Người Trẻ Mỹ Gốc Việt Lãnh Đạo Các Phòng Thương Mại Mỹ Việt
Thanh trúc, phóng viên RFA
2011-01-27
Vào tuần lễ đầu tiên của năm 2011, một hội nghị với chủ đề Sự Tăng Trưởng Của Tiểu Thương Và Nghệ Thuật Kinh Doanh, do Ủy Ban Khởi Xướng Các Vấn Đề Người Mỹ Gốc Á Và Thái Bình Dương của Nhà Trắng tổ chức tại vùng Silicon Valley, còn được mệnh danh là thung lũng điện tử của thành phố San Jose miền Bắc California.
Source Wikipedia
Các cơ sở thương mại Việt Nam ở Little Saigon, Cali
Trong gần bảy trăm người đến nghe bộ trưởng Bộ Thương Mại Mỹ nói chuyện cùng với một số nhân vật quan trọng trong hành pháp cũng như lập pháp, điển hình dân biểu Mỹ gốc Nhật Mike Honda mà kiến thức và sự hiểu biết về ngành thương mại của người Châu Á khiến cử tọa đặc biệt chú ý, người ta thấy rất đông đại diện các doanh nghiệp, các công ty, các hội đoàn kinh doanh của người Mỹ gốc Á và Châu Á Thái Bình Dương, bên cạnh những khuôn mặt trẻ trung Mỹ gốc Việt trong tiểu bang hay đến từ các nơi xa.
Những người trẻ ấy là giám đốc điều hành hay chủ tịch hoặc thành viên các Phòng Thương Mại Mỹ Việt, một danh từ khá quen thuộc nhưng hãy còn xa lạ vì thiếu sự tham gia của giới tiểu thương Mỹ gốc Việt bao năm nay.
Đề tài của mục Đời Sống Người Việt Khắp Nơi Hôm Nay: người trẻ Mỹ gốc Việt và những Phòng Thương Mại Mỹ Việt ở Hoa Kỳ cho đến lúc này.
Giới trẻ Mỹ gốc Việt với tầm nhìn kinh doanh
Tiểu bang Nevada có dân số Á Đông rất lớn và đang phát triển rất nhiều. Tôi tới đây là để kiếm nhưng cơ hội mới, kiếm những lợi ích để giúp cho những người tiểu thương, những cơ sở hay những phát triển mới ở Nevada có được nhiều cơ hội .
Đó là Nguyễn Duy, giám đốc đìều hành Phòng Thương Mại Mỹ Việt bang Nevada.
Tôi là Tâm Nguyễn, chủ tịch Phòng Thương Mại Mỹ Việt quận Cam. Hôm nay là buổi rất quan trọng để gặp gỡ hầu như tất cả những người làm thương mại của tiểu bang California.
Cô Nguyễn Thị Mai, chủ tịch Phòng Thương Mại Mỹ Việt ở Sacramento:
Tụi em mới thành lập Hiệp Hội Thương Mại Người Việt ở Sacramento. Đây cũng là cơ hội để học hỏi và đi kiếm những chương trình có thể mang lại quyền lợi cho những người làm thương mại trong cộng đồng Việt Nam ở Sacramento.
Hội nghị về sự tăng trưởng doanh nghiệp nhỏ và nghệ thuật kinh doanh cho người Mỹ gốc Á và Châu Á Thái Bình Dương diễn ra trong bối cảnh kinh tế Mỹ chưa thoát ra khỏi sự suy thoái và nạn thất nghiệp vẫn đe dọa mọi người. Vì thế theo lời bộ trưởng Bộ Thương Mại Gary Locke:
Rằng đây là một hội nghị vô cùng quan trọng và có giá trị đối với những ai muốn khởi sự một doanh nghiệp nhỏ, rằng gần 40% công việc làm của nước Mỹ đến từ những công ty chưa từng ra đời hồi thập niên 1980, đó là sức mạnh mà cũng là sự hứa hẹn của nghệ thuật kinh doanh, trong đó có khả năng kinh doanh của người Mỹ gốc Châu Á.
BT.Thương Mại Gary Locke
Rằng đây là một hội nghị vô cùng quan trọng và có giá trị đối với những ai muốn khởi sự một doanh nghiệp nhỏ, rằng gần 40% công việc làm của nước Mỹ đến từ những công ty chưa từng ra đời hồi thập niên 1980, đó là sức mạnh mà cũng là sự hứa hẹn của nghệ thuật kinh doanh, trong đó có khả năng kinh doanh của người Mỹ gốc Châu Á.
Hơn một triệu công ty cở trung và cở nhỏ do người Mỹ gốc Châu Á và Thái Bình Dương làm chủ trên đất Mỹ, bộ trưởng
Thành viên của phòng thương mại Mỹ Việt Sacramento.
thương mại Mỹ nói tiếp, có tổng vốn bán buôn hơn ba trăm tỷ đô, có sức thuê mướn đến 50% nhân lực trong các cộng đồng AAPI tức Mỹ gốc Á và Châu Á Thái Bình Dương. Đây là những số liệu vô cùng quan trọng đối với các bạn trẻ Mỹ gốc Việt có tầm nhìn cũng như có khuynh hướng dấn thân vào giòng chính qua con đường phát triển kinh doanh cho cộng đồng của mình ngay trên đất Mỹ.
Đó là lý do Nguyễn Tâm, chủ tịch Phòng Thương Mại Mỹ Việt quận Cam, Nguyễn Mai, chủ tịch Phòng Thương Mại Mỹ Việt Sacramento, Nguyễn Duy, giám đốc điều hành Phòng Thương Mại Mỹ Việt Nevada, tìm cách networking, nghĩa là tạo mạng lưới nối kết làm việc chung với nhau trong cùng mục đích. Với họ, networking là phương cách làm việc của thời hiện đại.
Phòng Thương Mại Mỹ Việt ở quận Cam, Nam California, nơi có khu Little Saigon với đông đảo người Việt nhất Hoa Kỳ, được thành lập trước nhất và lâu đời nhất, từ 1985, như đương kim chủ tịch Nguyễn Tâm trình bày:
Tâm chỉ là thế hệ thứ hai được bổ nhiệm và được đề nghị với một số anh em trẻ để phụ trách Phòng Thương Mại Mỹ Việt tại quận Cam trong một năm rưỡi này.
Hơn một triệu công ty cở trung và cở nhỏ do người Mỹ gốc Châu Á và Thái Bình Dương làm chủ trên đất Mỹ, bộ trưởng thương mại Mỹ nói tiếp, có tổng vốn bán buôn hơn ba trăm tỷ đô, có sức thuê mướn đến 50% nhân lực trong các cộng đồng AAPI tức Mỹ gốc Á và Châu Á Thái Bình Dương.
Tôi học bác sĩ y khoa nhưng sau khi tốt nghiệp tôi đã không theo chuyên ngành mà lại đi theo ngành tôi mê thích là Quản Trị Kinh Doanh như định hướng của tôi là thương mại hơn là y khoa.
Miền Bắc của California, thành phố đông người Việt San Jose, cũng đã có một tổ chức tương tự, Hiệp Hội Doanh Gia với giám đốc David Dương.
Tại Sacramento, Nguyễn Mai, chuyên ngành Marketing and Business Management, Tiếp Thị và Quản Trị Kinh Doanh, trình bày lý do và sự hình thành của Phòng Thương Mại Mỹ Việt Sacramento dù xem ra non trẻ so với bên quận Cam Nam California.
Từ trước Mai chỉ làm cho những hãng xưởng của Mỹ thì những tiếp xúc của Mai là với người Mỹ mà thôi. Lúc vào cộng đồng Việt Nam ở Sacramento Mai cũng có sinh họat trong OCA tức Organisation Of Chinese American, thì Mai hiểu được là cộng đồng người Mỹ gốc Á và Châu Á Thái Bình Dương có nhiều tổ chức bên Sacramento rất lớn những mà không có sự hiện diện của người Việt Nam mình.
Cộng đồng Việt Nam của mình ở Sacramento từ ba đến bốn chục ngàn người mà mình không có được một tiếng nói không có access không có hướng để mà giúp đỡ cho mình, không những là vấn đề thương mại mà còn những chương trình nhu y tế, chương trình cho người lớn tuổi, chương trình cho trẻ em,Mai thấy rất là thiệt thòi và rất là tiếc.
Cô Nguyễn Mai ,MBM
Cộng đồng Việt Nam của mình ở Sacramento từ ba đến bốn chục ngàn người mà mình không có được một tiếng nói không có access không có hướng để mà giúp đỡ cho mình, không những là vấn đề thương mại mà còn những chương trình nhu y tế, chương trình cho người lớn tuổi, chương trình cho trẻ em,Mai thấy rất là thiệt thòi và rất là tiếc.
Muốn cộng đồng mạnh phải xây dựng thương mại cho mạnh
Theo cô, những người Việt lớn tuổi qua Mỹ đầu tiên đã đi làm rồi chắt chiu dành dụm tiền bạc để lập một cơ sở tiểu thương nhưng:
Chưa chắc gì họ đã thành công mà tại vì lúc đó kinh tế Mỹ lên, chưa chắc gì họ có những phương tiện và những quyền lợi hay những chương trình hướng dẫn cho họ về cách làm ăn theo kiểu Mỹ theo cái structure của Mỹ hay là chính sách của chính phủ về thuế về luật định.
Nguyễn Mai nêu thí dụ về những người mở nhà hàng, vì không nắm rõ luật và nguyên tác vệ sinh mà nhiều chủ nhân đã bị
Anh Tam Nguyen và dân biểu Mike Honda. Photo by Thanh Trúc RFA
phạt rất nặng hay bị đóng cửa tiệm chẳng hạn:
Đương nhiên không phải lỗi của họ mà tại vì họ thiếu thông tin thiếu hiểu biết về nhưng điều đó, Mai thấy tiếc cho những người làm lụng cực khổ một tuần bảy ngày một ngày mười mấy tiếng, tạo nên đồng tiền để nuôi nấng gia đình. Vì lý do đó em vào cái United Business Networking International thì em học hỏi và quen được những người bạn Việt Nam, thấy được rằng xây dựng cái cộng đồng mạnh là bằng xây dựng thương mại cho mạnh, sau đó thì cộng đồng của mình bước lên một bước nữa vào dòng chính.
Cộng đồng Việt Nam nổi tiếng nhất tại Hoa Kỳ đến ngày hôm nay vẫn là ngành Nails. Nói tới phòng thương mại và sự tham gia của ngành Nails, nói về vấn đề có một sự tổ chức đoàn kết trong ngành Nails giữa các chủ tiệm Nails với nhau thì Tâm thấy chưa có một cái tổ chức chung.
A. Nguyễn Tâm, GĐ điều hành
Tiếp lời Mai, Nguyễn Tâm nói là anh cũng đồng ý như vậy. Đưa ra thí dụ thực tế nhất về những người Việt trong ngành thẩm mỹ móng tay, mà người bên này gọi tắt là làm Nails, đã chiếm lĩnh và thành công trong lãnh vực này nhưng cho đến giờ cũng chưa thể lập ra cho mình một nghiệp đoàn để khi hữu sự thì được giúp đỡ:
Cộng đồng Việt Nam nổi tiếng nhất tại Hoa Kỳ đến ngày hôm nay vẫn là ngành Nails. Nói tới phòng thương mại và sự tham gia của ngành Nails, nói về vấn đề có một sự tổ chức đoàn kết trong ngành Nails giữa các chủ tiệm Nails với nhau thì Tâm thấy chưa có một cái tổ chức chung.
Người Việt Nam đã chiếm lĩnh ngành Nails tại nước Mỹ và rất thành công trong lãnh vực này, mấy hệ thống tiệm Nails lớn nhất tại Hoa kỳ cũng toàn là người Việt Nam.
Thật thế, Tâm khẳng định, người Việt không chỉ thành công khi mở tiệm sửa móng tay mà còn thành công trong việc sản xuất và cung cấp dụng cụ làm móng tay từ trên xuống dưới:
Đến nỗi mà State Board trong tiểu bang Cali là có một cô Việt Nam, coi như cao cấp nhất trong lãnh vực này, thì trong State Board là có người Việt Nam rồi.
Nếu chọn một nghành thương mại người Việt mà đã nuôi bao nhiêu gia đình ở tại Hoa Kỳ và đã gởi bao nhiêu tỷ đô la về Việt Nam thì cũng là ngành Nails mà người Việt đã thành công. Rất tiếc đến ngày hôm nay chưa có một cái hội đoàn nào mạnh trong lãnh vực này.
Là những người trẻ có nền tảng học vấn ở Hoa Kỳ, mạnh dạn tham gia vào những Phòng Thương Mại Mỹ Việt cũng là cách phục vụ và thể hiện ước mơ xây dựng một cộng đồng đi vào dòng chính:
đoàn kết với nhau để làm việc tại đây để cộng đồng Việt Nam mình càng ngày càng mạnh hơn, tạo một tiếng nói trong thương mại cũng như các lãnh vực, để khi mình đi họp trên Washington DC hay là White House hay là với các thượng nghị sĩ là mình có một tiếng nói chung và càng ngày các Little Saigon chung quanh nước Mỹ càng mạnh hơn.
A. Nguyễn Tâm
Tâm còn ao ước về tầm nhìn đường dài cho Phòng Thương Mại của mình. Ví dụ tạo được cái nền mạnh cho thế hệ thứ hai để các bạn sinh trưởng bên này cũng như các bạn từ Việt Nam sang đây được đoàn kết với nhau để làm việc tại đây để cộng đồng Việt Nam mình càng ngày càng mạnh hơn, tạo một tiếng nói trong thương mại cũng như các lãnh vực, để khi mình đi họp trên Washington DC hay là White House hay là với các thượng nghị sĩ là mình có một tiếng nói chung và càng ngày các Little Saigon chung quanh nước Mỹ càng mạnh hơn.
Đó là mơ ước của Nguyễn Tâm. Còn Nguyễn Mai, chủ tịch Phòng Thương Mại Mỹ Việt Sacramento, nơi mà hôm thứ Ba vừa rồi đã tổ chức kỷ niệm một năm thành lập khu Little Saigon ở đây:
Trước hết người Việt Nam của mình, giống như Tâm nói, họ không có tham gia . Bên Mỹ này có nhiều luật mà người Việt Nam mình không hiểu. Cái khó cái challenge (thử thách ) của tụi em là p[hải hy sinh thời gian rất nhiều. Năm đầu tụi em ấn định là chỉ thông tin và kêu gọi họ mời họ đến nhưng tại sao người Việt Nam của mình không đến? Là tại vì họ hỏi tôi đến để làm gì, có ích lợi gì? Và thường người Việt Nam của mình không đưa lên tiếng nói. Thí dụ trong khu thương mại toàn người Việt và người Châu Á tức người Việt gốc Hoa, nhiều người bị ăn cướp mà không lên tiếng vì sợ. Em nghĩ mình phải hướng dẫn phải đích thân tới nói chuyện với họ thì lúc đó họ mới hiểu lý do tại sao cần vào những hiệp hội này.
Bây giờ bên Sacramento tụi em đã có những sự thành công đó là tại vì tụi em may mắn xây dựng được sự tin tưởng. Sau
Quảng cáo của một tiệm làm Nails. AFP
đó họ mới chia sẻ và mình mới có thể đưa ra những chương trình để họ gia nhập. Còn nhiều người họ nhập vào là vì họ đã bị phạt đã trải qua những vấn đề . Thí dụ ngành Nails đã bị phạt năm mười ngàn lúc đó họ mới đi kiếm tụi em.
Nguyễn Mai thổ lộ ước muốn của cô và Phòng Thương Mại Mỹ Việt chỉ là :
Tụi em ước mong là có thể giúp có thể be pro-active, có thể prevent có thể phòng ngửa hơn là giúp đỡ sau khi họ đã bị phạt.
Bây giờ bên Sacramento tụi em đã có những sự thành công đó là tại vì tụi em may mắn xây dựng được sự tin tưởng. Sau đó họ mới chia sẻ và mình mới có thể đưa ra những chương trình để họ gia nhập. Còn nhiều người họ nhập vào là vì họ đã bị phạt đã trải qua những vấn đề . Thí dụ ngành Nails đã bị phạt năm mười ngàn lúc đó họ mới đi kiếm tụi em.
Cô Nguyễn Mai
Đó là ý nghĩ chung, khó khăn chung mà cũng là ao ước chung của các bạn trẻ trong Phòng Thương Mại Mỹ Việt hay Hiệp Hội Doanh Gia Việt Mỹ hay bất cứ tên gì khác có cùng mục đích.
Có lẽ vì thế mà khi gặp nhau trong Hội Nghị Về Sự Tăng Trưởng Doanh Nghiệp Nhỏ Và Nghệ Thuật Kinh Doanh, tổ chức cho các doanh gia Mỹ gốc Á và Châu Á Thái Bình Dương, các bạn trẻ Nguyễn Duy, Nguyễn Tâm, Nguyễn Mai vân vân đã tìm cách networking với nhau để làm việc.
Dưới mắt luật sư Nguyễn Hoàng Dũng, từng họat động nhiều trong lãnh vực thương mại, từng có chân trong Ban Cố Vấn Về Các Vấn Đề Mỹ Gốc Á Và Châu Á Thái Bình Dương dưới thời tổng thống Bush từ 2004 đến 2007, networking là hình thức hay nhất để mang lại thành công cho những Phòng Thương Mại Mỹ Việt ở Hoa Kỳ:
Từ vài trăm ngàn năm 1975 đến nay đã lên cả triệu người, cái chính của chúng ta vẫn là thương mại. Trong cái chính của thương mại đó vẫn là tiểu thương. Những cơ sở thương mại nhỏ cần phải đoàn kết với nhau để có thể giúp đỡ lẫn nhau trong lúc cần thiết.
Những người trẻ Mỹ gốc Việt hiện nay đang tham gia và thành lập những Phòng Thương Mại Việt Mỹ trong các cộng đồng Việt Nam là điều đáng mừng, đáng khích lệ và thực sự là rất cần thiết cho sinh họat của cộng đồng trong giòng chính.
Từ vài trăm ngàn năm 1975 đến nay đã lên cả triệu người, cái chính của chúng ta vẫn là thương mại. Trong cái chính của thương mại đó vẫn là tiểu thương. Những cơ sở thương mại nhỏ cần phải đoàn kết với nhau để có thể giúp đỡ lẫn nhau trong lúc cần thiết.
Do đó một Phòng Thương Mại Việt Mỹ ở quận Cam, một Phòng Thương Mại Việt Mỹ ở San Jose, ở Sacramento hoặc ở Las Vegas sẽ không mạnh bằng một tập thể các Phòng Thương Mại Việt Mỹ trên tất cả các tiểu bang . Đây là tiếng nói đáng kể để được chú ý đến.
Thanh Trúc vừa giới thiệu đến quí thính giả vài khuôn mặt trẻ Mỹ gốc Việt, lãnh đạo những Phòng Thương Mại Mỹ Việt ở Hoa Kỳ. Câu chuyện của mục Đời Sống Người Việt Khắp Nơi đến đây tạm ngưng. Thanh Trúc sẽ trở lại tối thứ Năm tuần tới.
Sinh Viên Việt Đại Học Texas Tranh Đấu Mang Việt Ngữ Trở Lại Chương Trình Học
Thanh Trúc, phóng viên RFA
2010-11-04
Đề tài của mục Đời Sống Người Việt Khắp Nơi hôm nay: sinh viên Mỹ gốc Việt tại đại học Texas tranh đấu mang Việt ngữ trở lại chương trình học.
Wikipedia
Khung cảnh Đại học Texas ban đêm.
Trước khi bước vào câu chuyện, hẳn quí vị cũng đồng ý rằng cha mẹ Việt Nam ở Mỹ hay bất cứ nơi nào trên thế giới, khi cho con đi học tiếng Việt là mong mỏi con nói và viết được tiếng mẹ đẻ. Trong trường hợp đó trẻ gần như không có sự chọn lựa và không được quyền quyết định.
Lớp Việt ngữ trong đại học UT bị hủy bỏ vì thiếu ngân sách
Thế nhưng khi bước vào lứa tuổi mà những nỗi băn khoăn thắc mắc về nguồn gốc về lai lịch thường đeo đuổi tâm hồn những người trẻ ấy, thì quyết định theo học lớp Việt ngữ trong đại học trở thành sự chọn lựa có chủ đích.
Em chọn học tiếng Việt tại UT tại vì mấy đại học khác không có lớp này. Ở nhà em nói tiếng Việt nhưng mà em không đọc và viết được. Lớn lên lúc mà em có gia đình thì em muốn con em có thể đọc và viết tiếng Việt với lại nói tiếng Việt với ông bà ngọai. Ông bà ngọai của em nuôi em hồi nhỏ, ông ngoại viết nhiều sách, đọc nhiều báo, em cũng muốn chia sẻ kinh nghiệm với ông bà ngọai nữa.
Ở nhà em nói tiếng Việt nhưng mà em không đọc và viết được. Lớn lên lúc mà em có gia đình thì em muốn con em có thể đọc và viết tiếng Việt với lại nói tiếng Việt với ông bà ngọai.
Học một tiếng một ngày, cũng có bài đem về, rồi tập nói chuyện bằng tiếng Việt. Em muốn biết tiếng Việt để khi lớn lên em nói tiếng Việt với con của em, rồi muốn cho mấy đứa con của em hiểu và đọc được tiếng Việt. Em thì em nói mà không đọc được, cũng không biết viết, em không muốn quên tiếng Việt Nam.
Em muốn học tiếng Việt vì em sinh ở Việt Nam, qua đây khi năm tuổi thì toàn nói tiếng Anh thôi, không thể nói tiếng Việt thiệt là chuẩn với ba mẹ, liên hệ giữa ba mẹ với con cái hơi kém tại vì không hiểu nhau. Ái học tiếng Việt đặng một là nhớ cái văn hóa của mình,một lý do mà Ái về Việt Nam là phải học thêm tiếng Việt.
Cũng chính vì những chủ đích ấy mà khi nhà trường thông báo từ tháng Tư là vì ngân sách thiếu hụt, những khóa Việt ngữ sẽ chấm dứt trong niên học tới, tức tháng Chín năm 2010 này.
Em thật là thất vọng!Mấy năm trước thì mình phải phấn đấu cho lớp tiếng Việt này. Tuy chỉ khoảng ba mươi người có thể đăng ký thì thật sự cũng không nhiều, nhưng mà bây giờ bị ngưng lại thì em thấy thất vọng, tại vì ở UT có rất nhiều người Việt nhưng cũng không biết nói tiềng Việt
Em thật là thất vọng!Mấy năm trước thì mình phải phấn đấu cho lớp tiếng Việt này. Tuy chỉ khoảng ba mươi người có thể đăng ký thì thật sự cũng không nhiều, nhưng mà bây giờ bị ngưng lại thì em thấy thất vọng, tại vì ở UT có rất nhiều người Việt nhưng cũng không biết nói tiềng Việt nhiều, thì cái này là cơ hội cho họ học tiếng Việt và học thêm văn hóa của người Việt.
Ngay lập tức ba bạn sinh viên mà quí vị nghe phát biểu ở phần đầu, Trấn Tuyết Vi, Lê Việt, Vương Thúy Ái, đã cùng các bạn khác trong lớp đứng ra vận động xin chữ ký , gởi kiến nghị lên ban giám hiệu để yêu cầu mang Việt ngữ trở lại chương trình học như đã từng có tại UT Austin bốn năm qua.
Tuyết Vi: Em là thư ký của Hội Sinh Viên Việt Nam thì em nói với các bạn là mình cần phải làm một cái gì, cho nên em bắt đầu cái petition. Chúng em làm đơn khiếu nại. Mỗi lần tan sở xong thì em đứng hỏi, nếu mà người ta ủng hộ thì ký vào giấy này. Sau đó mình cũng làm online cho người ta ký
vận động ý kiến của thầy cô trong trường, rồi thì những người lớn trong cộng đồng, nhằm mục đích cho ban giám hiệu thấy quyết tâm của sinh viên Mỹ gốc Việt là muốn duy trì lớp Việt ngữ như thế nào.
Sau đó mấy người học trong lớp viết thơ nói tại sao nên giữ lớp này, lớp này làm gì cho mình trong cuộc đời. em nộp hết cho ông Joel Brereton, chủ tịch Phòng Châu Á trong viện đại học của UT Austin.
Khuôn viên Đại học Texas. Wikipedia
Bước thứ hai mà Tuyết Vi cùng các bạn thực hiện , cô kể tiếp, là đi vận động ý kiến của thầy cô trong trường, rồi thì những người lớn trong cộng đồng, nhằm mục đích cho ban giám hiệu thấy quyết tâm của sinh viên Mỹ gốc Việt là muốn duy trì lớp Việt ngữ như thế nào.
Cần cả triệu đôla để duy trì lớp Việt ngữ cho cả năm học?
Các bạn sinh viên Mỹ gốc Việt còn lên gặp Dean, viện trưởng của UT Austin, để trình bày nguyện vọng.
Thế rồi ông viện trưởng UT Austin nói với các bạn sinh viên Việt Nam rằng nếu muốn lớp Việt ngữ được mở lại thì chỉ có cách tìm kiếm một hình thức bảo trợ tài chánh hoặc một ngân quĩ do tư nhân hiến tặng hay tài trợ để có thể trang trải cho các lớp Việt ngữ:
Tuyết Vi: Ông nói một cách có thể làm là kiếm endowment, mà một cái endowment thì rất nhiều tiền, ít nhất là một triệu đồng. Thì người ta nói phải kiếm người tài trợ cho tiếng Việt, rồi để số tiền đó trong nhà băng. Mỗi năm nếu mà có interest(tiền lời)thì sẽ dùng tiền lời đó để trả cho lớp Việt Nam.
Qua giải thích của các bạn, những khóa học Nhật Ngữ, Pháp ngữ hay Hàn ngữ ở trường đều có nhiều người học và nhiều người đóng tiền nên có khả năng chi trả tốn kém. Trái lại Việt ngữ chỉ là một lớp nhỏ mỗi khóa vài chục người nên tài chánh là cả một vấn đề.
Ông nói một cách có thể làm là kiếm endowment, mà một cái endowment thì rất nhiều tiền, ít nhất là một triệu đồng. Thì người ta nói phải kiếm người tài trợ cho tiếng Việt, rồi để số tiền đó trong nhà băng. Mỗi năm nếu mà có interest(tiền lời)thì sẽ dùng tiền lời đó để trả cho lớp Việt Nam.
Với điều kiện tài chánh như viện trưởng trình bày để có thể đưa chương trình Việt ngữ trở lại, các bạn sinh viên Mỹ gốc Việt trả lời họ sẽ tiếp tục tranh đấu, một mặt cố tìm kiếm người bảo trợ, mặt khác dự tính gây quĩ để kiếm tiền. Thế nhưng trong thâm tâm thì các bạn biết kế họach nào cũng vô cùng khó khăn, vô cùng tế nhị khi muốn có một số tiền lớn như thế
Tuyết Vi: Chỉ có mấy tuần cho chúng em làm việc thôi, em tính làm một buổi gây quĩ hay là cái gì đó, mà người ta nói kiếm người tài trợ cho lớp này là tốt nhất, cho nên chúng em chỉ kiếm như là online tìm mấy người ra trường rồi đó mà cũng chưa kiếm được.
Giáo sư Ngô Hữu Hoàng, thầy dạy tiếng Việt cho sinh viên Mỹ gốc Việt ở UT Austin từ Tháng Giêng 2008, trở về nước sau khi có quyết định ngưng các lớp Việt ngữ, nói với Thanh Trúc từ Hà Nội:
Giáo sư Ngô Hữu Hoàng: Buồn khi phải chia tay với chương trình Việt Ngữ Học ở UT. Cảm giác của tôi khi đứng lớp dạy cho các em từ buổi học đầu tiên là xúc động. Xúc động vì hai lẽ. Thứ nhất là các em rất muốn học tiếng Việt và văn hóa Việt nam. Lẽ thứ hai , mà tôi cảm thấy rõ ràng trong tôi khi tôi dạy, đó là các em rất thiệt thòi, rất thiếu cái cơ hội, thiếu điều kiện để tiếp xúc với tiếng nói và văn hóa của ba mẹ các em. Cái đó các em cũng có nói với tôi. Tuy nhiên các em rất có tinh thần để tái hiện, tái tạo lại tiếng nói và văn hóa của tổ tiên mình. Tôi thật xúc động khi thấy điều đấy.
Và như đã nói, đến tháng Tư 2010, vào khi khóa học đang diễn ra thì giáo sư Ngô Hữu Hoàng được viện trưởng UT, kế đó ông Joel Berenton, chủ tịch Khoa Nghiên Cứu Châu Á của UT, thông báo vì lý do ngân sách nên đây sẽ là khóa Việt ngữ cuối cùng tại trường:
Buồn khi phải chia tay với chương trình Việt Ngữ Học ở UT. Cảm giác của tôi khi đứng lớp dạy cho các em từ buổi học đầu tiên là xúc động. Xúc động vì hai lẽ. Thứ nhất là các em rất muốn học tiếng Việt và văn hóa Việt nam.
Giáo sư Ngô Hữu Hoàng
Sáng hôm sau lên lớp tôi thông báo sẽ không còn lớp tiếng Việt nữa. Sáng hôm đó các em không học nỗi. Rõ ràng quyền lợi các em không ảnh hưởng gì hết bởi đây là khóa cuối cùng chứ các em không bị cancel bị ngưng nửa chừng. Nhưng các em cảm thấy phẩn nộ, cảm thấy bực tức vì trong tương lai những người bạn những người em gốc Việt Nam của các em sẽ bị thiệt thòi, không có cơ hội học tiếng Việt nữa. Tôi có cảm giác chỉ thiếu một chút nữa là các em biểu tình, nhưng mà các em đã dừng lại .
Được hỏi trong thời gian còn ở Hoa Kỳ ông thấy các sinh viên tại UT Austin tranh đấu cho lớp việt ngữ như thế nào, giáo sư Hoàng hồi tưởng trong sự xúc động:
Trong vòng không đầy bốn ngày các em đã lấy được mấy ngàn ý kiến, tập trung tất cả những chữ ký lại, nếu tôi nhớ không lầm thì ba bốn ngàn là ít.
Khi báo Daily Texan lên cho ý kiến thì tôi đọc thấy sinh viên rất up set, rất phẩn nộ. Tôi phải nói là tôi ghi nhận và tôi có cảm giác mình phải nói cảm ơn các em. Buồn khi phải chia tay với các em, tôi thấy các em thì tôi quá thương đi.
Sẽ chỉ còn lớp Việt ngữ mùa hè
Hôm sau lên lớp tôi thông báo sẽ không còn lớp tiếng Việt nữa. Sáng hôm đó các em không học nỗi. Rõ ràng quyền lợi các em không ảnh hưởng gì hết bởi đây là khóa cuối cùng chứ các em không bị cancel bị ngưng nửa chừng. Nhưng các em cảm thấy phẩn nộ, cảm thấy bực tức
Giáo sư Ngô Hữu Hoàng
Nhưng giờ phút này hẳn giáo sư Ngô Hữu Hoàng phải chia vui với các sinh viên của UT Austin, bởi như Tuyết Vi thì:
Rồi cái năm nay ban giám hiệu với mấy người làm budget review(duyệt xét ngân sách) tự động nói là tại vì thấy nhiều người muốn lấy lớp này quá nên người ta dành cho một ngân sách. Bây giờ số tiền chúng em có cho lớp tiếng Việt là từ UT cho chúng em. UT nói là sẽ để dành số tiền này cho lớp tiếng Việt lúc mà lớp tiếng Việt trở lại, chúng em khỏi cần kiếm người để làm endowment program nữa.
Thúy Ái: Em nghĩ tại vì họ phải thấy rằng mấy năm nay ban giám đốc UT cũng không có để ý đến sinh viên Việt Nam, nhưng mà tại người Việt Nam ở Austin đã đóng góp rất nhiều về kinh tế và văn hóa, cho nên ban giám đốc của UT đã để ý và nghĩ rằng tiếng Việt là quan trọng.
Tuyết Vi: Em đồng ý với Ái, em cũng nghĩ là người ta đã nghe tiếng nói của chúng em . Lúc mà em đang kiếm người ký cái petition(kiến nghị) với đang kiếm người ủng hộ lớp Việt ngữ này thì cũng có nhiều tờ báo trong trường viết câu chuyện về lớp tiếng Việt của chúng em. Người ta thấy là rất nhiều học sinh ủng hộ việc này cho nên người ta giúp chúng em. Nếu mà chỉ kêu chúng em đi kiếm tiền một mình thì cũng giống như là không giúp chúng em gì lắm.
Theo lẽ, nếu không bị đóng cửa, lớp Việt ngữ ở UT Austin sẽ khai giảng mùa thu năm nay, cùng lúc với niên học mới của đại học. Thế nhưng chuyện đó không xảy ra mà phải đợi tới mùa hè 2011. Hỏi chuyện ông Joel Brereton, chủ tịch Asian Studies của UT Austin, Thanh Trúc được nghe ông giải thích:
Vấn đề ở đây là ngân sách dành cho mùa hè không nằm trong ngân sách của cả năm học. Chúng tôi có tiền cho lớp Việt ngữ mùa hè nhưng rất tiếc không còn tiền cho môn Việt ngữ suốt một năm học vì sự tốn kém của nó.
Joel Brereton
Joel Brereton: Vấn đề ở đây là ngân sách dành cho mùa hè không nằm trong ngân sách của cả năm học. Chúng tôi có tiền cho lớp Việt ngữ mùa hè nhưng rất tiếc không còn tiền cho môn Việt ngữ suốt một năm học vì sự tốn kém của nó. Bản thân tôi cũng rất mong mỏi có thể mang lớp việt ngữ trở lại cho cả năm học như trước, bởi tôi biết tiếng Việt là ngôn ngữ được sử dụng hàng thứ ba tại Texas này, nghĩa là sau Anh ngữ và tiếng Tây Ban Nha.
Với câu hỏi ông nghĩ sao về ý chí và sự cố gắng của sinh viên Mỹ gốc Việt tranh đấu cho lớp Việt ngữ được tồn tại, ông Brereton trả lời:
Tôi nghĩ đó là hành động chính đáng và tôi sẳn sàng hợp tác, chỉ tiếc ngân sách đang là vấn đề của trường, nhiều chương trình bị cắt bỏ chứ không riêng chương trình Việt ngữ.
Thật đáng tiếc là chúng tôi không thể giúp gì nhiều lắm cho các sinh viên Việt Nam, tôi nghĩ ban giám hiệu của trường cần phải tích cực giúp họ.
Thường mùa hè thì em nghĩ là không có nhiều học sinh. Mùa hè thì người ta chỉ dạy mấy tuần thôi cho nên dạy rất nhanh với lại hơi khó hơn đó. Nhưng mà bây giờ người ta chỉ thử thôi, gọi là cái trial program lớp tiếng Việt mùa hè thôi. Cho nên em nghĩ còn khó khăn một chút
Tuyết Vi
Với tôi, những lớp Việt ngữ là phương cách để sinh viên Mỹ gốc Việt tìm về nguồn cội và bảo tồn văn hóa của mình. Đó là điều vô cùng quan trọng.
Qua nỗ lực tranh đấu vận động của sinh viên Mỹ gốc Việt, điều tôi muốn chia sẻ là tôi cảm thấy khá băn khoăn trước tình trạng ngân sách bị cắt giảm, kéo theo sự cắt giảm những chương trình ngôn ngữ khác chứ không riêng Việt ngữ. Đối với tôi bỏ đi một chương học dù nhỏ như Việt ngữ cũng là điều không nên , bởi nó khiến cho ngành giáo dục của Mỹ tệ đi và chương trình học của UT Austin tệ đi.
Trong lúc chờ đợi lớp Việt ngữ mở lại vào mùa hè 2011, các bạn sinh viên Mỹ gốc Việt vẫn ôm nỗi lo trong lòng. Hãy nghe Tuyết Vi tâm sự:
Tuyết Vi: Thường mùa hè thì em nghĩ là không có nhiều học sinh. Mùa hè thì người ta chỉ dạy mấy tuần thôi cho nên dạy rất nhanh với lại hơi khó hơn đó. Nhưng mà bây giờ người ta chỉ thử thôi, gọi là cái trial program(chương trình thử nghiệm) lớp tiếng Việt mùa hè thôi. Cho nên em nghĩ còn khó khăn một chút, em còn muốn nói chuyện với mấy thầy giáo và mấy người trong UT để coi mình có thể làm trong mùa thu được không. Nếu làm mùa hè thì người ta sẽ compress(rút ngắn) cái chương trình trong năm sáu tuần gì đó, cho nên em sợ là không có nhiều học sinh.
Có thể nói tương lai của chương trình Việt ngữ ở UT Austin hãy còn bấp bênh lắm, và rõ ra lớp sinh viên đi trước cũng như các sinh viên chưa tốt nghiệp sẽ còn phải phấn đấu nhiều hơn nữa.
Xin tạm ngưng mục Đời Sống Người Việt Khắp Nơi ở đây với lời cầu chúc may mắn đến các bạn sinh viên cũng như chương trình Việt ngữ của UT Austin những ngày tháng tới.
Thanh Trúc kính chào tạm biệt, hẹn tái ngộ quí thính giả tối thứ Năm tuần tới.
Những người Thượng trẻ tuổi thành công ở Mỹ
Thanh Trúc, phóng viên RFA
Người Thượng vùng Cao Nguyên Trung Phần Việt Nam đã một lần rời khỏi núi rừng hồi năm 1975 khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc. Thế rồi, năm 2002, sau một lọat những vụ biểu tình đòi đất và đòi quyền lợi, người Thượng lại bỏ chạy sang Kampuchia để lánh nạn.
Photo Thanh Truc RFA
Các thiếu nữ dân tộc đang tập múa và hát tại North Carolina
Sau một thời gian sống tại các trại tạm cư ở Kampuchia, họ được Hoa kỳ nhận cho định cư tại tiểu bang North Carolina. Và những năm sau đó họ bước vào cuộc sống mới với muôn vàn khó khăn so với người Việt khác khi đến Mỹ.
Nếu những thế hệ Việt Nam thuộc lớp một rưỡi, hai, hoặc ba, được coi là học hành giỏi giang, được nuôi dưỡng giáo dục bởi những bậc cha mẹ chịu thương chịu khó, hy sinh tất cả cho con cái, thì ít nhiều người miền núi Tây Nguyên cũng không khác mấy.
Người dân tộc trẻ quan tâm nhiều đến luật pháp
Thế nhưng con số những người dân tộc trẻ xuất sắc , thành đạt và có nghề nghiệp chuyên môn trong xã hội Mỹ so ra vẫn ít hơn người Việt rất nhiều. Tại sao? Mời quí vị cùng Thanh Trúc tìm câu trả lời qua phần trò chuyện cùng những bạn trẻ người Thượng thành đạt trong mục Đời Sống Người Việt Khắp Nơi hôm nay.
Người đầu tiên, Joseph K’sor, dân tộc J’rai, cùng gia đình qua Mỹ theo diện HO khi được mười bốn tuổi. Tốt nghiệp trung học, theo ngành Khoa Học Chính Trị, Political Science, tại UNCG tức đại học North Carolina ở thành phố Greensboro, mơ ước của Joseph K’sor là học tiếp để trở thành luật sư bởi đó là cách tốt nhất để giúp đỡ cộng đồng:
Ý tôi muốn nói là có rất nhiều vấn đề liên quan đến luật pháp, di dân, y tế…không chỉ trong cộng đồng người miền núi ở đây mà cả cộng đồng Mỹ gốc Phi Châu, Mỹ gốc La Tinh, Mỹ gốc Việt. Làm luật sư là cơ hội cho tôi được giúp đỡ nhiều người.
Anh Joseph K’sor
Ý tôi muốn nói là có rất nhiều vấn đề liên quan đến luật pháp, di dân, y tế…không chỉ trong cộng đồng người miền núi ở đây mà cả cộng đồng Mỹ gốc Phi Châu, Mỹ gốc La Tinh, Mỹ gốc Việt. Làm luật sư là cơ hội cho tôi được giúp đỡ nhiều người.
Hồi còn nhỏ ở Việt Nam tôi đi học trong một môi trường thiếu thốn, nghèo nàn nhưng bình lặng.
Sang Mỹ tôi mới được nghe cha mẹ nói về chiến tranh về sự phân biệt đối xử sau này mà họ phải chịu đựng. Lớn lên, đối diện với nhiều nỗi khó khăn như chính cha mẹ mình, tôi nói tiếng Mỹ nhiều hơn tiếng dân tộc hay tiếng Việt , đã có lúc tôi lẫn lộn không rõ mình là người dân tộc, người Việt hay người Mỹ nữa.
Đến bây giờ tôi có thể nói tôi là người Mỹ có nguồn gốc dân tộc miền núi Việt Nam. Ở đây tôi có nhiều cơ hội học tập hơn ở Việt Nam, tôi cảm thấy bằng lòng với cuộc sống này.
Hiện làm việc trong Tổ Chức Nhân Quyền Cho Người Miền Núi ở North Carolina, Joseph K’sor tin tưởng với sự chuyên cần và chịu khó cộng thêm kinh nghiệm làm việc, anh có thể ghi danh vào trường Luật khi hoàn cảnh tài chính cho phép.
Một số bạn trẻ người dân tộc đang sinh hoạt tại North Carolina. Ảnh minh họa
Đối với bạn trẻ thứ hai thì khác. Tốt nghiệp đại học luật từ Elon University ở Greensboro, một thành phố có nhiều người Thượng cư ngụ ở North Carolina, Ana Bounya có một anh trai và bốn em gái:
Mẹ tôi người J’rai, ba tôi người Rhadê, tôi muốn trở thành một luật sư chuyên về di dân để giúp người miền núi của chúng tôi bởi tôi thấy rõ họ phải chống chọi trước rất nhiều vấn đề. Anh ngữ đã là rào cản đối với người miền núi, huống hồ luật lệ thì còn khó hơn nữa.
Cô Ana Bounya
Mẹ tôi người J’rai, ba tôi người Rhadê, tôi muốn trở thành một luật sư chuyên về di dân để giúp người miền núi của chúng tôi bởi tôi thấy rõ họ phải chống chọi trước rất nhiều vấn đề. Anh ngữ đã là rào cản đối với người miền núi, huống hồ luật lệ thì còn khó hơn nữa.
Từng là thực tập viên cho Lutheran Family Services, tổ chức chuyên giúp đỡ hổ trợ di dân đến North Carolina , đặc biệt là người Thượng, Ana Bounya nói công việc đó đã gợi cho cô ý nghĩ phải trở thành một luật sư chuyên lo về di dân:
Dù như tôi qua đây lúc một tuổi rưỡi, lớn lên, đi học và nói tiếng Mỹ thành thạo.
Thế nhưng người bản xứ không nghĩ tôi là Mỹ, họ luôn hỏi tôi là ai, từ đâu tới. Tôi ý thức được rằng có đi đâu có làm gì, ít nhiều mình cũng đại diện cũng phản ảnh cái tập thể người miền núi của mình.Chính vì thế mà sâu thẳm tâm hồn tôi là người Thượng, là một người miền núi được cái may mắn lớn lên ở đất nước Mỹ. Mục tiêu của tôi là chuyên ngành về luật di dân, tị nạn và nhân quyền, và trước hết tôi muốn bảo vệ nhân quyền cho đồng bào của tôi.
Thường ưu tư về mối tương quan mà cô cho là ngày càng lỏng lẻo giữa cha mẹ di cư sang Mỹ với con cái lớn lên và học hành theo lối Mỹ, Ana Bounya bày tỏ:
Mục tiêu của tôi là chuyên ngành về luật di dân, tị nạn và nhân quyền, và trước hết tôi muốn bảo vệ nhân quyền cho đồng bào của tôi.
Cô Ana Bounya
Thế hệ lớn tuổi vẫn còn nhớ đến Việt Nam, đến chiến tranh, đến cộng sản, đến cảnh nghèo khổ , còn thế hệ trẻ, trong đó có tôi, thì cũng khó hiểu thấu những thảm cảnh mà người lớn đã trải qua, những sự hy sinh của cha mẹ cho lớp trẻ. Trong lúc văn hóa, truyền thống và lịch sử của người miền núi gần như bị quên lãng, thì đa số bạn trẻ người Thượng lại không học hết trung học mà lấy vợ lấy chồng rồi có con sớm quá. Các bạn ấy không có cố gắng nào để thăng tiến bản thân.
Tôi nghĩ thế hệ tiếp nối cần có thêm nhiều luật sư, kỹ sư, bác sĩ, giáo sư, giáo viên hơn. Không có gì sai nếu làm công nhân hay thợ cắt tóc, nhưng để xứng đáng với công lao của cha mẹ bỏ ra khi mang mình sang đây thì mình cần cố gắng làm hơn thế nữa.
Đó là bạn trẻ Ana Bounya, hiện là thành viên hội đồng quản trị của Tổ Chức Nhân Quyền Cho Người Miền Núi ở North Carolina, mà cô khẳng định đó là bước đầu để trở thành một luật sư chuyên lo về di dân.
Thành công không dễ: cần nhiều quyết tâm và hỗ trợ
Người thứ ba, Xiu Lạp, dân tộc J’rai, trước ở Pleiku, qua Mỹ năm mười tám tuổi theo diện HO. Thân phụ của Xiu Lạp là thông dịch viên cho Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ trước 1975.
Tốt nghiệp với bằng Master tại Texas Tech University năm 1999, hiện Xiu Lạp dạy về ngành Nhân Chủng Học và Ngôn Ngữ Học tại đại học Texas Tech thuộc thành phố Lubbock. Hướng tới của anh là sẽ học lên chương trình tiến sĩ tại một đại học khác:
Tại em là người miền núi, đã sống ở Việt Nam mười tám năm trước khi sang nước Mỹ. Đa số những nhà nhân chủng học thì họ học về phong tục, tập quán, tín ngưỡng của những bộ lạc thiểu số. Giáo sư Mỹ khi dạy sinh viên người Mỹ thì tuy rằng họ có làm research (nghiên cứu) hay họ sống với những bộ lạc nào đó, nhưng họ không có kinh nghiệm sống lâu dài giống Lạp.
Cho nên mỗi lần dạy nhân chủng học thì em có thể cho sinh viên biết về cuộc sống của mình, đưa những thí dụ, thì sinh viên họ rất thích nghe.
Đa số cha mẹ người Thượng sống ở nước Mỹ cũng rất muốn con cái của họ đi học cho hết. Cho nên thường thường có rất nhiều người Thượng học hết trung học ở đây nhưng mà đến khi chuẩn bị vào đại học thì khó vì lý do kinh tế.
Với câu hỏi tại sao số bạn trẻ người Thượng vượt trội và thành đạt trên đất Mỹ tới giờ này xem ra khá là ít ỏi, Xiu Lạp giải thích:
Đa số cha mẹ người Thượng sống ở nước Mỹ cũng rất muốn con cái của họ đi học cho hết. Cho nên thường thường có rất nhiều người Thượng học hết trung học ở đây nhưng mà đến khi chuẩn bị vào đại học thì khó vì lý do kinh tế.
Vì không có tiền vào đại học, Xiu Lạp nói tiếp, lại không biết cách xin tài trợ từ những chương trình của chính phủ, nên rất nhiều bạn trẻ người Thượng bỏ qua giấc mơ đại học để đi kiếm việc làm:
Lạp cũng rất may có nhiều người bạn Mỹ, không những thúc đẩy Lạp đi học mà còn giúp Lạp một số tiền để đi học. Khi học master ở đại học này thì có nhiều người Mỹ họ giúp, với lại Lạp cũng có scholarship(học bổng) luôn.
Lạp ao ước người trẻ Thượng cố gắng học. Hồi ở Việt Nam em học hết lớp Chín, sau đó vì gia đình rất nghèo rất khó khăn thì em bỏ học. Hồi đó em suy nghĩ rằng chỉ có cách cưới vợ rồi có con, rồi thứ hai là đi làm nông làm rẫy làm ruộng giống như bao người Thượng khác người J’rai khác ở trong làng vậy thôi.
Hồi ở Việt Nam em học hết lớp Chín, sau đó vì gia đình rất nghèo rất khó khăn thì em bỏ học. Hồi đó em suy nghĩ rằng chỉ có cách cưới vợ rồi có con, rồi thứ hai là đi làm nông làm rẫy làm ruộng giống như bao người Thượng khác người J’rai khác ở trong làng vậy thôi.
Người thứ tư, H’dion Buntô, dân tộc Rhađê, qua Mỹ từ năm bốn tuổi:
Với tôi cha mẹ và gia đình là yếu tố đầu tiên dẫn tới thành công. Ba tôi là người đã thúc đẩy tôi cố học cho giỏi. Cha mẹ tôi làm hai công việc để có thể cung cấp cho mấy anh chị em chúng tôi những thứ chúng tôi cần. Cha mẹ thường nhắc chúng tôi rằng muốn thành công thì phải chịu khó làm việc, phải gắng học và chuyên chú vào mục tiêu mà mình nhắm tới. Kết quả tôi đạt được ngày hôm nay là công lao dạy dỗ của cha mẹ.
Theo ngành Y Tế Công Cộng và Giao Tế tại đại học, H’dion tốt nghiệp và làm việc tại bệnh viện nhi đồng ở Seattle, tiểu bang Washington.có cơ hội tiếp xúc nhiều với di dân Philippines, Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam.
Trở về North Carolina và lập gia đình với một người Mỹ gốc Caucasian, H’dion Buntô đã sử dụng bằng cấp giao tế của mình để trở thành quản trị viên trong American Bank. Nhiệm vụ của cô là thiết kế và phát triển những chương trình tài chính của ngân hàng:
Cha mẹ thường nhắc chúng tôi rằng muốn thành công thì phải chịu khó làm việc, phải gắng học và chuyên chú vào mục tiêu mà mình nhắm tới. Kết quả tôi đạt được ngày hôm nay là công lao dạy dỗ của cha mẹ.
Cô H’dion Buntô
Tôi làm việc trong nhà băng mười năm, học hỏi rất nhiều từ tài chính, đầu tư, quản lý ngân sách. Tôi được thăng cấp nhiều lần, nhưng đến 2009 thì thôi việc để điều hành một nhóm cố vấn kinh doanh trong công ty do chồng tôi lập ra.
Cũng với câu hỏi đặt ra cho Joseph K’sor, Ana Bounya và Xiu Lạp, là làm sao để những người con của núi rừng, bị bứt ra khỏi nơi chốn hoang dã đó, có thể thành công tại điểm đến là đất nước Mỹ. cô H’dion trả lời dứt khóat:
Cha mẹ đã mang chúng tôi đến đây với hai bàn tay trắng, cả nhà sống chui rúc trong một phòng dưới tầng hầm một căn hộ, mọi người phải cố vươn lên từ đó.
Tôi phần nào thất vọng vì nhiều bạn trẻ người Thượng không chịu học hành đến nơi đến chốn. Tôi biết là cuộc sống nơi này rất khó khăn đối với người miền núi, nhưng giá mọi người đừng sợ hãi, đừng nhìn lại phía sau mà hãy mạnh dạn bước ra và nắm lấy cơ hội thì vận may sẽ đến với mình.
Tôi phần nào thất vọng vì nhiều bạn trẻ người Thượng không chịu học hành đến nơi đến chốn. Tôi biết là cuộc sống nơi này rất khó khăn đối với người miền núi, nhưng giá mọi người đừng sợ hãi, đừng nhìn lại phía sau mà hãy mạnh dạn bước ra và nắm lấy cơ hội thì vận may sẽ đến với mình.
Có lẽ mình phải cố thay đổi và thích ứng bản thân của mình theo hoàn cảnh miễn là đừng đánh mất bản sắc của dân tộc mình. Bạn không có chọn lựa nào khác đâu, hoặc cố sống cố học theo văn hóa và nếp sống tích cực ở đây, hoặc là không làm được gì hết.
H’dion Buntô không phải là người duy nhất thành công trong số ba anh chị em ở nhà. Chị của cô, H’bel Buntô, là một người học rất giỏi và đang làm việc cho Cơ Quan Điều Tra Liên bang(FBI). Em trai của H’dion, David Buntô, hiện là giám đốc tài chính của Kenneth Trucking Company, một công ty xe tải lớn ở Hoa Kỳ.
Câu chuyện về những người trẻ Tây Nguyên thành công trong lãnh vực học vấn và nghề nghiệp ở Hoa Kỳ tạm dừng nơi đây. Thanh Trúc kính chào và hẹn tái ngộ tối thứ Năm tuần tới.
No comments:
Post a Comment