Danh sách các đại sứ quán tại Hà Nội
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Danh sách các đại sứ quán tại Hà Nội
1. Đại sứ quán Úc. 8 Đào Tấn. Tel: 38317755. Fax: 38317711.
2. Đại sứ quán Áo. 8th Floor 53 Quang Trung. Tel: 39433050. Fax: 39433055.
3. Đại sứ quán Algérie. 13 Phan Chu Trinh. Tel: 38253865. Fax: 38260830.
4. Đại sứ quán Argentina. Tầng 8, tòa nhà Daeha, 360 Kim Mã. Tel: 38315263. Fax: 38315577.
5. Đại sứ quán Bangladesh. Lạc Long Quân, Tây Hồ, Hà Nội. Tel: 37716625. Fax: 37716628.
6. Đại sứ quán Belarus. 52 Hồ Tây. Tel: 38290494. Fax: 37197125.
7. Đại sứ quán Bỉ. Tầng 9 Hanoi Tower, 49 Hai Bà Trưng. Tel: 39346179. Fax: 39346183.
8. Đại sứ quán Brasil. T72-14 Thụy Khuê. Tel: 38432544. Fax: 38432542.
9. Đại sứ quán Brunei. Villa 8-9 No 44/8-44, 9 Vạn Bảo. Tel: 37260001. Fax: 37262010.
10. Đại sứ quán Bulgaria. 5 Vạn Phúc, Núi Trúc. Tel: 38452908. Fax: 38460856.
11. Đại sứ quán Campuchia. 71A Trần Hưng Đạo. Tel: 39427636. Fax: 39423225.
12. Đại sứ quán Canada. 31 Hùng Vương. Tel: 38235500. Fax: 37345049.
13. Đại sứ quán Trung Quốc. 46 Hoàng Diệu. Tel: 38453736. Fax: 38232826.
14. Đại sứ quán Cuba. 65 Lý Thường Kiệt. Tel: 39424775. Fax: 39422426.
15. Đại sứ quán Cộng hòa Séc. 13 Chu Văn An. Tel: 38454131. Fax: 38233996.
16. Đại sứ quán Đan Mạch. 19 Điện Biên Phủ. Tel: 38231888. Fax: 38231999.
17. Đại sứ quán Triều Tiên. 25 Cao Bá Quát. Tel: 38453008. Fax: 38321221.
18. Đại sứ quán Liên minh châu Âu. 56 Lý Thái Tổ. Tel: 39341300. Fax: 39341361.
19. Đại sứ quán Ai Cập. 63 Tô Ngọc Vân. Tel: 38296788. Fax: 38294997.
20. Đại sứ quán Phần Lan. Tầng 6 31 Hai Bà Trưng. Tel: 38266788. Fax: 38266766.
21. Đại sứ quán Pháp. 57 Trần Hưng Đạo. Tel: 39437719. Fax: 39437236.
22. Đại sứ quán Đức. 29 Trần Phú. Tel: 38453836. Fax: 38453838.
23. Đại sứ quán Hungary. 12th Floor, Deaha Building, 360 Kim Mã. Tel: 37715714. Fax: 37715716.
24. Đại sứ quán Ấn Độ. 58-60 Trần Hưng Đạo. Tel: 38244990. Fax: 38244998.
25. Đại sứ quán Indonesia. 50 Ngô Quyền. Tel: 38253353. Fax: 38259274.
26. Đại sứ quán Iran. 54 Trần Phú St. Tel: 38232068. Fax: 38232120.
27. Đại sứ quán Iraq. 66 Trần Hưng Đạo. Tel: 39424141. Fax: 39424055.
28. Đại sứ quán Ireland. 8th Floor, Tower B, Vincom City, 191 Ba Trieu St. Tel: 39743291. Fax: 39743295.
29. Đại sứ quán Israel. 68 Nguyễn Thái Học St. Tel: 38433141. Fax: 38435760.
30. Đại sứ quán Ý. 9 Lê Phụng Hiếu St. Tel: 38256256. Fax: 38267602.
31. Đại sứ quán Nhật Bản. 27 Lieu Giai St. Tel: 38463000. Fax: 38463043.
32. Đại sứ quán Hàn Quốc. 4th Floor, Deaha Building 360 Kim Ma St. Tel: 38315111. Fax: 38315117.
33. Đại sứ quán Lào. 22 Trần Bình Trọng. Tel: 39424576. Fax: 38228414.
34. Đại sứ quán Libya. A3, Vạn Phúc, Kim Mã. Tel: 38453379. Fax:8454977
35. Đại sứ quán Malaysia. 43-45 Điện Biên Phủ. Tel: 37343836. Fax: 37343829.
36. Đại sứ quán Mexico. Coco Villa T-11, 14 Thụy Khuê St. Tel: 38470948. Fax: 38470949.
37. Đại sứ quán Mông Cổ. 5 Vạn Phúc, Kim Mã. Tel: 38453009. Fax: 38454954.
38. Đại sứ quán Myanma. 289A Kim Mã. Tel: 38453369. Fax: 38452404.
39. Đại sứ quán Hà Lan. 6th Floor, Deaha Building, 360 Kim Ma St. Tel: 38315650. Fax: 38315655.
40. Đại sứ quán New Zealand. 5th Floor, 63 Lý Thái Tổ. Tel: 38241481. Fax: 38241408.
41. Đại sứ quán Na Uy. 10th Floor, Vincom Tower B, 191 Bà Triệu St. Tel: 39742930. Fax: 39742970.
42. Đại sứ quán Palestine. E4B Trung Tu Quarter, Tel: 38524013. Fax: 38349696.
43. Đại sứ quán Pakistan. 8th Floor, Daeha Building, 360 Kim Ma St. Tel: 37716420. Fax: 37716418.
44. Đại sứ quán Philippines. 27B Trần Hưng Đạo. Tel: 39437948. Fax: 39435760.
45. Đại sứ quán Ba Lan. 3 Chùa Một Cột. Tel: 38452027. Fax: 38430922.
46. Đại sứ quán Romania. 5 Lê Hồng Phong. Tel: 38452014. Fax: 38430922.
47. Đại sứ quán Nga. 191 La Thanh St. Tel: 38336991. Fax: 38336995.
48. Đại sứ quán Singapore. 41-43 Tran Phu St. Tel: 38233966. Fax: 37337627.
49. Đại sứ quán Nam Phi. 3rd Floor, 31 Hai Ba Trung St. Tel: 39362000. Fax: 38361991.
50. Đại sứ quán Tây Ban Nha. 15th Floor, Deaha Building, 360 Kim Ma St. Tel: 37715207. Fax: 37715206.
51. Đại sứ quán Sri Lanka.
52. Đại sứ quán Thụy Điển. 2 Nui Truc St. Tel: 37260400. Fax: 38232195.
53. Đại sứ quán Thụy Sĩ. 15th Floor, Centre Building, 44B Ly Thuong Kiet St. Tel: 39346589. Fax: 39346591.
54. Đại sứ quán Thái Lan. 63-65 Hoàng Diệu. Tel: 38235092. Fax: 38235088.
55. Đại sứ quán Thổ Nhĩ Kỳ. 4 Dã Tượng. Tel: 38222460. Fax: 38222458.
56. Đại sứ quán Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. 31 Hai Bà Trưng St. Tel: 39360500. Fax: 39360561.
57. Đại sứ quán Ukraina. 6 Lê Hồng Phong. Tel: 37344484, 37344492. Fax: 37344497.
58. Đại sứ quán Hoa Kỳ. 7 Láng Hạ. Tel: 38505000. Fax: 37721510. Phòng lãnh sự: 38314590.
Mở thêm văn phòng lãnh sự danh dự tại Nhật Bản
•
•
•
VNA 29/11/2010 - Việt Nam đã mở văn phòng lãnh sự danh dự thứ hai ở Nhật Bản, đặt tại thành phố biển Kushiro, thuộc Hokkaido, phía Bắc Nhật Bản.
Người đứng đầu văn phòng lãnh sự danh dự của Việt Nam ở Kushiro, theo quyết định bổ nhiệm của Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm, là ông Taro Nakajima, Chủ tịch Công ty Than Kushiro.
Phát biểu nhân dịp này, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Nhật Bản Nguyễn Phú Bình cảm ơn chính quyền thành phố Kushiro, Công ty Than Kushiro, ông Nacagima và các đồng nghiệp đã tận tình giúp đỡ, đào tạo và chuyển giao công nghệ cho phía Việt Nam trong nhiều năm qua, nhất là trong lĩnh vực an toàn khai thác mỏ than.
Đại sứ nhấn mạnh các tiềm năng hợp tác giữa Việt Nam với thành phố Kushiro nói riêng và với tỉnh Hốccaiđô nói chung, nhất là trong lĩnh vực du lịch và đánh bắt hải sản.
Bày tỏ vui mừng khi một công dân của thành phố Kushiro được bổ nhiệm làm Lãnh sự danh dự của Việt Nam, Thị trưởng Kushiro, ông Ebina Hiroya khẳng định đây là niềm vinh dự của thành phố Kushiro, đồng thời cam kết sẽ tiếp tục hỗ trợ ông Nacagima hoàn thành tốt nhiệm vụ của một lãnh sự danh dự.
Về phần mình, ông Nacagima bày tỏ mong muốn tiếp tục thúc đẩy công tác đào tạo cho các tu nghiệp sinh Việt Nam và đẩy mạnh các hoạt động du lịch Việt Nam tại Kushiro. Ông cho rằng đó là cách thiết thực nhất để phát triển “mối liên kết vô hình và vô cùng quí giá từ than đá, một nguồn thiên nhiên quí báu” giữa hai dân tộc mà xuất phát từ Kushiro.
Kushiro là thành phố cảng biển quốc tế nằm ở cực Bắc Nhật Bản, có lịch sử hơn 100 năm. Công nghiệp đánh bắt hải sản xa bờ và sản xuất giấy là những ngành mũi nhọn của Kushiro. Với khí hậu hàn đới có băng tuyết và nằm trong vùng đất lầy, Kushiro có nhiều cảnh quan độc đáo và động vật đa dạng.
Công tác bảo tồn và phát triển du lịch của Kushiro như hồ nước trên núi Kamuito, Trung tâm bảo tồn sếu đầu đỏ, Đêm trại lửa tộc Ainu…là những thế mạnh và tiềm năng bổ sung trong hợp tác du lịch với thiên nhiên nhiệt đới của Việt Nam.
Trước đó, ngày 18/11, văn phòng lãnh sự danh dự đầu tiên của Việt Nam tại Nhật Bản đã được mở ở thành phố Nagoya, thuộc tỉnh Aichi, miền Trung Nhật Bản.
Theo quyết định của Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm, ông Yukihisa Hirano, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Sân bay quốc tế miền Trung (Centrair), được bổ nhiệm làm Lãnh sự danh dự tại đây.
Việt Nam hiện có ba cơ quan đại diện ngoại giao ở Nhật Bản, gồm Đại sứ quán tại thủ đô Tokyo và các tổng lãnh sự ở các thành phố Osaka, miền Trung, và Fukuoka, miền Nam./.
ASEAN đã và đang trở thành tâm điểm của quan hệ kinh tế - thương mại và liên kết kinh tế giữa các đối tác trong khu vực CA-TBD
•
•
•
(ĐCSVN)- Chiều 12/11, tại thành phố Yokohama, Nhật Bản, nhân dịp tham dự Hội nghị các nhà lãnh đạo Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) lần thứ 18, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã tới dự và phát biểu tại Hội nghị thượng đỉnh Doanh nghiệp APEC 2010 (APEC CEO Summit 2010) do Liên đoàn các tổ chức kinh tế Nhật Bản (Nippon Keidanren) tổ chức.
APEC CEO Summit 2010 diễn ra trong các ngày 12 - 13/11, tập trung vào chủ đề “Châu Á - Thái Bình Dương, động lực tăng trưởng toàn cầu: Phấn đấu vì sự thịnh vượng sau khủng hoảng”. Tham dự hội nghị có khoảng 500 lãnh đạo các tập đoàn, công ty hàng đầu khu vực.
Tại hội nghị này, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết thông báo việc Việt Nam đã quyết định tham gia đàm phán Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) với tư cách thành viên chính thức, và sẽ tiếp tục tham gia đàm phán Hiệp định này với tinh thần chủ động và tích cực. Đồng thời, Việt Nam cũng đang chuẩn bị khởi động đàm phán Hiệp định Thương mại tự do (FTA) với Liên minh châu Âu.
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết là 1 trong 5 diễn giả phát biểu tại APEC CEO Summit 2010, bài phát biểu của Chủ tịch nước nói về “Vai trò của liên kết kinh tế ASEAN tại châu Á - Thái Bình Dương”.
Trước đông đảo các Chủ tịch, Tổng Giám đốc điều hành các tập đoàn, công ty lớn của 21 nền kinh tế thành viên APEC, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nhấn mạnh: Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực đầu tiên phục hồi và đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất sau những tác động sâu sắc của cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu, trở thành động lực tăng trưởng của thế giới qua những thỏa thuận liên kết kinh tế và hiệp định thương mại tự do.
Từ góc nhìn thực tiễn của ASEAN, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết cho rằng, ASEAN đã trở thành một thực thể chính trị - kinh tế gắn kết, một tổ chức khu vực thành công và phát triển năng động, và là đối tác không thể thiếu của các nước và các tổ chức quốc tế, khu vực. Chặng đường trưởng thành của ASEAN đã góp phần không nhỏ tạo nên những bước tiến của liên kết khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Chủ tịch nước nêu rõ: Nỗ lực của ASEAN đẩy nhanh liên kết kinh tế và hình thành một thị trường chung thống nhất là một xúc tác quan trọng thúc đẩy liên kết khu vực. ASEAN đã là một trong những tổ chức khu vực thúc đẩy tự do hóa thương mại - đầu tư với quyết định thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN năm 1992. Và đó cũng là khoảng thời gian APEC thông qua các Mục tiêu Bôgo. Năm 2003, ASEAN nhất trí xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN và cũng là lúc ý tưởng xây dựng Khu vực mậu dịch tự do châu Á - Thái Bình Dương được nhen nhóm. Hàng loạt cam kết hợp tác kinh tế cốt lõi của Cộng đồng kinh tế ASEAN, cùng “Sáng kiến liên kết ASEAN”, đã từng bước đi vào cuộc sống, tạo ra một không gian kinh tế thống nhất giữa các thành viên, đưa thị trường chung ASEAN với trên 600 triệu dân trở nên đồng nhất, là một trung tâm phát triển kinh tế của khu vực.
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết cũng khẳng định: ASEAN đã và đang trở thành tâm điểm của quan hệ kinh tế - thương mại và liên kết kinh tế giữa các đối tác trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Chỉ trong gần một thập kỷ qua, ASEAN đã thiết lập một mạng lưới các Khu vực mậu dịch tự do ASEAN + 1 với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Ốxtrâylia và Niu Dilân. Hợp tác giữa ASEAN với các đối tác lớn khác như Hoa Kỳ, Nga, Liên minh châu Âu, Canađa và các thành viên Diễn đàn hợp tác Đông Á - Mỹ La tinh cũng đi vào chiều sâu. Năm 2010 là một dấu mốc quan trọng với việc ASEAN triển khai các khuôn khổ ASEAN+1 và hàng loạt các thoả thuận Thương mại tự do của ASEAN với các đối tác. Hội nghị Cấp cao ASEAN 17 vừa tổ chức tại Hà Nội đã thông qua “Kế hoạch tổng thể về Kết nối ASEAN” với mục tiêu kết nối hạ tầng cơ sở, kết nối chính sách và kết nối con người trong ASEAN và đó sẽ là nền tảng để tiến tới mở rộng kết nối ra toàn khu vực Đông Á. Hiện nay, ASEAN tiếp tục cam kết tự do hóa và mở cửa thị trường, ủng hộ mạnh mẽ việc sớm kết thúc vòng Đôha, thúc đẩy liên kết kinh tế và phản đối chủ nghĩa bảo hộ dưới mọi hình thức.
Nêu ra nguy cơ quá trình phục hồi kinh tế thế giới chững lại, không đồng đều và còn nhiều rủi ro, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết kêu gọi các tập đoàn hàng đầu ở khu vực đi tiên phong trong việc hỗ trợ các nền kinh tế thành viên, đặc biệt là các thành viên đang phát triển, đổi mới và chuyển giao công nghệ, xây dựng thói quen tiêu dùng cùng phương thức sản xuất tiết kiệm năng lượng, tài nguyên thân thiện với môi trường, qua đó góp phần xây dựng nền kinh tế xanh, bền vững và tri thức. Thông qua các chương trình đối tác công - tư, sự tham gia của các doanh nghiệp hàng đầu khu vực vừa là đầu tư vào tương lai bền vững và thịnh vượng của chính doanh nghiệp, đồng thời thể hiện trách nhiệm xã hội. Chủ tịch nước cũng kỳ vọng các tập đoàn hàng đầu khu vực sẽ phối hợp với ASEAN để nỗ lực đẩy nhanh lộ trình hoàn thành xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 và “Kế hoạch tổng thể về Kết nối ASEAN”.
Đề cập về sự phát triển của Việt Nam, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nhấn mạnh: Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình 7 - 8% trong 25 năm qua, kim ngạch thương mại với thế giới tăng 15 - 20%. Thành tựu này có phần đóng góp quan trọng của nỗ lực hội nhập quốc tế của Việt Nam ở mọi tầng nấc, như các chương trình hợp tác Mêcông, ASEAN, ASEAN với các đối tác, Cấp cao Đông Á, APEC, ASEM và WTO. Là thành viên chủ động và có trách nhiệm của Cộng đồng ASEAN và châu Á - Thái Bình Dương, Việt Nam luôn đánh giá cao đóng góp của cộng đồng doanh nghiệp đối với sự phát triển đất nước những năm qua. Chủ tịch nước mong muốn, trong giai đoạn 2011-2020, các tập đoàn kinh tế trong khu vực tiếp tục hợp tác và hỗ trợ Việt Nam triển khai ba đột phá phát triển kinh tế - xã hội: cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực và cải cách thể chế. Chủ tịch nước khẳng định: Nhà nước Việt Nam cam kết tiếp tục tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư nước ngoài hoạt động thành công tại Việt Nam.
Quan hệ Việt-Nhật mở ra nhiều triển vọng hợp tác
•
•
•
(VNA-9/11/2010)- Chiều 9/11, tiếp cựu Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đang ở thăm Việt Nam, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết khẳng định quan hệ đối tác chiến lược Việt-Nhật hiện nay đang mở ra nhiều triển vọng hợp tác.
Nhật Bản là một đối tác rất quan trọng của Việt Nam, Việt Nam tin tưởng vào công nghệ, nguồn vốn tín dụng của Nhật Bản, Chủ tịch nước nêu rõ.
Chủ tịch nước cũng khẳng định Việt Nam luôn trân trọng những đóng góp của cựu Thủ tướng Shinzo Abe trong việc phát triển quan hệ Việt-Nhật lên tầm đối tác chiến lược hiện nay, đồng thời mong muốn cựu Thủ tướng Shinzo Abe tiếp tục đóng góp hơn nữa vào việc thúc đẩy hợp tác Việt Nam-Nhật Bản phát triển, nhất là trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư.
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết bày tỏ vui mừng trước mối quan hệ đối tác chiến lược Việt-Nhật đang phát triển tích cực, nhất là các thỏa thuận đạt được trong chuyến thăm Việt Nam mới đây của Thủ tướng Nhật Bản Naoto Kan.
Bên cạnh ba dự án lớn (đường bộ, đường sắt cao tốc Bắc-Nam, Khu công nghệ cao Hòa Lạc), Việt Nam mong muốn và mời gọi các doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư vào các dự án xây dựng hệ thống tàu điện ngầm ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, cùng nhiều dự án xây dựng cơ sở hạ tầng khác…
Chủ tịch nước hoan nghênh cựu Thủ tướng Shinzo Abe cùng đoàn doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản sang tìm hiểu cơ hội đầu tư phát triển lĩnh vực công nghiệp phụ trợ tại Việt Nam. Với sự phát triển hiện nay của Việt Nam, bên cạnh những dự án lớn, cần công nghệ cao, các doanh nghiệp vừa và nhỏ là mô hình rất phù hợp, để bổ sung cho các dự án lớn.
Chủ tịch nước nhấn mạnh, Việt Nam luôn chào đón và khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các tổ chức, địa phương của Nhật Bản sang tìm hiểu cơ hội hợp tác, đầu tư tại Việt Nam.
Cựu Thủ tướng Shinzo Abe tin tưởng rằng Việt Nam sẽ đạt mục tiêu cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020; đồng thời khẳng định trong tương lai gần, Việt Nam sẽ là đối tác quan trọng nhất của Nhật Bản trong khối ASEAN.
Chính phủ và nhân dân Nhật Bản hết sức coi trọng phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt với Việt Nam, không chỉ trong các dự án lớn, mà cả trong hợp tác giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giữa các địa phương. Ông cũng mong muốn hai nước đẩy mạnh hợp tác trên các diễn đàn khu vực và quốc tế.
Nhân dịp này, cựu Thủ tướng Shinzo Abe chúc mừng Việt Nam về thành công của Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội, đang đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2010 thể hiện qua kết quả của Hội nghị cấp cao ASEAN 17 và các hội nghị liên quan, góp phần nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế./.
Dương Đức Dũng (TTXVN/Viet Nam+)
Đại sứ quán CHXHCN Việt Nam tại Đại hàn Dân quốc
•
•
•
+ Địa chỉ: 28-58, Samchong-Dong, Chongno-Ku,110-230, SEOUL, KOREA
+ Điện thoại: (822) 739 2065; 738 2318
Lãnh sự: 734 7948
+ Fax (822) 739 2064;
+ Email vndsq@yahoo.com
+ Website: http://www.vietnamembassy-seoul.org (English) hoặc http://www.vietnamembassy-seoul.org/vi (tiếng Việt)
DANH SÁCH CÁN BỘ NGOẠI GIAO
ĐẠI SỨ QUÁN VIỆT NAM TẠI HÀN QUỐC
(Cập nhật đến 23/12/2010)
------------------------------
1. Ông Trần Trọng Toàn
Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước CHXHCN Việt Nam tại Hàn Quốc.
H.E. Mr. TRAN TRONG TOAN (Ambassador)
Tel: (82-2)- 7205124
2. Ông Hoàng Xuân Hải
Công sứ, Phó trưởng Cơ quan Đại diện
Mr. HOANG XUAN HAI (Minister - Deputy Chief of Mission)
Tel: (82-2)- 7252487
3. Ông Nguyễn Thái Hòa
Tham tán, Cộng đồng
Mr. NGUYEN THAI HOA, Counsellor - Community
Tel: (82-2)- 3128576
4. Ông Nguyễn Thành Đồng
Tùy viên Quân sự
Mr. NGUYEN THANH DONG, Defense Attaché
Tel: (82-2)-7498362
Fax: (82-2)- 7498362
5. Ông Nguyễn Ngọc Định
Tham tán An ninh
Mr. NGUYEN NGOC DINH
Counsellor- Security
Tel: (82-2)- 7649261
Fax: (82-2)- 7649260
6. Ông Lê An Hải
Tham tán Thương mại
Mr. LE AN HAI, Counsellor ( Commercial)
Tel: (82-2)- 3643661/2
Fax: (82-2)- 3643664
Email : kr@moit.gov.vn
7. Ông Nguyễn Hải Nam
Tham tán – Trưởng Ban Quản lý Lao động
Mr. NGUYEN HAI NAM, Counsellor (Labour)
Tel: (82-2)- 3641043/5
Fax: (82-2)- 3641049
8. Bà Nguyễn Thị Minh Hiền
Tham tán – Đầu tư
Mrs. NGUYEN THI MINH HIEN (Counsellor- Investment Promotion)
Tel/ Fax: (82-2)- 737-2317
9. Ông Phan Đăng Đương
Tham tán- Chính trị
Mr. PHAN DANG DUONG (Counsellor - Political)
Tel: (82-2)- 7252480
10. Bà Nguyễn Thị Thái Thông
Tham tán - Văn Hóa- Giáo dục- ASEAN
Mrs. NGUYEN THI THAI THONG (Counsellor - Cultural, Education, ASEAN)
Tel: (82-2)- 725-2480
11. Ông Phạm Ngọc Dự
Bí Thư Thứ Nhất- Hành chính Quản trị
Mr. PHAM NGOC DU (First Secretary- Administration)
Tel: (82-2)- 7205124
12. Ônng Mạc Minh Học
Bí Thư Thứ Nhất- Lãnh sự
Mr. MAC MINH HOC (First Secretary- Consular)
Tel: 00-82-2- 7347948
13. Ông Phạm Quang Tuyến
Bí Thư Thứ Nhất- Báo chí
Mr. PHAM QUANG TUYEN (First Secretary- Press)
Tel: 00-82-2- 7205126
14. Ông Nguyễn Đình Tâm
Bí Thư Thứ Nhất- Khoa học, công nghệ
Mr. NGUYEN DINH TAM (First Secretary- Science and Technology)
Tel: (82-2) - 070- 8158- 8065
Fax : (82-2) -070- 8953- 6698
15. Ôn Phạm Anh Thắng
Bí Thư Thứ Nhất- Lao động
Mr. PHAM ANH THANG (First Secretary- Labour)
16. Bà Nguyễn Bích Hoàng
Bí Thư Thứ Hai- Văn phòng- Lễ Tân- Thư ký Đại sứ
Ms. NGUYEN BICH HOANG (Second Secretary- Office- Protocal and Secretary to Ambassador)
Tel: (82-2) - 720 5124
17. Ông Trần Thanh Hải
Bí Thư thứ Ba - Lãnh sự
Mr. TRAN THANH HAI (Third Secretary- Consular)
Tel: (82-2) - 7347948
18. Bà Lê Thị Hồng Vân
Bí Thư thứ Ba – Nghiên cứu, Kinh tế
Mrs. LE THI HONG VAN (Third Secretary, Economy)
Tel: 00-82-2- 7252488
19. Ông Nguyễn Bắc Nam
Bí Thư thứ Ba - Khoa học, công nghệ
Mr. NGUYEN BAC NAM (Third Secretary- Science and Technology)
20. Bà Trần Thị Quỳnh
Tùy viên Thương mại
Mrs. TRAN THI QUYNH, Attaché (Commercial)
Tel: 00-82-2- 3643661/2
Fax: 00-82-2- 3643664
Email : kr@moit.gov.vn
21. Ông Phan Thế Thắng
Tùy viên Thương mại
Mr. PHAN THE THANG, Attaché (Commercial)
Tel: 00-82-2- 3643661/2
Fax: 00-82-2- 3643664
Email : kr@moit.gov.vn
Vài nét về quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam
•
•
•
Trong tiến trình phát triển lịch sử, Việt Nam là một trong những khu vực được coi là cái nôi của loài người và cũng được coi là một trong những trung tâm phát sinh nông nghiệp sớm với nền văn minh lúa nước, nơi đã từng trải qua các cuộc cách mạng đá mới và cách mạng luyện kim. Trên nền tảng phát triển kinh tế - xã hội thời Đông Sơn, trước những đòi hỏi của công cuộc trị thủy và chống xâm lăng, Nhà nước Văn Lang - Nhà nước đầu tiên - đã ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII trước Công nguyên. Bằng sức lao động cần cù sáng tạo, cư dân Văn Lang, (sau đó là Âu Lạc) đã tạo dựng nên một nền văn minh tỏa sáng khắp vùng Đông Nam Á. Đi cùng với Nhà nước đầu tiên của lịch sử Việt Nam là một nền kinh tế phong phú, một nền văn hóa cao mà mọi người biết đến với tên gọi là văn minh Sông Hồng (còn gọi là văn minh Đông Sơn) với biểu tượng là trống đồng Đông Sơn - thể hiện sự kết tinh lối sống, truyền thống và văn hóa của người Việt cổ.
Vừa dựng nước người Việt đã phải liên tiếp đương đầu với sự xâm lăng của các thế lực bên ngoài. Độ dài thời gian và tần suất các cuộc kháng chiến, khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam rất lớn. Kể từ cuộc kháng chiến chống Tần (thế kỷ III trước Công nguyên) đến cuối thế kỷ XX, đã có tới 12 thế kỷ Việt Nam phải tiến hành hàng trăm cuộc chiến tranh giữ nước, khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng. Một điều đã trở thành quy luật của các cuộc chiến tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam là phải "lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”.
Từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên (kéo dài hơn 1.000 năm), Việt Nam bị các triều đại phong kiến phương Bắc thay nhau đô hộ. Sự tồn vong của một dân tộc bị thử thách suốt hơn nghìn năm đã sản sinh ra tinh thần bất khuất, kiên cường, bền bỉ đấu tranh bảo tồn cuộc sống, giữ gìn và phát huy tinh hoa văn hóa, quyết giành lại độc lập cho dân tộc của người dân Việt Nam.
Từ Văn Lang-Âu Lạc đến Vạn Xuân, Đại Cồ Việt, Đại Việt, mặc dù phải trải qua nhiều thăng trầm, nhưng Việt Nam vẫn là một quốc gia phát triển liên tục trên tất cả các lĩnh vực, khẳng định sự tồn tại và không ngừng lớn mạnh của một dân tộc.
Đặc điểm nổi bật của văn hóa Việt Nam là văn hóa làng, xã. Chính xóm làng của người Việt đã nuôi dưỡng và phát triển những tinh hoa của văn hóa truyền thống, làm cơ sở cho tinh thần đoàn kết trong các cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc, chống chính sách đồng hóa của các triều đại Phương Bắc, giành độc lập cho dân tộc, gìn giữ truyền thống, văn hóa riêng của mình.
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử Việt Nam – kỷ nguyên phát triển quốc gia phong kiến độc lập, thời kỷ xây dựng và bảo vệ nền độc lập dân tộc. Dưới các triều Ngô (938-965), Đinh (969-979), Tiền Lê (980-1009) nhà nước trung ương tập quyền được thiết lập.
Sau đó, Việt Nam bước vào thời kỳ phục hưng và phát triển (với quốc hiệu Đại Việt) dưới triều Lý (1009-1226), Trần (1226-1400), Hồ (1400-1407), Lê Sơ (1428-1527). Đại Việt dưới thời Lý-Trần-Lê Sơ được biết đến như một quốc gia thịnh vượng ở Châu Á. Đây là một trong những thời kỳ phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử của Việt Nam trên mọi phương diện. Về kinh tế: nông nghiệp phát triển, thủy lợi được chú ý phát triển (đê Sông Hồng được đắp vào thời kỳ này), các làng nghề ra đời và phát triển. Về tôn giáo: tín ngưỡng dân gian, Phật giáo và Nho giáo được coi là tam giáo đồng nguyên. Một thành tựu quan trọng trong thời Lý-Trần là việc phổ biến chữ Nôm, chữ viết riêng của Việt Nam dựa trên cơ sở cải biến và Việt hóa chữ Hán. Bên cạnh đó các lĩnh vực khác như giáo dục, khoa học kỹ thuật, văn học - nghệ thuật, lịch sử, luật pháp… cũng rất phát triển (Văn Miếu - Quốc Tử Giám được xây dựng và ngày một phát triển, sự ra đời của Bộ luật Hồng Đức, Đại Việt Sử ký, Đại Việt Sử ký toàn thư…). Lịch sử gọi thời kỳ này là Kỷ nguyên văn minh Đại Việt. Thăng Long (bây giờ là Hà Nội) cũng được chính thức công nhận là Kinh đô của Đại Việt với Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn vào năm 1010.
Từ thế kỷ XVI, chế độ phong kiến Việt Nam với tư tưởng nho giáo đã bọc lộ sự lạc hậu và bắt đầu suy yếu. Trong khi nhiều quốc gia – dân tộc ở châu Âu đang dần chuyển sang chủ nghĩa tư bản thì Đại Việt bị chìm trong nội chiến và chia cắt. Tuy trong các thế kỷ XVI-XVIII, nền kinh tế, văn hóa có những bước phát triển nhất định, nhiều thành thị, thương cảng ra đời đẩy nhanh quan hệ buôn bán trong và ngoài nước, nhưng cảnh chia cắt và nội chiến đã kìm hãm sự phát triển của đất nước.
Bước sang đầu thế kỷ XIX, các nước tư bản phương Tây đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, ráo riết tìm kiếm thị trường, từng bước xâm chiếm thuộc địa. Người Pháp, thông qua con đường truyền đạo, thương mại đã tiến hành thôn tính Việt Nam. Đây là lần đầu tiên dân tộc Việt Nam phải đương đầu với họa xâm lăng từ một nước công nghiệp phương Tây. Trong hoàn cảnh này, một số trí sĩ Việt Nam đã nhận thức được yêu cầu bảo vệ độc lập phải gắn liền với cải cách, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng trì trệ của phương Đông. Họ đã đệ trình những đề nghị canh tân đất nước, nhưng đều bị triều Nguyễn khước từ, đẩy đất nước vào tình trạng lạc hậu, bế tắc và từ đó Việt Nam đã trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến trong gần 100 năm (1858-1945).
Sau khi thiết lập bộ máy cai trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam, chính quyền thực dân Pháp đã nhanh chóng khai thác thuộc địa trên quy mô lớn. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa được du nhập, kích thích sự hình thành và phát triển những yếu tố tư bản chủ nghĩa trong nước, làm thu hẹp và dần phá vỡ quan hệ sản xuất phong kiến. Việt Nam chuyển dần từ nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp lạc hậu sang nền kinh tế thuộc địa, hoàn toàn bị chi phối bởi giới tư sản Pháp. Một cơ cấu xã hội mới hình thành và phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa. Theo đó, các giai cấp như địa chủ - nông dân bị phân hóa sâu sắc, trong khi lực lượng xã hội mới như giai cấp công nhân, tư sản, tiểu tư sản dần dần ra đời. Cuộc đấu tranh chống lại thực dân Pháp kể từ đây mang hai khuynh hướng: tư sản (tiêu biểu là Việt Nam Quốc dân Đảng và cuộc khởi nghĩa Yên Bái đầu năm 1930) và vô sản do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh dấu sự thắng thế của giai cấp công nhân và của phong trào cách mạng theo khuynh hướng vô sản. Tháng 8/1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà người đứng đầu là Nguyễn Ái Quốc, nhân dân Việt Nam cùng với Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (Quân đội nhân dân ngày nay) đã khởi nghĩa giành chính quyền thành công, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu (5/1954) và Hiệp định Giơ-ne-vơ (7/1954) đánh dấu sự kết thúc thắng lợi toàn diện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đưa dân tộc Việt Nam bước vào một thời kỳ mới - thời kỳ của độc lập dân tộc, tự do; đưa Miền Bắc Việt Nam bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Miền Nam, theo Hiệp định Giơ-ne-vơ tạm thời nằm dưới sự quản lý của Pháp và Mỹ để chờ tổng tuyển cử trong cả nước. Tuy nhiên, cuộc tổng tuyển cử theo Hiệp định Giơ-ne-vơ đã không thể tổ chức được do Mỹ đã can thiệp, dựng lên chế độ Việt Nam Cộng hòa do Ngô Đình Diệm đứng đầu. Đất nước tiếp tục bị chia cắt hơn 20 năm.
Trong hơn 20 năm (1954-1975) Việt Nam lại phải tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975 đã kết thúc thắng lợi. Từ đó, nước Việt Nam thống nhất đi vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của hòa bình, thống nhất và xây dựng đất nước trên phạm vi cả nước.
Tuy nhiên, trong 10 năm đầu của thời kỳ này, nhiều mục tiêu kinh tế - xã hội không thực hiện được do những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nền kinh tế Việt Nam rơi vào khủng hoảng, trì trệ, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) đề ra đường lối đổi mới với trọng tâm là đổi mới kinh tế. Đây là một mốc quan trọng trong quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam thời kỳ mới. Đường lối đổi mới đã tiếp tục được Đảng khẳng định lại qua các kỳ Đại hội sau đó. Qua 4 kế hoạch 5 năm, Việt Nam từ một nước nhập khẩu lương thực đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới, nhiều chủng loại hàng hóa được xuất khẩu và nhiều thương hiệu hàng hóa được thế giới biết đến; kinh tế đạt tăng trưởng cao vào những năm cuối cùng của thế kỷ XX và những năm đầu tiên của thế kỷ XXI, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao; chính sách xã hội được chú trọng hơn, hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện; quản lý xã hội trên cơ sở luật pháp dần đi vào nề nếp.
Nhìn lại tiến trình hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam, điểm nổi bật chiếm vị trí hàng đầu và trở thành chuẩn mực đạo lý Việt Nam là tinh thần yêu nước, ý chí tự lập, tự cường, truyền thống đoàn kết vì đại nghĩa dân tộc. Cuộc sống lao động gian khổ đã tạo ra truyền thống lao động cần cù, sáng tạo và kiên nhẫn; yêu cầu phải liên kết lại để đấu tranh với những khó khăn, thách thức đã tạo ra sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với nhau trong mối quan hệ gia đình, láng giềng, dòng họ của người Việt cũng như trong cộng đồng nhà – làng - nước - dân tộc. Lịch sử cũng cho con người Việt Nam truyền thống tương thân tương ái, sống có đạo lý, nhân nghĩa; khi gặp hoạn nạn thì đồng cam cộng khổ, cả nước một lòng; tính thích nghi và hội nhập; lối ứng xử mềm mỏng và truyền thống hiếu học, trọng nghĩa, khoan dung. Đây chính là sức mạnh tiềm tàng, là nội lực vô tận cho công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Hệ thống chính trị
•
•
•
Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam viết về vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam : "Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật".
I. ĐẢNG CỘNG SẢN
Thực tế, từ khi thành lập năm 1930 đến nay, ĐCS Việt Nam đã tổ chức và lãnh đạo xã hội thực hiện mọi thắng lợi của dân tộc Việt Nam. Năm 1945, ĐCS lãnh đạo nhân dân làm cuộc cách mạng tháng 8 chấm dứt ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân Pháp, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (là nước CHXHCN Việt Nam ngày nay). Năm 1954, sau 9 năm lãnh đạo cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp thắng lợi, Đảng đã giành sự kiểm soát hành chính trên một nửa nước Việt Nam. Từ năm 1954 đến 1975 ĐCS đã lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chế độ mới ở miền Bắc, thực hiện cuộc kháng chiến chống xâm lược Mỹ trên cả nước và giải phóng hoàn toàn miền Nam năm 1975, thống nhất đất nước năm 1976. Năm 1986 ĐCS đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc Đổi mới đạt được nhiều thắng lợi to lớn, sau 10 năm đã đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội, bước vào thời kỳ mớiđẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp vào năm 2020.
ĐCS Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Cơ quan quyền lực cao nhất là Đại hội toàn quốc 5 năm một lần. Đại hội bầu ra Ban chấp hành Trung ương. BCH TW bầu ra Bộ chính trị và Tổng Bí thư. Trước đây chức vụ cao nhất trong Đảng là Chủ tịch Đảng (do Hồ Chí Minh đảm nhận). Tổng Bí thư đầu tiên của ĐCS Việt Nam là ông Trần Phú. Tổng Bí thư hiện nay là ông Nông Đức Mạnh. Mọi công dân Việt Nam nếu tự nguyện gia nhập ĐCS và nếu tổ chức Đảng thấy có đủ tiêu chuẩn thì sẽ làm lễ kết nạp. Tuy nhiên, người Đảng viên mới đó phải trải qua một thời kỳ thử thách, ít nhất là một năm, mới có quyền biểu quyết, bầu cử và ứng cử trong Đảng. ĐCS Việt Nam đã trải qua 10 lần đại hội. Đại hội X diễn ra vào tháng 4/2006. Hiện nay Đảng có hơn hai triệu đảng viên.
II. HỆ THỐNG NHÀ NƯỚC
1. Quốc hội:
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
a) Nhiệm vụ:
Lập hiến, lập pháp; giám sát, quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, những nguyên tắc chủ yếu của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
b) Nhiệm kỳ của Quốc hội: 5 năm, hoạt động thông qua kỳ họp 1 năm 2 lần. Ngoài ra, nếu ủy ban Thường vụ Quốc hội xét thấy cần thiết hoặc do yêu cầu của Chủ tịch nước, Thủ tướng hoặc 1/3 tổng số đại biểu thì Quốc hội sẽ họp đột xuất.
c) Đại biểu Quốc hội: Là công dân Việt Nam, từ 21 tuổi trở lên, có phẩm chất, trình độ, năng lực, được cử tri tín nhiệm bầu ra.
- Đại biểu Quốc hội có nhiệm vụ tham gia các kỳ họp Quốc hội, có quyền trình dự án luật, dự án pháp lệnh trước Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội, có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng và các thành viên Chính phủ, Chánh án Toà án Nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
- Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri.
d) Chủ tịch và Phó Chủ tịch Quốc hội: Là đại biểu Quốc hội do Quốc hội bầu ra vào kỳ họp đầu tiên của mỗi khóa Quốc hội. Các Phó Chủ tịch Quốc hội là người giúp việc cho Chủ tịch theo sự phân công của Chủ tịch.
e) Ủy ban thường vụ Quốc hội: Là cơ quan thường trực giữa hai kỳ họp của Quốc hội.
- Có quyền về hoạt động giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của ủy ban Thường vụ Quốc hội ; giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà án Tối cao, Viện Kiểm sát tối cao.
- Chuyên ban hành Pháp lệnh, giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh.
g) Hai hội đồng của Quốc hội là: Hội đồng Quốc phòng-An ninh do Chủ tịch nước làm Chủ tịch, Thủ tướng làm Phó chủ tịch và 4 ủy viên. Hội đồng Dân tộc gồm 1 Chủ tịch và 38 thành viên.
h) Ủy ban chức năng của Quốc hội: Gồm các ủy ban Pháp luật; ủy ban Kinh tế và Ngân sách; ủy ban Quốc phòng và An ninh; ủy banVăn hóa, Giáo dục Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng; ủy ban Các vấn đề xã hội; ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường; ủy ban Đối ngoại.
2. Chủ tịch nước:
Là người đứng đầu Nhà nước, được Quốc hội bầu từ các đại biểu Quốc hội để thay mặt nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam về mặt đối nội và đối ngoại.
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam ghi rõ Chủ tịch nước có 12 quyền hạn, trong đó quan trọng nhất là:
- Công bố hiến pháp, luật, pháp lệnh.
- Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh.
- Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm Phó chủ tịch nước, Thủ tướng, Chánh án Toà án tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao.
Giúp việc Chủ tịch nước có: Phó Chủ tịch nước, Hội đồng Quốc phòng và An ninh, Văn phòng Chủ tịch nước.
+ Phó Chủ tịch nước: Do Chủ tịch đề nghị, Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội; Phó Chủ tịch giúp Chủ tịch nước làm nhiệm vụ và có thể được Chủ tịch ủy quyền làm một số nhiệm vụ hoặc làm quyền Chủ tịch.
+ Hội đồng Quốc phòng và An ninh: Có nhiệm vụ động viên mọi lực lượng và khả năng của nước nhà để bảo vệ Tổ quốc. Hội đồng Quốc phòng và An ninh do Chủ tịch nước đứng đầu gồm Phó Chủ tịch nước và các thành viên do Chủ tịch nước giới thiệu và Quốc hội bỏ phiếu phê chuẩn.
3. Chính phủ:
- Là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Chính phủ chịu sự giám sát và thực hiện chế độ báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
- Chính phủ gồm: Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ.
- Thủ tướng do Chủ tịch nước giới thiệu, Quốc hội bầu ra và bãi miễn trong số các đại biểu Quốc hội nhiệm kỳ 5 năm.
- Các Phó Thủ tướng do Thủ tướng đề nghị Quốc hội phê chuẩn, là người giúp việc cho Thủ tướng và được Thủ tướng ủy nhiệm khi Thủ tướng vắng mặt.
- Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ do Thủ tướng đề nghị Quốc hội phê chẩn, đảm nhiệm chức năng quản lý Nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác được giao.
4. Toà án Nhân dân tối cao:
- Là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Gồm Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, hội thẩm, thư ký toà án.
- Cơ cấu gồm: Hội đồng Thẩm phán, Ủy ban Thẩm phán, Toà án Quân sự Trung ương và các toà Hình sự, toà Dân sự, toà Phúc thẩm, bộ máy giúp việc.
- Nhiệm kỳ là 5 năm.
- Chánh án Toà án Nhân dân tối cao do Quốc hội bầu và bãi miễn; Phó Chánh án, Thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm, bãi miễn theo đề nghị của Chánh án. Hội thẩm nhân dân Toà án tối cao do Ủy ban Thường vụ Quốc hội cử theo sự giới thiệu của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Xét xử công khai, độc lập, chỉ tuân theo pháp luật.
- Xét xử tập thể, có hội thẩm nhân dân tham gia, quyết định theo đa số.
- Đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật, bị cáo được quyền mời luật sư bào chữa, quyền được dùng tiếng nói, chữ viết riêng.
5. Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao:
Kiểm tra việc tuân theo pháp luật của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang, công dân ; thực hành quyền công tố bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao gồm:
+ Viện trưởng: do Chủ tịch nước đề nghị, Quốc hội bầu và bãi miễn.
+ Các Viện phó, các kiểm sát viên và các điều tra viên: do Chủ tịch nước bổ nhiệm và bãi miễn theo đề nghị của Viện trưởng.
6. Tổ chức bộ máy cấp địa phương:
a) Hội đồng nhân dân:
- Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
- Hội đồng nhân dân huyện.
- Hội đồng nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, quận.
- Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn.
b) Ủy ban nhân dân:
- Tỉnh và cấp tương đương: gồm các sở, các ủy ban, các cơ quan khác thuộc Ủy ban nhân dân và văn phòng Ủy ban nhân dân.
- Huyện và cấp tương đương: gồm các phòng, ban, các cơ quan khác thuộc Ủy ban nhân dân và văn phòng Ủy ban nhân dân.
- Xã và cấp tương đương: các ban và văn phòng.
c) Toà án nhân dân địa phương:
- Toà án tỉnh và cấp tương đương.
- Toà án nhân dân huyện.
d) Viện kiểm soát nhân dân địa phương: Gồm cấp tỉnh và huyện.
III. MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước.
Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu quả.
IV. CÔNG ĐOÀN
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động cùng với cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, Công đoàn chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác; tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
V. CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI KHÁC
Ngoài Mặt trận Tổ quốc và Công đoàn, ở Việt Nam hiện đang tồn tại một số tổ chức chính trị, xã hội khác như: Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh, các hiệp hội theo ngành nghề. Các tổ chức này đã đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp giải phóng đất nước. Trong công cuộc Đổi mới và công nghiệp hoá, hiện đại hoá, các tổ chức xã hội này đang góp phần quan trọng đưa các chính sách của Đảng và Chính phủ Việt Nam vào cuộc sống.
Tạo bởi tungph
Cập nhật 21-08-2007
DÂN TỘC - NGÔN NGỮ
•
•
•
Với hơn 83 triệu người, Việt Nam là nước đông dân thứ 13 trên thế giới, trong đó 25% sinh sống tại thành thị và 75% sinh sống ở nông thôn; tỷ lệ tăng dân số hàng năm là 1,18%. Các thành phố đông dân nhất Việt Nam là thành phố Hồ Chí Minh (5 triệu dân), thủ đô Hà Nội (3,5 triệu dân). Hầu hết các thành phố trên cả nước đang trong xu hướng đô thị hóa cao, do đó, dân số tại khu vực này sẽ ngày một tăng nhanh.
Việt Nam có cơ cấu dân số trẻ với 52 triệu người trong độ tuổi lao động. Tuy nhiên, số người cao tuổi (trên 60 tuổi - hiện khoảng 6,3 triệu người, chiếm 7,5% dân số cả nước) có chiều hướng gia tăng nhờ điều kiện sống và chăm sóc y tế được nâng cao. Năm 2005, tuổi thọ trung bình của người Việt Nam là 72.
Việt Nam là một quốc gia của 54 dân tộc cùng chung sống hòa thuận, trong đó dân tộc Kinh chiếm 86% dân số; 53 dân tộc còn lại có số lượng dao động trên dưới một triệu người như Tày, Nùng, Thái, Mường, Khmer cho đến vài trăm người như dân tộc Ơ Đu và Brâu. Dân tộc Kinh sống rải rác ở trên khắp lãnh thổ, nhưng tập trung nhiều nhất ở các đồng bằng và châu thổ các con sông. Họ là chủ nhân của nền văn minh lúa nước. Đa số các dân tộc còn lại sinh sống ở miền núi và trung du, trải dài từ Bắc vào Nam; hầu hết trong số họ sống xen kẽ nhau, điển hình là cộng đồng dân tộc thiểu số ở phía Bắc và Bắc Trung Bộ.
Các dân tộc thiểu số có trình độ phát triển không đồng đều. Ở Trung du và miền núi phía Bắc, các cư dân ở vùng thấp như Mường, Thái, Tày, Nùng sinh sống chủ yếu bằng canh tác lúa nước và nương rẫy, chăn nuôi gia súc và gia cầm, có một phần hái lượm, săn bắn, có nghề thủ công khá tinh xảo. Các dân tộc thiểu số ở phía Nam sống biệt lập hơn. Trừ người Chăm, Hoa và Khmer sống ở vùng duyên hải miền Trung, Nam Bộ có trình độ phát triển cao hơn, phần lớn các dân tộc còn lại ở Tây Nguyên sống theo tổ chức buôn-làng, kiếm sống dựa vào thiên nhiên mang tính tự cung tự cấp. Tất cả các nhóm dân tộc đều có nền văn hóa riêng biệt và độc đáo. Tín ngưỡng và tôn giáo của các dân tộc cũng khác biệt.
Chính phủ Việt Nam thi hành chính sách bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc. Trên thực tế, mỗi dân tộc đều bình đẳng trong việc thực hiện quyền phát triển. Chính phủ Việt Nam ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi, trước hết tập trung vào phát triển hệ thống giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói nghèo; khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng đi đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc.
54 dân tộc sinh sống trên đất nước Việt Nam có ngôn ngữ riêng và nền văn hóa truyền thống đặc sắc của mình. 24 dân tộc có chữ viết riêng như tiếng Thái, Mông, Tày, Nùng, Khmer, Gia Rai, Ê đê, Hoa, Chăm… Một số chữ viết này đang được sử dụng trong các trường học.
Trong quá trình phát triển, tiếng Việt được chọn là ngôn ngữ chung cho các dân tộc. Trong hệ thống giáo dục từ mẫu giáo đến bậc đại học, tiếng Việt là ngôn ngữ phổ thông, là công cụ để truyền thụ kiến thức; đồng thời cũng là công cụ giao tiếp, quản lý Nhà nước của các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam.
Chữ viết tiếng Việt ngày nay có xuất xứ từ thế kỷ XVII khi một nhóm các nhà truyền giáo châu Âu mà đại diện là giáo sỹ Alexandre de Rhodes đã giới thiệu mẫu chữ dựa trên mẫu tự La tinh. Sau đó chữ viết tiếng Việt ngày càng được phát triển và hoàn thiện đã trở thành chữ viết chính thức của Việt Nam từ đầu thế kỷ XX. Sau khi giành độc lập, Nhà nước Việt Nam đã sử dụng tiếng Việt và chữ viết (hiện nay) trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội Việt Nam.
Tạo bởi tungph
Cập nhật 22-08-2007
Văn hóa-Xã hội
•
•
•
Văn hoá Việt Nam
Đời sống gia đình: Trong xã hội truyền thống Việt Nam trước đây, một gia đình điển hình thường bao gồm ba, bốn thế hệ cùng sống chung. Với tâm lý "nhiều con, nhiều lộc" nên mọi gia đình mong muốn "con đàn, cháu đống”. Do ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo và quan niệm phong kiến "trọng nam, khinh nữ", con trai luôn được coi là trụ cột trong gia đình và có tiếng nói quyết định. Còn phụ nữ phải tuân thủ lễ giáo phong kiến ‘tam tòng, tứ đức” (lúc nhỏ sống dựa vào cha, lớn lên lấy chồng phải tuân thủ theo chồng, chồng chết phải ở vậy sống theo con trai).
Kể từ khi đất nước thống nhất, Nhà nước Việt Nam đã thông qua nhiều văn bản luật, điển hình là Luật Hôn nhân và Gia đình để điều chỉnh các mối quan hệ trong gia đình cho bình đẳng hơn. Bên cạnh đó, nhiều biện pháp tuyên truyền vận động cũng được thực hiện nhằm thay đổi nhận thức lạc hậu của người dân, đảm bảo bình đẳng giới, đấu tranh cho quyền lợi chính đáng của phụ nữ.
Ngày nay, quy mô một gia đình hiện đại Việt Nam có xu hướng thu hẹp lai, chỉ 2-3 thế hệ. Số con của một cặp vợ chồng là hai (chiếm đa số), tư tưởng “trọng nam, khinh nữ” không nặng nề như xưa và dần dần bị loại bỏ. Truyền thống "kính trên, nhường dưới" có từ xa xưa vẫn luôn được duy trì và phát huy trong mỗi gia đình Việt Nam.
Phục trang: Hầu hết các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam đều có trang phục riêng mang đậm bản sắc truyền thống của dân tộc mình. Nhìn chung đa phần trang phục của các dân tộc được trang trí hoa văn có màu sắc rực rỡ, tương phản: đen - trắng, đen - đỏ, xanh - đỏ hoặc xanh - trắng. Nhiều dân tộc trên trang phục có nét hoa văn tạo nên vẻ đẹp huyền bí gây ấn tượng mạnh. Hầu hết các dân tộc ở Việt Nam đều được dệt từ sợi có nguồn gốc tự nhiên như sợi gai, tơ tằm, tơ dứa, sợi bông..., vừa đẹp, vừa bền mà thoáng mát phù hợp khí hậu nhiệt đới.
Thường phục truyền thống của người Việt đối với đàn ông là quần trắng, áo nâu, đầu vấn khăn, chân đi guốc hoặc dép. Bỗ lễ phục thêm áo dài đen bằng vải hoặc the, đầu đội khăn xếp. Đối với phụ nữ, trang phục cầu kỳ và rực rỡ hơn: váy đen, yếm trắng, áo tứ thân, đầu chít khăn mỏ quạ, thắt lưng hoa lý. Bộ lễ phục gồm ba chiếc áo, ngoài cùng là chiếc áo tứ thân bằng the thâm hay màu nâu non, kế đến là chiếc áo màu mỡ gà và trong cùng là chiếc áo màu cánh sen. Khi mặc, cả ba chiếc áo chỉ cài khuy bên sườn, phần từ ngực đến cổ lật chéo để lộ ba màu áo. Trong cùng là chiếc yếm thắm. Đầu đội nón trông rất duyên dáng và kín đáo. Cách ăn mặc truyền thống này đã mang đến cho người phụ nữ Việt một vẻ đẹp đằm thắm, dịu dàng, thướt tha.
Ngày nay, trang phục truyền thống của người Việt đã thay đổi. Bộ âu phục thay thế cho bộ đồ truyền thống của đàn ông. Chiếc áo dài khởi phát từ thời chúa Nguyễn Phúc Khoát ngày càng được cải tiến và hoàn thiện hơn, được phụ nữ Việt Nam ưa thích mặc vào nhiều dịp lễ hội quan trọng trong năm. Chiếc áo dài hiện tại có thân tương đối bó sát thân người, hai tà áo thả xuống ngang nửa ống chân, làm cho thân thể người phụ nữ hiện lên những đường cong mềm mại, dịu dàng nhưng kín đáo, phù hợp với vóc dáng nhỏ nhắn của người phụ nữ Việt Nam.
Hiện nay, việc giao lưu giữa các nền văn hóa trên thế giới ngày càng mở rộng, trang phục của người Việt nam ngày càng phong phú và mang tính hòa nhập và thời trang hơn, nhất là trong trong giới trẻ ở thành phố.
Một số lễ hội lớn của Việt Nam: Sinh hoạt lễ hội là loại hình văn hóa dân gian đặc trung tại mọi miền trên đất nước Việt Nam. Trong tâm lý và tình cảm, lễ hội mang lại sự thanh thản cho con người Việt Nam, gạt đi những lo toan thường nhật, tăng thêm sự gắn bó và tình yêu đối với thiên nhiên, đất nước. Là một nước nông nghiệp, nên hầu hết các lễ hội diễn ra vào lúc "nông nhàn" - mùa xuân và mùa thu. trong đó có một số lễ hội chung cho mọi người trên khắp đất nước như Tết Nguyên Đán, Rằm Tháng Bẩy, Rằm Tháng Tám, Lễ Hội Đền Hùng.
Tết Nguyên Đán (thường vào cuối tháng Giêng, đầu tháng Hai hàng năm): Tết là ngày hội lớn nhất trong năm của cả dân tộc Việt Nam. Đây là dịp cả gia đình xum họp, cùng nhau thưởng thức những món ăn truyền thống, đi thăm hỏi và chúc tụng những người trong gia tộc, bạn bè, đồng nghiệp. Trong quan niệm của mọi người, Tết là sự kết thúc của năm cũ - kết thúc của những điều xấu, rủi ro để bước sang năm mới với những điều tốt lành sẽ đến. Giao thừa là lúc thiêng liêng nhất; mọi gia đình đều lấy khoảng khắc này để đặt lễ, thắp hương thờ cúng thần linh, tổ tiên. Ngoài việc cúng giao thừa, còn nhiều tập tục vẫn được duy trì vào dịp Tết như xông đất, hái lộc, mừng tuổi.
Tết Trùng Nguyên (Rằm tháng Bảy âm lịch): Theo Phật giáo, ngày này các âm hồn được lên trần hưởng lộc. Hầu hết các gia đình đều làm cỗ cúng gia tiên; cúng xong đốt vàng mã cho vong hồn dùng. Bên cạnh đó còn có lễ vật (cháo, bỏng gạo, bánh đa, hoa quả…) cúng cho những cô hồn lang thang, không người hương khói. Lễ vật sau khi cúng xong chủ nhà chia cho trẻ nhỏ để lấy khước.
Tết Trung Thu (Rằm tháng Tám âm lịch): Đối tượng của Tết Trung thu chủ yếu là trẻ em. Các gia đình Việt Nam, đặc biệt những gia đình có trẻ em đều tổ chức đón Tết này. Tối đêm Rằm, hầu hết các gia đình có trẻ em đều có mâm cỗ trông trăng. Cỗ trung thu chủ yếu là bánh kẹo và hoa quả được tạo thành các con giống bày trên mâm cỗ. Đây cũng là dịp người lớn mua nhiều đồ chơi cho trẻ nhỏ. Đêm Rằm, không khí thật náo nhiệt bởi tiếng vui đùa của trẻ nhỏ, ánh sáng của trăng, đèn, nến các loại và của những điệu múa hát của trẻ nhỏ (rước đèn Trung Thu, múa Sư Tử…)
Giỗ tổ Hùng Vương: Ngày 10/3 âm lịch hàng năm là ngày Giỗ tổ Vua Hùng. Ngày Giỗ tổ được tổ chức tại khắp mọi miền đất nước Việt Nam và cả ở nhiều nước trên thế giới, nơi có đông cộng đồng người Việt Nam sinh sống. Nơi tổ chức Lễ Giỗ tổ chính thức luôn là Phú Thọ (kinh đô của Nhà nước đầu tiên của Việt Nam – Văn Lang), nơi đặt Đền thờ 18 vị Vua Hùng. Những lễ phẩm có tính chất tục lệ của Việt Nam được làm ra và dâng cúng vào dịp này gồm đèn, hương, rượu, trầu cau, nước lã, bánh trưng, bánh dày. Những năm gần đây, Giỗ tổ Hùng Vương được coi như Quốc Lễ, được tổ chức với các nghi thức rất cao, có cả nhạc lễ, phục lễ cùng với sự tham dự của các quan chức Đảng, Nhà nước, Chính phủ và của Tỉnh Phú Thọ.
Văn học: Việt Nam có một nền văn học phát triển khá sớm mang bản sắc riêng. Là một quốc gia có nhiều dân tộc sinh sống, mỗi dân tộc đều có nền văn học riêng của mình, tất cả tạo nên một nền văn học Việt Nam đa bản sắc.
Văn học cổ: bao gồm dòng văn học dân gian, văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm. Dòng văn học dân gian xuất hiện trong quá trình lao động sản xuất, xây dựng và đấu tranh ngay từ thuở sơ khai, chủ yếu là truyền miệng dưới nhiều hình thức khác nhau như truyện kể, thần thoại, sử thi, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, truyện thơ, tục ngữ, ca dao, câu đố, vè... được truyền từ đời này sang đời khác. Dòng văn học chữ Hán: Chữ Hán bắt đầu du nhập vào Việt Nam từ đầu thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất. Sau khi giành được độc lập dân tộc (năm 938), các triều đại phong kiến Việt Nam, với tinh thần tự lực, tự cường đã phát triển nền văn học Việt Nam và sử dụng chữ Hán để ghi lại. Nhiều áng văn thơ bất hủ bằng chữ Hán còn lưu lại đến ngày nay như Bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt, Hịch Tướng Sỹ của Trần Hưng Đạo; Đại Việt Sử ký của Lê Văn Hưu. Dòng văn học chữ Nôm: Chữ Nôm được Việt hóa từ chữ Hán. Văn học chữ Nôm xuất hiện từ thế kỷ VIII, được phát triển đỉnh cao vào thế kỷ XVIII và tiếp tục phát triển tới đầu thế kỷ XX. Nhiều tác phẩm nổi tiếng được lưu danh tới ngày nay như Bình Ngô Đại Cáo, Quốc Âm Thi Tập với 254 bài thơ của đại danh nhân Văn hóa Thế giới Nguyễn Trãi; tác phẩm Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập Vua Lê Thánh Tông; Bách Vân Thi Tập của nhà học giả Nguyễn Bỉnh Khiêm; Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn với; hay những vần thơ thể hiện khát vọng cho quyền bình đẳng nam nữ trong chế độ phong kiến của “Bà Chúa Thơ Nôm" Hồ Xuân Hương… Đỉnh cao phát triển của văn học của thời kỳ này là Truyện Kiều của nhà đại thi hào Nguyễn Du. Bên cạnh đó, những tác phẩm lịch sử viết bằng chữ Nôm cũng xuất hiện nhiều như bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của các nhà sử thần nhà Lê (Phan Phu Tiên, Ngô Sỹ Liên, Vũ Quỳnh) hay Lê Triều Thông Sử của học giả Lê Quý Đôn…
Văn học hiện đại: Việc xuất hiện chữ Quốc ngữ là tiền đề sản sinh nền văn học mới, văn học hiện đại. Những tác phẩm đầu tiên, đánh dấu sự xuất hiện của văn học quốc ngữ là các tiểu thuyết "Ai làm được", "Ngọn cỏ gió đùa" của Hồ Biểu Chánh, "Tố tâm" của Hoàng Ngọc Phách, "Dưa đỏ" của Nguyễn Trọng Thuật, Tuyển tập các câu chuyện dân gian của Trương Vĩnh Ký… Văn học Việt Nam hiện đại ngày càng phát triển mạnh với sự ra đời hàng loạt các tác phẩm văn xuôi, thơ bằng chữ quốc ngữ của những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như Tản Đà, Thế Lữ, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Nam Cao... Trong giai đoạn 1945-1975 các tác phẩm văn học của các tác giả giai đoạn này thể hiện rõ khát vọng của toàn dân tộc mong muốn hòa bình, độc lập, kêu gọi mọi người dân đứng lên đấu tranh giành lập độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.
Kể từ khi đất nước được thống nhất, với chủ trương “xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", giới văn nghệ sỹ Việt Nam đi sâu phản ánh nhiều mặt của đời sống xã hội, đấu tranh chống những tiêu cực trong, kêu gọi mọi người chung sức xây dựng một đất nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh". Nền văn học Việt Nam, với sự đóng góp của gần 1000 nhà thơ, nhà văn, ngày càng phát triển nhanh dưới các loại hình: văn xuôi, thơ, phê bình lý luận... đóng góp to lớn cho sự phát triển của nền văn hóa Việt Nam.
Nghệ thuật biểu diễn: Trong nghệ thuật biểu diễn của Việt Nam có nhiều thể loại như chèo, tuồng, cải lương, rối nước, ca múa nhạc cung đình, hát quan họ, chầu văn, ca trù, hát then, lý Nam Bộ… nhưng phổ biến nhất và thường được biểu diễn nhiều nhất là chèo, cải lương, rối nước, lý Nam Bộ và nhã nhạc (một hình thức của ca múa nhạc cung đình). Dưới đây là sơ lược một vài loại hình trong nghệ thuật biểu diễn.
Ca múa nhạc cung đình: Ca múa nhạc cung đình phát triển mạnh vào triều đại vua Lê Thái Tông với nhiều loại hình ca múa nhạc phong phú như Trung cung chỉ nhạc, Yến nhạc, Nhã nhạc, Đại nhạc, Văn vũ, Võ vũ… Dưới triều nhà Nguyễn, ca múa nhạc cung đình phát triển rực rỡ với những điệu múa Bát dật biểu diễn trong các lễ tế trời của các vị vua Triều Nguyễn tại Đàn Nam Giao, Múa quạt, Tam tinh Chúc thọ, Bát tiên hiến, Lục triệt hoa mã đăng, Lục cúng hoa đăng trong các nghi lễ của triều đình phong kiến. Nhiều điệu múa, bản nhạc cung đình còn được lưu giữ và phát triển cho đến ngày nay. Năm 2003, UNESCO đã chính thức công nhận Nhã nhạc cung đình Huế là Di sản văn hóa phi vật thể của thế giới.
Múa rối nước: Nghệ thuật múa rối nước của Việt Nam là loại hình sân khấu cổ truyền được ưa chuộng khắp nơi trên thế giới. Múa rối nước xuất hiện từ thời Lý (1009 - 1225). Một vở rối nước thường có nhiều nhân vật. Mỗi nhân vật (con rối) là tác phẩm điêu khắc dân gian, mang dáng vẻ khác nhau, tính cách khác nhau. Con rối được làm bằng gỗ, bên ngoài phủ lớp chống thấm nước. Nhân vật tiêu biểu của rối nước là chú Tễu với thân hình tròn trĩnh và nụ cười hóm hỉnh lạc quan. Nghệ nhân biểu diễn con rối phải ngâm mình dưới nước sau màn sân khấu để điều khiển con rối thông qua máy sào, máy dây. Nhạc đệm cho cuộc diễn là bộ gõ gồm trống, mõ, thanh la…
Chèo: Bắt nguồn từ âm nhạc và múa dân gian, chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống tiêu biểu nhất của Việt Nam. Lúc đầu xuất hiện ở các làng quê, dần trở thành loại hình sân khấu tiêu biểu của cư dân đồng bằng Bắc Bộ. Nghệ thuật chèo bao gồm múa, hát, âm nhạc và văn học trong tích trò. Văn chèo tự sự (kể chuyện) mang đậm tính trữ tình của ca dao, tục ngữ; tràn đầy tính lạc quan trong những cái cười dân dã, thông minh, hóm hỉnh, trí tuệ; tính nhân văn rất rõ nét; thể hiện khát khao vươn tới hạnh phúc và xã hội hòa thuận, bảo vệ quyền con người; cái thiện luôn thắng cái ác. Nhân vật trong chèo mang tính ước lệ, chuẩn hóa với tính cách và tâm lý không thay đổi trong suốt vở. Một số vở chèo nổi tiếng thu hút sự quan tâm của nhiều thế hệ khán giả là Quan Âm Thị Kính, Chu Mãi Thần, Kim Nhan… được xếp vào vốn quý của sân khấu cổ truyền dân tộc.
Cải lương: là loại hình sân khấu kịch hát dân tộc ra đời vào đầu thế kỷ 20. Nguồn gốc của cải lương là các bài hát lý, ca nhạc tài tử ở miền Tây Nam Bộ. Cải lương sử dụng nhiều cách diễn, âm nhạc của tuồng Việt Nam. Cũng như các nghệ thuật kịch hát dân tộc khác, cải lương bao gồm múa, hát, âm nhạc. Nhạc cụ chủ đạo trong dàn nhạc cải lương là đàn ghi ta phím lõm và đàn nguyệt. Nhiều vở diễn đã thu hút sự quan tâm của người hâm mộ như Lục Vân Tiên, Lưu Bình Dương Lễ, Đời Cô Lựu, Tô Ánh Nguyệt và Mộng Hoa Vương, Nửa đời hương phấn, Chim Việt cành Nam, Thái hậu Dương Vân Nga…
Hát quan họ (hay Quan họ Bắc Ninh): bắt nguồn từ những lối hát đối đáp nam nữ có từ lâu đời. Hát quan họ chủ yếu chỉ được tổ chức ở mỗi làng, mỗi năm một lần vào dịp hội làng. Nó gắn liền với tục kết bạn nam nữ, kết nghĩa giữa hai làng khác nhau. Hát quan họ bao giờ cũng hát đôi, trình tự hát vừa theo nội dung vừa theo làn điệu, đối lời kèm theo đối giọng. Hơn 180 làn điệu quan họ còn lưu giữ đến nay đều mang nội dung giao duyên trữ tình thắm thiết, với lời hay, ý đẹp, ngôn ngữ bình dân nhưng tinh tế, ý nhị, giàu hình tượng và cảm xúc, với âm điệu phong phú, trữ tình, với lối hát mượt mà, kỹ thuật "vang rền nền nảy" độc đáo. Tất cả điều này đã làm nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn của dân ca.
Kiến trúc dân gian: bao gồm kiến trúc gỗ, kiến trúc gạch đá, kiến trúc tre nứa lá khá phổ biến ở khắp mọi nơi trên đất nước Việt Nam. Trong khi kiến trúc tranh nứa lá phổ biến dưới dạng nhà ở của những cư dân tại nhiều vùng nông thôn Việt Nam thì kiến trúc gỗ phổ biến và tiêu biểu nhất lại thể hiện dưới dạng chùa, đình, nhà của những gia đình giàu có trên khắp đất nước. Có thể điểm tên một số di tích về kiến trúc gỗ như Chùa Một Cột, chùa Dâu, chùa Bối Khê, chùa Thái Lạc, chùa Keo, chùa Bút Tháp, chùa Tây Phương, đình Đình Bảng, những ngôi nhà cổ tại các thành phố lớn, nhất là tại Hà Nội, Hội An và Huế... Kiến trúc gạch đá: tiêu biểu được lưu giữ đến ngày nay là tháp chùa (tháp Hòa Phong, tháp Báo Thiên, tháp chùa Phổ Minh, tháp chùa Thiên Mụ…), cổng thành, tường thành (cổng thành nhà Hồ, cổng thành Hà Nội…), tam quan chùa đền (tam quan Văn Miếu, tam quan Trấn Vũ, cửa Hiển Nhân), Cột cờ Hà Nội, cửa Ngọ Môn Huế... Kiến trúc gạch đá còn một bộ phận đáng kể các đền đài do người Chăm xây dựng (thường gọi là tháp Chăm) nằm rải rác từ Quảng Nam vào đến Bình Thuận, tiêu biểu và tập trung nhất ở Khu di tích Mỹ Sơn.
Kiến trúc ngoại du: Từ thế kỷ 19, kiến trúc Việt Nam có sự chuyển hóa, hòa trộn giữa hai trường phái kiến trúc của Châu Âu, Bắc Mỹ và kiến trúc truyền thống Á Đông. Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng với những khu phố theo kiểu ô bàn cờ thuận lợi cho việc đi lại. Nhiều tòa nhà đươc xây dựng theo phong cách cổ điển Châu Âu Phủ Chủ tịch, Tòa án Tối cao, Nhà hát lớn Hà Nội, Ngân hàng Ngoại thương, Tòa Thị chính Sài Gòn, Bưu điện Trung tâm thành phố Sài Gòn, một số biệt thự… Bức tranh kiến trúc thời kỳ này xuất hiện những nét mới, đó là những nhà thờ đạo Thiên Chúa ở Sài Gòn, Hà Nội, Huế và xứ đạo các địa phương. Một điều khá thú vị là ngay cả những công trình kiến trúc mang đậm phong cách châu Âu ấy khi xây ở Việt Nam lại được pha lẫn bóng dáng đình chùa và những nét kiến trúc truyền thống của Việt Nam, mà tiêu biểu nhất là nhà thờ Phát Diệm.
Giai đoạn 1954–1975: ở Miền Bắc nhiều công trình được dựng lên theo kiểu kiến trúc của Liên Xô (cũ) như trụ sở Bộ Xây dựng, Bộ Công nghiệp, đặc biệt là Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh; ở miền Nam nhiều tòa nhà được xây theo lối kiến trúc Mỹ mà tiêu biểu là Khách sạn Palace, Thư viện Quốc gia (nay là Thư viện Khoa học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh), Dinh Độc lập… Kiến trúc giai đoạn Đổi Mới: Nhiều công trình lớn hiện đại với phong cách kiến trúc khác nhau như các khách sạn, tòa nhà văn phòng liên doanh (Horison, Tháp Hà Nội, Sophitel Plaza, Omni, New World…) được xây dựng. Giống như nhiều quốc gia khác, kiến trúc ngày nay thường bao gồm 4 mảng chính: thiết kế nội thất, thiết kế kiến trúc, thiết kế quy hoạch đô thị, thiết kế môi trường và quy hoạch vùng.
Tranh dân gian: Tranh dân gian gồm hai loại, tranh Tết và tranh Thờ. Tranh dân gian gắn liến với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và các vị thần linh. Tranh dân gian thường được in với kỹ thuật khắc ván để in với số lượng lớn. Tranh dân gian phát triển khá mạnh vào thế kỷ thứ 16, sang thế kỷ thứ 18, 19 phát triển ổn định ở mức cao. Dựa vào phong cách nghệ thuật, kỹ thuật in vẽ và nguyên liệu làm tranh, có thể quy về một số dòng tranh khác nhau.
Tranh dân gian ngày nay hầu hết đã bị thất truyền. Trong số ít dòng tranh còn tồn tại và được bảo tồn có dòng tranh Đông Hồ được bảo tồn, phát triển và hiện có mặt ở nhiều nước như Nhật, Pháp, Mỹ… Đông Hồ là một làng nhỏ nằm ven bờ nam sông Đuống, tỉnh Bắc Ninh. Nghệ thuật làm tranh Đông Hồ từ các khâu như vẽ mẫu, khắc bản in, sản xuất giấy, chế biến màu, rồi đến các khâu in vẽ tranh đều có những điểm độc đáo về kỹ thuật, mỹ thuật (màu được chế biến từ nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên; giấy dó làm tranh là loại giấy làm thủ công).
Hội họa ngày nay: Việc thành lập trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1924 là một bước chuyển quan trọng trong phát triển nền nghệ thuật tạo hình đương đại của Việt Nam. Tên tuổi của lớp họa sỹ đầu tiên của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương với những tác phẩm nổi tiếng được thế giới biết đến như “Phố cổ Hà Nôi" của Bùi Xuân Phái, bức tranh lụa "Chơi ô ăn quan" của Nguyễn Phan Chánh, "Em Thúy" của Trần Văn Cẩn hay “Thiếu nữ bên hoa Huệ" của Tô Ngọc Vân, tranh sơn mài "Bên Hồ Gươm" của Nguyễn Gia Trí, tranh sơn mài "Tiễn anh khóa đi thi" của Tô Ngọc Vân. Đây là những kiệt tác nghệ thuật vô giá trong kho tàng văn hóa của Việt Nam. Lớp họa sỹ ngày nay, kế tiếp lớp đàn anh, chú trọng tiếp nhận tinh hoa nghệ thuật thế giới, đồng thời tìm tòi phong cách thể hiện mới cho hội họa Việt Nam như sơn dầu, sơn mài, tranh lụa... Tên tuổi lớp họa sỹ này được nhiều người biết đến thông qua những tác phẩm của họ là Lưu Công Nhân, Phạm Công Thành, Nguyễn Thụ, Đặng Xuân Hòa, Thành Chương... đang góp phần làm phong phú thêm kho tàng mỹ thuật đương đại Việt Nam.
Điêu khắc cổ: Trong di sản nghệ thuật truyền thống, điêu khắc có một lịch sử phát triển liên tục và cô đúc hình ảnh con người Việt Nam từng miền, từng thời, dù dưới dạng thần linh hay con người thế tục. Nền điêu khắc cổ Việt Nam rất đa dạng nhưng chủ yếu tồn tại các bộ phận điêu khắc sau: Điêu khắc thời tiền sử với những hình điêu khắc trên đá, trong hang động, trên trống đồng, các đồ gia dụng…; điêu khắc vương quốc Phù Nam và Chân Lạp ở Nam Bộ; điêu khắc Chăm Pa ở Trung Nam Bộ; điêu khắc Đại Việt ở Bắc Bộ; điêu khắc nhà mồ của thổ dân Tây Nguyên. Mặc dù trải qua bao năm tháng chiến tranh, nhưng hiện nay ở nhiều nơi trên đất nước Việt Nam vẫn bảo tồn được nhiều đình, chùa miếu mạo với nhiều tượng Phật và các phù điêu.
Nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam có lịch sử lâu đời và phong phú với nhiều mặt hàng nổi tiếng cả trong và ngoài nước. Các sản phẩm gốm, sơn mài, lụa, mây tre… có mặt tại nhiều nơi trên thế giới và được ưa chuộng. Một số nghề vẫn còn lưu giữ và phát triển tới ngày hôm nay, tạo ra công ăn việc làm và thu nhập cho nhiều lao động, đóng góp lớn cho xuất khẩu như nghề làm gốm, dệt lụa, sơn mài, đan lát mây tre, đan nón, đúc đồng, làm đồ gỗ…
Nổi bật trong số các nghề truyền thống là: Nghề gốm với nhiều loại sản phẩm khác nhau phục vụ nhu cầu dân dụng và công nghiệp. Ở Việt Nam có nhiều nơi làm nghề gốm như Bắc Giang, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Đồng Nai, Đồng Tháp và Bát Tràng của Hà Nội, gốm Chăm. Nghề dệt lụa: xuất hiện từ rất sớm trên khắp đất nước Việt Nam, nhưng nổi tiếng và còn bảo tồn và phát triển tới ngày hôm nay có Vạn Phúc (Hà Đông), Phương Tành - Trực Ninh (Nam Định). Từ thế kỷ XV, lụa Việt Nam đã theo chân các thương gia và được nhiều nơi trên thế giới biết đến. Nghề đan lát mây tre: Với lịch sử hàng nghìn năm, nghề này gắn liền với các loại nguyên liệu tự nhiên sẵn có tại khắp các miền trên đất nước Việt Nam. Bàn tay khéo léo của người thợ thủ công Việt Nam đã cho ra đời nhiều mẫu mã đẹp, hấp dẫn như bàn ghế, gường tủ, khay bàn hoa quả, lẵng cắm hoa…. Những địa phương nổi tiếng làm những mặt hàng này phải kể đến Hà Tây, Thanh Hóa.
Tạo bởi tungph
Cập nhật 21-08-2007
Một số thông tin về địa lý Việt Nam
•
•
•
Việt Nam là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, ven biển Thái Bình Dương. Việt Nam có đường biên giới trên đất liền dài 4.550 km tiếp giáp với Trung Quốc ở phía Bắc, với Lào và Căm-pu-chia ở phía Tây; phía Đông giáp biển Đông. Trên bản đồ, dải đất liền Việt Nam mang hình chữ S, kéo dài từ vĩ độ 23o23’ Bắc đến 8o27’ Bắc, dài 1.650 km theo hướng bắc nam, phần rộng nhất trên đất liền dài chừng 500 km; nơi hẹp nhất dài gần 50 km.
Địa hình Việt Nam đa dạng: đồi núi, đồng bằng, bờ biển và thềm lục địa, phản ánh lịch sử phát triển địa chất, địa hình lâu dài trong môi trường gió mùa, nóng ẩm, phong hóa mạnh mẽ. Địa hình thấp dần theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, được thể hiện rõ qua hướng chảy của các dòng sông lớn.
Đồi núi chiếm tới 3/4 diện tích lãnh thổ nhưng chủ yếu là đồi núi thấp. Địa hình thấp dưới 1.000 m chiếm tới 85% lãnh thổ. Núi cao trên 2.000 m chỉ chiếm 1%. Đồi núi Việt Nam tạo thành một cánh cung lớn hướng ra Biển Đông, chạy dài 1400 km, từ Tây Bắc tới Đông Nam Bộ. Những dãy núi đồ sộ nhất đều nằm ở phía Tây và Tây Bắc với đỉnh Phan-xi-phăng cao nhất bán đảo Đông Dương (3.143m). Càng ra phía đông, các dãy núi thấp dần và thường kết thúc bằng một dải đất thấp ven biển. Từ đèo Hải Vân vào Nam, địa hình đơn giản hơn. Ở đây không có những dãy núi đá vôi dài mà có những khối đá hoa cương rộng lớn, thỉnh thoảng nhô lên thành đỉnh cao; còn lại là những cao nguyên liên tiếp hợp thành Tây Nguyên, rìa phía đông được nâng lên thành dãy Trường Sơn.
Đồng bằng chỉ chiếm ¼ diện tích trên đất liền và bị đồi núi ngăn cách thành nhiều khu vực. Ở hai đầu đất nước có hai đồng bằng rộng lớn, phì nhiêu là đồng bằng Bắc Bộ (lưu vực sông Hồng, rộng 16.700 km2) và đồng bằng Nam Bộ (lưu vực sông Mê Công, rộng 40.000 km2). Nằm giữa hai châu thổ lớn đó là một chuỗi đồng bằng nhỏ hẹp, phân bố dọc theo duyên hải miền Trung, từ đồng bằng thuộc lưu vực sông Mã (Thanh Hóa) đến Phan Thiết với tổng diện tích 15.000 km2.
Việt Nam có ba mặt Đông, Nam và Tây-Nam trông ra biển với bờ biển dài 3.260 km, từ Móng Cái ở phía Bắc đến Hà Tiên ở phía Tây Nam. Phần Biển Đông thuộc chủ quyền Việt Nam mở rộng về phía Đông và Đông Nam, có thềm lục địa, các đảo và quần đảo lớn nhỏ bao bọc. Chỉ riêng Vịnh Bắc Bộ đã tập trung một quần thể gần 3.000 hòn đảo trong khu vực Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, các đảo Cát Hải, Cát Bà, đảo Bạch Long Vĩ... Xa hơn là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Phía Tây - Nam và Nam có các nhóm đảo Côn Sơn, Phú Quốc và Thổ Chu.
Việt Nam nằm trong vành đai nội chí tuyến, quanh năm có nhiệt độ cao và độ ẩm lớn. Phía Bắc chịu ảnh hưởng của lục địa Trung Hoa nên ít nhiều mang tính khí hậu lục địa. Biển Đông ảnh hưởng sâu sắc đến tính chất nhiệt đới gió mùa ẩm của đất liền. Khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm không thuần nhất trên toàn lãnh thổ Việt Nam, hình thành nên các miền và vùng khí hậu khác nhau rõ rệt. Khí hậu Việt Nam thay đổi theo mùa và theo vùng từ thấp lên cao, từ Bắc vào Nam và từ Đông sang Tây. Do chịu sự tác động mạnh của gió mùa Đông Bắc nên nhiệt độ trung bình ở Việt Nam thấp hơn nhiệt độ trung bình nhiều nước khác cùng vĩ độ ở Châu Á.
Việt Nam có thể được chia ra làm hai đới khí hậu lớn: (1) Miền Bắc (từ đèo Hải Vân trở ra) là khí hậu nhiệt đới gió mùa, với 4 mùa rõ rệt (Xuân-Hạ-Thu-Đông), chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc và gió mùa Đông Nam . (2) Miền Nam (từ đèo Hải Vân trở vào) do ít chịu ảnh hưởng của gió mùa nên khí hậu nhiệt đới khá điều hòa, nóng quanh năm và chia thành hai mùa rõ rệt (mùa khô và mùa mưa).
Bên cạnh đó, do cấu tạo của địa hình, Việt Nam còn có những vùng tiểu khí hậu. Có nơi có khí hậu ôn đới như tại Sa Pa, tỉnh Lào Cai; Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng; có nơi thuộc khí hậu lục địa như Lai Châu, Sơn La. Đây là những địa điểm lý tưởng cho du lịch, nghỉ mát.
Nhiệt độ trung bình tại Việt Nam dao động từ 21oC đến 27oC và tăng dần từ Bắc vào Nam. Mùa hè, nhiệt độ trung bình trên cả nước là 25oC (Hà Nội 23oC, Huế 25oC, thành phố Hồ Chí Minh 26oC). Mùa Đông ở miền Bắc, nhiệt độ xuống thấp nhất vào các tháng Mười Hai và tháng Giêng. Ở vùng núi phía Bắc, như Sa Pa, Tam Đảo, Hoàng Liên Sơn, nhiệt độ xuống tới 0oC, có tuyết rơi.
Việt Nam có lượng bức xạ mặt trời rất lớn với số giờ nắng từ 1.400 - 3.000 giờ/năm. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.500 đến 2.000 mm. Độ ẩm không khí trên dưới 80%. Do ảnh hưởng gió mùa và sự phức tạp về địa hình nên Việt Nam thường gặp bất lợi về thời tiết như bão, lũ lụt, hạn hán (trung bình một năm có 6-10 cơn bão và áp thấp nhiệt đới, lũ lụt, hạn hán đe dọa).
Việt Nam có một mạng lưới sông ngòi dày đặc (2.360 con sông dài trên 10 km), chảy theo hai hướng chính là tây bắc- đông nam và vòng cung. Hai sông lớn nhất là sông Hồng và sông Mê Công tạo nên hai vùng đồng bằng rộng lớn và phì nhiêu. Hệ thống các sông suối hàng năm được bổ sung tới 310 tỷ m3 nước. Chế độ nước của sông ngòi chia thành mùa lũ và mùa cạn. Mùa lũ chiếm tới 70-80% lượng nước cả năm và thường gây ra lũ lụt.
Đất ở Việt Nam rất đa dạng, có độ phì cao, thuận lợi cho phát triển nông, lâm nghiệp. Việt Nam có hệ thực vật phong phú, đa dạng (khoảng 14 600 loài thực vật). Thảm thực vật chủ yếu là rừng rậm nhiệt đới, gồm các loại cây ưa ánh sáng, nhiệt độ lớn và độ ẩm cao.
Quần thể động vật ở Việt Nam cũng phong phú và đa dạng, trong đó có nhiều loài thú quý hiếm được ghi vào Sách Đỏ của thế giới. Hiện nay, đã liệt kê được 275 loài thú có vú, 800 loài chim, 180 loài bò sát, 80 loài lưỡng thể, 2.400 loài cá, 5.000 loài sâu bọ. (Các rừng rậm, rừng núi đá vôi, rừng nhiều tầng lá là nơi cư trú của nhiều loài khỉ, vẹc, vượn, mèo rừng. Các loài vẹc đặc hữu của Việt Nam là vẹc đầu trắng, vẹc quần đùi trắng, vẹc đen. Chim cũng có nhiều loài chim quý như trĩ cổ khoang, trĩ sao. Núi cao miền Bắc có nhiều thú lông dày như gấu ngựa, gấu chó, cáo, cầy...)
Việt Nam đã giữ gìn và bảo tồn một số vườn quốc gia đa dạng sinh học quý hiếm như Vườn quốc gia Hoàng Liên Sơn (khu vực núi Phan-xi-păng, Lào Cai), Vườn quốc gia Cát Bà (Quảng Ninh), vườn quốc gia Cúc Phương (Ninh Bình), vườn quốc gia Pù-mát (Quảng Bình), vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng (Quảng Bình), vườn quốc gia Bạch Mã (Thừa Thiên Huế), vườn quốc gia Côn Đảo (đảo Côn Sơn, Bà Rịa-Vũng Tàu), vườn quốc gia Cát Tiên (Đồng Nai)… Các vườn quốc gia này là nơi cho các nhà sinh học Việt Nam và thế giới nghiên cứu khoa học, đồng thời là những nơi du lịch sinh thái hấp dẫn.
Tạo bởi tungph
Cập nhật 21-08-2007
Hội nghị Quốc tế về Kinh tế Đối ngoại Việt Nam năm 2009
•
•
•
“ĐỊNH VỊ VIỆT NAM TRONG TƯƠNG LAI”
(Website-BNG) - Tiếp nối thành công của Hội nghị Quốc tế về Kinh tế Đối ngoại Việt Nam 2008, Báo Thế Giới & Việt Nam (Bộ Ngoại giao) phối hợp với Economist Conferences (EC) thuộc Tập đoàn truyền thông hàng đầu thế giới sẽ tổ chức Hội nghị Quốc tế về Kinh tế Đối ngoại Việt Nam lần thứ II, từ ngày 17-18/3/2009 tại khách sạn Melia, Hà Nội.
Với chủ đề "Định vị Việt Nam trong tương lai", Hội nghị sẽ là cơ hội giao lưu và đối thoại trực tiếp giữa các nhà lãnh đạo của Chính phủ Việt Nam với các doanh nhân, nhà đầu tư cao cấp của 150 tập đoàn xuyên quốc gia đến từ gần 30 nước và 100 doanh nghiệp Việt Nam. Để tìm cách khắc phục khó khăn kinh tế chung, Hội nghị sẽ có cuộc hội thảo đặc biệt với hình thức bàn tròn 4 phiên với khoảng 20 đề tài khác nhau tập trung vào việc cải thiện chính sách vĩ mô, triển vọng kinh tế và môi trường kinh doanh ở Việt Nam.
Dự kiến, Hội nghị sẽ được đón Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đến dự và phát biểu chỉ đạo. Tham dự và phát biểu còn có Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Giáo dục – Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân, cùng Bộ trưởng các Bộ Công thương, Tài chính, Giao thông - Vận tải và Ngân hàng Nhà nước… Tại đây, lãnh đạo Chính phủ Việt Nam sẽ lắng nghe phản hồi trực tiếp từ lãnh đạo các tập đoàn xuyên quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam; các Bộ trưởng có cơ hội thuyết trình về chính sách và giải đáp các thắc mắc của các doanh nghiệp nước ngoài... Theo ông Vũ Sơn Thủy, Phó Trưởng Ban tổ chức Hội nghị, Tổng Biên tập Báo Thế Giới & Việt Nam, “Hội nghị bàn tròn lần II cùng các sự kiện bên lề sẽ góp phần củng cố và tạo lòng tin cho cộng đồng quốc tế vào làm ăn tại Việt Nam. Riêng các doanh nghiệp Việt Nam thì có thêm sân chơi tốt để giao lưu với đối tác tiềm năng từ nước ngoài. Điều quan trọng là hoạt động ngoại giao kinh tế thiết thực này sẽ tạo lập một diễn đàn thường niên hàng năm có ý nghĩa như một think-tank (bộ não nghiên cứu) quốc tế phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế và kinh doanh của Việt Nam”.
Trong khuôn khổ của Hội nghị lần II, cuộc triển lãm giới thiệu 58 thương hiệu tinh hoa được lựa chọn từ cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, dự kiến sẽ được Thủ tướng Chính phủ cắt băng khai trương trước khi diễn ra Hội nghị. Expo “The 58 Vietnam Elite Brands” tôn vinh và quảng bá các doanh nghiệp tiêu biểu của Việt Nam trong kinh doanh, đặc biệt là trong hội nhập thị trường thế giới. Triển lãm (Expo) nhằm khuyến khích, động viên các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế, xây dựng và phát triển thương hiệu theo các chuẩn mực quốc tế. Các doanh nghiệp đạt danh hiệu “Thương hiệu tinh hoa” sẽ được giới thiệu thương hiệu của mình trước sự chứng kiến của hàng trăm tập đoàn xuyên quốc gia, được quảng bá tại Hội nghị và tham gia quảng bá ra nước ngoài trong các cơ hội khác của Bộ Ngoại giao. Theo ông Sơn Thủy, “tinh hoa” là một khái niệm, một tiêu chí mới dành cho các doanh nghiệp. Nếu giữ được uy tín thì đây giống như một “đội tuyển quốc gia” có thương hiệu tiêu biểu, phong cách riêng, đóng góp tích cực vào việc quảng bá hình ảnh và bản sắc Việt Nam. Ông Thủy cho biết, Chương trình này sẽ được tổ chức thường xuyên vào dịp Economist Conferences phối hợp với Báo Thế Giới & Việt Nam tổ chức Hội nghị Kinh tế Đối ngoại Việt Nam hàng năm.
Đối tượng được xét tham gia Expo là các doanh nghiệp Việt Nam tiêu biểu có đăng ký hoạt động hợp pháp tại Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, có khả năng cạnh tranh quốc tế. Với quy mô cấp quốc gia, Expo “The 58 Vietnam Elite Brands” được bảo trợ bởi Ủy ban Quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế, Bộ Ngoại giao, Bộ Công Thương, Bộ Văn hóa-Thể thao và Du Lịch, Bộ Khoa học và Công nghệ và Phòng Thương mại Châu Âu (EuroCham).
Xuất khẩu đầu năm 2009: Dồn dập ký hợp đồng
•
•
•
Những ngày đầu năm mới, nhiều doanh nghiệp đã ký được nhiều hợp đồng xuất khẩu. Điều này hết sức có ý nghĩa trong bối cảnh khủng khoảng kinh tế toàn cầu đã và đang ảnh hưởng mạnh đến Việt Nam.
Trong tháng 1 và tháng 2, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo ký được hợp đồng xuất khẩu gần 900.000 tấn, đây là mức cao nhất trong những tháng đầu năm mà nhiều năm trước chưa đạt được. Đáng chú ý là hợp đồng xuất khẩu gạo cả năm đối với Philippines, với số lượng lên đến 1,5 triệu tấn đã hoàn tất thủ tục.
Các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản cũng ký được nhiều hợp đồng xuất khẩu, trong đó tỉnh Cà Mau cao nhất, với 45 triệu USD trong tháng 1, tăng 25% so với cùng kỳ. Hiện các doanh nghiệp của tỉnh Cà Mau tiếp tục ký các hợp đồng cho tháng 2 này, dự tính đạt từ 50 đến 60 triệu USD, chủ yếu xuất sang các thị trường Mỹ, Nhật và một số nước Trung Đông.
Đối với ngành Dệt may, hiện các doanh nghiệp có thương hiệu như May Việt Tiến, May 10, May Nhà Bè đã có đủ đơn hàng đến hết quý 1, thậm chí đã có đơn hàng đến tháng 6 năm nay. Nhiều doanh nghiệp chủ động thực hiện xúc tiến thương mại, hoặc mời đối tác sang đàm phán nên còn thừa hợp đồng xuất khẩu./.(VOV)
Một số hàng nông, thủy sản vẫn có lợi thế xuất khẩu
•
•
•
Xuất khẩu dần lộ những khó khăn nhưng một số nhóm hàng nông sản vẫn có triển vọng tăng kim ngạch xuất khẩu nhờ những lợi thế về thị trường và giá cả.
Xuất khẩu gạo trong hai tháng đầu năm dự kiến tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi nhu cầu về hàng thuỷ sản trên thế giới đang tăng mạnh.
Xuất khẩu gạo
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, kế hoạch xuất khẩu gạo trong 2 tháng đầu năm 2009 lên đến 900.000 tấn, đây là mức cao nhất trong những tháng đầu năm từ trước đến nay. Riêng thị trường châu Phi, Iraq, Cuba... đã nhập khẩu tới 500.000-600.000 tấn. Hiện nay có khá nhiều khách hàng từ các nước châu Phi, Singapore... liên hệ đặt hàng.
Thêm vào đó, giá gạo xuất khẩu trên thế giới hiện cũng đang nhích lên. Gạo 5% tấm từ 420-500 USD/tấn, gạo 25% tấm từ 370-400 USD/tấn, đều tăng 20 USD so với tháng trước. Đáng chú ý nhất là hợp đồng lớn xuất khẩu cho cả năm đối với Philippines, với số lượng lên đến 1,5 triệu tấn đã cơ bản hoàn tất, trong đó ngay đợt đầu giao 500.000 tấn.
Hợp đồng này tạo thuận lợi lớn cho các doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ thu mua lúa gạo trong dân với giá cả ngày một cải thiện. Hiện nhiều doanh nghiệp xuất khẩu gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long đã ra quân thu mua lượng lớn thóc nguyên liệu để chế biến phục vụ nhu cầu xuất khẩu. Theo các doanh nghiệp, lúa tươi tại ruộng hiện có giá 3.500 đồng/kg, còn lúa đã phơi khô giá 4.000 đồng/kg, tăng 200-300 đồng/kg so với trước Tết.
Dự kiến, 6 tháng đầu năm, các doanh nghiệp sẽ xuất khoảng 2,8 triệu tấn gạo.
Nhu cầu thủy hải sản tăng mạnh
Theo các chuyên gia ngành thủy sản, vào thời điểm này, nhu cầu tiêu thụ thủy hải sản tại thị trường trong và ngoài nước đều tăng mạnh và giá các loại thủy hải sản sẽ còn tiếp tục tăng cho đến hết tháng Giêng âm lịch.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết giá tôm sú nguyên liệu tại các tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đã đồng loạt tăng. Tôm sú loại 40 con/kg giá 125.000 đồng/kg; loại 30 con/kg giá 150.000-160.000 đồng/kg, tăng gần gấp đôi so với thời điểm thu hoạch chính vụ năm 2008.
Từ sau Tết Nguyên đán, giá cá tra nguyên liệu bắt đầu tăng mạnh trở lại. Hiện loại cá da trơn này được các công ty chế biến xuất khẩu thủy sản đang ráo riết chạy tìm mua với giá khoảng 16.000 đồng/kg, tăng hơn 2.000 đồng/kg so với cuối năm 2008, nhưng “vét” sạch ao, bè cũng không có cá để thu mua.
Giá cá tăng là do các doanh nghiệp đã ký được nhiều hợp đồng xuất khẩu nhưng sản lượng cá lại giảm mạnh so với công suất của các nhà máy. Nhiều nhà máy chế biến thủy sản khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đã hoạt động trở lại và đang trong giai đoạn khan hiếm nguyên liệu./.
TTXVN
Hội nghị Quốc tế về Kinh tế Đối ngoại Việt Nam năm 2009
•
•
•
“ĐỊNH VỊ VIỆT NAM TRONG TƯƠNG LAI”
(Website-BNG) - Tiếp nối thành công của Hội nghị Quốc tế về Kinh tế Đối ngoại Việt Nam 2008, Báo Thế Giới & Việt Nam (Bộ Ngoại giao) phối hợp với Economist Conferences (EC) thuộc Tập đoàn truyền thông hàng đầu thế giới sẽ tổ chức Hội nghị Quốc tế về Kinh tế Đối ngoại Việt Nam lần thứ II, từ ngày 17-18/3/2009 tại khách sạn Melia, Hà Nội.
Với chủ đề "Định vị Việt Nam trong tương lai", Hội nghị sẽ là cơ hội giao lưu và đối thoại trực tiếp giữa các nhà lãnh đạo của Chính phủ Việt Nam với các doanh nhân, nhà đầu tư cao cấp của 150 tập đoàn xuyên quốc gia đến từ gần 30 nước và 100 doanh nghiệp Việt Nam. Để tìm cách khắc phục khó khăn kinh tế chung, Hội nghị sẽ có cuộc hội thảo đặc biệt với hình thức bàn tròn 4 phiên với khoảng 20 đề tài khác nhau tập trung vào việc cải thiện chính sách vĩ mô, triển vọng kinh tế và môi trường kinh doanh ở Việt Nam.
Dự kiến, Hội nghị sẽ được đón Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đến dự và phát biểu chỉ đạo. Tham dự và phát biểu còn có Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Giáo dục – Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân, cùng Bộ trưởng các Bộ Công thương, Tài chính, Giao thông - Vận tải và Ngân hàng Nhà nước… Tại đây, lãnh đạo Chính phủ Việt Nam sẽ lắng nghe phản hồi trực tiếp từ lãnh đạo các tập đoàn xuyên quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam; các Bộ trưởng có cơ hội thuyết trình về chính sách và giải đáp các thắc mắc của các doanh nghiệp nước ngoài... Theo ông Vũ Sơn Thủy, Phó Trưởng Ban tổ chức Hội nghị, Tổng Biên tập Báo Thế Giới & Việt Nam, “Hội nghị bàn tròn lần II cùng các sự kiện bên lề sẽ góp phần củng cố và tạo lòng tin cho cộng đồng quốc tế vào làm ăn tại Việt Nam. Riêng các doanh nghiệp Việt Nam thì có thêm sân chơi tốt để giao lưu với đối tác tiềm năng từ nước ngoài. Điều quan trọng là hoạt động ngoại giao kinh tế thiết thực này sẽ tạo lập một diễn đàn thường niên hàng năm có ý nghĩa như một think-tank (bộ não nghiên cứu) quốc tế phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế và kinh doanh của Việt Nam”.
Trong khuôn khổ của Hội nghị lần II, cuộc triển lãm giới thiệu 58 thương hiệu tinh hoa được lựa chọn từ cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, dự kiến sẽ được Thủ tướng Chính phủ cắt băng khai trương trước khi diễn ra Hội nghị. Expo “The 58 Vietnam Elite Brands” tôn vinh và quảng bá các doanh nghiệp tiêu biểu của Việt Nam trong kinh doanh, đặc biệt là trong hội nhập thị trường thế giới. Triển lãm (Expo) nhằm khuyến khích, động viên các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế, xây dựng và phát triển thương hiệu theo các chuẩn mực quốc tế. Các doanh nghiệp đạt danh hiệu “Thương hiệu tinh hoa” sẽ được giới thiệu thương hiệu của mình trước sự chứng kiến của hàng trăm tập đoàn xuyên quốc gia, được quảng bá tại Hội nghị và tham gia quảng bá ra nước ngoài trong các cơ hội khác của Bộ Ngoại giao. Theo ông Sơn Thủy, “tinh hoa” là một khái niệm, một tiêu chí mới dành cho các doanh nghiệp. Nếu giữ được uy tín thì đây giống như một “đội tuyển quốc gia” có thương hiệu tiêu biểu, phong cách riêng, đóng góp tích cực vào việc quảng bá hình ảnh và bản sắc Việt Nam. Ông Thủy cho biết, Chương trình này sẽ được tổ chức thường xuyên vào dịp Economist Conferences phối hợp với Báo Thế Giới & Việt Nam tổ chức Hội nghị Kinh tế Đối ngoại Việt Nam hàng năm.
Đối tượng được xét tham gia Expo là các doanh nghiệp Việt Nam tiêu biểu có đăng ký hoạt động hợp pháp tại Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, có khả năng cạnh tranh quốc tế. Với quy mô cấp quốc gia, Expo “The 58 Vietnam Elite Brands” được bảo trợ bởi Ủy ban Quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế, Bộ Ngoại giao, Bộ Công Thương, Bộ Văn hóa-Thể thao và Du Lịch, Bộ Khoa học và Công nghệ và Phòng Thương mại Châu Âu (EuroCham).
Phát triển quan hệ hợp tác Việt Nam-Hàn Quốc
•
•
•
VNA 08/10/2010 - Ngày 8/10 tại Hà Nội, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Huỳnh Đảm đã tiếp đoàn đại biểu Hội nghị sĩ hữu nghị Hàn-Việt do ông Lee Byung Suk, Chủ tịch Hội làm Trưởng đoàn nhân dịp sang Việt Nam tham dự Đại lễ 1000 năm Thăng Long-Hà Nội.
Ông Huỳnh Đảm mong muốn, thông qua Hội nghị sĩ hữu nghị Hàn-Việt, mối quan hệ hợp tác về kinh tế, văn hóa giữa Việt Nam-Hàn Quốc sẽ ngày càng phát triển lên một tầm cao mới.
Ông Huỳnh Đảm đánh giá cao những tình cảm tốt đẹp mà các thành viên trong đoàn đã dành cho đất nước, con người Việt Nam. Chủ tịch nhấn mạnh, Đại lễ 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội là sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam nói chung, Thủ đô Hà Nội nói riêng.
Sự có mặt của đoàn đại biểu Hội nghị sĩ hữu nghị Hàn-Việt là niềm vui đối với nhân dân Việt Nam, là biểu hiện sinh động, sâu sắc về tình đoàn kết hữu nghị giữa hai đất nước, hai dân tộc Việt Nam-Hàn Quốc.
Ông Lee Byung Suk bày tỏ vui mừng được tới thăm Hà Nội nhân dịp Thủ đô tròn nghìn năm tuổi; khẳng định tình cảm đặc biệt với đất nước, con người Việt Nam.
Ông Lee Byung Suk nhấn mạnh, được tham dự Đại lễ 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội là một cơ hội quý báu để các thành viên trong đoàn được ôn lại những kỷ niệm từng gắn bó với mình.
Ông Lee Byung Suk cho biết sẽ tiếp tục nỗ lực hết sức mình để củng cố, phát triển mối quan hệ tốt đẹp giữa Hàn Quốc và Việt Nam./.
Việt Nam phản đối dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế
•
•
•
(VNA-15/6/2010) Chiều 15/6, phát biểu tại buổi tiếp Ngài Park Suk-Hwan, tân Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Hàn Quốc tại Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh, lập trường nhất quán của Việt Nam là phản đối việc sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Theo tinh thần đó, nếu có đầy đủ bằng chứng khách quan và khoa học khẳng định tàu Cheonan bị tấn công, thì Việt Nam sẽ phản đối.
Thủ tướng nêu rõ, Chính phủ Việt Nam chia sẻ và cảm thông sâu sắc trước thiệt hại về người trong vụ chìm tàu Cheonan vừa qua, đồng thời Việt Nam rất chú ý tới kết quả điều tra liên quan đến vụ chìm tàu Cheonan cũng như phản ứng của các nước liên quan.
Việt Nam luôn là một thành viên có trách nhiệm và đối tác tin cậy của cộng đồng quốc tế. Là Chủ tịch ASEAN, Việt Nam luôn xem xét khách quan, thận trọng để xử lý vấn đề công bằng và có trách nhiệm.
Thủ tướng cho biết, Chính phủ Việt Nam hết sức quan tâm tình hình hiện nay trên Bán đảo Triều Tiên. Việt Nam hy vọng các bên liên quan kiềm chế, thông qua đối thoại giải quyết thỏa đáng các vấn đề liên quan nhằm duy trì cục diện hòa bình, ổn định trên Bán đảo Triều Tiên, tiếp tục thúc đẩy đàm phán thực hiện mục tiêu phi hạt nhân hóa Bán đảo Triều Tiên.
Thủ tướng nhấn mạnh, hai nước Việt Nam-Hàn Quốc cần nỗ lực thúc đẩy hơn nữa các dự án hợp tác trên các lĩnh vực sao cho tương xứng với tiềm năng của mỗi quốc gia và mối quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước.
Chúc mừng và hoan nghênh Ngài Park Suk-Hwan nhận nhiệm vụ Đại sứ tại Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vui mừng nhận thấy quan hệ giữa hai nước đang phát triển tốt đẹp trên mọi lĩnh vực.
Đánh giá cao kết quả chuyến thăm của Ngài Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung-bak đến Việt Nam hồi tháng 10 năm ngoái, Thủ tướng khẳng định, kết quả chuyến thăm này đã đưa quan hệ hai nước lên tầm cao mới, phù hợp với quan hệ đối tác chiến lược giữa hai quốc gia.
Trân trọng trước những tình cảm tốt đẹp của Ngài Đại sứ đối với đất nước và con người Việt Nam, Thủ tướng cho rằng hai bên vẫn phải tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa các dự án, chương trình phối hợp trên tinh thần đôi bên cùng có lợi, đóng góp vào hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới.
Thủ tướng nêu rõ, Việt Nam và Hàn Quốc cần thúc đẩy sự phối hợp về chính trị, ngoại giao, thông qua đó, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau đồng thời nâng cao hiệu quả phối hợp trên các diễn đàn quốc tế, đa phương.
Thủ tướng cho biết, hiện Hàn Quốc là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam với trên 22 tỷ USD, được đầu tư trên 2.400 dự án. Gần 100.000 người Hàn Quốc đang sinh sống, làm việc và học tập tại Việt Nam. Thương mại hai chiều giữa hai quốc gia cũng đang phát triển tích cực, hai bên cần nỗ lực hơn nữa để thúc đẩy lĩnh vực này.
Đánh giá cao các dự án hợp tác, viện trợ ODA của Hàn Quốc đối với Việt Nam, Thủ tướng cũng cho biết, hiện một số dự án loại này đang có những dấu hiệu bị chậm vốn. Thủ tướng mong muốn Ngài Đại sứ, trong nhiệm kỳ công tác của mình tại Việt Nam sẽ có nhiều việc làm thiết thực, mở rộng hơn nữa nguồn vốn ODA của Hàn Quốc dành cho Việt Nam và sẽ không ngừng nỗ lực đóng góp vào việc xây dựng tình đoàn kết, hữu nghị giữa hai đất nước, hai dân tộc.
Thủ tướng khẳng định, các cơ quan chức năng Việt Nam sẽ tích cực hợp tác với Ngài Đại sứ trong việc triển khai các dự án hợp tác, đúng với tinh thần đối tác chiến lược lâu dài, cùng có lợi.
Đại sứ Park Suk-Hwan khẳng định sẽ tiếp thu và chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ các dự án của Hàn Quốc tại Việt Nam, nhất là đối với một số dự án đang bị chậm vốn. Ngài Đại sứ cũng hy vọng sẽ sớm mở rộng phạm vi hợp tác giữa hai bên trong tương lai trên tất cả các lĩnh vực.
Đại sứ Park Suk-Hwan cho biết, cuối năm 2010, Hàn Quốc sẽ là quốc gia chủ nhà của Hội nghị G20, mong muốn với cương vị là Chủ tịch ASEAN, Việt Nam sẽ tích cực hỗ trợ Chính phủ Hàn Quốc, tổ chức thành công sự kiện quan trọng này.
Về sự cố chìm tàu Cheonan, Ngài Đại sứ nhấn mạnh kết quả điều tra về nguyên nhân sự cố được tiến hành bởi nhiều chuyên gia hỗn hợp từ nhiều quốc gia, vì vậy có độ tin tưởng cao. Ngài Đại sứ mong muốn Chính phủ Việt Nam hiểu rõ và ủng hộ những hành động của Hàn Quốc trong sự việc xử lý sự cố này.
Ngài Đại sứ khẳng định sẽ nỗ lực hết mình vì mục tiêu phát triển mối quan hệ tốt đẹp của hai nước, vì tình hữu nghị giữa hai dân tộc./.
Hàn Quốc ủng hộ VN đảm nhận Chủ tịch ASEAN
•
•
•
VNA 25/05/2010 - Ngày 25/5, tại Hà Nội, Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Hàn Quốc Park Suk Hwan nhấn mạnh, Hàn Quốc ủng hộ Việt Nam đảm nhận chức Chủ tịch ASEAN 2010 và tin tưởng hai nước sẽ có những hợp tác tốt cả song phương và trong khuôn khổ ASEAN + 3.
Trong cuộc họp báo nhân dịp nhận nhiệm kỳ công tác tại Việt Nam, Đại sứ cho biết Chính phủ Hàn Quốc mong muốn mời Việt Nam tham dự Hội nghị thượng đỉnh G20 dự kiến tổ chức vào tháng 11 tới tại Hàn Quốc.
Đại sứ đồng thời khẳng định Hàn Quốc coi Việt Nam là một đối tác quan trọng trong chính sách ngoại giao của mình và hợp tác phát triển sẽ là trọng tâm trong quan hệ Hàn Quốc-Việt Nam.
Đại sứ điểm lại từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao đến nay, thương mại hai chiều giữa hai nước đã tăng 19 lần, đầu tư tăng 100 lần, điều đó chứng tỏ quan hệ hợp tác giữa hai nước đang phát triển mạnh mẽ với những dấu hiệu đáng mừng.
Đặc biệt, Việt Nam là nước nhận được nhiều viện trợ EDCF (Quỹ hợp tác phát triển kinh tế) của Hàn Quốc. Trong số 45 quốc gia trên thế giới nhận viện trợ từ quỹ này, Việt Nam chiếm gần 20%, với 985 triệu USD (năm 2009).
Hàn Quốc đã cam kết hỗ trợ 1 tỷ USD vốn EDCF trong giai đoạn 2008-2011 và kế hoạch của năm nay là 300 triệu USD. Các lĩnh vực hỗ trợ trọng điểm được hai bên xác định là mở rộng hỗ trợ dự án xây dựng hạ tầng kinh tế lớn, lĩnh vực năng lượng tái sinh, môi trường, hỗ trợ nâng cao tính minh bạch và hiệu quả của hệ thống hành chính công...
Bên cạnh đó, trong 10 năm qua, Hàn Quốc cũng đã viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam hơn 108 triệu USD cho các lĩnh vực truyền thông, giáo dục, y tế, môi trường, hạ tầng công nghiệp, phát triển vùng, hệ thống hành chính.
Dự kiến trong năm nay, Hàn Quốc sẽ viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam gần 20 triệu USD./.
Quan hệ Việt-Hàn không ngừng phát triển sâu rộng
•
•
•
VNA 05/05/2010 - Chiều 5/5, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng bày tỏ hài lòng trước sự phát triển nhanh chóng và ngày càng hiệu quả của quan hệ Việt Nam-Hàn Quốc.
Phát biểu tại buổi tiếp Phó Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc Moon Hee-sang, Chủ tịch Quốc hội tin tưởng chuyến thăm sẽ góp phần thúc đẩy hơn nữa quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa hai nước, hai Quốc hội.
Từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1992 đến nay, quan hệ hai nước đã phát triển toàn diện, cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục. Hàn Quốc hiện là một trong những đối tác kinh tế, thương mại, đầu tư hàng đầu của Việt Nam.
Hai nước vốn có mối quan hệ lâu đời, có nhiều điểm tương đồng về văn hóa, hiện nay hàng chục ngàn cô dâu Việt Nam đang sinh sống tại Hàn Quốc và ngược lại tại Việt Nam cũng có hàng ngàn gia đình Hàn Quốc, đây là cơ sở cho quan hệ hai nước tiếp tục phát triển lâu dài.
Lãnh đạo cấp cao hai nước đã thống nhất nâng mối quan hệ hợp tác nhiều mặt lên thành quan hệ đối tác hợp tác chiến lược. Với sự quan tâm thúc đẩy của cả hai bên, mối quan hệ hợp tác tốt đẹp đó đã không ngừng phát triển cả bề rộng và chiều sâu, ở Trung ương và địa phương.
Chủ tịch Quốc hội đánh giá cao mối quan hệ giao lưu, hợp tác tốt đẹp giữa hai Quốc hội. Trên cơ sở Thỏa thuận hợp tác đã ký kết, hai Quốc hội đã thường xuyên trao đổi đoàn, trao đổi thông tin, kinh nghiệm hoạt động.
Trong thời gian tới, Quốc hội Việt Nam sẽ cùng Chính phủ tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư Hàn Quốc sang hợp tác làm ăn. Nhân dịp này, Chủ tịch Quốc hội bày tỏ cảm ơn Quốc hội và nhân dân Hàn Quốc về sự giúp đỡ hiệu quả dành cho Việt Nam những năm qua, cũng như đã tạo điều kiện thuận lợi để công dân Việt Nam sinh sống, học tập và làm việc tại Hàn Quốc.
Phó Chủ tịch Quốc hội Moon Hee-sang cho biết Hàn Quốc rất quan tâm và mong muốn tham gia một số dự án lớn về phát triển cơ sở hạ tầng, năng lượng tại Việt Nam; đề nghị Quốc hội Việt Nam quan tâm, ủng hộ các nhà đầu tư Hàn Quốc, cũng như tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng người Hàn Quốc sinh sống, làm việc tại Việt Nam.
Phó Chủ tịch Quốc hội đánh giá cao sự đóng góp tích cực của cộng đồng người Việt Nam tại Hàn Quốc và cộng đồng người Hàn Quốc tại Việt Nam, vào việc tăng cường và phát triển quan hệ hai nước.
Phó Chủ tịch Quốc hội mong rằng với vai trò quan trọng trong đời sống xã hội của mỗi nước, hai Quốc hội sẽ tiếp tục quan tâm thúc đẩy hơn nữa quan hệ giao lưu, hợp tác giữa hai nước, vì lợi ích của nhân dân mỗi nước, đồng thời góp phần vào sự thịnh vượng chung của khu vực./.
Thúc đẩy cải thiện cán cân thương mại Việt-Hàn
•
•
•
VNA 05/05/2010 - Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đề nghị Đại sứ Hàn Quốc tại Việt Nam Park Suk-hwan tích cực hợp tác với các cơ quan của Việt Nam để thúc đẩy hợp tác thương mại, văn hóa, xã hội… giữa hai nước, nhất là giúp Việt Nam cải thiện cán cân thương mại song phương với Hàn Quốc.
Tiếp Đại sứ Park Suk-hwan đến trình Quốc thư nhân dịp mới được bổ nhiệm công tác tại Việt Nam, chiều 5/5, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết bày tỏ vui mừng trước sự phát triển ngày càng sâu rộng và hiệu quả của quan hệ hai nước trên tất cả các lĩnh vực theo khuôn khổ “Đối tác hợp tác chiến lược” đã được nhất trí trong chuyến thăm Việt Nam hồi tháng 10 năm ngoái của Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung-bak.
Chủ tịch nước hoan nghênh Ủy ban liên Chính phủ về hợp tác kinh tế-khoa học kỹ thuật hai nước đã có kế hoạch tổ chức phiên họp vào tháng 7 sắp tới. Cùng với đó, các cơ quan chức năng hai nước cũng đang nỗ lực thúc đẩy đàm phán để đi đến ký Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-Hàn Quốc.
Chủ tịch nước nhấn mạnh, ở Việt Nam còn nhiều lĩnh vực đang cần các nhà đầu tư nước ngoài. Việt Nam mong muốn các doanh nghiệp Hàn Quốc tiếp tục đầu tư mạnh vào Việt Nam để giữ vững vị trí là một trong những nhà đầu tư nước ngoài hàng đầu.
Đại sứ Park Suk-hwan bày tỏ vinh dự đến nhận công tác tại Việt Nam. Đại sứ khẳng định sẽ nỗ lực đóng góp trong vai trò cầu nối quan hệ nhằm đưa kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Hàn Quốc lên 20 tỷ USD vào năm 2015, đi cùng với việc chú trọng đến cán cân thương mại.
Theo Đại sứ Park Suk-hwan, hiện nay có nhiều doanh nghiệp Hàn Quốc quan tâm đến việc đầu tư tại Việt Nam. Chính phủ Hàn Quốc cũng rất chú ý tới việc quảng bá hình ảnh Việt Nam tại Hàn Quốc với mong muốn Hàn Quốc trở thành nhà đầu tư số 1 ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng của Hàn Quốc thường xuyên quan tâm đến đời sống của các cô dâu Việt Nam và người lao động Việt Nam ở Hàn Quốc./.
Copyright by VietNam Ministry of Foreign Affairs
Thăm những người lao động Việt Nam tại Trung tâm hỗ trợ lao động nước ngoài Ưijeongbu
•
•
Ngày 16/01/2011, Đại sứ nước ta tại Hàn Quốc Trần Trọng Toàn cùng đại diện Ban quản lý lao động, cán bộ phụ trách công tác cộng đồng của Đại sứ quán đã đến thăm anh chị em lao động Việt Nam đang có mặt tại Trung tâm hỗ trợ lao động nước ngoài Ưijeongbu (tỉnh Gyeongy, phía Bắc Seoul). Tại buổi gặp mặt với các lao động Việt Nam đang làm việc ở tỉnh Gyeongy và những khu vực lân cận, Đại sứ Trần Trọng Toàn đã thông báo vắn tắt về tình hình trong nước, những thành tựu nổi bật về kinh tế - xã hội của đất nước trong năm 2010, đồng thời động viên anh chị em lao động Việt Nam tích cực làm việc để có thu nhập cao gửi về giúp đỡ gia đình trong nước; cố gắng tích lũy kiến thức, nghề nghiệp, rèn luyện tác phong làm việc công nghiệp để sau này về nước đóng góp vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tại buổi gặp, cán bộ Đại sứ quán cùng Ban quản lý lao động cũng đã giải đáp nhiều câu hỏi của lao động, cô dâu liên quan đến các thủ tục, giấy tờ về quốc tịch, chứng nhận các văn bằng, các chế độ chính sách của nhà nước ta đối với lao động xuất khẩu sau khi hết hợp đồng, cơ hội việc làm trong nước.v.v… Nhân dịp Xuân mới Tân Mão đang đến gần, Đại sứ quán và Ban quản lý lao động tại Hàn Quốc đã tặng quà cho các lao động tại Trung tâm. Dù những món quà không lớn nhưng chỉ một chút hương cà phê, chè Việt, cuốn lịch phong cảnh quê nhà cũng giúp làm ấm lòng những người Việt xa quê khi Xuân về Tết đến.
Trung tâm Ưijeongbu là một trong 8 trung tâm trực thuộc Bộ Lao động Hàn Quốc, được thành lập để hỗ trợ, giúp đỡ người lao động nước ngoài về các thủ tục thông thường, bảo vệ quyền lợi cho người lao động nước ngoài; đồng thời, triển khai các khóa dạy tiếng Hàn, nghiệp vụ vi tính, giới thiệu văn hóa, phong tục tập quán của của Hàn Quốc nhằm giúp người lao động nước ngoài nhanh chóng thích nghi với cuộc sống sở tại; đặc biệt, trong những giai đoạn người lao động chuyển xưởng, gặp khó khăn về công việc và chỗ ở, Trung tâm cũng hỗ trợ miễn phí và giúp người lao động tìm kiếm việc làm. Giám đốc Trung tâm Ưijeongbu – ông Lee Kwang-il cho biết, với những cán bộ đầy nhiệt huyết, Trung tâm Ưijeongbu đã trở thành một điểm sáng trong công tác trợ giúp lao động nước ngoài ở Hàn Quốc.
Tại Trung tâm, đã hình thành nên những cộng đồng người nước ngoài của mỗi nước như Việt Nam, Thái Lan, Philíppin, Mông Cổ, trong đó cộng đồng người Việt Nam sinh hoạt rất đông. Vào cuối tuần, các lao động tập trung học tập, nấu ăn, tập văn nghệ và trao đổi các thông tin. Trung tâm cũng định kỳ tổ chức luân phiên lễ hội của mỗi nước. Năm nay, nhân dịp Tết nguyên đán Tân Mão, một lễ hội Việt Nam đang được các lao động ta chuẩn bị dàn dựng công phu. Những hoạt động văn hóa cộng đồng có tác dụng lôi cuốn mạnh mẽ với những lao động trẻ xa nhà, tập hợp về đây để gặp gỡ, chia sẻ để vơi bớt nỗi nhớ người thân nơi quê nhà./.
Tạo bởi vubaochi
Cập nhật 21-01-2011
“Phong cảnh và Trí tuệ Việt Nam”: khởi đầu một giai đoạn giao lưu mỹ thuật Việt-Hàn
•
•
“Phong cảnh và Trí tuệ Việt Nam- Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai” (Landscape and Mind of Vietnam: Close Past and Proceed to Future) là chủ để của cuộc triển lãm hội họa Việt Nam với quy mô lớn nhất từ trước đến nay tại Hàn Quốc.
Cuộc triển lãm này sẽ kéo dài từ 16/12 đến ngày 6/2/2011 tại Bảo tàng Mỹ thuật thành phố Gwangju (Quang-chu).
Lễ khai mạc triển lãm đã diễn ra hết sức trang trọng với sự tham dự của Đại sứ quán Việt Nam, Phó Thị trưởng thành phố Gwangju Song Gui-gun, lãnh đạo Bảo tàng Mỹ thuật thành phố Gwangju, một số họa sỹ đại diện Hội Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, đại diện các cơ quan văn hóa, hội họa Hàn Quốc tại Gwangju.
Đây là cuộc triển lãm mỹ thuật Việt Nam hiện đại và đương đại có quy mô lớn nhất từ trước tới nay được tổ chức tại một bảo tàng công của Hàn Quốc. Cuộc triển lãm giới thiệu gần 50 tác phẩm hội họa của các nghệ sỹ tiêu biểu của nền hội họa hiện đại và đương đại Việt Nam, được lựa chọn từ các sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Hội Mỹ thuật Việt Nam. Họ bao gồm nhiều thế hệ họa sỹ từ những họa sỹ bậc thầy tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, đến lớp họa sỹ đã thành danh kế tiếp và cả thế hệ trẻ hiện nay. Các tác phẩm hội họa có chất liệu phong phú như sơn dầu, sơn mài, lụa, bột màu, khắc kẽm, với các chủ đề được chia theo các giai đoạn lịch sử của Việt Nam, trải dài từ giữa những năm 40 cho tới những năm đầu của thế kỷ 21 như “Phong cảnh và Truyền thống”, “Chiến tranh và Tư tưởng”, “Lớp kế cận hiện đại”. Chủ đề “Phong cảnh và Truyền thống” được minh họa với những tác phẩm về phong cảnh nông thôn, ngày mùa, truyền thuyết và quang cảnh lễ hội, những thiếu nữ mặc trang phục truyền thống, với những tác phẩm đặc sắc như “Sợi thời gian” (Hùng Khuynh), “Ngày hội” (Ngô Mạnh Quỳnh); “Nhà tranh gốc mít” (Nguyễn Văn Tỵ), “Về nông thôn sản xuất” (Ngô Minh Cầu); “Góp thóc vào kho” (Tạ Thúc Bình), “Văn minh lúa nước” (Vũ Thạch Phước) “Mùa xuân Tây Nguyên” (Trần Hữu Chất), “Ký ức mùa lũ” (Hoàng Hải Thọ), “Thiếu nữ Hà Nội”(Trần Khánh Chương)….
Các tác phẩm đã giúp người xem hình dung về phong cảnh, con người, cuộc sống lao động sản xuất, phong tục truyền thống của người dân Việt Nam. Chủ đề “Chiến tranh và Tư tưởng” đã mô tả một giai đoạn lịch sử kéo dài gần 30 năm, trải qua hai cuộc chiến tranh kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, với những tổn thất đau thương nhưng cũng đầy tinh thần hào hùng, với các tác phẩm mỹ thuật theo trường phái hiện thực xã hội chủ nghĩa. Một số tác phẩm đặc sắc như “Ngày đầu kháng chiến” (Nguyễn Duy Nhi), “Tạm biệt thủ đô” (Ái Thi), “Hà Nội Giải phóng” (Lê Thanh Đức), “Ghi chép tại chiến trường Tây Nguyên”(Trần Hữu Chất), “Mở đường chiến thắng” (Nguyễn Thanh Minh) đã giúp khắc họa những thời khắc lịch sử đáng ghi nhớ của dân tộc.
Đặc biệt, Triển lãm đã dành một vị trí trang trọng cho các tác phẩm hội họa về Chủ tịch Hồ Chí Minh như Tranh cổ động “Bác ơi tim Bác mênh mông thế, Ôm cả non sống mọi kiếp người” (Hà Huy Chương), tranh ghép gốm “Một đời thanh bạch chẳng vàng son” (Đỗ Như Điềm), tranh cổ động “Theo con đường Bác Hồ đã chọn” (Lương Xuân Hiệp), Tranh cổ động “Mỗi khi viết một bài báo, thì tự đặt câu hỏi: Viết cho ai xem? Viết để làm gì? Viết thế nào cho phổ thống để hiểu, ngắn gọn…” (Trần Mai), “Noi gương Bác: Gần dân, thương dân, vì dân” (Vũ Huyên). Gian trưng bày tác phẩm của các họa sỹ lớp kế cận hiện đại trưng bày một số tác phẩm của các họa sỹ sáng tác sau thời kỳ Đổi mới, với những chủ đề đa dạng của cuộc sống và chú trọng nhiều tới khát vọng cá nhân, như “Không gian sống” (Lê Thánh Thư), “Hạnh phúc”(Nguyễn Thành Chương”, “Chăn trâu” (Nguyễn Văn Cường), “Nhịp sống Vùng cao” (Trần Văn Đức), “Thời gian 13” (Vũ Hồng Nguyên)…Mặc dù phong cách, thủ pháp nghệ thuật của các nghệ sỹ khác nhau nhưng các tác phẩm đều mang đậm tính nhân văn sâu sắc và bản sắc nghệ thuật đặc trưng của Việt Nam.
Phát biểu khai mạc Triển lãm, Đại sứ Trần Trọng toàn nhấn mạnh các tác phẩm nghệ thuật của các họa sỹ Việt Nam được trưng bày tại Triển lãm này phần nào phản ánh được truyền thống lịch sử và văn hóa, đời sống vật chất và tinh thần, cuộc đấu tranh chống ngoại xâm bảo vệ đất nước cũng như công cuộc Đổi mới xây dựng lại đất nước của nhân dân Việt Nam. Vượt lên trên sự mô tả đơn thuần về con người và phong cảnh, những tác phẩm hội họa này đã góp phần khắc họa một giai đoạn lịch sử cận đại và hiện đại của Việt Nam. Mỹ thuật hiện đại Việt Nam là niềm tự hào của người dân Việt Nam, thể hiện sinh động sự phát triển và kết hợp biện chứng giữa tính truyền thống và hiện đại trong giao lưu văn hóa. Vừa tiếp nhận ảnh hưởng tích cực từ mỹ thuật hiện đại Phương Tây vừa phát huy được truyền thống nghệ thuật lâu đời, mỹ thuật hiện đại của Việt Nam có một vị trí đặc biệt trong lịch sử phát triển mỹ thuật của khu vực. Các tác phẩm nghệ thuật được thể hiện dưới nhiều hình thức phong phú, cả về chất liệu cũng như thủ pháp nghệ thuật. Trong quá khứ chiến tranh, các họa sỹ Việt Nam cũng là những người chiến sỹ đồng hành cùng dân tộc, phản ánh chân thực những thời khắc lịch sử bi hùng của đất nước qua ngôn ngữ hội họa. Trong giai đoạn hòa bình và hội nhập quốc tế, người họa sỹ cũng đã góp phần thể hiện cuộc sống tinh thần phong phú của con người và bản sắc dân tộc Việt Nam trong mọi lĩnh vực của đời sống. Chủ đề của Cuộc triển lãm “Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai” thực sự là một chủ đề có ý nghĩa, phản ánh được truyền thống khoan hòa cũng như bản lĩnh và thiện chí của nhân dân Việt Nam phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với tất cả các dân tộc vì hòa bình, độc lập và thịnh vượng chung.
Đại sứ Trần Trọng Toàn cũng bày tỏ tin tưởng rằng triển lãm sẽ giúp người dân Hàn Quốc nói chung, người dân Gwangju nói riêng, hiểu biết sâu sắc hơn về đất nước, con người Việt Nam. Những hoạt động giao lưu văn hóa có ý nghĩa như thế này sẽ góp phần tăng cường hơn nữa mối quan hệ hữu nghị và hợp tác chiến lược giữa hai nước. Ngoài mối quan hệ giao lưu nhân dân thông thường, cộng đồng gia đình đa văn hóa Việt-Hàn đã gắn kết hai nước Việt Nam-Hàn Quốc vào mối quan hệ gia đình thân tộc; do vậy, cuộc triển lãm hội họa Việt Nam sẽ giúp những gia đình đa văn hóa Việt-Hàn có thêm sự hiểu biết và tự hào về những giá trị tinh thần, văn hóa của “quê ngoại” Việt Nam.
Cũng tại lễ khai mạc triển lãm, Phó Thị trưởng thành phố Gwangju đã nhấn mạnh những phát triển tích cực trong quan hệ hai nước Việt Nam-Hàn Quốc, sự hình thành và phát triển của cộng đồng người Việt Nam tại Hàn Quốc, trong đó có hơn 37.000 gia đình đa văn hóa Việt-Hàn. Ông hy vọng rằng cuộc Triển lãm sẽ là bước ngoặt trong các hoạt động giao lưu văn hóa, thúc đẩy hơn nữa sự hiểu biết văn hóa, nghệ thuật giữa nhân dân Việt Nam và Hàn Quốc. Việc tổ chức cuộc Triển lãm hội họa Việt Nam cũng trùng hợp với nỗ lực của thành phố Gwangju đang có kế hoạch trở thành thành phố trung tâm giao lưu văn hóa của châu Á./. Khánh Vân - TTXVN (Xơun 18/12)
Tạo bởi habc
Cập nhật 20-12-2010
Sôi động với Ngày Sinh viên Việt Nam tại Hàn Quốc lần thứ 6 và Lễ hội chào mừng 1000 năm Thăng Long – Hà Nội ở Hàn Quốc
•
•
Sáng ngày 03/10/2010, tại Nhà hát Thiên niên kỷ của Đại học Yonsei ở thủ đô Xê-un, Hàn Quốc, Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc phối hợp với Hội Sinh viên Việt Nam tại Hàn Quốc (VSAK) và Công ty xây dựng Hanshin đã tổ chức trọng thể Ngày Sinh viên Việt Nam tại Hàn Quốc lần thứ 6, chào mừng đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội và 56 năm ngày giải phóng thủ đô. Tham dự Ngày sinh viên có Đại sứ Trần Trọng Toàn và phu nhân cùng toàn thể cán bộ nhân viên Đại sứ quán, đại diện các Ban ngành cùng với hơn 700 sinh viên hiện đang học tập, nghiên cứu và công tác tại các trường đại học trên khắp mọi miền của đất nước xứ sở kim chi. Hơn 120 sinh viên Hàn Quốc học tiếng Việt Nam tại các trường đại học và rất nhiều các bạn sinh viên quốc tế đến từ các nước cũng đã đến tham dự.
Chủ tịch Hội Sinh viên tại Hàn Quốc, anh Trần Hải Linh, phát biểu khai mạc
Sau giây phút thiêng liêng chào cờ Tổ quốc, anh Trần Hải Linh - Chủ tịch VSAK đã phát biểu khai mạc buổi lễ, báo cáo tóm tắt về các hoạt động của Hội trong năm học 2009-2010 và đề xuất phương hướng để tiếp tục thúc đẩy và phát triển phong trào sinh viên và thanh niên Việt Nam ở Hàn Quốc. Cũng nhân dịp này, nhằm ghi nhớ những đóng góp và sự ủng hộ tích cực phong trào sinh viên Việt Nam tại Hàn Quốc trong thời gian qua, anh Trần Hải Linh đã thay mặt Trung ương Đoàn TNCSHCM trao tặng Huy chương cao quý “Vì thế hệ trẻ” cho Chủ tịch công ty xây dựng Hanshin, ông Choi Yong-Sun.
Đại sứ Trần Trọng Toàn phát biểu khai mạc
Trong bài phát biểu chào mừng, Đại sứ Trần Trọng Toàn khẳng định rằng: “Yêu cầu của thời kỳ mới đang đòi hỏi thế hệ trẻ không ngừng học tập, tiếp thu những tri thức khoa học công nghệ mới để đóng góp vào sự nghiệp chấn hưng đất nước. Là lực lượng ưu tú, có tri thức và sức khỏe, thanh niên sinh viên chính là nguồn lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Tổ quốc mong các bạn không ngừng trau dồi đạo đức, bản lĩnh chính trị, nâng cao kiến thức để góp phần xây dựng đất nước ta ngày một phồn vinh”. Đại sứ cho rằng những thành tích mà Hội Sinh viên Việt Nam tại Hàn Quốc đạt được bắt nguồn chính từ tinh thần đoàn kết, sự sáng tạo và lòng nhiệt thành của Ban Chấp hành cùng toàn thể các bạn sinh viên. Nhân dịp này, Đại sứ đã trao Giấy khen cho Hội Sinh viên Việt Nam tại Hàn Quốc cùng các tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong trào Hội, công tác hỗ trợ cộng đồng và các công tác phối hợp tổ chức khác của Đại sứ quán trong năm học 2009-2010 vừa qua. Ngày Sinh viên Việt Nam tại Hàn Quốc lần thứ 6 đã diễn ra hết sức thành công với chương trình giao lưu rất vui vẻ và phong phú về các tiết mục văn nghệ, kết thúc với bữa ăn trưa có cả những món ăn mang đậm hương vị quê hương như giò xào, nem rán, xôi nếp, gà luộc do chị em phu nhân của các cán bộ Đại sứ quán chuẩn bị rất công phu...Buổi gặp mặt thực sự trở thành một ngày hội của du học sinh Việt Nam tại Hàn Quốc.
Sinh viên tham gia
Vào buổi chiều cùng ngày 03/10, cũng tại Nhà hát Thiên niên kỷ của Đại học Yonsei ở thủ đô Xê-un, Hàn Quốc, Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc cùng Hội Sinh viên Việt Nam tại Hàn Quốc tiếp tục tổ chức chương trình “Lễ hội chào mừng Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội” cho cộng đồng người Việt Nam tại Hàn Quốc .
Phát biểu khai mạc Lễ hội, Đại sứ Trần Trọng Toàn nhấn mạnh việc tổ chức “Lễ hội chào mừng Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội” là để thể hiện tấm lòng và tình cảm của những người con xa quê hương hướng về Thủ đô yêu dấu – ngàn năm tuổi. Đại sứ đã điểm lại những dấu mốc lịch sử vẻ vang của Thăng Long – Hà Nội qua các thời kỳ. Khi nói về quan hệ Việt –Hàn, Đại sứ cho rằng sự tương đồng về lịch sử, truyền thống văn hóa cũng như sự chia sẻ về lợi ích xây dựng đất nước thịnh vượng trong một thế giới hòa bình, ổn định đã gắn kết hai dân tộc Việt-Hàn. Hai thủ đô kết nghĩa Hà Nội - Seoul với sông Hồng và sông Hàn thơ mộng cũng đang cùng nhau đi lên xây dựng thành phố tươi đẹp, hiện đại, phồn vinh và hạnh phúc.
Anh Trần Hải Linh – Chủ tịch Hội Sinh viên Việt Nam tại Hàn Quốc cho biết: “Chương trình lễ hội là hoạt động thiết thực của cộng đồng người Việt Nam tại Hàn Quốc nói chung và sinh viên Việt Nam tại Hàn Quốc nói riêng để chào mừng Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, đồng thời cũng nhằm nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần trong cộng đồng người Việt Nam ở Hàn Quốc, củng cố thêm sự đoàn kết, gắn bố, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong cộng đồng và cũng là hình thức tuyên truyền, quảng bá về lịch sử hào hùng của dân tộc, của thủ đô Hà Nội 1000 năm văn hiến.
Sau những lễ nghi chính thức là chương trình văn nghệ chào mừng 1000 năm Thăng Long- Hà Nội đã được chuẩn bị rất chu đáo và phong phú như tiết mục múa “Ngàn năm Thăng Long”, múa nón “Việt Nam Quê hương tôi”, vở kịch thời trang với tiêu đề: “Hà Nội trong mắt em”…Cả một ngày tràn ngập tiếng cười, một ngày Việt Nam, một ngày với các ca khúc về Hà Nội vang lên không ngớt. Cả hội trường với cả ngàn con người cùng như lắng lại khi tiếng kèn trầm hùng của một lưu học sinh vang lên làn điệu của bài ca "Nhớ về Hà Nội". Vâng tất cả chúng tôi, những người con đất Việt đang công tác, học tập và sinh sống xa quê hương đều cùng hướng về Hà Nội trong dịp Đại lẽ thiêng liêng này và cùng cầu chúc cho Thủ đô thân yêu mãi mãi trường tồn và ngày càng phát triển./.
Tạo bởi vubaochi
Cập nhật 06-10-2010
“Tủ khám phá văn hóa Việt Nam” tại Hàn Quốc
•
•
Vừa qua, Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc đã phối hợp với Bảo tàng Thiếu nhi thuộc Bảo tàng Dân tộc học quốc gia Hàn Quốc trong việc thực hiện dự án “Tủ khám phá văn hóa Việt Nam” với tên gọi “Xin chào Việt Nam”. Dự án này nằm trong khuôn khổ dự án “Tủ khám phá đa văn hóa” của Hàn Quốc, được triển khai lần đầu tiên trong năm nay cùng với “Tủ khám phá văn hóa Mông Cổ” có tên gọi “Senbenco Mông Cổ, xin chào Mông Cổ”. Dự án này đã được khai trương ngày 31/8/2010 và sẽ tiếp tục được kéo dài trong thời gian tới.
“Tủ khám phá văn hóa Việt Nam” được thiết kế sinh động, hấp dẫn, có mục đích giúp trẻ em tìm hiểu về văn hóa Việt Nam một cách thực tế, thông qua các tư liệu, mẫu vật, tư liệu nghe nhìn. Các em có thể tìm hiểu về lịch sử, phong tục tập quán, văn hóa ẩm thực, sinh hoạt tín ngưỡng, trò chơi truyền thống của Việt Nam với những hình ảnh sinh động, đáng yêu. Câu chuyện “Sự tích Bánh chưng, Bánh giày” của Việt Nam cũng được dịch ra song ngữ Hàn-Việt với những hình ảnh minh họa hấp dẫn.
Phát biểu hoan nghênh hoạt động của Bảo tàng Thiếu nhi Hàn Quốc, Đại sứ Trần Trọng Toàn tin tưởng rằng những hoạt động của “Tủ khám phá văn hóa Việt Nam” sẽ góp phần thúc đẩy sự hiểu biết về đa dạng văn hóa cho trẻ em nói chung cũng như sự hiểu biết về cội nguồn văn hóa của các gia đình đa văn hóa Việt Nam-Hàn Quốc nói riêng; hy vọng rằng cuộc triển lãm sẽ giúp các trẻ em Hàn Quốc có những ấn tượng tốt đẹp về sự đa dạng của các nền văn hóa khác nhau, trong đó có văn hóa Việt Nam và các em gia đình đa văn hóa Việt-Hàn có cơ hội tìm hiểu sâu hơn về một phần khác biệt trong nguồn gốc của gia đình mình với các bạn. Đây cũng là tiền đề quan trọng để xây dựng sự hòa hợp, gắn kết, xóa bỏ các bất đồng về văn hóa.
Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc xin trân trọng kính mời các gia đình đa văn hóa Việt Nam-Hàn Quốc tới tham quan hoạt động giao lưu văn hóa mang nhiều ý nghĩa giáo dục này tại Bảo tàng Thiếu nhi, Bảo tàng Dân tộc học Quốc gia Hàn Quốc./.
Tạo bởi vubaochi
Cập nhật 13-09-2010
Lễ kỷ niệm 65 năm Cách mạng tháng 8 và Quốc khánh 2-9 tại Hàn Quốc
•
•
Tối 1/9, tại khách sạn Lotte Seoul ở trung tâm thủ đô Xơun, Đại sứ quán và Cộng đồng người Việt Nam tại Hàn Quốc đã tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm 65 năm Cách mạng tháng 8 và Quốc khánh 2/9.
Tới dự buổi lễ, phía Hàn Quốc có Bộ trưởng Quốc phòng Kim Tê I-âng (Kim Tae –young), đại diện các Bộ, ngành của Hàn Quốc, Đoàn ngoại giao các nước, các học giả Hàn Quốc, các nhà doanh nghiệp lớn của Hàn Quốc đang có các dự án đầu tư tại Việt Nam cùng đông đảo cán bộ, nhân viên Đại sứ quán và đại diện cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống, học tập và công tác tại Hàn Quốc.
Sau nghi thức chào cờ trang nghiêm, Đại sứ Trần Trọng Toàn đã đọc diễn văn chào mừng, nhấn mạnh ý nghĩa trọng đại của ngày Quốc khánh 2/9 và điểm lại những thành tựu kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội to lớn mà nhân dân ta đã đạt được trong quá trình đấu tranh giành lại độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong suốt 65 năm qua. Điểm lại quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong 18 năm qua kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1992, Đại sứ bày tỏ vui mừng trước mối quan hệ hai nước Việt Nam – Hàn Quốc ngày càng phát triển tốt đẹp trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là sự kiện tháng 10/2009, Lãnh đạo cấp cao hai nước đã đồng ý nâng cấp quan hệ song phương lên mức “quan hệ đối tác chiến lược”. Cho đến nay, Hàn Quốc đã đầu tư vào Việt nam 2.500 dự án với tổng số vốn đầu tư trên 22 tỉ USD, luôn đứng trong tốp các nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam. Quan hệ thương mại hai chiều tăng rất nhanh và đã đạt 10 tỉ USD trong năm 2008 và 2009. Hai nước đang phấn đấu để đạt mức 20 tỉ USD vào năm 2015.
Thay mặt Chính phủ Hàn Quốc, trong phát biểu chúc mừng Quốc khánh 2.9 của Việt Nam, Bộ trưởng Kim Tê I-âng đánh giá cao thành tựu mà nhân dân Việt Nam đã giành được trong công cuộc Đổi mới với tốc độ tăng trưởng bình quân 7% năm kể từ năm 2000 đến nay. Bộ trưởng Kim đánh cao vai trò và trách nhiệm của Việt Nam trong các tổ chức khu vực và quốc tế như ASEAN, Diễn đàn kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Cấp cao Đông Á (EAS), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Liên Hợp Quốc….Bày tỏ vui mừng trước những bước phát triển tốt đẹp và nhanh chóng của quan hệ Việt- Hàn. Bộ trưởng Kim cho biết nhân ngày lễ trọng đại của Việt Nam, cá nhân ông xin bày tỏ sự kính trọng đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, khẳng định Hàn Quốc sẽ tiếp tục hợp tác chặt chẽ với Việt Nam – một đối tác chủ chốt trong chính sách Ngoại giao châu Á mới của Hàn Quốc, để thúc đẩy hòa bình và thịnh vượng ở khu vực châu Á cũng như trên toàn thế giới.
Nhân dịp này, Đại sứ quán ta đã tổ chức tiệc chiêu đãi trọng thể các vị khách quý. Buổi tiệc diễn ra trong không khí ấm cúng với một số món ăn truyền thống của Việt Nam như nem rán, phở… . Toàn khán phòng cũng được thưởng thức một chương trình biểu diễn văn nghệ đặc sắc với các bài hát ca ngợi quê hương đất nước và hòa tấu nhạc cụ dân tộc, độc tấu đàn bầu do các nghệ sĩ Việt Nam trình tấu.
Đại sứ Trần Trọng Toàn cũng tham gia biễu diễn với tiết mục ngâm bài thơ Trời hửng (Tỉnh thiên) trong tập thơ “Nhật ký trong tù” của Hồ Chủ Tịch./.
Tạo bởi habc
Cập nhật 06-08-2010
Giao lưu trực tuyến giữa các cô dâu Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc với gia đình ở Việt Nam.
•
•
Nhằm mục đích triển khai thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực công nghệ thông tin giữa Chính phủ Việt Nam (VN) và Hàn Quốc (HQ), ngày 29/7, Bộ An ninh và Hành chính công HQ và Bộ Thông tin Truyền thông VN đã phối hợp với Đại sứ quán VN tại HQ tổ chức buổi giao lưu trực tuyến giữa các cô dâu VN lấy chồng HQ và các gia đình của họ ở VN. Buổi giao lưu trực tuyến được thực hiện giữa 3 điểm cầu: Huyện Inje - HQ, Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Tham dự buổi giao lưu trực tuyến có Bộ trưởng Bộ An ninh và Hành chính công HQ Maeng Hyung Kyu, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông VN Lê Nam Thắng, Đại sứ VN tại HQ Trần Trọng Toàn, Đại sứ HQ tại VN Park Suk Hwan, Lãnh đạo huyện Inje, tỉnh Kangwon và 09 cô dâu VN lấy chồng HQ và gia đình tại VN
Trong phát biểu khai mạc, Bộ trưởng Maeng Hyung Kyu đã xin lỗi vụ việc cô dâu VN bị người chồng HQ sát hại hồi đầu tháng 7/2010, đồng thời bày tỏ hy vọng buổi giao lưu trực tuyến lần này sẽ là niềm an ủi đối với nhân dân VN. Ông cũng khẳng định trách nhiệm của Chính phủ và nhân dân HQ sẽ tạo điều kiện để để các cô dâu VN có một cuộc sống ổn định, hạnh phúc tại HQ.
Thứ trưởng Lê Nam Thắng hoan nghênh và đánh giá cao nỗ lực của phía HQ trong việc chuẩn bị, tạo điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật cho buổi giao lưu; nhấn mạnh đây là hoạt động có ý nghĩa nhằm khai thác công nghệ thông tin phục vụ đời sống, góp phần tăng cường sự hiểu biết và tình cảm hữu nghị giữa nhân dân hai nước. Thứ trưởng hy vọng, sự kiện này sẽ được tổ chức thường xuyên và ngày càng mở rộng về quy mô, đa dạng hóa về hình thức.
Trao đổi bên lề buổi giao lưu, Đại sứ Trần Trọng Toàn đã đề nghị Bộ trưởng Meng Hyung Kyu, Chính phủ và các Bộ, ngành hữu quan HQ quan tâm hơn nữa đến các gia đình đa văn hóa, đặc biệt là việc tạo công ăn việc làm cho các cô dâu VN và mong muốn được làm việc, đồng thời chú trọng chăm sóc, giáo dục con em của các gia đình này để sau này các em có thể trở thành những công dân tốt của HQ. HQ cần đẩy mạnh việc dạy các cô dâu VN tiếng Hàn, kiến thức về văn hóa, phong tục tập quán, cách ứng xử trong gia đình và cộng đồng làng xóm…, để họ sớm thích nghi và hòa nhập vào xã hội HQ.
Buổi giao lưu trực tuyến đã diễn ra trong bầu không khí thân mật và ấm áp.
Trước đó, ngày 30/6, Công ty cảng hàng không HQ(KAC) phối hợp với Đại sứ quán VN tại HQ ký thỏa thuận về việc hỗ trợ trao tặng vé máy bay khứ hồi cho 20 gia đình cô dâu VN về thăm quê hương và hỗ trợ mỗi gia đình 450 USD./.
Tạo bởi vubaochi
Cập nhật 04-08-2010
Phát hành cuốn sách Luật Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam bằng hai thứ tiếng Việt và Hàn tại Hàn Quốc
•
•
1. Quan hệ giữa Việt Nam và Hàn Quốc thời gian quan phát triển nhanh chóng trong nhiều lĩnh vực, trong đó có các hoạt động giao lưu nhân dân.
Cộng đồng người Hàn Quốc ở Việt Nam cũng như cộng đồng người Việt Nam tại Hàn Quốc ngày càng tăng, trong đó có các gia đình đa văn hóa Việt-Hàn.
Nhằm giúp cho những người Hàn Quốc muốn kết hôn với phụ nữ Việt Nam có hiểu biết tốt hơn về những qui định của luật pháp Việt Nam về hôn nhân và gia đình, từ cuối năm 2008, Giáo sư Ahn Hee Wan, Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế Việt Nam, đồng thời là một nhà nghiên cứu Việt Nam học lâu năm đã bày tỏ ý định muốn dịch Luật Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam sang tiếng Hàn Quốc và Đại sứ quán đã hoan nghênh và ủng hộ Giáo sư Ahn.
Chính thức từ tháng 3/ 2009, Giáo sư Ahn bắt tay vao dịch bộ Luật này và những văn bản liên quan như Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài (Số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002); Sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài (Số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/07/2006); cùng một số câu hỏi - giải đáp bằng tiếng Hàn cho những người Hàn Quốc kết hôn với cô dâu Việt Nam.
Công việc dịch thuật của Giáo sư An Hee Wan đã được hoàn tất cuối năm 2009. Giáo sư Bae Yang Soo, Trưởng khoa Tiếng Việt, trường Đại học Ngoại ngữ Busan đã góp sức hiệu đính và biên tập cuốn sách này. Cuốn sách được xuất bản ngày 30/6 tại Thành phố Busan. Hai Lãnh sự Danh dự của Việt Nam tại Hàn Quốc là Ngài Koo Cha Yol, Lãnh dự Danh dự của Việt Nam tại khu vực Incheon-Gyeonggi và Ngài Park Soo Kwan, Tổng Lãnh sự Danh dự của Việt Nam tại khu vực Busan-Gyeongnam đã tài trợ cho việc xuất bản cuốn sách.
2. Cuốn sách Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam dành cho các gia đình Việt-Hàn bằng hai thứ tiếng Hàn-Việt này góp phần giải đáp những câu hỏi liên quan đến luật Hôn nhân và Gia đình của Việt Nam.
Cuốn sách này sẽ được cấp miễn phí cho các Cơ quan Xuất nhập Cảnh của Hàn Quốc là nơi các chú rể Hàn Quốc cần đến xin thị thực nhập cảnh cho cô dâu người Việt; Hiệp hội môi giới hôn nhân của Hàn Quốc, các công ty môi giới hôn nhân có yếu tố nước ngoài, các tổ chức và cá nhân người Hàn Quốc muốn tìm hiểu về Luật Hôn nhân và Gia đình của Việt Nam và các gia đình Hàn-Việt. Hy vọng cuốn sách này sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho những ai quan tâm./.
Tạo bởi habc
Cập nhật 03-08-2010
No comments:
Post a Comment