Wednesday, February 2, 2011

Dương Trung Quốc'Blog

Dương Trung Quốc'Blog


Lời mở blog
Một ngày đẹp trời , mấy bạn trẻ bên Vietnam Net hỏi tôi : “Tại sao bác không làm blog?”. Tôi hỏi “Blog là cái gì?”. Các bạn ấy giảng giải: “Blog là cái chạn để bác cất tất cả những gì bác thích, thỉnh thoảng mang ra xài. Và có thể cả người khác cũng thích nữa. Nếu bác là người rộng tính thì bác đừng khoá chạn, ai muốn ngó vào cũng được, nếu ai thích thì nếm thử và có thể sẽ có người cũng rộng tính như bác thì họ cũng gửi đến vài món cho bác nếm chơi. Nếu như bác còn e ngại thì thích ai thì cho người ấy mượn khoá…”
Các cháu nói là cái chạn thì tôi hiểu. Tôi cũng có chút của ăn của để là những bài viết chủ yếu để đăng báo, báo lớn cũng có, báo nhỏ cũng có, lại có những điều viết không để đăng hoặc chẳng ai đăng, cất tất cả vào cái chạn. Ai thân hay ai thích thì giở ra mà đọc, rồi xếp vào chỗ cũ, khen một câu thì tốt, chê một câu cũng được, miễn sao đừng nặng lời…
Các bạn trẻ khích lệ, còn nhắc đến anh chàng “Dâu”, blogger người Gia Nã Đại. Riêng anh chàng này thì tôi phục sát đất và hiểu rằng không phải blog làm anh ta nổi tiếng mà vì nhờ blog mà anh ta quá giỏi tiếng Việt và nhờ giỏi tiếng Việt mà anh ta nổi tiếng… “Dâu” trở thành cái giọt nước cuối cùng : “Ừ thì làm nhé!”. Thế là “cuốn theo cơn b-log”… .
Sau sự thiếu hiểu biết là sự thiếu thời gian, lại bị mấy bài báo thúc giục, rồi lại thấy cả một đám đông hỏi thăm trên mạng đâm cuống, không biết phải bắt đầu từ đâu…Do vậy mà loay hoay mãi, vừa học vừa làm vừa nhờ vả…đến nay blog mới mở ra được
Rồi các bạn trẻ lại nhắc: “Bác cho cái ảnh để trình làng, để dán lên blog như làm căn cước”. Tôi sinh năm Đinh Hợi vì thế năm nay là hưu trí. Bắt đầu một hoa hội mới, như lại bắt đầu một tuổi thơ với đầy hồn nhiên và dại dột. Bèn chọn một cái ảnh khi mới lên 5. Ảnh chụp hôm cùng mấy cậu, mấy mợ bên họ mẹ đi chơi trên đường Cổ Ngư bên Hồ Tây, Hà Nội. Xem tấm ảnh mà giật mình thấy có nhiều người trong ảnh đã sang thế giới bên kia.
Bản tính tôi vốn rụt rè, khi bé còn bận đồ con gái có cái cổ áo tròn. Chỉ vì tôi là út mà đã có hai ông anh bề trên, Mẹ tôi mơ có mụn con gái, thế mà lại sinh ra tôi. Ngẫm nghĩ thấy đúng bản tính của mình chỉ đáng mặc áo cổ tròn. Bây giờ thì tôi thích mặc áo không có cổ. Còn vì sao thì có dịp sẽ nói…
Tóm lại cái chạn không có khoá của tôi đã mở…

Theo Yahoo! 360° - Quốc Xưa Nay
Sử gia Dương Trung Quốc nói về Phạm Văn Đồng
Sử gia Dương Trung Quốc nói về Phạm Văn Đồng

Trả lời phỏng vấn Viet weekly cuối năm 2007
VW: Anh nghĩ sao về việc cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký lá thư ...
DTQ: Tôi cho đấy là một sự ấu trĩ. Một là chưa có được một tầm nhìn xa, tầm nhìn quốc tế. Lúc đó, chỉ nghĩ, Trung Quốc là đồng chí. Giữa lựa chọn đồng chí và thực dân, trên bản đồ, Indochine-France, Đông Dương thuộc Pháp, và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, thì chọn Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa gần hơn là Pháp. Đấy là một sự không tưởng. Còn có chịu sức ép hay không, tôi không biết. Nhưng chắc chắn trong đó có một sự không tưởng. Chính sự không tưởng của một số nhà lãnh đạo đã dẫn đến một số tai họa. Khi anh bị hấp thụ một yếu tố ngoại lai nó không phù hợp, và đôi khi nhân danh một cái gì đó cao hơn dân tộc, rõ ràng đã coi thế giới đại đồng là một cái gì lớn lao ...
VW: Trước thực tế giữa Liên Xô và Trung Quốc hục hặc đánh nhau như thế mà vẫn ...
DTQ: Nhưng Việt Nam lúc đó không có sự lựa chọn. Đang ngồi trên lưng con hổ chiến tranh, làm sao lựa chọn được nữa.
VW: Lá thư đó có giá trị pháp lý gì không?
DTQ: Lá thư đó là gì? Là công hàm của ông Đồng, khi Trung Quốc thông qua luật về hải phận, ông ấy công nhận. Giữa quan hệ hai nước đồng minh với nhau, việc công nhận là bình thường, nhưng ông không lường được là Trung Quốc vận dụng cái đó, Hoàng Sa nằm trong ... Nên nhớ, người ta còn tìm được ra những bản đồ trong sách giáo khoa. Hồi đó mình dựa vào Trung Quốc, họ in sách giáo khoa cho mình, và mở ra trường học ở phía Nam Trung Quốc cho các con em Việt Nam sang ấy học. Sách giáo khoa ngay hồi đó đề những đảo ấy thuộc Trung Quốc.
VW: Vậy thì Việt Nam hiện giờ có cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không?
DTQ: Có, nhưng mà nó phải ở chỗ khác. Theo tôi nghe, không biết có chính xác hay không, chính đấy là một trong những ray rứt nhất của ông Đồng. Nhưng đương nhiên, đối với lịch sử, ông phải chịu trách nhiệm. Đấy, cho nên chủ nghĩa cộng sản, đôi khi có những cái nằm ngoài ý muốn của mọi người.

Sử gia Dương Trung Quốc nói về Phạm Văn Đồng
Toàn văn bài phát biểu đây:
http://www.viet-studies.info/kinhte/Duo ... Weekly.htm

Việt Weekly
Các số cuối tháng 12/2007, đầu tháng 1/2008



Việt Weekly trao đổi với nhà sử học Dương Trung Quốc


Bài & ảnh: Ô QUAN HẠ

LTS: Sử gia Dương Trung Quốc là một người nghiên cứu rất sâu rộng về các vấn đề Việt Nam, nhất là trong giai đoạn hiện tại. Ông đã từng được nhiều cơ quan truyền thông quốc tế như BBC, VOA, thường xuyên phỏng vấn. Sau đây là một trao đổi với Việt Weekly lan man về nhiều vấn đề từ lịch sử, quan hệ Mỹ Việt, cho đến tình hình chính trị ở Việt Nam.

VW: Ông nhìn quan hệ Việt Mỹ như thế nào?

DTQ: Năm ngoái, khi ông Chủ tịch Hạ viện Hoa kỳ, Dennis Hastert, viếng thăm Việt Nam, tôi có được mời tham dự trong phái đoàn Việt Nam. Tôi có nói về một chi tiết lịch sử là vào cuối năm 1945, Việt Nam đã đưa ra một thông điệp rõ ràng là Việt Nam chủ trương hoàn toàn độc lập và hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ. Tôi có kể một câu chuyện, là người Mỹ đến Việt Nam, nếu tôi nhớ không nhầm là vào năm 1830, thời kỳ của vua Minh Mạng. Ông vua Minh Mạng là một người có đầu óc thông thoáng. Khi ông nghe có phái đoàn Hoa Kỳ đến, ông yêu cầu các quan chức địa phương tiếp đón. Nhưng khi phía Hoa Kỳ gởi tới, trong lá thư gọi nhà vua là “good friend.” Hành động đó không thể chấp nhận được, bị vua Minh Mạng coi là thiếu văn hóa, và ông mới lảng tránh, làm cho đổ vỡ một quan hệ. Sở dĩ tôi nhắc lại chuyện này, là bởi vì vấn đề đầu tiên trong một quan hệ là yếu tố văn hóa. Đương nhiên kinh tế là điều cần thiết, và một biểu tượng cho quan hệ Việt Mỹ là đèn dầu hỏa, bởi vì trong ngôn ngữ tiếng Việt hơn mấy trăm năm qua, họ vẫn gọi đèn dầu hỏa là “đèn Hoa Kỳ” cho dù là nó có phát xuất ở đâu.

VW: Nghe nói ông có sang Mỹ để gặp những người trong nhóm OSS trong thời kỳ Việt Minh?

DTQ: Đó là một chuyến đi có nhiều ấn tượng sâu sắc. Tôi đi cùng với các cụ Việt Minh, sang New York, để gặp các cụ OSS. Sang đấy, các cụ là những người đồng minh cũ gặp nhau. Một cụ đã từng gặp cụ Hồ nói với tôi rằng “Người Hoa Kỳ không có bạn, người Hoa Kỳ chỉ có đồng minh. Và chính cụ Hồ của các bạn hiểu được điều đó, cho nên mới chơi được với Mỹ, mới sử dụng được Mỹ.” Không thể dựa trên lý tưởng, mặc dù người Mỹ luôn luôn nói về lý tưởng. Nhưng quan hệ phải có lợi trước đã. Có một sự kiện của lịch sử là trong tháng 8 năm 1945 lúc giành độc lập, lực lượng nước ngoài duy nhất đứng bên cạnh Hồ Chí Minh lại là nước Mỹ. Trung quốc lúc đó còn đang mãi đánh nhau Quốc-Cộng.

VW: Nhưng sau đó, sách lược chiến tranh lạnh của Mỹ không cho phép Mỹ hợp tác với Việt Nam?

DTQ: Đó là một bất hạnh. Khi đó cụ Hồ tìm mọi cách, để kéo Mỹ vào. Nhưng tình thế của thế giới lúc đó bắt phải như vậy.

VW: Theo ông, vào thời điểm đó Hồ Chí Minh có thể từ bỏ chủ nghĩa cộng sản nếu thành công trong việc tìm hợp tác của Hoa Kỳ?

DTQ: Ông chưa bao giờ từ bỏ cộng sản cả. Phải hiểu tại sao ông đến với cộng sản? Kinh nghiệm chính trị đầu tiên của ông là không phải với cộng sản mà với chính Hoa Kỳ. Khi ông cùng một số người yêu nước viết bản yêu sách gởi hội nghị Versailles. Ở hội nghị Versailles, ai cũng hy vọng rằng chính sách của Wilson là sau chiến tranh thứ nhất, họ sẽ đứng về phía của những dân tộc bị trị. Trong lúc đó, ông Lê Nin đưa ra cương lĩnh ủng hộ, cho nên sau đó cụ Hồ mới bị cuốn sang đó. Nhưng phải nhớ rằng, mục đính chính của cụ là tìm cách cởi bỏ ách thực dân. Còn về cộng sản, chủ nghĩa xã hội, trên lý thuyết rất đẹp, mặc dầu nó không tưởng. Khi đang sống trong một xã hội vào thời đó, mà có một viễn ảnh đẹp như thế, ai mà chẳng thích. Cụ đi tìm đường cứu nước, và đến với chủ nghĩa cộng sản với tất cả say mê, hy vọng. Nhưng khi cụ đến nước Nga, ông Lê Nin đã mất. Và sau đó Stalin lên nắm quyền. Bây giờ người ta công khai nói đến 7, 8 năm trong thời gian đó, ông Hồ bị cho ngồi chơi, xơi nước, bị đặt bên lề. Ông quá thấm hiểu, thế nhưng ông không phải là người dễ từ bỏ.

VW: Nói “thấm hiểu”, có nghĩa rằng trên thực tế ...

DTQ: Có nghĩa rằng chủ nghĩa cộng sản là một cái gì đó rất xa vời. Thậm chí, nó là một cái không như ông tưởng. Nhưng (tinh thần) chủ nghĩa cộng sản lý tưởng, ông vẫn giữ.

VW: Nếu nước Nga là cái nôi sinh ra cộng sản, mà cũng không thực hiện được, làm sao ông Hồ vào lúc đó có thể nghĩ rằng mình có thể tiếp tục sự nghiệp đó?

DTQ: Theo tôi hiểu, cụ Hồ là một nhà nho. Và tâm thức của nhà nho là họ muốn đi cùng với lý tưởng. Về lý tưởng, chủ nghĩa cộng sản rất đẹp. Có thể nó không thực, nhưng đẹp. Giữa chủ nghĩa cộng sản và thế giới đại đồng trong quan niệm cổ điển rất gần nhau. Hơn nữa, sức hấp dẫn nhất đối với ông vào lúc đó là nó chống thực dân. Nhưng thực tế mà ông trải qua ở nước Nga sô viết, ông đã quá hiểu. Chính vì thế mà ông đi tìm một nguồn lực khác, ông tìm đến Hoa Kỳ. Khi nghiên cứu, tôi đã gặp ông William Duiker (người viết tiểu sử ông Hồ Chí Minh), khi ông Hồ bắt đầu con đường, mà ở Việt Nam gọi là con đường cứu nước, ông muốn đi xem thiên hạ ra sao đã. Vì kiếm sống ông phải tới Paris trước, nhưng nơi mà ông quan tâm nhất, dừng lại thực sự là Hoa Kỳ. Chứ không phải là nước Pháp. Ở Hoa Kỳ ông có được rất nhiều ấn tượng mạnh, và đặc biệt là những tư liệu chính trị. Có một câu ở Việt Nam dùng mỗi ngày như câu khẩu ngữ, mà cứ vẫn cho là của Việt Nam, nhưng thực ra là của Lincoln, là “một nước do dân, của dân và vì dân.” Nó đến với Việt Nam qua ải của Trung Hoa, nó gần với chủ nghĩa tam dân của ông Tôn Trung Sơn. Mà ông Tôn Trung Sơn phương Đông hóa, hay Trung Hoa hóa tư tưởng chính trị Hoa Kỳ. Cho nên cụ bị ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng chính trị đó. Hơn thế nữa, lúc đó cụ nhận ra thêm một điều nữa là, một nước Việt Nam ngàn đời nằm cạnh nước Tàu cần có đối trọng. Pháp đã đóng vai trò như là đối trọng trong thời kỳ thực dân, nhưng cụ thấy là không có tương lai. Vậy trên thế giới còn ai? Liên xô ở xa mà cũng đã có trải nghiệm. Nó chỉ là một thứ chủ nghĩa sô-vanh trá hình thôi.

VW: Sô vanh có nghĩa là gì?

DTQ: Có nghĩa là chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Cũng như Trung quốc thôi.

VW: Nếu Mỹ bắt tay với Việt Nam vào thời điểm đó, ông nghĩ rằng Hồ Chí Minh có thể đã từ bỏ chủ nghĩa cộng sản để chọn một Việt Nam độc lập trong quỹ đạo của Mỹ hay không?

DTQ: Ông ta có cái hay là ông bảo: chủ nghĩa cộng sản là chuyện của 50 năm nữa. Ông là người rất biện chứng. Lúc đó cụ Hồ không nói cộng sản là một khối, một phe. Cụ nhìn chủ nghĩa cộng sản là một lý tưởng. Chính cụ đã làm điều mà một phần nào người ta đánh giá là cụ đã làm không tới nơi. Cụ đã bất lực trong việc tìm sự hòa đồng giữa 2 lý tưởng là chủ nghĩa xã hội và quốc gia độc lập. Đây là bi kịch vĩ đại nhất. Nếu không hiểu được điều đó, người ta sẽ nghĩ cụ là một người cộng sản như mọi người cộng sản khác. Tôi cho là sai. Nó không lý giải được tất cả những sự kiện. Thí dụ như, lần đầu tiên, cụ đến với ông Lê Nin, cụ bỏ phiếu, cụ có biết gì về cộng sản đâu, hiểu theo nghĩa một học thuyết chính trị. Thấy lý tưởng tốt và nó ủng hộ mình. Nhưng từ khi nghiên cứu lý thuyết cộng sản, cụ nhận ra những khác biệt. Cho nên, bọn tôi hay nhắc đến một tác phẩm, là một bản báo cáo của cụ năm 1954, cụ nói rằng “chủ nghĩa Marx được xây dựng trên thực tiễn của châu Âu của thế kỷ thứ 19.” Mà châu Âu không phải là Việt Nam, cho nên trách nhiệm của chúng ta là phải bổ xung cho nó. Cụ phân tích ở Việt Nam, phân hóa giai cấp chưa đến mức như châu Âu, cho nên đấu tranh giai cấp không phải như thế. Ở Việt Nam, tầng lớp địa chủ vẫn đại diện cho tinh thần dân tộc. Cho nên cụ mới đưa ra tư tưởng đoàn kết. Cho nên cụ tập hợp những người cộng sản đang phân hóa thành Việt Nam Cộng Sản Đoàn, đưa ra một đường lối “Chánh cương Sách lược Vắn tắt” vẫn nuôi tinh thần chủ yếu là... (nghe không rõ) Ngay lập tức, bây giờ ở đây người ta cố gắng không đề cập tới, chỉ trong 8 tháng sau, ông Trần Phú về mang theo một luận cương kiểu của Stalinist. Và ông thủ tiêu “Chánh cương Sách lược Vắn tắt” của Hồ Chí Minh. Thủ tiêu đường lối của Hồ Chí Minh, đổi thành đảng Cộng Sản Đông Dương, và biến nó thành một thứ sô-viết. Nó dẫn đến cuộc bạo động ở Nghệ Tĩnh. Cụ Hồ cũng không còn vị thế của lãnh tụ ban đầu. Phải đến thời kỳ chiến tranh bùng nổ, Quốc tế Cộng sản giải tán đi. Vì lợi ích riêng của nước Nga, cái nhìn của nước Nga về thế giới cũng khác đi.

VW: Trong thời kỳ đó, Trần Phú vượt trội cả Hồ Chí Minh trong vai trò lãnh đạo?

DTQ: Ông Trần Phú là Tổng bí thư. Ông Hồ là thầy, mới tập hợp một nhóm những người yêu nước, trước kia thuộc ảnh hưởng của Phan Bội Châu. Rồi đào tạo. Ông lấy họ Lý. Tên là Lý Thụy. Những người khác như Lý Tự Trọng, vân vân là vào thời đó, từ trong tay ông Hồ đào tạo ra. Ông Hồ mất vị thế lãnh đạo cho đến năm 1940, khi thế chiến bùng nổ, bắt đầu quốc gia nào, tự lo thân phận nấy. Chủ nghĩa sô-vanh của các nước coi đấy là một cơ hội. Trong khi đó, trong nước, đảng cộng sản bị triệt hạ. Cuộc khởi nghĩa Nam kỳ cũng vào năm 1940. Lúc đó là lúc cụ mới thực hiện được ý đồ tức là đoàn kết. Lúc đó, cụ nhận ra rằng số phận Việt Nam phải được gắn liền với thế giới. Và số phận của thế giới được quyết định bởi cuộc thế chiến. Nhìn ra được ai sẽ thắng. Cho nên cụ mới tìm đến Hoa Kỳ. Tìm Đồng Minh. Quan trọng là, mà tôi cho đây là tầm nhìn của cụ, sớm đặt Việt Nam vào hàng ngũ của những người chiến thắng, để tạo cho Việt Nam một vị thế, một cơ sở hợp lý để giành độc lập. Chứ thực ra, Hoa Kỳ chưa giúp được cụ Hồ bao nhiêu về mặt thực lực. Một đơn vị nhảy dù xuống, làm một cái sân bay. Gởi vũ khí đến. Thành lập đại đội Việt Mỹ, cũng chưa đánh nhau lần nào. Cũng chỉ đụng độ một tí với Nhật ở Thái Nguyên. Quan trọng là “tôi là người Đồng Minh, tôi là người thắng trận.” Cụ dùng uy của Mỹ để tạo vị thế trong một tình hình chuyển biến quá nhanh, vào năm 1945-1946 do sự kiện Liên Xô và Đông Âu. Chiến tranh lạnh bắt đầu xảy ra. Và thế giới phân cực rồi.

VW: Nếu ông Hồ Chí Minh đã thấy được chủ nghĩa cộng sản trên lý thuyết và thực tế, và nhận thức được tình hình Việt Nam khác châu Âu trong việc đấu tranh giai cấp, tại sao ông lại để cho vụ cải cách ruộng đất xảy ra?

DTQ: Để hiểu được, phải đi sâu vào tình thế lúc đó. Bi kịch của cụ Hồ. Năm nay là kỷ niệm 55 năm kể từ 1953. Lúc đó chiến tranh, Mỹ đứng đằng sau Pháp. Cụ Hồ lấy vũ khí ở đâu? Gặp gỡ thương lượng với bên Tàu. Rồi Tàu họ ép. Có một câu chuyện là giai thoại, nhưng là một giai thoại có thật. Khi cụ Hồ đi cùng với Mao Trạch Đông sang gặp Stalin. Stalin chỉ vào hai cái ghế: “cái ghế này tư bản, cái ghế này xã hội chủ nghĩa, thế ông ngồi ở đâu?” Có nghĩa rằng cụ không có chọn lựa. Có nghĩa rằng nếu anh muốn có vũ khí, anh phải làm như Tàu. Và điều này mới quan trọng: cụ Hồ là một cá nhân đẻ ra một tổ chức, vận hành theo một nguyên lý của nó. Cụ Hồ lại là thiểu số, bi kịch là ở chỗ đấy, mặc dù vị trí rất cao. Chỉ có một lá phiếu. Nói thế này không phải là mình bào chữa cho cụ. Cụ Hồ là người lãnh đạo cao nhất, cụ phải chịu trách nhiệm mọi cái. Theo cách làm của cụ Hồ, thoái tô vân vân, vào năm 1953, trước khi cải cách ruộng đất, có 70-75% đất đai đã giao cho nông dân rồi. Chính những người đồng chí của cụ trong tổ chức bắt đầu bị nhuốm màu... vì lợi ích, vì đồng minh họ cung cấp vũ khí, vì vị thế cá nhân.

VW: Trung quốc có đòi hỏi Việt Nam đi theo chính sách cải cách ruộng đất hay tự mình chọn đi theo chính sách của họ?

DTQ: Họ bắt buộc. Tất nhiên, tôi không nói bắt buộc là sự áp đặt hoàn toàn, nhưng rõ ràng là anh chịu ảnh hưởng, phụ thuộc, cơ chế nó vận hành chứ không phải là ý chí cá nhân nữa.

VW: Trung Quốc ó đòi hỏi Việt Nam đi theo chính sách cải cách ruộng đất hay Việt Nam chọn đi theo chính sách của họ?

DTQ: Họ bắt buộc. Tất nhiên, tôi không nói bắt buộc là sự áp đặt hoàn toàn, nhưng rõ ràng là anh chịu ảnh hưởng, phụ thuộc, cơ chế vận hành chứ không phải là ý chí cá nhân nữa. Đó là một bài học lớn. Sau này cụ Hồ chỉ làm được một điều là cân bằng giữa Liên Xô và Trung Quốc. Vì muốn đánh Mỹ, không thể không có Liên Xô. Trung Quốc có mặt ở đây, nhưng cũng vì có những lợi ích của họ, chứ không phải... Trên thực tế, cụ quá hiểu. Không có tình “đồng chí”, hiểu theo nghĩa... bởi vì Trung Quốc và Liên Xô cũng đánh nhau trong suốt thời kỳ chống Mỹ.

VW: Vậy những người lãnh đạo Việt Nam vào lúc đó có thấy được thực tế đó không?

DTQ: Cho nên cụ Hồ điều hành để kết thúc được chiến tranh, như vậy là cụ đã quá giỏi, trong tình thế đó. Nhưng mà nó lại là bi kịch. Cho đến khi mà ông Lê Xuân Khoa nói là tính ủy nhiệm, là anh vừa đánh, nhưng vừa đặt lợi ích dân tộc lên tối cao. Khó là làm sao đạt được lợi ích của dân tộc mình, mà vẫn thỏa mãn được phần nào những yêu sách của phía đồng minh của mình. Lúc giải phóng Sài Gòn, nó bộc lộ ra. Trung Quốc không muốn. Lợi ích của Trung Quốc không phải là như thế. Họ muốn dùng vùng đệm. Họ mặc cả trên lưng của người Việt Nam. Việc Việt Nam kết thúc được chiến tranh theo trạng thái đấy, nó có lợi cho Liên Xô, nhưng Liên Xô có ít lợi ích vì chỗ ấy. Rõ ràng là cái gì chống lại Trung Quốc, thì nó ...

VW: Anh nghĩ sao về việc cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký lá thư ...

DTQ: Tôi cho đấy là một sự ấu trĩ. Một là chưa có được một tầm nhìn xa, tầm nhìn quốc tế. Lúc đó, chỉ nghĩ, Trung Quốc là đồng chí. Giữa lựa chọn đồng chí và thực dân, trên bản đồ, Indochine-France, Đông Dương thuộc Pháp, và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, thì chọn Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa gần hơn là Pháp. Đấy là một sự không tưởng. Còn có chịu sức ép hay không, tôi không biết. Nhưng chắc chắn trong đó có một sự không tưởng. Chính sự không tưởng của một số nhà lãnh đạo đã dẫn đến một số tai họa. Khi anh bị hấp thụ một yếu tố ngoại lai nó không phù hợp, và đôi khi nhân danh một cái gì đó cao hơn dân tộc, rõ ràng đã coi thế giới đại đồng là một cái gì lớn lao ...

VW: Trước thực tế giữa Liên Xô và Trung Quốc hục hặc đánh nhau như thế mà vẫn ...

DTQ: Nhưng Việt Nam lúc đó không có sự lựa chọn. Đang ngồi trên lưng con hổ chiến tranh, làm sao lựa chọn được nữa.

VW: Lá thư đó có giá trị pháp lý gì không?

DTQ: Lá thư đó là gì? Là công hàm của ông Đồng, khi Trung Quốc thông qua luật về hải phận, ông ấy công nhận. Giữa quan hệ hai nước đồng minh với nhau, việc công nhận là bình thường, nhưng ông không lường được là Trung Quốc vận dụng cái đó, Hoàng Sa nằm trong ... Nên nhớ, người ta còn tìm được ra những bản đồ trong sách giáo khoa. Hồi đó mình dựa vào Trung Quốc, họ in sách giáo khoa cho mình, và mở ra trường học ở phía Nam Trung Quốc cho các con em Việt Nam sang ấy học. Sách giáo khoa ngay hồi đó đề những đảo ấy thuộc Trung Quốc.

VW: Vậy thì Việt Nam hiện giờ có cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không?

DTQ: Có, nhưng mà nó phải ở chỗ khác. Theo tôi nghe, không biết có chính xác hay không, chính đấy là một trong những ray rứt nhất của ông Đồng. Nhưng đương nhiên, đối với lịch sử, ông phải chịu trách nhiệm. Đấy, cho nên chủ nghĩa cộng sản, đôi khi có những cái nằm ngoài ý muốn của mọi người.

VW: Ngày nay với sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản, trước trào lưu dân chủ ở khắp nơi trên thế giới như vậy, anh có nghĩ rằng Việt Nam sẽ đi dần về khuynh hướng dân chủ không?

DTQ: Dân chủ, Việt Nam chưa bao giờ nói không có dân chủ cả. Có một thời kỳ khi người ta nói rằng thế giới chia ra hai phe, phe đế quốc và phe dân chủ. Việt Nam luôn luôn nói rằng mình thuộc phe dân chủ. Ví dụ như mặt quần áo, ví dụ như của Liên Xô hay Hungary, gọi là đảng dân chủ. Vậy thì Việt Nam tự cho mình là dân chủ chứ. Khái niệm dân chủ, tôi cho rằng là một tài sản chung của nhân loại. Nhưng mà đến với nó, không phải chỉ bằng một con đường duy nhất. Do hoàn cảnh lịch sử của từng quốc gia. Ví dụ như, tại sao lại có dân chủ của Việt Nam? Anh cứ nhìn các nước phương Đông, gần như nó phải qua thời kỳ quân chủ, tạo ra nền tảng để dân chủ phát triển.

VW: Ý anh muốn nói tới Đài Loan, Hàn Quốc?

DTQ: Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Indonesia. Đừng nghĩ là thượng tầng chính trị đẻ ra thượng tầng dân chủ. Mà thượng tầng chính trị độc tài ấy đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của hạ tầng xã hội. Và chỉ khi nào, có một hạ tầng tương xứng, mới có dân chủ ở trên được. Dân chủ là một hạt giống không phải lơ lửng trên không, mà phải có miếng đất của nó. Miếng đất của dân chủ là gì? Là hữu sản. Là sở hữu. Việt Nam có một lịch sử phát triển không bình thường, chính là ở chỗ đó. Là nó không tồn tại một tầng lớp sở hữu lâu bền. Suy cho cùng, tại sao Việt Nam lại như thế? Tại vì địa lý chính trị, nằm cạnh Trung Quốc. Số phận của nó chung thân với Trung Quốc. Cho nên trong một bề dày lịch sử rất dài, để người Việt Nam tồn tại, đôi khi phải hy sinh sự phát triển. Mà tồn tại vững bền nhất chính là chế độ công hữu, tức là chế độ làng xã. Khi nghiên cứu thời kỳ quân chủ của Việt Nam, nó đã khác các nơi khác rồi. Nếu mà nó giống, dân tộc Việt Nam đã rơi vào số phận của các tộc Việt khác rồi. Là trở thành Hán hóa ngay. Bởi vì sức hút Hán hóa quá mạnh, cả nền văn minh lẫn thế lực của nó. Để Việt Nam tồn tại rất lâu dài, là một khoảng cách phát triển không bình thường. Tiêu biểu nhất là chế độ làng xã. Bởi vì làng xã là yếu tố vững bền. Anh thấy đó, giặc đến có giữ thành đâu? Các cụ bỏ thành, các cụ về quê. Sau đó, dùng làng xã, sức mạnh đấy cộng với nhiều yếu tố khác. Làng xã là gì? Làng xã là cuộc đấu tranh thường xuyên giữa hai nhân tố là tư hữu và công hữu. Công hữu bảo đảm sự vững bền, vững chắc của quốc gia. Còn tư hữu là yếu tố phát triển. Khi nào tư hữu phát triển mạnh lên, nó chia lại chế độ quân điền. Cho nên mới có câu “giàu không ba họ, mà khó không ba đời”. Chính vì không có tầng lớp hữu sản đấy, cho nên nó không nảy nở được cái gì trên đó cả! Nó chỉ nảy nở một chủ nghĩa dân tộc thôi. Rất là mạnh mẽ. Kinh tế không phát triển, không mở mang được, nó phải cấu kết nhau lại để ... Một điều nữa là chức năng của nhà nước phương Đông. Nhưng mà, chủ yếu là để tồn tại bên cạnh Trung Quốc. Kể cả vấn đề văn hóa. Lũy tre không phải để chỉ chống đạo quân xâm lược, mà bản thân lũy tre cũng giữ gìn bản sắc dân tộc trước những xâm thực văn hóa. Ông cha ta giỏi là đã trụ lại được. Cuối cùng lối thoát của chúng ta là gì? Là Nam tiến. Và ông cha ta đã thành công trong chuyện ấy. Cho đến thế kỷ 16, 17, sau chiến thắng giặc Minh của nhà Lê. Nhưng di họa là nó không kích thích. Vào thời điểm đó, đã bắt đầu xuất hiện những yếu tố hội nhập với thế giới rồi. Và chính yếu tố đó khiến mình không đứng trụ nổi với [giai đoạn thuộc địa].

VW: Nói như vậy có nghĩa là hiện giờ Việt Nam đang có vài ba yếu tố lớn đang ảnh hưởng lên nó. Một là bản tính cố hữu của xã hội Việt Nam dựa trên văn hóa làng xã, công hữu. Hai là nhu cầu phát triển kinh tế chung của thế giới đang lôi Việt Nam đi vào một quỹ đạo mới.

DTQ: Không, chúng ta phải nhìn như thế này. Tôi nhìn lịch sử Việt Nam là một sự tiếp nối của phong trào đổi mới, duy tân ở đầu thế kỷ 20. Một thế kỷ không phải là dài đâu. Ý nghĩa lớn của cuộc duy tân đầu thế kỷ 20 là sự hội nhập với một thế giới ngoài Trung Hoa. Trong trường kỳ lịch sử của Việt Nam, mọi cái, nhất nhất đều là Trung Hoa. Kể cả những văn minh, mình học hỏi ở họ. Tất cả. Có thời, Việt Nam cái gì cũng muốn giống Trung Hoa. Thời kỳ mình chống thì muốn khác Trung Hoa, cho đến khi mạnh rồi, lại muốn giống Trung Hoa. Trung Hoa là hoàng đế, ta cũng phải xưng đế. Trung Hoa đội mũ bình thiên, ta cũng phải đội mũ bình thiên. Trung Hoa có Kỷ Tín là dịch bào cứu tướng, ta cũng có Lê Lai liều mình cứu chúa. Thậm chí, có hai trạng thái. Một thời kỳ là mình thể hiện mình khác họ. Rồi một thời kỳ, mình giống họ, như họ. Đó là toàn bộ lịch sử Việt Nam. Đương nhiên, thế kỷ 16, 17 đã có sự xuất hiện của người phương Tây, nhưng yếu tố đó còn xa lạ. Cho đến đầu thế kỷ 20 có yếu tố là những nhà yêu nước có tư tưởng duy tân đã vượt được qua khỏi mặc cảm bị nô lệ. Cho nên cuộc hội nhập vào thế giới ngoài Trung Hoa cực kỳ quan trọng. Và việc làm đầu tiên khi hội nhập với một thế giới ngoài Trung Hoa là gì? Khi hàng loạt những hệ thống giá trị cũ bổng nhiên bị lỗi thời. Chữ Hán bỏ đi. Nền thi cử làm quan bỏ đi. Học theo khoa học và ý niệm phương Tây. Dân chủ là gì? Dân chủ là quyền lực ... những người nô lệ không cần có tự do, chỉ có những người hữu sản mới cần có dân chủ. Cho nên dân chủ là sản phẩm của một xã hội vật chất tư sản. Thế nhưng các cụ nhà mình, như Phan Châu Trinh, Lương Văn Can, nhìn thấy, nhưng không đi được. Thực ra, cụ Hồ cũng chỉ là người đi theo các cụ ấy thôi, cũng chỉ là người kết tục thôi, nhưng cụ Hồ biết cách vượt qua được. Cho nên, chỉ cần nhìn vào một thời kỳ lịch sử rất ngắn thôi, năm 1945-1946, sẽ thấy cụ Hồ đã chọn lựa như thế nào. Cụ có đủ năng lực đưa nước Việt Nam vào một quỹ đạo phát triển tiên tiến nhất. Chế độ dân chủ cộng hòa, một các quốc hội, tất cả những tập quán, rất tiên tiến. Từ phiên họp đầu tiên của quốc hội, người chủ trì là người cao tuổi nhất. Những chất vấn trong quốc hội, từ ông chủ tịch trở đi. Cụ muốn tạo ra một nền tảng. Tất cả những gì mà ngày hôm nay gọi là lề lối, cụ đã chuẩn bị sẵn sàng. Hơn cả bây giờ nữa. Mở cửa còn rộng hơn cả bây giờ. Anh cứ đọc Tuyển tập Hồ Chí Minh, 1945-1946. Hồi đó cụ đã tuyên bố là nước Việt Nam muốn đảm bảo tất cả những yếu tố dân chủ, không muốn gây thù oán với ai. Muốn vào Liên Hiệp Quốc ngay. Muốn mở cửa tất cả, mời người Pháp, mời người Mỹ vào chia sẻ hợp lý tất cả những lợi ích. Bất hạnh là lịch sử thế giới chuyển qua Chiến Tranh Lạnh.

VW: Quan niệm về dân chủ ở Việt Nam có khác của thế giới không?

DTQ: Ở Việt Nam chưa từng ... Ở hải ngoại cứ nói rằng ở Việt Nam, các ông cộng sản độc tài. Nhưng chữ độc tài nửa vời. Nó không được rõ ràng. Nếu đi vào nhưng chi tiết cụ thể với những tiêu chí của đời sống của phương Tây, nó có vẻ độc tài. Thực ra nó không hề độc tài. Nhưng dân chủ nó không ra dân chủ. Chính chất dở dang ấy đã làm cho Việt Nam phải trải qua một thời kỳ ... mà đến bây giờ mới có cơ hội. Bây giờ bảo phải dân chủ, khi tầng lớp sở hữu chưa có. Cho nên điều lớn nhất đang diễn ra hàng ngày hàng giờ ở đây này, và chính là nó nhanh chóng hình thành tầng lớp hữu sản. Điều này cũng giống Trung Quốc, nhưng Trung Quốc họ nhìn thấy và họ chủ động. Nâng tầng lớp dân trí, họ đưa ra quan điểm, cứ phải có người giàu đã. Rồi người giàu họ kéo người nghèo lên. Nhưng Việt Nam là một nước nhỏ, tư tưởng nhân dân vẫn nặng nề. Hơn nữa nền tảng xã hội Trung Hoa, từ lâu đã phát triển cao hơn mình. Xa xưa, ở mình là tầng lớp quý tộc. Sau đó, tầm thương mại qua ngưỡng tầng lớp hữu sản dưới thời thực dân, nhưng nó èo uột, có đáng là gì. So ra mình chẳng có gì nhiều cả, chỉ có duy ý chí. Ngay cả tầng lớp tư sản ở miền Nam, cũng nằm trong hoàn cảnh chiến tranh. Cho nên thực chất, mình chưa có tầng lớp hữu sản.

VW: Tại sao những nước như Đông Âu, hoặc Nam Phi cũng có môi trường tương tự với Việt Nam có thể làm được những cuộc cách mạng dân chủ mau chóng?

DTQ: Anh nhầm. Châu Âu là một vùng đất phát triển của tư bản.

VW: Còn Đông Âu?

DTQ: Đông Âu cũng vậy thôi. Nó chỉ gián đoạn thôi.

VW: Còn Nam Phi?

DTQ: Nó là cựu thuộc địa của Anh.

VW: Ở Nam Phi đại đa số quần chúng là vô sản.

DTQ: Con số hữu sản về mặt bề dày thể hiện chất lượng. Chứ còn bản chất của nó không thay đổi. Dân chủ là nói về phân chia quyền hành trong xã hội. Chưa có tài sản làm sao nói đến dân chủ được? Đôi khi, mình cứ thổi lên là mình có truyền thống dân chủ, có làng xã, có mấy ông trong hội đồng dân biểu làng xã các thứ. Đó chỉ là manh nha của thời kỳ mà tôi nói là “phát triển không bình thường” của những miếng đất bị chia đi, chia lại, theo một tập quán chưa ổn định, chưa phát triển. Ở một quốc gia mà câu khẩu hiệu là “lấy của người giàu chia cho người nghèo” đã trở thành đạo lý. Nó có thể là câu khẩu hiệu chính trị, nhưng không thể ... Nhưng quan trọng hơn cả là hạ tầng cơ sở không có cơ sở gì để phát triển. Cho nên, cái mà hiện nay đang diễn ra ở khắp tầng lớp Việt Nam là đúng theo tiến trình để dân chủ hóa có thể xảy ra. Tiến trình đó với những nước khác có thể kéo dài cả thế kỷ đầy máu lửa.

VW: Nhưng vấn đề hữu sản, hiện giờ trên nguyên tắc, đất đai vẫn thuộc về nhà nước, cho thuê trong vòng bao nhiêu năm, chưa thực sự thuộc quyền sở hữu của người dân để làm nên giới hữu sản.

DTQ: Nó chỉ là một thời kỳ. Anh cứ nhìn Trung Hoa như thế nào, nó sẽ như thế đấy. Rồi đây sẽ có những thay đổi.

VW: Để biến chuyện sở hữu đất đai trở thành vĩnh viễn?

DTQ: Thì anh thấy đấy. Khái niệm đất đai ở phương Đông. Quyền sở hữu của nhà nước là hư quyền. Chỉ vào đâu là nhà nước? Hỏi ra, chẳng biết nhà nước là ai cả. Trong khi đó, quyền sử dụng đất về mặt bản chất là thực quyền.

VW: Mặc dù là hư quyền, nhưng nếu chưa công nhận quyền sở hữu đất đai, trên nguyên tắc, luật pháp có thể thay đổi để tịch thu lại cho chính quyền hay không?

DTQ: Luật pháp là ai?

VW: Là ai?

DTQ: Là con người. Con người nhân danh luật pháp.

VW: Con người đó hiện giờ là một tập thể thiểu số.

DTQ: Quyền sở hữu của nhà nước là hư quyền. Quyền sử dụng là thực quyền. Và quyền định đoạt là đặc quyền. Nói nhà nước là nói chung chung. Nhà nước cộng sản là ông huyện, ông tỉnh, ông trung ương, và những quyền lực ở đó chi phối. Vì lợi ích nó chi phối. Nếu kẻ qua đường này thì nói là đất làm công nghiệp. Nhưng mà những cái đó cũng không phải là của nhà nước. Nhà nước là một cái gì hư vô. Nó thuộc về một nhóm người nào đó, cá nhân nào đó, cụ thể. Cho nên, nhìn thấy trước là nó sẽ có một cái gì đó quá độ. Quyền sử dụng miếng đất này là 30 năm, miếng đất kia là 50 năm. 30 năm, 50 năm trong thời kỳ chuyển đổi này là ghê gớm. Không ai lường trước được. Bây giờ đã có một vài vấn đề bức xúc rồi, vậy thì 14 năm nữa, hàng vạn người sử dụng đất đai, một cái thay đổi ... Khi nó chín mùi, nó sẽ xảy ra.

VW: Hồi nãy anh có nhắc đến những kinh nghiệm dân chủ phương Đông như Nam Hàn, Đài Loan, kinh qua giai đoạn độc tài, tạo ổn định để phát triển kinh tế và xây dựng tầng lớp hữu sản. Nhưng khi, chuyển tiếp qua dân chủ thật sự, vẫn có những biến động xáo trộn như cuộc sinh viên xuống đường ở Nam Hà cuối thập niên 1980 hay, cuộc bầu cử ở Đài Loan vào năm 2000.

DTQ: Tôi nói quy luật nó là như thế, nhưng đương nhiên là bất kỳ một nhà lãnh đạo nào cũng không mong muốn những điều tiêu cực xảy ra, cho nên nó còn tùy thuộc vào những tình hình thực tế. Rõ ràng ở Việt Nam, có một tâm lý chung là rất ngại sự đảo trộn. Dân tộc đã trải qua quá nhiều biến cố. Đấy là tâm lý tôi cho là tích cực. Đương nhiên, có người lợi dụng tâm lý đó. Nhưng tôi cho là phải đi đúng tiến trình của nó. Xin lỗi, anh là người nước ngoài, anh cứ đứng ở ngoài để nói ... nhất là bây giờ anh lại là công dân Mỹ, cứ mong muốn Việt Nam phải dân chủ như là nước Mỹ. Vô lý! Tôi cho rằng nước Mỹ vì lợi ích khác, chứ không phải vì dân chủ thật sự. Tôi công nhận rằng nó có một hệ thống của nó khó lý giải, nhưng với những người từng trải ... Cho nên cái đó, tôi cho là không thực. Hay nói đến ngay bản thân của một số vị trong nước. Nói dân chủ, đứng trên mặt ai cũng muốn hướng tới một tương lai tốt đẹp, mình quý trọng. Nhưng không có thực tế. Phần lớn cũng là những người thoát thai từ trong chế độ này ra chứ có phải gì đâu. Ví dụ như cụ Hoàng Minh Chính, cụ còn cực đoan hơn cả những người khác nữa. Chỉ khi nào người ta hết quyền lực, người ta mới cảm thấy dân chủ là một cái gì tha thiết. Tôi bảo đảm những người đó khi còn quyền lực thì họ ... Tôi không có ý bài bác ai cả, nhưng quy luật tư duy là như thế. Cho nên, cuối cùng ở đây, mình có thể không thỏa mãn với giới lãnh đạo, nhưng mình phải nhìn thấy những bước đi. Và bước đi đấy, anh nhìn vào đâu, anh nhìn vào việc hình thành tầng lớp hữu sản. Trong tầng lớp hữu sản có cả những nhà lãnh đạo chứ. Cho nên, người ta nói “cứ xem con ông là như thế nào, sẽ biết được tương lai.” Bài học Trung Quốc là rõ nhất. Bài học Việt Nam cũng chỉ là một phiên bản. Con ông cũng trở thành doanh nghiệp cả. Con ông đi học ở các hệ thống của các xã hội tiên tiến, dân chủ.

VW: Anh có nghĩ rằng có một nguy cơ nào đó, khi mà những tài sản của đất nước được tư hữu hóa, nó lọt vào những tập đoàn nhỏ, rồi cuối cùng trở thành một thiểu số khống chế đất nước qua phương tiện kinh tế, ví dụ như đã từng xảy ra ở Nga hay những nước Nam Mỹ?

DTQ: Đó là một hướng mà mình cần phải đấu tranh. Hiện nay, tôi cho rằng cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chính là góp phần làm chuyện đó. Anh không thể hạn chế sự sở hữu tư nhân. Anh phải thúc đẩy nó. Nhưng mà nó phải là sở hữu của số đông. Và phân tầng, tầng giữa, phần của tầng lớp sở hữu nó sẽ quyết định chế độ chính trị của tương lai. Còn hai phần cực thấp và cực cao, nó sẽ thu hẹp dần. Đó là lý thuyết, nhưng về mặt thực tiễn đời sống, nhất nhất có phải là lý thuyết đâu.

VW: Về mặt thực tế, từ trong vài năm qua, phong trào đấu tranh chống tham nhũng, anh có cho là có những tiến bộ tích cực hay không?

DTQ: Hiệu quả đầu tiên của nó là sự nhất trí về mặt quan niệm. Tôi cho đó là điều quan trọng. Còn lại là vấn đề giải pháp. Giải pháp là đừng lý tưởng hóa. Bao giờ người ta trong bất kỳ những hành động nào, cũng phải bắt nguồn từ lợi ích của mình đã. Và đương nhiên, họ có thể nói những lợi ích cao cả, đẹp đẽ khác để duy trì được quyền lực lâu nhất của họ. Cho nên, tôi là người nhìn vấn đề, không muốn dùng chữ lạc quan nhiều, nhưng mà tôi cho là đang thuận. Xu thế hội nhập là một điều cực kỳ quan trọng, để mình có thể tạo ra được một hành lang tương đối là an toàn. Mình chỉ có thể trông cậy vào chính mình, chứ không thể phụ thuộc vào ai được cả. Để mình có thể phát triển.

VW: Anh là Nghị sĩ trong Quốc hội Việt Nam. Có vẻ gần đây, Quốc hội ngày càng được đề cao, và sinh hoạt công khai hóa và có nhiều ảnh hưởng hơn. Điều đó có đúng không? Nếu quả vậy, theo tiến trình đó, anh thấy vai trò của Quốc hội Việt Nam trong tương lai sẽ như thế nào?

DTQ: Nếu như đánh giá, vừa rồi có sự chuyển đổi giữa nhiệm kỳ 11 và 12, để thử xem tiến hay thoái. Thế nhưng, tôi không nhìn từ khía cạnh đó. Nếu như mong muốn, nó vô cùng. Nhưng phải nhìn vào thực tiễn. Xu thế là thay đổi. Đó là tất yếu. Xu thế không thể ghìm lại được cho ai cả.

VW: Xu thế đó là gì?

DTQ: Xu thế là dân chủ. Dân chủ dần. Con người ý thức được điều đó, như là một lợi ích chung cho xã hội. Và cho chính mình. Bởi vì mỗi người đã là người sở hữu rồi, họ cần dân chủ chứ. Thời kỳ xa xưa, chỉ cần ký lệnh nào đó là họ tịch thu tài sản, bây giờ không ai có thể làm điều đó được. Yếu tính dân chủ thể hiện ở chỗ là quyền được sống. Thế còn quan niệm tài sản mình như thế nào, nó tùy thuộc vào lợi ích. Con người nào chẳng muốn lợi về phía mình? Đừng ảo tưởng cho rằng cái lợi là xa xôi. Cái lợi nó quan trọng, nhất là tìm được lợi ích của cá nhân trong cộng đồng.

VW: Hiện giờ hệ thống đảng và hệ thống chính phủ có vẻ lấn cấn hoặc giẫm chân lên nhau, hướng giải quyết là để nó từ từ tiêu hóa bởi xu hướng mà anh nói tới, hay phải giải quyết bằng những quyết định với những quyết tâm, nghị lực chính trị?

DTQ: Tôi không nghĩ như thế. Tôi nghĩ rằng ai ý thức được xu thế phát triển, người đó sẽ tồn tại được. Bản thân một tổ chức chính trị cũng phải ý thức được xu thế và làm những thay đổi thích hợp. Chứ còn còn gọi nó là cái gì thì ... tôi cho rằng không nên “duy danh định nghĩa.” Vấn đề là bản thân của những người lãnh đạo ấy có đáp ứng được lợi ích chung của xã hội hay không. Còn chúng tôi cũng không lý tưởng hóa họ như ông thánh. Nên mình phê phán điều mà mình cũng biết rằng, nếu có rơi vào mình cũng không làm gì hơn được. Anh nhận thức ra tất yếu chính là tự do.

VW: Qua một đề tài khác, trong quan hệ tam giác Mỹ-Việt Nam-Trung Quốc, có phải trong giai đoạn này, Việt Nam muốn đầu tư vào một quan hệ có tầm vóc chiến lược hơn với Mỹ để giải tỏa sức ép của Trung Quốc hay không, mặc dầu trên bề mặt, chính quyền Việt Nam có thể không xác nhận điều này? Có phải Việt Nam và Mỹ gần lại với nhau hơn trong một mục tiêu chung là đối phó với Trung Quốc?

DTQ: Tôi nghĩ đơn giản hơn nhiều. Có lẽ không riêng gì Việt Nam mà cả thế giới đều ý thức được rằng thời đại này không còn là thời đại của independence (độc lập) mà là thời đại của interdependence (phụ thuộc hỗ tương). Sự tồn tại độc lập của một nước nằm trong mối liên kết với nhiều nước. Thế thì phân tích tình hình Trung Quốc và Mỹ, đều là nhân tố rất lớn. Một cái là truyền thống, một cái là mới. Một cái ở quá xa, bây giờ kéo lại gần. Một cái gần, bây giờ đẩy ra xa một tí, thế thì cân bằng. Đơn giản thôi. Đương nhiên Trung Quốc là một mẫu hình rất đáng chú ý. Bởi vì dẫu sao, họ cũng còn gần với mình, kể cả về bước phát triển. Những thành công của Trung Quốc đáng học hỏi. Những chủ nghĩa kỳ thị là nguy hiểm. Anh đừng nhân danh quá khứ. Thế giới đã thay đổi quá nhiều rồi. Quá khứ của mình biệt lập, chỉ có mình với Trung Hoa là kẻ đô hộ. Chứ bây giờ mình là thế giới, mình phải tìm tất cả nguồn lực chứ. Tôi cho rằng Trung Hoa là vĩ đại. Và đương nhiên, nước Mỹ cũng sẽ mang lại cho Việt Nam rất nhiều nguồn lực để tạo ra sự cân bằng. Tôi cho rằng ý thức Việt Nam là một quốc gia như thế nào, nằm ở đâu, xác định tọa độ của mình, trình độ phát triển, cũng như sự tồn tại lâu dài, phải thấy rằng sự cân bằng là quan trọng.

VW: Anh là người nghiên cứu suốt chiều dài của lịch sử, anh thấy có gì đặc biệt về bản sắc, cá tính của dân tộc Việt Nam, mà nó có thể giúp ích hay gây thiệt hại cho chỗ đứng của Việt Nam trong một môi trường toàn cầu hóa?

DTQ: Soi vào gương, có nhiều gương. Ở trong nước gần đây cũng có xu hướng là xem xét lại, đặc biệt là quan tâm những điều tiêu cực theo kiểu “Người Trung Hoa xấu xí” gì đó. Đấy là một cách. Nhưng tôi có một cái nhìn lạc quan hơn, cũng do hoàn cảnh của mình. Cho nên Việt Nam hình như, để tồn tại phát triển, nó có một năng lực hội nhập mạnh hơn. Năng lực ấy có thể nhìn cả ở mặt tiêu cực của nó, ví dụ như là tính cơ hội. Mặt tích cực của nó là tính năng động, tính thích ứng. Một quốc gia ăn đũa, mà là nước Francophone, nói tiếng Pháp, mặc dầu chỉ là hình thức thôi. Một nước mà trong lịch sử, ngoài vị trí địa lý của nó, nó nằm khớp nối giữa 2 nền văn minh lớn là Trung Hoa và Ấn Độ, nó tiếp thu trong lịch sử. Nó là một nước nằm trên một tuyến đường giao thông rất sớm, để có thể tiếp cận với phương Tây vào thế kỷ thứ 17, 18. Đặc biệt là thế kỷ 20 dữ dội. Người ta hay nói đến chiến tranh, tàn phá, ngay cả chủ nghĩa thực dân, nhưng đặc biệt là không thể không nhận ra đằng sau nó có những điểm tích cực. Nếu chúng ta biết cách biến thành cơ hội, nó có thể biến thành lợi thế cho người Việt Nam. Nhìn lại những cuộc di dân lớn trong lịch sử, ví dụ như cuộc di dân từ Bắc vào Nam, rồi cuộc di dân ra nước ngoài sau năm 1975. Nhìn về mặt tiêu cực, nó là nỗi đau, thậm chí là một chiến tranh. Nhưng về mặt tích cực, nó là một lợi thế, trong khi không có nhiều quốc gia có nhiều cộng đồng kiều bào ở nước ngoài. Hội nhập với các quốc gia ấy để tiếp thu được nguồn sức mạnh của họ. Vấn đề là anh có thu hút được không. Đó là vấn đề chính trị, chính sách. Cách nhìn ấy cũng là cách nhìn cơ hội chăng, nhưng tôi cho rằng Việt Nam đang có một năng lực hội nhập do lịch sử để lại, nếu như được khai thác, tôi cho rằng vĩ đại. Có thể nhiều người phê phán người Việt Nam không cụm lại được như người Trung Hoa, nhưng đó không phải là con đường duy nhất để phát triển.

VW: Nãy giờ nói chuyện, anh nhắc nhiều đến Trung Quốc, điều đó có liên quan gì đến tên của anh là Dương Trung Quốc hay không?

DTQ: Không (cười). Đấy cũng là cái khổ đấy. Ta rất là ca ngợi chữ quốc ngữ, nhờ Latin hóa, cho nên tiếp cận với văn minh phương Tây rất nhanh. Thế nhưng, chúng ta đánh mất đi một di sản tích tụ từng hàng nghìn năm chúng ta sử dụng chữ Hán làm chữ viết của mình. Cho nên, vốn Hán-Việt và các ghi tự bằng Latin, tạo ra nhiều chữ đồng âm khác nghĩa. Chữ “trung” chẳng hạn. Có thể là “trung tâm.” Trung Hoa tự cho mình là nước trung tâm. Nhưng nếu chữ trung có thêm chữ tâm vào dưới, là bên trong lòng mình là “trung hậu”, “trung thành”. Thực ra, tên của tôi là “trung thành với tổ quốc.” Cũng vì hoàn cảnh riêng tư là khi tôi còn nằm trong bụng mẹ, ông bố tôi ở lại Hà Nội đánh với Tây, ông có dặn mẹ tôi là nếu sinh con trai ... Có lẽ, trong không khí, hào khí lúc đó. Sau đó ông hy sinh, ông chết. Mẹ tôi đặt tên cho tôi là Dương Trung Quốc.


TRÍCH TỪ BLOG NHÀ SỬ HỌC DƯƠNG TRUNG QUỐC

"Blog entry 4.11
Báo “Thanh Niên”vẫn tiếp tục câu chuyện nhà vệ sinh học đường. Nhiều nơi đã thấy biến chuyển vội “chữa cháy”. Chắc sắp tới ông Bộ truởng sẽ có một lời nhận khuyết điểm. Vậy mà vẫn có một ông hiệu trưởng nói rằng gặp khó khăn thì phải lo cái mặt tiền trước sức đâu mà lo một lúc nhiều việc.
Cách đây mấy kỳ họp ở nhiệm kỳ trước mình đã từng phát biểu tại QH hiện tượng các quan chức tới làm việc ở đâu cũng thấy tiền hô hậu ủng, cờ quạt, biểu ngữ, có nơi lại còn điểm binh như “đón nguyên thủ quốc gia”. Tiếp đón toàn những nơi “mặt tiền” cả. Không nói đến chuyện tốn kém, nhưng như thế thì làm sao sâu sát được. Chắc chắn ông bộ trưởng hay quan chức ngành giáo dục đến thăn các trường học chẳng ai noi cái gương của Cụ Hồ là xem nơi ăn, chốn ở, chỗ vệ sinh của dân. Đó cũng là biểu hiện của thói tệ quan liêu và thói xấu “tốt đẹp phô ra xấu xa đậy lại” mà nhà văn Vương Trí Nhàn với một loạt bài viết trên “Thể thao-Văn hoá” rất đáng đọc. Vì thế mà viết tiếp câu chuyên “ỉa-đái” dưới đây.
Nghĩ tiếp chuyện tuần trước
Bài nghĩ ngợi tuần trước vừa đăng thì gặp ngay ông quan chức của Bộ Y tế mà bài báo đã nhắc đến, tại hành lang Quốc hội khi ông tháp tùng bộ trưởng của mình đến dự phiên bàn về luật “Phòng, chống các bệnh truyền nhiễm”. Ông tiến sĩ bảo vệ đề tài “Các loại nhà tiêu trong vùng nông thôn Việt Nam” được các thày đánh giá cao vì vấn đề “giải quyết đầu ra” cho đời sống sinh học của con người là vấn đề không chỉ của Việt Nam.
Trong bài “nghĩ ngợi cuối tuần” truớc gửi đến cho tòa soạn, có một đoạn tôi viết rằng ở “Pari hoa lệ” mới vài thế kỷ cách đây, ban đêm người dân đô thị giải quyết đầu ra vào bô rồi đến sáng hắt qua cửa sổ… khiến cho những chiếc ô của các qúy ông và qúy bà không chỉ có tác dụng che mưa nắng mà còn để đề phòng những chậu nước thải bất ngờ dội từ trên các ô cửa sổ xuống. Nhưng có lẽ các nhà biên tập của qúy báo cho đó là chuyện không thể có nên “kiểm duyệt” cắt mất. Nhưng mở lại tạp chí sử học nổi tiếng của Pháp là tờ “Historia” thấy họ không chỉ viết thế mà còn đưa ra những ảnh minh hoạ thuở đương thời vẽ cảnh trạng này với lời chú là xảy ra ở đầu thế kỷ XIX và lại có cả tranh vẽ cảnh các bà các cô trong những bộ cánh sang trọng đang vén xống áo làm ngay một bãi tè giữa đường phố trước con măt kinh ngạc của một người Anh, rất giống với cảnh một thời ở nhà quê, các bà các chị nhà ta thường mặc cai váy đụp rất tiện lợi vì kín đáo khi giải quyết việc đó ngay trên đuờng làng hay trên đường cái quan.
Vấn đề vệ sinh đô thị từng là một vấn nạn của những xã hội phát triển trước khi loài người phát minh ra cách tiêm chủng các loại văc xin phòng ngừa những nạn dịch tiêu diệt một bộ phận không ít dân số của các đô thị. Ở Hà Nội hồi cuối thế kỷ XIX khi người Pháp đang khuếch trương phát triển đô thị thì một cơn dịch tả đã khiến chính quyền và dân cư kinh hoàng đến mức phải biến khu Văn Miếu - Quốc Tử Giám thành một nhà thương dã chiến và cách ly. Chính viên toàn quyền Đông Dương Paul Bert cũng mắc dịch rồi bị chết.
Nước nhà vừa giành được độc lập, một trong những việc quan tâm hàng đầu của cụ Chủ tịch nước là xây dựng “Đời Sống Mới”. Cụ mời anh chị em trí thức, văn nghệ sĩ xúm tay vào việc này. Trên tờ báo “Tiền Phong” của Hội Văn hoá Cứu quốc theo lệnh của Cụ Hồ, anh chị em hội viên nghiên cứu và sáng tác ra các tiêu chí về “Đời Sống Mới’ dưới dạng các câu khẩu hiệu tuyên truyền rộng khắp. Trong đó, vấn đề giải quyết nhu cầu “đái-ỉa” là điều không thể thiếu. Xin đơn cử: “một nhà ga đời sống mới phải có: nhà xí”; một chợ đời sống mới phải có “chỗ phóng uế, chỗ chứa rác”; một thành phố đời sống mới phải có “chỗ phóng uế cho thực nhiều”…
Đến khi phải rời thành phố lên chiến khu, Cụ Hồ còn dạy cho cán bộ chiến sĩ của mình phương pháp mỗi lần đi làm việc ấy thì mang theo một cái xẻng, xong việc thì lấp đất lên vừa vệ sinh, vừa lợi đất lại vừa giữ được bí mật…
Ông tiến sĩ “nhà tiêu” bạn tôi còn lưu ý đến một thành tựu của Việt Nam trên lĩnh vực này. Đó là cái hố xí hai ngăn. Nguyên lý cơ bản của nó là tách được nước tiểu khỏi phân và thực hiện việc ủ phân tại chỗ. Chỉ cần ủ đúng quy trình bằng các loại chất độn thích hợp nhưng rất dễ kiếm thì không những không khí không bị ô nhiễm mà chất lượng phân đem bón vừa bảo đảm vệ sinh môi trường lại trở thành một nguồn lợi lớn.
Cái hố xí hai ngăn này với những tiện ích của nó thực sự đã cải thiện căn bản cái vẫn nạn “đổi thùng” của Hà Nội cũng như một vài đô thì khác ở miền Bắc trước khi loại hố xí tự hoại (mà thời đầu dân vẫn quen gọi là “hố xí máy”) trở nên phổ biến sau ngày miền Nam giải phóng. Tôi đã từng thấy trong một vài cuốn sách nước ngoài viết về Việt Nam đã vẽ sơ đồ cái hố xí hai ngăn để biểu dương nó như một phát minh quan trọng. Tôi đã xem Bảo tàng Thành phố London trong đó bày một cách trang trọng các loại “xí” mà người dân thủ đô nước Anh đã dùng qua mỗi thời và nghĩ rằng một ngày nào đó tại Bảo tàng Thành phố Hà Nội cũng nên xây một cái “nhà xí hai ngăn quen thuộc một thời.
Ông bạn tiến sĩ của tôi thì khẳng định rằng đó là một phát minh quan trọng mà những nguyên lý của nó đang được một số nước kể cả một số nước tiên tiến ứng dụng trong khuynh hướng được gọi là “vệ sinh khô” nhằm ứng phó với việc nguồn tài nguyên nước ngày càng trở nên khan hiếm. Cứ làm một con tính, theo cung cách phổ biến hiện nay, mỗi một bãi đái phải tốn từ 3 đến 5 lít nước xả, mỗi một bãi ỉa thì chừng gấp đôi, tổng số nuớc đáp ứng cái nhu cầu không thể không có này lớn đến nhường nào.
Tiến sĩ còn cho biết ngọn nguồn của “hố xí hai ngăn” này từ một cán bộ của địa phương tỉnh Quảng Ngãi (đến nay chưa xác minh được tính danh), nhưng sáng kiến này được Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch rất quan tâm. Là một nhà dịch tễ học, bác sĩ Thạch nhận ra những ưu việt của giải pháp xử lý này. Lan truyền trong ngành y câu chuyện đã thành truyền thuyết là Bác sĩ Thạch luôn đặt trên bàn làm việc và trước mặt mình một cái lọ đựng thứ phân đã được ủ đúng quy cách lấy từ nhà vệ sinh của mình để chứng minh cho mọi người tác dụng của sáng kiến nọ để thuyết phục áp dụng loại nhà vệ sinh này trong đời sống…
Tiến sĩ lại cho biết vấn đề giải quyết việc ỉa đái này cũng đựơc coi là vấn đề toàn cầu vì nó thiết thực với chất lượng sống cũng như vấn đề môi trưòng sống của con người. Ở các nước phương Tây phát triển khi đã đạt tới việc ứng dụng những kỹ thuật, thiết bị tiên tiến cho các loại nhà vệ sinh thì bắt đầu quay trở lại việc nghiên cứu theo chiều hướng bảo đảm môi trường và tái sử dụng các chất thải. Ở Thụy Điển chẳng hạn, nước tiểu ở những nhà vệ sinh công cộng đựơc góp lại vào những xtec để tái sử dụng việc trồng các sản phẩm sạch. Họ cho rằng giải pháp làm sạch rồi thải vào các nguồn nước các chất do con người thải ra là hạ sách và lãng phí… Họ còn tính toán rằng số chất có ích sản sinh từ những bãi nước đái của mỗi người thải ra đủ đáp ứng nhu cầu mà người đó cần đến trong cuộc sống.
Cách đây hơn một thập kỷ ở Trung Quốc các nhà khoa học đã nêu vấn đề một cách nghiêm túc là “Trung Quốc cần có một cuộc cách mạng các nhà vệ sinh”, thì vào thời điểm này, khi đang tăng tốc chuẩn bị cho Thế vận hội Bắc Kinh 2008 người Trung Quốc đang tỏ rõ quyết tâm biến nó thành sự thật.
Còn Việt Nam ta, hãy thử khởi động bằng mối quan tâm đến việc ỉa đái của con em chúng ta bắt đầu từ nhà trường và từ ngày hôm nay!"
Duơng Trung Quốc

THẾ LÀ TÔI BƯỚC VÀO THẾ GIỚI ẢO
Thế là tôi đã bước vào một thế giới ảo. Để làm gì ? Tôi chẳng biết. Mà biết cũng để làm gì ?
Từ lâu nay tôi vẫn hay có thói quen vào các blog - của bạn bè, của thiên hạ, của người thân, cả của người mình chẳng thích. Có thể tủm tỉm cười vì một điều thú vị nào đó, có thể nhăn mặt vì một điều khá tệ hại, khá trơ trẽn… trên những trang nhật ký của người dưng.
Và lại giật mình. Ô hô ! Tâm tư tìm cảm của người là lại phô bày ra trước thiên hạ như vậy sao. Liệu đó là thật hay là ảo.
Tối qua vào blog của nhà văn Lý Lan, thấy nhà văn đeo một mặt nạ khá đẹp, một cư dân mạng đã hỏi nhà văn – mặt nạ đó, gương mặt đó là thật hay giả đây.
Ừ, mà suy nghĩ vẩn vơ làm gì. Chi bằng mình thử bước vào thế giới này vậy.
Thật giả có hề chi.

DẪU BIẾT VẬY VẪN PHẢI HỤT HẪNG
Như vậy là một thành viên trong cái gia đình nhỏ bé 99, Trần Văn Hoài đã “rời bỏ đội hình”. Những lý do được đưa ra vô cùng… lãng xẹt so với những tình cảm, những kỷ niệm mà các thành viên đã giành cho nhau. Một số đồng nghiệp nghe tin tròn mắt bảo “Sao lại vậy ? Sao đúng vào thời điểm này ? Đánh đổi tất cả để được cái gì ? ”.

Mình không nuối tiếc, không âu lo vì công việc chung. Nhưng lại buồn, lại giận, lại hụt hẫng. Phải chăng mình quá coi trọng tình cảm trong công việc. Nhưng liệu làm việc mà lạnh lùng, cân đong đo đếm liệu có nên hay không. Nhất là tụi mình đều là người phương Đông.

Thôi thì muốn hết sầu đau hãy giết cái giận.

Thiền Sư Thích Nhất Hạnh kể như vầy:

Có một người nữ bà la môn tên là Dhanajani, đệ tử của Bụt. Ông chồng thuộc về giòng họ Bharagvaja, một giòng họ bà la môn có tiếng tăm và giàu có. Một bữa đem cơm lên cho chồng, không biết cảm hứng làm sao mà bà đọc lên câu: "Namo Tassa Bhagavato Arahato Samasam-buđhasa." (Kính lạy bậc Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, bậc Chánh Biến Tri). Ông hỏi : "Bà lẩm bẩm cái gì thế? Ông đó là ai mà bà cung kính và quy ngưỡng như vậy?" Nữ bà la môn nói : "Ông chồng yêu quý của tôi ơi, ông chưa biết người này đâu. Nếu mà ông gặp được người này thì ông sẽ thương kính và quy phục liền. Tôi chưa thấy một người nào trên đời mà trí tuệ, đức hạnh, tình thương và tuệ giác lớn như thế." Vị bà la môn đó mới thử tìm tới gặp Bụt. Khi gặp Bụt, ông ta đã hỏi về vấn đề giận. Vì Bụt đã trả lời rất hay và ông rất thỏa mãn nên ông đã xin xuất gia. Ông hỏi : "Cái gì mình giết, thì mình được an vui? Cái gì mình giết thì mình hết sầu đau? Ngài là bậc xuất gia cao quý, Ngài đồng ý nên giết cái gì?" Bụt trả lời rằng: "Giết cái giận, thì mình hết sầu đau." Đây là nguyên văn của Kinh:
Giết gì được an lạc?Giết gì hết sầu đau?Giết gì Ngài đồng ýTôn giả Gotama? Bụt trả lời : Giết giận được an lạcGiết giận hết sầu đauNguồn suối của giận hờnLà chất độc hàng đầu Tất cả các bậc thánhĐều đồng ý giết nó
Một vị bà la môn khác, thuộc cùng giòng họ tên là Bilanjika, nghe nói là người bà con của mình - Bharagvaja - đã đi xuất gia với Bụt. Ông đã nổi giận tìm tới và chửi Bụt. Trong khi đó Bụt chỉ ngồi cười. Vị bà la môn hỏi: "Tôi chửi ông, tại sao ông không nói lại?" Bụt nói : "Quà đem tới tặng, nếu người ta không nhận thì mình phải tự lãnh lấy chứ!"
Đoạn này được chép lại trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương. Khi người ta đem quà tới tặng mà người kia không nhận thì quà đó lại trở về mình. Câu chuyện đó đã tới tai vua Ba Tư Nặc. Khi mình chửi mắng người ta, cơn giận đã làm mình khổ và người bị chửi mắng kia có thể giận hay không giận - trong trường hợp Bụt là không giận. Và những hành động của mình, những lời chửi mắng của mình, trước hết đã làm hại chính mình. Bậc y sĩ Sau đó, Bụt đọc bài kệ này: Với kẻ không giận hờnCơn giận từ đâu tới?Sống tự chủ an nhiênQuán chiếu nên thảnh thơiNhững ai bị chửi mắngTrở lại chửi mắng ngườiKẻ ấy tự hại mìnhVà cũng làm hại người.Những ai bị nói nặngKhông nói nặng lại ngườiKẻ ấy thắng trận lớnThắng cho mình cho người.Kẻ ấy làm lợi íchĐồng thời cho cả hai.Hiểu được gốc cơn giận Đã phát sinh nơi ngườiTâm ta sẽ thanh tịnhAn lành và thảnh thơi.Ta là bậc y sĩTrị cho mình cho ngườiKẻ không hiểu chánh phápMới cho mình dại thôi!

Ta hãy cùng đọc kỹ bài kệ ấy. "Với kẻ không giận hờn", ở đây, có nghĩa là với kẻ không có hạt giống giận hờn trong tâm, thì cơn giận không thể nào phát hiện và lôi kéo kẻ ấy đi được. Sở dĩ ta giận là tại ta có hạt giống giận khá lớn trong lòng ta. Hạt giận đó có thể do ông bà hoặc cha mẹ trao truyền lại. Động một chút là ta đã có thể nổi tam bành lục tặc lên rồi. Còn người không có khối giận đó trong tâm thì ai nói gì cũng có thể mỉm cười.

"Sống tự chủ an nhiênQuán chiếu nên thảnh thơi"

Những người ấy biết sống tự chủ, tự chế ngự mình và tự phòng hộ mình. Nhờ có trí tuệ quán chiếu cho nên họ không bị vướng vào vòng buồn giận. Trí tuệ quán chiếu là năng lượng bảo vệ cho tự thân. Quán chiếu đây là Từ quán, Bi quán, Hỷ quán và Xả quán.

"Những ai bị chửi mắngTrở lại chửi mắng ngườiKẻ ấy tự hại mìnhVà cũng làm hại người."

Khi người ta nói nặng mình mà mình nói nặng trở lại, thì lúc đó mình đã tiếp nhận cái bạo động của người ta, để mình làm khổ mình. Khi mình chửi mắng lại, thì mình làm hại người ấy nữa, như thế là mình làm hại cả hai. Người kia đã khổ, mình lại làm cho họ khổ thêm một tầng nữa. Người kia vì khổ quá, có thể chửi mắng thêm một lần nữa, và cũng sẽ làm mình khổ thêm một lần nữa. Và hai bên tiếp tục leo thang. Vì vậy cho nên ta phải tránh việc làm hại cho cả hai bên. "Những ai bị nói nặngKhông nói nặng lại ngườiKẻ ấy thắng trận lớnThắng cho mình cho người.Kẻ ấy làm lợi íchĐồng thời cho cả hai."

Bài kệ này nói về vấn đề chiến thắng; chiến thắng cho mình và chiến thắng cho người kia nữa. Nếu ta thua trận, ta sẽ chửi mắng trả lại và người kia sẽ còn đau khổ hơn. Thắng trận, ở đây, là thắng cho cả hai.

"Hiểu được gốc cơn giận Đã phát sinh nơi ngườiTâm ta sẽ thanh tịnhAn lành và thảnh thơi."

Mình hiểu được tại sao người đó giận mình: người đó vì vô minh, người đó vì có tri giác sai lầm, người đó vì đã tiếp nhận những hạt giống giận hờn từ ông bà, từ cha mẹ và từ xã hội. Hiểu được như vậy thì tâm ta sẽ an tịnh, an lành và thảnh thơi.
"Ta là bậc y sĩ Trị cho mình cho người"

Ta đóng vai của một vị thầy thuốc. Ta trị bệnh cho ta và trị bệnh cho người. Khi người kia nóng giận mà nói lên, nếu ta mỉm cười, không giận, thì người đó từ từ sẽ hiểu, sẽ biết nhìn lại và sẽ thấy lỗi của mình, và có thể có cơ hội để chuyển hóa và do đó cơn giận được trị liệu. Cho nên người nào làm được như vậy là đang làm một vị y sĩ trị bệnh cho mình và cho người.

HỨA VỚI MỌI NGƯỜI


Vốn dĩ theo nghề báo. Cuộc đời của mình là một chuỗi dài chuyển dịch. Bạn bè hỏi thú vị không ? Tại sao không !
Mình rất thích mỗi khi đi đâu xa. Mà thường thì bạn bè chẳng bao giờ biết – đôi lúc mình còn không biết mình sẽ đi đâu, làm gì vào chiều nay hay sáng mai huống hồ là người dưng !
Thành thử mình rất thích chọc ghẹo mọi người. Cứ tưởng tượng bác Kim Đính “mắt chữ A miệng chữ O” khi mình nhắn tin “mọi người ơi H. đang ở Huế… ở Lạng Sơn… ở Hội An nè”. Và đó cũng là nguyên do để bác Đính cứ thúc ép mình : “Làm blog để bạn bè còn biết H. đi đâu. Không làm tụi tui đăng tin tìm “trẻ” lạc à nghen”. (phụ chú: mấy cha nầy nói hơi sức đâu mà tin, thế nên mình chẳng dại gì hí hửng khi các bác gọi là… “trẻ”). Ha ha ha
Thích thì chiều. Một vài tấm hình nè bác Đính ới ời.
Một ở cột mốc số O tại cửa khẩu Hữu Nghị Quan, tỉnh Lạng Sơn; một ở trên đỉnh núi Chúa cao nhất đảo Phú Quốc.

ĂN HÀNG RONG CHỢ NỔI

Chị Tư bán bún mắm

Chợ nổi Cái Răng

Hệ thống sông nước miền Tây đã sản sinh ra vô số chợ nổi - từ Cái Bè đến Long Xuyên, từ Cái Răng qua Phong Điền trôi xuống Ngã Bảy Phụng Hiệp… Bao nhiêu chợ mà tôi vừa kể đã mê hoặc không biết bao nhiêu du khách trong và ngoài nước. Họ tìm đến để ngắm nghía chụp hình, để mê mải khám phá cây trái miệt vườn đến không thôi. Vậy mà chợ nổi còn có một điều thú vị khác mà du khách rất dễ bỏ qua – hàng rong trên sông !

Hãy thử ghé chợ nổi Cái Răng khi bình minh vừa ửng. Ghe của du khách vừa trờ mũi đã thấy vô số mũi ghe tam bản khác từ tứ phía… lao vun vút tới. Cùng lúc là bao nhiêu thanh âm ập đến: Bánh bao nóng hổi vừa thổi vừa ăn nè ! Bánh mì, bánh mì Sài Gòn, bánh mì nóng giòn đê ! Ông khách đứng tuổi cắc cớ hỏi: “Ê nhỏ, sao ở Cần Thơ mà rao bán bánh mì Sài Gòn vậy nè”. Hổng ngờ thằng nhỏ nó nói tỉnh rụi: “Hồi trước con cũng rao bánh mì Cần Thơ, vậy mà con nhỏ Sáu bán vé số cắc cớ chi cứ đệm vô bánh mì Cần Thơ cứng đơ như cây củi nên con mới đổi đó chớ”. Bà Tư lớn tuổi trong đoàn cười hớ hớ rồi bảo: “Thằng quỷ, bán cho tao một ổ, hổng giòn tao trả lại đó”. Chỉ vậy thôi mà rộn ràng cả một khúc sông. Nhìn quanh, nào chỉ có bánh mì, bánh bao. Còn có khoai lang, khoai mì luộc, rồi nào là xôi vò, là chè, cháo, hủ tíu. Mỗi một chiếc xuồng tam bản chòng chành là cả một gian bếp bềnh bồng di động. Cũng hay một điều lắc lư sóng nước vậy mà bếp lửa vẫn đượm cháy, nồi nước lèo không đổ sớt ra ngoài. Và thần sầu nhất là mấy bà, mấy cô bán hủ tíu cắt miếng thịt heo cứ là đều chằn chặn, lại có thêm loại thịt xắt mỏng như tò giấy, gió thổi nhẹ là bay ! Họ bảo để bán cho tô hủ tíu giá một ngàn rưỡi, hai ngàn gì đó.

Cái hay của hàng rong chợ nổi lại còn ở mức giá cả. Bán cho người dân lao dộng ra sao họ cũng bán cho du khách làm vậy. Như chị Tư bán bún mắm ở chợ nổi Cái Răng. Từ năm ngoái đến năm nay chỉ nhứt giá một tô bún 4 ngàn đồng. Cũng bún trắng tinh, rau muống xanh ngắt, nước lèo đỏ hồng màu mắm cá sặt Cà Mau, trên cùng là đúng 3 con tép đất và 2 miếng thịt cá lóc ngọt lừ, điểm tí ớt bằm đỏ thẫm. Khách ăn ngon miệng quá nói chị Tư lấy thêm chén tép và cá lóc ăn chơi, bao nhiêu tiền cứ tính thêm không tính tóan. Hổng ngờ chị Tư lắc đầu từ chối mà rằng: “Tui hổng bán vậy đâu. Để dành cho mấy người ăn sau nữa chớ. Tép, cá, bún bao nhiêu tui phân lượng hết trơn rồi cô ơi”. Khách chưng hửng nhưng rồi chợt hiểu đây mới là cái thú vị dân dã vừa khám phá được nơi này.

Ăn xong tô bún mắm, ngoắc ông chủ ghe cà phê làm một ly cho ấm bụng. Muốn đen có đen, muốn đá có đá. Thường thì họ pha cà phê bằng vợt, họ bảo pha vậy cà phê ra đậm hơn. Lại nghe nói dân thương hồ chợ nổi Cái Răng vốn là dân tứ xứ nên cách ăn, cách uống cũng khác nhau. Chuyện uống cà phê cũng vậy. Tỷ như, tay nào uống cà phê vợt bằng ly xây chừng đích thị dân trong đồng mới ra; cầu kỳ uống cà phê pha phin chắc mẻm chả ở thi trấn, thị tứ gì đó, hổng chừng đất đai của chả gần được hay gần… bị quy hoạch thành phố thị hổng chừng. Lại có khách thương hồ uống cà phê theo kiểu cầm ly xây chừng đổ ra dĩa nhỏ cầm tay rồi… húp ! Nghe nói chỉ mấy ông Huê kiều xứ Long Xuyên hoặc giả Cà Mau uống kiểu đó mà thôi.

Bấy nhiều thôi đã thấy mê mẩn vô cùng chợ nổi miền Tây.

HOAN HÔ NHÀ VĂN LÝ LAN
Đúng là cái tật tò mò cố hữu. Blog vừa lập xong, không chăm chút cho nó mà cứ quen tật “nhòm ngó” blog thiên hạ. Cũng chẳng bỏ công khi thấy nhà văn Lý Lan nói đúng phóc ý nghĩ mình hổm rày khi truy cập mạng Dân trí.
Mình xin đăng lại bài viết của nhà văn Lý Lan cho bạn hữu cùng xem.
Xin phép nhà văn nhé !

“Năm nẵm năm kia có một ông bạn bỗng cao hứng nhảy vô làng báo, thuê của Dân Trí một số cuối tháng hay đầu tháng gì đó, định làm một tờ báo tử tế với những ý tưởng to đùng, rủ mình viết, hình như đựơc một số rồi … thôi. Nhưng nhờ vậy mình biết trên đời này có một tờ báo là Dân Trí, từ đó thỉnh thoảng vô dantri.com để đọc lai rai. Hôm qua đọc bài này, “Vi hành” coi sinh viên sống thử. Đọc xong không thể nào hiểu nỗi. Mình trích lại đây những câu , đoạn thách thức trí tuệ của mình nhất (trí tuệ, chứ không phải đạo đức, mình là một cô giáo già bỏ dạy mà!) Những dòng chữ italic là trích nguyên văn từ bài báo đó. “Sống thử” không chỉ là hiện tượng “ăn khách” trong giới sinh viên Huế mà còn là một thực trạng của sinh viên Việt Nam hiện nay. (Không hiểu được ngôn ngữ: có phải ý nói “hiện tượng phổ biến”?)Sinh viên sống “thử” không khác gì “thật” làm người ngoài nhìn vào chỉ biết ngán ngẩm lắc đầu. (Không hiểu được hành vi: “người ngoài” mắc mớ gì “nhìn vào” đời sống của người ta, dù “thử” hay thật”, cuộc sống của mỗi người là việc riêng của người đó, buồn vui sướng khổ dở hay là nỗi riêng của mỗi người, mắc mớ gì “người ngoài nhìn vào”, rồi còn “ngán ngẩm lắc đầu”?) Bước chân vào phòng trọ của cô sinh viên tôi mới té ngửa khi thấy một cậu điển trai không kém đang “lốc cốc” trên giường bò xuống… xỏ quần. (Không hiểu được thái độ: “tôi” theo nội dung trong bài đang “vi hành” đội lớp người bán xôi đi làm điều tra phóng sự xã hội, không rõ là nhà báo hay công an, mà mới bước chân vào phòng trọ của cô sinh viên đã “té ngữa”!)một cặp đôi cho biết, cả hai cùng quê lên thành phố học, xa nhà cuộc sống lại khó khăn, vả lại yêu nhau từ thời cấp 3 nên vào đây “góp gạo” cho đỡ tốn kém. (Không hiểu được lô gíc: sống như vậy thì có gì không phải?)Trong khi nhà trường chưa có biện pháp quản lý và không thể cấm sinh viên “góp gạo” (…) Phần lớn các nhà trọ có chủ quản lý trực tiếp đều lên tiếng phản đối chuyện nam nữ “sống thử” (…) Những hôm kiểm tra định kỳ hay bất ngờ công an phường đến … (Không hiểu được luật lệ: Sinh viên là người có tuổi từ 18 trở lên, ở hầu hết các xã hội hiện nay, người 18 tuổi trở lên được coi là trưởng thành và được tôn trọng trước pháp luật. Chủ nhà trọ có quyền cho hay không cho ai đó mướn nhà, nhưng tại sao một đôi nam nữ trưởng thành sống với nhau cần có “biện pháp quản lý” của nhà trường hay phải lẩn trốn khi công an kiểm tra? Bộ Việt Nam có luật cấm nam nữ trưởng thành sống với nhau à? “Sống thử” vẫn chưa được đồng tình, nếu không muốn nói là lên án. (Không hiểu ngữ pháp: viết khơi khơi như vậy thì biết ai chưa đồng tình ai lên án, tác giả bài báo ư?) Thực tế cho thấy tình yêu sinh viên rất khó có kết thúc đẹp. Phần lớn các cặp đôi đều không vượt qua được áp lực từ nhiều phía gia đình, công việc, khoảng cách địa lý v.v. (Không sao hiểu nỗi: với tuổi trẻ và tri thức - sinh viên mà - người ta đang sống giai đoạn rực rỡ nhất đời người , và người ta chỉ sống một lần cuộc đời này thôi, tự người ta biết điều gì quan trọng nhất đối với mình, và biết tự vượt qua, chống trả, chíên đấu, bảo vệ cuộc sống của mình, tình yêu của mình, tự do của mình. Nếu cuối cùng người ta không vượt qua được những áp lực này nọ, thì người ta có thể cam tâm sống cái đời trong khuôn phép của người khác áp đặt, chưa chắc tệ hơn cái cuộc đời ngay từ đầu đã phải từ bỏ mọi thách thức và đam mê để khép cho vừa khít khuôn mẫu nào đó.) Sống thử sẽ gây ra nhiều hậu họa khôn lường như nạo phá thai, tiếng xấu cả cuộc đời cho bạn gái
(Vấn đề giới tính: khi có hoạt động tình dục giữa nam và nữ, thì vấn đề là biện pháp tình dục an toàn, cho cả nam lẫn nữ. Chuyện chửa đẻ hay phá thai có thể ảnh hưởng đến sức khỏe và cuộc sống của người nữ nhiều hơn người nam, nhưng đó là trách nhiệm - và hạnh phúc hay lo toan - của cả hai người, và phải được luật pháp cùng xã hội nhìn từ góc độ bình đẳng bình quyền đó. Cái “tiếng xấu cả cuộc đời cho bạn gái” chỉ có thể xảy ra trong một xã hội - và luật pháp - bất công đối với phụ nữ. Và vấn đề là đấu tranh cho một xã hội tốt hơn, công bằng hơn, chứ không phải tước bỏ quyền sống của phụ nữ bằng răn đe và điều tíêng thị phi.Mình không xúi ai “sống thử” cả, vì mình chủ trương sống thật. Đâu có ai sống tới sống lui cuộc đời mình đâu mà “sống thử”? Cái tíc tắc mình đang sống đây, đang qua, và qua rồi là quá khứ không thay đổi được nữa. Người nào sống thật từng giây phút của đời mình thì mới sống trọn vẹn cuộc đời mình, dù đời có thế nào đi nữa. Cái khiến mình nổi sùng là cái giọng của bài báo: do vậy rất cần nhà trường, chính quyền địa phương đặc biệt là các chủ trọ quan tâm chú ý hơn đến các sinh viên trong cuộc sống hàng ngày. (cho đến bao giờ báo chí Việt Nam mới thôi cái kiểu viết này?)
Này sinh viên ơi, anh/chị là người trưởng thành, là công dân trẻ đang chuẩn bị để gánh “trọng trách nước nhà” và vai trò “nhân tố tích cực” trong xã hội. Anh/chị có quyền hưởng một nền đại học tiên tiến với những nội dung chính khoá và hoạt động ngoại khoá khơi mở được tài năng của các anh/chị, chuẩn bị tốt nhất những kỷ năng nghiên cứu, đánh giá, ứng dụng, sáng tạo, giao tiếp, thương thảo, để các anh/chị khi xông ra đời có đủ bản lĩnh để tranh sống cho mình, cho gia đình mình, cộng đồng hay tổ chức của mình, cũng như xã hội và đất nước mình trong một thế giới bao la hơn cái phòng ngủ, mà cuộc tranh sống là một đấu trường khốc liệt. Các anh/chị không phải là con nít mới lớn, để cho một gã bán xôi xục xạo vào phòng ngủ của mình, bị “té ngữa” ngay ngưỡng cửa, lên giọng răn đe dạy đời”. LÝ LAN

Bài nầy mà đăng lên báo có lẽ nhiều người đọc, nhiều người hưởng ứng lắm đây. Mình mà giống mấy ông ở báo Dân Trí là gởi mail ngay qua Mỹ cho nhà văn để xin phép đăng ngay bài báo nầy. Làm được vậy tờ báo sẽ “sang” lên thấy rõ.
Được đăng bởi HONG HANH vào lúc 13:32
0 nhận xét:

VỀ QUÊ BẠN

QUÊ BẠN Ở XỨ TÀ NIÊN, CHỈ CÁCH SÂN BAY RẠCH GIÁ ĐỘ CHỪNG 7 KM THÔI MÀ ĐÃ RA CANH THÁI BÌNH AN LẠC ĐẾN VẬY.


Hôm Thứ Bảy thiệt là một ngày vui. Dự xong một buổi lễ ở Rạch Giá, nói chuyện tiếu lâm và lai rai một chầu với hai ông anh Huỳnh L. và Q. Sử, nhìn đồng hồ chỉ mới 13h30. Chợt nghĩ, tại sao không về quê của bạn mình !
Nơi chốn đó, có một bà mẹ cực kỳ hay, thương con mình chừng nào thì cũng quý bạn của con mình chừng đó. Và còn những ông anh, thằng em trai, nhỏ em gái… chân chất, mộc mạc như người Nam bộ vốn vậy. Lại thêm những địa danh mới nghe qua đã thấy phảng phất không khí văn chương của cụ Hồ Biểu Chánh, của cụ Phi Vân quá chừng…

Dừng xe ở chợ Tà Niên – nghe tên chợ quá đã phải không - gọi điện cho bạn mình đang ở Sài Gòn - hắn hốt hoảng la Trời. Thì tui vốn là người ưa làm chuyện bất tử mà. Nhảy lên một chiếc xe honda ôm, nói ổng chạy tà tà để tìm nhà là một chuyện, để ngắm cảnh là hai.

Trời đất, quê xứ bạn mình đẹp đến vậy sao. Thử tưởng tượng, một ngôi nhà lợp ngói âm dương, có đến hai mặt tiền, một mặt ngó lên đưòng, một mặt day xuống dòng sông có những chiếc tàu hàng chạy bình bịch. Một bên nhà là vườn cau, dây trầu xanh um. Bà má cười nói, dẫn mình hết nằm võng đến ngồi nói chuyện trên mấy bộ ván ngựa mát lạnh để mà nói chuyện lăng đăng lê đê. Mọi người thử tưởng tượng, một ngôi nhà mà đi đâu cũng gặp mấy bộ ván ngựa, mấy cái võng thì mắc la liệt từ trong nhà, ra đến mất bụi cây sê ri ngoài vườn, vòng xuống trước bờ sông cũng có… Cái hồn vía ngôi nhà Nam Bộ là ở chỗ nầy đây. Vậy mà bạn mình lại đang tính chuyện đập ngôi nhà nầy ra để xây biệt thự tặng bà má ! Uống một ca nước dừa ngọt lịm. Lại được bà má dẫn đi tắm nước mưa. Thôi thì, đến khách sạn 5 sao cũng chào thua ! Lại ân hận. Tiếng là “tướng vùng” mà đến tận bây giờ mới mò ra quê bạn. Anh Hai đem ra một bình rượu đế, nghe Út Hận nói chị Hai mới “cất” hôm qua. Tám đủ thứ chuyện. Từ chuyện nhà, chuyện cửa, đến chuyện thời sự xứ quê nầy. Tỷ như chuyện “hôn nhơn gia đình” có tay làm thuê nọ bị nhạc gia tương lai gạt gẫm, ức quá giết luôn người tình. Cho đến chuyện “mua bán thời WTO”, Út Chín bày ra bán tạp hoá thì nhà kế bên cũng bán, Út Hận bày bàn bida thì vài hôm sau nhà gần đó cũng tậu về…

Nhậu đã đời. Nói chuyện đã đời. Cứ như được về nhà mình. Tám chín giờ tối gì đó, bạn mình gọi điện, hắn gào lên đầy… ghen tị: “Đừng có nói là mấy người ngủ lại nhà tui đó nghen”. Mình gào lại: “Ha ha… bây giờ tui đã có nơi chốn để nắm níu rồi. Lần sau đi công tác về xứ nầy, tui về… nhà má tui ngủ”.
CHUYỆN CHA ÔNG
Tháng 12 năm Giáp Thân 1284, hiệu Thiệu Bảo năm thứ 6, đời Trần Nhân-Tông, đại binh Thoát Hoan tiến đánh Chi Lăng, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn thất thế đưa quân chạy về Vạn Kiếp. Vua Nhân-Tông thấy thế giặc mạnh, cho mời Hưng Đạo Vương về Hải Dương mà phán rằng "Thế giặc to như vậy, mà chống với chúng thì dân chúng bị tàn sát, nhà cửa bị phá hại, hay là trẫm sẽ chịu hàng để cứu muôn dân ?" Vương tâu: "Bệ hạ nói câu ấy là lời nhân đức, nhưng Tôn-Miếu Xã-Tắc thì sao ? Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin trước hết hãy chém đầu thần đi đã, rồi sau hãy hàng !!" Vua nghe thế yên lòng. Hưng Đạo Vương trở về Vạn Kiếp hiệu triệu 20 vạn quân Nam, và thảo bài Dụ chư tỳ tướng hịch văn (Trung văn: 諭諸裨將檄文, thường gọi là Hịch tướng sĩ) để khuyên răn tướng sĩ, đại ý khuyên binh sĩ học tập và rèn luyện võ nghệ, khuyên các tướng học tập trận pháp theo sách Binh thư yếu lược, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 2.

Hịch Tướng Sĩ
Ta thường nghe: Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước. Kính Đức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thái Sung; Cảo Khanh một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào chẳng có ? Ví thử mấy người đó cứ khư khư theo thói nhi nữ thường tình thì cũng đến chết hoài ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách cùng trời đất muôn đời bất hủ được ?
Các ngươi vốn dòng võ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi việc đời trước hẵng tạm không bàn. Nay ta lấy chuyện Tống, Nguyên mà nói: Vương Công Kiên là người thế nào ? Nguyễn Văn Lập, tỳ tướng của ông lại là người thế nào ? Vậy mà đem thành Điếu Ngư nhỏ tày cái đấu đương đầu với quân Mông Kha đường đường trăm vạn, khiến cho sinh linh nhà Tống đến nay còn đội ơn sâu ! Cốt Đãi Ngột Lang là người thế nào ? Xích Tu Tư tỳ tướng của ông lại là người thế nào ? Vậy mà xông vào chốn lam chướng xa xôi muôn dặm đánh quỵ quân Nam Chiếu trong khoảng vài tuần, khiến cho quân trưởng người Thát đến nay còn lưu tiếng tốt !
Huống chi, ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham khôn cùng; khoác hiệu Vân Nam Vương mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau.
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.
Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Đi thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. So với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi người phụ tá, nào có kém gì?
Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường đãi yến sứ ngụy mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm. Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn ruộng nhiều không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được quân thù. Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc điếc tai. Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết chừng nào ! Chẳng những thái ấp của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác; chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có được chăng ?
Nay ta bảo thật các ngươi: nên lấy việc "đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ" làm nguy; nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" làm sợ. Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho ai nấy đều giỏi như Bàng Mông, Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho ai nấy đều giỏi như Bàng Mông, mọi người đều tài như Hậu Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhaị Như thế chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền mà bổng lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng; chẳng những gia thuộc ta được ấm êm giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng trăm tuổi sum vầy; chẳng những tông miếu ta được hương khói nghìn thu mà tổ tiên các ngươi cũng được bốn mùa thờ cúng; chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí, mà đến các ngươi, trăm đời sau còn để tiếng thơm; chẳng những thụy hiệu ta không hề mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui chơi, phỏng có được không ?
Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một tuyển, gọi là Binh Thư Yếu Lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù.
Vì sao vậy ? Giặc Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên nghịch tặc, để thẹn muôn đời, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa ?
Cho nên ta viết bài hịch này để các ngươi hiểu rõ bụng ta.

No comments:

Post a Comment