Chập chờn lau sậy
Nguyễn Ngọc Tư
Năm ba lượt chuyển nhà, đếm trên đầu ngón tay những gì của tuổi lên mười, ngạc nhiên vì có mang theo cả cỏ dại và lau sậy.
Những trưa tì mặt vào cửa sổ, ngó ra thênh thang cỏ hoang trước mặt bỗng nhớ những năm tám mươi, ba đưa cả nhà về sống ở ngoại ô thị xã. Hai bên đường và trong các mảnh vườn mịt mùng lau sậy, ba có chút ngậm ngùi, “người chưa về thì người khác lại đi…”. Ba nhắc những người lính, những người bỏ đi khỏi vùng giáp ranh tránh đạn lạc, lại nhiều người vượt biển tìm chân trời khác... Dấu chân vừa kịp cũ, thì lau sậy mọc lên, lấp mất.
Chúng sống mãnh liệt quá, nhiều khi thấy… ghét. Chiều chiều ba cuốc đất đằng trước, anh em tôi lủi thủi theo sau để lượm rễ cây, chỉ cần sót một mẫu bằng ngón tay thôi, ít lâu sau sẽ thấy sậy mọc lẫn trong mớ rau. Chúng cao hơn rau, xanh hơn, mạnh mẽ hơn, mà bán chẳng ai mua, ăn không được. Củi bình bát, so đũa xài không hết, chẳng ai thèm đốn sậy nhóm lửa. Nên cả xóm cứ thênh thang cỏ hoang, lau sậy. Nên cả tuổi thơ cứ thênh thang cỏ hoang, lau sậy. Những mùa khô, tụi nhỏ đi đốt sậy hai bên đường, lúc cháy chúng nổ giòn tan như pháo, tàn tro bay tao tác giữa lưng trời, khói quăng quật giữa gió làm mắt mũi đứa nào cũng ràn rụa.
Gần với con người lắm, lẫn giữa con người, vây bọc con người, nhưng lau sậy thì cực kỳ cô đơn. Mùa nối mùa chẳng người nào ngó ngàng tới. Một năm chỉ một lần, lúc thân sậy già, ngã màu vàng, rám nắng, má tôi mới đi lựa đám sậy tốt nhất, chặt về vài bó, dìm dưới ao, đợi sa mưa ôm lên đồng cặm gò sạ lúa. Sậy còn tươi mà đem cắm lên đất thì lúa chưa xanh thân sậy đã mọc nhánh rồi. Cứ sống mãnh liệt vậy, nên những thân sậy người ta dùng dây bện chặt thành những tấm đăng rào nhốt gà, vịt hay ven dưới sông đón bắt tôm, cá… cũng chẳng bao lâu đâm nhánh mới, làm thành những viền xanh uốn lượn giữa dòng.
Tha thiết sống, bất chấp yêu ghét, lau sậy cũng trổ bông. Bông cũng không níu kéo bất cứ cái nhìn nào. Lơ thơ. Nhợt nhạt. Chỉ trẻ con là chờ đợi mùa bông chín, mùa gió chướng thổi sòng, mùa áo mới, mùa Tết. Mảnh mai mình hạc, bông lau vươn cao óng mượt, trắng muốt giữa ngút ngàn bông sậy bạc đầu, chảy thành dòng rập rờn trong gió. Trên cái nền dòng sông bông chín, ông trời mặc sức vẽ gió, vẽ nắng lên.
Bông lau, sậy đẹp nhất là lúc đang tàn, lúc đang phai. Dường như có vài thứ giống vậy, như mùa thu, pháo hoa, giao thừa, tiếng chuông chùa… lúc đẹp là lúc mất. Chẳng hiểu đẹp để mất hay vì biết sẽ mất nên đẹp. Gió chướng thông ngọn thì bông sậy lìa cây, vào khi ngọt ngào và mỹ miều nhất, rút lui, buông bỏ vào lúc vinh quang nhất. Nên tôi, trong vai người đứng ngắm phải ngẩn ngơ nhớ tiếc. Đôi lúc nghĩ, có người nào dám và được rời đi nhẹ nhỏm như cái bông sậy nhỏ nhoi này?
Và có kẻ giang hồ nào lại vào đời lơ đãng, ngơ ngác như bông lau, bông sậy? Tháng Mười mở cửa ra, những cái bông nhỏ rức bay lạc vào nhà. Ngay lập tức, con người tôi bị chia làm ba làm bảy. Tôi Lãng Mạn mừng quá, nhìn ngược trong vệt nắng xiên vào, thấy bông rơi chậm rãi ngu ngơ, bèn muốn làm thơ. Tôi Osin nổi quạu, bông sậy nhẹ quá, chưa chạm chổi vào chúng lại lửng thửng bay, muốn quét cũng không được, muốn đuổi không xong. Tôi Hoài Niệm nhớ quay quắt cái xóm cũ, nhà cũ, lau sậy cũ, nhớ ông ngoại lúc giận quá hay nhặt cây sậy gãy đánh cháu. Roi không gây đau, tôi hí hửng nghĩ ông ngoại mắt mờ, lớn lên mới biết chính mình ngày xưa mờ mắt. Tôi Cụ Non ngồi nhìn những bông sậy long đong tình cờ kết lại thành chùm, xoay tròn trên nền gạch, thấy buồn, chúng nhỏ nhoi đến mắt thường nhìn còn khó, mà biết tìm kiếm và thương nhau, mà mấy bạn mình cũng long đong xứ khác lại không thèm ngó mặt, mà chính mình cũng đang muốn tránh xa người ?!
Cứ vậy, có Tôi Giang Hồ nhìn bông sậy mà nhớ chuyện giang hồ, thì một tôi khác lại yêu tha thiết cái nhà mình đang sống. Bước qua cửa sau đã tới rào, đằng trước chỉ một khoảng sân nhỏ trồng mấy chậu hoa nho nhỏ. Nhưng khu vườn của tôi thì nằm mênh mông tận những chân trời, nơi những cây thốt nốt đứng cô đơn và kiêu hãnh giữa đồng, nơi những cây bằng lăng già nua vắt kiệt mình cho những mùa bông tím, nơi những dòng bông sậy chảy phai cả nắng…
Khu vườn đó, tôi vẫn mang theo từ thuở chín, mười…
Bụi ngọt…
Nguyễn Ngọc Tư
Nhiều lần chờ con trước cỗng trường, cứ nhìn hoài người đàn bà ngồi bán khoai, chuối nướng. Trí nhớ hụt hơi, thấy dì quen thuộc, thân thiết, biết đã từng cùng nhau ăn vài bữa cơm, nhưng vẫn không nhớ người đàn bà kia là ai, đã từng gặp ở đâu. Về nhà nói với má có đi qua trường học thì nhìn giùm một người quen. Má cười, ngồi quạt than ngay góc đường có bà bạn hàng xáo…
Nhà máy chà gạo, phải rồi, dì từng qua đó, như tôi. Gặp nhau trong khung cảnh trùng trùng lúa đã vào bao, chất cao khỏi đầu, nằm dọc ngang trong những gian nhà thênh thang nối tiếp. Mấy anh khuân vác đen trũi, bụng mướt mồ hôi nghiến chân lên dốc gỗ đổ lúa vào thùng. Tiếng máy thở è ạch qua ống khói. Một cái thềm chồm ra quá mé sông, vương vãi trấu lẫn trong gạo, tấm và lúa hạt. Ở đó, có một trưa nào má con tôi đã cùng dì ngồi ăn cơm nguội với ba khía muối trong lúc chờ mua một mẻ gạo thơm tho đầu mùa. Lâu lâu gió thổi những xoáy bụi cám bay lên. Bụi rất thơm.
Hồi đó, nhà có chiếc xuồng be mười, xong mùa lúa, hai má con rủ nhau đi làm hàng xáo. Chúng tôi đi mua lúa dài theo xóm, chở tới nhà máy chà gạo, rồi lấy gạo, cám bán lại cho bà con. Tôi lại học thêm một nghề, học nhìn hạt gạo và gọi đúng tên, giống nào là Tài Nguyên, Tiên Lùn, Nàng Gáo..., loại gạo nào dẻo cơm, loại gạo nào nở bung nồi. Lăn lóc với nghề hàng xáo, má thôi không còn ướt sũng trên đồng, chân dung má bạc màu bụi cám. Đôi mày, tóc mai, và cả mi mắt đều nhuốm bụi, như những người hàng xáo khác. Cuộc mưu sinh giữa nơi bụi mù này đã làm cho mỗi người trở nên bàng bạc, mơ màng.
Đó là chốn mua bán duy nhất mà tôi đã từng qua không có tiếng rao, không tranh giành háy nguýt, không chen chúc xô đẩy. Một cái chợ bình yên. Dường như người ta tin vào sự tồn tại trù phú và miên viễn của cây lúa trên những cánh đồng. Dường như hạt gạo quá linh thiêng nên khi mua bán chúng người ta vẫn giữ chút lòng lành. Dường như những chuyến mua lúa lang thang trên những con sông, trên những dòng kinh xa thẳm đã làm người ta trở nên chân tình và cởi mở.
Tôi hay ngồi vắt vẻo trên những bao lúa, cắn gạo sống lóc cóc, nhấm nháp cái vị béo ngậy bùi bùi của nó, ngóng chuyện sông hồ từ bạn hàng xáo. Nên mỗi khi có xuồng lúa về nhà máy, tôi mừng trước hết, thấy rộn ràng trước hết. Ở đâu đó có ông thầy bùa chữa bệnh bằng… tàn nhang hòa trong nước lã. Ở đâu đó có ông già bảy mươi tuổi cưới một cô mới hai mươi hai. Ở đâu đó có buồng chuối hơn sáu chục nải. Ở đâu đó có con vịt xiêm hai đầu. Ở đâu đó có ma cứ dẫn xuồng lúa đi lạc cả đêm, nên tới bữa nay mới về được đây nè.
Và đâu đó, có những lão nông chỉ chịu khui bồ bán lúa khi gặp lại bạn hàng xáo quen. Vì ông già nhớ một cái nắm tay căn dặn từ mùa trước, “năm tới bác Hai nhớ để giành lúa cho tụi con…”. Lời nói như mũi tên bay vào mịt mùng, mơ hồ như thể không hy vọng và chờ đợi. Bạn hàng xáo quay trở lại, ông già cười hễ hả, “tao trông bây miết…”. Lúa đong vô bao rồi, ông già cứ tần ngần theo rờ rẩm hoài, lúa gạo không đơn giản là một món hàng, mà là mồ hôi nước mắt, là hy vọng. Một bạn hàng xáo giỏi, họ không chỉ thuộc lòng giống lúa của từng vạt đất, bồ lúa của từng nhà, mà còn hiểu nết ăn ở của người dân ở đó… để giữ cái duyên bán mua cho tới mùa sau.
Những người đàn bà ngồi nhổ tóc sâu cho nhau đã dẫn dắt tôi từ chuyện ly kỳ này sang chuyện ngộ nghĩnh khác, từ xa xôi này đến xa xôi khác. Chúng mê hoặc và ám ảnh. Tôi cứ tưởng như bất tận, cho đến ngày những câu chuyện bỗng dưng nhuốm ngậm ngùi. Thấp thỏm. Thảng thốt. Ở đâu đó có những người dân đã phá đập để dẫn nước mặn vào đồng. Ở đâu đó có những góc nhà không còn bồ lúa, ngoài đồng giờ nước trắng xóa, chỉ con tôm. Những lão nông lọm khọm đi mua từng lon gạo về nấu cơm chiều… Cây lúa bị rượt cùng đuổi tận, bị hắt hủi. Ai đó thở dài, chan chứa nhiều linh cảm, “chắc phải bỏ nghề hàng xáo…”.
Sau này có vài dịp đi qua nhà máy cũ, qua cái nền đất chỉ còn chơ vơ ống khói, nghe lạnh, như qua một lò rèn tắt lửa, một lò đường bỏ hoang, một lò cốm quá vãng… Như thể tiếng thở dài của những con người đã từng gắn bó cùng chúng vẫn phảng phất. Đã từng nhộn nhịp. Đã từng vàng son. Giờ thềm xưa đã xanh ngắt bìm bìm, ngó sao mà nhớ những trưa nằm ngủ thẹn thò trên đống lúa. Nhớ những người đàn bà thích nhai gạo sống, ngồi chuyện vãn bên thềm, chung quanh bụi bay bàng bạc. Và bụi thì thơm nồng nàn mùi đồng đất, mùi rạ rơm.
Từ ngày giũ bụi hàng xáo, có thím cất cái quán bán bánh xèo, bánh khọt. Có người về cuốc đất trồng rau. Có người quạt than nướng chuối bên đường. Nhắc cái nhà máy cũ, dì cười, ‘trời, con nhỏ hay kẹp hột lúa nhổ tóc ngứa cho tao hồi đó…”.
Không hiểu sao nghe bùi ngùi, như có hạt lúa nào đâm nhói ran bàn chân trần ở thềm nhà máy cũ...
Mua vài đồng nhớ…
Nguyễn Ngọc Tư
Có đôi khi mất nửa giờ để đi xuyên qua cái thềm chợ chỉ rộng chừng ba mét, tôi tự hỏi, cái gì đã níu bước chân mình ? Mớ rổ nan xếp hàng, mấy chú gà con mới thay áo lá bồn chồn vỗ đôi cánh trụi, hay vì cảnh đôi vợ chồng tóc bạc bẻ gói xôi thành hai nửa để chia nhau. Hay tất cả những hình ảnh đó đã khiến tôi nửa bước nửa dừng?!.
Một tháng vài ba lần, đôi vợ chồng già bán rổ lại tới cái chợ nhỏ bên đường. Ông mắt sâu, cao lòng khòng, tay chân xương xẩu nhô ra bén ngót, lúc cười thấy còn lơ phơ hai cái răng. Bà già nhỏ nhắn, mặt tròn mắt tròn, môi đỏ, miệng nhai trầu móm xọm. Những cái rổ úp thành hàng như những dấu ba chấm lẻ loi giữa cái trang giấy chợ đời nhốn nháo những dấu câu gấp rãi. Đôi lúc, có cái rổ ngửa ra, nụm nịu trong đó là mấy trái bình bát, lekima chín vàng, vài chùm dâu… cuống còn dính dấp nhựa, như thể khi ông gánh mớ rổ trên vai, bà đi đằng sau tiện tay thấy gì hái nấy, cứ vậy mang ra chợ.
Nhìn những món hàng con con, tôi hình dung được mảnh vườn xa xôi đó. Những bụi tre bụi trúc, bình bát mọc theo mé đìa, vài cây vú sữa, vài cây lekima, vài cây dâu… Và chúng đều đã già, hay đất già mà kiệt trái, nhỏ teo. Có bầy gà, bầy vịt túc tắc chạy chơi giữa những rau cỏ dại. Rau đắng đất, rau má mọc cạnh mấy dây bí. Đôi vợ chồng già mang mảnh vườn bày ra nơi thềm chợ. Người đã từng quê đi qua ngây ngô nhớ, người chẳng dan díu gì cũng đứng lại ngậm ngùi. Ở cái tuổi thất thập cổ lai hy rồi, mà họ còn vất vả mưu sinh, đôi bàn tay chai khô chi chít nhiều vết cắt. Cái rổ nan giá chỉ vài ngàn, thương quá mua về không biết dùng để làm gì, để đâu cho khỏi lạc lỏng giữa những những vật dụng hiện đại và hào nhoáng khác.
Ông bà già cũng vậy, ngồi ở chợ mà chỏng chơ, chực rơi khỏi chợ. Bởi hai mái đầu bạc trắng, bởi bộ đồ cũ kỹ quăn queo, bởi những món hàng quê mùa lỗi thời mà họ mang tới từ cái rạch Ổ Ó xa xôi ... Lạ lùng, có vẻ hai người không thấy buồn vì điều đó. Ngồi bên nhau, ông bà tươi rói nói cười, có khi ngặt nghẽo như trẻ con lên bảy lên mười. Mặt trời vói qua mái hiên quán hủ tiếu mì, ông già xích ra sau lưng bà già, che nắng. Củ khoai luộc luôn được bẻ làm hai nửa, rồi lại bẻ hai củ kế tiếp. Khách ghé qua, bà nói rổ này xài bền vô phương. Ông nói bả đương rổ tiếng tăm từ hồi con gái. Bà lại nói ổng nứt vành khéo, chắc chắn lắm. Ông lại nói, bả vót nan đều trân, đó, thím coi…
Nồng ấm và âu yếm. Bà ngồi bên phải thì ông già sẽ hơi nghiêng vai về bên phải. Hôm bà lụi hụi bên trái vai ông lệch hẳn về trái. Cái kiểu ngồi làm tôi vừa mắc cười vừa cảm động. Không cố tình, nhưng lúc nào hai ông bà cũng làm tôi đi chậm, bởi cái ngón trỏ trên tay ông bà còn nguyên cuộn vải cũ sờn dùng để vót nan, như thể sớm nay họ đang ngồi đan rổ thì nghe tiếng tàu chạy, vậy là họ xỏ dép mau mau đùm túm đi; bởi mấy con vịt con lông vàng như rạ đứng trong rổ lao nhao rỉa gạo nát trên đầu nhau; bởi mớ trái nhãn lồng chín cây này đã lâu ngày tôi mới nhìn thấy lại.
Và bởi hai ông bà nói năng duyên dáng, dùng nhiều chữ lạ. Ông nói, ngó người ta đi ăn xin lang thang lưới thưới thấy thương. Ông kể vụ mất trộm gà, nhà có con chó chậm chạp như bà già đi âm phủ, con chó này làm kiểng lâu quá rồi chắc ông phải làm gỏi thôi. Bà già nói bữa nay đi lúc trời còn lu, sương nhiểu hột ướt sượt cái đầu. Mấy nải chuối chín mùi rụng rún này ngọt mật phải biết. Bữa nay im trời dữ. Dì Hai buôn bán dễ ợt mà con, đâu có ke re cắc rắc từng đồng từng cắc. Hồi trẻ tui với ổng thương nhau bén chết, giờ già rồi, nên mần cũng thủng thẳng khẻ khọt thôi. Nhà mót dữ lắm cũng chỉ có hai mạng già, ăn láp váp ba hột cơm cho rồi bữa…
Ngồi nghe ông bà già nói chuyện, suốt đường về nhà tôi cứ thấp thỏm sợ quên luôn thì tiếc. Lúc ghi lại vào sổ tay thấy từ ngữ bỗng trơ, thiếu mất vẻ đẹp, sự sống động như khi chúng phát ra từ đôi môi héo móm, từ cái miệng phập phều chỉ có hai cái răng nằm xiêu lạc, và ánh mắt đã dần mờ đục nhưng vẫn hồn hậu hấp háy, hấp háy…
Những ngày đôi vợ chồng già không tới, qua thềm chợ tôi vẫn chậm, vì nhớ. Biền biệt một quãng ngày ngày, một sáng chỉ mình bà già quay lại, với gánh rổ nan toòng teng trên vai. Cái chợ chật chội nhưng rộng lòng nhón cho bà một khoảng trống nhỏ nhoi. Bà già chơ vơ ngồi đó, nắng rọi cái bóng lẻ thiệt buồn. Khách hỏi mua cái rổ, bà ngơ ngẩn, ờ ờ. Hỏi ông già đâu không thấy, bà ngơ ngẩn ờ ờ, bỗng dưng mắt kèm nhèm nước. Ngồi chợ không tha thiết bán mua, bà tới đây để nhớ người bạn đời đã về với đất rồi.
Nhưng sao khi đứng nhìn những buổi chợ tan ban trưa, khói nắng vẫn thường hiện lên trước mắt tôi một ảo ảnh, có ông già cao lỏng khỏng gánh mớ rổ ế đi trên đường, bà già nhỏ nhắn lúp xúp bên cạnh tay cầm cái nón lá quạt mồ hôi cho chồng, như tát cạn vũng nắng đi.
Có con thuyền đã buông bờ…
Truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư
Đàn bà, hễ mũi xấu thì mắt đẹp, mắt mũi xấu thì miệng đẹp, mặt xấu thì dáng đẹp, người xấu tâm hồn đẹp. Bằng cách này hay cách khác, họ cứ phải đẹp. Lúc giận cũng đẹp. Nho nghĩ vậy, trong lúc chạy xe theo chở Bế đi chợ.
Lúc đó Bế dùng dằng đằng trước, lưng cong, tay đánh đằng xa ngúc nga ngúc ngoắc. Cô đang bực mình. Hôm nay anh chủ về. Mà lúc nào cũng vậy, chưa thấy người đâu thì điện thoại đã rộn ràng, bảo muốn ăn món này món này. Anh chủ về được bảy ngày, cái thực đơn cũng dài ngoằng hai mươi mốt món. Anh nói với chị chủ, giản dị thôi em, anh thèm lẩu mắm ăn với rau đồng, kèo nèo bông súng, bánh xèo mà có đọt xoài, đọt lụa thì thích. Anh đang nhớ món lươn um lá nhào muốn chết được đây, cháo cá lóc nữa… Bế nghe nói lại, chỉ nhẩn nha hỏi “Mà ổng có nói nhớ chị không?”. Chị chủ ngẩn ra, lắc đầu. Bế nổi quạu, “Vậy ổng về là do ổng muốn ăn chớ đâu phải nhớ vợ con. Đàn ông sao mà tệ… Thôi, đừng có nấu nướng gì mắc công”.
Nói vậy nhưng mới mờ sáng Bé đã lên tiếng vói vào phòng, “đi chợ à…”. Tiếng dép ngún nguẩy lép bép trên mặt sân. Chị chủ nhoài đầu nhìn ra thấy Bế đứng bên ngoài loay hoay, xủng xoảng dập cánh cỗng, bộ đồ thun bông tím nhập nhòa với giàn bông tỏi tím, như hoa trên cao đang rơi xuống người cô. Chị chủ kêu thằng em mới vừa ngủ dậy, “lấy xe chở chị Bế đi chợ…”
Mỗi cuối tuần, không đi làm, Nho hay đưa Bế đi chợ. Coi như sáng đó vui. Nho đậu xe ở gần đó, mua tờ báo để đọc lúc ngồi chờ, nhưng đôi khi chẳng đọc chữ nào vì mãi nhìn Bế. Cô thường đủng đỉnh đi ngược xuôi mấy vòng chợ, tung tăng như là đi dạo công viên. Cô rờ rẫm mấy trái dừa khô đã lột vỏ chỉ còn cái chóp nhỏ, cô cầm bó rau ngót lên rồi đặt xuống, cười ỏ ẻ với chị bán hàng, “nhớ vườn rau dưới quê quá…”. Nói rồi cô đi nựng nịu mấy trái khế của bà già kế bên. Có khi cô đi khỏi mấy trái bình bát chín đó rồi, cô bèn lùi lại mấy bước chân để nhìn cho kỹ. Việc không quay người lại đôi khi gây phiền, cô đụng vào người đi đằng sau.
Chợ họp ở trên một bờ kè cũ kỹ nằm dọc theo bến sông. Ai ngồi bán chỗ nào thì xuồng ghe xuồng buộc vô cái cọc đằng sau lưng. Phía trước là con đường đông đúc người xe qua lại. Bế lọt vào cái nơi chộn rộn nửa chợ nửa quê đó là trở nên hồn nhiên và lơ đãng. Ở nhà là một Bế khác, chỉn chu và nề nếp. Chút nữa anh chủ về chắc sẽ bị Bế rầy rà mấy câu vì đã không nói rằng anh nhớ vợ. Tính Bế vậy, thẳng đuột, nghĩ gì nói nấy. Rửa nước chợ ba năm rồi vẫn chưa hết quê. Anh rể của Nho cũng ngại cô giúp việc này, mấy lần về thăm nhà, gặp bạn cũ nhậu nhẹt, Bế cằn nhằn ngay, “Đi suốt. Có chút xíu thời gian cũng không dành trọn cho vợ con, cũng đem đi chia chác cho bạn bè…”. Anh ta ấm ức lắm, nhắc khéo, “giờ không biết ai là chủ nữa…”. Bế nguýt suýt rách đuôi mắt, có miệng làm chi mà thấy sai không nói…
Bế không giả vờ quỵ lụy, sợ sệt vì chút tiền công, cũng không mặc cảm cái vị trí nhỏ nhoi của mình, cô cứ ngang phè vậy. Có những ngày trống rỗng, con đến trường, chồng đi công tác, chị chủ buồn quá vô bếp nấu món này món nọ. Chị không cho Bế làm gì nhưng cô cứ lẻo đẻo đi theo. Trời, cháy chảo tôi hết rồi. Sao để khói dữ vậy, đen mấy cái đít nồi. Cái này bằng thủy tinh đó chị Hai, nhẹ tay giùm em cái. Hủ đường không phải để chỗ đó… Bế đứng đằng sau, tay chống nạnh, luôn miệng càu nhàu, như gian bếp này là của cô, những vật dụng kia là của cô, thắc thỏm như thiên đường của mình bị kẻ lạ xới tung lên. Chị chủ thì nhễ nhại mồ hôi, tóc rối xù lên, mặt mũi bê bết bột, trứng. Nho mắc cười, thấy chị gái mình giờ trở thành người giúp việc, bị hiếp đáp, cơ cực đáng thương.
Nho đi sớm về khuya, mấy lúc hiếm hoi ở nhà gác sách lên bụng nghe Bế đưa võng rọt rẹt phía sau, ca “Lá trầu xanh”. Đến câu cuối cùng, “mưa thu lạnh buốt khung trời, anh phụ em rồi em còn biết tin ai…” thì lần nào cũng vậy, nghe hụt hơi, nghe có chút nghẹn ngào. Có lần chị chủ hỏi sao buồn vậy, Bế nói, “bài buồn phải ca giọng buồn…”. Chị chủ cười, hay là nhớ người yêu dưới quê rồi. Bế đủng đỉnh đứng dậy, phủi đít vài ba cái, nói đi lau cầu thang, bụi quá sức.
Bế giữ trong lòng một vài bí mật, ngoài chuyện ai cũng biết: ba mươi hai tuổi, nhà trong đập Láng Cháo, cách thành phố này bốn giờ đi đò, thêm nửa giờ lội bộ. Chưa chồng, có vẻ ghét đàn ông. Không may Nho cũng nằm trong số đó, nên hay gặp phiền phức nếu lỡ đặt đôi giày không đúng chỗ, quần áo lộn xộn, sách vở để lung tung. Có lúc Nho cố tình bừa bộn để nghe Bế càm ràm cho vui. Nho cho rằng, chỉ có ai đó ôm ghì lấy Bế một lần, thì mới mong cô hết quay quắt, khắt khe. Trên đường qua chợ, ý nghĩ đó làm Nho buồn cười. Bế không hay gì hết, vẫn chị chị em em, ra vẻ người lớn, “bữa nay chờ hơi lâu nghen, cậu vô quán uống nước đi…”. Rất chị. Cũng phải, già hơn hai tuổi mà.
Bế vào chợ một mình, trong lòng bực bội đã tiêu tan. Cứ thấy những chị trong đồng ra, buôn bán thật thà, mặt mũi lam lũ là cô cảm giác đang ở quê nhà. Nên cái chỗ eo sèo đông đúc này cô coi như nơi chơi giỡn, như mọi khi. Và cũng như mọi khi, cô lơ đãng giẫm lên chân một chị, trong lúc lùi lại chỗ bán thớt mù u mà cô vô tình đi qua khỏi. Chị kia cong cái môi màu trái giếc lên, hỏi mắt để ở đâu. Thường thì nó ở trên mặt, nhưng giờ mắt Bế dán vô chỗ người đàn ông đang ngồi với những thớ gỗ tươi còn dính dấp mùn cưa, đứa bé gái ngồi dựa vào hông anh tay vịn chặt buồng dừa nước. Chỗ của họ còn bày thêm mấy nải chuối xiêm vừa chín tới. Bế hỏi vống lên, “chuối này bán sao đây?, sau khi dựng vai lên, cô nhận thấy nó chảy xuống thiểu não quá, không đẹp.
Anh nọ ngẩng lên, cúi xuống, lại ngẩng lên, rồi lần này thì cúi xuống lâu hơn, nói giá tiền lục bục đâu đó trong miệng. Bế trả giá bằng giọng xẵng lè, nhận được một cái lắc đầu. Bế lại nhón ngón tay ấn miết vô một tấm thớt, như đây là con cá chứ không phải là gỗ, chưa hỏi giá cô đã ngang phè chê đắt. Mặt cô tỉnh bơ có vẻ không tha thiết mua. Mặt anh nọ cũng lầm lì không tha thiết bán. Chỉ đứa nhỏ nhìn Bế, nó hỏi giọng đờ đẫn và khẽ khàng, mua dừa không cô?
Tất nhiên là không rồi, sáng nay Bế đi chợ để tìm lá chùm ruột non để ăn kèm món mắm lóc trộn thịt, nếu có bông so đũa thì mua một mớ về nấu canh chua. Bế không biết làm gì với dừa nước, với thớt mù u và những nải chuối xiêm thưa trái kia. Nhưng Bế không nỡ lắc đầu khi nhìn đứa nhỏ, cô nói:
- Mới năm sáu tuổi mà lanh quá… Giống ai mà lanh vậy con?
- Giống má.
- Ủa, má đâu không thấy?
Con nhỏ định há miệng ra trả lời thì người đàn ông xốc nách dựng thẳng nó dậy. Nó đờ ra, quên luôn. Bế không hỏi lại, cô muốn bỏ đi đi tìm lá chùm ruột, vì thím bán khoai lang ngồi cạnh đó đang ngó cô cười:
- Đừng thấy đàn ông ngồi chợ là xáp lại chọc ghẹo nghen…
Bế cũng cười, thấy lưng mỏi rã ra, vì đã phải dựng lên lâu quá, cô muốn thả nó trôi xuôi. Nhưng như vậy thì cô sẽ không có cái dáng dấp thong dong thành thị, cô lại ưỡn ngực và thẳng lưng lên. Bế giữ cái dáng đi mà cô cho là sang trọng, đủng đa đủng đỉnh ngược hết chợ, rồi lại quay xuống. Cô ngơ ngác ngiêng ngó, đâm sầm vào vài người trước mặt mình. Hôm nay chợ đông, và cô cứ bị xô tới, xô tới chỗ hai cha con anh thớt mù u. Cô thấy họ đang lóng ngóng dường như muốn dọn hàng đi. Bế kêu lên:
- Ủa, sao bỏ về sớm vậy? Tôi muốn mua cái thớt mà. Anh bào gọt kỹ giùm. Bao nhiêu tiền cũng được…
Người đàn ông ngó trân vào Bế một thoáng, có lẽ nhận ra cô không nói chơi, anh trùng trình ngồi lại, lục lọi cây bào cóc. Cái thớt xù xì, vỏ cây còn bọc quanh (để cho người ta tin đây chính là mù u thứ thiệt) đã giữ người đàn ông nán lại thêm chút nữa. Bế hài lòng, chẳng tỏ ra nôn nóng, dù nắng đang lên, dù bao nhiêu công việc đang chờ cô ở nhà. Cô thản nhiên ngó quanh, lúc nhìn xuống chân bỗng dưng thấy tiếc. Sáng nay cô chỉ mang đôi dép nhựa. Sáng nay cô mặc bộ đồ thu tím rẻ tiền. Lẽ ra cô thay quần jean, áo thun, chân mang giày. Và điện thoại đi động nữa, lạ thiệt, sáng giờ không ai gọi cho cô (mà có ai ngoài chị chủ đâu). Bế nghĩ, giờ mà điện thoại cô reo một cái, cô sẽ tặng cho người gọi vài triệu xài chơi. Bế muốn gọi cho ai đó, sực nhớ từ ngày chị chủ cho lại cái điện thoại cũ này, Bế chỉ dùng chơi game và… nghe. Tài khoản trống rỗng, không còn tiền gọi đi. Nhưng Bế vẫn nhẩn nha rút điện thoại trong túi ra, nhón mấy ngón tay bấm vài phím bất kỳ, nhẩn nha nói với chính mình, em đây, em còn ở chợ, chút nữa em về, đừng có trông, vậy nghen.
Bế nhận ra mình chỉ có một khán giả duy nhất, là con bé gầy gò kia. Nó nhìn cô đăm đăm, mắt dại đi. Không phải vì say mê, mà nó đang sốt, đến đờ đẫn. Đôi môi nó đỏ nhừ, khô căng, như sắp rỉ máu ra. Bế kêu trời đất ơi, con nhỏ bệnh hả? Anh nọ day qua nhìn con, lặng lẽ cúi đầu. Bế lại trời đất ơi, anh làm cha kiểu gì vậy? Có cho nó uống thuốc chưa? Sáng giờ ăn uống gì chưa? Người đàn ông lại cúi đầu sâu hơn. Như thể anh mà ngước lên thì ánh nhìn Bế sẽ làm anh cháy mất, biến thành tro mất.
Bế khẳng khái kéo con bé lại với mình, cô xốc nó đi tới một hiệu thuốc chếch bên kia đường. Cô đi xấp xãi, lưng cong và vai xuôi. Con bé cứ nhìn cô rồi ngoái lại nhìn cha nó. Anh ta không chạy theo níu lại, anh ta chỉ trố mắt ngó theo. Bế mặc kệ, cô nắm bàn tay nhỏ nhắn và nóng ran của nó đi len giữa người, giữa xe, giữa ồn ả, giữa xô đẩy. Cô không cười khi nghe ông dược sỹ hỏi “Con chị bị làm sao? Ấm đầu bao lâu rồi?”.
Nho đứng bên đường, né nắng chỗ mái hiên của cây xăng, âm thầm coi kịch. Nữ diễn viên chính không thèm diễn vai thị dân nửa mùa nữa, để lại cái sân khấu là buổi chợ nghiêng nghiêng nắng, nháo nhác những gương mặt người. Lát sau, Bế quay lại với đứa bé đã hơi tươi tỉnh, sau khi ăn cháo, uống thuốc. Lúc ở quán nó còn bắt chuyện với cô, vẫn nhớ đã nợ cô một câu trả lời:
- Má con ở nhà, mới sanh em bé nhỏ xíu.
Bế ờ ờ, lúc đầu Bế tưởng má nó đã bỏ đi. Chuyện này hay xảy ra trong phim, vì không chịu được nghèo khó, chật vật, không chịu được những va chạm vụn vặt nên vợ bỏ nhà, để lại vài đứa con nheo nhóc. Chồng hối hận lắm, vừa nuôi con vừa nhớ tiếc mấy người con gái mình đã từng thương. Chồng thấy phải mình lấy cô kia thì may phước quá. Cô đó có xấu chút xíu, nhưng nghèo khó chịu quen rồi. Cô đó chắc lẳn, gọn lỏn như hột mít…
Bế thấy xao xuyến, bỗng dưng nhân vật tưởng tượng trong phim đó sao mà giống… cô. Cô còn tính chút nữa cô sẽ xuống chiếc ghe nhỏ, cùng về với cha con họ... Ý nghĩ kỳ cục làm cô bật cười trong lúc dùng mấy ngón tay chải tóc lại cho con nhỏ. Trao nó lại cho anh, cô thấy đôi mắt đứa nhỏ giống hệt ba, cả đôi mày rậm rì như có hai con sâu róm đen thủi bò ngang qua trán. Bế bỗng nói:
- Thôi cứ ngồi lại buôn bán đi, đừng để ý tôi, tự ái khỉ khô gì – Cô hất mặt về bên kia sông – Tôi đi về.
Người đàn ông chìa cho cô thớ gỗ, anh nói anh biết sự xuất hiện của mình đã làm cô mất vui, “Khỏi trả tiền, em đem về, lúc nào rảnh rỗi lấy dao ra băm nó như băm… thằng nào làm em buồn…”.
Bế ngó anh ta ỏ ẻ cười, hỏi nhỏ, ủa, làm vậy là hết buồn hả? Dễ ợt vậy sao? Nhưng cô vẫn sẽ sàng nhận lấy, cầm về, coi như kỷ niệm về một buổi chợ, kỷ niệm của hai cha con một người ở quê ra mà cô tình cờ gặp, kỷ niệm về một vùng đất xa xôi nào đó, có những cây mù u mọc hoang dại trong những bờ vườn, bãi sông, có những người con trai con gái e ấp khắc lên cây lời thề nguyện vợ chồng... Cô nhìn người đàn ông lần nữa, dịu dàng vuốt má con bé, chào tạm biệt nó rồi đưa tay ngoắc Nho.
Chở cô một đoạn, khi xe xuống dốc cầu, Nho bắt chuyện:
- Lúc nãy gặp lại người yêu cũ hả?
- Ủa, sao biết hay vậy? – Đang sững sốt, Bế bỗng trở giọng – Đâu phải.
“Giỡn chơi. Không phải thì thôi”, Nho nói, cảm giác gáy mình buồn buồn. Bế đằng sau thở ngập ngừng từng lát, từng lát mỏng. Bàn tay vịn vai Nho rất lạnh và hơi run. Ôi những người đàn bà, hễ mặt mũi xấu thì tay chân đẹp, cổ xấu thì lưng đẹp, người xấu thì tâm hồn đẹp. Bằng cách này hay cách khác, họ cứ phải đẹp. Lúc buồn cũng đẹp.
Hôm đó Nho lại nằm gối tay lên đầu lẩn thẩn lắng nghe trong bếp Bế nói dịu dàng, Bế cười nhẹ nhỏm. Trong cô có nỗi vui nào đó đang ngấm đầy dần, đầy dần. Buổi chiều, Nho giúp Bế bắc cái giàn cho mấy dây thiên lý leo qua khoảng sân, chợt cô nói nhỏ, “cây mù u ở góc ao mà chị với ảnh hay hẹn ra ngồi nói chuyện, ảnh cũng đốn rồi, thì chị còn nhớ thương chi nữa…”.
Từ đó, Nho không còn nghe Bế ca “Lá trầu xanh”.
Thềm nắng sau lưng
“người ra đi đầu không ngoảnh lại…”
Truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư
Ngày đầu tiên tới trường, Bằng lếch thếch quay về nhà với mớ sách vở ướt mèm, bộ đồ bê bết sình đất, bà ngoại kêu trời, nói, “tại thằng cha mầy không nên thân…”. Bằng nói không phải, do đường trơn, bữa qua mưa lớn quá.
Bằng mười tuổi, đi đào bắt chuột với mấy đứa nhỏ trong xóm, bị tụi nó vô tình xắn lưỡi dá vào cổ tay, máu chảy tràn, bà ngoại kêu trời, nói, “thằng cha mầy thiệt là bất nhân…”. Bằng nói, tại thằng Kẹo tưởng đâu tay con là con chuột…
Bằng mười sáu tuổi, đi đốn so đũa làm củi chụm, búa trật vào bàn chân làm đứt phăng một ngón, ngoại đấm ngực kêu trời, “ông trời ngó xuống coi, thằng cha bây có phải là người không ?”. Bằng nói, tại con mài cây búa bén quá.
Giờ thì Bằng đã hai mươi hai tuổi, trên người thẹo vết không đếm hết. Ngoại Bằng nói cha cậu phải chịu trách nhiệm về tất cả nỗi đau này. Nhưng không có vết nào là do chính tay cha Bằng gây ra, nên cậu vẫn chưa thể oán hận ông như bà ngoại và má mong muốn. Đôi lúc cậu thấy buồn, vì mình đã làm họ thất vọng, đôi lần.
Hôm Bằng ra đời, má đã thất vọng rã người, khi phải đẻ rớt cậu trên xuồng, giữa đường tới trạm xá. Xanh xao và mất máu, má cũng kịp thở dài, “nhà đã có một người đẻ trôi nổi rồi, chưa đủ sao?”. Người “đẻ trôi nổi” là ba cậu, lúc đó đang đi theo máy cày bên Đồng Ông Lớn. Ba Bằng về thì con trai gần đầy tháng, ba rón rén nhìn đứa trẻ được gói ngo ngoe trong chiếu, phì cười, “trời, ngộ quá hen, dài ngoằng vầy mà sao nằm khoanh trong bụng con người ta được vậy?”. Bằng chỉ nghe kể lại, ngay cả vụ ba bồng cậu đi chơi bên xóm, về tới nhà trên tay chỉ còn mấy tấm khăn áo bọc ngoài, cậu thì rơi tuột xuống đống rơm bên đường… Mới bốn tháng tuổi, Bằng chưa có ký ức, nên cũng không nhớ là đã đau và đã khóc ra sao, nên cũng không thể giận ông vì cái lỗi lơ đễnh đó.
Người lớn thì giận. Có lần đi mượn gạo về, má Bằng vấp chân vô cái rễ cây, ngay lập tức má rút chiếc dép ra đập cái cây điên dại, mếu máo “anh khốn nạn, khốn nạn lắm…”. Bữa sau ba cậu mới cặp xuồng vô bến, mặt mũi, áo tóc nhàu nhò. Ông chở mười mấy giạ lúa ra tới nhà máy chà, gặp thằng bạn đi qua, bạn rủ đi chợ nhậu chơi, ông gật đầu. Ở chợ ông gặp vài người bạn nữa, họ rủ ở lại mai về, ông lại gật đầu. Lúc về chiếc xuồng trống không, ba cậu bán lúa đi chơi hết tiền. Má Bằng nằm day mặt vô vách, mắt mở trừng trừng mà nước mắt cứ tuôn ra. Ông nhón chân trên nền nhà ướt bọp bẹp, kéo tay thằng con, thôi, hai ba con mình ra vườn chơi.
Vườn nhỏ, nhưng rất dài, liếp nối liếp tiếp giáp với cánh đồng mênh mông đằng xa. Ba Bằng thường trốn ra đây mỗi khi làm vợ giận. Gác sẵn mấy cây cần câu ngoài vườn, ông ngồi câu cá trong khi chờ má Bằng nguôi ngoai. Ông sợ nước mắt. Bằng tha thủi chơi gần đó. Có lúc ông gọi giật giọng, “Bằng, tàu đò Rạng Đông lên tới đầu doi kìa…”. Chuyện tàu qua làm ông dợm đứng lên, xao xuyến, dù ông chẳng định đi đâu hết. Có lúc chờ cá cắn câu, thì con chim tu hú kêu, ông cũng cất tiếng kêu. Tu hú tưởng tiếng đồng loại bèn đáp lời, vậy là hai bên cứ rượt đuổi, quấn quýt, buộc vào nhau không rời, không dứt. Cho tới mệt ngất ngư, cho tới chạng vạng, con tu hú chắc cũng thở dốc ở đâu đó trong lùm tre, ba Bằng mới chịu xách mấy con cá vô nhà, với vẻ mặt hớn hở và ngây ngất, quên mất mình đã gây ra chuyện tày đình gì.
Sau này, khi ba Bằng đi rồi, cậu vẫn nhớ những buổi chiều tiếng tu hú vờn nhau, đuổi bắt, mơn trớn, dìu dặt trong vườn. Có bữa bơi xuồng qua nhà ngoại chở nước mưa, trên đường về nghe bìm bịp kêu thâm u trong bờ dừa nước, cậu cũng bắc chước kêu bịp bịp. Cả khúc sông nhói ran. Bà mẹ đợi lâu quá lội bộ đi kiếm, thấy thằng con đang thả xuồng trôi dập dềnh bên những chùm gọng, đang nói tiếng chim giữa chơi vơi nước lớn. Bữa đó Bằng bị trận đòn tơi tả, má vừa đánh vừa khóc, “thằng cha đã không nên thân rồi, giờ tới thằng con, chừng nào mầy bỏ má mà đi, hả?”.
Không, Bằng kêu trong lòng, con không bỏ má. Ba Bằng nói, nhà có một người giang hồ là đủ khổ rồi. Hôm đó ông vừa nói vừa vò đầu cậu. Hai ba con ngồi ở bên hè, má cậu đã lạnh lùng bơi xuồng qua nhà ngoại, chắc là qua đó nằm khóc. Bữa đó ba cậu mới về, sau chuyến vắng nhà ngót nửa năm. Ba ngó nghiêng vô bồ lúa, hỏi :
- Nhà mình lúc này sao?
- Cũng vậy. Lúa đủ ăn.
- Má con sao?
- Cũng vậy. Có mấy người tới, má lấy chổi quét dạt ra đường. Má nói thấy đàn ông mắc chán.
- Trời, giờ nói vậy, mai mốt kiếm không ra à.
- Thì đó… con cũng nói vậy.
Bằng nói với ba như với ông khách mới tới nhà, như người quen lâu lâu mới gặp. Cậu ta lẻo đẻo đi đằng sau bước chân bỡ ngỡ của khách, lâu lâu lại nhắc “ba, coi chừng đụng đầu. Cái chái này con mới lợp lại…”. Cuối ngày thì ba cậu đón tàu đi. Bằng hỏi, lúc này nhà ba ở đâu. Ông cười nhỏ, vò đầu cậu:
- Nhà ba ở chỗ có người ba thương.
Bằng lại hỏi :
- Cái người tên Hường ca hay ba kể hôm trước hả?
Ba cậu cười, nửa ngượng ngiụ nửa sung sướng, cánh mũi phập phồng, thôi rồi, ba đang thương cô Năm Phượng trồng khóm bên Xóm Rẫy. Cô này lớn hơn ba năm tuổi, mà trẻ măng. Bằng ờ ờ, ngó chiếc tàu đò vừa ló cái mũi qua doi trâm bầu, nói vội :
- Chừng nào rảnh ba dẫn con đi theo chơi ít bữa.
Ba vò đầu cậu lần nữa, và nói cái câu chìm sâu trong vũng ngậm ngùi, rằng nhà mình chỉ nên có một người giang hồ thôi. Bằng nén thở dài, thấy trùng trình nhìn tàu đi.
Hai mươi hai tuổi Bằng vẫn hay bợ cột nhà, mỗi khi tàu đò qua. Như thể cậu đang níu, đang vịn chính mình ở lại. Những chiếc tàu nối đầu ghềnh cuối bãi, đi tới những chân trời xa xôi, tươi mới. Cậu muốn vẫy tay, để cùng chiếc tàu xé đôi cái viền sông xanh rợp những lùm cây hoang dại, chui ra khỏi cái chốn quê này. Nhưng chút nữa Bằng phải qua nhà má đốn cây, chẻ lá để vài ngày tới lợp rạp. Hiên, con gái của dượng sắp lấy chồng.
Hiên bằng nhỏ hơn Bằng một tuổi, đó là đứa con gái hay mủi lòng. Có lần ngoại chiên bánh xèo, sai Bằng đem qua nhà má, gặp Hiên, Bằng nói, ngoại tao cho ba mày bánh. Con Hiên tự nhiên khóc mướt, nó mếu máo nói sao mà anh Hai nói chuyện nghe xa lạ quá chừng. Nó cũng cho rằng việc học hành dang dở, hay những thương tích trên người Bằng là do Bằng không có người cha tử tế. Bằng chỉ cười, gãi gãi cái đầu gối.
Có đôi lúc Bằng thấy đời mình hơi buồn. Bằng cố gắng giận ba về cái việc ông giang hồ ham chơi. Nó cố gắng giận má việc bà đi bước nữa với dượng Tư Thuần. Nhưng giận dữ và day dứt lại làm Bằng thấy buồn hơn. Quên bỏ thì thấy nhẹ nhỏm, hớn hở. Cảm thấy nhiều chuyện hồi nhỏ trong lòng mình vẫn nhớ, nên không gọi là mất. Và nhiều thứ mình chưa kịp có, càng không thể gọi là mất.
Hiên, Bằng không tính là mình đã có. Đứa em này từ trên trời rơi xuống, chưa sống chung nhà một ngày, vài ba bữa gặp nhau một lần, nói vài ba câu. Hiên hay khóc quá, Bằng cũng sợ, vì không biết trước được con nhỏ sẽ sụt sùi lúc nào. Hỏi má tao đâu Hiên cũng khóc. Hỏi bên nhà mầy ăn cơm chiều chưa, Hiên cũng khóc. Hôm nghe tin đám gã sẽ tổ chức vào rằm tháng chín này, Bằng ngồi tra cái cán dao, nói, “mừng quá, bữa đó tao được ăn ngon…”. Con Hiên khóc tức khóc tưởi như Bằng vừa mới đánh nó. Bằng sợ nước mắt như ngày xưa ba nó sợ nước mắt má nó, nên bỏ ra vườn, chọc ghẹo con tu hú, chim vừa kêu vừa bay, Bằng vừa kêu vừa đi, theo hết chín mảnh vườn, băng qua chín hào ranh, mệt đứt hơi. Lúc quay vô nhà con Hiên vẫn còn thút thít. Từ bữa đó, nó không nhìn Bằng nữa.
Bằng cũng không lấy đó làm chuyện buồn lòng, cậu bận tối mắt mũi. Lúc thì kéo cá dưới ao, lúc thì chạy xuồng đi mua nước đá, lúc chở má đi chợ… Đôi khi bỗng nghĩ, khi nào mình cưới, chắc ba sẽ về. Ông sẽ xớ rớ ngồi bên mép ghế, tay mân mê mép bàn, sượng sùng nhìn quanh. Bằng sẽ ra cầm khách, mời ba ăn bánh, hay ba ăn thêm chén cơm nữa, đừng có ngại. Bằng hình dung, má cậu sẽ giả vờ lạnh lẽo lướt qua người đàn ông năm xưa là chồng mình, bà không thể lấy chổi chà quét đuổi vì đó là ngày cưới. Bằng cưới, thí dụ vậy. Có điều, lúc đó Bằng sẽ không biết ông ở đâu mà nhắn tin. Năm ngoái chạy chiếc ghe chở than đước qua khúc sông Láng Cháo này, ông thập thò ghé thăm Bằng. Bà ngoại mắt đã mờ, cũng không biết ai ghé nhà, nhưng nghe cất tiếng hỏi “má khỏe không ?” là cằn nhằn ở đâu lổn nhổn bò ra. Ba Bằng cười hề hề, kéo tay thằng con ra sông ngồi nói chuyện chơi. Bằng không còn hỏi lúc này ba ở chỗ nào, tự thấy chiếc ghe mui vuông đậu đằng kia là nhà ông, nơi thấp thoáng một tà áo đỏ lúi húi vào ra.
Hôm đó, ba rờ nắn dái Bằng, hỏi :
- Ê, muốn vợ chưa mậy?
- Muốn hồi mười lăm mười sáu tuổi rồi, ông ơi! – Cậu nghe cái đó nhộn nhạo chạo chực trong bàn tay mềm mại của ông.
- Trễ vậy? Hồi đó tao mười hai tuổi là thấy gái biết ham - Ông cười vang. Rồi rất cố gắng, vừa sửa cái bâu áo lại, ông vừa nói với giọng nghiêm túc - - Chừng nào cưới vợ ba lo cho một cây vàng.
Bằng cười, tự biết lời hứa này không nên chờ đợi. Người cha cũng tẽn tò, bẻ nhánh cây xoi xoi trên mặt đất. Bằng biết ông nghèo bộng ruột. Nghèo mà không áy náy hay lo lắng chuyện mình nghèo. Hồi đi theo máy cày, nửa tháng ăn sương ngủ gió trên đồng, lúc về nhà chỉ có nhúm tiền con con, má Bằng thở dài, “trên đời dưới thế chỉ có mình anh, gặp bạn bè là quên phứt vợ con…”. Ba Bằng gãi đầu, cười hệch, ừa, sao kỳ quá, anh tính ghé tiệm tạp hóa mua cho con lon sữa với mấy ký đường, gặp thằng bạn cũ, nó rủ ngồi lai rai chơi. Bữa sau tính về, bạn kéo đi đám cưới cháu vợ nó, đờn ca vui quá…” Và trong đám người vui chơi ca hát đó có người đàn bà tên Hường, chuyện đó thì ba cậu không kể.
Khi nhớ về người cha trôi giạt, Bằng luôn trong vai một người đứng bên lề, nghiêng ngó. Dù khi ông rượt theo con tu hú, cậu cũng ở đó, nhưng lại thấy mình rời ra. Chỉ mình người cha với cuộc chơi tùy hứng và bất tận của ông. Bằng nhận ra điều đó khi thả chiếc xuồng chở đầy nước mưa trôi theo tiếng kêu buồn trĩu của con bìm bịp, trong Bằng không còn thời gian, bờ bến, thế giới không còn người, đến chính Bằng cũng không còn. Sau đó má Bằng xuất hiện, cái nón lá chấp chới trong tay, đứng réo Bằng ơi Bằng, mới xua tan được khoảng sương mù mịt.
Sau lần đó má càng ân hận hơn vì đã đẻ Bằng trên xuồng. Bằng thấy áy náy, nên cố gắng làm cho má tin trận đòn dữ dội kia đã làm cậu thay đổi. Biết má luôn dõi theo mình với tất cả hy vọng và thất vọng, giữa bữa cơm Bằng không bao giờ ngừng đũa dù khi ấy tàu đò qua, Bằng không ngó xa về phía chân trời, không lang thang ngoài vườn vắng, không nhìn theo những cánh chim, không tụ tập với bạn bè… Má Bằng cũng thấy yên lòng đôi chút, nhưng bà không hề biết, cái khúc sông tối om, con bìm bịp làm cậu nhớ dai dẳng, dù nhiều năm qua rồi. Dù lúc này cậu hai mươi hai tuổi, đang chở một xuồng cây về bắc cái cầu ra sông, phòng hờ mai rước dâu vào giờ nước ròng, xuồng đàng trai có thể dễ dàng cập bến.
Sau này Bằng cứ tiếc, phải biết có cô trong đoàn người đó, cậu đã đóng thêm tay vịn cho cây cầu. Cậu sẽ tìm ván lót sàn chứ không phải ghép vội những thân cây còn ướt nhựa, làm cho cái gót giày nhỏ xíu của cô kẹt lại, gãy lìa. Đám rước dâu hơi nhốn nháo. Cô loay hoay đứng chôn chân một chỗ, chẳng biết nên bỏ giày đi chân không hay cứ bước thấp bước cao, cho tới khi Bằng không nói không rằng bẻ luôn cái gót giày bên kia. Lúc cúi xuống, vạt áo dài vàng chanh cứ mơn trớn hững hờ đắp lên mặt cậu.
Từ đó thì mắt Bằng không thấy gì ngoài cái màu vàng chanh chấp chới. Không có đám cưới nào, sáng nay. Không có bà mẹ ngượng ngập mặc áo dài lén lau nước mắt. Không có Tuyết Hiên mặt mũi như đào hát, cổ đeo dây chuyền vàng đang đứng ngơ ngác, dè dặt bên cạnh chồng. Không có đám đông ăn uống chúc tụng nói cười. Không ai cả. Vắng rợn như khúc sông chiều với tiếng bìm bịp kêu, như mảnh vườn thâm u tiếng con tu hú. Bằng nhìn những ngón tay nhỏ nhắn và khẽ khàng của cô, lúc nhón cái bánh, lúc chậm mồ hôi, lúc vén mớ tóc lòa xòa, lúc cắn hột dưa, cảm giác lâng lâng như khi bắt đầu cất tiếng chim gọi nước. Thỉnh thoảng cô nhìn Bằng, thẳng thắn và dạn dĩ, có chút dò hỏi, chút ngạo nghễ, rồi môi đỏ nhuộm nụ cười cũng đỏ, thả lửng lơ về phía thằng con trai đang đứng lơ ngơ.
Cô đi khi nước vẫn chưa lớn, vịn Bằng để bước xuống chiếc đò máy, cô cười, “chà, không biết chừng nào mới gặp lại…”. Bằng vẫn không biết tên tuổi, không biết nhà cô ở đâu, cô đã có chồng hay chưa. Bằng càng không biết được cô có còn nhớ cậu không, khi quay lưng lại. Nhưng điều đó chẳng làm cậu buồn, hay mất mát. Bằng đã kịp nắm bàn tay của cô, chạm vào từng ngón, từng ngón. Chúng mềm và mỏng manh như những cọng bông súng chớm héo đi dưới nắng.
Không một chút oán giận nào cái dòng sông đưa cô đi, như đã từng đưa ba, má cậu đi. Lúc rảnh rỗi, Bằng ngồi bên dòng chảy, nhìn tàu qua, nhìn tàu qua. Mỗi ngày năm bảy lượt. Bằng nhớ cô, nhớ nụ cười, cái nhìn, bàn tay ấm nắng. Bằng hay giơ bàn tay mình ra, dưới ánh sáng mặt trời, như không tin vào điều kỳ diệu, bàn tay chai sạn sứt sẹo này đã từng nắm lấy một bàn tay.
Một sáng, bỗng dưng có chiếc tàu ghé lại, họ tưởng Bằng đã vẫy tay gọi. Sự hiểu lầm làm cậu ngẩn ngơ giây lát, ông chủ tàu hối “lẹ lên, mậy…”. Vậy là Bằng nhảy xuống tàu. Cái thềm nắng lấp ló sau hàng bông bụp, nơi bà ngoại cậu đang treo võng ăn trầu, nơi cậu từng ngồi vót cần câu thả… đã khép lại, như gánh hát khép màn.
Lúc thu tiền, ông chủ tàu đò hỏi Bằng đi đâu, cậu cười, tàu chú đi tới đâu tôi theo tới đó. Ông chưng hửng, trời, vậy nhà cửa chú mầy chỗ nào mới được chớ... Cậu lại cười, lòng nghĩ, nơi nào có người tôi thương nhớ, thì nhà tôi ở đó. Nhưng giờ thì tôi chưa biết nhà cô ấy ở đâu.
Khi đi, Bằng mặc cái quần lỡ màu xám, áo sơmi xanh dương ngã màu đã đứt hai cái nút phía trên, chân không, đầu trần với ít chục ngàn trong túi…
Cúi xuống là đất
Nguyễn Ngọc Tư
Cậu tôi chém một nhát dao phay vô cột nhà, tuyên bỏ từ bỏ con gái khi chị bỏ nhà theo tiếng gọi của tình yêu. Chị thương một anh chàng đào đất mướn lêu têu không nhà không đất, không biết từ đâu tới và sẽ đi đâu. Chuyện cũng đã lâu, một năm vài ba lần, ghé qua nhà cậu, tôi lại nhớ người con gái lanh lẹ, giỏi giắn, hay cười, đồng tiền lún sâu một bên má. Nhớ mà không dám nhắc, vì vết dao khắc sâu vào gốc cột, cảm giác bén lẹm ớn xương…
Cảm giác có chút đau ở đâu đó. Mười năm, ký ức về chị vẫn đứng yên, trong khi chị đã cùng thời gian đi xa lắm. Nhưng gặp lại ở một nơi bất ngờ, thị trấn cửa biển, trong xóm lao động nghèo, chị ngồi bên cái cối đá xay bột trước hàng ba, tôi không chút ngại ngần nào, lập tức gọi tên một nhan sắc cũ.
Cuộc gặp nhau mừng tủi, chị khen tôi nhớ giỏi, chứ chị giờ đen đúa, má nám, tóc xác xơ… Chỉ vào cây chùm ruột trước nhà, tôi cười, em nhận ra chị từ nó. Cái cây này trước nhà cậu tôi cũng có, và khoảng sân nhỏ nhoi ở nơi này cũng gợi nhớ nhà cậu. Chùm ruột đã cao khỏi đầu, cây mai tứ quý đèo đẹt, dây mồng tơi leo kín cái rào thấp lủn tủn ngăn hờ hững với nhà bên cạnh. Một mớ cải xanh gieo ở góc đất sát hàng ba, vài cây cuối giồng đã lên ngồng, màu hoa vàng như sắp cháy. Chị cười buồn, bảo, nhớ nhà quá, nên trồng chơi…
Mười năm lập thân, chị vẫn chưa có mảnh đất cho mình. Chồng đi biển, chị ở nhà xay bột làm bánh cam, bánh còng bưng bán dạo, chăm chút hai đứa con nhỏ. Tôi nhìn thấy cuộc đời rày đây mai đó ở hình ảnh những viên gạch tàu kê tạm bợ rời rạc trên nền nhà. Ờ, sống trên đất mướn mà, khi cần thì xếp lại, cặm đời chỗ khác. Chỉ cây ở trước nhà là không sống đời tạm bợ, chúng vẫn lớn lên dù hơi cằn cỗi, bởi gió biển bàng bạc vị muối.
Không cần chị nói, tôi cũng biết chị nhớ đất lắm, nhớ mảnh vườn mảnh sân quê nhà, nên thiết tha ân cần với cây cỏ dù đất dưới chân giờ chưa phải là của chị. Mà có hề gì đâu, đất không quan tâm mình thuộc về ai, hễ có một bàn tay biết vun xới gieo trồng, đất sẽ run rẩy nuôi cây lớn. Cây mai này đỏng đảnh lắm rồi cũng trổ mươi cái bông, cải với mồng tơi nhà ăn không hết san sẻ cho cả láng giềng, chùm ruột ra trái đã ba mùa, trẻ con cả xóm trèo hái chấm muối chán chê, số còn lại chị ngào đường để dành trong tủ. Chị cười nhẹ, “hồi đó, ba chị thích ăn chùm ruột ngào lắm…”. Chợt nhớ ra, chị hỏi, “em thấy cây chùm ruột bên nhà còn không ? ”
Không, nó bị đốn mất rồi. Ký ức của chị ở lại với ngày xưa, trong khi mảnh sân, khu vườn và cánh đồng đó thì đi với mười năm. Nhiều đổi thay, mất mát. Giờ từ ngoài đường ngó vô thông thốc, trống hoang, trụi lủi căn nhà đã già tường vôi mái ngói. Đứng dựa cửa sau, trong mắt cũng chỉ còn hình ảnh cái chòm mả trơ trọi giữa vườn. Ở đó có một ông già cứ gặp tôi là ca cẩm, càm ràm mấy đứa con. Ông ca cẩm, hờn giận luôn cái xóm Rạch Ruộng đã bỏ đất khi vẫn đang đứng trên đất.
Họ mất cảm giác đất, như cầu thủ đá bóng mà mất cảm giác với trái bóng, cứ xuôi ngược vật vờ. Sáng sớm, đi đổ lú xong, lượm được mấy con tôm bán cho vựa, bỏ túi ít chục ngàn, là xong một ngày. Vuông tôm bỏ mặc cho nắng trời, gió trời. Mọi người nằm toòng teng trên võng nghe cải lương, coi phim tình cảm Đài Loan, rồi cáp độ nhậu nhẹt, ca hát, đánh bài… Cuộc chơi bất tận. Cần một cọng hành, trái ớt, nải chuối… thì ra sông ngoắc ghe hàng bông. Ở đó cái gì cũng sẵn, và bất cứ gì con tôm cũng đổi được, nên chẳng ai còn tha thiết chuyện cuốc đất lên giồng, chuyện gieo trồng kiếm chút tiền con con. Sáng sáng ra vuông lượm tiền có phải khỏe hơn không, anh con lớn của cậu vừa nói vừa cười hệch răng vàng.
Dưới chân anh là đất, chỉ cần cúi nhìn sẽ thấy, nhưng anh không nhìn. Nên cha và con cứ hục hặc nhau hoài, bởi kẻ nhớ người quên, kẻ đi người ngoái lại . Cậu tôi nhớ, nhưng những cơn đau cột sống, đau khớp, những chứng bệnh tuổi già cứ giữ chặt cậu trong nhà. Ngoài kia là đất thênh thang, đang từng ngày bạc đi từ khi nước mặn tràn về trắng xóa. Nhớ quá, cậu lụm cụm đi trồng cây ớt, đặt mấy hom mía, tỉa mấy dây dưa gang, đi vắng ít ngày về thấy cây héo queo, người ở nhà quên tưới.
Buổi trưa, ra ngồi bộ bàn giữa uống trà, nhìn khoảng sân chang chang nắng, cậu ngậm ngùi, mầy coi, có cây chùm ruột mà thằng Hai nó cũng đốn rồi, nó chê cây này rụng lá quá, dơ nhà. Tao đi một cái đám giỗ về là thấy mất thêm mấy cái cây. Nó nói trống trải con tôm mới thở được, mới mau lớn. Tôm tép làm ra tiền nên xá gì mấy cây chùm ruột, cây vú sữa… Trời, giữ mấy cái cây đâu phải chuyện tiền bạc mậy, cứ để đó, người đi đâu xa mới nhớ đường về nhà…
Nghe mấy chữ, “người đi đâu xa…” tôi biết cậu đang nhắc tới đứa con gái lưu lạc bìa trời. Một thâm tình mà trong cơn giận hờn ông đã từng vung tay phung phí. Ông già nhớ chị, nhưng vì tự ái, vì gốc cột không chịu lành lặn lại, để xóa đi một lời thề. Bỗng dưng tôi thấy cậu già hơn cái tuổi bảy lăm. Già nua bởi bất lực và nuối tiếc.
Và trong buổi chiều ngồi kể chuyện nhà cho chị nghe, tôi tự hỏi, cái vuông sân nhỏ nhoi này, một lần nào đó nhìn thấy, có làm cậu tôi ứa nước mắt ? Mỗi lần nhìn cây nhìn đất là họ nhớ nhau, mối quan hệ cha con có đứt đoạn bao giờ đâu. Tôi hỏi chị chừng nào về nhà, về thật, bước qua ngạch cửa, chứ không phải đi ngang qua, hay đứng xa xa nhìn như những lần không cầm được nhớ chị từng quay về xóm cũ. Chị cúi nhìn cái cối xay bột, tần ngần, một cuộc ra đi gây tổn thương bằng đó, không biết lòng cha già đã lành lặn chưa, nên cứ chần chừ…
Thôi thì, tôi mang món quà nhỏ về trước. Ngó cái hủ chùm ruột ngào đường đỏ au mà tôi nói là của một người quen cũ gởi biếu cậu, ông già thoáng nghẹn ngào. Hồi lâu, cậu ngập ngừng hỏi, con nhỏ… lúc rày sống sao, làm gì. Tôi cười, chị ấy trồng cây, trái này hái từ cây mọc trên đất quê người. Nó chua, nhưng chị không quên cách làm cho nó ngọt.
Hành trình ngược về quê, không biết trái có mọc thành cây, khi mùa mưa tới.
buổi sáng thật thà
Nguyễn Ngọc Tư
Thời gian trả về cho ông một buổi sáng lạ thường.
Ông ra đường với cái quần jean bạc phếch hao hao màu tóc đã nhiều muối rắc. Cái áo pull màu xanh dương, cũng bạc vai rồi. Lững thững ghé một cái quán café nhỏ ở góc đường, ông nghe tiếng thì thào, “trời ơi, bữa nay coi ổng lạ quá…”. Ông cười thầm.
Vài người kéo ghế mời ông. Họ ái ngại, bỗng dưng ông ít nói, chỉ đủng đỉnh cười, lâu lâu cũng ừ hử góp vui vào vài câu chuyện vặt. Giọng cũng không còn là cái giọng hùng hồn, rắn rỏi, dứt khoát nữa. Họ nghĩ ông buồn, bởi cú sốc về hưu không dễ để vượt qua.
Con gái cũng nghĩ vậy, nó nói chắc phải mua cho ba trái mít chín, dụ mấy con ruồi vô nhà để ba… đập qua ngày. Có người, về hưu là một cuộc giải thoát, nghỉ ngơi, nhưng cũng có người cảm giác nó như cái chết. Đã hết. Đã tận. Đã chìm. Bị quên lãng, kể từ đây. Bạn bè ông nhiều người từng trải qua cái chết đó. Sớm nay, khi ông thò chân khỏi giường, ông dặn mình, đừng có làm trò cười như người bạn, đã nghỉ dứt rồi mà quên, vẫn cứ ăn mặc thẳng thớm, trịnh trọng chạy tới cơ quan, ngồi đúng cái chỗ mà giờ đã giành cho người khác. Hay đừng có như thằng bạn kia, suốt ngày kêu đám con lại để cằn nhằn, lườm nguýt, cái oai phong của thời làm sếp, bạn bứng luôn đem về nhà. Ông đứng trước tủ áo, tình cờ gặp bộ đồ của con trai, dường như đã lâu nó không mặc tới. Ông thử, thấy vừa vặn, lạ lẫm, hơi thích.
Giống như người diễn viên đóng vai hiệp sỹ trong bộ phim truyền hình nhiều tập lê thê. Khán giả chán quá không coi đạo diễn chán quá không làm nữa, cho thằng hiệp sỹ chết để… hết. Người diễn viên trở lại là mình, không còn múa may đánh đấm. Sáng nay không có họp, không có ai gõ cửa phòng vào trình ký, không có mấy nhân viên luống cuống chạy quanh. Sáng nay chỉ có café vỉa hè, một chỗ nhiều lá rụng.
Sáng này ông lại nhìn thấy lá, sau bao nhiêu năm hờ hững. Như đã từng gấp gáp lướt qua những buổi sáng trong đời để chạy tới một hội nghị, một cuộc họp. Cuối tuần, quảy vợt chơi vài ván tennis với đồng sự, sau đó cũng ăn nhẹ, cũng cafe, cũng nói chuyện phiếm… Nhưng những ban mai đó không giống lúc này, lúc trút bỏ, lúc trống không, lúc ông không còn ở địa vị A để nói về câu chuyện B, C. Giờ ngồi quanh ông là những người nửa lạ nửa quen, không đủ gần mà cũng không quá xa lạ, để dè chừng. Và người đã kéo ghế mời ông ngồi cùng đã bao nhiêu năm gặp thoáng trên đường, có gật đầu cười, có nhớ thằng đó là bạn thời trung học, rồi lại lướt qua nhau. Một mối quan hệ hờ hững. Người bận rộn với vòng tròn công chức của mình, người thì dè dặt bởi vị trí thường xuất hiện trên truyền hình tỉnh của bạn.
Một cuộc ngồi với nhau như vầy, chưa đủ làm nên thân tình. Nhưng cái cảm giác rõ ràng là ông đang nhận lại những thứ đã từng quên, nối lại cái cuộc sống đã bị đứt đoạn mấy mươi năm trước, khi chưa bước chân vào quan trường. Từ buổi sáng thật thà nào xa xôi lắm, ông đi một vòng tròn thăm thẳm, giờ ông trở lại. Giờ thì ông chỉ còn một, người bất nhẫn trước con đường quê lầy lội, trước những ngôi nhà rách, đã buột miệng kêu trời, phải làm gì chớ để dân sống khổ vầy sao được.
Có một ông khác, người-trước-đám-đông, nói những câu quen thuộc, “Còn vài nguyên nhân khách quan… Nhìn chung nhà nước đã quan tâm sâu sắc… Bà con phải phát huy tinh thần tự lực tự cường…Tình hình kinh phí có hạn, cùng nhau chia sẻ khó khăn…” - người đó đã đi.
Chính xác thì sáng nay, không có ai khác trong ông. Trên đường về nhà, khi đi ngang cơ quan cũ, ông nhận ra mình đã để người đó ở lại bên kia tường rào cao, cùng với những buổi sáng lao xao giấy tờ, lao xao hội họp, lao xao đưa đón…
Ông tự dặn mình đừng nghỉ ngợi, những buổi sáng hôm qua không gặp lại được nữa rồi. Nhưng ông vẫn nhớ, dường như có thêm nỗi nhớ này, ông hoàn toàn thật thà trọn buổi sáng nay.
Thôi, về nhà tỉa mấy cái cây.
Bài hát nào cho Bạc…
Tản văn
Nguyễn Ngọc Tư
Bạc là tên của thằng nhỏ sẽ trở thành thợ mộc. Tôi thích một cái tủ sách lớn đặt ở trên gác nhưng sợ cầu thang hẹp, di chuyển khó nên rước thợ về nhà. Tốp thợ có bốn người, thằng Bạc đang học việc, lủn tủn chạy đi lấy cái bào này, cây thước kia cho mấy anh. Nó hay lục lọi đống sách của tôi nằm ngổn ngang trên sàn nhà, gặp cuốn dày, nó xoay đi xoay lại, chắc lưỡi, “trời ơi, cầm cuốn sách này là thấy buồn ngủ rồi. Toàn là chữ, không có hình gì hết vậy chị Hai?”. Cũng may, không có hình mà nó không chỏng ngược sách xuống, chứng tỏ nó cũng biết chữ, chút ít.
Lúc đó tôi đang đọc Rừng Na-Uy, chính xác là đọc lại lần thứ hai, hít thở lần nữa cái không khí u sầu, buồn bã của một mối tình. Thằng Bạc thấy tôi dán vào cuốn sách, nó hỏi sách viết gì vậy chị Hai. Tôi đáp ơ hờ, ờ thì tình yêu và cái chết. Thằng Bạc trề cái môi thâm sì của nó dài thượt, “ai mà rảnh quá vậy, viết mấy chuyện tầm phào không. Chị Hai có truyện vụ án, hay truyện ma không?” Tôi lắc đầu, thằng Bạc ỉu xìu. Tôi mắc cười quá, nói, sách nói về cái chết cũng hay mà, sao không thích. Thằng Bạc nguýt ngoáy, “hay gì, chết là hết trơn…”.
Chết là hết trơn. Đó là quan điểm của thằng Bạc-thợ-mộc, nó chỉ cần gọn lỏn bốn từ. Còn triết gia, văn sỹ, đạo giáo thì nói về chuyện này hàng ngàn năm nay, vẫn chưa muốn dừng lại ở bờ bến nào. Thằng Bạc kể, hồi má nó chết rồi thì chị Hai là má nó, chăm sóc mấy đứa em, nấu cơm, giặt giũ, đi làm kiếm tiền… Má nó trở thành ma rồi, đâu còn nhúng tay vô mấy chuyện đó. Nghĩa là hết rồi. Chấm dứt rồi. Những người sống mắc đi làm để có cơm ăn.
Thế còn nỗi nhớ? Sự tuyệt vọng? Sự tồn tại ở một thế giới khác? Sự ám ảnh miên viễn của nỗi mất mát? Nhưng tôi đi cãi nhau với thằng nhóc này thì tôi uổng công. Có lẽ tất cả điều đó vô nghĩa trước việc “đi làm để có cơm ăn…”. Tôi đành cười trừ.
Tủ sách đóng xong, thợ chính không tới nữa, phần đánh bóng, sơn, lau chùi kính… tóm lại, phần “hậu kỳ” giao cho thằng Bạc. Tôi nhịn nghe nhạc mấy bữa, cũng thèm. Ai ngờ thằng Bạc rất lấy làm phiền, nghe “Đố ai” của Phạm Duy, nó cằn nhằn, “Cái ông này quởn thiệt quởn, biểu người ta đếm lá, đếm sao trên trời, sống kiểu vậy không đói chết mới lạ…”. Thái Thanh hát "Tìm nhau" thằng Bạc không mấy hài lòng, "khó hiểu quá, tìm nhau mà tìm trong hoa nở, tìm trong gió... sao mà có, trời? Sao không đăng tin trên đài cho gọn?". Cho tới “Giết người trong mộng” nhạc sỹ phổ theo thơ của Hàn Mạc Tử thì thằng Bạc bực bội thật sự, “Có giỏi thì đi giết mấy người ác đang sống sờ sờ, nhởn nhơ kìa. Thương người này không được thì thôi, đi thương người khác, hơi sức đâu hăm he lãng nhách …”. Tôi tức anh ách, nhưng cố nhịn, cãi với thằng nhỏ này thì tôi cũng giống như con nít.
Cố nuốt cục tức, hỏi, vậy chứ nhạc gì hay? Nó cười, chị Hai có Đám cưới nghèo? Có Hoa sứ nhà nàng hông? Có Chuyến xe lam chiều hông? Thói đời? Sao gì cũng hông có vậy trời? Mấy bài đó nghe hay lắm, vầy nghe, “đường thương đau đày ải nhân gian ai chưa qua chưa phải là người, trông thói đời, cười ra nước mắt…”, vầy nghe, “phố buồn mình tôi bước chân lẻ loi. Ray rứt trời mưa bỗng nghe mặn môi…”, vầy nghe “đừng nói xa nhau, cho tâm hồn đau khổ, đừng nói xa nhau, cho mắt lệ hoen mờ…”, vầy nghe, “Em qua sông gió thổi bên lòng, gió lạnh lùng đưa hoa tím long đong, nước lạnh lùng trôi…”
Thằng Bạc nhắc tới bài nào là hồn nhiên hát luôn bài đó. Giọng nó không tệ, ngọt và nhừa nhựa, tưởng nó đã uống vài ly rượu rồi. Những bài hát nửa lạ nửa quen, tôi nghe suốt từ thời thơ ấu, giờ vẫn gặp lại trong quán cafe, quán nhậu, trên đường phố… Tôi không mang về nhà thì thằng Bạc đem về, như thể nó biết tôi đã để quên, đã đánh rơi bên đường, như thể tất cả chúng là của tôi. Chỉ có bài hát “mèo hoang” nào đó mà thằng nhỏ nhắc, tôi thấy hơi xa lạ. Bạc tỏ ra thất vọng ghê gớm, bài đó hay lắm. Hát cho mấy người làm nghề bán bia ôm, mà hay, “có phải em về trong đêm nay, bước thấp bước cao ngã nghiêng trên đời này…”
Bỗng dưng thằng Bạc rưng rưng, chị Hai tui nghe lần nào cũng khóc hết. Rồi bỗng dưng nó sợ tôi đoán ra điều gì đó, nó đột ngột gượng cười, “hỏng biết chừng nào người ta mới viết bài hát về thợ mộc như tui hen?”.
Tôi không biết. Tôi cũng chưa biết bài hát làm rơi nước mắt những chị cave, những người đàn bà sương gió. Nhưng giờ trở đi, tôi sẽ lắng nghe…
“…đời còn nhiều bể dâu, người hỡi có thương nhau, thì xin chớ buồn...”, tạm thời chưa tìm ra bài nhạc nào viết về anh thợ mộc, tôi gửi mấy câu hát này đến Bạc, một người từng gặp…
Thăm thẳm chốn về…
Nguyễn Ngọc Tư
Cô gái về quê vì đang có vụ đình công ở công ty cô đang làm việc. Và đôi vợ chồng đứng ngồi thấp thỏm nhai cái bánh mì khô khốc kia vừa ra khỏi bệnh viện sau cuộc kiểm tra tổng quát. Một bà cụ khác ngồi cạnh tôi đã ở chơi với con được mấy ngày. Ngồi chờ xe, chỉ cần năm phút thôi cũng đủ mỗi người khỏa ra một khoảng đời mình.
Bãi xe buổi trưa nắng quánh quéo những bóng người. Khói nắng trôi lên từng lát mỏng gờn gợn. Những cái bến xe mà tôi biết hầu như không thay đổi mấy, kể từ ngày tập tành đi rong. Chúng luôn có mùi giống nhau, khăm khẳm mùi nước tiểu, mùi của những bãi nôn vì say xe, mùi nhiên liệu cháy khét… Chúng ngập nước ròng ròng vào mùa mưa, cùng bao nhiêu rác nổi rác chìm. Chưa bao giờ trong đầu tôi thôi nghĩ, bến xe là một cái bẫy của bọn ma cô lừa đảo, bọn trộm cắp giật giỏ, móc túi. Một thứ sa mạc. Sau này đi nhiều, thấy người ta đúng là xây dựng bến xe theo kiểu sa mạc, không bóng cây, không bãi cỏ, càng không có hoa. Một cú choáng váng của cuộc xa nhà. Ngồi chờ xe trên một băng đá cũ kỹ tróc lở nào đó, chen chúc giữa những người xa lạ, chìm lẫn giữa những tiếng rao hàng, gió bụi và rác… tôi bắt đầu hình dung một cách rõ ràng chặng đường mình sẽ đi, những va chạm mà mình sẽ gặp, những cô độc lạc lõng mình sẽ nếm trãi. Cái xô bồ xô bộn, náo nhiệt, sự mời gọi nồng nặc của bến xe luôn gây cảm giác, ta đã rời khỏi mái ấm.
Ở đó, dù để ra đi hay trở về, trên những gương mặt người cũng phảng phất hoang mang. Cô công nhân bất an, liên tục xoay điện thoại di động trong tay, nhắn tin và liên tục thở dài, “em sợ bị đuổi quá. Thất nghiệp về nhà làm ruộng, buồn chết luôn…”. Đôi vợ chồng bất an, săm soi lục lọi hồ sơ bệnh án, rồi thở dài thở vắn. Bà cụ bất an, hỏi tôi, sao lâu quá mà xe chưa chạy, mấy đứa cháu ngoại ở dưới quê chắc đang trông dữ lắm.
Bà cụ không điện thoại di động nên chẳng ai gọi với theo. Người con trai tiễn bà đến đây đã quày quả bỏ về, “chiều nay con phải họp…”. Bà nhìn theo bóng con, rưng rưng. Bà hỏi tôi có biết công ty X lớn thiệt lớn ở Sài Gòn này không, thằng Hai bà đang làm ở đó. Nó giàu lắm, bà tự hào, mua nhà xong rồi, cuối năm này mua xe hơi. Tôi hỏi sao bác không ở chơi, bà hơi cúi mặt, “ờ, thì nhớ nhỏ con út dưới quê, nên về…”.
Xe vẫn chưa chạy. Bà cụ lại bắt chuyện, bà kể mấy hôm trước gặp chuyện hú vía, định mở đèn, nhấn nhầm cái còi báo cháy gì đó, làm con cháu nửa đêm nháo nhác. Bác đâm ra sợ mấy cái nút tròn tròn vuông vuông, nên đi vệ sinh không xả nước, rốt cuộc lại phiền phức. Chân tay mạnh giỏi, mà đi đâu làm gì cũng chờ mấy đứa nhỏ dẫn, tức mình quá. Tới lui một mình thì sợ con chó bực bội rồi nó... cắn. Mà, con chó đó cao lớn như con bò, ăn toàn đồ ngon, tới bữa cơm đồ ăn trên bếp chia ra, chó một dĩa, người một dĩa…
Tôi im lặng để lắng nghe câu chuyện về một người quê đi lạc, nhưng bà cụ đã thôi kể. Bà lúi húi xốc mớ đồ trong hai cái giỏ xách đặt dưới chân, rồi xếp lại y như cũ, như thể nếu bà không làm gì, bà sẽ khóc mất. Hồi lâu, bà ngẩng lên hỏi tôi, “cái nón này tầm ba ngoài tuổi đội hợp không con ? Bác mua cho con Út, tội nghiệp, hồi đó nó nghỉ học, đi mần mướn để kiếm tiền phụ lo cho anh nó. Giờ có chồng rồi, chồng nó cũng nghèo, xấu trai mà tử tế lắm…”.
Xe bắt đầu chậm rãi lăn bánh. Lên đường. Những hành khách ngồi thưa thớt, thở hắt ra, về nhà. Hành trình dài bảy giờ đồng hồ, sẽ đến một cái bến khác.
Bảy giờ nữa, chúng tôi được nằm duỗi dài trên chiếc giường thân thuộc, ủi thẳng cái lưng đau sau chặng đường thăm thẳm xa. Bà cụ, đôi vợ chồng và cô công nhân ở huyện sẽ mất thêm một đoạn đường vài chục cây số, rồi cũng sẽ đến nhà. Chúng tôi sẽ gặp lại bộ vạc, cái ngạch cửa, gian bếp, căn buồng, chiếc võng quen. Đến nỗi nhắm mắt, dò dẫm cũng có thể tìm và chạm tay vào chúng, lu nước, hũ gạo, tủ chén, giàn củi…
Nhưng mỗi chúng tôi, dường như không bao giờ về được đúng nơi mình đã ra đi. Cô công nhân không về được cái ngày cô còn là thôn nữ, quanh quẩn với ruộng vườn, lặng lẽ làm những công việc bếp núc, đồng áng, thuở cô không mơ mộng vì chưa hề biết có một thành phố rực rỡ phía chân trời. Đôi vợ chồng mệt mỏi kia không trở về được nơi họ vẫn còn thanh thản, chưa âu lo, chưa bị phiếu xét nghiệm, tiền thuốc, bệnh tật ám ảnh giày vò. Bà cụ không về được một bờ sông, có người mẹ hồn hậu hay tha thẩn nhớ thương con, với một tình thương dạt dào, tin rằng giờ này, ở cái thành phố xa xôi đó, thằng nhỏ chắc cũng nhớ mình. Lòng mẹ bao dung có làm bà quên vẻ mặt đứa con nhẹ nhỏm như một cái phủi bụi trên vai áo khi tiễn bà đi, khi để bà ở lại chơ vơ giữa một bến xe chao chác những người dưng?
Và tôi nữa…
Người ta làm sao để bỏ lại bên ngoài cửa những bài học dại khôn sau khi đi một ngày đường…
Vài mùa đông lẻ…
Nguyễn Ngọc Tư
Ngày mai, khu vực Bắc Bộ trở lạnh. Không hiểu sao cái tin nhỏ trên trang báo làm mình nhớ chị. Nhớ căn hộ chung cư ngút ngất trên cao mà bọn bạn bè miền Tây Nam Bộ của chị thường tá túc mỗi khi có việc ra Hà Nội.
Chị sống ở đó, với những đứa em trai em gái. Và gió. Thỉnh thoảng bạn bè loẹt xoẹt ghé qua, quẳng ba lô vào một góc phòng, năm mười phút vừa giũ bụi đường xa vừa hỏi thăm chị vài câu qua quýt, xong quảy túi đi chơi mất. Tụi nó cũng như gió, khác gì.
Nên chị thường một mình, sau thời gian quần quật với đám học trò ở trường. Ngay cả khi ngồi với những đứa em bên bữa cơm cuối ngày, ngay cả khi tham gia vào những câu chuyện rời rạc, xăng lên giá, vụ tai nạn xe ở một vòng xoay, một người quen ở dưới quê vừa mất… chị vẫn lẻ. Chị chỉ có vài mối liên lạc nhỏ để kết nối với cuộc đời, quanh quẩn thì cũng trường học, siêu thị, bếp, và văn chương. Chị viết truyện ngắn in báo, in sách, và những tờ báo cuốn sách đó được chị cất vào ngăn kéo. Âm thầm. Chị em thương nhau, nhưng văn chương với em là một trò chơi xa lạ. Em đi theo một vòng tròn khác, công ty, lớp sinh ngữ, phim cuối ngày…
Việc viết làm chị có nhiều bạn bè, thí dụ như tụi miền Tây chúng tôi. Nhưng những lần gặp nhau chốc lát rồi tan, khiến chị càng bị ấn sâu hơn về phía lẻ loi. Chị đọc sách, say mê sách, cuối cùng, những cuốn sách đã từng cứu rỗi bao nhiêu tâm hồn, cũng làm cái sự cô độc của chị nhói hơn một chút.
Một cuốn sách hay đắm hay đuối, làm ta sướng mê dại đi mà không có người để chia sẻ cũng là một nỗi buồn lớn. Tôi từng thèm được dúi vào tay ai đó một cuốn sách mới, rồi chờ đợi, để tìm sự đồng cảm, hay tranh luận cho những cảm giác của mình đã có cùng nó. Khi ra khỏi thế giới sách, bỗng chếnh choáng nhớ người, tìm người.
Nhưng buồn cười, đôi khi không tìm được ai trong số bầy người (thương yêu ta và ta thương yêu) nheo nhóc, để làm một việc giản dị là chìa ra một tác phẩm hay tình cờ, bảo đọc đi, ngộ lắm đó, hay “xem phim này đi, cũng lạ…”, hay ‘nghe bài nhạc này thử coi, buồn dễ sợ…”. Giống như tôi, chị một mình.
Và giống như chị, tôi còn nhiều bạn lẻ khác. Có người một mình trong căn nhà nhỏ ngó ra hồ, chiều tới chơi thấy chị lum khum quét lá, ngồi chơi một chút, chị hỏi hồi sáng này có coi cái phim zx trên kênh 9 không, có xem truyền hình trực tiếp chung kết hoa hậu không, rồi thất vọng nhận lại cái lắc đầu. Có người một mình trong bếp loay hoay nấu những món ngon, mỏi mòn trông con về, trông khách tới, trông hàng xóm mở cửa để… đem cho. Ở một căn nhà gỗ khác, cũng có người một mình đưa võng ngó mấy con chim treo trong lồng, nghe chúng nói tiếng người bằng giọng của chính mình. Có người tới Tết là lủi thủi ra biển vì không thể kẹt lại trong mùa sum họp. Ai đó cô đơn do hoàn cảnh trớ trêu, cũng ai đó tự lựa chọn cách sống này mà không biết trước, đôi lúc ta thèm con người chết được. Không biết cũng có lúc ta thấy chật bung chỉ vì một bài hát hay, một món ăn ngon, một bức ảnh đẹp… Nên thành phố thì nắng ấm quanh năm, vẫn thấy ủ ê những mùa đông lẻ.
Nhiều lúc, chạy chơi với người này, xong chạy đằng kia uống miếng trà, gọi điện cho người bạn xa hỏi những câu ơ hờ, chú khỏe không, lúc này làm gì cho đỡ chán, hay nhắn tin cà rỡn cho cái chị ở giữa cao cao Hà Nội, “mùa đông này có ai tình nguyện làm chăn cho chị hay chưa?”… Tự thấy, việc chạy chơi lăng xăng như một hành động lau nước mắt cho bạn, cho mình, như đốt lên đống lửa nhỏ vừa đủ hơ nóng mặt và tay, sau lưng vẫn đang lạnh cóng.
Đôi khi nghĩ, nếu những người bạn cô độc mà gặp nhau thì vui biết mấy. Một mối tình, ôi, điều đó là lớn lao, nhưng giản dị như một cuộc cờ, cũng cần đến hai người.
Yêu người ngóng núi…
Nguyễn Ngọc Tư
Bạn cũ ngồi than thở, nói ghét Sài Gòn lắm, chán Sài Gòn lắm, trời ơi, thèm ngồi giữa rơm rạ quê nhà lắm, nhớ Bé Năm Bé Chín lắm. Lần nào gặp nhau thì cũng nói nội dung đó, có lúc người nghe bực quá bèn hỏi vặt vẹo, nhớ sao không về. Bạn tròn mắt, về sao được, con cái học hành ở đây, công việc ở đây, miếng ăn ở đây.
Nghĩ, thương thành phố, thấy thành phố sao giống cô vợ dại dột, sống với anh chồng thẳng thừng tôi không yêu cô, nhưng rồi đến bữa cơm, anh ta lại về nhà với vẻ mặt quạu đeo, đói meo, vợ vẫn mỉm cười dọn lên những món ăn ngon nhất mà cô có. Vừa ăn chồng vừa nói tôi không yêu cô. Ăn no anh chồng vẫn nói tôi không yêu cô. Cô nàng mù quáng chỉ thản nhiên mỉm cười, lo toan nấu nướng cho bữa chiều, bữa tối.
Bằng cách đó, thành phố yêu anh. Phố cũng không cần anh đáp lại tình yêu, không cần tìm cách xóa sạch đi quá khứ, bởi cũng chẳng cách nào người ta quên bỏ được thời thơ ấu, mối tình đầu. Của rạ của rơm, của khói đốt đồng, vườn cau, rặng bần… bên mé rạch. Lũ cá rúc vào những cái vũng nước quánh đi dưới nắng. Bầy chim trao trảo lao xao kêu quanh quầy chuối chín cây. Ai đó cất tiếng gọi trẻ con về bữa cơm chiều, chén đũa khua trong cái mùi thơm quặn của nồi kho quẹt. Xao động đến từng chi tiết nhỏ.
Quê luôn ngọt như vị đường mía ngày xưa anh hay lén má giở nắp hủ lấy ngón tay chấm mút. Cả cái nghèo ngày đó cũng chẳng đến nỗi quắt quay, không có bánh kẹo ngon thì cây trái đã sẵn giành. Không có đồ chơi đẹp nhưng đã có thiên đường đồng bãi cho trẻ con chạy nhảy. Cho đến ngày anh đi khỏi, quê vẫn chưa làm anh tổn thương, hờn giận chút nào.
Nên trong anh còn nguyên vùng ký ức ngọt ngào và đằm thắm, mộng mị và êm đềm. Thành phố biết hết, nhưng thành phố không buồn tủi, dù nó chật và ngột ngạt, bức bối trong khoảng không nhỏ hẹp mịt mù khói bụi. Yêu anh, chấp nhận anh nghĩa là phố chấp nhận mình sẽ mất thêm một phần duyên dáng ít ỏi còn lại. Thêm rác, thêm bụi, thêm một chỗ ngồi, thêm một hơi thở…Chật chội hơn, ồn ả hơn, chen chúc hơn. Những ngày Tết, phố đẹp, thanh thản và nhàn tản nhất, thì anh lại không nhìn thấy, anh đã hớn hở sum vầy với quê.
Đón anh trở lại, vẫn là một nhan sắc mệt mỏi nhưng khao khát sống và yêu. Những lúc anh chán chường, thành phố xấu xí ngồi vỉa hè nướng những củ khoai thơm, trồng vài bụi chuối, hàng cau, qua một quán cafe nào, thấy bày biện những khung dệt chiếu, chiếc xuồng con, cái gàu dai, cây rơm nhỏ… Đôi lúc ở một góc đường, anh gặp bầy cào cào, chim sẻ thắt bằng lá dừa non. Đôi lúc ngang qua ngã tư, có bà già đầu đội khăn rằn xách cái bị bàng luống cuống trước dòng xe xuôi ngược. Không có tham vọng biến mình thành một chốn quê, nhưng thành phố đủ rộng lượng để anh công khai sự hoài nhớ của mình.
Và hồn nhiên sống như một người vọng núi kia núi nọ. Hàng me trút lá bên đường khiến anh nhớ mấy cây me già ở quê, giờ chắc thôi ra trái. Ánh đèn đường làm anh nhớ ngọn đuốc lá dừa cháy rập rờn những khuya tan hát ra về. Qua cầu anh nhớ sông quê. Cái kẹp tóc của cô vợ phố làm anh nhớ những mái tóc thả dài xuống tận thắt lưng xưa. Nhìn nhan sắc này để nhớ về một nhan sắc khác.
Mà anh thì cũng không chắc là miền nhớ còn nguyên nỗi quay quắt trong lòng. Anh có thật sự nhớ hay chỉ là cảm giác mặc cảm mình đã phụ rẫy, đã chạy trốn mà anh buột miệng nói nhớ cho quê đỡ tủi, cho mình đỡ thấy áy náy, như một niềm an ủi gửi lại nơi chân trần xối nắng. Má anh, Bé Ba Bé Sáu vẫn còn ở đó, mà anh bảo là không nhớ thì anh tệ. Anh có thật sự nhớ hay chỉ muốn giữ một lời hứa vu vơ hồi thẹn thò nhón ngón tay cô em nào ở bên rào, “làm gì làm tôi cũng không quên em đâu. Thiệt, tui thề…”. Có phải vì hình bóng quê quá sống động trong trẻo nên anh không thể yêu thành phố?
Bởi thành phố có gì đáng yêu đâu, ngay cả lúc dịu dàng nền nả nhất, thành phố lúc nửa đêm cũng không ngọt ngào như hoa nắng rụng lẫn trong hoa dừa rụng. Có lẽ thành phố xấu xí từ trước khi anh tới, và sau đó vì yêu anh mà xấu xí hơn. Những con đường nghẹn vì người đông. Những dòng sông nghẹn vì rác rưỡi. Những ngọn gió nghẹn vì khói bụi. Những ban mai nghẹn trong tiếng còi xe. Bầu trời nghẹn vì những khối nhà cứng nhắc và khô khốc. Va chạm và cãi vã. Chen chúc và cáu kỉnh.
Anh không thể yêu một cô vợ chỉ biết nấu ăn và giặt giũ, anh tìm kiếm một tâm hồn. Nhưng thành phố đã bày tỏ ngay khi anh mới gặp lần đầu, một tâm hồn rộng lượng, bao dung. Yêu cho đi mà không đòi hỏi nhận lại.
Đó chẳng phải là một vẻ đẹp sao, không đáng yêu, không đáng được đáp lời sao?
Chỉ là ghi lại một trưa vô tình…
Nguyễn Ngọc Tư
Chị ào qua cửa. Và từ cái buổi trưa nắng đỏ, trong cái xóm nghèo Năm Căn đó, tôi biết đến một bà mẹ khác với hình dung quen thuộc khi nghĩ đến mẹ, những gầy, những hiền lành, những dịu dàng, những đau khổ...
Chị mập ù, ngồi oằn cả một góc ván. Chân mày mỏng. Đứa bé bốn tháng tuổi trên tay gầy và xanh. Chị vừa cho nó bú vừa hút thuốc. Khói thuốc phì ra mũi lúc chị cười, trong cái bảng lảng, cứ như khói cũng tuôn từ mắt chị. Đứa bé điềm nhiên miết vào vú mẹ, dường như nếu chỉ có mùi sữa, mùi mồ hôi, mà thiếu mùi thuốc lá thì nó cũng chẳng nhận ra mẹ. Chắc đã nhận được quá nhiều lời cằn nhằn lẫn ái ngại cho việc phì phèo khói thuốc của mình, chị dụi tắt thuốc, cười khà khà phân bua, “ghiền hồi nhỏ rồi chế ơi, bỏ không được…”.
Nụ cười hồn nhiên, bầu vú cũng hồn nhiên khoe sự đầy đặn của mình. Áo vén cao không lấp lửng, khách khí. Tôi nhìn hai đứa con lớn nheo nhóc đứng cạnh, tôi nhìn bà mẹ nhỏ tuổi hơn mình, có cái gì đó xót xa đến mức lời lẽ cứ lạc đi đâu.
Tôi cứ tưởng sẽ gặp nhiều nước mắt, gặp nhiều vật vã, bởi đứa bé kia, núm ruột của chị, khi năm mươi ngày tuổi đã bị ông hàng xóm xâm hại tình dục. Chị kể lại chuyện đó với một vẻ tự nhiên, như một bà mẹ nói về vụ trớ sữa của con mình. Hoặc chị đã phải kể nhiều lần, vắt nước mắt nhiều lần rồi, ngay sau khi bi kịch xảy ra. Buổi sáng gửi con đi chợ mua cá, lúc về thấy nó tím tái, xốc nó thì máu từ miệng trào ra theo cái bao tay người ta đã dùng chẹn cứng cổ họng nó cho khỏi gào khóc. Lúc về thì cơn bão sẽ ở lại mãi mãi trong căn nhà thuê tồi tàn và ọp ẹp của chị.
Nhắc đến kẻ bất nhân, chị chửi thề giòn tan, giọng giòn tan, ông già sáu mươi chín tuổi đó chắc là ma quỷ nhập, chớ con chị mềm như cục bông gòn, vui sướng gì mà nỡ lòng… Chị cũng giống tôi, không tin con người lại làm vậy. Chị đòng đưa đứa bé gái bất hạnh trong tay, nựng nịu nó cưng ơi cưng à rồi nói chơi chơi, “mấy bà xóm tui chọc, tại con mầy đẹp quá, nên có… rể sớm… Thằng rể lớn tuổi hơn ông ngoại vợ”. Tôi muốn cười với chị, thật lòng, nhưng vo hoài cũng không thành.
Tôi bệu bạo hỏi tên ông hàng xóm vô đạo, chị ngơ ngác day qua hỏi chồng, “tên gì, ông?”, thấy khách tròn mắt ngạc nhiên, chị cười, “cứ kêu chú bảy chú bảy mà không để ý ổng họ gì…”. Hai bữa trước tòa án gọi chị lên, hỏi, chị có đòi bồi thường gì không, chị chưng hửng, thằng chả nghèo còn hơn tui nữa mà lấy gì bồi thường. Thôi, khỏi. Chị đốt lại điếu thuốc hút dở khi nảy, bàn tay vung lên lượn một vòng khói, “có đòi năm chục ngàn chưa chắc có, cùng là dân ở nhà mướn, biết nhau quá…”.
Tôi tắt máy ảnh, tôi đã bật nó với hy vọng được ghi lại những giọt nước mắt lăn trên mặt chị, như tai tôi cũng mong chờ được nghe những lời than thở buồn rầu. Những biểu hiện mà tôi nghĩ, một người mẹ phải như thế như thế. Nhưng tôi không đợi nữa, vì dù không một chút nào tỏ ra đau đớn bi lụy, chị vẫn là một bà mẹ đúng nghĩa, đẹp và gây xao động như tất cả những bà mẹ trên đời.
Suốt buổi nắng, bà mẹ chỉ thắc thỏm chuyện con gái mình xanh xao quá, “lúc sanh nó được hơn bốn ký lô đó chế, giờ ốm tong vầy…”, rồi mẹ khùynh tay ngó lại mình, đượm buồn, “còn tui thì ú ì. Ai cũng nói tui ăn hết phần của con…”. Nghe như lời tự trách, làm mẹ to khỏe mà cũng không bảo vệ được con mình. Và suốt buổi nắng, bà mẹ không hề tỏ ra lo lắng chuyện trinh tiết, phẩm giá, chuyện con gái mình mai kia sẽ lớn lên với một vết thương…
Tôi không ngạc nhiên, hôm nay là đám giỗ mẹ chị, một bà mẹ nghiện rượu và chết vì ngộ độc rượu. Chị còn thằng em trai suy dinh dưởng, tuổi mười ba héo hắt như trái mướp khô. Tôi không ngạc nhiên, khi ở cái xóm lao động nghèo này, vét nồi bữa sáng đã lo gạo cho bữa chiều. Những người nghèo và không được học hành như chị cứ bị cuốn trong những bi kịch nối tiếp bi kịch, họ buộc phải học cách đau có hơi khác thường, nhưng cần thiết để giữ sống.
Tôi chỉ thấy lạ chính mình, sao mà mình nhớ chị lâu vậy, nhớ giọng nói giòn tan, điệu bộ vung tay khẳng khái, bầu vú cứ hồn hậu áp vào mặt đứa con mặc đèn flash máy ảnh lóe lên.
Bà mẹ chỉ quan tâm, con mình cần bú, và nó thì quá gầy gò sau một biến cố không ngờ. Cũng có vài chuyện cần thiết nữa, đứa con gái lớn đã tới tuổi vào lớp 1, thằng con trai kế với dị tật trên mắt không biết có chữa được không. Những điều cần cho tâm hồn, lúc bụng no mới nghĩ tới được...
Gió lẻ
Truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư
Tại sao người ta không nhìn thấy mình khi mình còn sống?- Lời của một con ma
Trận mưa ban trưa đã vẽ lên kính trước chiếc xe tải Landu một mùa gió lẻ. Lá me rơi tầm tã trên mặt kính. Cái gạt nước không làm sao khỏa sạch được những chiếc lá nhỏ mong manh. Người lái xe chồm người đu đưa bên cửa, gạt lá rơi theo tiếng chửi thề lóc cóc. Cái khăn úa màu dầu nhớt trên tay ông ta mở ra trước mắt em bức tranh chợ Cỏ giãy giụa trong buổi xế tàn ngày.
Hai dãy nhà bên đường chạy chưa ngút tầm mắt thì nín bặt vì quãng đồng bỏ hoang. Chợ chiều gì cũng héo, nắng sau mưa héo chiếu xiên trên rau củ héo, và những mảnh thịt cũng héo tái tê dưới tiếng vo ve no say của lũ ruồi. Những người đàn bà đang ngồi bên sạp hàng của mình ngáp ơi hời qua môi khô. Trong tiếng thở dài của chợ Cỏ, em không nghe được hơi nước bay lên.
Một người thanh niên khác trên chiếc xe tải đã chuyển những hủ dưa cải cuối cùng xuống chợ. Anh ta mở cửa xe, ùa vào em cái mùi chua khẳm, anh lay tay em, tới chợ Cỏ rồi, giùm ơn thức dậy, xuống xe.
Em lặng lẽ thò tay vào túi lấy ra thêm một ít tiền. Tim anh ta đập mạnh. Lần này không phải vì tiền, mà vì ngạc nhiên. Thực ra cô muốn đi đâu, anh ta hỏi. Em nhìn anh một chút rồi nhắm mắt, em cũng không biết mình đi đâu hay sau đây anh ta sẽ đi đâu. Em thích ngồi đây, trên cái nệm ghế dường như đã rách, đùi em chạm vào khung thép, một khối mùi hổn độn chênh chao chung quanh, nhưng em thấy dễ chịu vì không buồn nôn.
Hôm qua từ Xuyên Mỹ tới thành phố, trên chiếc xe khách nhỏ và chật, em lại bị nôn, khi người lơ xe yêu cầu hành khách xuống một cái chợ xã hiu hắt, “bà con an tâm, tụi này chạy đi vá vỏ chút rồi quay lại đón”. Những cọng mì từ miệng em tuôn ra, lộn trái dạ dày. Trong đám hành khách nhếch nhác bị bán rẻ dọc đường, có bà cụ kêu mèn đét ơi rồi xoa dầu vào thái dương em, bùi ngùi, “con nhỏ say xe thiệt tội”, mùi cốt trầu từ hai túi áo bà ấm sực. Em thấy cổ họng mình không cong lên nữa.
♦
Họ không còn nhớ màu của nắng, hay phía của mặt trời rơi, vào buổi chiều chiếc xe tải rời một cái quán ăn bên ngã ba đường đi chợ Cỏ. Chẳng biết được hôm đó có điềm báo nào không, nhện sa trước mặt, hay con chim nhỏ bay lạc vào cabin, hay họ đã làm vỡ một cái tách trong quán nhỏ… trước khoảnh khắc cô gái xuất hiện trước đầu xe, áo cũ nhàu, tóc xõa trên cái cổ mảnh khảnh trắng nhợt.
Cô đứng chắn ở đó, gã nóng nảy nhấn còi. Cô vẫy một tờ giấy bạc xanh. Tiền lung liêng cất tiếng, nó nói rằng con nhỏ này có tôi, và nó muốn đi cùng, trên chiếc xe tải cũ nát, chở những hủ dưa cải từ thành phố đi chợ Cỏ.
Hôm ấy gió lẻ bắt đầu ướm chân vào mùa. Khi mở cửa cho khách vào xe, gió vẽ một vệt lạnh lên gương mặt đen đúa của Dự. Cậu ta làu bàu, “lạnh thấy mẹ…”. Cậu ta lân la hỏi, em quen ai ở chợ Cỏ, nhưng cô gái đã ngủ rồi. Có thể cô không ngủ, nhưng cô nhắm mắt để khỏi trả lời, cái ba lô nhỏ màu lông chuột ghì chặt trong lòng. Gương mặt, bàn tay, và tất cả chi tiết trên người cô toát ra một vẻ câm lặng.
♦
Có vài câu hỏi bình thường mà người ta hay dùng để minh họa cho trò ảo thuật, thí dụ như nhà em ở đâu, sao lại đi lang thang bụi đời như vầy? Bộ không còn người thân nào? Em bệnh gì mà người em xanh rờn vậy? Em muốn đi đâu? Ai chờ em ở đó? Em tên gì?
Những dấu hỏi bầu bĩnh trùm lên mũi dao, và người ta chỉ cảm nhận sự sắc nhọn của dao khi nó bắt đầu chạm vào da thịt.
♦
Gã gọi cô là Á. Cái tên sinh ra từ vụ tai nạn nhỏ, gã đã lơ đãng dập cửa trong lúc hỏi cô tên gì, tay cô bị kẹt trong đó, và cô thét lên “Á!”. Đầu ngón tay trỏ của cô bẹp dúm và chỉ năm phút sau, nó sưng phù. Cô gái không khóc, dù đau lả. Gã áy náy định xoa dầu, nhưng cô lắc đầu, cô ngậm ngón tay đau cho đến khi nó cũng ướt đầm đìa, tê dại.
Cô vẫn câm lặng. Mà cô thì đi với họ đã hai ngày, và cuộc đi này có lẽ còn dài. Cô cần có một cái tên, để lúc gọi ăn cơm, lên xe hay xuống xe. Nhưng sau vài ngày, gã thấy tên cô có gì không ổn, nghe như tiếng kêu thét đau đớn, như một nỗi bàng hoàng, và nó gợi nhớ cái lỗi bất cẩn của gã, trong khi vết thương đã gần như lành lặn. Chiều đó ăn cơm xong, gã bất ngờ gọi:
- Mỹ Ái, lên xe!
Quà tặng đầu tiên làm cô mỉm cười.
♦
Em có nhiều tên, ở rẫy bắp trong Mai Lâm, người ta gọi em là Lạc, trên những nẻo đường em đã đi qua, trẻ con gọi Câm ơi còn người lớn hỏi, “Em Cưng, đi đâu anh chở?”. Tối hôm kia, trong một nhà chờ xe buýt bên đường, tên em là Lam. Người thảng thốt Lam ơi là một thanh niên mềm nhừ vì say. Cả tiếng kêu cũng xiêu vẹo, rã rời. Trong cái chuỗi lắp bắp trên môi là nỗi nhớ. Xe đạp. Chuyến đi. Đèo Mụ Mị. Gác chân nhau ngủ trong sương. Em nghĩ anh ta đang nói nhảm, anh ta không nói về mình, nên thản nhiên lấy mắt buộc những sợi mưa mỏng và dai ngoài kia. Rượu đã thấm tới lưng, nên lưng cũng không giữ gã trai đang ngày càng cong khẳm.
- Bữa ở trên đèo, tụi nó có tới sáu thằng. Mình đâu có bỏ chạy, mình chỉ tìm người tới giúp.
Gần như anh ta không giữ được cái đầu mình nữa, nó sắp rụng khỏi cổ. Cả người anh ta ngấm nước mưa, rượu và nỗi buồn, tất cả đã ướt đẫm tới xương. Chúng pha loãng máu, và trái tim mệt mỏi kia phải đẩy đưa từng dòng trong vắt. Em quẩy túi lên vai, em sợ cái cách chảy trôi tuột, trơn lẫy của những dòng máu loãng.
Em bỏ đi, chân sau đạp chân trước xước cả giày. Cảm thấy từ gót chân này một cơn đau nhói chầm chậm dâng lên. Như em chính là người tên Lam.
Mỹ Ái dường như chỉ là cái tên bất chợt. Em thích vì với em, nó không có quá khứ, không có nỗi buồn.
♦
Cô gái ở lại cabin, bắt đầu từ hôm nôn trong một quán ăn, khi Dự bả lả nắm một cánh tay chi chít sẹo ghẻ và đắm đuối bảo một cô phục vụ là đêm qua anh đã chiêm bao thấy em, và chập chờn cả đêm, ướt đẫm cả đêm, “Anh thấy nhớ em khủng khiếp...”. Cô rơi đũa, cong người bỏ chạy ra sau quán rồi loay hoay lên xe, không xuống nữa. Cô dường như chọn cái khoảng không chưa đầy hai mét vuông đó làm nhà.
Dự hơi sửng sốt, “đại ca, con nhỏ đó không bình thường…”. Gã tọng một đũa rau vào miệng, ngốn cả lời của chính mình, “nó không chịu được chú mầy nói dóc”.
- Vậy mắc mớ gì nó ói?
- Đi hỏi nó.
- Đại ca giỡn, nó câm mà.
- Thì thôi.
Bằng cách dựng chuyện tầm phào, đồn đoán và bịa đặt, mỗi ngày họ bỏ ra một vài ý nghĩ, nói một vài câu về cô. Điều đó làm gã hơi ngạc nhiên, cuối cùng thì gã và Dự cũng có mối quan tâm chung.
Gã mua chiếc Landu này năm năm trước, với giá bảy mươi ba triệu, số tiền của hai mươi mốt năm làm bốc vác trong một nhà máy nước đá, lơ xe, phụ xế, và ôm vôlăng ăn gửi nằm nhờ trên những con đường. Chủ cũ tặng kèm một phụ xế tóc dài phủ mắt, đen quắt vì nắng và vì ngại tắm, già trước tuổi, tên Dự. Gã không cần Dự, nhưng chiếc xe tải thì cần, cậu ta thuộc cái tiếng xùng xèng kia phát ra từ đâu và mùi khét đó sẽ buộc họ dừng lại bao lâu, để sửa. Nếu nửa đường chiếc xe bỗng nghẹn ngào và chết máy, Dự ngó quanh hoang mang, trời ơi chắc muỗi xé xác tui quá, gã phải hiểu là đêm nay sẽ ngủ ở đây.
Năm năm đi với nhau, gã vẫn coi Dự là một hạt cơm nguội rời. Gã không cần gia đình nên không bao giờ xây dựng một gia đình. Đôi lúc tắm chung cũng không thèm nhìn vào cơ thể nhau. Gã có cuộc sống riêng, giấc mơ riêng và người đàn bà của mình vào những tối.
Nhưng cô gái mang lên xe gã quá nhiều bí ẩn và bất thường. Cứ nhìn cô gái xanh mét sau trận nôn mà không nén lòng được cứ phải buộc miệng, “nhìn con nhỏ ma quái quá…”.
♦
Em luôn có cảm giác mình nôn ra máu. Cứ sau mỗi trận nôn, người em rã ra, kiệt sức, không nghe tiếng tiếng máu chảy, tim thì cứ co bóp khan. Em thấy mình rất gần bờ chết, chỉ cách một gót chân thôi, em sẽ rơi vào dòng nước đen ngòm, rồi thì chìm xuống, mãi mãi. Hôm gặp lại cha, từ trường quay của chương trình “Giã từ lưu lạc”, cha đưa em ghé qua nhà bác sỹ Lanh. Ông lật đật khám soi với đầy đủ những xét nghiệm quan trọng. Ông hỏi em nôn gì khi nảy, cha cười héo hắt, nhắc lại một bãi nôn khoai lang chua ngoét trước mặt bao nhiêu khách mời. Ông bác sỹ cười, chắc là ăn nhiều khoai chướng bụng không tiêu hóa được. Mà, cũng có thể do quá căng thẳng, xúc động, thất lạc nhau bảy tám năm chớ đâu có ít. Rồi ông xoa đầu em, chú mà xúc động, là chú ngứa mũi, nhảy mũi liên tục.
Hôm đó dường như ông cũng xúc động, cha em nói cha vừa ký quyết định nào đó cho bệnh viện nào đó, gương mặt bác sỹ rạng ngời. Ông âu yếm dúi vào tay em đơn thuốc, “Chịu khó truyền đạm, cháu nó coi bộ suy nhược lắm. Anh nói nó đã từng ở đâu, trong Mai Lâm hả? Trời, hồi đi thanh niên xung phong tôi có ở đó, rừng thiêng nước độc lắm. Tội nghiệp cháu nó…”
Cái đơn thuốc làm cha tươi tỉnh và nhẹ nhỏm. Cha không biết đó chỉ là tờ giấy vô vọng, với những nét chữ đổ tháo vô vọng.
♦
Gió lẻ làm gã phải quan tâm nhiều tới chỗ ngủ. Bây giờ không thể bạ đâu nằm đó, trên sạp hàng hay sàn xe. Không thể ngủ trong cơn đùa nghịch dẳng dai của những cơn gió bị xé nhỏ bởi một bàn tay vô hình. Và từ khi lìa nhau, gió dằn vặt con người bởi nỗi ly tan của chính nó. Những cơn buốt lạnh chợt tới, chợt đi, thảng thốt. Đắp một tấm mền cũng là một cuộc tranh đấu nhỏ, bởi không biết bao giờ gió sẽ tới, trong thời gian đó, người ướt đẫm mồ hôi. Sự đùa cợt không bao giờ mệt mỏi. Đến mức người ta mòn mỏi thiếp đi thì gió lại dựng họ dậy theo cái kiểu lướt thật chậm từ chân lên đầu, như có một linh hồn, một bóng ma vừa đi qua âu yếm.
Để trốn gió, gã nhận chở bất cứ loại hàng nào, với cái giá rẻ nhất đi tới những người đàn bà của mình ở những điểm đến quen thuộc. Bằng cách đó, từng mùa gió lẻ đã đi qua đời gã êm đềm. “Khỏi tốn tiền trọ…”, Dự cười hinh hích, cậu ta nghĩ vậy. Dự xa xôi với gã bởi những điều như thế. Dự trẻ, và ngơ ngác giữa cuộc đời ngơ ngác.
Nên dù nằm trong căn phòng ấm sực, cậu ta vẫn trằn trọc với cái kiểu gió đêm nay, “con nhỏ câm đó sao không chịu vô nhà…”. Sáng sau gặp lại, không biết cô gái có bị gió làm xanh đi chút nữa. Hai chân có thể sẽ không duỗi thẳng ra được, vì gió vào cabin và cô gái bị đông còng queo.
♦
Rẫy bắp ở Mai Lâm đón gió lẻ bằng những luống cây ngiêng ngửa. Vài ngọn gió cô độc đã nghênh ngang đi qua rẫy tạo ra một cảnh tượng buồn cười, chỗ thẳng chỗ xiên, rối bời. Buổi sáng thức dậy, gió làm những cây bắp đã trổ cờ ngã rạp tạo một tầm nhìn thấu vô nhà ông Tám Nhơn Đạo. Em thấy ông đang gội tóc cho bà vợ tật nguyền của mình. Bà nằm trên một cái ghế dài, một tay ông đỡ cái đầu nặng trĩu của bà, tay kia làm dội nước, rót dầu gội, rồi thì bàn tay to bè đó cũng chìm mất trong đống bọt trắng xóa.
Buổi gió làm cho việc gội đầu diễn ra nhanh hơn. Ông Tám ẳm vợ vô nhà, họ mất hút sau cái cửa tối. Em chậm rãi xoay người về phía cây bằng lăng. Những chòm sao tím thắp trên cây đã bị gió lùa rụng đầy đất. Từ lưu lạc, bầy sao bắt đầu nhuốm màu lam lũ, tả tơi.
Con Cò từ trong nhà ông Tám băng xăng bái xái chạy ra, mớ lông trên mép còn dính chút mỡ cháy. Nó vừa đi vừa sủa sững sốt, dù đã sủa suốt đêm qua, dưới ánh sáng ban mai, cảnh vật trên rẫy trở nên xa lạ. Nóc căn chòi em ở xù lên phơ phất, như tóc của một người vừa ngủ dậy.
Trong mớ âm thanh quen thuộc của lũ kiến chạm chân trên đường rời tổ, của muôn vạn cái lá dập xao xác, những giọt sương sẽ sàng rụng xuống, tu hú kêu vang trong bờ sậy, có lẫn tiếng cây đang ứa nhựa hàn gắn vết thương, nơi nụ hoa lìa.
♦
Dự hay dậy sớm, lúc ngồi dậy với cái lưng đau ê ẩm, cậu tung cửa chạy ngay tới chiếc Landu xem cô gái có còn… sống. Dù cô đang ngủ cậu vẫn gọi cô dậy, xác nhận cô còn có thể mở mắt, Dự nhoẻn cười, nói một câu vô nghĩa, “hên dã man…”.
Nhìn cô sống, Dự cảm giác mình cũng sống, với những tia hy vọng ngập ngụa trong lòng. Sự sống tồn tại trong mùa gió lẻ khắc nghiệt, ở nơi nào đó, chắc bà nội cậu cũng đang thức dậy, hé mắt ứ hự chào ngày mới. Trong cơn cao hứng, đôi lúc Dự đã đu lên vai gã, thân thiết như đứa em nghịch với anh trai. Gã cau có, gã không thích những va chạm này.
Vì Dự căm ghét những con đường. Những lúc dừng xe lại, chạy lại giở nón của một người hành khất để tìm khuôn mặt già nua quen thuộc, Dự nguyền rủa con đường đã mang bà nội cậu đi, bảy năm trước. Gã ngồi im lặng trên xe, nhìn cái lưng trĩu thất vọng của Dự, và nghĩ, lựa chọn yêu thương con người đồng nghĩa với việc mất mát những niềm vui. Đồng nghĩa với cái chết, sự lìa bỏ, sự phản trắc, tan vỡ…
Gã thì yêu thương say đắm những con đường. Chúng luôn tồn tại, sinh sôi tươi mới. Một con đường không có cái chết. Một con đường luôn biết chờ đợi.
♦
Em thích nhìn gương mặt người chủ xe sau buổi cà phê sáng. Môi ông ngậm một điếu thuốc lơ đãng, lên ngồi sau tay lái và im lặng một thoáng, trước khi vào cuộc hành trình. Khói thuốc cùng những giọt cafe còn đọng trên bộ râu tua tủa làm vẻ mặt của ông lung linh. Sau đó thì khuôn mặt chỉ còn một sự trầm mặc quánh lại, và trên người ông chỉ còn nhịp điệu của nỗi buồn.
Một con người buồn bã.
Mỗi lần qua một khúc quanh, hay khi phải phóng tầm mắt xa về phía trước, em nhận ra nhịp tim của ông giống hệt em, máu chảy về đó rất ơ hờ, lãnh đạm, tựa như không máu cũng chẳng sao, tim vẫn lay đúng nhịp. Không có gì sau ngã rẽ này hay phía trước kia, chờ đợi.
Người còn lại ngồi cạnh em thì ngược lại, hơi thở của anh ta luôn rộn ràng. Anh háo hức chăm chút từng khoảnh khắc, từng biến đổi cảnh sắc trên từng đoạn đường mà chiếc Landu cũ kỹ đi qua.
♦
Cô gái không còn tiền, buổi chiều mua cho cô hộp cơm, gã nghĩ tới chuyện để cô xuống chợ Mỹ Đức, nơi chút nữa xe dừng lại giao những bó lác trói cua. Tới chợ thì trời tối, chủ hàng bảo chờ sớm mai sẽ thanh toán tiền công. Gã lặng lẽ quẳng đôi giày cô gái xuống xe, tiếp theo là túi xách và sau cùng là cô gái, bờ vai u nhã lọt thỏm trong bàn tay gân guốc, chai sạn. Dự nhìn thấy hơi có chút bất nhẫn, ‘tội nghiệp con nhỏ…”.
Cô gái như biết trước kết cuộc này, nên dạt đi nằm bên thềm chợ. Cô co lại trong gió lẻ, vẫn cái vẻ nín nhịn câm lặng nhưng vì chợ rộng quá nên ngó nhỏ nhoi, tha thủi. Gã cố không nhìn về đó dù Dự cứ liên tục chắc lưỡi hít hà. Chuyển hết hàng thì gần nửa đêm, Dự nói, “làm một giấc tại chỗ, lấy được tiền là dọt luôn, khỏi mất công kiếm chỗ ngủ, đại ca…”. Cậu ta muốn nấn ná thêm, biết đâu ông chủ sẽ nghĩ lại, vớt cô gái theo cùng.
Khoanh tròn trên một sạp hàng tạp hóa, Dự thiếp đi trong hy vọng mong manh. Gã ngồi quanh đó, hút thuốc đến mòn mỏi. Mới thiu thỉu, vẫn nghe gió lẻ rờn trên mặt thì cô gái hét lên, nghe như một cái tách rơi vỡ xuống nền nhà:
- Lửa!
Gã và Dự tốc chạy qua cánh cửa khói quặn đen ngòm. Dự không quên kéo cô gái theo. Đi khỏi con đường hẹp bên hông chợ, một đám cháy đã nhói lên trong kính chiếu hậu. Đêm ngưng đọng trên đường về. Gã thấy mộng mị, tiếng thét của cô gái, đám cháy… Những tàn thuốc của mình đã gây tai họa, gã giấu ý nghĩ đó vào lòng.
Sáng hôm sau, ti vi nói rằng chợ Mỹ Đức cháy rụm, chỉ còn cái khung bê tông ám khói, hàng tỉ đồng hóa thành tro bụi, họ đang tìm nguyên nhân. Gã gần như úp mặt vào tô hủ tiếu, cắm cúi ăn. Dự hớn hở thấy mình thoát chết, cứ chống đũa thắc mắc:
- Ủa, tưởng đâu con nhỏ câm thiệt. Tự dưng phát lên nói là sao, trời?!
Người có thể trả lời thì ngồi ngoài xe. Gã ngờ ngợ, không biết số phận đã làm nên đám cháy đó hay chính cô gái muốn vậy. Giờ bỏ cô lại, biết đâu cô sẽ kể cho ai đó nghe vụ cháy ở chợ Mỹ Đức. Cô có câm đâu.
♦
Hồi sáu tuổi, có lần em lén lấy dao cạo râu của cha để tỉa lông cho con chó Lu Lu, không ngờ vì chuyện đó mà cha mẹ cãi nhau, cha chỉ vào em, hỏi mẹ, từng từ khít như máu rỉ qua kẻ răng, “cô lấy thằng nào mà đẻ ra cái thứ này?”. Mẹ em không trả lời, lẳng lặng vào phòng, khóa cửa trong. Ba giờ sau cha tìm thấy mẹ em treo mình đung đưa trên xà nhà. Lưỡi trả lại cho cuộc đời, bởi người không chấp nhận sự vô dụng của nó, nói mà chẳng người nghe.
Em đứng nhìn mẹ, đái dầm vì sợ. Bà Chín ở bên cạnh bịt mắt em, tay bà khô quéo không khép chặt được, trước khi vào phòng thay quần áo, em vẫn thấy gương mặt bị biến dạng của mẹ. Khi em quay lại với cái áo đầm mới màu vàng chanh, bà Chín bắt đầu khóc hức lên, chua xót, “trời đất ơi, kiếp người sao mau như nấu gói mì tôm vậy…?”.
Suốt hai ngày lễ tang của người đàn bà tuyệt vọng vì phát hiện mình bị ung thư dạ dày, như cha em buồn bã kể, em ngồi dựa vách chỗ đặt quan tài của mẹ, lặng thinh đốt giấy vàng mã, từ tay em lửa nối vào lửa, không bao giờ tắt. Mặt em, tay em nóng rực như sắp tươm máu ra. Cuối ngày, bỗng bà Chín níu cha em, hớt hải:
- Sao mấy ngày nay con nhỏ không nói năng gì?
Cha quay lại nhìn em, thoáng nhẹ nhỏm. Sự câm lặng cần thiết cho những bí mật.
♦
Câu hỏi đầu tiên mà Dự chuẩn bị sẵn, rất đơn giản, “nhà cửa ở đâu mà đi bụi, hả em cưng?” nhưng cô gái không trả lời. Cô vẫn không có vẻ gì muốn nói. Giống như tiếng thét ở Mỹ Đức chỉ là một giấc mơ.
Gã nghe trong cái im lìm của cô là sự nhẹ nhỏm của chính mình. Gã không bao giờ hỏi ai một câu tương tự, bởi người ta sau khi trả lời luôn muốn hỏi lại, “còn anh?”. Gã chưa bao giờ trả lời, kể cả với những người đàn bà gã ôm trong lòng. Đó là câu trả lời mặn sẵn, làm rộp bỏng môi, như nước biển.
♦
Từ Thổ Sầu qua thành phố, tránh kẹt xe, nên ông Buồn (là em tự gọi vậy) đã lái chiếc Landu đi tắt qua những con đường ven đô. Em sực nhớ em vừa ngang qua nhà. Cổng cao và nhiều hoa giấy đỏ. Nó đã tinh tươm trước khi em trở về. Và sau đó thì vương vãi những bãi nôn.
Nhiều người mang quà tới chúc mừng cha và em, họ nói một cuộc sum họp được truyền hình trực tiếp trên ti vi làm họ khóc muốn chết. Họ không ngờ cuộc đời của chủ tịch lại nhiều bi kịch vậy, vợ đầu chết, con gái thất lạc gần mười năm trời. Phải có ý chí cao lắm, nghị lực khủng khiếp lắm mới vượt qua những nỗi đau riêng mà lo cho chuyện chung. Em nghe những điều đó với một chút ngẩn ngơ, rồi nôn, muốn chạy tới phòng vệ sinh nhưng chẳng nhớ nó nằm đâu, nên thức ăn lộn ngược ra thảm. Ngày khách nhiều em nôn nhiều lần. Chị Băng nói vậy thì cứ nằm trong phòng.
Thật ra khách cũng không cần gặp em, khách chỉ muốn chị Băng nhớ là họ đã đến, và con chó xù nhồi bông ngoại nhập kia, chiếc vòng bạch kim kia, cái túi xách đắt tiền kia… là của họ tặng cho em. Chị Băng nhớ thì chị sẽ nói lại, khi cha về. Công việc của chị Băng, là làm cha em nhớ tới họ.
Chị còn chuyện quan trọng mỗi buổi sáng, là đi mua thức ăn cho bầy cá sấu trong chuồng. Chị chạy xe máy đằng sau máng hai cái giỏ lặc lè. Người ở chợ quen với cảnh tượng này, ai cũng khen vợ lãnh đạo mà chịu cực giỏi, chớ vợ mấy ông kia, giờ này còn ngoài sân quần vợt. Chị Băng cười, ngồi không trông vào đồng lương của ổng, thì chịu không nổi.
Chuyện chị Băng nuôi cá sấu xây biệt thự ai cũng biết. Ai cũng nuôi cá sấu mà rồi không ai xây biệt thự.
♦
Dự sốt cao, nằm lại một chỗ quen ở Lạc Mai, chuyến hàng đi Đập Đá chiếc Landu trống chỗ. Gã không thấy chênh chao mảy may nào. Gã quen với sự tạm bợ và vô định, ngày mai thức dậy, có thể Dự đã vĩnh viễn về nhà, vì đã tìm được bà nội dù còn sống hay chỉ nắm xương tàn rã. Cô gái đang ngồi đây cũng vậy, cô lên xe bằng cái ý nghĩ bất chợt nào rồi một ngày, vì ý nghĩ bất chợt, cô sẽ lặng lẽ xuống xe. Chỉ còn gã và những con đường. Gã không muốn từ bỏ cái cuộc sống này, khước từ mọi cơ hội trở lại như người bình thường, cạo râu cắt tóc, ăn mặc thẳng thớm chỉnh tề, sáng sớm thức dậy uống càphê, ăn phở rồi chạy xe tới sở làm, yêu một người và lấy làm vợ.
Xe đi một qua một cánh rừng cao su đang thay lá thì mưa nhỏ. Mắt ngó qua cửa kính nhòe nước, cô gái thốt nhiên nói “Biết nước khóc chừng nào rồi?
Giọng cô đầy ngượng nghịu. Gã buồn cười, chắc đã lâu lắm ngôn ngữ rời bỏ cô gái này, và khi chúng ùa trở lại trong một cơn lốc, cô phải xóc xổ khối hổn độn đó, nhặt lấy từng từ chắp nối thành câu.
- Để đào cho.
Buổi cơm tối, sau khi chuyển hàng xuống xe xong, cô giành bới cơm. Gã suýt mắc xương vì chữ “đào”. Gió thổi ngoài kia cồn cào, vẫn là cái thứ gió xé nhỏ đau đớn buốt lạnh. Gã lái xe chậm rãi tìm nhà trọ, cái thị trấn nhỏ bắt đầu đóng cửa tắt đèn.
♦
Nằm nhìn trăng trôi trong rẫy bắp, em từng nghĩ, khi mình nói trở lại, câu đầu tiên là gì?
- Mầy đừng liếm chân tao, nhột lắm!
Câu đó em sẽ nói với con Cò. Nó hay làm em tỉnh giấc bởi sự hí hửng vô chừng, chỉ là bóng trăng, lá rơi hay mùi một con chó cái xa xa… Cái lưỡi ướt lạnh của nó bắt đầu lượn lờ lên gót chân rồi lên đến bắp chân, đầu gối em. Những cơn rùng mình từ đó chạy lên đỉnh đầu, làm nên một vòng sóng ran cả người.
Em ghét cảm giác đó, nên em định nói với con chó. Nhưng rồi em lại nói câu khác:
- Đi.
Đó là buổi sáng em bỏ lại rẫy bắp sau lưng, đi dọc theo con đường chập chờn lau lách, xập xòe bướm bay. Em tới một ngã ba, gặp một cái quán nước thưa người. Con Cò lẽo đẽo đi theo, thật ra cái từ “đi” nó chẳng hiểu, vì em chưa từng nói, nhưng nó biết có cơn đau nào đó đang xảy ra, bằng những tia máu vằn trong mắt, bằng chuyển động của ngón tay, của cái hất mặt, nhíu mày, của bước chân oằn trĩu…
♦
Ba ngày nằm bệnh với Dự như bằng ba năm. Nằm trong chăn, cậu hình dung chiếc xe tải sáng nay đi ngang qua một ngôi miếu nhỏ, bà nội Dự đang nằm ngủ trong đó, nón lá rách úp mặt, đầu gối trên chiếc bị bàng cũng rách. Bảy năm lưu lạc rách nát thân già. Mình đã bỏ qua cơ hội tìm thấy bà, ý nghĩ đó làm Dự không yên. Ngày mai, cũng qua cung đường đó, cái miếu đó, nhưng bà nội không còn ở đó nữa. Những con đường đã cuốn bà trôi cùng chúng.
Dự cầm tấm hình của bà nội, nó đã quăn queo, nhàu nát. Hàng trăm bàn tay đã cầm nó lên, khi trả lại kèm theo những cái lắc đầu. Ngày Dự đi khỏi nhà với cái đầu cạo trọc bóng, như một lời thề, “không tìm được bà nội con không về…”. Mẹ Dự sụt sùi, “thiên hạ mênh mông, biết đâu mà kiếm hả con?”
Dự không tin thiên hạ lại rộng hơn cái thành phố này. Lòng cậu bị một cái dằm thép cháy đỏ trong đó, cháy từ buổi trưa Dự bỏ cuộc bi-a với bạn để chạy về nhà coi chừng bà.
- Bà nội báo hại con quá. Phải bà chết sớm con khỏe.
Dự ngờ rằng, vì câu nói trong lúc dằn dỗi này mà bà nội bỏ đi. Dự phải tìm bà, quỳ dưới chân xin lỗi… Bây giờ thì cũng chẳng nhớ sẽ nói với bà những gì, khi gặp lại. Tất cả đã mỏi mê, Dự tìm bà chỉ vì muốn tìm, vậy thôi.
Nằm quẩn quanh hết giường tới võng, không lái xe, không khuân vác, không lau dọn, trêu ghẹo cô giúp việc của chủ nhà rồi cũng chán, Dự thấy rã rời, ừa thì mai đây tìm được bà nội, rồi sau đó? “Sau đó” là một cái một khoảng trong veo vô tận.
Buổi chiều chiếc Landu quay lại, Dự nhảy ào ra cửa, mừng húm, cảm giác xa lâu lắm rồi. Một phần là do cô gái, khi trở lại, cô đã biết ngọng ngịu nói vài câu ngớ ngẩn, “có mắc rảnh không?” hay “nút áo rời kìa”. Dự mắc cười quên cơn ớn lạnh, lúc lau dọn chỗ sàn xe thủng, cô gái ngậm ngùi “chỗ đây rách rồi…”.
♦
Em chẳng nhớ là mình đã nói câu gì khiến ông Buồn mỉm cười, hôm đó. Bắt đầu từ miệng, nụ cười bùng ra, gương mặt ông rạng rỡ, như có một hòn than sẽ sàng cháy, làm rựng hồng lên những tro lạnh chung quanh.
Lúc lời bật ra khỏi môi, thì em đang nghĩ tới tổ chim sâu trên nóc căn chòi cuối rẫy. Chẳng biết chuyện ở đâu mà chúng nói ríu ran cả ngày. Em hình dung vầy, con chim chồng nói:
- Anh vừa gặp một con voi chết trong rừng.
Vợ nó hỏi ngay, trời sao con voi đó chết? Vậy là giả thuyết được đặt ra, và câu chuyện trở nên bất tận, hết con voi thì tới đàn kiến đang bò đi, chắc là bò tới chỗ con voi, rồi nước suối chảy vòng qua xác con voi, rồi cái tán cây phía trên con voi. Hôm sau thì tới chuyện một cành hoa rụng. Câu chuyện trong trẻo và vui nhộn không bao giờ chấm dứt, bất chấp mưa, nắng, bất chấp gió lẻ gió bầy. Em luôn nghĩ, không biết trên thế gian này có con chim nào tìm tới cái chết vì tiếng hót của con chim khác? Có con chó nào bỗng dưng đâm đầu vào đá vì tiếng sủa của con chó khác? Có con bò nào nhảy xuống sông tự chìm chỉ vì tiếng kêu của con bò khác?
Tiếng nói của con vật không dùng để làm tổn thương nhau, em nghĩ. Cho đến bây giờ em cũng nghĩ vậy. Nên khi em nói theo kiểu - của - chim, đã làm hai người họ phì cười. Có lần em đã học nói giống con người, chỉ vài từ ngắn ngủi thôi, nhưng em mướt mồ hôi, kiệt sức:
- Sao ông buồn vậy?
Và người được hỏi cau mặt, phun một bãi nước bọt. Có vẻ ông không thích tiếng người.
♦
Những lúc cạo râu, gã mới nhìn lại mình. Trong gương là khuôn mặt của cha gã, đôi mắt sâu của mẹ và đôi mày rậm ngang tàng của anh trai. Tất cả họ đã chìm, hoặc trong biển sâu hoặc trong lòng nước Mỹ.
Gã còn lại những con đường. Gã đi làm lơ xe khi chỉ mới mười ba tuổi. Với vài ba bộ đồ, gã đi khắp, đi theo kiểu con vắt trong vườn chuối mùa mưa, chỉ cần một điểm tựa, con vắt búng mình đến một nơi và từ nơi đó, nó lại vươn ra đi tiếp. Chỉ khác là vắt cần máu để sống, gã chỉ cần được đi.
Dự gặp gã lần đầu thì gọi đại ca, bởi “em nhìn là biết dân giang hồ liền…”. Với vẻ lì lợm cố hữu, vong gia thất thổ, lấy xe làm nhà, lấy những con đường làm bầu bạn, lâu lâu ghé qua ngấu nghiến đàn bà, lơ đảng những món tiền kiếm được... gã giang hồ hơn mọi giang hồ.
Giờ dù quanh quẩn đi lại ở mấy chợ quen, nhưng gã vẫn không lấy làm buồn. Những con đường đó vẫn biến đổi mỗi ngày: cô chủ quán đã cắt tóc cao, cây me tây thay lá, thêm cái tủ thuốc lá được đặt bên vỉa hè, những thùng rác được thay mới, một bảng hiệu đã sơn lại, vài cái đèn đường tắt, panô giăng ngang đầu “Giải quần vợt mở rộng” hôm nay đã bị mưa làm rơi mất chữ t…
Chẳng bao giờ những con đường lại biến mất sau giấc ngủ quên trên gác xép, như cả nhà biến mất, khi gã lên tám tuổi.
♦
Đôi lúc em quên là em-có-buồn. Đó là hồi em ở Mai Lâm. Công việc của em là không cho đàn bò bên xóm ghé qua rẫy ông Tám Nhơn Đạo. Vừa ngó chừng, vừa làm cỏ rẫy, bón phân. Tới mùa thì đánh lá mía, hay thu hái bắp, đặt hom khoai mì. Khi nào đói thì vô nhà sau ông Tám, lục cơm ăn, có khi gặp ông đang chẻ củi, làm thơ, có khi nhìn thấy bà ngồi trên xe lăn, coi phim Hồng Kông. Sau đó thì thấy buồn ngủ, lăn ra chiêm bao thấy mình nói chuyện với con Cò, nghe con Cò than, con Vện lúc này chắc thay lòng, không thương nó nữa, nên lãng tránh nó. Việc nói chuyện với con này con kia làm giấc ngủ trở nên hấp dẫn và dễ chịu.
Em ngủ bất cứ lúc nào và dậy bất cứ lúc nào, không ngày không đêm, không một nỗi nhớ nào rõ ràng, và đủ sâu để cho em ngồi nhìn vào. Gió bầy đi rồi gió lẻ tới, mỗi mùa gió có một tiếng nói riêng, nên âm thanh chung quanh em lúc nào cũng thanh thao và trong trẻo.
Lâu ngày, không còn giật mình vì tiếng người nữa. Nên cái bữa ông Tám ra chòi, em không hay. Bỗng dưng thấy mình bị ép chặt xuống tấm ván mối ăn lấm tấm, và một bàn tay lần vào áo em, thì em giật mình. Em gào lên, nhưng giọng tắt trong bàn tay khẳm mùi rượu, thịt và nước tiểu. Cũng không chắc cái âm thanh bỏng rát trong cổ họng em là tiếng người, và nếu cố hết sức, thì từ chòi rẫy choi loi này, chỉ người đàn bà đang ngồi xe lăn nghe thấy. Có thể bà cũng không biết đó là tiếng kêu của em, vì nghe như tiếng chó tru, tiếng chim đêm thảng thốt, tiếng mèo gào trong bụi cỏ…
Em lặng lẽ làm đám tang cho ông Tám Nhơn Đạo. Những gì em giữ cho ông đều biến mất, vụt tắt, nắm xôi ông trao cho em ở góc chợ Mai Lâm, tấm vải ông xé áo mình để bó tay em hôm bị dao cắt, cái góc thức ăn mặn sẵn ông để dành cho em trong tủ chén, giọng ngâm Vân Tiên sảng khoái vẳng từ trong nhà những sớm mai, dáng ông ngồi nhẫn nại gội tóc cho vợ những ngày nắng ấm…
Giờ một người đàn ông xa lạ đang lúi húi trên em, như con Cò thường lè lưỡi liếm để gọi em than thở chuyện đời nó. Lạ lùng, em không còn cái cảm giác ran khắp người. Giống như cảm giác đó đã chết. Từ khi nghe lại tiếng người, mùi người.
Đó là lần đầu tiên em phát hiện ra, vài thứ ở đây tên gọi đều không đúng với bản chất, thí dụ như con Cò thật ra là con chó, con Beo chỉ là một ả mèo mập ú và lười, rẫy bắp nhưng mùa này tàn bắp, chỉ cỏ và gió tơi bời…
♦
Không ngờ bà nội Dự lại ở trên con đường mà phải trên mười lần, chiếc Landu chở hàng xuôi ngược qua đó. Một con đường chạy giữa bờ biển và những ngọn núi đá vôi, nhiều chùa trên núi và nhiều sương khói trong chùa. Dự luôn lặng lẽ khi đi trên con đường này, mà trước đây, cậu ta nghĩ, “chỉ vì thấy nó đẹp, mà buồn…”.
Cho đến trưa nay thì Dự cũng nghĩ do con đường ít người, hiu hắt nên đi qua đây cậu ta thấy bồn chồn. Khi dừng lại, vào quán nhỏ uống thứ cafe pha bột bắp lạt nhách, nội Dự sai một người đàn bà bưng con hải sâm ngang qua, Dự thấy lạ quá gọi vào nhìn cái con vật lơ đãng vật vờ trong nước như một tảng rêu sẫm màu. Nội Dự kêu chị này nói một câu cũng bâng quơ:
- Thấy mặt cậu giống một bà già hồi trước lang thang khúc này.
Dự nhìn chị trân trân, đồng tử như sắp lăn ra ngoài, cậu ta rút tấm hình từ trong áo ra, ngập ngừng, chị ơi có phải người này. Nội Dự đã dặn trước, nên chị bán hải sâm gật đầu liền, thì bà này nè.
Chị dẫn mọi người đến chỗ bà nội Dự. Một ụ đất bên đường, được đắp bằng tấm áo cỏ chen lẫn hoa mười giờ đỏ. Hoa là do chị trồng. Rồi người trong xóm kéo ra, họ gật gù nói đúng rồi.
Dự phục xuống mồ, hoa nát trên tóc, khóc rống lên. Gã lặng lẽ ngồi nhổ cỏ. Cô gái chạy về xe và lấy một chiếc khăn tay cũ, đã phai màu, dúi vào tay Dự, “cái đây để khô...”
♦
Có thứ âm thanh của con người vẫn còn đẹp, đó là tiếng khóc. Có bữa em vào nhà ông Tám Nhơn Đạo kiếm cơm, em nghe bà Tám khóc. Ông đi đám giỗ.
Tiếng khóc của bà óng suốt, đen nhức nỗi buồn, nó không lẫn màu chua xót, màu tức giận, màu tủi hờn… Thăm thẳm. Như một cái biển sâu và tối mà bà ngụp lặn chỉ với đôi tay. Em lặng lẽ bưng tô cơm ngồi ngoài hè, chỗ gộc cây ông Tám kê bữa củi đã bị băm nát, uống tiếng khóc ròng ròng.
Rồi một bữa, lặng lẽ tìm phần cơm của mình, em lại nghe tiếng khóc, đã đục ngầu nhàu nát, sau khi bà nghiến răng:
- Con đĩ! Sao mầy còn lãng vảng ở đây?
Em vỗ đầu con Cò. Đi. Và nó theo em tới cái quán ở ngã ba. Vài người biết em là con nhỏ câm đang giữ rẫy cho ông Tám. Họ ngạc nhiên thấy em định đi đâu đó mà không có tiền. Một người có giọng nói rất dịu dàng cầm tay em nắn mãi, trời đất ơi, thiệt là tội, lạc cha lạc mẹ, về với chị đi, không làm gì nhiều, mà chị lại trả công.
Em bỗng thấy ngẹt thở, bởi đọc được điều gì đó không thật. Em cảm thấy mùi mồ hôi, hơi thở trơn láng, nhịp tim trôi tuột, những thớ thịt rùng rùng nhảy nhót trên gương mặt bén lẹm của chị, bụng em quặn lên, cổ họng cong oằn, em nôn. Cơn nôn đầu tiên bắt đầu ở đó, quán nhỏ ngã ba đường, nhiều bụi và ruồi. Lúc đó em không biết nó sẽ lặp lại dai dẳng sau này, ở những nơi có người, đông người, nơi người ta vẫn hay nói dối.
Con Cò quỳ dưới chân em, từ tốn liếm láp đống nôn, cơm khô và cá khô. Cái lưỡi dài và mềm của nó như thấu vào lòng em đang khô rốc. Em thấy mát rượi từng vệt. Vài chiếc xe dừng lại mời gọi, cánh cửa mở ra lố nhố những người. Cái cảm giác trào ngược lảng vảng làm em đứng yên, tuyệt vọng.
Em quay lại căn chòi, với con Cò. Đốt củi nướng khoai cho qua cơn đói, đêm nằm nghe những sợi nước ngầm chảy re rắt trong lòng đất, tiếng đuôi thằn lằn rụng từ vách xuống, tiếng con chuột ngứa răng cắn nỉ non vào gốc cây, tiếng lá khô lay lắt rơi đậu trên một chiếc lá khô khác… Em đã đi quá xa trong việc lắng nghe những âm thanh sâu thẳm của bóng đêm, đến nỗi giờ em cũng cảm giác được máu chảy trong con người. Em không biết phải làm gì với khả năng kỳ dị của mình.
Ba ngày sau một người tìm đến, anh nói anh người của chương trình truyền hình “Giã từ lưu lạc”, “cha em nhờ tôi tìm em…”
♦
Về nhà. Dự đã rời khỏi chiếc Landu trong một sáng nhiều mây ở chân trời, có vẻ cả ngày sẽ mưa. Không phải tiễn xa, chỉ cần mở cửa xe tải và đu qua, chui vào chiếc xe khách, vậy là thành một cuộc đi. Nhẹ nhỏm. Bình thường. Gã hầu như không vẫy tay. Cô gái ngó Dự, vẻ mặt vẫn lãnh đạm và có chút ngơ ngác. Xe đi rồi cô nhắm mắt ngay, có vẻ cô mệt mỏi vì phải mở mắt nhìn lâu như vậy.
Mưa nhanh chóng phủ lên chiếc xe tải một cái bạt trắng xóa. Gã hút thuốc chậm rãi, thoáng nghĩ về thằng nhỏ phụ xế cũng đang chung một cơn mưa, thoáng nghĩ từ điển cuộc đời mình quá giản dị, nó không có chữ “về nhà”. Cũng như “gửi thư”, “mua quà”, “nhà bếp”, “sinh nhật”…
Dường như từ trang đầu tới cuối, chỉ vài cụm từ như “ra đi”, “lên đường”, và “trôi”.
♦
Xe dừng trước một cái cổng cao, kín bưng, cha nói, vô đi con, đây là nhà mình. Em có chút không tin. Bức vách, mái nhà, cái hàng ba, những viên gạch… tất cả đã thay đổi. Cái hộp giấy đựng sáp đèn cầy em đã giữ lại từ quan tài của mẹ cũng không còn ở trong góc phòng, giữa hai tủ áo. Sáp đèn cầy nham nhở đỏ như máu đông lại, hơ trên lửa, nó sẽ chảy thành dòng. Hồi nhỏ, em đã từng hình dung, nếu đem mẹ ra làm cho ấm, máu mẹ sẽ lại chảy trong người.
Không tìm được hộp sáp, em đã tin thật sự đây không phải là nhà của em. Nơi này thuộc về hai đứa trẻ con của cha và chị Băng, vì chúng biết giữ cho thảm sạch sẽ, biết xoay vòi về phía nào để nước ấm áp, bật nút nào thì ti vi sẽ có những người đàn ông mình trần đánh nhau trong một cái chuồng bằng dây.
Thật may em thấy thích chỗ của những con cá sấu. Ngồi nghe xương của những con cá nhỏ, rạn nhừ trong những cái hàm đầy răng nhọn, và nhìn từng giọt nước mắt chảy ra. Cá sấu không khóc cho những con mồi, dù chúng vẫn chảy nước mắt. Thật kỳ lạ, em không nôn vì điều đó, có lẽ do cá không nhiều máu và không có tim, không mồ hôi không nước bọt, nên em không bị khối hổn độn đó giày vò. Như hôm ở trường quay, khi người ta mời ông Tám Nhơn Đạo vào, và ông nói ông tìm thấy em ngồi đói rách trong chợ như thế nào, ông đã nuôi nấng, yêu thương và che chở em ra sao:
- Vợ chồng tui đơn chiếc, nên tui cưng con nhỏ như con đẻ của mình vậy.
Ông nói. Và một cái vòi đắng nghét từ miệng em phụt ra. Cả trường quay nhốn nháo.
Rốt cuộc, nếu như có gặp những con chim hót dối rằng mùa xuân đã về, những con chó nhìn bóng trăng sủa dối rằng kẻ trộm tới… thì em sẽ không sao.
♦
Hay là đuổi con nhỏ đó đi đi. Trong lúc xoay nhau trên giường, người đàn bà nghẹn ngào bảo vậy. Gã với lấy áo, hỏi, ghen à? Chị bảo không, tại nó ma quái kỳ cục quá. Nhưng gã thấy mình đã xong. Gã ngồi dậy đốt thuốc, chậm rãi nhìn chị, nhìn lại một lượt căn phòng đã che chở cho gã khỏi gió lẻ đêm nay. Những mạng nhện rối tung đòng đưa theo cọng dây điện nối chụp đèn, trên những tờ báo dán vách là những khuôn mặt nhìn đăm đăm vào gã. Mỗi khi vào lại căn phòng này, gã không nghĩ là mình đã đi hàng chục ngàn cây số, trong hai năm quen chị. Những người trên vách vẫn râu vẫn tóc, vẫn một ánh nhìn, một nụ cười, một vẻ đăm chiêu.
Nhưng giờ gã sẽ không còn gặp lại họ, cũng như chị. Chị đã bước qua giao ước, chị yêu. Những ghen hờn bắt đầu giống như xảy ra trong một gia đình, mà gã thì không có phần trong gia đình đó.
Gã ra xe. Cô gái ngơ ngác mở mắt ra thấy trời vẫn tối mịt mù, cô xuống xe vào nhà rửa mặt. Chị chủ nhà ngồi chải tóc, nói vọng ra:
- Ăn ngủ dầm dề với tụi lái xe tải đường dài, thứ con gái tệ hơn giẻ rách…
Cô gái lặng lẽ dấp nước trên mắt, rồi đi. Chiếc Landu sẽ không bao giờ de đít đậu lại ở khoảng vỉa hè lởm chởm gạch vỡ. Người đàn bà kia cũng biết điều đó, nên quăng cây lược xé vào bức vách thẳm suốt những mặt người.
♦
Đôi khi những lời vô tình khiến em nhớ tới một vài thứ em bị mất. Đôi khi nhìn vài người mẫu áo tắm đứng nằm sóng xõa trong mấy tờ lịch phai úa, em điềm nhiên nghĩ, mình đã từng có những da thịt như họ. Giờ thì không còn.
Chỉ nhớ là mất. Không tiếc nuối, không có ý định tìm lại. Giữa em và cơ thể em tồn tại vài mối liên hệ ít ỏi, lúc đói, hay những cơn đau lúc em nôn. Một cơ thể bất động thì đi cùng ai cũng không quan trọng.
Và điều đó làm ông Buồn cho em ở lại trên xe ông, bởi khi em nhắm mắt lại, thì em đã không tồn tại nữa. Em biến mất trong tiếng nước sánh ra khỏi những thùng cá phía sau, cái mui vải lồng gió phần phật, một mảnh thép bị đứt mối hàn va lập cập vào thân xe… Nhưng em thấy vui vì ông không nhìn thấy em, nghĩa là em có thể cùng ông Buồn đi hết đời này, trời này, đất này. Để lâu lâu em lại giở giọng của muông thú ra, và ông phì cười.
Một hừng đông xe tới Lạc Mai, anh Tìm Nội đang đứng đó vẫy tay rối rít, anh nói anh đã chờ ở đây mấy ngày rồi. Ngồi vào cái chỗ ngồi quen thuộc, anh vỗ vai em, bằng điệu bộ hết sức tự nhiên, “phải dạy con nhỏ này ăn nói tử tế cho giống người ta mới được…”.
Anh Tìm Nội luôn nhìn thấy em. Nói giống như người… có lần em cũng nghĩ tới. Đó là lúc em nhớ lại giọng nói của bà cụ có hai túi áo ấm mùi trầu. Nhớ anh Tìm Nội gọi em mỗi sáng, “nè thức dậy đi, đừng có chết à nghen…”. Có bữa nấn ná nhắm mắt thêm chút nữa, anh này bỗng thảng thốt, “ê, bộ chết thiệt hả?”. Nhớ người đàn ông bán báo dạo không quen biết, một bữa ghé mắt qua cửa kính, tần ngần, “nằm vậy tê chân sao chịu nổi…?”
Những gì em đã mất, chỉ tiếng nói em còn nghĩ tới, đôi khi. Ban trưa, nghe tiếng rao chè ơi hỡi ơi hời, hay tiếng gọi nhau vời vợi, em bỗng thèm nói-giống-người. Để khi anh Tìm Nội sụp khóc bên mộ nội, em sẽ vỗ về, bảo “anh cứ khóc, tôi ngồi cạnh đây, tôi chờ”. Em cũng muốn nói với ông Buồn, em thích ông cười, những lúc đó máu chảy trong ông thật sự giống như người sống.
Nhưng nói-giống-người thì em cũng phải nói những lời dối, gây đau, nói để giày vò nhau… Biết đâu, em sẽ vừa nói vừa nôn thốc tháo. Biết đâu em vừa nói vừa khóc.
Có buổi chiều ngồi ở cabin, em nghe trong nhà, chị đàn bà bảo ông Buồn:
- Tâm ăn nhiều đi, cá rô mùa này béo lắm. Hồi sáng tôi kiếm mấy chợ mới mua được mớ bông so đũa này để nấu chua. Biết chiều nay cậu ghé…
Chị còn kể nữa, những chuyện bình thường đã xảy ra sau lần gặp gần nhất, cái cầu thang gãy, nhà đằng kia bị trộm, chị bị sổ mũi mấy hôm… Tiếng đũa khua vào chén. Tiếng muỗng chạm vào đáy tô. Hai con chó hục hặc giành xương. Một gia đình đầm ấm luôn có những âm thanh đó, cả những câu chuyện bình thường vơ vẩn được kể bằng kiểu-của-người.
Em bỗng cuộn lại vì một cơn gió lẻ đi qua, buốt tận xương. Nhưng chỉ khoảnh khắc thôi, sau đó thì ông Buồn ra xe. Tối nay ông không ngủ lại với chị, chỉ vì bữa cơm quá đỗi đầm ấm, như một gia đình.
Ông không thích kiểu-của=người, điều đó gần như chắc chắn. Em không còn băn khoăn gì nữa, em sẽ vĩnh viễn nói kiểu của chim, hay của những con bò…
♦
Dự khoe, “em dọn dẹp lại cuộc đời…”, hôm đó cậu ta leo lên chiếc xe tải với một mái tóc được gọt cao, lộ ra cái gáy trắng kỳ dị trên cái nền đen đúa. Cậu ta trở nên siêng tắm, ăn mặc cũng chỉnh chu hơn. Khi quay trở lại với đời du mục, Dự chỉ nói, “ở nhà cà nhổng không biết làm gì ra tiền, nên theo đại ca thêm ít lâu…”. Dự không kể về cái đêm về nhà đầu tiên, trằn trọc trước một ngày mai trong vắt vô tận, bỗng cậu ta thấy cô gái ẩn hiện phía mịt mù.
Dự nhớ cô, nhớ một cách kỳ lạ, làn da xanh tái, những cơn nôn vô cớ, những câu nói tức cười lộn ruột, nửa ngày ngủ nửa ngày mơ màng… Nỗi nhớ làm đêm thật dài.
Sáng sau Dự lên Thổ Sầu, hỏi thăm cánh chạy xe tải đường dài, họ nói chiếc Landu LT1257 đậu ở ngã tư Xuyên Mỹ hôm qua, nhưng sáng nay đi đâu chẳng rõ. Một ông tài xế quen vỗ lưng Dự, “tao tính rủ đại ca mầy lên biên giới chở mấy chuyến điện máy Trung Quốc. Gặp nó thì nhắn tao muốn gặp bàn chuyện mần ăn…”. Dự gật gật, biết là chạy tới chạy lui thì không tìm được, người Nam kẻ Bắc. Dự nằm chờ ở Lạc Mai.
Ngày dài nối ngày dài, cậu ta bỗng bần thần, có khi nào họ sẽ không quay trở lại, có khi nào trong phút bốc đồng không cơn cớ, đại ca chạy chiếc Landu vào rừng thẳm mãi mãi, với cô gái. Chuyện gì đã xảy ra vào những ngày Dự về nhà? Dự tưởng tượng ra vài tình huống bình thường nhất giữa người đàn ông giang hồ sành sỏi và cô gái lưu lạc, và những vơ vẩn đó bện lại, thành một sợi dây thòng lọng rất dai, từ từ siết nghẹt họng cậu ta.
♦
Có rất nhiều trạng thái tình cảm mà em không nghe thấy, hoặc có thể nghe mà không hiểu đó là gì. Em cũng chẳng muốn mình biết hết vì không chắc em nôn ít đi hay sẽ nhiều hơn. Một bữa xe dừng ở ngã tư chợ, em rời khỏi cabin lau kính xe trong lúc anh Tìm Nội và ông Buồn bốc dỡ những thùng hàng. Chợ trưa đông ruồi, ít người. Thưa thớt vài người đàn ông để trần đánh bài, gần đó có mấy chị bỏ sạp tụm lại tỉa chân mày, nhổ tóc. Một người thanh niên dáng vẻ u ám, gầy nhom ghé lại, thì thầm:
- Em tưởng bỏ tôi dễ dàng như bỏ một con chó sao?
Và một chị gục xuống, trong âm thanh róng riết kinh hoàng. Máu chị phun ra thành vòi từ mũi dao xuyên qua ngực.
Em nghẹn đi trong nỗi ân hận, em đã nghe nhịp tim người đó, hơi thở người đó khi anh ta tiến lại gần. Em nghe trong anh ta đang sôi lên, máu ập vào tim như sóng, và trái tim đó như sắp bục ra. Em cảm giác được nhưng em không biết tên của những biểu hiện đó là Giết Chóc.
Rất nhiều thứ thuộc về con người mà em không biết. Như anh Tìm Nội khi từ nhà quay trở lại, nhịp thở trong anh rất khác, như hoang mang, như thắt thẻo, và trái tim đôi khi lay lắt, lúc lại bồn chồn. Em muốn hỏi đó là gì, nhưng rồi cứ nói kiểu-của-chim:
- bị lạ lắm.
♦
Dự nạt :
- Biết chừng nào mới chịu ăn nói tử tế hả trời. Phải nói vầy nè, “lúc gần sáng mưa lớn quá”.
Cái câu mà cô nói lúc Dự gọi cô dậy là “hồi chút xíu nữa là sáng mưa trôi lắm”. Dự rầy rà suốt. Cậu ta thấy mình hạnh phúc khi rầy rà, cái cảm giác được che chở chăm sóc cho ai đó đã mất từ khi bà nội bỏ đi, giờ trở lại tràn đầy.
Và giờ thì Dự có nhiều thời gian cho việc đó. Chiếc Landu đã bị rã ra ở một tiệm sửa xe, gã muốn nó được sửa sang trước khi lên biên giới, với những con đường núi quanh co. Cô gái buộc phải rời cabin, sống như người, ngủ trong căn phòng kín bưng bốn phía.
Dự hay quanh quẩn chỗ cô gái, nằm dài trên sàn nhà, chỏng chân lên vách, cười tủm tỉm vì thấy mọi thứ gần giống một gia đình, ừ, chỉ thiếu bếp, và tiếng khóc của trẻ con… Cậu ta mong mấy ông thợ sửa xe càng lâu càng tốt.
Nhưng cái cảm giác dễ chịu đó không phải ai cũng có, những cái vách bọc quanh làm gã thấy khó ngủ. Đêm đêm, gã ngồi đu bên cửa sổ phòng trọ, lặng lẽ nghe Dự ngáy vang. Cái ý định trở lại những ngọn núi làm gã bồn chồn. Gã nhớ những con đường như kẽ chỉ bên bờ vực, chạy ngoằn ngoèo trên những triền núi đá vôi. Đôi tay người lái xe như múa. Gã nhớ tiếng còi xe cứ nấc lên theo từng dốc đá, loang mãi ra thành một vòng sóng buồn hiu mỏng dần lên đỉnh núi. Rồi chúng rơi từng chùm từng chùm nặng trĩu xuống đáy vực sâu nhói.
Hồi lái xe khách xuôi ngược cung đường đó, gã thích bấm còi xe, như những tiếng gọi chơi vơi. Gã không phải người gọi, mà cũng chẳng gọi bất cứ ai. Chỉ treo tiếng kêu vời vợi ở lơ lửng tầng trời. Ở đây một tiếng động nhỏ cũng được hồi đáp, hất một viên đá rơi xuống, tiếng đá lăn cũng tinh tang rất lâu. Nhiều khi dừng bên mé vực, gã cất tiếng kêu: “Quyên ơi!” và đá núi vọng lại “ơi…ơi…” rợn ngợp.
Ở trong cái bệnh viện bì bỏm nước rong, gã cũng gọi Quyên ơi hàng trăm lần, nhưng người đàn bà vẫn im phắt, trái tim ngưng lặng và cái bụng đã gò lên tròn tròn sau áo không còn chút xao động nào. Gã đã không ngủ suốt hai ngày đêm trước đó nhưng chỉ cần quay lưng lại, họ cũng bỏ đi. Chỉ còn lại những con đường.
Nỗi nhớ không cơn cớ, cứ gặm nhấm giấc ngủ. Khi sắp thiếp đi, bỗng nghe âm thanh của những bánh xe xé những vũng nước trên đường trong khi vút qua, và còn lại tiếng ì ì rất xa. Gã nhớ ra mình đã xa chiếc Landu hơn tuần.
Gã đốt nối thêm điếu thuốc. Cuối dãy là phòng cô gái, cô đang nôn, cái vách phòng trọ bằng ván ép mỏng tang làm cô quá gần với con người. Gã hình dung vẻ mặt xanh lướt và bất động của cô. Gã đẩy cửa bước vào.
♦
Âm thanh của những cái cửa khép lại không bao giờ giống hệt nhau. Bởi nó không đơn giản chỉ là tiếng gỗ nghiến vào nhau, hay cú cọ sát của kim loại gỉ sét, mỗi cánh cửa khép là một ám ảnh.
Em nhớ cánh cỗng nhà, hôm em khép lại và đi. Nó không một tiếng động, êm ái như một cú lướt. Nhưng em nghe tiếng thì thầm của chị Băng trong phòng hai đứa con mình
- Con nhỏ đó thể nào cũng chết sớm. Tụi con buồn làm gì.
Dường như những đứa trẻ băn khoăn vì những món trang sức đắt tiền mà em đang treo trên người, và vài phút cha ghé qua lặng lẽ xoa đầu em mỗi khi ăn tối xong. Bàn tay cha rất mềm, có lần vì bận bắt tay với vài người quen mà ông để tay em trôi tuột trong một hội chợ đông người, và cuộc đi bắt đầu.
Giờ thì em tự xé tay mình khỏi tay cha, bằng một lần khép cửa.
Ở cái chòi trong rẫy gió Mai Lâm thì không có cửa, chỉ là một cái mành may bằng bao ximăng, cứng và sột soạt suốt đêm, không phân biệt được âm thanh đó do con Cò, gió hay của con người. Nó trơ khốc như nhau.
Rồi khi ông Buồn bước vào căn phòng trọ hẹp và ngộp thở, em bỗng phát hiện ra âm thanh cửa cũng liên quan nhiều tới bàn tay khép cửa. Nghe vẫn gọn ghẻ, nhẹ nhàng như khi ông dập cửa xe.
Ông lại gần em, bàn tay đặt lên cổ em làm ấm ran chỗ đó, rồi ngồi bệt ở cạnh giường, hút thuốc. Nhịp thở sâu và tối của ông rất gần làm khỏa đi khối hổn độn của đôi người đang thề thốt, hẹn hò ở phòng bên. Mọi thứ đã lắng lại, và dần một êm đềm, em nhìn gương mặt lóe lên theo đốm lửa trên môi ông, cho đến khi mỏi mê, em gấp mình lại thành ba khúc, như trên chiếc Landu, và ngủ. Khi khép mắt vẫn là đốm lửa lập lòe.
Sáng sau em dậy rất trễ. Anh Tìm Nội không gọi.
♦
Con đường chỉ dài chừng ba mươi bước chân. Đi hết quảng đó lại hiện ra con đường khác cũng ngắn ngủi. Sương vây bủa, mịt mù. Lâu lâu nghe tiếng xe máy chạy lướt qua, ma quái, chỉ nghe âm thanh rồi một khối đen xé sương lao tới, sau đó vẫn còn cảm giác lờ đờ quanh thắt lưng, nhưng sương đã phủ mất người.
Gã đi đằng trước dẫn đường, cái đèn pin trong tay loang loáng. Đoạn đèo từ đây lên đỉnh Puvan nhiều cua khúc khuỷu, thắt ngặt. gã đã lái xe đi qua đoạn khó khăn nhất, giờ thì trao tay lái cho Dự. Gã nhớ con đường này, nhớ từng tảng đá, từng khúc quanh. Mười năm gã múa đôi tay mình trên tuyến đường này, dù sương cố tình lấp đi bằng cái áo đục ngàu của mình, gã vẫn nhận ra, dưới chân mình là mé vực. Gã huơ huơ đèn. Dự lờ đờ trôi theo.
Tay Dự tê cóng, vì lạnh và vì các búi cơ căng ra lần dò theo ánh đèn hiệu phía trước. Cậu ta thấy mệt mỏi rã rời. Không biết bao lâu thì mới ra khỏi sương mù, ra khỏi con đường rối bời này. Bên kia núi có mặt trời, có lửa hơ ấm lại người, có quán cơm với những thức ăn quen. Qua khỏi ải sương này, có ai đang đợi Dự?
Không ai cả. Bên kia núi, với Dự còn mịt mù hơn, óng ả một nỗi tuyệt vọng, không một bóng người. Bảy năm Dự cắm cúi đi trên đường vì tin có bà nội chờ mình ở đâu đó. Rồi bà nội mất, Dự có cô gái đưa tay vẫy đằng xa. Nhưng một sáng thức dậy Dự thấy ruột gan mình bị bứt lìa bởi người đàn ông đang vun vai khoan khoái bước ra khỏi phòng cô. Và những tối sau tiếng cửa khép mở cọt kẹt tiếp nối, Dự chong sự mất mát nghẹn ứ lên đỉnh đầu.
Cô sẽ không bao giờ ở trong ngày mai của Dự, dù vẫn ở bên Dự phút này, nằm thiu thiu. Trên người cô đắp tấm áo của gã đàn ông đang huơ đèn đi trước chừng mươi bước. Dự bỗng nghĩ, nếu mình cho xe lao vào anh ta, nếu mình lao vào như một tai nạn trong lúc mình không kiểm soát, trong lúc sương mù rình rập, trong cái lạnh cóng tay. Mình chỉ cần trôi nhanh hơn, và anh ta thì nằm xuống mãi mãi với những con đường, như anh ta đã nói, một chiều nào đi qua đám tang, Dự hỏi, tới hồi đại ca chết, đại ca chôn ở đâu? Anh ta thản nhiên, bên đường.
Dự mím môi, nếu xốc tới thật dài, bên kia núi biết đâu có người đang đợi.
♦
Em nghe một đoạn âm thanh rất nhanh bên mình, và em kịp nhớ nó giống hệt của người thanh niên xoáy ngọn dao vào tim chị đàn bà giữa chợ. Lòng em cồn lên, và cơn đầy ứ bắt đầu tràn ngược lên cổ họng. Cách một khoảng sương, ông Buồn đang chậm rãi làm tín hiệu mở đường.
Ông không biết xe đang lao vào ông. Trong cơn buồn nôn đắng đót, em ngã người giằng tay anh Tìm Nội và kiệt sức níu chiếc xe trôi nghiêng về phía mình, phía không ông, không ánh sáng. Cây cỏ ngã rạp vẽ nên một con đường chông chênh sâu hút. Và em thấy mình thực sự trôi, bồng bềnh và mộng mị trong một không gian tối dần, tối dần và rồi, bóng tối bắt đầu vô tận.
Trong đen thẳm, em nghe Tìm Nội nói, thật ra anh bây giờ đã là một con ma ấm ức, “con nhỏ này… tôi chỉ định giỡn thôi mà…”.
Sao người ta có thể đem chuyện giết nhau làm trò đùa? Em, cũng là con ma, hoang mang với một điều thuộc về con người mà em vừa biết. Một niềm tuyệt vọng chậm rãi kéo cái kén bọc lấy em, từ đây vĩnh viễn ông Buồn không bao giờ nghe em cất tiếng, bằng kiểu của chuột, của chim, của những con bướm, con kiến, của những sợi nước dưới suối, của những cái lá trên cành… Nụ cười sẽ tắt lịm mãi trên môi ông, ý nghĩ đó vắt máu em ròng ròng như người ta vắt một chiếc áo ướt.
♦
Sương khép dần, tự vá víu cái khoảng trống mà chiếc xe tải để lại trên khúc đường trơn ướt. Gã chết điếng bên bờ cỏ, mặt ướt đầm đìa. Gã đã không ngủ quên, không quay lưng lại, thậm chí không chớp mắt, cũng không sao ngăn lại một cuộc đi. Lần thứ ba gã bị từ chối, bị bỏ lại với những con đường, chúng không bao giờ thảng thốt hỏi “Sao ông lại buồn?”, chúng cũng không biết âu yếm ôm choàng vai gã để chia sẻ nỗi vui bất chợt.
Gã lần ra mép vực, trong cơn thèm muốn yêu thương người, trong nỗi mất mát tê dại, gã cất tiếng gọi chơi vơi, rã rời trong gió lẻ, sương mù, đá và cây…
Chỉ còn lại là mây mù
Nguyễn Ngọc Tư
Ngủ trưa dậy rồi mà chiêm bao vẫn chưa dứt. Tôi ngồi trên bậu cửa sổ ở tầng áp mái. Mây bắt đầu trùm phủ lên tôi, cứ vài ba phút đậm đặc mù mịt, rồi gió thổi xiết, lướt qua mặt chỉ còn một lớp mây mỏng tang, gờn gợn. Thị trấn như cô gái đang nghịch ở phòng thử quần áo, thoắt xuất hiện với vẻ kín kẻ trầm mặc thoắt sau lại tung tăng trong bộ áo choàng mỏng manh gợi cảm, vài vạt nắng nắng lấp ló quanh chân váy. Tam Đảo hụp xuống một dòng sữa trắng đục rồi rồi trở lại bằng những chóp nhọn, những mái nhà ngói đỏ, sau đó là ô cửa sổ còn muộn màng một ngọn đèn, rồi thì những giàn su su xanh ngắt cũng hiện ra, với vài cái lưng áo đang cúi lom khom.
Hai anh bạn đang chụp ảnh ở cửa sổ bên cạnh ngây ngất trước cuộc trình diễn của mây mù. Một món quà trước khi chúng tôi xuống núi. Cuối cùng thì Tam Đảo đã giữ tròn lời hứa, tặng cho người chang chang đồng bãi Tây Nam Bộ một ít mộng mị, đa cảm của mình. Ở bậu cửa sổ, thật khẽ khàng thì tay sẽ giữ được một vốc mây trong vài giây. Nhìn đoàn vận động viên đua xe đạp đang lao vút qua các triền dốc, màu áo, nón cứ chấp chới trong mây, nghĩ, chẳng biết cái chị áo xanh sáng qua đứng bên đường khóc một mình, hôm nay đã hết buồn chưa.
Ba ngày đi rong thị trấn, cô gái đứng khóc bên chiếc xe đạp dưới cái bờ đá đòng đưa vài bông bí vàng rực rỡ là hình ảnh duy nhất làm tôi nhớ. Cảm giác còn lại là chờ đợi, tìm kiếm, hy vọng… vào một cái gì đó không rõ ràng. Và rồi mây mù đến, làm dịu lại cái ngột ngạt những ngày qua, vì chờ đợi hơn nửa giờ để được phục vụ ly cafe lạt có giá từ mười lăm đến hai mươi ngàn, vì những quầy chuối vàng rực anh họa sỹ hí hửng mang về có vị… chua loét (sau này nghe nói người ta tẩm một loại hóa chất gì đó cho chuối được vàng óng, nên chuối non vẫn cứ vàng óng), vì những ngôi đền, miếu cửa luôn treo ổ khóa gỉ sét với mấy dòng bên cạnh, “quý khách muốn vào viếng đền thì liên hệ với XYZ…”, vì những anh chị bán hàng cáu kỉnh, quạu quọ, xua khách như… ruồi, “muốn mua hàng miền Nam thì về miền Nam mà mua, ở đây đếch có”…
Bỗng thấy thiên nhiên thật nhọc nhằn, đẹp để xoa dịu, bù đắp cho những vết xước do con người gây ra cho con người. Hoa dại tím ngằn ngặt. Một tán cây bỗng rực đỏ giữa biển màu xanh bên dưới vực. Rêu óng mượt trên mảng tường biệt thự bỏ hoang. Nắng trong trẻo dịu dàng, không gợn chút khói. Và mây mù nữa, chảy ròng ròng suốt một buổi chiều và cả những hôm sau. Nhưng tôi vẫn còn cảm giác thiếu vắng khi đi lang thang trên những con đường dốc. Mây thôi, với tôi chưa đủ.
Tôi thèm được thấy người. Ở đây thiếu vắng những nụ cười. Trên những con đường chi chít hoa dại hiếm hoi mới thấy vài trẻ con chơi, kẹo buồn xo trong túi vì không vơi đi mấy. Có lúc đứng nhìn ong bay trên giàn su su cứ thèm có cô gái nào đó ló đầu ra thẹn thùa cười, thèm thấy bà mẹ nựng nịu đứa con nhỏ của mình ngoài hiên, thèm đi qua dãy phố rộn rã tiếng xoong chảo khua, tiếng cười đùa. Qua con dốc nhỏ, gặp một cụ già kèm nhèm ngồi nướng bánh đa, bỗng mừng quá sức, vì sập tối thì đừng mong gặp được những chậu than nhỏ ở ngoài đường như vầy. Thị trấn sạch sẽ, phẳng phiu đến đơn điệu, vô cảm, phố chỉ rặt khách sạn và quán ăn, chợ lum khum nhỏ xíu với vài quầy hàng lưu niệm với những món hàng quen thuộc có thể gặp ở bất cứ đâu trên đất nước này.
Bên kia những cái cỗng rào cũng có thể nhận được một nụ cười, nhưng ngay sau đó là lời mời chào, “vào nhà hàng em ăn cơm...”. Tôi nhìn những khách sạn im ắng và thưa thớt bóng người, tự hỏi khi mùa đông trở lại, khi mây mù vây bủa dày đặc, nhà này không còn nhìn thấy nhà kia, thị trấn này sẽ trùm chăn nằm ngủ? Khách du lịch thưa thớt. Ông chủ của những nhà hàng khách sạn về Vĩnh Yên, Hà Nội… sau khi cắt đặt một vài người ở lại trông nom. Đây là nơi họ kinh doanh, không phải nơi họ sống.
Ông già bán một quầy nước nhỏ đìu hiu ven bậc thang xuống thác Bạc, bằng câu chuyện đời mình, lại giải thích được tại sao thị trấn có vẻ không có sức sống, dù thơ mộng bên sườn núi. Những người dân lao động đã được (hay bị ?!) chuyển xuống khu dân cư dưới chân núi. Theo hướng ngón tay quăn queo, vượt qua những ngọn cây xa xa, là xóm ông, nơi mỗi ngày ông già bảy mươi tuổi cắp thùng nước đá đi về gần mười cây số để kiếm sống.
Tôi nhìn về phía nhà ông, nghĩ, ở đó, tôi mới nhìn thấy khói le lói từ những bếp than tổ ong sắp bắt lửa, mới nhìn thấy một ngày thường, thấy mồ hôi trên những khuôn mặt lam lũ, nhọc nhằn, nhưng gần gủi, thân thiện. Ở đó, tôi mới ghi được những bức ảnh trẻ con mắt trong veo níu nhau ríu rít cười phô răng sún.
Chứ không phải chỉ có mây mù...
thuộc về má…
Tạp văn
Nguyễn Ngọc Tư
Đưa má ra bến xe, giỏ xách đứt quai, đồ đạc đổ lủ khủ ra đường, hai má con nhặt nhạnh giữa những làn xe xuôi ngược. Chị càu nhàu, “trời đất ơi, má mang về làm chi mấy thứ này?”. Cái chị nói là những chai lọ rỗng đang nằm lăn lóc. Má chỉ cười, hối chị mau mau thu dọn, đừng có ngồi đó nhăn nhó như khỉ ăn gừng.
Ngồi sắp xếp lại đồ đạc bên vỉa hè, má mới nói, coi đồ bỏ vậy mà trong quê quý lắm, má đem về để chiết dầu hôi, nước mắm cho bà con trong xóm. Bất giác chị nhớ tới cái tiệm tạp hóa nhỏ nhà mình, nhớ những khách hàng chân dính bùn chỉ dám đứng ngoài sân, bồn chồn gọi vào, “bán con hai ngàn đường, năm trăm đá cục…”. Chị thấy cơn bực bội dịu xuống.
Ngồi với má, lặng lẽ chèn những cái chai vào mấy giỏ xách chật cứng, chị nhận ra sự chu đáo của đứa em gái đang trọ học ở nhà mình. Em đã chuẩn bị cho má rất nhiều thứ. Những chai lọ là do em súc rửa. Và trong giỏ, như mọi khi là trà, xà bông, bột ngọt, thuốc lá, báo cũ, mớ củ cải muối nằm còng queo, những bộ quần áo trẻ con nhà chị đã mặc qua mà má nói đem cho mấy đứa nhỏ nghèo. Bỗng dưng chị thấy ngượng ngập.
Những thứ má cùm nụm cùm nịu mang về, một nửa là phế thải trong nhà chị. Một nửa, như bột ngọt, đã lâu không có trên kệ bếp, vì những khuyến cáo ảnh hưởng đến sức khỏe, đến trí nhớ. Thuốc lá ba chị hút, là loại không đầu lọc, rẻ tiền, khói thuốc vo tròn những cơn ho khan rát ngực. Những cái bánh bột đậu ba má chị hay ăn trong lúc uống trà, cũng đã lâu chị chẳng mua về, bởi trẻ chê không ngon.
Những gì chị từ bỏ, má lại nâng niu. Nhà thay ti vi mới, chị gửi cái cũ về, má mừng nói hồi nào giờ mới thấy Lệ Thủy đánh má hồng, tô son môi. Nhà chị lót gạch mới, ba chạy xuồng máy ra chở gạch cũ về lót đường đi, vạc giường cũ đóng vách chuồng gà. Xấp báo mang về từ gầm tủ nhà chị, má nhen lửa, má gói hàng cho khách. Những bữa chị về ghé qua bếp, thấy ơ cá kho mặn quắt, má kho bằng loại nước mắm giá chỉ vài ba ngàn một lít, má cũng biết đó chỉ là nước muối nhưng má cười, “xóm mình cũng ăn như nhà mình…”
Cũng những bữa canh rau suông đậm bột ngọt để nuốt xuôi cơm cháy, để giả vờ cái vị ngọt của thịt mà vì chợ xa, vì nghèo… lâu lâu mới hiện diện trong mâm cơm một lần. Cũng những chai nước đường thêm thắt chút vị coca mà đứa trẻ năm tuổi thành phố đã biết nguây quẩy từ chối. Cũng những chai (giống như) nước tương cáu cặn không xuất xứ, không hạn dùng.
Thành phố xem chúng là rác. Má biết điều đó, thậm chí chị đã chỉ cho má cách từ bỏ chúng. Nhưng má chỉ cười buồn, tiền nào của nấy, và người nào thì tiền nấy. Ở quê, mua món gì là người ta cầm mấy giạ lúa đi mua, nên tiền nặng lắm… Người đời luôn có những khoảng cách, không bao giờ có công bằng, chị biết. Nhưng chị đã không nghĩ tới, ranh giới đó cũng tồn tại giữa chị và má, và bà con họ hàng quê xứ.
Giờ thì khoảng cách đó rõ ràng hơn bao giờ hết. Ngồi chờ xe lăn bánh, cạnh má và mấy giỏ xách lỉnh kỉnh, giữa những hành khách nhếch nhác mệt mỏi khác. Chị nhìn chiếc xe chút nữa đây sẽ đưa má về quê, nó cũ nát, gỉ sét, nóng hập và loang lổ bụi. Chiếc xe có cánh cửa sắp rơi ra và một mảng kính rạn nứt này sau khi mỏi mòn chạy trên những quốc lộ liên tỉnh, người ta mới đem nó về những con đường huyện lị heo hút. Và má, những người dân quê má vẫn lấy làm hạnh phúc chen chúc đi về.
Trên chuyến xe xốc xếch đó, có bà mẹ trẻ đang ngồi cạnh chị đây, đang nâng niu xếp ra xếp vào mấy gói kẹo sặc sỡ phẩm màu, chắc chắn cũng rất đậm đà vị ngọt của đường hóa học. Nhưng dù chúng được làm bằng gì thì chúng cũng được chào đón bằng tất cả nỗi vui mừng, chờ đợi, thèm thuồng của những đứa trẻ ở nhà. Chúng cũng ngọt lịm cả một ký ức, mỗi khi nhớ lại, như chị nhớ lại tuổi thơ mình.
Những viên kẹo đã từng ám ảnh chị, giờ đã thuộc về má, làng quê của má, thế giới của má. Xa xôi…
Những dấu hỏi phai…
Nguyễn Ngọc Tư
Cậu Ba nhắc, hồi nhỏ tao sợ chở con nhỏ này đi chơi. Nó hỏi bất tận làm tao trả lời muốn tắt thở.
Trong ký ức của cậu, cứ đặt con bé lên yên sau xe đạp, ngay lập tức nó sẽ thẻ thọt, cậu ơi, sao cái áo cậu có màu xanh vậy, sao mồ hôi cậu có mùi chua chua vậy. Cảm hứng từ cái lưng áo to bè phần phật trước mặt nó, những câu hỏi bắt đầu tuôn tràn. Nước ở đâu mà ông trời lấy làm mưa? Nếu cậu chở con đi tới mai thì có hết đường chưa? Tại sao con chuồn chuồn biết bay mà người ta không biết? tại sao con cá lội dưới nước không chết ngộp? Tại sao cậu cười với cái dì đẹp kia mà không cười với dì xấu xấu? Sao cậu không làm… con gái để thắt bím cho dễ thương?
Sau buổi đi dạo về thì cậu mệt đứt hơi. Bởi nó luôn luôn nảy ra câu hỏi mới sau khi cậu trả lời. Trả lời bừa bãi thì ân hận, quấy quá cho qua tất nhiên con bé không chịu, trẻ con thích khám phá tận cùng, đi đến tận cùng. Bởi trẻ con tin có tận cùng.
Con bé ám ảnh cậu bằng những câu hỏi miên man, hỏi bất tận, hỏi dai dẳng… giờ đã lớn, vẫn tin có tận cùng, nhưng không hay hỏi nữa. Lâu lâu nhìn lại trong mớ đồ lưu niệm, thấy cái chân dung mà cậu Ba từng vẽ nó trên cuốn tập học trò, cậu khoanh tròn vo, sau đó đánh dấu chấm hỏi ở giữa, nó tự hỏi, đây là mình hồi nhỏ?
Bây giờ vẽ nó còn đơn giản hơn nữa, chỉ bằng một nét chì khoanh tròn là xong. Những câu hỏi khum khum như cái lưỡi câu nó không còn mang theo bên mình. Mười hai tuổi hỏi cô giáo sao đáp án của em giống hệt của bạn mà em ít điểm hơn. Cô cười chát như lá sung, tại bạn có đi học thêm. Nó định hỏi nữa nhưng nụ cười chát ngấm của cô giáo làm nó tần ngần.
Con bé bắt đầu từ bỏ một khả năng thiên phú của mình, khả năng hỏi. Bởi càng lớn càng hoang mang trước cái gọi là tận cùng, hoặc không có tận cùng hoặc tận cùng là cái gì đó mơ hồ, nhưng buồn. Giống như bóc vỏ từng lớp vỏ của củ hành, để tìm ra cái chân lý nhỏ xíu ở trong, đôi khi, nó cũng héo quắt mất rồi, sau một hành trình cay xé chảy ròng nước mắt. Hồi mới đi làm cứ muốn hỏi cho bằng được, tại sao cái anh không biết chuyên môn gì hết mà ngồi vung vinh ở ghế trưởng phòng. Đồng nghiệp cười, vẽ một cái hình rộng trên đầu, hình dung như cái dù. Dấu chấm hỏi quăng ra bỗng như xóc ngược cái móc nhọn vào cổ, nghe rát.
Thôi không hỏi như trẻ con nữa. Người ta ai cũng vậy thôi, cũng lớn lên, cũng thôi ngây thơ hồn nhiên, cũng biết ít nhiều, cũng nín… hỏi. Cơ quan quy định mặc áo đỏ không còn ai hỏi, “tôi thích màu xanh, tôi có thể mặc áo xanh?”. Phường gọi nộp thuế thì nộp, chẳng thắc mắc, số tiền này năm ngoái các anh dùng làm những việc gì? Đọc tin sáng thấy nói chuyện chạy chức, câu hỏi cứ nhảy nhót trên trang báo, vậy thì cái chức đó mang lại cho người ta lời lãi bao nhiêu mà họ đầu tư hàng trăm triệu, hàng tỉ? Mà, vị công chức nọ thu vốn bằng cách nào, chứ tiền lương cộng lại sao đủ số tiền bỏ ra?
Hỏi, ít ra sẽ làm cho người ta giật mình, toát mồ hôi tìm câu trả lời. Nhưng ngay cả chị bán vải ngoài chợ không lên tiếng hỏi, con bé kỹ sư nín thinh, cậu Ba nuôi cá dưới quê chỉ chặc lưỡi cho qua... Không hỏi vì đã ngấm ngầm biết, hoặc từng hỏi mà không nhận được câu trả lời, hoặc nhận được câu trả lời xa xa sự thật, hoặc đã đi đến tận cùng sự thật mà không được nói ra…
Một cộng đồng cúc cung im lặng. Và những người lớn cứ viết trang đời mình bằng vài dấu hỏi ít ỏi, chỉ dấu chấm, dấu phẩy, chấm than và nhiều lắm những cái chấm lửng thẩn thơ trên giấy. Nghe trẻ con hỏi chuyện trăng sao trên trời mà nửa sợ nửa thương. Trẻ con ơi, trước khi khôn lớn giùm ơn chia sẻ ban tặng tụi người lớn chúng tôi sự khát khao… hỏi.
Nỗi nhớ con người…
Nguyễn Ngọc Tư
Hôm ông qua đời, người nghệ sỹ kể rằng, có lần anh được ông quàng vai đi vào rạp hát. Anh cảm động lắm, ‘tôi có cảm tưởng mình đi coi hát với ông chú ông bác họ hàng mình chứ không phải được ông thủ tướng cặp cổ sóng đôi!”. Cử chỉ thân mật này có lẽ anh đã nhận được hàng trăm lần trong đời, từ bạn bè, đồng nghiệp, từ khán giả… nhưng cái quàng vai của buổi chiêu đãi hôm nào đã khiến anh nhớ mãi, bởi người đặt tay lên anh là một quan chức cấp cao.
Người nghệ sỹ dường như có chút ngạc nhiên. Trongký ức mà người ta kể về ông trong những ngày này, trên báo, đài hay trên blog, đều là những câu chuyện cảm động pha lẫn ngạc nhiên. Chị thanh niên xung phong nhớ hoài hình ảnh ông lãnh đạo thành phố đi xe Jeep, không còi, lặng lẽ đến thăm doanh trại, ăn cơm chiều đạm bạc cùng họ. Anh nhà báo ngạc nhiên tại sao mình chụp được bức ảnh ông thủ tướng đứng… một mình. Tôi cũng vậy, cũng đầy trân trọng khi nhìn thấy ông tự cầm... cây dù đi dưới mưa thăm đồng bào trong một ngày bão lũ. Đôi khi người ta quên ông ấy cũng có thể làm như vậy, bình thường như một con người.
Và nếp nghĩ này, đã khiến những việc làm giản dị nhất trở thành nỗi nhớ sâu sắc nhất. Gọi tên một vị quan chức, người ta nghĩ trước hết ở ông ấy (hay bà ấy) chất việc mà quên chất người. Tôi không biết vì sao. Có thể từ hồi trẻ con, tôi chỉ biết những anh hùng những lãnh tụ bằng công việc, bằng chiến công. Họ hoàn hảo. Không anh hùng nào kể tôi nghe về tuổi trẻ của mình, như Ernesto từng kể. Tôi không gọi ông bằng Che Guevara, vì năm ông đi xuyên châu Mỹ la tinh bằng xe gắn máy, ông chỉ là một sinh viên trường y 23 tuổi, vô danh, bị chứng bệnh hen suyển hành hạ, thích đi đây đi đó, dù chỉ bằng xe đạp Micron hay chiếc La Poderosa II tàn tạ. “Vị vua của đường phố”, như ông tự nhận, viết cuốn nhật ký về những ngày lang thang phiêu lưu của mình. Đi và đói. Ăn cắp rượu. Xin ăn bằng đủ thứ mánh khóe. Tán vợ của người khác bị rượt chạy dài. Bắn chết con chó cưng của chủ nhà vì tưởng là… báo. So đo tị nạnh khi bạn đường được phụ việc trong bếp còn mình thì phải chùi rửa… bồn cầu. Ernesto trẻ con, dại dột, ngang tàng, lãng mạn và đôi khi liều lĩnh. Đầy chất người.
Nhưng những anh hùng của đất nước tôi, sự hoàn hảo đã đẩy họ tới một thế giới xa vắng. Tôi càng lớn càng thấy họ xa hơn chút nữa. Họ không ăn sáng sì sụp ở những cái quán cóc bên đường, họ không đưa con cái đến trường, họ không dầm mưa cuốc giồng trồng rau… như ba tôi thường làm. Cuộc sống của họ có cái gì đó bí ẩn, cách biệt, trong những bức tường công sở cao nhiều chốt gác, trong những đoàn xe công du có còi cảnh sát mở đường, trong những buổi hội nghị quan trọng và long trọng, trong những cuộc đi đông đúc, cờ hoa lộng lẫy…
Tôi không biết họ có khi nào buồn ngẩn ngơ trước màu nắng xế, họ có vui vẻ hát vống lên khi thấy hào hứng, yêu đời!? Đôi khi nghe mấy bác nông dân vui vẻ nhắc một ông chủ tịch nào đó vừa xuống thăm dân, “ổng làm lớn mà ngồi chèp bẹp ngoài vườn nhậu cá lóc nướng trui với tụi tui, thấy thương hết sức…”. Mấy ông già khen, mà sao nghe buồn, giữa “làm lớn” và “ngồi chèm bẹp ngoài vườn…” có gì tương phản, mà người dân tấm tắc như lâu lắm mới thấy, như hiếm hoi, như như một sự kết hợp kỳ tích?!
Khi điều bình thường trở thành điều ngạc nhiên, chuyện đó đương nhiên đã không bình thường. Chúng ta ngạc nhiên một ông chủ tịch tỉnh đi làm bằng xe… máy (ông này mà đi bằng xe đạp thì bảo đảm bà con sẽ ùn ùn chạy theo coi, như coi… xiếc). Chúng ta reo mừng khi có anh cảnh sát giao thông cự tuyệt tiền hối lộ. Chúng ta ngỡ ngàng khi thấy quan chức cấp cao vừa về hưu tự... trả tiền cafe trong quán nhỏ xiêu vẹo bên đường. Chúng ta vẫn nhận ra ông và yêu quý ông hơn vì điều đó. Cốt cách của một vị lãnh tụ không dựa vào cravat, hay chuyên cơ ông đi, hay chiếc xe ông ngồi… Giống như bản chất người nghệ sỹ không phải ở lối ăn mặc, lối nói chuyện, hay cách phì phèo điếu thuốc…
Giống như phong cách của anh công an không phải là mặt mũi lạnh tanh, chẳng nói cười. Tôi đã từng kể câu chuyện chị bán dạo ở vỉa hè tấm tắc hoài một anh công an biết cười. Cái biểu cảm bình thường nhất của con người, là cười, bỗng một hôm người ta thấy không bình thường nữa. Và chúng ta thấy xa lạ, bỡ ngỡ và cảm kích những cái quàng vai, những lời thân ái, những bàn tay nồng ấm, những câu chuyện bông đùa…
Thì ra đã lâu rồi, chúng ta vẫn đi trong nỗi nhớ thênh thang, nhớ người và những gì thuộc về người...
No comments:
Post a Comment