân Hòa và Điềm Tịnh. Từ ngả ba này đi thêm một đỗi trên Quốc lộ 21 sẽ gặp cầu Bến Gành - Cây cầu bê tông đầu tiên nếu tính từ Ninh Hòa đi lên Ban Mê Thuột. Cho nên nếu có ai đó hỏi rằng: Làng Xuân Hòa ở đâu? Làm sao đi đến? Thì chỉ cần nói rằng: Từ quận Nình Hòa , lấy Quốc lộ 21 khi nào gặp cầu Bến Gành, cây cầu đầu tiên, bên kia cầu là làng Xuân Hòa... Cây cầu này xương máu đổ ra cũng nhiều nhất là thời Pháp - Việt Minh. Một lô cốt xây lên để bảo vệ cầu, nhưng nơi này cũng là chỗ để giam Việt Minh bị bắt hay là tình nghi; tiếng la thét, kêu rên làm rỡn da, rùng mình những ai đang đi trên cầu vào lúc các tù nhân bị tra tấn đánh đập và trấn nước dưới chân cầu. Cây cầu cũng mang đầy thương tích, từng nhịp bị đánh sập phải câu bằng sắt tam để tái lập lưu thông. Ngay cả khi Quốc lộ 21 được hảng RMK làm thành xa lộ loại trung hiện đại, cây cầu cũng đã một lần bị đặt mìn đánh sập...
Chúng ta đã qua xóm giữa và bây giờ sẽ đi xuống xóm dưới. Nếu xóm trên và một phần xóm giữa mang bộ mặt phố xá thương mãi vì nằm cạnh Quốc lộ 21, có mối đường giao thông nối vào các làng bên cạnh thì xóm dưới đa phần sống bằng nông nghiệp. Sau mùa lúa là mùa đi lên rừng chặt củi nơi cây số 9, 10 gánh xuống chợ bán để đổi gạo, cá, nước mắm, muối. Một số đi làm thuê, một vài gia đình có nghề thợ mộc, thợ nề cha truyền con nối, đóng cối xay. Xóm dưới được nhắc đến Bãi Trường Sáp - vì sao có tên gọi như thế này thì không ai giải thích được. Bến Trường Sáp có một bãi đất hoang lài lài dọc theo bờ sông, làng để dành cho thả trâu bò. Nơi này cũng là bến để dân xóm dưới băng qua sông vượt lên dốc Bình Thành đi xuống Ninh Hòa cho gần. Bọn học sinh chúng tôi sau khi từ giã trường làng lớp Ba, xuống quận để theo học lớp Nhì, lớp Nhất, vào mùa nước cạn thường đi học sớm tụ tập ở bãi đất này chia làm 2 phe đá bóng - quả bóng là trái bưởi được phơi heo héo để lâu bể, trụ bóng là đóng quần áo được cởi ra cuốn lại chồng lên sách vở. Chúng tôi tranh bóng hò hét, đổ mồ hôi và theo kinh nghiệm khi bóng nắng mặt trời phủ lên bụi duối làm chuẩn thì tự động dừng lại, cởi quần đùi, ào xuống sông lặn hụp cho sạch bụi đất; và cũng nhanh không kém leo vội lên bờ vuốt nước mặc vội quần áo, cả bọn vượt lên dốc Bình Thành chạy theo Quốc lộ 21 xuống Quận cho kịp giờ. Ngày đó con đường trải đá lởm chởm, không đứa nào có giày dép, nhưng lớp da chân đã chai dày theo năm tháng đi bộ nên không thấy đau.
Sau lưng khu gia cư chạy dọc bờ sông là cánh đồng làng giáp nơi phân ranh là xóm sau. Cánh đồng cũng có tên gọi ở nơi này là Ruộng Rọc, chỗ kia là Ruộng Cây Táo, chỗ nọ là Rọc Dong, chỗ khác là khu Ruộng Miễu Tiền Hiền. Ruộng cấy hai mùa, cho dù cày sâu cuốc bẩm nhưng niềm tin vẫn là ở Trời. Trúng mùa là năm đó mưa thuận gió hòa, sâu rầy không xuất hiện.
Nối tiếp đồng ruộng là xóm sau ngăn chia ranh giới làng Nghi Phụng. Mái nhà rạ đa số, mái nhà ngói đây đó ẩn hiện sau những rặng tre bao quanh, thân cau thẳng đứng vút lên cao. Tuy sống trong một làng, nhưng tuổi thơ tôi hiếm khi có dịp đi ra xóm sau, một phần vì con đường đất lầy lội trơn trợt vào mùa mưa, mùa nắng thì cũng chẳng thích thú gì vì trên mặt đầy lổ chân trâu dễ bị vấp ngã, phần khác tôi cũng chẳng có bạn bè cùng trang lứa chơi thân.
Nếu ở phần trên, tôi đã bày tỏ lòng tri ân các bậc Tiền Bối đã chọn 2 chữ đầy ý nghĩa đặt tên cho làng, thì ở đây lần nữa tôi tri ân các Bậc Tiền Nhân đã chọn cuộc đất này để lập làng. Giao thông thuận lợi, có Quốc lộ 21, có con sông Cái ở mặt tiền. Con sông gắn bó tuổi thơ của tôi nhiều nhất, bởi nó nằm trước mặt nhà tôi chừng 100m. Từ trên thềm nhà, tôi có thể thấy con nước đang cuồn cuộn chảy dưới chân cầu Bến Gành, thấy những chiếc xe ô tô, thấy người đi bộ, xe đạp qua lại trên cầu, thấp hơn một chút, thấy những đọt tre đong đưa như đầu cần câu.
Thời tiết ở miền Nam không đủ bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông như ở miền Bắc và theo sách vở chỉ có hai mùa: mùa mưa và mùa nắng. Mùa mưa léo dài không lâu, kèm theo lụt lội không kéo dài lê thê như ở Bắc Trung phần từ Huế trở ra với mưa phùn lất phất suốt ngày, kèm theo gió để thấm lạnh cắt da thịt. Viết đến đây tôi chợt nhớ đến một sự kiện nhỏ, năm tôi thi Trung học Đệ nhất cấp tại trường Võ Tánh Nha Trang, lúc vào vấn đáp sau khi đã đỗ kỳ thi viết. Trong phần vấn đáp sử địa, tôi gặp một thầy gốc Bắc khi hỏi tôi miền Nam có mấy mùa? Tôi hí hửng đáp ngay: Thưa Thầy, miền Nam có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông... Vị thầy giáo đưa tay ra dấu bảo ngừng lại, cười ruồi: Cái gì bốn mùa? Cho anh nói lại đó?
Tôi hơi ngọng, trong đầu tự hỏi, chả lẽ mình học như vậy mà không đúng sao? Nên tôi ú ớ:
- Thưa thầy em học trong sách...
- Ừ, tôi biết, vậy anh sinh ra ở đâu?
- Thưa thầy ở ngay tỉnh này, quận Ninh Hòa cách đây 32km.
- Vậy, anh có thấy mùa Thu, mùa Xuân như trong sách mô tả hay không? Hãy nhìn ra cửa sổ... anh có thấy nắng chang chang...
- Thưa thầy, em thấy đúng vậy, chỉ có mùa nắng và mùa mưa...
- Anh hiểu tôi muốn nói gì rồi đó, các ông soạn sách giáo khoa không sống qua bốn mùa tại mỗi miền đất nước. Miền Bắc quê tôi có đủ bốn mùa - mùa nào ra mùa ấy - thời tiết và cỏ cây cho thấy rõ như vậy.
Sau đó Thầy hỏi tôi:
- Thế, ở quê anh Ninh Hòa có gì lạ?
Tôi giật mình, Ninh Hòa có gì lạ là như thế nào? Cũng ruộng đồng, núi rừng, biển, muối, cá, sông ngòi, đê đập...
- Thưa thầy ý thầy muốn hỏi...
- Tôi muốn biết có cái gì nổi bật như món ăn ngon, nổi tiếng...
- Dạ, thưa thầy, quê em nổi tiếng có nem: nem chua, nem nướng. Nem nướng ăn tại chỗ, còn nem chua thì có thể mang đi xa làm quà, thường bán cho du khách.
- Để tôi thử xem trong thời gian còn lại ở đây.
Sau này khi tôi vào đời có dịp đi đây đó mới thấy Khánh Hòa, miền đất được Ông Trời ưu đãi: có đủ núi, sông, biển, ruộng đồng. Lên rừng có củi đun, gỗ quý , gỗ tốt làm nhà, có đá để xây cất, biển cho cá, tôm, cua, mực, muối; ruộng đồng đủ để cho dân đủ ăn lúa gạo hai mùa; các cánh đồng mía đủ cung cấp đường cho dân chúng. Và nhìn chung, trải qua nhiều năm tháng chiến tranh, đau thương, mất mát có xảy ra nhưng vẫn còn may hơn một số tỉnh khác... Qua những con người sinh quán nơi khác, có dịp đến Ninh Hòa vì công vụ, họ khám phá ra những món ăn thức uống độc đáo nổi bật... Chẳng hạn con vịt bàu Ninh Hòa vừa bùi bùi, ngọt ngọt, dai dai khi chấm nước mắm gừng, con sứa Ninh Hòa làm gỏi với đậu phụng rang đâm dập dập trộn thêm đọt ổi non; con ghẹ, con cua to bằng bàn tay luộc lên đổi màu thật đẹp với những chiếc càng dài và thịt chắc, trứng đầy cả bụng.
Tôi xin quay trở lại về con sông Cái trước nhà. Con sông cho tôi nhiều kỷ niệm, nhờ nó mà tôi biết bơi để khi vào thành phố Nha Trang bạn học cùng trường ngạc nhiên khi tôi vùng vẫy trong biển mặn không thua bạn bè. Từ tháng bảy, nắng gắt, nước trong các con mương khô cạn để lại những đường nứt nẻ, đa số giếng tại các gia đình phải chờ thời gian để múc từng gàu dành để uống qua ngày thì mọi người đều ước mong Trời cho mưa như để cứu vớt cây cỏ đang héo hon, ủ rũ, và ngay cả con người cũng phờ phạc ở trần với chiếc quạt mo cau, quạt nan giấy trên tay... Và để tìm giấc ngủ, nằm đất để tìm chút mát mẻ và thay vì trải chiếu, nhiều gia đình sẽ trải lá chuối hột hay chuối già sau khi quét sạch.
Những gia đình sống ven sông Cái có may mắn hưởng được nhiều thứ từ con sông này. Mùa mưa lụt, khi con nước lên cao thì là cơ hội chờ đón vớt cây chà, củi mục, có khi từng khúc gỗ lớn theo nước mưa lũ trôi ra từ núi rừng đổ xuống dòng sông. Nếu có sức khỏe, có ghe chuẩn bị, thì sau mùa mưa lụt có đủ củi để đun nấu suốt năm không phải lên rừng tại cây số 9, 10 nơi dốc đèo để chặt củi mang gánh về dự trữ. Mỗi năm chỉ chừng hai đến ba cơn lụt là nhiều với thời lượng mưa kéo dài nhiều hay ít. Dân sống ở đây có nhiều kinh nghiệm, vừa cắm một cây que để đo mực nước trong sân nhà, vừa đoán chừng cơn mưa sẽ kéo dài bao lâu mà biết lụt sẽ lớn hay nhỏ. Bậc tam cấp thềm nhà luôn là sự tính toán để sao cho cây lụt lớn nhất cũng chỉ lém đến bậc thềm. Nỗi khổ là khi nước dâng cao tràn vào nền nhà thì phải giải quyết nhiều thứ, chuyển các thứ cần thiết lên giàn bếp, lên mặt phản, ván, giường. Nhất là lúa đang chứa trong bồ phải xúc vào thúng, bao bố, bao gai, kê lên chỗ cao; và củi khô, bỗi mồi luôn sẵn sàng cho việc đun nấu... Khi nước sông Cái lên cao dần , tràn qua bờ chảy vào vườn tược cạnh sông, thì việc làm ưu tiên là phải chuyển trâu bò đi lên Gò Đình nơi đầu làng, từ bé cho đến lớn chưa bao giờ tôi được nghe thấy nước lụt ngập nơi này. Tôi lại càng cảm tạ Tổ Tiên đã trù liệu, nghĩ xa cho dân làng tình huống khó khăn gặp phải...
Đưa, lùa trâu bò xong, phải nghĩ ngay đến các con heo đang nuôi trong chuồng, thường chuồng heo làm thoai thoải dựa theo hiên nhà, một nửa ngoài nắng, một nửa trong mát; nước lên; các chú heo sẽ lui dần để tránh nước, vào tạm trong nhà bếp, sau đó sẽ lui thêm lên nhà trên và nếu lụt lớn các chú sẽ có cơ hội đứng trên bộ phản để khịt khịt mũi, vẫy vẫy hai tai và đung đưa cái đuôi. Riêng gà thì không phải lo nhiều, chỉ cần gát một hai cây tre từ cột nhà, thì chúng sẽ tự động bay lên đậu trên đó, đứng im, thỉnh thoảng kêu lên cục cục khi có ai đến gần.
Nhưng nếu gà sợ nước ướt cánh sẽ lạnh thì ngược lại các chú vịt sẽ làm phiền vì đây là dịp sẽ thưởng thức các loại mồi béo bở như dế cơm, dế mèn, sâu bọ, trứng kiến. Các chú sẽ say sưa đuổi mồi theo con nước trôi ra cánh đồng quên mất đường về... Phải giữ các chú lại, nếu không sẽ bị lạc mất, trở thành món cháo vịt cho những kẻ tham lam.
Bếp lửa, than hồng là nơi hấp dẫn nhất. Sẽ thấy ngay chú mèo nằm cuộn mình trên sàn bếp cạnh lớp tro ấm. Cho dù mưa lụt là lúc thuận tiện để bắt chuột khi chúng chạy từ vườn tìm vào nhà hoặc chỗ cao đôi khi có tiếng kêu nhau chít chít nhưng chú mèo vẫn nằm im không động đậy.
Còn chó thì sao? Trong tình hình này chú chó luôn luôn quấn quít bên chân người nhà, nhìn cặp mắt, cái mõm của chú sẽ thấy như chú sẵn sàng để phụ giúp nếu được yêu cầu, chú chạy đầu này đầu khác, có khi sủa lên ăng ẳng như muốn la mắng các chú heo, chú vịt tại sao lại đi vào trong nhà. Vì chú chạy lăng xăng nên lông bị ướt, để khô lông chú thường rung mình khiến sàn nhà không còn khô ráo. Và khi nước đã vào nhà thì không phải lo, chú sẽ nhảy lên ván hay giường để tránh nước.
Biết thế nào cũng lụt nên các Bà Mẹ, Bà Chị trong khi một mặt lo thu xếp mọi thứ dể tránh nước thì cũng nghĩ đến các món ăn đặc biệt trong khi canh con nước đang lên hoặc chờ con nước rút xuống. Hai món thường có mặt vào dịp này: một là bắp rang với chút mỡ hành hoặc đảo qua với chút nước mắm mằn mặn. Bốc nắm bắp rang bỏ vào miệng, nhai dòn dòn, vừa ấm trong miệng vừa ấm bàn tay và càng thú vị nếu nhà có sàn bếp rộng chắc chắn, người lớn dịp này cũng sẽ làm lơ để cho thằng con út được phép ngồi chồm hổm bên cạnh ba ông táo để cầm đôi đủa tre đảo qua đảo lại bắp đang ran trong chiếc chảo gang.
Món thứ hai hấp dẫn hơn; ăn no bụng đó là bánh xèo. Nếu muốn thì việc đầu tiên là ngâm gạo để cho mềm, sau đó sẽ xay thật nhuyễn bằng cối đá, nếu không có cối đá, nếu không có đá để xay thì phải giã từng vốc gạo nhỏ mất thời gian nhiều hơn. Khi gạo được ngâm thì phải chịu khó đội mưa, lội nước hoặc chèo ghe lên chợ mua tôm, thịt mỡ, hành rau... Nếu chơi sang thì có thể làm thịt một chú gà tơ lấy thịt, pha vào bột một vài trứng vịt để chiếc bánh xèo đổ ra có tôm, thịt heo, thịt gà, màu vàng của trứng và mấy cọng giá sống.
Sau khi thịt được thái từng miếng mỏng có nạc có mỡ, hành lá, hành củ, sẵn sàng. Bếp được đặt ra giữa nhà với hai cái khuôn đúc , hoặc một khuôn một chảo và than đã hồng. Một cái nia được đặt nằm bên cạnh trên đó có trải lá chuối. Vật dụng các thứ đều để trong nia, người đúc sẽ ngồi trên một chiếc đòn kê... Tiếng "xèo" âm thanh phát ra từ khuôn lúc bột được đổ vào sẽ cùng lúc mùi thơm đầy quyến rũ của mỡ, hành bốc lên. Bên ngoài nước đang lên, mưa đập lên mái lá, mưa thánh thót ở hiên nhà, không khí lành lạnh, gai gai trên da, không khí như đầy thêm trong nhà với mùi thơm của bánh. Nhưng phải đợi một chút, khi nước mắm chấm với tỏi ớt đường chanh được pha chế đúng tiêu chuẩn để ăn bánh xèo, khi rau sống với húng đứng, húng lủi, rau dấp cá, ngò, tía tô và nhất là cải xanh đang độ hăng hăng cũng đã nhặt rửa sạch và nếu ai thích cuốn thì bánh tráng cũng được mang ra.
Hãy ngồi quanh chiếc nia, vừa nghe tiếng xèo xèo, vừa ngưởi mùi thơm của mỡ hành, vừa cảm thấy âm ấm từ lửa than, gắp lấy chiếc bánh xèo đã được bẻ đôi lại, trên lưng có đốm vàng vàng đen đen cho vào tô, bỏ rau các loại, chan nước mắm vào, hoặc dùng lá cải xanh làm áo cuốn miếng bánh kèm thêm chút rau, chấm từng miếng một, hoặc nếu thích thì dùng bánh tráng cuốn luôn chiếc bánh ăn một lần...
Ngon như thế nào, tùy vào cảm nhận của mỗi người, nhưng có một điều chắc chắn là khi đã rời thời thơ ấu của mình để đi học xa vào tỉnh hay Sài Gòn, hiếm khi còn có dịp quay về quê mà nếu có dịp đi nữa thì đâu phải là lúc trời mưa lụt như ngày nào. Những màu nước vàng nhạt, đùng đục của cơn lụt, màu chiếc bánh xèo, mùi mỡ hành, hương vị bùi bùi, mằn mặn của bắp rang, cái không gian thu hẹp thật gần với bên ngoài bao phủ bởi nước, những sợi mưa đan nhau... Không phải chỉ có mỗi tôi mà các bạn khác cùng quê khi nhắc lại đều có cảm nghĩ giống nhau và như tìm một cố gắng để giải thích, mô tả sao cho đúng mức đúng nghĩa những gì mình đã sống đã hưởng.
Nếu ngày lụt chính, có dịp ăn bánh xèo, bắp rang thì khi nước bắt đầu rút, mưa thưa dần của các ngày kế tiếp thì đây là lúc bữa cơm với cá đồng. Lụt đưa cá các loại trên rừng già đầu nguồn theo nước đổ về xuôi. Những con cá trắng, cá đỏ mang to bằng ba ngón tay, bàn tay, bụng căng trứng. Cá trèn, cá trê, cá rô, cá trầu... cá mắc vào lưới, chui vào đó, vào lờ, nếu chịu khó đội mưa, dầm mình đi giăng, đi đặt, còn không thì đón mua sẽ không đắc lắm. Cá trắng thường kho trong cái om đất với lá gừng, cá trê kho với muối tiêu ăn kiểu dành cho các bà đẻ, cá rô, cá lốc trui chín gở thịt đâm xốc với chuối chát, ớt, ngò gai... Cơm được nấu không nên khô mà phải dẻo dẻo, đôi khi thêm vào gạo chút gạo nếp, nấu hơi cháy cháy... Thì thật tuyệt vời, ăn căng bụng, ăn xong quên cả uống nước.
Thường thì cơn lụt sẽ qua đi sau hai hay ba ngày, nước rút xuống mương, ao hồ chảy ra sông, đừng lo khi thấy bùn non đọng trong sân, trên thân cây, lá cây, rau cỏ. Bao giờ cũng vậy trời làm lụt nhưng trời cũng dành cho đặc ân. Một trận mưa mang tên Mưa Dội Bùn Non sẽ làm sạch sẽ lớp bùn trên mặt đất, lá cây sẽ vươn mình, thân cây mềm sẽ đứng lên và những ngày sau đó sẽ mơn mởn dưới nắng mặt trời.
Nhưng sẽ còn thiếu sót vì có những hương vị đậm đà không kém mà không phải ai cũng hưởng được. Đó là thịt chuột đồng, thịt rắn hổ, thịt chồn. Chuột đồng bằng cườm tay lông vàng rực, ức và bụng trắng; rắn hổ, rắn mái gầm, rắn rồng cũng to không kém và chồn hương, chồn mướp từ trong các hang, bụi rậm, sợ nước sẽ leo lên các cây cao . Những người trẻ tuổi với chút dạn dĩ cầm cây độc trong tay, bơi ghe len lỏi trong vườn, mắt nhìn lên các nhánh cây và sẽ không khó khăn lắm đâm bắt các loài vật này. Nếu chuột đồng thơm lừng sau khi thui sạch lông, mổ bụng bỏ đi bộ lòng và xát vào muối ớt, kẹp vào gắp nướng trên lửa than, thì ngược lại thịt rắn, thịt chồn dược xào lăn với sả. Và chỉ những ai là bạn bè thân mới được gọi đến cho ăn, người lớn sẻ nhâm nhi li ly rượu đế để tận hưởng hương vị đậm đà không phải lúc nào cũng có địp được ăn.
Vào mùa nắng, mực nước sông Cái xuống dần, đây đó trong lòng sông đã nổi lên các bãi cát, thường thì bãi cát ở một bên, nước sông ở một bên. Nước cạn dần nhưng trong vắt vì nước luôn chảy thấy rõ cát và các mảnh đá, sạn nhỏ óng ánh, các bầy cá lòng tong bơi lượn. Ngày ngày bến sông tấp nập vào buổi trưa và chiều. Những người làm đồng cày, cấy cùng với trâu bò sẽ có mặt ở bến để tắm giặt bùn đất sau một buổi làm việc nhọc nhằn. Trâu đến bến sông không cần hối thúc, chúng ào xuống vừa đi vừa uống nước để ra chỗ sâu trầm mình chỉ còn nhô lên cái đầu với hai chiếc sừng cong nhọn, hai tai và cặp mắt. Thỉnh thoảng lại hụp đầu xuống nước để đuổi tránh ruồi, bồ mắc theo bu. Bò thì ngược lại, phải thúc mới chịu ra xa bờ nhưng chỉ đến đầu gối là dừng lại, các chú chăn bò phải tắm bằng cách tạt nước và kỳ cọ những chỗ bùn bám trên da.
Tắm sông là cái thú, mát vô cùng, chung quanh là nước mặc sức kỳ cọ, lặn hụp. Đàn ông thường cởi áo khi tắm, tiện vò giặt, sau đó vắt vai lên bờ với chiếc quần đùi, các bà, các cô thì để nguyên cả quần áo khi xuống sông và khi lên. Tắm sông khó mà quên cái cảm giác nhồn nhột vì cá lòng tong thích bu theo rỉa chân, nhất là những ai có vết trầy hay có ghẻ. Người lớn nói rằng: cho cá nó rỉa vi trùng sẽ sạch và chỗ lở sẽ mau lành.
Người lớn không ai ở dưới sông lâu, vì có bao công việc đang chờ ở nhà, ngược lại trẻ con thì không muốn lên bờ, nô đùa trong nước là một cái thú, tạt nước, thi bơi, thi lặn; chán dưới nước thì lên bãi cát đắp thành, đắp nhà, đắp tượng,... Hoặc dạn dĩ hơn thì lần theo bờ tre chỗ nước sâu mò bắt tôm, cá nằm ẩn trong lớp rong hay hốc tre.
Nước sông không có độ phèn nên quần áo giặt mau sạch và trắng hơn nước giếng. Mền, chiếu tiện nhất là đem ra sông trải rộng trên mặt nước dùng miếng tre đập thay vì vò... Những mùa Tết đến, bến sông lúc nào cũng đông người. Mọi thứ đều phải sạch để đón chào năm mới, những gì cần phải tẩy uế đều mang ra sông, thậm chí cả nồi đồng, nồi gang, xoong, chảo dùng cát nhuyển để đánh lớp lọ nồi mà cả năm chưa một lần kỳ cọ. Dịp này nếu để ý, sẽ nghe thấy tiếng trẻ con kêu khóc vì người lớn hơi nặng tay kỳ cọ lớp cáu bẩn tồn đọng từ lâu...
Những gia đình mà hoàn cảnh không đào được giếng. Trừ mùa mưa hứng nước mưa để dành uống hoặc đến gánh nhờ giếng nước các nhà lân cận, mùa nước cạn thường gánh nước sông. Dọc theo bờ cát, đào lấy một cái hố rộng chừng bằng chiếc sàng gạo, tát hết nước bên trong, chờ một đỗi nước mới rịn ra từ cát đầy hố, sẽ dùng gáo múc nhè nhẹ để lấy nước thật trong cho vào thùng hay tỉn gánh về để chỗ mát uống dần dần không cần phải đun sôi. Có những vị lớn tuổi, với một chút cầu kỳ, cho người gánh nước sông về để dành nấu pha tra, cho rằng sẽ tận hưởng được hương trà đúng điệu.
Sông Cái chảy trước làng, không chỉ hữu ích với nước, cát sông còn là một mối lợi lớn cho dân làng. Cát sạch, hạt vừa hợp với việc xây nhà gạch trộn thành hồ xây với vôi và ciment để tô tường, tráng nền, đúc gạch. Nếu có sức thì cứ đến gánh về, nếu có tiền thì thuê xe bò, giá không đắc mặc dù vào thời Đệ Nhị Cộng Hòa có thu thêm chút lệ phí cho ngân sách xã.
Ngoài cát, bờ sông có lợi thế để trồng tre, vừa giữ cho bờ khỏi bị xói mòn, vừa mang lại cho dân làng vật dụng xây dựng những khi cất rạp cúng đình, hát bội, bài chòi... Thời Pháp, tre được đốn để rào đồn, vót chông, thời Cụ Diệm làm rào ấp chiến lược. Ngày tôi còn bé, dọc theo sông còn có những cây sao thân to hàng sãi tay hai người ôm, rễ chằng chịt nổi trên mặt đất, tàng lá vươn ra tận nửa sông , nơi các chim quạ, chim kên kên tụ họp. Xen kẻ bờ sông, ngoài sao còn có cây gáo thân mềm ruột màu vàng thường dành cho việc đóng hòm chôn cất người chết; cây sung với trái phủ kín thân cây. Nhưng những loài cây này không thọ vào thời kỳ chiến tranh, sao, sung, gáo bị đốn, cưa thành tấm ván dày để làm tường chống đạn cho đồn bót, tre cũng bị phát cho thưa bớt để có tầm quan sát, tránh cho Việt Minh lợi dụng làm chỗ núp bắn vào đồn ở chân cầu...
Các bạn đọc đến đây sẽ có câu hỏi: Thế làng Xuân Hòa của bạn không có chùa có miễu hay sao? Thưa, Làng tôi có đủ. Ngoài Đình, Làng có Chùa, một ngôi chùa cổ với tên Linh Quang Tự. Chùa nằm ở đầu làng gần ranh với làng Đại Cát, Nghi Phụng. Nên Phật tử cả ba làng đều có thể đến chùa lễ bái, cầu nguyện vào các ngày rằm, mồng một, lễ Vu Lan, Phật Đản, Tết... Chùa có sân rộng, cổng tam quan, hồ thả sen, câu đối, rồng phụng trên mái. Cột chùa lớn, gỗ tốt, có trống sấm, và đại hồng chung ở hai đầu mặt tiền. Tượng Phật uy nghi với lộng che, các bệ thờ đều được chạm trổ. Hơn hẳn các chùa khác trong Quận là chùa có tượng Đức Di Lạc đồng đen...
PHẠM HOÀI HƯƠNG
(Trích đoạn trong bài "Một Góc Trời Quê Hương")
Trăng rằm
Ngày cập nhật: 01-10-2009
Ai đó từng bảo rằng, từ khi tạo hóa sinh ra con người ở cõi trần gian này, thì mới có vầng trăng tròn đầy và sáng trong ngự trên thượng giới. Đã từ bao đời nay, vầng trăng đã ban tặng cho con người thứ ánh sáng dịu lành, trong mát và con người cũng không ngớt lời ca ngợi, tôn vinh vẻ đẹp của vầng trăng qua từng khúc hát, câu văn. Vốn dĩ đã đẹp rồi, nay lại được soi qua trăm ngàn câu tục ngữ, ca dao; soi qua những trang truyền thuyết, cổ tích nên ánh trăng càng thêm huyền ảo, lung linh...
Suốt một đời người, vầng trăng luôn là bạn đồng hành chia sẻ những buồn vui. Nhưng ngắm trăng ở mỗi độ tuổi khác nhau thì ta lại thấy vầng trăng mỗi lần mỗi khác, cho dù vẫn là vẻ đẹp sáng trong, êm đềm có từ thuở ban sơ ấy. Buổi thiếu thời, ta thường trải chiếu trước hiên nhà, ngửa cổ ngắm trăng và lẩm nhẩm đếm sao trời, nghe bao lần câu chuyện về sự tích chú Cuội cung trăng mà sao vẫn thấy lạ, thấy hay. Vầng trăng vừa gần gũi vừa xa xôi, huyền thoại. Ta cứ mãi tưởng tượng ra cảnh ở chốn xa xăm kia, nơi có chị Hằng dịu hiền, xinh đẹp, nơi có chú Cuội ngồi gốc cây đa để trâu ăn lúa gọi cha ời ời... Rồi dưới ánh trăng ngọc ngà, dịu mát và hương cau nhẹ êm lan tỏa khắp sân nhà, chẳng biết tự lúc nào, giấc mộng về đón ta bay lên thế giới thần tiên, một thế giới nửa thực nửa mơ của riêng trẻ con: hồn nhiên, trong sáng... Và những đêm ánh trăng dát vàng khắp ruộng vườn, đường thôn, bến bãi, lũ trẻ lại í ới rủ nhau tụ tập ở đầu làng gió mát để bày trò chơi trốn tìm hay trồng nụ trồng hoa, rồng rắn lên mây... Ánh trăng cùng vui đùa, theo bước chân hồn nhiên, tinh nghịch của ta mà chạy nhảy khắp đường dọc ngõ ngang. Trăng trèo lên cây, trăng xuống tắm bến sông làng, ngụp lặn, vẫy vùng làm tung tóe lên trời muôn ngàn vảy vàng vảy bạc, cả người ta ướt đẫm ánh trăng trong. Những đêm ngồi học bài có ánh trăng ghé vào trang sách soi lấp lánh những trang văn. Bên khung cửa sổ tràn ngập trăng vàng, có cậu học trò bao lần mơ làm thi sĩ, mơ đến một ngày kia sẽ tìm được vầng trăng viên mãn của riêng mình... Trăng mãi cùng ta đi dọc tuổi thơ. Ta dẫn trăng đi, trăng soi ta bước qua những năm tháng hồn nhiên, qua những buồn vui đầu đời cùng niềm tin và ước vọng xa xôi...
Rồi trăng cùng ta lớn lên đi tìm những phương trời mới lạ. Ta chợt hiểu ra một điều là ánh trăng ở nơi nào cũng đẹp, cũng sáng trong nhưng chẳng nơi đâu bằng được quê nhà. Ta trở thành vầng trăng lữ thứ ngày đêm soi tỏ nỗi nhớ quê hương. Rồi đến tuổi ta yêu, ánh trăng run rẩy, hồi hộp khi lần đầu tiên đi bên người bạn gái. Em là một vầng trăng đang rằm, một vầng trăng thường trú trong trái tim ta. Đấy là vầng trăng ta thầm mong một ngày sẽ đưa về trước mẹ cha... Trăng chứng kiến bao lời nguyện ước, bao câu tâm tình của những lứa đôi. Để rồi bao lời hẹn thề cũng đẹp huyền ảo như trăng...
Ơi vầng trăng kỳ diệu tỏa ánh sáng muôn nơi, tỏa ánh sáng ngàn năm mà vẫn sáng trong như ký ức tuổi thơ, vẫn dịu hiền như khúc hát lời ru của mẹ. Dù vật đổi sao dời thì trăng muôn đời vẫn có người làm bạn, vẫn sáng soi mà thành nhạc nên thơ...
Tạp bút: TRẦN VĂN LỢI
Em yêu chú Cuội lắm
Vì chú ở rất xa
Không có đèn để rước
Không có trẻ hát ca !
Thôi chú đừng buồn nữa
Hãy về thế gian chơi
Bọn em sẽ tặng chú
Chiếc đèn điện sáng ngời !
Chú đừng hứa dối nhé
Tiếng trống ếch đã vang
Bọn em đà hí hửng
Múa lân dưới trăng vàng.
Nắng mai
Ngày cập nhật: 25-09-2009
Bình minh. Những giọt nắng mai mềm mại xuyên từng cành cây kẽ lá làm cho những hạt sương đêm trong sáng long lanh. Những sợi nắng mai thanh khiết hòa quyện cùng tiếng chim ríu rít báo hiệu một ngày mới tươi đẹp tràn đầy sức sống.
Tôi rất yêu cái nắng ban mai tươi sáng, bởi cái nắng đã cho tôi một ngày mới tốt lành, cái nắng đã để lại trong ký ức tuổi thơ tôi rất nhiều kỷ niệm đẹp. Lúc mặt trời lên vừa tầm những ngọn tre, cái nắng mạnh mẽ hơn như người ta cao lớn thêm một ít mỗi khi mùa xuân sang. Đó cũng là lúc chợ quê tôi sắp tan và mẹ tôi sắp về, chị em tôi xúm xít ra mái hiên hướng mắt theo con đường làng chờ đón mẹ về để mỗi đứa được nhận gói xôi, gói bắp, khi thì gói bánh tầm; bánh đúc hoặc một vài củ khoai điểm tâm buổi sáng trước lúc đến trường.
Quê ngoại tôi nghèo nhưng rất đỗi thân thương bởi hơi thở của gió trong cái nắng mai bện chặt hương hoa bưởi, hoa cau làm đắm say lòng người. Con đường làng cong cong uốn khúc theo dòng kênh cũng chở đầy nắng mai nâng bước tôi đến trường. Cái nắng dịu dàng như tình thương của mẹ vuốt ve mái đầu xanh khuyên nhủ tôi cố gắng học hành. Tôi yêu cái nắng mai trên quê ngoại như yêu bóng dáng của mẹ hiền nuôi tôi lớn khôn từng ngày. Trong cái nắng ban mai ấy, ngày đầu tiên tôi đến trường bằng những bước chân lạ lẫm. Tôi níu chặt chéo áo mẹ chẳng muốn rời ra để vào lớp. Người thầy giáo già đạo mạo, giọng thầy trầm ấm, đón mừng những cánh chim bé bỏng... Mái trường lợp lá, vách tre, nền đất, bàn ghế cũ kỹ loang lổ vết mực tím học trò. Ngày đầu tiên tôi đi học, cái nắng mai cũng xuyên từ mái lá theo tôi vào lớp. Cái nắng ngoài hiên làm cho tôi nhìn rõ hơn dáng mẹ đứng chờ con. Tuổi thơ tôi có đầy nắng mai đầy vương vấn, thân thương.
Năm tôi vào đệ thất (lớp sáu bây giờ) phải ở trọ nhà dì Ba trong một khu phố. Cái nắng mai chỉ nhảy nhót ở sân trường. Trên tàn cây phượng vĩ cái nắng vẫn nghiêng nghiêng như nhìn như ngó. Cái nắng về trưa càng gay gắt làm lũ ve rộ lên gay gay khô khốc tạo cho tôi cảm giác thèm chút nắng mai. Tôi mong cho mau đến cuối tuần để được tung tăng cùng cái nắng mai trên đường làng về quê ngoại. Cái nắng quê tôi như dòng sông đong đầy nỗi nhớ. Cái nắng đến từng ngày rồi qua đi vội vã kéo theo tuổi thơ tôi xa dần theo ngày tháng. Mái tóc mẹ bạc màu, người thầy cũ cũng đã “đi xa”. Con đường làng cũ nay không còn nữa, những đám cỏ đuôi gà làm ngây ngất tuổi thơ cũng đi vào ký ức, thay vào đó là con đường nhựa thênh thang và ngôi trường mới khang trang mang tầm vóc của thời đại. Không phải tôi muốn quê tôi cũ kỹ mãi với thời gian, nhưng ai cũng có tuổi thơ gắn chặt với cuộc đời mình. Tuổi thơ tôi đi qua theo từng cái nắng mai trong lành, tinh khiết vẫn ở mãi trong tâm hồn tôi đến tận bây giờ.
Tôi rất thích ngắm nắng mai, bởi trong cái nắng có sự mềm mại, nhẹ nhàng, thanh khiết. Cái nắng hiền hòa bao trùm vạn vật, làm cho muôn hoa khoe sắc đua hương, muôn loài bừng lên sức sống mãnh liệt. Và tôi ước gì tâm hồn mỗi người đều trong sạch như nắng mai, chắc chắn thế giới này sẽ vô cùng tốt đẹp. Nắng mai dịu dàng như lời mẹ ru con bên cánh võng. Nắng mai tươi xinh như cành hoa xuân ngày tết. Nắng mai vô tư, hồn nhiên như tuổi học trò. Nắng mai làm cho tôi thêm yêu đời, yêu mến quê hương đất nước nơi tuổi thơ tôi đi qua và nơi cuộc sống sinh ra những điều tốt đẹp.
Tạp bút: TRẦN ĐÔNG
Nước mắt chảy ngược
Ngày cập nhật: 24-09-2009
Thương thay cũng một kiếp người
(Nguyễn Du)
Người ta thường nói hồng nhan bạc phận, còn đằng này chị không đẹp, nếu không muốn nói là xấu mà cũng phận bạc như ai. Ở cái xứ “khỉ không muốn ho mà cò cũng không muốn gáy” này, người ta thường gọi chị là chị Ba bánh cam. Tôi có hỏi ngoại về “nghệ danh” của chị thì mới biết, chị bị chồng vũ phu kiếm chuyện đánh hoài, bữa nào đi bán cũng thấy mấy cái vết bầm to tướng trên mặt giống hệt cái bánh cam, cộng thêm chị bán bánh cam nên người ta gọi thế.
Gia đình chị chỉ thua gia đình Tú Xương đúng một người, một chồng và bốn đứa con. Vậy mà không đứa nào có giấy khai sinh gì hết. Mà cũng lạ, con thương hồ, bán buôn rày đây mai đó, vậy mà con chị đứa nào cũng ngộ, có đứa trắng tươi như dân thành phố khiến bọn tôi nhìn mà thấy “ngứa con mắt bên phải đỏ con mắt bên trái”. Tôi thì chẳng bao giờ dám ăn bánh cam của chị, bởi ngoài bán bánh, làm thuê làm mướn ra, chị còn làm mụ.
Nhà chị bữa nào không lục đục là y như rằng ăn cơm không ngon. Ít khi nào nghe tiếng chị, chỉ nghe tiếng người chồng vũ phu lúc nào cũng la oai oái như đàn bà. Mà có chuyện gì lớn lao cho cam, hắn ta nói chị không bán đủ tiền cho hắn uống rượu mà bày đặt xài phung phí, bày đặt cho mấy đứa “khốn nạn” đi học (hắn chửi mấy đứa con chị). Sau này nghe ngoại nói, tôi mới biết: cả bốn đứa kia đều là con một mẹ mà... hai cha. Người chồng đang ở với chị thì không có đứa con chung nào hết. Sau một cuộc ẩu đả, quậy quạng tanh bành đến không còn một cái ca uống nước, chồng vũ phu ấy bỏ đi biệt tích.
Rồi chắc cũng tại nợ trần chưa dứt, nên một năm sau thấy chị gá nghĩa với một người đàn ông bán bánh lọt. Cha này đi bán bánh lọt chứ nhìn thằng chả diện còn bảnh bao hơn ba tôi đi ăn đám giỗ nữa. Lửa gần rơm, mới đầu thì hai nhà ở cặp nhau, từ từ hai thành một, cũng từ đó chị có một gia đình mới toanh chỉ có mấy đứa con là... cũ và ngày càng lớn.
Chị dành dụm được ít tiền liền hỏi ngoại tôi mua một miếng đất nhỏ đủ cất cái chòi để làm ăn lâu dài. Thấy chị nghèo, lũ con nheo nhóc, ngoại thương tình cho chị ở đậu không thời hạn. Chị mừng như bắt được vàng, cảm ơn ngoại rối rít...
Niềm vui chưa hết, nỗi buồn từ đâu kéo đến một đống lùm lùm ngay trong nhà chị, người chồng thứ tư ra đi cuỗm hết số tiền chị dành dụm. Hôm ngoại tôi qua thăm, chị nằm liệt giường, đến cháo còn không húp nổi. Khuôn mặt bất thần, toàn thân bất động, nhưng mắt chị thì ráo hoảnh, không một giọt nước, có lẽ tất cả đã chảy vào trong.
Qua lời tâm sự của chị với ngoại tôi, chị luôn cố tìm cho mình một hạnh phúc, chị cố vun vén đầy ắp tình thương và tin tưởng hết lòng cho những mối tình hy vọng sẽ được quả ngọt, nhưng hạnh phúc dường như quá xa vời với chị.
Mấy ngày sau chị lại trở về với công việc thường nhật, cái mâm bánh có vẻ đầy hơn mọi khi, tiếng rao nghe dạt dào, đắng nghét: “Có ai ăn bánh cam hôn”.
Tạp bút: HOÀNG NGUYÊN
Lòng mẹ
Ngày cập nhật: 21-09-2009
Người đời có câu “Thức đêm mới biết đêm dài”. Câu nói ấy bây giờ sao quá chính xác trong hoàn cảnh của Nga. Đồng hồ vừa điểm hai tiếng. Nga ngồi dậy. Giấc ngủ không đến mà bao hồi ức lại đến, trùng trùng vây bủa. Xỏ chân vào dép, khoác cái áo ngủ vào người, Nga bước ra nhà ngoài. Bàn thờ Trường vẫn ấm cúng với khoanh nhang trôn ốc đang lan tỏa những làn khói mong manh. Hơn một tháng rồi, chính xác là ba mươi bốn ngày Trường qua đời vì tai nạn giao thông, Nga vẫn chưa chấp nhận được sự thật này. Hạnh phúc đang ngập tràn căn nhà nhỏ của họ. Trường hiền hòa đáng yêu và hết mực chiều chuộng vợ. Sau mỗi buổi làm ở sở là bữa cơm gia đình rôm rả tiếng cười. Cuối tuần thì đi chơi, đi mua sắm. Nga cảm thấy cuộc đời mình được chan hòa trong một vùng sáng ngọt ngào, đầy sắc màu hạnh phúc. Gần một năm cưới nhau. Gần một năm Nga chỉ biết có chồng. Nga đã quên mẹ, người mẹ hiền đã một thân một bóng nuôi con từ lúc con vừa chập chững. Nga lớn lên trong vòng tay yêu thương chở che của mẹ. Nga muốn gì được nấy. Nga chỉ biết có mình. Với gánh hàng rong, mẹ đã đi khắp các nẻo đường, các con hẻm trong nội ô thị xã để nuôi ăn nuôi học cho con. Nga lớn lên, học giỏi lại có nhan sắc, mẹ vui mừng nhưng không khỏi phập phồng lo sợ. Những ngày Nga đi chơi với bạn, mẹ cũng lo. Những đêm đi họp mặt hay sinh nhật bạn bè, mẹ vẫn ngồi chờ cửa. Nga lớn lên bao nhiêu tuổi, mẹ nhọc nhằn bấy nhiêu năm. Cho đến một ngày... Đó là những ngày Nga đang vui mừng hớn hở vì đã tốt nghiệp đại học. Trường lại ngỏ lời cầu hôn. Đúng vào thời điểm đó, mẹ gặp lại bác Nhân, người bạn thời tuổi trẻ đã tha thiết yêu thương mẹ. Bác Nhân vẫn sống độc thân. Biết hoàn cảnh mẹ, bác nối lại quan hệ. Bác tới thăm viếng ân cần. Nga thấy mẹ vui. Lẽ ra phải cảm thông và vui mừng cho mẹ, đằng này, Nga lại tỏ ra bực bội cáu gắt, thậm chí là hỗn xược mỗi lần bác Nhân tới chơi. Mẹ lại buồn. Nga thì vui với những cuộc hẹn hò, vui với những thành tựu mình đạt được. Rồi mẹ nói với Nga, bác Nhân muốn sống chung với mẹ. Đã bao nhiêu năm, trái tim người đàn ông chung tình này vẫn hướng về mẹ. Nga đùng đùng nổi giận “Mẹ đã sống bao nhiêu năm rồi, bây giờ lại bước thêm bước nữa. Mẹ không sợ người đời cười cho. Con không đồng ý. Nếu mẹ chọn bác ấy thì coi như không có đứa con này”. Nga bỏ nhà một đêm rồi trở về vẫn thái độ lạnh lùng với mẹ. Mẹ đau nhói lòng “Sao con không có chút cảm thông hay nghĩ cho mẹ. Con quá ích kỷ Nga ơi! Mẹ đã vì con phải sống những năm tháng cô đơn khi tuổi xuân còn phơi phới. Con chưa bao giờ nghĩ cho ai, con chỉ thương mình. Con đau ốm, mẹ lo buồn thức trắng. Còn những ngày mẹ bệnh, con chỉ qua quít cho xong. Làm sao mẹ có thể trông mong gì ở con khi tuổi già bóng xế. Người đàn ông này đã đi bên cuộc đời của mẹ, đã để mẹ làm tròn bổn phận với con. Không lẽ mẹ và bác ấy không có quyền đến với nhau? Mẹ sẽ về quê. Con đã đủ lông đủ cánh rồi, con có công việc, có người yêu thương mình hết mực. Mẹ cũng yên tâm để đi con đường của mình. Mẹ mong con biết nghĩ để nên người hơn”.
***
Đồng hồ lại điểm ba tiếng. Nga nhìn vào di ảnh. Trường vẫn nụ cười hiền hậu trìu mến. Những giọt nước mắt lại mằn mặn môi Nga. Bỗng dưng, Nga thấy nhớ mẹ. Phải rồi, ba mất lúc Nga vừa mười ba tháng tuổi. Lúc ấy, mẹ còn trẻ hơn Nga bây giờ. Vậy mà mẹ cũng đã sống để nuôi Nga khôn lớn đó sao. Hồi còn nhỏ, Nga cũng thường thấy mẹ khóc. Nga hỏi, mẹ nói bụi bay vô mắt đó thôi. Đúng là mẹ nhớ ba. Mẹ nhớ ba cũng như Nga nhớ Trường. Sao hằng bao nhiêu năm tháng sống bên mẹ, Nga không nghĩ được điều này. Đúng là chưa bao giờ Nga nghĩ cho mẹ. Nga lại nhớ có một năm, đã hai mươi chín tết rồi mà Nga vẫn chưa có quần áo mới, Nga giậm chưn khóc lóc làm mẹ quýnh quáng cả lên. Chẳng qua vì mẹ bệnh nằm cả tuần mới ngồi dậy nổi. Tiền nợ lại phải thanh toán vào cuối năm. Gần tết, hàng rong lại ế, người ta chỉ dành tiền mua sắm. Mẹ tất tưởi ra chợ mua bông ngồi bán lẻ. Mẹ ngồi cả đêm hai mươi chín tết. Bán hết, mẹ lại mua thêm. Sáng ba mươi, mẹ lật đật đi mua bộ đồ mới cho Nga. Nhìn con cười vui hớn hở, mẹ đã không còn thấy mệt.
Rồi mẹ quyết định dọn về quê. Bác Nhân có một miếng vườn với huê lợi đủ để bác và mẹ yên hưởng tuổi già. Mẹ cho Nga trọn vẹn căn nhà và tài sản. Mẹ còn giao hết mấy chỉ vàng dành dụm để Nga sắm sửa cho ngày cưới. Nga không thấy buồn khi mẹ về quê mà chỉ biết giận mẹ. Đám cưới Nga, mẹ được lời nhắn “Mẹ chỉ lên một mình thôi! Con không muốn có mặt người dưng”. Mẹ một mình lên dự đám cưới đứa con yêu. Trường cho rằng, Nga quá đáng khi không để bác Nhân dự tiệc cưới. Nga mắng yêu chồng “Đến anh mà còn không binh em lại binh người ngoài”. Trường cũng đành nghe lời người con gái anh đã hết lòng yêu thương.
Buổi chiều định mệnh, buổi chiều Trường vĩnh viễn xa Nga, đó là lúc hai người đi mua sắm chuẩn bị kỷ niệm một năm ngày cưới. Nga đang bận bịu với các túi xách, Trường cho xe xuống đường. Đúng lúc đó, một chiếc xe tải bị trục trặc tay lái đã đâm vào Trường. Vậy là xong. Không còn tiệc tùng kỷ niệm. Mẹ và bác Nhân tất tưởi lên ngay trong đêm. Dẫu sao Trường cũng là con rể của mẹ. Nga vật vã trong những ngày làm đám. Nhưng khi chôn cất vừa xong, tánh ương bướng và lòng kiêu căng trổi dậy, Nga bảo “Mẹ cứ theo bác về quê, con cần yên tĩnh một mình, mẹ không cần lo cho con!”. Mẹ gạt nước mắt. Mẹ biết con mình hơn ai. Nga lại đến sở với công việc, vẫn cười vẫn nói để che giấu nỗi bất an. Chỉ đêm về, Nga lại nghĩ về Trường, về biết bao kỷ niệm của hai người.
***
Ngồi thẩn thờ nhìn căn phòng đã bày biện đủ cho lễ cúng bốn mươi chín ngày của Trường, Nga lại khóc. Người đàn bà dẫu kiên cường đến đâu cũng phải mềm yếu trước tình cảm dành cho người mình yêu. Nga không dám cho mẹ hay. Nga đã chẳng bảo mẹ về quê đó sao? Nga đã chứng tỏ mình mạnh mẽ mà! Bây giờ, quá khứ và hiện tại đan quyện vào nhau. Lòng kiêu hãnh và nỗi ăn năn trộn lẫn khiến Nga như kẻ mất hồn. Nga không biết phải làm gì. Đã nói không cần mẹ, bây giờ lại muốn mẹ bên mình. Ngày mai này, các thầy ở chùa sẽ tới tụng kinh siêu độ. Nga đã đặt sẵn cơm chay. Phải chi có mẹ lúc này. Nga muốn được khóc với mẹ, được nói lời xin lỗi. Từ khi Trường không còn nữa, Nga mới từ từ thấu hiểu nỗi đau buồn của mẹ ngày xưa. Sự hy sinh thầm lặng của mẹ và nỗi vất vả bao năm đã chưa được một ngày đền trả. Phải chi có mẹ lúc này, Nga sẵn sàng quỳ xuống xin mẹ thứ tha.
Ngoài sân, có tiếng đẩy then, cánh cổng rào bật mở. Mẹ hiện ra như một bà tiên trong cổ tích. Sau lưng mẹ là bác Nhân với lỉnh kỉnh đồ, “Mẹ nhớ mai này cúng bốn mươi chín ngày cho thằng Trường. Mẹ sợ con lo không xuể. Mẹ có đem mấy thứ dưới nhà lên”. Nga nhìn sững mẹ vài giây rồi như một đứa trẻ đang trông ngóng mẹ về, cô ôm chầm lấy mẹ, tha hồ cho những dòng nước mắt của nỗi ân hận muộn màng tuôn chảy.
Truyện ngắn: NGÔ NGUYÊN
Mẹ tôi
Ngày cập nhật: 11-09-2009
Cơn mưa tháng tám cứ rả rích suốt ngày - đó là ngày đầu tiên tôi đi làm. Tôi cảm thấy, ngày đầu đi làm cũng giống như ngày đi học đầu tiên của tôi. Mọi thứ từ cảnh vật, con người cho đến không gian đều rất lạ. Ngày đầu tiên đi học, mẹ cõng tôi đi trên con đường làng rợp bóng mát, đến trường mẹ đưa tôi vào lớp, rồi mẹ ngồi chờ rước tôi về vì nhà tôi rất xa. Mấy ngày đầu, tôi khóc rất dữ vì tưởng mẹ đã bỏ tôi, phút chốc tôi lại thấy mẹ len lén nhìn tôi, xem tôi có ngoan hay không, có chăm chú học hay không. Đến khi tôi biết mẹ luôn ở bên cạnh chờ đợi, tôi cảm thấy yên tâm và ngồi học rất sốt sắng, rất ngoan và tôi thấy cũng rất vui. Khi đã quen với việc đi học, mẹ không còn đưa đón và ngồi chờ tôi nữa, vì phải còn nặng gánh cơm áo gạo tiền lo cho anh em tôi đi học. Tôi cảm thấy sợ hãi khi mẹ không có ở bên tôi, mẹ bảo “Con phải tập tự lo cho mình, không phải lúc nào mẹ cũng ở cạnh con được”. Lúc đó, tôi chẳng thèm quan tâm câu nói của mẹ, chỉ biết không có mẹ, tôi sẽ rất sợ. Rồi, vì mưu sinh, mẹ phải rời xa anh em chúng tôi đến phương xa làm ăn. Tôi bắt đầu biết nhận thức được những lời nói của mẹ. Tự nhủ, mình phải sống tốt, phải tự lo cho mình thì mẹ mới yên tâm. Thương mẹ, anh em chúng tôi học rất giỏi, để lâu lâu mẹ về đem những hoa điểm mười tặng mẹ. Mẹ đã dạy tôi rất nhiều điều, đã cho tôi một ý chí, lòng tự tin và trái tim đầy nhiệt huyết sẵn sàng ứng phó với những thử thách trong cuộc sống. Những ngày đầu tiên mẹ đưa tôi đi học, cũng chính là ngày mẹ từ từ dẫn dắt tôi đi trên con đường đời - đó là bài học vở lòng đầu tiên của tôi.
Ngày tháng qua đi, thời gian vô tình đã từng ngày lấy đi sức khỏe, nhan sắc, tuổi thanh xuân của mẹ, để đổi lại là những tấm bằng đại học của anh em tôi. Những tưởng, rồi đây mẹ sẽ được an nhàn, sung sướng khi anh em tôi ra trường và có công việc ổn định. Nhưng thật bất công, số phận của mẹ là người “chỉ có cho mà không nhận”, thế là, mẹ ra đi mãi mãi..., để lại trong tôi nhiều tiếc nuối, hụt hẫng và sợ hãi.
Tuy đã lớn, đã bắt đầu những ngày đi làm đầu tiên, nhưng đối với tôi, ngày đầu tiên đi làm cũng giống như ngày đầu tiên đi học, tôi cũng cảm thấy lo lắng, bồn chồn, nhất là khi không có mẹ cạnh bên an ủi, động viên. Tôi cảm thấy thiếu thiếu, nhưng câu nói của mẹ thì vẫn còn in đậm trong tôi. “Mẹ ơi, con sẽ ngoan, sẽ cố gắng làm việc để mẹ an lòng...”, tôi tự nhủ và cảm thấy thật hãnh diện vì được làm con của mẹ.
Tạp bút: KHIẾT TÂM
Vết cắt mẻ chai
Ngày cập nhật: 09-09-2009
Ngày tôi còn thơ dại chưa từng nghe nói có chứng bệnh ung thư. Ông nội tôi gần chín mươi tuổi, đến lúc cuối đời chưa một lần đi bệnh viện, chưa một lần tiêm thuốc, vậy mà đã có nhiều năm tháng ông nổi tiếng là một tay chèo cự phách của làng chài.
Hồi đó, ông bà, cha mẹ tôi có đau bệnh cũng chỉ là thứ bệnh cảm xoàng xĩnh, tìm lá thuốc trong vườn, nấu xông hơi là khỏi bệnh ngay. Về sau, có một cách trị bệnh phổ biến ở làng quê là dùng mẻ chai cắt lở, nặn máu bầm, xức dầu và nấu lá xông hơi là dứt điểm.
Tôi cũng từng bị bệnh cảm, được mẹ trị bằng phương pháp dùng mẻ chai cắt lở ghê người! Đầu tiên là mẹ đi tìm mảnh mẻ chai giắt ở mái hiên nhà, dùng dao phay đập vỡ, tìm mảnh chai bén nhọn nhất, lấy dầu Song Thập khử trùng mảnh chai, chuẩn bị một miếng vải áo để lau máu sau khi cắt lở, nặn ra máu bầm.
Cứ mỗi lần mẹ dùng mảnh chai cắt vào trán, vào cổ tôi cái soạt đau rợn người. Tôi kinh hãi, nhưng không dám hé môi kêu đau, sợ mẹ rày la bị bệnh mà không chịu chữa cho khỏi. Mẹ cắt lở tôi đã ngán lắm rồi, nhưng chưa đau dai dẳng bằng nặn máu bầm. Mẹ dùng mười đầu ngón tay chúm lại nặn vào vết cắt rồi lau máu, lau máu xong lại tiếp tục nặn hàng chục lần ở một vết cắt. Nhiều ngày sau, khắp mình mẩy tôi còn đau ê ẩm và tím bầm trông rất hãi !
Thời đó, gia đình nào cũng có người biết cắt lở, tự chữa bệnh cho mọi người trong gia đình. Có những trường hợp người láng giềng được hàng xóm tín nhiệm là “người cắt lở mát tay”. Đó là các mẹ, chị cắt lở không công, mau lành bệnh được mọi người thường xuyên nhờ chữa bệnh giúp.
Cho đến bây giờ tôi vẫn chưa hiểu vì sao cứ mỗi lần có người mắc bệnh cảm là các mẹ, chị dùng phương pháp cắt lở là khỏi bệnh. Có những lúc mẹ cắt lở cho tôi mà cứ chép miệng chép lưỡi “Thằng Út bệnh, máu bầm quá! Chịu khó để mẹ cắt lở cho chóng khỏi nhá!”. Có lẽ ngày ấy trong không khí chưa có nhiều chất độc hại được thải ra từ các nhà máy, khu công nghiệp, thợ hàn, thợ tiện, các vùng chăn nuôi bị ô nhiễm nên việc cắt lở không bị nhiễm trùng. Nhiều lần chúng tôi kéo co, đùa giỡn nhau té ngã trầy đầu gối liền hốt đất bũn trét lên để chóng lành (?), vậy mà chẳng hề chi. Thật là chuyện ly kỳ, tới hôm nay nghĩ còn thấy sợ!
Cuộc sống của người dân quê ngày xưa cứ vô tư trước mọi nguy cơ bệnh tật, nhưng bệnh tật biết tránh người hiền lành, chơn chất vì ở vùng quê ngày xưa không khí luôn trong lành khoáng đạt, không có chỗ cho vi trùng xâm nhập hại người.
Ông bà, cha mẹ tôi quanh năm không đi bệnh viện, không tiêm thuốc, sống với con cá, con cua đồng, với rau ngò, rau cải từ trong vườn nhà mà cơ thể cường tráng, tinh thần minh mẫn sống lâu, chứ không mỗi tí là mỗi đi mua thuốc tây, đi bệnh viện như bây giờ.
Chuyện dùng mẻ chai cắt lở chữa bệnh của ông bà, cha mẹ tôi ngày xưa, chừng vài chục năm tới, nếu tôi kể lại cho con cháu tôi nghe, chắc chúng nghĩ là chuyện cổ tích thật đấy.
Rất nhiều năm rồi không có ai cắt lở cho tôi trong mỗi lần tôi bị bệnh cảm. Tôi và những người láng giềng không còn ai bị bầm tím trên trán, trên cổ... vết bầm bằng ngón tay trỏ thẳng hàng bởi vết cắt bằng mẻ chai, nhưng tôi vẫn không sao quên được những vết đau ngày cũ. Những vết cắt bằng mẻ chai của mẹ tôi; người thầy thuốc một đời thương chồng con, hy sinh vì chồng con không biết nghĩ đến thân mình.
Tạp bút: TRẦN QUỐC CƯỠNG
Mắm tép của mẹ
Ngày cập nhật: 04-09-2009
Mẹ mất đã lâu và tôi thường rất nhớ mẹ. Cái gì cũng gợi nhắc về mẹ và lòng cồn lên bao thương yêu, kỷ niệm. Những đêm mất ngủ, tôi mường tượng đến mẹ những ngày xưa. Đến cái cách mẹ tôi đứng, đi, nói, cười... Đến cái kiểu mẹ tôi bán buôn và nấu nướng. Đến những món ăn. Những ngày qua có mưa, tôi lại thấy rất thèm cái thứ mắm tép đồng quê của mẹ.
Mẹ tôi có tay muối cà dưa và các loại tương, mắm. Ngày nhà còn ở khu Hai, đất phía sau rất rộng nên mẹ dành riêng hẳn một góc cạnh bếp để xếp các loại vại, chum. Mỗi lần mẹ mở chum mắm hay khuấy vại tương, cả xóm điếc mũi vì thơm, khiến ai nấy đều phải trầm trồ và thế nào cũng có người đem bát sang xin. Và thế nào mâm cơm của một gia đình nào gần đấy cũng có món cá đồng kho tương hay mắm ruốc kho sả. Hàng xóm còn thế nói gì người nhà. Với lại, ngày trước thức ăn đâu có dư dả như bây giờ. Cơm chỉ mắm là chính nên lại thêm tốn hao. Mà gia đình tôi vốn đông người, mẹ không chịu khó và cần kiệm vậy sao đủ cho mọi sự chi dùng trong nhà và dành dụm, khi có việc cần. Bữa cơm thường rất đơn sơ nhưng đĩa dưa muối giòn vàng đượm, đĩa đậu phụ, bát tương... do tay mẹ vén khéo vẫn đủ sức nuôi các anh chị em chúng tôi lớn nhanh, khỏe mạnh. Tôi nhớ cái món tép đồng không phải lúc nào nhà cũng có mà rất thi thoảng. Hình như là về mùa mưa thì phải? Đi chợ gặp, mẹ thường mua cả rổ lớn. Về, rửa rất sạch và để ráo. Những chú tép con ửng hồng và sáng ánh nằm xếp lớp trong chiếc rổ tre, nhìn rất thích! Các anh tôi mạnh tay luôn được mẹ nhờ giã tép. Phải giã bằng cối đá và giã nhuyễn. Chuyện rang gạo làm thính mẹ tôi chẳng dám giao cho ai. Vì gạo phải rang với độ lửa như thế nào mới phải chứ quá đi một tí thì gạo cháy hỏng, thính mà lửa non thính mất hẳn cái thơm. Gạo rang rồi thì giã cho thật nát và cứ một lớp tép trộn muối một lớp thính, mẹ xếp cả vào một cái hũ nhỏ nút lá chuối, đặt cạnh ông táo.
Phải cả tháng sau mẹ mới mở hũ và đó là một ngày rất đặc biệt. Vì cả gian nhà nhỏ của chúng tôi dậy thơm vị mắm mặn mòi. Mọi người trong nhà đều thấy háo hức với bữa cơm trưa, chiều. Lại giữa khí trời đang ẩm lạnh hoặc có mưa. Và với trời đất thế lại thêm không gian ấm cúng, sự đầm ấm sum họp gia đình những bát cơm nóng hôi hổi được ăn cùng mắm tép đồng và cà pháo mẹ muối. Mới ngon làm sao! Ý nghĩa biết chừng nào!
Ký ức tôi vẫn còn cả đấy: gian bếp nhỏ, những người thân yêu với khuôn mặt căng tràn niềm vui sướng, nồi cơm đầy vun bốc khói nghi ngút và hương vị mắm tép đồng. Thấm thía đến tận chân răng những ngày thơ dại và thêm thấm thía cõi lòng, mỗi khi nhớ lại...
Tạp bút: HUYỀN MINH
Vu Lan
Ngày cập nhật: 03-09-2009
Tháng bảy quê tôi đông những người, những xe cộ láng coóng chạy vù vù để lên chùa lễ Phật. Mẹ tôi vẫn quang thúng xuống chợ, bán vài bó rau vườn, mớ chanh, vài nải chuối cau ngọt, xế trưa mới tong tả ngược nắng về nhà. Mồ hôi đổ lã chã xuống hai gò má gầy và vầng trán hằn những vết nhăn. Vừa nghe tiếng, tôi liền chạy ra đón mẹ, lục lọi trong thúng những quà bánh bán lẻ ở chợ, thường là vài cái bánh ú hay bánh tiêu, tôi ăn ngúng nguẩy rồi cười toe toét đưa mấy cái răng súng. Khi ấy, tôi không có quà Vu Lan gì tặng mẹ...
Quê tôi không có ngày lễ Vu Lan, mà người dân chỉ quen gọi là ngày rằm tháng bảy. “Cả năm được rằm tháng bảy, cả thảy được rằm tháng giêng”. Câu tục ngữ này theo tôi lớn lên với tuổi thơ tóc vàng hoe vì nắng gió, với những bữa cơm đạm bạc dưa muối, cá lòng tong kho khô. Tôi nhớ mãi nồi cá kho khô mẹ kho, thơm lừng hạt tiêu và tóp mỡ thịt heo. Tôi và cha tôi cũng thường đi xúc cá lòng tong trên cái mương nhỏ sau nhà, cái rổ xúc được cha đương bằng tre, xuống mương đảo tròn vòng là lòng tong vô đầy rổ đem lên bờ cho tôi bắt. Có hôm, cha xúc vô nguyên con rắn nước, tôi hú hồn, cầm tay cha không rời cho đến lúc về tới nhà.
... Và cũng từ những cái mương làng mộc mạc ấy đã hình thành nên tôi với một chút duyên nhỏ nhoi trong nghề cầm bút. Tôi vẫn thường có những giấc mơ về tuổi thơ êm đềm với những ngày tháng bình yên bên mẹ, bên những cánh diều được thả lên bay cao trên những cánh đồng... Những trang đời tuổi thơ của tôi cứ chảy về thực tại cứ như in, mỗi khi nhớ đến mẹ. Tôi lớn lên vào đại học rồi ra trường và đi làm tại thị xã xa nhà, bỏ lại mẹ tôi với những buổi chiều hun khói bếp một mình. Cha tôi là một nông dân cày sâu cuốc bẫm, làm nên hạt gạo nuôi tôi lớn khôn. Tôi có được hình hài như hôm nay là nhờ biết bao mồ hôi của cha tôi đổ xuống cánh đồng bát ngát.
Chính từ bao nhiêu gian lao đó mà mỗi khi tôi cầm bút viết một điều gì đó tôi thường trăn trở. Cũng như hôm nay, khi ở thị xã người ta đi mua quà tặng mẹ tôi chợt nhói lòng. Trong cuộc đời mình, bà chưa bao giờ mặc được bộ quần áo đẹp, mua một chiếc nón mới hay những thứ gì đó mới cần cho cuộc sống. Bà chắt chiu từng cắc, từng đồng để lo cho chồng, cho con. Cả mấy chị em chúng tôi đều được ăn học đàng hoàng, được diện những bộ quần áo mới sánh vai với bạn bè...
Lễ Vu Lan năm nay - Lễ báo hiếu cha mẹ, hãy tặng cho những ai đang còn mẹ một bông hồng đỏ và hãy cài lên áo của những ai mất mẹ một bông hồng trắng.
Trong trái tim tôi, những kỷ niệm về mẹ cứ sống dậy cồn cào mỗi khi ai đó thoáng nhắc đến Vu Lan. Cuộc sống hiện đại đưa người ta đến nhiều nơi, nhưng nơi sâu nhất trong mỗi cuộc đời vẫn là lòng mẹ. Đó là cội nguồn mà khi lớn lên, trưởng thành rồi về với đất, người ta vẫn không quên công lao sinh thành của mẹ. Có ai đó trong cuộc đời này đang hạnh phúc khi có mẹ thì hãy biết nâng niu. Để cho mẹ không phải là chiếc lá vàng mà mãi là một chiếc lá xanh - sống mãi trên cành “cây cuộc đời” dù bao nhiêu đổi thay của nhân thế .
Tạp bút: CAM MẬT
Anh và em
Ngày cập nhật: 24-08-2009
Anh em Hoài sinh ra và lớn lên ở một thị trấn nhỏ ven sông. Con sông mà mọi người vẫn quen gọi là sông làng Gò, hai bên bờ ngút ngàn những hàng cây quao chạy dài tít tắp, mỗi chiều nước ròng, rễ cây nhô lên những hình thù kỳ quái... cứ như những gương mặt nhăn nhó vì đau khổ, như đang oán than khóc lóc... Mỗi khi nước lớn bông bần rụng trắng trôi lềnh cả mặt sông... Cứ thế hai anh em lớn lên bên dòng sông yên ả, bên những hàng cây quao và bên những câu chuyện cổ tích ngọt ngào của ngoại.
Năm ấy khi tiết trời cuối năm se se lạnh, cái lạnh mơn man nhè nhẹ... nhà nhà đang chuẩn bị đón tết. Bé Hoài ra đời và mẹ nó đã ra đi mãi mãi. Tết năm đó, nhà người ta ngập sắc mai vàng, đỏ màu dưa hấu, còn nhà bà Năm tang trắng quây quanh, con gái bà chết vì sinh khó, bỏ lại đứa con trai mới 4 tuổi và đứa con gái đỏ hỏn. Bà đặt tên cho cháu là Hoài, vì bà luôn nhớ, luôn nghĩ tới mẹ nó, tới cái tết năm đó...
Đêm nào hai đứa cháu cũng khóc, đứa nhỏ khóc vì thiếu sữa mẹ, đứa lớn lại đòi mẹ ru. Anh Hai Hoài nhất định không ngủ, thức chờ mẹ về... Ba nó dỗ thế nào cũng không nín. Bà ngoại nó phải chỉ lên vì sao sáng trên trời bảo mẹ nó đang ở đó. Vậy là Hoài lớn lên cũng theo anh Hai, đêm nào cũng ra sân nhìn lên trời tìm mẹ, bầu trời đêm thăm thẳm, có những vì sao le lói và chúng tin đó là mẹ, mẹ đang nhìn và ở bên hai anh em.
Rồi hai anh em cứ thế mà lớn lên, ba chúng có vợ khác và ra đi, để anh em Hoài lại cho bà ngoại. Lưng ngoại còng hơn vì lo toan, chiều nào hai anh em cũng phụ ngoại bó rau đắng để sáng mai mang ra chợ bán. Hoài thích nhất được ăn canh rau đắng cá rô đồng của ngoại, cái vị mới ăn vào đăng đắng rồi lại ngọt ngào như mùi vị của quê hương. Cực khổ vậy mà ngoại cũng lo cho hai anh em ăn học đàng hoàng. Học hết lớp 12, anh Hai nghỉ học đi tàu biển, anh nói sẽ kiếm tiền cho ngoại đỡ cực khổ và cho Út Hoài được học tới nơi tới chốn.
Anh Hai đi... nhà vắng vẻ hơn... rồi Hoài được anh mua cho những chiếc áo dài trắng tinh. Hoài ước sau này lớn lên sẽ làm cô giáo, Hoài sẽ dạy học ở trường cấp ba Gò Quao mà ngày nào mình đã học. Nhìn anh Hai trong những chuyến về ốm hơn, làn da đen sạm vì gió biển, Hoài tự nhủ sẽ gắng học để thực hiện ước mơ của mình, để không phụ lòng ngoại và anh Hai lo lắng.
Buổi sáng mùa hè, khi gió hái những cánh phượng đỏ rực thả lên tóc Hoài, Hoài sung sướng đến nghẹn ngào cầm giấy báo trúng tuyển vào đại học chạy ào về khoe với ngoại.
Sau đó, anh Hai đưa Hoài lên thành phố, lo thủ tục cho Hoài vào ký túc xá... Nhìn anh Hai lo cho mình từng li từng tí y như một bà mẹ hiền, Hoài không khỏi rưng rưng trong lòng.
- Thôi chứ! Út cưng của anh không được khóc nhè. Anh sẽ tranh thủ lên thăm em.
- Anh Hai lên chứ?
- Ừ... anh nhớ mà...
Bịn rịn, lưu luyến, suốt mấy tuần đầu, đêm nào Hoài cũng khóc vì nhớ quê, nhớ ngoại...
Rồi học hành, dần dần quen biết bạn bè, ánh đèn thành phố làm Hoài nguôi ngoai không còn nhớ quay quắt dòng sông làng Gò với hai hàng cây quao chạy dài tít tắp.
Hoài gặp và yêu Thuận - một công tử con nhà giàu hẳn hoi. Thuận tặng Hoài những món quà hợp thời trang và Hoài đã thay đổi... Hoài ý thức được mình xinh đẹp, nhất là đôi mắt. Hoài thừa hưởng của mẹ đôi mắt to đen láy, mái tóc dài thướt tha của Hoài khiến không ít chàng phải ngẩn ngơ, giờ được trang điểm, mặc những bộ quần áo đắt tiền,... Hoài càng rực rỡ hơn, Hoài đã khác. Cơn gió sông làng Gò mát rượi dần phai nhòa trong ký ức cô. Những lá thư cho ngoại, cho anh Hai thưa dần. Thỉnh thoảng Hoài chỉ điện thoại cho anh Hai xin tiền, tiền trọ, tiền ăn, tiền sách vở, tài liệu...
Chiều ráng vàng cả khúc sông... văng vẳng xa xa âm âm tiếng chày quết bánh phồng, hình như sắp tết. Lâu rồi, bà Năm sợ mùi vị tết, cơn gió đông lành lạnh chỉ cho bà cảm giác rùng mình, buồn thiệt là buồn vì nhớ đứa con vắn số của bà. Nhà nhà đang rộn ràng đón tết, nhà bà sao quạnh quẽ quá... Ngày hai anh em nó chưa đi xa bà cháu quây quần cực khổ vậy mà vui. Bây giờ, bà không phải làm gì, mỗi tháng, anh Hai của Hoài gửi tiền về... mà sao bà thấy buồn... thấy trong lòng nhoi nhói đau... Xa xa tiếng bìm bịp kêu não nề... Chiều nào bà cũng ra cửa ngồi trông... Hoài không về,... thằng Hai cũng không về...
Lần trước khi đi thằng Hai nói với bà:
- Út Hoài gần ra trường cần thêm tiền. Vả lại con ráng lo sửa lại mái nhà, chắc ba bốn tháng con mới về, ngoại đừng trông nghen. Khi nào Hoài nó về đây đi dạy, con sẽ không đi biển nữa, về nhà làm thuê làm mướn, mấy bà cháu mình lại sống hủ hỉ như ngày xưa ngoại chịu không?
- Sao lại không? Bà chỉ mong có vậy.
Tết rồi,... Út Hoài nói phải ở lại học thêm chuẩn bị thi, về nhà sợ học bài không được, thằng Hai cũng không thấy về, bà Năm héo hắt cả lòng... vì mai là ngày giỗ mẹ Hoài. Anh Hai lên rước Hoài, định bụng hai anh em về chung cho ngoại bất ngờ. Nhớ lời hẹn về ra mắt mẹ Thuận, Hoài thoái thác:
- Mai em... hẹn các bạn cùng lớp đi thăm thầy chủ nhiệm, thầy bệnh nặng lắm, thăm thầy xong, em tranh thủ về liền. Anh Hai thắp nhang cho mẹ giùm em. Anh Hai cầm năm trăm ngàn dúi vào tay Hoài, rồi buồn thiu ra về. Thấy bóng anh trải dài xiêu xiêu... Hoài thoáng chút hối hận, hình như anh Hai ốm và già đi nhiều... Anh Hai vừa bước ra thì Thuận đến.
- Ai vậy em?
- À... anh người làm của anh Hai mang tiền đến cho em...
- Sướng quá ta!
- Chứ sao! Anh trai em là một thuyền trưởng oai phong lắm... Chiều chiều đi ngang làng Gò, người ta vẫn thấy có một bà lão ngồi dõi mắt ra phía bờ sông trông...
Ra trường rồi sao Út Hoài vẫn không về...
Còn thằng Hai mấy tháng nay cũng bặt tăm, bà nghe người ta nói biển động, ca tàu nó chưa ai về hết...
Truyện ngắn: LỮ NGỌC TRÂN
Mưa ngâu
Ngày cập nhật: 21-08-2009
Mưa lất phất. Mưa rì rào. Mưa rầm rập suốt ngày và đêm, trời Cà Mau nhiều mưa. Những cơn mưa tháng bảy trùm phủ xứ sở này như mây và khói. Thời tiết vẫn vậy, vẫn y nguyên như hơn mười năm cũ. Vẫn con đường sình lầy đầy cóc kèn, ô rô, đầy những vết chân vội vã của bà con mình lam lũ, của những đứa trẻ quê mùa chưa thuộc hết vần a, b. Vẫn ngôi nhà lá nhỏ nằm hoang vu giữa những cánh đồng hào phóng xứ biển, tôi không gặp lại em.
Tôi biết và quen em trong lần tình nguyện tham gia chiến dịch mùa hè xanh. Hồi đó, Trưởng đoàn giao tôi “phụ trách” một em với một chị. Giúp chị gái thì mờ sáng phải ra đồng phát cỏ, chế, cào, nhổ mạ, cấy lúa, có chuyện gì làm chuyện nấy. Tối về giúp em trai rèn thêm chương trình lớp bốn mà em chuẩn bị năm sau vào nhập học. Thấy công việc thì nhiều mà được cái tính nhiệt tình, nên có lần em nói đùa với tôi “Ba em nói sau này ai muốn lấy em phải siêng như anh ổng mới chịu gả”. Tôi cũng nói đùa: “Mẹ anh nói phải chọn người giỏi giang như em mẹ mới chịu cưới”. Rồi cả hai cười giòn tan giữa cánh đồng mưa rơi. Hôm tiễn tôi trở về kết thúc chiến dịch mùa hè tình nguyện, em tặng tôi chiếc khăn tay thêu hình chiếc lá. Tôi bạo dạn nắm chặt tay em. Em vẫn để yên bàn tay trong lòng bàn tay tôi ấm nóng. Đôi tay chai sần, sạm nắng của cô gái tuổi dậy thì thôi học sớm truyền cho tôi đầy ắp cảm xúc khó tả... Cơn mưa tháng bảy ào ào tới. Dường như có hạt mưa lăn dài trên má tôi. Đôi má hồng hào của em cũng ươn ướt. Cuộc chia tay thêm bịn rịn, sụt sùi.
Tôi hứa năm năm quay về.
Vậy là hơn mười năm ký ức vẫn còn nguyên, trời Cà Mau vẫn còn nguyên những trận mưa ngâu rả rích. Em đã ra đi xa lắm. Bà con nói em xuất ngoại rồi, gần năm năm nay, gia đình cũng sang định cư bên ấy. Năm năm đợi chờ, mười năm nhớ nhung giờ như mây khói đi qua theo mùa mưa ngâu tháng bảy.
Tạp bút: MẠNH QUÂN
Tre & tuổi thơ của tôi
Ngày cập nhật: 19-08-2009
Con đường mòn nhỏ nay đã thành con đường to to được làm xi măng thẳng tắp, nhưng trong giấc mơ con đường của tuổi thơ vẫn trở về. Con đường mà hồi ấy có tre xanh xanh, cao cao và cong cong trông mới đẹp làm sao.
Không biết tự khi nào đã có tre mọc ở con đường làng quê tôi. Bà kể lại, khi theo ông về đây trốn sự truy lùng của lính ngụy đã nhìn thấy chúng. Các cụ già làng cũng nói với tôi như vậy. Lũ trẻ làng tôi, đứa nào cũng tự hào về lũy tre, bởi vì mỗi bận thực hành môn kỹ thuật bọn trẻ ở ngoài chợ hay vào chôm chỉa tre. Vui nhất là vào những ngày mùa đông xuân khi lúa ngoài đồng gặt xong, chỉ còn trơ lại gốc rạ, mặt đất thì khô, thế là lũ trẻ làng tôi đứa nào cũng có con diều.
Hối ấy làm sao có diều xanh, diều đỏ hình này, hình nọ như bây giờ. Chúng tôi, mỗi đứa vác dao ra ngoài đầu làng chặt lấy một cây tre, thế là tha hồ làm. Có khi bị đứt tay vì thanh tre rất bén. Chúng tôi chơi mải miết đến khi mặt trời xuống hẳn, có hôm cả bọn bị ăn roi tre vì ham chơi. Đúng là con nít lì như trâu, chúng tôi không sợ, cứ mỗi chiều là thi nhau thả diều, xem diều đứa nào bay cao nhất.
Hối ấy, nhà tôi khá giả nhất so với nhà mấy đứa bạn trong xóm, nhưng quanh năm chỉ cơm với cá. Tôi nhớ khi ấy, nhà tôi, bà nuôi nhiều gà, chúng chạy long nhong sau vườn, nhưng cả nhà không “sát sanh” vì sợ mang tội, nên bầy nào tới lứa là mang ra chợ bán lấy tiền. Tôi nhìn nó mà thèm chảy nước miếng. Tôi mong cho tới ngày giỗ ông để tận hưởng vị ngon của gà. Ngày giỗ của ông tôi, bà làm nhiều món nhưng không quên làm món gà hầm măng tre. Thế là tôi hưởng lộc của ông, tôi ăn ngon lành như chưa được ăn bao giờ, mà thiệt một năm rồi còn gì !
Cái ngộ của xóm tôi, nhà nào cũng có võng tre, bàn tre, rổ tre, đũa tre... nhất là cái bàn mun đen vì sử dụng lâu ngày. Nhà tôi có cái võng tre, ngủ rất sướng đời. Sáng sáng, tôi mang tập ra võng tre, treo trước nhà mà “văn ôn võ luyện”. Vừa học, vừa ngóng ông mặt trời đỏ rực nhô lên từ đằng đông, khi mặt trời tới chỗ mí nào mà tôi làm dấu thì lập tức đi học, nếu không là bị roi tre. Trưa trưa, tan học về, đi dưới tán tre, chao ơi, mát rượi. Chiều chiều, theo chị ra bờ kênh câu cá, ngồi kế mé kênh chỗ bộ rễ của tre thật sướng vì không lo rắn rít, nhưng chỉ có lũ kiến là làm khó chịu nhất, vui thiệt là vui.
Tuổi thơ lớn lên theo năm tháng trên con đường làng có nhiều tre. Tôi đi học, biết được bài thơ “Tre xanh” của nhà thơ Nguyễn Duy: “... Ở đâu tre cũng xanh tươi/ Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu...”, tôi thấy thêm yêu cây tre làng mình hơn. Câu chuyện Thánh Gióng... làng Phù Đổng làm tôi thấy càng quý cây tre vì tre giữ làng giữ nước, tre trở thành vũ khí lợi hại.
Bây giờ con đường có cây tre chỉ còn trôi về trong những giấc mơ của tôi. Nó vẫn xanh, vẫn cong cong và cao cao. Những đứa bạn thuở chân đất, đầu khét nghẹt nắng, nay, có đứa có tương lai tốt đẹp, đứa chồng con đề huề, đứa thì sấp ngửa, bạc mặt vì cơm áo, gạo tiền biết còn có ai nhớ về những ngày xưa tươi đẹp? Tôi thường nói với lòng sau những giấc mơ: “Nếu không có những nhớ thương khờ dại ấy, chắc gì ta đã yêu đời, yêu người...”.
Tạp bút: CAO MINH TÈO
Hối hận muộn màng
Ngày cập nhật: 17-08-2009
Bà Bảy hớt hải vừa đi vừa chạy, miệng la oang oảng khắp xóm tìm Loan. Tội nghiệp, đến tuổi tứ tuần, ông bà mới sinh được một mụn con, đó là Loan - đứa con duy nhất của ông bà. Có một đứa con, ruộng đất thì mênh mông làm không hết, cho nên gia đình ông bà thuộc dạng có của ăn của để chẳng cần phải làm lụng vất vả. Ông Bảy rất thương Loan, nhưng không cưng chìu. Còn bà Bảy thương ra mặt, bà luôn đáp ứng những gì Loan cần, từ nhỏ Loan không chỉ chẳng phải làm lụng mà còn muốn gì được đó. Suốt ngày, bà giữ khư khư như báu vật, mặc dù Loan đã tới tuổi cập kê nhưng bà luôn trông nom Loan từng miếng ăn giấc ngủ. Từ sáng đến tối, bà chẳng cho Loan làm việc gì, hễ ai nói động tới con bà, là y như rằng, người đó là người xấu. Bởi vậy, nhà bà lúc nào cũng vắng tanh, hàng xóm cũng chẳng ai đến chơi, sợ lỡ miệng nói ngay cục cưng của bà thì phiền phức. Tính thương con của bà vô tình đã để Loan chẳng có nổi một bạn thân cho ra hồn. Từ đó, Loan cũng trở nên ích kỷ, xem thường những người xung quanh mình.
Thuộc hàng khá giả, lại là con một, nên Loan mong mau chóng thi đậu tốt nghiệp cấp ba rồi có cớ để đi xa cái xứ quê mùa bùn đất này. Ý định của Loan đúng như cô dự đoán, khi nhận được giấy báo đậu tốt nghiệp, cô nhất quyết với ông bà Bảy:
- Con muốn đi thành phố tiếp tục học để làm thông dịch viên như trong vô tuyến vậy, còn được đi máy bay khắp nơi trên thế giới nữa.
Nghe con nói, ông Bảy đang uống trà giật mình:
- Cái gì, học đặng đi thế giới hả? Con có nằm mơ không vậy con?
Thật ra, ông biết tính tình của con ông. Từ bé tới lớn, Loan chưa từng đi xa, lại được bà Bảy cưng chìu muốn gì được nấy. Bản thân còn lo chưa xong, ông sợ không có ông bà ở cạnh bên, Loan sẽ bị lừa gạt.
Bà Bảy đang xếp đồ, nghe ông lớn tiếng với Loan, bà bênh:
- Ai nói con tôi học không được, cả xóm này ai học hơn nó? Nó thi đậu cấp ba rồi còn gì...
- Phải rồi, nó đậu tốt nghiệp là nhờ mướn hết thầy này đến cô nọ kèm cho nó, chứ có phải năng lực thực sự của nó đâu. Nó chỉ có ăn với học, còn con người ta làm thuê làm mướn là chính, học chỉ là phụ mà còn đậu cao hơn nó - ông Bảy nóng giận đứng dậy đi ra ngoài.
Loan nghe ông bà nói chuyện, biết chẳng ổn, xuống nước nhỏ năn nỉ bà Bảy:
- Con không biết đâu, con muốn đi... sao này con sẽ lập nghiệp trên đó thì sao, rồi mua nhà, mua xe đẹp rước ba má lên ở với con. Con chán cảnh sống ở đây lắm rồi. Ở đây, biết chừng nào mà phát triển.
Những lời năn nỉ ỉ ôi của Loan, làm bà Bảy xiêu lòng chìu theo ý con, nhưng không biết phải nói với ông Bảy ra sao. Cuối cùng, vì thương con, bà quyết định lén ông Bảy cho Loan đi rồi bà cho ông Bảy hay sau. Bà cố tình đặt ông vào tình thế đã rồi. Thế là xong.
Từ ngày Loan ra đi, phần buồn vì con không nghe lời bỏ mình đi, phần buồn vì vợ qua mặt mình, ông suốt ngày la cà hàng xóm lúc chơi cờ, lúc bày ra nhậu nhẹt từ sáng tới tối. Ruộng vườn cho người khác mướn hết, bà Bảy cũng rảnh rang ở nhà chờ đợi tin của Loan. Hàng tháng, bà gửi tiền đều đặn cho Loan. Lúc đầu, cách ngày là Loan gọi điện về nhà thăm ông bà. Rồi một tuần... một tháng... Loan mới gọi về xin tiền.
Nhưng cả mấy tháng nay, không nhận được điện thoại của Loan “Học cũng phải có nghỉ hè chứ, không thì cũng phải gọi xin tiền...” - bà lầm bầm. Bà nghĩ, chắc Loan bận việc học quá nên quên gọi, thây kệ. Không đợi được nữa, bà định kêu ông Bảy về tính ngày mai khăn gói lên tìm Loan, thì ngoài ngõ tiếng chó sủa báo có khách. Bà vội vàng bước ra, thì ra Loan của bà đã về, nhưng sao nhìn con bà hôm nay tiều tụy quá. Bà ôm chầm lấy con mà khóc lấy khóc để, không để ý gì đến mấy anh công an đi cùng.
- Mấy chú ở đâu sao đến nhà tui chi vậy?
Tiếng ông Bảy về làm bà giật mình, nhìn thấy công an, linh tính chuyện chẳng lành, bà hỏi dồn.
- Mấy chú đi cùng con tui hả? Có chuyện gì không?
Một trong ba anh công an đi cùng lên tiếng:
- Chúng tôi phụ trách đưa cô Loan về địa phương giao cho gia đình, cô ấy đã bị người ta lừa bán qua biên giới, nhưng được lực lượng biên phòng phát hiện và hôm nay chúng tôi đưa cô ấy về với gia đình.
Như sét đánh ngang tai, ông Bảy ngà ngà men rượu bỗng tỉnh queo:
- Anh nói cái gì? Con tôi bị lừa bán hả? Trời ơi, sao ra nông nỗi này...
- Lục giấy tờ mới biết cô Loan ở đây mà đưa về cho gia đình - Anh công an lên tiếng, rồi từ giã ra về.
Loan chỉ cúi gầm mặt xuống đất mà khóc, ông bà hỏi gì Loan cũng không nói, chỉ biết khóc và khóc... Hôm sau, như hoàng hồn, Loan từ từ kể lại chuyện bị lừa.
***Lúc đầu lên thành phố chân ướt chân ráo chẳng quen ai, Loan tìm mấy đứa bạn học cùng trường của Loan để rủ nhau ở chung cho có bạn. Mấy tháng đầu do xa nhà, lại cùng quê nên cả bọn thương nhau, chăm sóc cho nhau như chị em. Từ đó, tin tưởng nhau, chuyện gì cũng kể cho nhau nghe. Sau đó, biết gia đình Loan thuộc dạng có của ăn của để nên bọn chúng có ý định lợi dụng, lừa lấy hết đồ đạc của Loan. Nơi xứ lạ quê người, chẳng biết phải làm sao, về quê thì sợ hàng xóm chê cười, cha mẹ la mắng, nhất là Loan sợ ông Bảy, vì Loan đã trốn đi. Loan tìm mấy bạn học chung với Loan để xin ở nhờ, nhưng được vài ngày thì cũng phải ra đi. Giờ ra tình cảnh này, cái ăn hàng ngày còn chưa đủ lấy chi đi học. Loan quyết định xin vào làm tiếp viên của một quán cà phê gần trường, một buổi đi làm, một buổi đi học. Dần dà, Loan quen được Hải, Loan choáng ngợp với phong cách lịch lãm và ga lăng của Hải, phần vì Hải là con của một giám đốc - Hải tự giới thiệu. Những tưởng, ước mơ của Loan sẽ thành sự thực khi quen Hải, cho nên Loan chẳng ngần ngại đến ở với Hải bằng tất cả linh hồn lẫn thể xác. Nhưng khi đề cập đến chuyện cưới xin, thì Hải phớt lờ đi chuyện khác, nào là do công việc quá bận, nào là cha mẹ Hải ở nước ngoài công tác không về được... Bẵng đi một thời gian, Loan biết mình đã có thai với Hải, Loan vui mừng vì nghĩ Hải sẽ vì đứa con mà cưới Loan. Ai ngờ, khi nói có thai, Hải thay đổi như trở bàn tay:
- Có thai hả? Mà có thai với ai?
- Thì có thai với anh, chớ với ai... - Loan giận tím mặt.
- Thôi, xin lỗi em... Anh mới về mệt quá. Em chuẩn bị đi, ngày mai anh sẽ đưa em về quê, anh sẽ xin hỏi cưới em, cho em có danh có phận với người ta, không để cái bụng ngày một lớn lên thì tội nghiệp em, xóm giềng cười cho...
Đêm đó, Loan không ngủ được vì vui mừng, sẽ hãnh diện biết bao khi Loan về bằng xe hơi và có người chồng đẹp trai, lịch sự lại là con của giám đốc, rồi cha mẹ Loan sẽ nở mày nở mặt với hàng xóm láng giềng... Nào ngờ, cái ngày Loan mong đợi để được về quê lại là ngày Loan bị Hải lừa bán qua biên giới, mà Loan nào hay biết. Đến khi Hải bị công an chặn xe và còng tay dẫn đi, Loan mới biết rằng, Hải là một kẻ chuyên lừa bịp, dụ dỗ những cô gái nhẹ dạ như Loan rồi bán qua biên giới. Loan hụt hẫng thật sự, thần trí cũng bấn loạn không nói gì cho đến khi được đưa về nhà.
Bà Bảy khóc rào lên thảm thiết “Trời ơi, tôi làm sai chuyện gì, sao con tôi phải tủi nhục như vậy?”. Đến lúc này, ông Bảy cũng an ủi bà: “Thôi con đã về được tới nhà bình an là đã may lắm rồi, đây là bài học cho con cũng như cho vợ chồng mình...”.
Mắt nhìn xa xăm về một vùng trời vô vọng, Loan ngồi thẩn thờ trước hiên nhà như cái xác không hồn. Rồi đây, cô sẽ phải sống sao với cái bụng mỗi ngày một lớn, Loan cảm thấy hối tiếc cho một đời con gái đã trao lầm cho một gã sở khanh; hối hận vì không nghe lời ông Bảy, hối hận vì những chuyện đã qua... nhưng, mọi chuyện đã muộn màng...
Truyện ngắn: KHIẾT TÂM
Ăn cua
Ngày cập nhật: 05-08-2009
“À ơ... Gió đưa gió đẩy. Về rẫy ăn còng. Về sông ăn cá... ờ... về đồng ăn cua...”. Câu hát ấy mẹ tôi thường hát ru cho anh em tôi ngủ trên cái võng đong đưa mà tôi không thể nào quên.
Con cua đồng gắn liền với tuổi thơ ấu của tôi ở một góc trời quê. Trong tiềm thức của tôi, con cua đồng có hai kỳ dị: tám cẳng - hai càng, đi ngang về dọc. Trong dân gian, con cua mang tiếng xấu cũng có mà mang tiếng tốt cũng có: “Người ngang như cua”, “Nghèo như cua sáng trăng”, hoặc “Bạc như cua cái”... Nhưng thực tế, con cua vẫn hữu ích cho đời, nhất là những gia cảnh nghèo ở thôn quê, túng quẩn thì mò cua, bắt ốc, hái rau.
Xưa nay, người miệt đồng chế biến rất nhiều món ăn cực kỳ hấp dẫn từ thịt cua đồng. Tôi không thể nào quên được món canh cua đồng nấu lá mồng tơi tuyệt diệu, mà mẹ tôi thường nấu cho chúng tôi ăn. Quanh nhà tôi lúc đó trồng nhiều loại rau để ăn từ ngò, hành, ớt, cà; bầu, mướp cho đến giàn mồng tơi ngoài hàng rào quanh nhà. Thử tưởng tượng, mồng tơi leo giàn mịt kín và tươi non, ai thấy mà không thèm món ấy. Sau giờ tan học ở trường làng, tôi và thằng em hay đi móc cua. Những con cua mang về từ đồng còn tươi rói, mẹ mần cua sạch sẽ và gỡ gạch cua ra để riêng vào chén. Còn tôi thì lấy cái cối đá nhỏ để giã cua ra cho nhuyễn. Giã xong, mẹ lấy nước mưa lọc thịt cua đồng để nấu canh. Mẹ bắc nồi nước cua lên bếp, ngọn lửa củi cháy liu riu và nước từ từ sôi lên. Thật lạ lùng, cái nước cua đen đục ấy khi nước bắt đầu kêu nồi sôi lên thì lại trong veo và thịt cua bắt đầu nổi lên với màu nâu xanh hấp dẫn. Mẹ lấy gạch cua phi trong cái chảo nhỏ với mỡ, hành, tỏi, đường, bột ngọt, sao cho vừa ăn để bỏ vào nồi canh. Kế tiếp là bỏ vào nồi một rổ lá mồng tơi tươi mọng. Trong phút chốc nhắc nồi canh cua xuống, cả nhà quây quần bên nồi canh cua lựng khói, ăn với “cơm lúa mùa” ngon làm sao. Hôm nào, hết lá mồng tơi thì nhà tôi quay sang ăn bầu, ăn mướp. Canh bầu, canh mướp nấu với cua đồng thì ăn cũng “đã miệng” không kém so với lá mồng tơi.
Bây giờ ở miền Tây, cứ từ tháng năm, tháng bảy hàng năm là bắt đầu vào mùa mưa dầm Hạ chí nên con cua đồng cũng sinh sôi phát triển cho đến tận mùa lũ. Lúc đó, người dân có thể đặt lờ để bắt cua ăn. Ngày nay, thịt cua đồng được chế biến nhiều món như bún riêu cua, cua đồng rang me, bánh canh cua; cháo cua... khá đơn giản, ngon và quá đỗi quen thuộc với người sành điệu ẩm thực miệt đồng.
Cua đồng phá hoại mùa màng thì người ta cho rằng nó xấu quá. Khi cua đồng được chế biến ra nhiều món ăn thì nó trở nên có giá! Cua đồng bây giờ trở nên hiếm, khi người ta cấy trồng cây gì cũng dùng thuốc hóa học. Một thời thơ ấu, tôi với đám bạn trong xóm hay bắt cua đồng về luộc, nướng thơm lừng và cùng nhau nhai cua, ngọt lịm.
Tạp bút: THÀNH ĐƯỢC
Bến sông
Ngày cập nhật: 17-07-2009
Bến sông luôn là nỗi nhớ của những kẻ xa quê. Bến sông đi vào thơ ca bàng bạc, khắc khoải, nhớ nhung. Những câu ca gợi nhớ luôn thấp thoáng bóng dáng ai đó rất gần gũi, rất thân thương:
“Sông quê nước chảy đôi bờ
Để anh chín dại mười khờ thương em”
Bến sông quê tôi không có người thương nào đứng đợi hay nhớ mong như của Đinh Trầm Ca, bến sông quê tôi chỉ có người mẹ và một người bạn thuở ấu thơ mà suốt đời tôi vẫn không sao quên được...
Chúng tôi cùng lớn lên trong một xóm nghèo cạnh bờ sông Phong Điền. Tôi và Quý bằng tuổi nhau nên gọi nhau bằng tên. Chúng tôi hợp tính nhau lắm, đi đâu Quý cũng rủ tôi đi theo. Lúc thì ra vườn hái ổi, hái xoài, lúc thì hai đứa bắt chim sẻ về nuôi, rồi lại cất công đi bắt châu chấu về mớm cho nó. Tội nghiệp mấy con chim non, không có mẹ ấp, chúng chết dần chết mòn. Thấy tội nghiệp quá nên tôi nói với Quý là đừng bắt nữa, mẹ nó mất con sẽ buồn như mẹ mình mất mình vậy. Quý nghe lời tôi không leo cây bắt chim, nhưng lại rủ ra sông leo cây hái trâm, hái bần. Kiến vàng cắn gần chết mà có được bao nhiêu đâu, về còn bị mẹ la vì để trâm dính áo giặt không ra. Những lúc chơi năm mười hay tạt lon Quý đều bắt phụ tôi, không có Quý tôi bắt đừ luôn. Hầu như trò chơi nào có Quý là có tôi, bởi vậy, dù là con gái nhưng tôi quậy cũng thuộc hàng “sao”. Gia đình Quý là dân sông nước nên thỉnh thoảng lại theo ba đi đăng, vài ba ngày mới về nhà một lần, mỗi lần về lại dành cho tôi những con cá ngon nhất, “nè, ăn đi cho mau lớn!”. Mà lớn để làm gì? Tôi thích bé xíu như vầy để còn được đi tắm sông, đi bắt cua, bắt còng khi nước ròng hay đi câu cá bống khi nước lớn.
Ở xóm tôi nhà nào cũng quay mặt ra sông hứng làn gió mát rượi từ ngoài sông cái thổi vào. Buổi trưa đi học về là tôi lại ôm chuối ra sông tắm. Cả đám nhóc, đứa thì can nhựa, đứa thì bánh xi chơi đủ thứ trò, khi chán rồi thách nhau bơi đua qua sông. Tôi biết lội từ lúc năm tuổi, cũng uống nước no nê, cũng bầm giập bao phen vì bị nhận nước.
Tôi rất thích đứng bên kia sông vào lúc trời chiều để nhìn về phía nhà tôi lắm. Trong ánh hoàng hôn bảng lảng - lúc đêm chưa đến và ngày chưa qua - trời ngả sang màu tím sậm. Những giọt nắng cuối chiều còn sót lại trên cây, chiếu xuống sông những tia sáng lấp lánh. Ngôi nhà tôi thấp thoáng dưới rặng dừa xanh trong ánh sáng nhập nhòa ấy, bất giác chợt cảm thấy yên bình và nên thơ sao ấy.
Rồi chúng tôi lớn lên, đứa bận đi học xa, đứa lo việc mưu sinh nên không còn thời gian rong chơi như trước. Gia đình Quý phải đi đăng xa để sinh nhai, nên cả nhà cũng dọn theo ghe đăng. Ngày đi, con thuyền bồng bềnh xa đôi bờ vời vợi, cái vẫy tay buồn tênh...
Chiều nay, tôi lại ra bến sông, bến vắng lặng không một bóng người. Bây giờ thì nhà ai cũng quay mặt ra lộ, xe chạy vù vù. Không ai thấy tôi đứng đấy để tìm về kỷ niệm. Nước sông đang lớn, gió thổi càng lúc càng mạnh báo hiệu một cơn mưa lớn. Từng đám lục bình nhấp nhô trên sông, tôi chợt nghĩ: “Phải chi có ai hái cho mình những cành hoa tím buồn ấy!”.Sóng cứ vỗ dập dồn xô mãi, xô mãi đơn côi...
Tạp bút: CAM MẬT
Nước son
Ngày cập nhật: 26-08-2009
Tháng bảy âm lịch, nước son nhuộm hồng kênh xáng Xà No. Những cơn mưa dầm thúc giục nước từ thượng nguồn đổ về cuồn cuộn. “Nửa năm nắng hạn, một mùa nước dâng” là đặc trưng khí hậu của miền Tây. Hễ nhìn thấy nước son dưới kênh rạch thì biết ngay mùa lũ đã về.
Thiên nhiên kỳ vĩ vốn đã kiến tạo địa hình để hàng năm những hạt bùn từ miền viễn xứ Tây Tạng, từ nước Lào, từ cao nguyên Trường Sơn theo dòng lũ viễn du về nhuộm son cho dòng Cửu Long Giang. Hàng trăm loài cá, tôm sinh sôi phát triển nhờ dòng nước son giàu phiêu sinh. Sau mùa lũ, hàng triệu tấn phù sa bồi đắp ruộng vườn làm nên những mùa bông, trái oằn sai. Từ ký ức đến hiện hữu, trong tôi lũ luôn luôn thân thiện: Tháng ba mưa đầu mùa, rồi tháng tư khi trời xuất hiện những cơn mưa dầm là mùa bọn trẻ quê tôi đi bắt cá lên đồng. Tháng năm, sáu đứa nào cũng tất bật chuẩn bị ngư cụ vào mùa câu, lưới hay đi đặt lờ bắt cá rô tôm tích (cá rô non), cá sặt. Tháng bảy đặt vó vớt cá linh non, tháng tám, chín thả xuồng trên sông giăng lưới bắt cá linh ống hoặc bẹo lúa vợt cá mè vinh. Ban đêm bè xuồng đi soi cá, giăng câu, đặt trúm. Tháng mười đi câu cá rô mề... Gần như suốt bảy tháng mùa nước nổi là mùa phồn thực nhất trong năm.
Người ta nói, dân miền Tây mới mở mắt chào đời đã nghe nước chảy dưới chân. Cũng có lý, nhưng có người lại nói, gần mười bảy triệu dân của xứ sở này và hơn năm triệu cư dân Sài Gòn được sung túc như hôm nay là nhờ những mùa nước son về no nóc sông Tiền, sông Hậu! Nước son lên ngập kênh rạch, tràn vào ruộng đồng, tràn ra cả chín cửa sông chảy về biển. Nước son là tài nguyên thiên nhiên kiến tạo nên vựa lúa, vựa cá, vựa trái tại vùng châu thổ chín rồng này. Các bậc lão niên nói rằng, năm nào nước son càng “quạu” thì năm đó đồng ruộng trúng mùa, cá mú thu hoạch “oằn tay”! Thường niên, nước son về chậm một tháng thôi thì nhà nông miệt châu thổ Cửu Long này lo ngay ngáy: Lo thất mùa, đói kém! Thử hình dung một năm không có nước son về...?!
Rất có thể trong đôi mươi năm nữa Đồng bằng sông Cửu Long sẽ không còn mùa nước son khi hàng trăm con đập thủy điện ở bên Trung Hoa, bên Lào, bên Thái và Campuchia đang dần mọc lên. Viễn cảnh cạn kiệt tài nguyên không còn là dự báo khi lũ trẻ đồng quê con cháu tôi hiện không còn được mùa cá mú “nhóc nhách” như thuở tôi còn nhỏ. Ai cũng biết lối canh tác ưa dùng thuốc hóa học và khai thác lạm sát là một trong những nguyên nhân cộng hưởng làm diệt chủng dần các nguồn lợi thủy sản. Nhưng có lẽ, khủng khiếp nhất là dự báo một phần ba đất Đồng bằng sông Cửu Long sẽ ngập chìm trong nước mặn khi các biến đổi khí hậu ứng tác.
Tới chừng đó liệu có còn những cánh đồng lúa vàng ngút mắt? Có còn những vườn cây trái trĩu quả? Chừng đó, có còn được nghe tiếng cá đớp móng dưới đìa hay quẫy nước lúc mắc câu... khi mùa nước son không còn về lại quê tôi ?
Tạp bút: ĐỖ THÀNH
Ổ bánh mì của nội
Ngày cập nhật: 18-09-2009
Trời mưa lâm râm. Một ông lão lưng còng như dấu chấm hỏi, thân gầy gò, tay cầm một cành cây khô làm gậy và túi ni-lông đang cố nhấc từng bước đi thật nhanh qua dốc cầu khá cao. Chốc chốc có những cơn gió xoáy, lốc mạnh vào làm ông lão xiêu xiêu. Dòng người tấp nập, hối hả đua nhau chạy nhanh về nhà. Ông lão vẫn cứ đi mải miết về cuối ngõ. Chợt, lòng tôi thấy thôn thốn, chạnh lòng... Trông bóng dáng ông khuất dần cuối hẻm, tôi chợt thấy giông giống bóng dáng ông nội tôi, nhưng ông tôi đã đi rất xa...
Ông tôi cũng trạc tuổi ông lão ấy, cũng gù lưng, chân chất và quê mùa. Khuôn mặt ông rất phúc hậu, những nốt đồi mồi bao lấy làn da đen sạm vì nắng. Ông rất thương và luôn cưng chiều anh em tôi. Nhà ông ở nơi rất xa nhà tôi, một năm anh em tôi về thăm ông chỉ được một lần - đó là ngày hè. Anh em chúng tôi rất thương ông, tuy mắt mờ, tay run nhưng ông vẫn thường xuyên lên thăm anh em tôi. Mỗi lần lên thăm, ông không quên mua những ổ bánh mì nóng giòn thơm phức - món khoái khẩu của ông cũng như của anh em tôi. Tuy bánh mì ở đâu cũng vậy, nhưng đối với tôi, bánh của ông có vị rất đặc biệt, rất lạ... hình như có cả vị tình yêu.
Còn nhớ, lúc tôi lên mười tuổi, chuẩn bị năm học cuối, thi chuyển lên cấp hai. Mẹ tôi cho tôi học thêm các môn phụ đạo hè, nên anh em tôi không được về thăm ông. Thế là, mùa mưa dầm tháng tám, năm ấy tay xách nách mang, ông lần dò bắt xe đò, rồi đội hết đám mưa tìm kiếm cả ngày mới đến được nhà tôi. Bởi nhà tôi đã chuyển nhà khác để tiện cho việc học của anh em tôi. Đến nhà, cả người ông ướt sủng, run run vì lạnh, nhưng miệng ông cười rất vui. Ông ôm chầm lấy tôi hít hà, tôi biết ông rất lạnh. Chốc lát, ông lấy trong giỏ xách ra nào là “Bánh ú của bà gói, mấy trái ổi sau vườn, ngọt lắm...” và sau cùng là những ổ bánh mì “bầm giập” vì mắc mưa, dẹp như con khô cá đuối. Trời mưa đã làm những ổ bánh nóng giòn thơm phưng phức của ông trở nên như thế. Vậy mà anh em chúng tôi rất vui, rồi ông cháu đem ra vừa nhai nhỏm nhẻm vừa cười khúc khích. Ông dạy cho tôi biết rằng, lương thực rất quan trọng, vì nó là nguồn sống của con người. Phải biết tiết kiệm, đừng hoang phí cho dù đó là món ăn tầm thường như ổ bánh mì và còn phải biết chia sẻ lương thực cho người đói khát. “Một miếng khi đói bằng một gói khi no mà con” - đó là câu tôi nhớ mãi.
Ngày nay, người ta đã chế biến những món ăn kèm bánh mì rất nhiều, rất ngon và bổ dưỡng, nhưng tôi vẫn không quên những ổ bánh mì thơm phức của ông. Giờ đây, ông không còn để mua những ổ bánh nóng giòn cho anh em tôi nữa. Mỗi lần về quê, tôi không quên mua bánh mì về cúng ông, thắp cho ông nén nhang và nói với ông rằng “Con nhớ mãi lời ông dạy, ông ơi !”
Tạp bút: KHIẾT TÂM
Ký ức U Minh hạ
Ngày cập nhật: 16-09-2009
Đã có thời U Minh hạ quê tôi được xem là “vương quốc cá đồng”, một vinh dự ít nơi nào có được, nhưng bây giờ thì “cư dân” của “vương quốc” ấy ngày càng thưa thớt, thậm chí có nhiều loại đã không còn. Cá đồng U Minh hạ bây giờ đã thành “của hiếm”. Nhà tôi ở ngay cạnh rừng tràm thế mà vẫn phải mua cá đồng ăn thường xuyên. Vậy còn may mắn lắm, ngoài chợ bày bán la liệt nào cá rô, cá lóc nhưng đã mấy khi được nếm hương vị thật của cá đồng.
Ở cái miệt Lung Tràm này, ông ngoại tôi được mệnh danh là “Vua đặt vó” bởi ông có tài sát cá lắm. Ông ngoại đặt vó quanh năm và lúc nào cũng có cá, dù ít dù nhiều. Cá nhỏ thì ông thả vô rừng, cá lớn thì làm khô, làm mắm. Đến mùa gặt hay giỗ quảy thì đem ra dùng. Bởi vậy, khi ông ngoại còn sống, ở nhà ít khi nào phải cực ăn.
Trong các món ăn chế biến từ mắm cá đồng thì món khoái khẩu của ngoại vẫn là lẩu mắm trong xáng lẩu (có nơi còn gọi là cù lao). Cũng chẳng phải là cao lương mỹ vị gì, nhưng lẩu mắm thì không thể nào thiếu rau rừng được. Mỗi lần làm lẩu mắm tôi thường được phân công đi kiếm rau rừng: rau muống đồng, mồng tơi, rau đắng, quế, bắp chuối, cù nèo, rau cần, khế chua là những loại rau không thể thiếu được khi ăn lẩu mắm. Mùi mắm thơm nồng, mặn mòi, phi mỡ tỏi thơm phức nhúng ít rau, xuýt xoa cắn trái ớt hiểm và vô miệng một ít cơm trắng nóng hổi thấy tê rát đầu lưỡi nhưng thật đậm đà.
Tôi thích nhất vẫn là món mắm lòng, trứng cá. Những con cá lóc bự chảng được lấy lòng, trứng vàng tươi đem đi làm mắm riêng. Món này đặc trưng ở vị béo, dai và không quá mặn. Thò tay vô hũ bốc ra bộ đầu lòng chưa ăn đã muốn chảy nước miếng: Bộ đầu lòng thấm đường đỏ au cộng với mùi thơm lừng của thính, khi ăn cứ muốn để lừng khừng nơi thực quản mà không muốn nuốt như để cảm nhận hết cái ngon, cái đậm đà của món ăn chỉ vùng này mới có. Vì đây là món đặc sản nên chỉ dành riêng cho ngoại. Còn với ngoại tôi, chắc chắn hũ mắm nhỏ xíu ấy là của tôi.
Mùa khô, rừng U Minh hạ có cảnh báo cháy rừng cấp 4, cấp 5, với lời cảnh báo trên đài là: “Cực kỳ nguy hiểm”. Chỉ với một đám cháy nhỏ cũng đủ để trở thành vấn đề lớn rồi. Những lần có đám cháy rừng dù lớn hay nhỏ là thanh niên và bà con trong xóm được huy động rất đông để đi chữa cháy. Nhà tôi khi ấy có nhiệm vụ là nấu cơm “tiếp tế”. Bữa cơm không có gì ngoài chảo mắm kho thật lớn ăn với rau sống mà mọi người ăn thấy ngon lành.
Những lúc ấy, ông ngoại ngồi nhâm nhi uống nước trà chỉ cười khà khà “Ăn mắm thấm cơm”.
Quay lại U Minh giờ đây, thấy buồn quay quắt, cuộc sống người dân chắc cũng khá hơn nhưng vẫn lẩn quẩn trong chữ nghèo... Mẹ tôi giờ đã sáu mươi mà còn lụm khụm lo cơm lo nước. Biết ý tôi, nên lần nào về, bữa cơm đầu tiên không thể thiếu món lẩu mắm. Từ nhà trên nghe mùi thơm lừng, tôi chạy xuống, hỏi mẹ làm mắm khi nào mà có ăn sớm vậy. Mẹ mỉm cười méo xech “Mắm Châu Đốc đó mày”.
Tạp bút: HOÀNG NGUYÊN
Ký ức theo cùng
Ngày cập nhật: 10-07-2009
Vượt qua bậc trung học cơ sở ở một làng quê nghèo khó, tôi vào bậc trung học phổ thông. Trường huyện cách nhà tôi hơn tám cây số đường đất. Cả năm lớp mười và lớp mười một, từ tờ mờ sáng, tôi và hai bạn nữa đã lội bộ đến trường. Những ngày trời mưa, đường trơn, bùn ngập gối, má tôi lấy những tấm cao su trong bao phân dùng bón lúa để tôi che đầu cho đỡ ướt. Không biết sức mạnh nào đã nâng bước tôi. Lúc đó, tôi chưa rõ ràng lắm về ý chí. Chắc chắn có một điều ảnh hưởng, động viên rất lớn trong tôi là vào những buổi sáng tinh sương, má tôi đã chiên sẵn cơm, tôi chỉ việc ăn rồi đi cho kịp. Tôi nhớ rất rõ, nhà không có mỡ, không có dầu thường xuyên nên những khi má tôi làm thịt gà mái đã để dành mỡ để chiên cơm! Cơm chiên mỡ gà có một hương vị rất đặc biệt! Sáng nào, má tôi cũng đưa tôi và hai bạn tôi sang sông - trên chiếc ghe tam bản chòng chành - rồi mới đi bộ đến trường. Có hôm ghe quay về một mình má tôi trên dòng sông dày đặc lục bình! Nhìn thấy thế, tôi thương má vô cùng.
Đến năm lớp mười hai, tôi được má tôi dành dụm mua cho chiếc xe đạp cũ. Tôi phải chạy đi chạy về bốn lượt vào những ngày học hai buổi. Những ngày trời nóng, trên đường về, thì hai món cốm bắp và đá lạnh đã trở thành rất quen thuộc với tôi. Ngoài ra, không biết chi là xa xỉ nữa! Chưa hết niềm vui vì đậu tốt nghiệp trung học phổ thông - thời ấy quý lắm! - đến ngạc nhiên khi hay tin đỗ vào đại học, ngành cử nhân Anh văn. Bốn năm học đại học, lo nhiều hơn vui, cái lo cơm áo gạo tiền. Nhà tôi vốn khó ngày càng khốn khó! Có điều má tôi luôn hy sinh cho niềm tự hào khi cả xã chỉ có tôi được vào đại học. Hai bạn thân của tôi thì dừng lại bậc trung học phổ thông. Má phải chạy mượn ở các cô cậu, phải ky cóp tiền từ từng giạ lúa, con gà, con vịt, buồng chuối... để dành khi tôi về cuối mỗi tháng. Hết đi mượn đến đi vay nóng. Những món ăn cá linh, tàu hủ, cá khô mang từ quê nhà đã ở mãi trong tôi.
Ngày ra trường, tôi không về quê và quyết định trụ lại thành phố nhằm có cơ hội tiến thân. Trong thời gian chờ xin việc, tôi được mời dạy kèm Anh văn cho ngài giám đốc công ty xuất khẩu để ông giao tiếp trong làm ăn với các doanh nghiệp nước ngoài. Ông thấy tôi cần mẫn, nhiệt tình và chắc cũng vì tinh thần vượt khó pha lẫn một chút đáng thương, nên khi người trợ lý của ông sang đảm nhận chức vụ khác, ông đã gọi tôi đến phỏng vấn và được tuyển dụng. Cái khó, sự mặc cảm vẫn chưa buông tha tôi. Tôi luôn là người đến sớm và cũng là người về trễ. Không đơn giản là để lấy lòng mà... vì chiếc xe đạp cà tàng... không giống ai. Tôi đến để đậu giấu xe đạp trước một hàng dài toàn là xe Honda bóng lộn..
Tôi dịch những văn bản, hợp đồng bằng tiếng Anh và kiêm luôn phiên dịch cho ngài giám đốc. Lần lượt, tôi được đi với ngài giám đốc đến nhiều nước ở Đông Nam Á để làm ăn, thậm chí cả trời Âu. Tôi hoàn toàn xa lạ với những thang máy, sân bay, phi cơ, các món ăn ngoại quốc, xài tiền đô... Dần dà, tôi đã quen và được ngài giám đốc tin cậy, thỉnh thoảng đi một mình để ký các hợp đồng mua bán giao dịch với các đối tác.
Hiện tại, tôi khá đầy đủ về vật chất, nhưng tính cách tiết kiệm vẫn luôn hiện diện trong tôi, nhất là khi đi công tác ở nước ngoài, tôi vẫn thuê loại phòng giá mềm trong khi tôi vẫn có thể thuê phòng giá cứng. Tiết kiệm để còn gửi tiền về bù đắp phần nào cho má lúc tuổi già. Những lúc ăn ở nhà hàng, tôi vẫn không quên được hương vị mỡ gà chiên cơm ngày xưa và sẽ là mãi mãi! Lúc đi ô tô, máy bay sang trọng, tôi vẫn không quên chiếc ghe tam bản ngày xưa của người mẹ nghèo khó. Người mẹ sống hết mình vì đứa con yêu !
Tạp bút: VÕ THANH MỘNG
Cây mít
Ngày cập nhật: 01-07-2009
Với tôi, cây mít ấy là những chuỗi dài kỷ niệm.
Nội tôi nói, cây mít này được trồng từ thời ông cốc tôi. Khi tôi lớn lên, cây mít đã cao sừng sững giữa vườn, thân cây to bằng một ôm tay. Mùa đông, lá vàng rụng xuống dày cả nền đất. Mùa xuân, lá non bắt đầu ra. Đến mùa hè, lá mít xanh um tỏa mát một góc vườn.
Nội tôi chỉ tay về phía bên trái khu vườn kể “chỗ đó ngày xưa còn có hai cây “mít ướt” nữa”. Hai cây mít đó trái thật sai, múi mít ăn rất ngọt, nhưng khi chín chưa kịp ăn là chim, chuột ăn trước, khoét lỗ hôi ê ăn không còn ngon, nên ông cốc tôi giận vác búa ra đốn. Thế là trong vườn chỉ còn lại cây mít nghệ này.
Thân cây mít ban đầu chỉ nảy vài nhánh lộc như những cái mắt bé tí, sau khoảng hai ngày thì hiện ra từng đài mít, cứ tưởng rằng nó sẽ nở ra những bông hoa. Nhưng khi những lớp cánh mỏng mở tung lại hiện ra những trái mít nhỏ như những cái bóng đèn pin nhỏ bên trong. Nội tôi kêu đó là “dái mít”, nghe đến đó tôi đỏ mặt quay đi, còn thằng Tèo em tôi thì ngô nghê hỏi: Mít mà cũng có... nữa hả ông?
Chỉ sau một tuần, những cái dái mít to bằng ngón chân cái, rồi bằng cán dao, bằng con chuột cống. Xúm xít, trĩu trịt, chen nhau lớn... trái nhiều đến nỗi nội tôi phải lấy dao tỉa bớt để những trái còn lại lớn nhanh hơn. Trái mít xanh rụng quanh gốc ngổn ngang, thằng Tèo hay lượm về ăn, chẻ ra gặm gãy cả răng, nhai trẹo cả hàm mới nuốt được. Vậy mà nó ăn còn khen ngọt ngon. Những trái còn lại, nó lấy tre vuốt nhọn rồi đóng giả thành chân trâu, trái mít là thân trâu rồi kéo. Nó còn nghĩ ra một cách lấy mủ mít quấn vào đầu cây trúc khô rồi cắm cây trúc ra hàng rào. Giữa trưa, nắng như đổ lửa, có con chuồn chuồn đỏ lừ đừ bay qua thấy đỉnh sào đẹp liền sà xuống đậu, thế là bị dính chặt vào đó. Có hôm, dính chùm hai ba con chuồn chuồn ớt, chuồn chuồn chuông một chỗ, thằng Tèo khoái chí lắm!
Trên cây mít, những trái non dần to bằng cái thúng giạ, treo lủng lẳng. Có một chiều tôi và thằng Tèo chạy ra vườn thấy thơm mùi thơm “nồng nực”. Thằng Tèo la lớn: “Ơ mít chín, mít chín rồi!”. Nội tôi cầm cây sào ra gõ gõ vào những trái căng nứt. Trái nào kêu bồm bộp đó là trái chín, rồi nội cầm dao cắt mít xuống đem vô nhà ủ vào đống trấu cho mít ngọt thêm. Trưa hôm sau, bà nội lại đem ra sân xẻ. Múi mít nhờ ủ trấu hiện ra màu vàng tươi như màu củ nghệ. Bà sắp thành hai dĩa chưng lên bàn thờ. Thằng Tèo thèm thò tay bốc, bà không cho, biểu: “Phải cúng ông cốc, ông ăn rồi con mới được ăn”. Thằng Tèo lo lắng hỏi: “Lỡ ông cốc ăn hết của con rồi sao?”. Bà gõ đầu nó: “Ông cốc chỉ ăn hương hoa thôi chứ có ăn thiệt đâu mà sợ. Cây mít ngày xưa ông trồng thì bây giờ con cháu mới có ăn. Nên trái đầu mùa phải mời ông ăn trước”. Rồi nội đốt ba cây nhang đứng khấn trước bàn thờ, mùi nhang thơm phức. Tôi nhìn ra cây mít thấy lá khua rì rào trước gió...
Rồi hai chị em tôi lớn lên.
Cây mít trong vườn đã ra bao nhiêu mùa trái. Rồi ông bà nội mất, cây mít trái ngày càng thưa, chắc nó cũng quá già... Cha tôi giờ làm cho Hội từ thiện. Có lần chùa trong xã bị xuống cấp. Cha tôi trằn trọc, suy nghĩ mãi mới quyết định hạ cây mít để trùng tu chùa.
Cho đến bây giờ, mỗi năm đến mùa mít chín, mẹ tôi vẫn mua về cúng trên bàn thờ cho ông bà như ngày xưa thường làm. Và tôi vẫn nhớ như in những kỷ niệm xưa, ngày còn nguyên cây mít. Tưởng như mọi cảnh mới vừa hôm qua, tưởng như nội tôi mới vừa ra khỏi cửa....
Tạp bút: CAM MẬT
Cây bút - Cây cày
Ngày cập nhật: 19-06-2009
Một loài cây nhỏ nhắn xinh xinh, không cành không lá mà nở ra biết bao nhiêu là hoa mơ ước, kết trái lành, kết trái yêu thương, làm giàu cho tâm hồn và trí tuệ của ta. Một loài cây nhỏ nhắn xinh xinh - không phải là con thuyền, không phải là cánh buồm mà chở được bao nhiêu là tri thức cho con người, cho con người đi xa mãi, lên cao mãi - từ đời xưa cho đến đời nay, cho đến muôn đời sau nữa... Loài cây ấy chính là cây bút thân thương của chúng ta.
Cây bút làm bạn với ta từ thuở vỡ lòng. Cây bút theo ta suốt mười, mười hai năm học phổ thông. Cây bút còn theo ta lên cao đẳng, đại học hay trung học chuyên nghiệp. Cây bút còn theo ta lên cao học và còn lên cao nữa, có thể theo ta đến hết cuộc đời. Suốt cuộc đời học trò, cuộc đời sinh viên, cuộc đời sĩ tử của ta - cây bút đã bao nhiêu lần cùng ta vui buồn, ngỡ ngàng, hồi hộp, thót tim? Biết bao nhiêu ngày, bao nhiêu đêm cây bút đã cùng ta cần mẫn cày trên cánh đồng của tri thức ?
Nhiều người bảo cây bút như một cái cày. Đúng thế! Cái cày bút quanh năm trọn đời chăm chỉ cày trên những thửa ruộng tri thức không có trang cuối cùng, không có dòng cuối cùng, không có đường cày cuối cùng và gieo cấy trên những thửa ruộng ấy những mùa màng của mơ ước, của niềm tin văn minh hạnh phúc.
Nhà văn, nhà báo thực chất cũng là những người đi cày, là những người “thợ cày” trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Người thợ cày trước hết phải có lý tưởng. Những đường cày của họ phải luôn luôn hướng về phía mùa màng. Mùa màng của người nông dân là lúa, ngô, khoai, sắn, đậu,... Mùa màng của nhà văn, nhà báo là những tác phẩm có tính Đảng sâu sắc, tính khoa học, tính quần chúng, có nghệ thuật cao nhằm phục vụ kịp thời, phục vụ đắc lực cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ, mỗi nhà văn nhà báo phải chịu khó lao động, lao động hết mình, phải không ngừng học tập tu dưỡng, rèn luyện mọi mặt, từ chuyên môn nghiệp vụ đến đạo đức tác phong, phải phấn đấu trở thành những người “thợ cày” thật giỏi trên mặt trận tư tưởng và văn hóa.
Rèn luyện “tay cày”, rèn giũa cho đường cày không cong queo, ngoằn ngoèo, đi đúng hướng phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân luôn luôn là nhiệm vụ hàng đầu của những người thợ cày trên mặt trận văn hóa tư tưởng.
Cùng với lực lượng hùng hậu là công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức, các nhà văn, nhà báo của chúng ta đang đêm ngày chăm chỉ cày trên cánh đồng đất nước để gieo cấy những mùa màng của ấm no, của tri thức, của van minh hạnh phúc trên đời.
Tạp bút: PHẠM MINH GIANG
Tiếng quê
Ngày cập nhật: 12-06-2009
Có phải nguồn mạch, khí thiêng, hạt cơm, rau quả của đất quê đã tạo nên sắc thái riêng biệt của tiếng quê từng vùng miền? À... cái ngữ điệu ấy, cái tiếng nói ấy cũng tự nhiên thôi, riêng ấy mà cũng rất chung. Bởi ấy là tiếng Việt! Mang dòng máu Lạc Hồng, sống trên dải non sông hình chữ S bên bờ biển Đông không ai là không hiểu tiếng quê mình, dân tộc mình. Khi có dịp đến một vùng miền nào đấy, buổi đầu bỡ ngỡ bởi tiếng nói địa phương nghe lạ tai, và chắc không ít lần phải nhốt tiếng cười trong lòng, nhưng qua vài lần tiếp xúc đã hiểu để có được sự giao hòa. Ngẫm mới thấy cái sự giao hòa của tiếng quê thật diệu kỳ, hiểu để đi đến một khối thống nhất là một phần nền tảng tạo nên sức mạnh Việt Nam, để thấy tự hào được làm người Việt Nam, nói tiếng Việt Nam.
Tùy tâm trạng, có thể là một áng mây chiều, một đỉnh núi, một làn khói, một mùi vị... làm thức dậy tình yêu quê trong ta. Nhưng chắc chắn rằng tiếng quê là tác động mạnh nhất. Tiếng quê ta có thể là rất “nặng” hay “thanh” cũng cho ta một tình cảm dạt dào. Bởi tiếng quê là tiếng mẹ ru nuôi lớn dần tâm hồn ta đến khi trưởng thành; bởi là tiếng của thuở thiếu thời đã chạm khắc nên kỷ niệm để ta nhớ, ta yêu đến trọn đời. Trong một đời người, có lần phải xa quê, bôn ba dặm đường, lạ cảnh, lạ người, chợt nghe được tiếng nói của người cùng quê. Ôi...! Sao nghe mà mến, mà thương. Có thể ta với người cách xã, cách huyện vẫn thấy mến thương như anh em một nhà. Ôi... thương sao chất giọng quê hương!
Hôm nay, thời mở cửa hội nhập, đã tạo cơ hội cho những đứa con xa quê quay về. Đứng trên đất quê hương bao năm xa cách, bồi hồi thu vào tầm mắt sắc màu của quê hương, cảm nhận được sự đổi thay vẽ nên sắc màu thịnh vượng. Nhưng hơn hết vẫn là được đắm hồn giữa tiếng mẹ đẻ thân thương...
Mở rộng tầm nhìn để thấy thêm yêu, thêm quý tiếng quê hương. Nơi hải ngoại xa xôi, tinh thần dân tộc qua tiếng Việt vẫn được cộng đồng người Việt gìn giữ phát huy để những đứa trẻ sinh ra vẫn nói được tiếng nước mình. Những chương trình sinh hoạt, học tập để giữ gìn tiếng Việt vẫn được tổ chức thường xuyên. Và thật tự hào khi có những trường đại học danh tiếng trên thế giới đã có bộ môn tiếng Việt giảng dạy cho sinh viên. Do vậy, tiếng Việt, văn hóa Việt đã có được vị trí nhất định, được quảng bá cùng các tiếng và nền văn hóa khác trên thế giới.
Việt Nam! Tiếng Việt! Ta tự hào khi ta đang nói tiếng quê hương.
Tạp bút: TRẦN XUÂN THỤY
Cái cà ràng của bà
Ngày cập nhật: 11-06-2009
Chiều nay, cơn mưa như trút hết nước xuống lòng thành phố. Tôi dựng xe và ghé vào một quán cháo lòng nhỏ bên đường. Bỗng ánh lửa lập lòe của những tổ than đá, tôi cảm thấy lòng nhớ thương man mác. Ánh lửa đỏ ấy kéo tôi trở về những ngày xa xưa. Hình ảnh của bà bên chiếc cà ràng cũ kỹ hiện ra như in trong tâm trí của tôi.
Nhớ hồi còn tí xíu, cứ vào bốn, năm giờ sáng, bà tôi thường thức dậy sớm để nấu bữa sáng cho cả nhà. Hình ảnh của chiếc bếp lửa đỏ rực đã thành thân quen đối với tôi. Cái chái bếp của bà tôi nhỏ đơn sơ. Mái lá sẫm màu khói đen sì. Bên dưới kê hai chiếc cà ràng cũ kỹ. Nhưng trông khuôn bếp thật ngăn nắp, trật tự. Mái tóc bạc phơ của bà cứ thấp thoáng bên bếp lửa bập bùng. Bà bắc nồi cơm lên cà ràng. Bà dùng một thanh củi nhỏ đùa tro ra hai bên, khéo léo đặt củi vào, rồi với một nắm lá dừa khô mồi lửa. Thỉnh thoảng, lửa không cháy. Bà dùng một chiếc ống trúc rỗng ruột làm ống thổi. Tôi hay chạy đến giúp bà thổi lửa. khói, bụi bay mịt mù làm mắt tôi cay xè. Bà nhìn tôi cười nhỏ nhẻ.
Công việc bếp núc của bà thật khéo léo. Dù là rơm, lá hay củi mục gì thì bà cũng đốt cháy hết một cách gọn gàng. Tôi nhớ như in lời dạy của bà về nghệ thuật nấu cơm: phải đun lửa sao cho thật khéo, để lửa không đi ra đằng sau nồi, khi đã chín rồi thì để lửa liu riu như thế nào mà không bị khét, không bị khô nước, hay hôi khói... Khi ở cạnh bà, tôi còn thích nghe tiếng nổ lách tách rất vui tai của những thanh củi cháy dở dang. Tôi còn hay dùng mấy thanh củi đang cháy đỏ rực, làm kiếm nô đùa thật thích. Bà tôi thường lùi vào lớp than đỏ rực vài củ khoai, củ mì... để một lát sau, tôi có món khoai nướng thơm phức, ngon tuyệt.
Vào những buổi chiều mưa rả rích. Tôi hay ngồi quay quần bên bếp lửa đỏ của bà. Tôi đưa tay ra hơ hơ trước bếp. Hơi nóng từ bếp làm lòng tôi ấm lạ. Lúc ấy, tôi không thể thốt lên được nên lời. Những luồng khói trắng tỏa ra. Chúng luồn xiên qua mái lá, sau một lúc nhảy nhót, cuối cùng chúng bay vút lên bầu trời xanh thẳm. Tôi thường thả hồn mình theo những làn khói trắng đến miên man...
Thế rồi, quê tôi dần dần đổi mới. Nhiều ngôi nhà tường lần lượt mọc lên. Điện thắp sáng cũng tìm về. Nhiều gia đình trong xóm thi nhau mua bếp gas, nồi cơm điện, ấm điện... Họ không còn nấu bếp củi nữa. Vì nó tiện về thời gian. Mặt khác khói bếp sẽ làm những bức tường, mái tôn đen kịt. Vì vậy, cái cà ràng dần dần mai một, lãng quên. Thấy bà tôi già yếu, các cô chú đòi mua bếp điện cho bà dùng. Bà nhai trầu, bỏm bẻm nói vui:“ Củi đuốc của vườn quá chừng, bỏ uổng. Vả lại, nấu cơm điện ăn không ngon bằng bếp củi...”.
Lớn lên, tôi vào đại học sống xa nhà. Nơi tôi ở trọ chỉ nấu toàn bằng bếp dầu, bếp gas mi ni. Công việc nấu nướng thuận tiện và bảo đảm thời gian hơn. Nhưng có đôi lúc, tôi lại khát khao và thèm nghe những tiếng nổ lép bép của bếp lửa, thèm được nhìn những làn khói trắng tỏa ra từ những mái lá và thèm được nếm một củ khoai nướng biết dường nào...
Bây giờ, tôi đã trưởng thành, lập gia đình. Tôi đã rời xa vòng tay yêu thương của bà. Nhưng lúc nào tôi cũng tự nhủ: sẽ không quên công ơn to lớn của bà, không quên mối nợ nghĩa tình với chiếc cà ràng xưa...
Tạp bút: VĨNH SƠN
Con hến
Ngày cập nhật: 05-06-2009
Người ta thường nói “con hến” là xấu xí lắm. Cho nên “hến” rất “tủi thân”, cứ chui rúc tận đáy sông không dám cho ai thấy mặt. Chúng cứ lầm lũi, an vị dưới lớp đáy bùn non âm u, kiếm ăn và lớn lên cho qua ngày, đoạn tháng. Sự trái khoáy trong cuộc sống là vẻ bề ngoài của hến trông không đẹp đến phũ phàng, thì bên trong, thịt của nó lại ngon lành! Chính điều này, người ta vẫn phải lặn ngụp dưới sông để khai thác trong lúc cần tới hến.
Nói đến hến thì ở miền Tây nhiều lắm. Hễ có nước trên sông rạch là ở dưới đáy sông lại có hến. Mùa nước cạn trong sáu tháng đầu năm là mùa khai thác hến đồng, hến sông đông ken nhất. Người dân các tỉnh đến mùa này là mang ghe, xuồng đi cào hến trong lúc nông nhàn khi vừa thu hoạch xong lúa Đông xuân hay đang xuống giống vụ Hè thu sớm. Vốn liếng thì không tốn bao nhiêu cả. Những hộ dân “xoàng xoàng” chỉ cần một chiếc xuồng, cái rổ xúc hay cái lưới vợt có cán để cào hến, tốn chưa quá mấy trăm ngàn đồng đầu tư mua cụ bị để cào hến. Cái nắng tháng năm chát búa đến hoa mắt, nước trên những kênh rạch cạn dần và đục ngầu. Hơn nữa, những kênh rạch nhỏ bị những đám mưa “mồ côi” lớn trút xuống đột ngột và khá dài sau những đợt nắng nóng gay gắt trong ngày cũng làm nước đục. Lúc này, hến dưới sông nhiều hằng hà sa số. Một bộ phận cư dân nông thôn có thể vác đồ nghề xuống kênh bắt hến. Cứ ngày hai buổi nước lớn - ròng trên sông trước nhà là một người trên bờ có thể kiếm bộn tiền trong suốt mùa nước cạn. Một nông dân cào hến thiệt thà nói rằng, một “mình ên” anh cào một ngày khoảng ba giạ hến còn dư sức. Ăn ngã nào cho hết, nên bà xã phải bán hến cho các lò luộc hến, kiếm cũng được ít tiền. Nhìn quanh một khúc sông ở một xã vùng Tây Nam sông Hậu vào đầu mùa hạ này, có tới mấy chục người lặn ngụp cào hến. Ngẫm ra đây cũng là công việc “tay trái” sau khi làm vụ lúa xong thì cũng giúp một số người kiếm được một số tiền.
Hến là loài thủy sản nước ngọt, hiện thời cũng có giá nên khiến rất nhiều dân miền Tây đi cào hến mùa nước cạn từ tháng hai đến tháng sáu (dương lịch) hàng năm và xem đây là một nghề kiếm sống. Hến cào về nhiều thì bán cho các thương lái mua gom đến cho các chủ nuôi vịt tàu (để làm mồi cho vịt); các hộ nuôi cá tôm hay mang đến các lò luộc hến (cứ năm giạ hến luộc ra khoảng hai mươi ký ruột hến), để bán ra các chợ từ thành thị đến nông thôn, làm thực phẩm cho con người. Hến luộc là món ăn ngon, chế biến ra được nhiều món. Món hến xào sả ớt thì thơm lừng, hến nấu canh hẹ cũng ngọt lịm, hến trộn gỏi hay cuốn bánh tráng... đều ngon. Hương vị miền dân dã dù là người xa quê hương, một lần thưởng thức cái món hến thì mãi mãi sẽ không quên.
Tạp bút: THÀNH ĐƯỢ
Bầy gà con
Ngày cập nhật: 01-06-2009
Khi tiếng đồng hồ báo thức reo vang trong phòng, Tuấn vùng dậy và nhảy ngay xuống đất. Vừa lấy tay dụi mắt, cậu ta vừa xúc lấy lon gạo chạy ra sân tìm bầy gà của mình. Như thường lệ, sau tiếng “bập, bập...” quen thuộc của Tuấn, bầy gà con đã chạy về đứng sẵn ở sân tự bao giờ. Nhưng hôm nay, Tuấn đã dụi mắt mấy lần mà vẫn sợ mình lầm, cậu kêu tướng lên: “Mẹ ơi! Mẹ ơi!”.
- Chuyện gì vậy con, Tuấn? Mẹ từ trong nhà chạy ra, giọng hốt hoảng.
- Mẹ coi kìa, bầy gà đâu hết rồi, sao chỉ còn hai con hả mẹ?
- Hôm qua có con chó của ai đó đã lại chỗ mấy mẹ con gà ngủ và cắn chết mấy con gà con rồi con ạ. May mà ba con xuống kịp, không thì bữa nay không còn con nào đâu.
Mẹ nhìn khuôn mặt buồn so và đôi mắt ướt của Tuấn, rồi xoa đầu Tuấn, an ủi:
- Thôi con ạ, để mai mốt mẹ dành tiền mua cho con bầy gà khác nghen.
Tuấn buồn rầu rải gạo ra đất cho bầy gà ăn. Như thường lệ, gà mẹ vừa xù lông ra như cây quạt vừa quang quác cái mỏ để đàn áp những con gà khác. Nhưng than ôi, bộ lông đen mượt của nó bữa nay xơ xác và tơi tả đến thảm hại. Ở chỗ bả vai của nó, bữa nay lông đã rụng gần hết, để trợ lại mảng thịt đỏ lòm. Chắc là thương tích sau trận bảo vệ bầy gà con. Tuy bộ lông chỉ còn lại ít cọng, nhưng nó cũng ráng giương lên như để tạo ra một hàng rào yếu ớt hòng bảo vệ con mình. Hai chú gà con béo tròn vẫn ăn một cách ung dung. Gà mẹ vẫn chạy đi chạy lại một cách hung dữ. Dường như gà mẹ không còn nhớ vết thương đỏ lòm trên bả vai nó nữa thì phải. Nó hăng say hối thúc bầy con ăn, thỉnh thoảng lại mổ mổ vài hạt lấy lệ cho đến khi trên sân không còn hạt gạo nào nữa mới thôi. Lúc bấy giờ, nó mới chịu cụp lông xuống và túc túc cái bụng đói dẫn bầy con no nê đi kiếm ăn nữa.
Tuấn ngồi thừ ra nhìn bầy gà, lòng buồn rười rượi. Mới hôm qua thôi, cũng ở khoảng sân này, bầy gà con của Tuấn còn đông đủ và vui nhộn làm sao. Còn hôm nay, gà mẹ chỉ còn có hai con và bộ lông rách nát, đôi vai rướm máu! Bỗng Tuấn thấy tội nghiệp con gà mẹ quá chừng. Giá mà hôm qua Tuấn thức giấc, chắc cậu sẽ chọn cái cây to nhất để đập đầu con chó điên ấy một trận mới hả. Tuấn đứng dậy, cất lon vô nhà nhưng còn ngoái đầu nhìn lại bầy gà con của mình. Ở một bụi cây không xa, gà mẹ đang nằm xuống để hai chú gà con no nê nhảy lên lưng đùa giỡn. Chú gà nhỏ màu vàng tinh nghịch mổ mổ vào chỗ rướm máu trên cánh gà mẹ một cách thích thú. Gà mẹ âu yếm quay đầu lại mổ mổ lên chú gà con như thầm bảo: “Mẹ còn đau lắm, đau lắm...”.
Bỗng nhiên, Tuấn thấy giận bầy gà con kia quá. Sao chúng lại còn làm cho mẹ chúng đau thêm như vậy. Cậu bé chợt đứng ngây ra trong tiếng túc túc yêu thương đầy bao dung của gà mẹ và tiếng chíp chíp vô tư của bầy gà con.
Truyện ngắn: HOÀNG MAI QUYÊN
Hè đợi tiếng ve
Ngày cập nhật: 29-05-2009
Cái nắng tháng năm chói chang cùng với những cơn mưa đầu hạ như thắp thêm lửa cho những hoa phượng đầu cành đỏ thắm. Giữa một không gian bao la tường, ngói, mái tôn, màu đỏ của phượng như níu mắt người. Nhưng dường như thiếu thiếu một cái gì...! Tiếng ve! Ừa, đúng rồi, có đến mấy mùa hè rồi tôi không còn nghe tiếng ve râm ran trên cành cây cao hai bên đường nội ô thị xã. Nếu hoa phượng vĩ làm nên cái “phần hình” đầy sắc đỏ sống động, thì nhạc ve là “phần tiếng” của bộ phim thiên nhiên hè làm lay động hồn người.
Người ta bảo rằng, loài ve đẻ trứng vào những rảnh nhỏ trên vỏ cây. Trứng nở thành ấu trùng rơi xuống, vùi sâu trong đất. Rồi ấu trùng chui lên lột xác trưởng thành vào đầu hạ. Chu trình ấy mất cả năm. Bằng âm giai vĩ thanh của mình, những chú ve trưởng thành gọi bạn tình. Chúng cặp đôi hát và cùng giống loài hòa điệu tạo nên dàn hợp xướng hè bất tận. Đã có lớp lớp thế hệ học trò lưu dấu, giữ gìn bao kỷ niệm về trường lớp, thầy cô, bạn bè... gắn liền với bóng dáng của “nàng phượng”, “chàng ve”. Một thời tôi đã say mê mùa hạ, đắm đuối với má hồng môi đỏ của phượng, ngất ngây với giọng điệu huyễn hoặc của chàng ve. Một thời...
Cuối cùng thì những người thợ trồng cây xanh cũng “đền” lại cho thị xã nhỏ của tôi một hàng phượng vĩ ngay bên bờ kè mương lộ. Nhưng những “nàng phượng” mới được bứng về trồng chưa đầy năm nên hơi gầy yếu, bông trổ lưa thưa. Có khi trưa, khi chiều, tôi loanh quanh dưới gốc hàng phượng vĩ, xem xem những nụ hoa đầu đời của các “nàng” và cố công tìm kiếm những chú ve sầu lười biếng ngủ say đâu đó trong hốc, trong nách cây. Nhưng hoài công! “Những chàng ve trốn biệt đi đâu, ta?” - Tôi thầm hỏi. Những “nàng phượng” cũng nghiêng nghiêng cành như muốn hỏi. Anh bạn cùng cơ quan biết chuyện cười ghẹo tôi là người “hoài cổ, mộng mơ, cũ kỹ”. Ừ, có lẽ... chưa có nhà khoa học nào quan tâm tìm hiểu vì sao những loài ve - “nghệ sĩ vĩ cầm” - lại thôi, không buồn hò hát. Chỉ có tôi, một mình...!
Ở thời đại bùng nổ truyền thông đa phương tiện, thế hệ các trò 8x, 9x như con tôi không có niềm say mê ngây ngô như tôi. Mùa hè, chúng không đi tìm ve, hái những bông phượng ép vào lưu bút. Chúng chụp ảnh, lồng nhạc vào CD tặng nhau. Lưu bút của chúng là những file word, hoặc là đoạn âm thanh giọng nói bạn bè gởi cho nhau. Dường như cái tiện ích của thời đại đã làm chúng quên đi thiên nhiên chung quanh - cái thế giới rất “cần và đủ” để những gì chúng đang sở hữu, đang hưởng thụ, được tồn tại. Nhưng có không ít tôi bắt gặp lũ trẻ 8x, 9x reo lên sung sướng, rồi trầm trồ nhìn say sưa sắc áo đỏ rực của “nàng phượng” dưới nắng hạ nồng nàn. Chúng cũng vô tư tranh nhau trèo hái như tôi và bè bạn xưa xưa ấy.
“Tiếng ve nức nở buồn hơn tiếng lòng”... Tiếng hát vọng tới như nói cho tôi biết rằng đâu đây trong cái thị xã nhỏ của tôi cũng có người đồng điệu. Nhưng tiếng buồn của lòng tôi giờ đây là những mùa hè câm lặng tiếng ve. Mùa hè mà thiên nhiên đã mất đi phân nửa cái cân bằng vốn dĩ của nó.
Tạp bút: ĐỖ THÀNH
No comments:
Post a Comment