Sunday, May 30, 2010

Nhà cũ

Truyện ngắn * NGUYỄN NGỌC TUYẾT
Nhà cũ Thứ bảy, 01/08/2009 20 giờ 01 GMT+7
Nhà vừa bán xong, lòng bỗng cảm thấy hụt hẫng thế nào. Biết là thế chẳng đặng đừng mà sao vẫn ray rứt, bâng khuâng. Ừ, dù gì cũng là nơi mình sinh ra, khôn lớn. Nói một cách văn vẻ, đó là “thánh địa của tuổi thơ” có phải? Không chỉ của riêng mình mà còn của bao nhóc tỳ khác, nay đã thành ông già bà cả hết rồi! Sự khắc nghiệt của thời gian đó mà!
Thằng em cứ than thở. Ở nhà này hoài coi như không bao giờ tôi có được nhà! Nhà thờ là của chung mà. Ừ thì mày cứ ở muôn năm cũng được, ai nói gì đâu. Sao được! Còn đời con, đời cháu mình nữa chi. Mình không tranh chấp chứ tụi nhỏ biết được vậy không. Rồi kéo nhau ra tòa, kiện tụng, mệt lắm. Ừ, thì thôi bán thì bán!
Khách mua nhà là hai vợ chồng trẻ măng, cô vợ có thai đứa con đầu lòng bụng chửa vượt mặt rất dễ thương, cứ nói đi nói lại: “Tụi con thích chỗ này nên mua ở thôi, không buôn bán gì đâu”. Ừ, hiếm khi gặp lớp trẻ lại hoài cổ như vậy. Bởi căn nhà này chỉ là một căn phố xưa, nằm trong dãy phố cất từ trước năm 45 kia. Còn nhớ ngày trước, đi đâu về cứ kêu xe lôi “Cho tôi về phố 18 căn”, vậy là xe nào cũng biết, chở tới trúng phóc, chẳng cần nói thêm đường sá gì nữa. Có lẽ vì vậy mà ngày trước khi được động viên mua nhà trả góp ở khu công chức má tôi vẫn nhất định ở lại nhà mướn chứ không đi đâu hết. Mãi đến sau giải phóng, chủ nhà đã vượt biên cả, má tôi vẫn tiếp tục đóng tiền thuê nhà cho nhà nước cho tới khi tất cả dãy phố xưa này được hóa giá, rẻ đến mức gần như cho không vì thời gian quá lâu, nhà nào cũng rệu rả cả rồi. Nhưng dẫu sao cái chỗ này, con đường này vẫn là đường lớn, xưa giờ chưa hề thay đổi tên đường. Điều đó chẳng thú vị sao?
* * *
Ở cuối con đường nhà tôi là một ngã ba, có tên “Ngã ba cầu Xéo”. Cái xóm Cầu Xéo đã thành một địa điểm quen thuộc của mọi người trong thành phố. Những ngày má mới mất, tôi vẫn thường đến đây, nhìn hàng sao cổ thụ hai bên đường còn sót lại mấy cây, cành lá sum suê mà nhớ những buổi chiều của tuổi thơ nào xa lắc, má tôi dẫn tôi đến chỗ này ngắm những bông sao (thực ra là trái sao) quay tít trong gió như những chong chóng nhỏ bay lượn trong không gian rồi lượm cả bọc đem về nhà. Và con bé ngày đó cứ thích thú quăng lên cao từng bông sao, từng bông sao quay tít trong niềm vui vỡ oà của tuổi thần tiên “Nằm ngủ mơ thấy tiên” ấy. Bây giờ sao ít thấy những bà mẹ dẫn con đến để lượm bông sao thả chong chóng bay lên trời cao dù trong thành phố này đây đó vẫn còn nhiều gốc sao cổ thụ từng một thời rủ bóng xuống tuổi nhỏ đầy thú vị của những đứa trẻ con năm xưa. Riêng tôi, lớn lên tôi đã cố đi tìm hiểu về cái xóm Cầu Xéo, về cái ngã ba Cầu Xéo của mình. Bởi từ đầu đến cuối con đường, chỉ có con sông Hậu chảy qua chứ làm gì có cây cầu bắc qua sông, qua rạch nào! Cuối cùng, những người già cố cựu đã cho tôi biết cây cầu Xéo kia chỉ là một cây cầu bắc từ bờ sông ra đến những tàu hàng lớn từ Campuchia sang. Tàu ngày xưa chạy bằng củi than nên cầu được bắc để phu bốc vác ôm củi đốt xuống cho tàu ngay bến sông này. Vì cầu được bắc xéo hình cùi chỏ nên dân gọi quen là “Cầu Xéo”. Cây cầu mang ý nghĩa kinh tế đã mất tăm mà cái tên vẫn còn ở lại, sống mãi đến ngày nay. Và lớp trẻ chúng tôi lớn lên, mở miệng ra là nói mình ở “Xóm Cầu Xéo”tuy chưa hề thấy cây cầu mà vẫn in hoài dấu vết xưa vào ký ức, vào cuộc sống của mình. Vậy nên, căn phố xưa, căn nhà cũ bán đi rồi mà trong tôi vẫn mênh mang nỗi nhớ, vẫn đầy ắp kỷ niệm. Và những hồi ức về ngôi nhà mình sinh ra, về những con người nơi đó như một lỗ mội trong lòng đất để nước từ đó cứ tuôn trào, tuôn trào...
* * *
- Sáu giờ rưỡi rồi! Dậy mau! dậy mau! Không trễ giờ học bây giờ.
Cái điệp khúc này ngày nào má tôi cũng cất lên vào mỗi sáng. Vậy mà mấy đứa chúng tôi vẫn tiếp tục ngáy khò khò, ít nhất là đến mười lăm phút sau. Bởi đứa nào cũng biết tỏng là khi má la vậy là mới có sáu giờ thôi. Lúc nào má tôi cũng “trừ hao” vậy mà! Tội gì không “nướng” thêm chút nữa. Chỉ cần mười phút đánh răng, rửa mặt, thay đồ, chải qua quýt cái đầu là ôm cặp chạy đi được rồi. Tội nghiệp cho chị- người- làm, sáng nào cũng nấu nồi cơm tấm mỡ hành nóng hổi, làm sẵn chén nước mắm tỏi ớt ngon lành mà mấy khi có đứa ngồi lại ăn trước khi đi học đâu. Bữa ăn sáng cứ để ăn trưa vẫn là chuyện thường ngày ở nhà này dù đứa nào vào lớp cũng đói meo bởi mấy món quà vặt trước cổng trường như khúc bánh mì, ly đá nhận chế si rô có thấm vào đâu.
Ba tôi mất sớm, má tôi một mình nuôi ba đứa con và gánh vác cả hai bên gia đình từ mấy đứa cháu ruột đến cháu chồng. Có đứa từ miệt vườn ra đi học chữ, có người học nghề, có người chỉ giúp việc nhà vì không làm gì được ở quê. Nhà lúc nào cũng trên chục người vậy mà với đồng lương giáo viên má tôi vẫn cưu mang tất cả. Đến bây giờ nhớ lại quả tôi cũng không biết làm sao cả nhà có thể sống tươm tất như vậy! Nhỏ cháu tôi vẫn nhắc:
-Bà ngoại thiệt giỏi! Hè nào cũng đưa bọn mình đi Vũng Tàu đổi gió, tắm biển. Không biết lương ngoại bao nhiêu. Mà hồi đó có ai dạy thêm làm thêm gì đâu!
Nhỏ cháu chỉ nhỏ hơn tôi bốn tuổi ấy sau này bôn ba lận đận ở Sài Gòn nên những ngày sống dưới mái nhà này vẫn là những ngày đẹp nhất, vui vẻ nhất của nó. Má tôi đã xuống tận Rạch Giá đón nó về nuôi lúc mới hai tuổi để ba má nó yên lòng đi kháng chiến. Nghe má tôi kể lại thì lúc đó nó xác xơ như con mèo ướt, cứ khóc ngằn ngặt và hay bị động kinh bởi bị nhiễm trùng cuống rún. Phải thuốc men dữ lắm nó mới khỏe được.
Lớn lên đi học trên thành phố rồi trở về nhà, căn nhà trong mắt tôi chợt nhỏ lại và tôi lại ngạc nhiên không hiểu sao với từng ấy diện tích lại chứa đông người đến vậy mà chúng tôi vẫn thấy căn nhà của mình thênh thang, đủ chỗ cho chúng tôi ăn ngủ, chơi đùa thỏa thích. Có lẽ do tuổi nhỏ hồn nhiên quá chăng? Chỉ biết ngóc ngách nào trong nhà cũng ăm ắp kỷ niệm tuổi thơ. Nhắm mắt lại là mọi thứ sẽ hiện ra, tươi rói, lấp lánh như mới hôm qua.
Này nhé, thân thiết nhất chính là gian nhà sau, nơi có vạt giường khá rộng của chị Bảy, cháu ruột của ba tôi qua giúp việc nhà. Tối nào bọn tôi cũng họp lại kể cho nhau mọi chuyện trong ngày. Mới thấy thế giới trẻ thơ sao mà đầy ắp thú vị. Đứa bị cô phạt đứng chào cờ trên bảng, đứa hí hửng vì điểm tốt, đứa hít hà ổ bánh mì cá mòi của bà Ba ngoài cổng trường bữa nay quá ngon, buổi trưa nay mới bắt được con miễng kiếng đẹp tuyệt cú mèo trên giàn bông bụp... Hấp dẫn nhất vẫn là câu chuyện của thằng em cô cậu cùng tuổi tôi. Hôm thì nó đi bẻ trứng cá bị chủ nhà xách cây rượt bắt, hôm thì nó lội qua cồn trộm ấu, bắt dế.. Vốn dân miệt vườn, mới hơn mười tuổi thằng em tôi đã rành rẽ mọi trò chơi, từ tán u, câu cá, đổ dế, bắn chim đến hái trái vườn người. Mỗi câu chuyện là mỗi “chiến công” trong ngày của nó đôi khi được cường điệu hóa khiến lũ trẻ trong nhà há hốc mồm mê mẩn tâm thần. Nhớ lại thì gian nhà khách, nơi má tôi hay ngồi đọc báo, xem sách hoặc làm việc bên chiếc bàn buya-rô có vẻ xa cách với chúng tôi hơn bởi ít có đứa nào muốn léo hánh ra nhà trước, đứa nào cũng sợ bị má tôi kêu lại hỏi chuyện học hành.
Lớn lên một chút, bọn tôi thích quây quần buổi trưa trên bộ ván gõ ở nhà bếp, nơi các bà các chị thường ngồi bắt mâm nấu nướng ngày giỗ, Tết. Sở dĩ phải chui rúc xuống đây vì nhà tôi tuy không rộng bề ngang nhưng lại sâu đến mấy chục thước, người lớn ít khi tìm xuống. Ấn tượng nhất vẫn là những buổi cầu cơ, đánh bài. Đứa nào cũng lấm la lấm lét, vừa sợ người lớn bắt gặp, vừa sợ ma về thiệt theo bàn tay run run trên tấm gỗ hình trái tim mà thằng em quậy phá kiếm đâu từ nghĩa trang về (theo lời nó nói). Có khi chỉ tiếng dép lẹp xẹp của ai đó ở nhà trên cũng khiến cả bọn giật nẩy mình, mặt mày xanh lét. Những giây phút ấy, làm sao quên!
Vui nhất vẫn là mấy ngày Tết, khi gia đình cô chị họ bồng bế về ăn Tết. Chị này là cháu ruột của má tôi, do cậu tôi mất sớm, mợ quá nghèo nên má tôi nuôi suốt từ nhỏ đến lớn, dựng vợ gả chồng đàng hoàng. Hai vợ chồng ở đâu miệt Xuân Lộc, năm nào Tết cũng dẫn ba đứa con về chơi. Thôi thì nhà chật ních từ trong ra ngoài, ầm ĩ cũng từ ngoài vào trong. Năm sáu đứa nhỏ chia phe lắc bầu cua cá cọp hoặc chơi bài cào. Người lớn thì kéo phé, kéo xì dách, sát phạt tưng bừng không ai nể ai. Mấy đứa nhỏ có khi thua hết tiền lì xì, mặt méo xẹo, ngồi khóc rưng rức. Cuối buổi kẻ nào thắng trận phải bao cả nhà ăn hủ tíu ăn mì của gánh mì ngon nhất đầu đường, có khi phải bỏ thêm tiền túi ra mới đủ. Đúng là “Vui như Tết”! Vui nhất là lúc về khuya, bọn nhỏ ngủ cả, mấy người lớn vẫn châu đầu vào sòng, có khi phải chui cả xuống gậm bàn vì bà ngoại tôi cứ đi ra đi vào cằn nhằn “Lớn đầu còn dạy hư con nít”. Mãi đến giờ, hương vị những ngày Tết ấy vẫn còn đọng lại trong tôi. Nhưng đã bao năm qua, bao nhiêu cái Tết rồi, những người năm xưa ấy còn được mấy ai? Thảng hoặc có còn chăng nữa không biết còn ai nhớ về căn nhà cũ, kỷ niệm xưa như tôi không?
* * *
Sau ngày giải phóng, má tôi lại ở một mình trong căn nhà cũ. Má đã nghỉ hưu trước đó mấy năm, còn chúng tôi đều ở xa. Tôi về nhà chồng, thằng em trai lên thành phố kiếm sống còn thằng em út đã mất vì bệnh. Đêm nằm ngủ trong căn nhà xa lạ tôi cứ nghĩ đến nhà mình, nghĩ đến má tôi một thân một mình ra vô trong căn nhà sâu hút. Có đêm thức giấc giữa khuya tôi cứ ngỡ mình đang ở nhà, chừng tìm hoài không thấy chiếc cửa sổ mở ra sàn nước mà chỉ thấy mấy ngôi sao nhấp nháy trên vòm trời mới nhớ mình đã thuộc về nhà khác, thuộc về cuộc sống khác. Cảm giác hụt hẫng như vừa đánh mất một khoảng trời, một người thân thiết và bỗng dưng nước mắt rưng rưng. May mà do hoàn cảnh riêng, tôi còn được về nhà cũ ở với má mấy năm cùng hai đứa con nhỏ của mình. Theo nghề má, tôi cũng đi dạy, cũng ngày ngày đứng trên bục giảng dù đồng lương lúc bấy giờ không được thoải mái như thời của má. Tôi tất bật công việc, lại nhờ má trông coi cơm nước cho mấy mẹ con, cái công việc mà khi trước má chưa hề làm bởi nhà lúc nào cũng có người giúp việc. Vậy mà má tôi không hề phàn nàn, chỉ xót xa cho lũ cháu ăn uống không đầy đủ.
- Tội nghiệp mấy đứa nhỏ không được ăn bôm, ăn nho!
- Tội nghiệp mấy đứa nhỏ không được đi tắm biển, đi đổi gió mùa hè!
Có khi những lời than thở của má làm tôi phát bực, phải la lên:
- Sao má không tội nghiệp cho con nè. Mấy đứa nhỏ nó có biết bôm, nho, biết tắm biển là gì đâu mà thèm. Chỉ lớp tụi con mới thấy thiếu thôi má ơi!
Khi thằng em trai có gia đình về ở với má, tôi trở về nhà chồng. Má tôi tuần nào cũng lội bộ vào thăm con, thăm cháu cho đến lúc sức khỏe yếu hẳn. Má vẫn thường nói:
-Má thích ở đây vì gần chợ, gần trường, đi đâu cũng tiện. Buổi sáng chỉ cần đứng trước cửa nhà là đã gặp bao người quen đi ngang qua, không cần đi đâu cũng nắm hết tin tức rồi.
Đó là má tôi chưa kể đến sự hấp dẫn của dãy phố này vào những đêm Noel hằng năm, bọn nhỏ chúng tôi bắc ghế ngồi trước cửa nhà nhìn cả thành phố diễu qua, bởi đây là con đường chính dẫn xuống nhà thờ chánh tòa mà. Chưa hết, có ai đó muốn biết thời trang nóng hổi của năm nay ư? Chỉ cần ngắm những mốt áo quần của ngày giáng sinh là biết hết! Không trách mấy đứa bạn cũng thường đến ngồi “ké” trước cửa nhà tôi để nhìn thiên hạ ăn diện, mốt miết đầy đường.
Những năm cuối đời má tôi càng gắn bó với ngôi nhà. Khi má bệnh tôi đưa má về nhà mình để dễ bề chăm sóc, vậy mà cứ đi đứng được là má lén ra đầu hẻm, về nhà. Cái lẫn lộ của tuổi già làm má quên rất nhiều thứ, thậm chí có hôm không nhìn ra con cháu nhưng đường về nhà là má nhớ như in. Mở miệng ra là:
- Nhà tôi ở đường Phan Đình Phùng, dãy phố 18 căn, gần chợ lắm.
Rồi gặp ai cũng hỏi:
- Có biết nhà tôi không? Tụi nó nhốt tôi, không cho tôi về nhà...
Ôi căn nhà của má! Cả một đời làm việc nuôi biết bao nhiêu con cháu nội ngoại, của cải rốt lại của má tôi chỉ là căn nhà quen thuộc đầy ắp kỷ niệm, đầy ắp yêu thương. Chắc má tôi cũng hài lòng vì má đã ra đi trong căn phố thuê mà má đã biến nó thành nhà mình. Và rằng rất nhiều năm sau, chị em tôi vẫn thờ phượng má ở đó để mỗi ngày giỗ con cháu tụ về...
Nghe tin nhà bán, nhỏ cháu tôi trở về, thắp nhang lần cuối trên bàn thờ trong căn nhà cũ, nước mắt rưng rưng:
-Chắc bà ngoại buồn lắm! Có điều chắc ngoại không giận mình đâu. Ngoại biết hoàn cảnh con cháu mà...
Nhà cũ bán rồi! Ý nghĩ lặp đi lặp lại trong đầu mà sao vẫn chưa quen! Sao mỗi ngày vẫn muốn chạy ngang qua đó liếc nhìn căn nhà khóa kín cổng ngoài một cái cho đỡ nhớ. Buổi sáng nay chợt thấy tấm bảng nhỏ treo phía trước “Nhà cho thuê”, bên dưới là một số điện thoại lạ hoắc. Có lẽ chủ mới trong khi chờ xây lại toàn bộ đã tranh thủ gỡ chút đỉnh vốn chăng?
Nhà cho thuê! Năm tháng trôi qua, ngôi nhà lại quay ngoắt một vòng trở lại điểm xưa? Tôi ngừng xe, nhìn mãi căn nhà cũ không còn là nhà mình nữa, bỗng thấy lòng quặn đau...
Truyện ngắn * HỒNG SA Trương Chi ơi, đời đã khác rồi! Thứ bảy, 18/07/2009 20 giờ 45 GMT+7
Hồi ấy, tôi mười bảy tuổi, lứa tuổi rất thích nghe những câu chuyện yêu đương. Một hôm, Thành, một thằng bạn học, kể cho tôi một câu chuyện tình đã làm cho nó rất băn khoăn, day dứt.
...Ngày xửa, ngày xưa, có nàng Mỵ Nương xinh đẹp con nhà quyền quý. Nơi gác tía, lầu son, đêm đêm nàng thường nghe tiếng tiêu của ai đó réo rắt. Tiếng tiêu ấy gieo vào lòng nàng Mỵ Nương một tình yêu tha thiết. Một thời gian, tiếng tiêu im bặt, không còn vọng lại trong những đêm khuya. Nàng thương nhớ, rồi mang bệnh tương tư, không thuốc thang nào trị khỏi. Hiểu được tâm trạng của con, cha nàng truyền cho các quan chức trong vùng tìm cho được người đã đem tiếng tiêu sầu gây thành bệnh cho nàng!
Hôm sau, người ta đưa về dinh người thổi tiêu. Đó là Trương Chi, một ngư dân nghèo lại xấu xí, đêm đêm thổi những khúc tiêu sầu sau khi đã giăng câu, để tự an ủi mình.
Khi vừa thấy mặt Trương Chi, Mỵ Nương ôm mặt chẳng dám nhìn. Mộng vỡ tan tành! Thế là nàng hết bệnh!
Nhưng từ ngày thấy mặt Mỵ Nương, Trương Chi bỗng thấy lòng mình xao xuyến. Tình yêu đã nảy sinh, nhưng là mối tình tuyệt vọng! Chàng bệnh tương tư. Trương Chi lìa đời, mang xuống tuyền đài một mối tình không thể nào tan, biến thành một khối ngọc. Một ngư ông nhặt được ngọc, đem về làm thành một cái chén uống trà, mang ra chợ bán. Cái chén trà lại lọt vào tay Mỵ Nương xinh đẹp. Đêm nọ, nàng đang uống trà, bỗng nghe vọng lại tiếng tiêu sầu. Nhìn vào chén trà, Mỵ Nương bỗng thấy hình ảnh Trương Chi đang ngồi trên chiếc thuyền con... Mỵ Nương rơi nước mắt. Giọt lệ rơi đúng vào chén trà, cái chén trà tan ra thành nước!
* * *
Câu chuyện cổ tích ấy tạo cho chúng tôi những suy nghĩ tiêu cực, phiền muộn về thế thái, nhân tình, về tình yêu đôi lứa. Than ôi, Mỵ Nương rơi lệ là do thương người đã vì mình mà chết, hay đó chỉ là thương hại? Làm sao hiểu được những giọt nước mắt kia? Nghĩ thương Trương Chi, chúng tôi lo cho cái phận mình. Có thể chúng tôi sẽ thành hai anh Trương Chi đời nay, vì chúng tôi đều có mặc cảm về ngoại hình của mình, lại thuộc vào loại học sinh nghèo, Trương Chi có tiếng tiêu quyến rũ lòng người. Chúng tôi thì chẳng có gì hấp dẫn được ai. Ở lứa tuổi mới lớn mà chúng tôi đâm ra hoài nghi tình yêu và cuộc sống: cha mẹ không cho chúng tôi một dung nhan đẹp đẽ để làm vốn vào đời? Tôi và Thành trách ông trời đã sinh ra muôn loài: loài nào con trống cũng đẹp, mà sao ở loài người, ông lại làm ngược lại cho khổ những bậc mày râu như chúng tôi!
Tôi và Thành cùng vào bộ đội khi cuộc kháng chiến chống Pháp bắt đầu. Cả hai đứa không mang theo mối tình nào lâm ly như trong “tiểu thuyết thứ bảy” thời bấy giờ. Chỉ có mối tình của Trương Chi là chúng tôi chưa quên được. Hai chúng tôi thường động viên nhau cố gắng chiến đấu, rủi có hy sinh cũng không để thương, để nhớ cho ai, và cũng không mang xuống tuyền đài những mối tình dang dở.
Năm tháng trôi qua, cuộc chiến ngày càng ác liệt. Cái già đến sớm. Cái dung nhan đã xấu, càng tàn tạ thêm nhiều. Chúng tôi càng ngán ngẫm với ý nghĩ lập gia đình. Thành tâm sự với tôi: “Chừng nào tao gặp một cô nàng xấu hơn tao, mà tốt hơn cô nàng Mỵ Nương thì tao mới cưới. Nếu không, thà tao ở với cô vợ này còn hơn”! Vừa nói, Thành vừa chỉ vào khẩu súng, “cô vợ” đã cùng Thành bên nhau chiến đấu biết bao ngày.
* * *
Trong một trận chống càn quyết liệt, một quả pháo rơi gần chỗ Thành đang dìu một đồng đội đang bị thương về gần tới trạm quân y dã chiến. Mảnh đạn đã làm anh gãy một chân, một tay và hỏng một mắt. Hai thương binh nằm đó, cho đến khi đồng đội đi tìm được đưa về quân y.
Gần một tháng sau tôi mới đến được bệnh viện để thăm Thành. Nhìn cái thân tàn tạ của Thành, tôi không biết nói gì để an ủi được anh! Về đơn vị, tôi cứ bị ám ảnh hoài bởi gương mặt của Thành với nụ cười héo hắt. Nhớ lại lời của Thành lúc trước, tôi thầm nghĩ, bây giờ thì bạn mình chắc là khó kiếm một cô vợ. Liệu có ai tốt đến nỗi sẵn sàng hy sinh hạnh phúc của riêng mình để suốt đời chăm sóc một người tàn phế như Thành. Nghĩ về tương lai của Thành, nhiều đêm, tôi rơi nước mắt. Và tôi nghĩ đến phận mình, biết sẽ ra sao trong cuộc chiến đấu một mất một còn.
Thành được đưa về hậu phương. Tôi tiếp tục rày đây mai đó theo đơn vị chiến đấu khắp các chiến trường.
Một ngày nọ, tôi nhận được thư của Thành, Thành mời tôi về dự đám cưới. Tôi báo cho mọi người cái tin vui. Ai cũng biết Thành qua những câu chuyện của tôi. Niềm vui chung tràn ngập mọi tấm lòng.
Anh em trong đơn vị cũng tạo mọi điều kiện cho tôi đi dự đám cưới của Thành. Tôi cũng rất háo hức với chuyến đi này để gặp lại Thành, để xem việc gì đã xảy ra với cậu ta, để xem nàng Mỵ Nương nào đã “cả gan” lấy một anh Trương Chi còn “te tua” hơn anh ngư phủ với tiếng tiêu sầu từ bao năm cũ.
Khi về điều trị ở bệnh viện, Thành được một cô y tá thường xuyên chăm sóc, cô ấy tên Mai. Bên cạnh trách nhiệm, tình thương đã giúp Mai khắc phục mọi khó khăn giúp Thành đỡ vất vả về thể xác, đỡ đau khổ trong tâm hồn. Ngày qua ngày, một tình yêu đã nảy nở. Nó đã làm tan dần định kiến trong lòng Thành về quan hệ lứa đôi. Tình yêu của Mai làm cho Thành có quan niệm khác đi về cuộc sống, tình yêu. Anh thầm cảm ơn cách mạng đã tạo nên những “nàng Mỵ Nương” biết yêu thương và dám hy sinh. Những cô gái biết sống bằng một tâm hồn cao cả, sống cho xã hội, sống vì mọi người.
“Tình trong như đã” nhưng Thành vẫn còn băn khoăn mặc cảm sợ mình “làm khổ người ta”! Nhưng nhờ có chánh quyền và đoàn thể ở đơn vị, ở địa phương động viên, giải tỏa mọi băn khoăn, vướng mắc nên cuối cùng mọi việc cũng êm xuôi.
Hôn lễ của Thành - Mai đơn sơ, giản dị nhưng rất vui và ấm cúng. Đó là niềm vui chung cho cả làng, dù cô dâu, chú rể không phải là người của địa phương. Nhìn Mai rạng rỡ dìu chồng đi chào bè bạn, tôi vô cùng kính phục và cảm thông. Tôi tin rằng Mai sẽ làm điểm tựa suốt đời cho bạn tôi. Cô đã thấy rõ cái cao quý bên trong con người của chồng mình, đã tự nguyện gắn cuộc đời mình vào cuộc đời của Thành, một cuộc đời đầy khó khăn, thử thách nhưng họ sẽ vượt qua.
Tôi mong rằng đời cũng sẽ dành cho tôi một người như vậy. Tôi muốn reo lên:

No comments:

Post a Comment