Wednesday, February 2, 2011

LANG THANG

LANG THANG
rừng đước Cà Mau (ảnh Trương Công Khả)
Blog dở chứng. Mạng dở dở ương ương.

Kéo theo đó một vài cái hẹn làm việc qua email không thực hiện được mà chẳng biết xin lỗi sao đây. Muốn lang thang trên mạng để tìm chút quân bình cũng chẳng xong.

Sáng nay, quyết định quảy ba lô lên đường mặc cho V.H kêu gào: sao tui chưa thấy bà chuyển báo Xuân của dưới đó. Nhưng trời hỡi, lộ trình chút xíu nữa của tui nè: về Rạch Giá, xuyên rừng U Minh Thượng, qua rừng U Minh Hạ, bon theo quốc lộ 1A về Năm Căn, kiếm một chiếc tàu vi vu chót Mũi Cà Mau. Cầu mong, dọc đường gió bụi có chút xíu Wifi để tui không phải cầm tờ... A4 !

Mới hay mình lệ thuộc đủ thứ vào cái thế giới ảo hiện đại này.
Được đăng bởi HONG HANH vào lúc 09:12 0 nhận xét Các liên kết với bài này
Chủ nhật, tháng mười một 25, 2007
NGẪM NGHĨ MỘT TRĂM LẦN

Mười ngày nay blogspot dở chứng. Không vào, không ra, không nhìn thấy gì hết ! Trong khi đó đã có bao nhiêu dự định, bao nhiêu nhiêu suy ngẫm sẽ đưa lên entry thứ 100 nầy. Loay hoay, rị mọ. Kết cục, nhập viện 121 để mình và tay bác sĩ trưởng khoa … 4 mắt trợn trừng nhìn nhau (phụ chú một tí: hồi nào tới giờ chưa ai nhìn mình… với cự ly gần đến vậy !).

Ra về với bệnh án viêm kết mạc cùng với 2 chai nhỏ mắt, 2 vỉ thuốc của 4 nhà sản xuất: Mỹ, Hàn Quốc, Ấn Độ, Việt Nam ! (Lại phụ chú một điều khác: tay bác sĩ khi hỏi han “thân thế” bệnh nhân bèn ghi thêm tên chai thuốc nhỏ mắt thứ 3 – Cats Yey – và nói là hiếm lắm, nhà thuốc bệnh viện có lẽ không có. Mèn ơi, mình đã đi gõ cửa tất tật nhà thuốc sang hèn lớn bé nhưng nơi nao cũng lắc đầu. Google cũng lắc đầu chào thua với cái tên thuốc này luôn !).

Không biết vì cái toa thuốc hợp chủng quốc này hay vì bữa nhậu xả stress tối qua tại đảo Sư Tử mà sáng nay mình lại có thể âu yếm nhìn… em Flatron mỏng dính yêu kiều với cự ly còn gần hơn nhìn tay bác sĩ trưởng khoa ! Blogspot cũng tạm thời thôi dở chứng. May quá !

Mắt đã sáng. Xa lộ ảo đã thông. Vậy mà bao nhiêu ý tứ đều bay biến theo mây, theo trời. Mười ngày qua, mỗi ngày mỗi suy ngẫm, mỗi ngày một ưu tư. Cứ nghĩ mình sẽ viết như vầy, như vầy. Giờ thì trống rỗng. Mà thực ra điều mình nghĩ thì có viết được không !
Vậy mới biết dù cho đã ngẫm nghĩ một trăm lần cũng có chắc gì đâu !
Được đăng bởi HONG HANH vào lúc 10:37 0 nhận xét Các liên kết với bài này
Thứ năm, tháng mười một 15, 2007
HÃY THÔI ÁM ẢNH
Đã nói ra được với đứa bạn thân điều cần phải nói, tuyệt nhiên không thể nào giấu diếm. Tự thân đứa bạn đã biết phải giải quyết như thế nào. Một happy-end (theo cách bạn mình lựa chọn) khiến mình trở nên nhẹ nhõm.

Lang thang lên mạng thử đọc vài thứ linh tinh, lá cải, cả bói toán nữa. Theo đó, số mạng hôm nay của mình sẽ như thế này: “Bảo Bình (20/1 - 18/2) Vấn đề ngân khố sẽ thống lãnh tâm trí của Bảo Bình trong hôm nay. Dáng vẻ vô tư lự hàng ngày của bạn biến đâu mất tiêu, thay vào đó là vẻ mặt đăm chiêu vì không dè chừng được những phát sinh trước mắt. Tuy nhiên, dù gì thì bạn cũng đừng quá lo lắng nhé, ngày mai mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn nhiều”.

Chao ơi ! Nếu mà lúc nào cũng có số... luỵ tiền chớ hổng phải luỵ bất cứ linh tinh nào khác thì hay biết bao nhiêu.

Thử nghe một giai điệu vui cho đời thêm hưng phấn:
NGHĨ TỪ ENTRY TRƯỚC
Chắc hẳn sẽ có người bảo, mới thứ Hai đầu tuần mà tôi đã đem mấy chuyện… “thiếu tế nhị” ra mà nói (!). Khổ nổi, cái chuyện “thiếu tế nhị” nầy tôi và các bạn tôi đã và đang bàn một cách… hứng khởi từ ngày Chủ Nhật tươi hồng hôm qua !

Chuyện khởi đầu từ cú phone của bác Đ.N.K ngoài Đà Nẵng – bác ta cứ lầu bầu mãi chuyện báo ta cứ mãi đăng chuyện “thiếu tế nhị” khiến cho đề tài bão lụt của bác không còn đất sống. Tôi trợn tròn mắt lên bảo với bác: “Trời ơi, chuyện i… chuyện đ… của cả một dân tộc mà ông cho là nhỏ nhặt hử”. Bác ta phản biện ngay: “Vậy chớ hồi đó thế hệ của em có bức xúc vì chuyện i… chuyện đ… như tụi con nít bây giờ hay không ?”. Hà hà, hỏi vậy là bác Kh. đụng chạm vô quá khứ một thời của tôi rồi. Tôi nhắc bác Kh. nhớ, những năm tôi và bác Kh. mài đũng quần trên ghế nhà trường (văn mẫu hay nói vậy) lại rơi ngay thời điểm bao cấp. Buổi sáng tụi tôi đến trường với cái bụng rỗng không, không sữa, không bánh mì, không cơm tấm, không ốp la… như tụi nhỏ bây giờ. Ấy vậy thì bao tử, thì quả thận lấy nguyên liệu đầu vào nào để mà hoạt động đây. Thế nên, nhà xí trong trường học đã trở thành một hạng mục… không bao giờ được sử dụng vào thời đó. Lại nhớ, hồi đó có một câu chuyện tiếu lâm nói về cuộc thi vẽ tranh biếm hoạ, vẽ sao lột tả cho được cái đói, cái thiếu ăn một thời. Những bức hoạ đại loại vẽ những bộ xương di động, những gương mặt y như Xô ma li, y như năm 1945… đã phải nhường ngôi cho bức ký hoạ bút sắt cô đọng hình ảnh… một cái hậu môn đã bị máng nhện chăng đầy (!). Bác Kh. nghe tôi nói vậy đã cười kha kha và hết… xì chét tự lúc nào.

Cũng liên quan đến chuyện “thiếu tế nhị”. Hổm rày, có một vài đồng nghiệp rất quan tâm và hưởng ứng đến câu chuyện “thiếu tế nhị” của báo tôi. Uống cà phê sáng, bác H.T nói: “Coi bộ cái nầy nói trúng khía anh rồi đó”. Nhưng cũng có vài đồng nghiệp khác bĩu môi mà rằng “Chuyện i… chuyện đ… mà cũng bì đặt đòi đưa lên nghị sự quốc hội”. Tất cả đều phản ánh những vấn đề nóng bỏng - Báo chí hiện đại nên đề cập cái gì ? Quốc hội nên bàn chuyện gì ? Thế nào là lá cải, thế nào là không lá cải ? Thế nào mới thành chuyện đại sự ?

Mở trang BBC ngày hôm nay thấy đủ thứ chuyện thuộc hàng… khủng như: Musharraf bắt phe đối lập, Bà Rice đàm phán ở Jerusalem, Lãnh đạo Đảng đối lập Nhật từ chức, Belarus tổ chức hội nghị cộng sản quốc tế… mềm hơn một chút lại có: Các nhà văn Hollywood đình công, Trái chuối nướng trên đất Rạch Giá… đề tài mà một số nhà báo VN cho là lá cải cũng có luôn: Vàng Anh trên báo Việt, báo nước ngoài… với vô số links.

Vậy nên, hơi đâu mà bàn cãi, hơi đâu mà định nghĩa, mà để tâm. Chỉ biết, tôi thích nấu ăn, tôi nấu ăn khá ngon. Thực đơn mỗi ngày cho thằng con tôi lẽ dĩ nhiên khác với hồi đó, đủ chất (dĩ nhiên), dư đạm (những bà mẹ lo âu thái quá cho con thường gây hại cho con). Nhưng nó vẫn nhất quyết không ăn sáng, không phải mẹ không cho tiền, không phải vì để dành tiền làm kế hoạch nhỏ (một chuyện hết sức hình thức trong trường học xứ mình) mà chỉ vì… nhà vệ sinh trong trường quá dơ (!). Cuộc sống là vậy đó các đồng nghiệp ơi !
Được đăng bởi HONG HANH vào lúc 17:42 2 nhận xét Các liên kết với bài này
TRÍCH TỪ BLOG NHÀ SỬ HỌC DƯƠNG TRUNG QUỐC

"Blog entry 4.11
Báo “Thanh Niên”vẫn tiếp tục câu chuyện nhà vệ sinh học đường. Nhiều nơi đã thấy biến chuyển vội “chữa cháy”. Chắc sắp tới ông Bộ truởng sẽ có một lời nhận khuyết điểm. Vậy mà vẫn có một ông hiệu trưởng nói rằng gặp khó khăn thì phải lo cái mặt tiền trước sức đâu mà lo một lúc nhiều việc.
Cách đây mấy kỳ họp ở nhiệm kỳ trước mình đã từng phát biểu tại QH hiện tượng các quan chức tới làm việc ở đâu cũng thấy tiền hô hậu ủng, cờ quạt, biểu ngữ, có nơi lại còn điểm binh như “đón nguyên thủ quốc gia”. Tiếp đón toàn những nơi “mặt tiền” cả. Không nói đến chuyện tốn kém, nhưng như thế thì làm sao sâu sát được. Chắc chắn ông bộ trưởng hay quan chức ngành giáo dục đến thăn các trường học chẳng ai noi cái gương của Cụ Hồ là xem nơi ăn, chốn ở, chỗ vệ sinh của dân. Đó cũng là biểu hiện của thói tệ quan liêu và thói xấu “tốt đẹp phô ra xấu xa đậy lại” mà nhà văn Vương Trí Nhàn với một loạt bài viết trên “Thể thao-Văn hoá” rất đáng đọc. Vì thế mà viết tiếp câu chuyên “ỉa-đái” dưới đây.
Nghĩ tiếp chuyện tuần trước
Bài nghĩ ngợi tuần trước vừa đăng thì gặp ngay ông quan chức của Bộ Y tế mà bài báo đã nhắc đến, tại hành lang Quốc hội khi ông tháp tùng bộ trưởng của mình đến dự phiên bàn về luật “Phòng, chống các bệnh truyền nhiễm”. Ông tiến sĩ bảo vệ đề tài “Các loại nhà tiêu trong vùng nông thôn Việt Nam” được các thày đánh giá cao vì vấn đề “giải quyết đầu ra” cho đời sống sinh học của con người là vấn đề không chỉ của Việt Nam.
Trong bài “nghĩ ngợi cuối tuần” truớc gửi đến cho tòa soạn, có một đoạn tôi viết rằng ở “Pari hoa lệ” mới vài thế kỷ cách đây, ban đêm người dân đô thị giải quyết đầu ra vào bô rồi đến sáng hắt qua cửa sổ… khiến cho những chiếc ô của các qúy ông và qúy bà không chỉ có tác dụng che mưa nắng mà còn để đề phòng những chậu nước thải bất ngờ dội từ trên các ô cửa sổ xuống. Nhưng có lẽ các nhà biên tập của qúy báo cho đó là chuyện không thể có nên “kiểm duyệt” cắt mất. Nhưng mở lại tạp chí sử học nổi tiếng của Pháp là tờ “Historia” thấy họ không chỉ viết thế mà còn đưa ra những ảnh minh hoạ thuở đương thời vẽ cảnh trạng này với lời chú là xảy ra ở đầu thế kỷ XIX và lại có cả tranh vẽ cảnh các bà các cô trong những bộ cánh sang trọng đang vén xống áo làm ngay một bãi tè giữa đường phố trước con măt kinh ngạc của một người Anh, rất giống với cảnh một thời ở nhà quê, các bà các chị nhà ta thường mặc cai váy đụp rất tiện lợi vì kín đáo khi giải quyết việc đó ngay trên đuờng làng hay trên đường cái quan.
Vấn đề vệ sinh đô thị từng là một vấn nạn của những xã hội phát triển trước khi loài người phát minh ra cách tiêm chủng các loại văc xin phòng ngừa những nạn dịch tiêu diệt một bộ phận không ít dân số của các đô thị. Ở Hà Nội hồi cuối thế kỷ XIX khi người Pháp đang khuếch trương phát triển đô thị thì một cơn dịch tả đã khiến chính quyền và dân cư kinh hoàng đến mức phải biến khu Văn Miếu - Quốc Tử Giám thành một nhà thương dã chiến và cách ly. Chính viên toàn quyền Đông Dương Paul Bert cũng mắc dịch rồi bị chết.
Nước nhà vừa giành được độc lập, một trong những việc quan tâm hàng đầu của cụ Chủ tịch nước là xây dựng “Đời Sống Mới”. Cụ mời anh chị em trí thức, văn nghệ sĩ xúm tay vào việc này. Trên tờ báo “Tiền Phong” của Hội Văn hoá Cứu quốc theo lệnh của Cụ Hồ, anh chị em hội viên nghiên cứu và sáng tác ra các tiêu chí về “Đời Sống Mới’ dưới dạng các câu khẩu hiệu tuyên truyền rộng khắp. Trong đó, vấn đề giải quyết nhu cầu “đái-ỉa” là điều không thể thiếu. Xin đơn cử: “một nhà ga đời sống mới phải có: nhà xí”; một chợ đời sống mới phải có “chỗ phóng uế, chỗ chứa rác”; một thành phố đời sống mới phải có “chỗ phóng uế cho thực nhiều”…
Đến khi phải rời thành phố lên chiến khu, Cụ Hồ còn dạy cho cán bộ chiến sĩ của mình phương pháp mỗi lần đi làm việc ấy thì mang theo một cái xẻng, xong việc thì lấp đất lên vừa vệ sinh, vừa lợi đất lại vừa giữ được bí mật…
Ông tiến sĩ “nhà tiêu” bạn tôi còn lưu ý đến một thành tựu của Việt Nam trên lĩnh vực này. Đó là cái hố xí hai ngăn. Nguyên lý cơ bản của nó là tách được nước tiểu khỏi phân và thực hiện việc ủ phân tại chỗ. Chỉ cần ủ đúng quy trình bằng các loại chất độn thích hợp nhưng rất dễ kiếm thì không những không khí không bị ô nhiễm mà chất lượng phân đem bón vừa bảo đảm vệ sinh môi trường lại trở thành một nguồn lợi lớn.
Cái hố xí hai ngăn này với những tiện ích của nó thực sự đã cải thiện căn bản cái vẫn nạn “đổi thùng” của Hà Nội cũng như một vài đô thì khác ở miền Bắc trước khi loại hố xí tự hoại (mà thời đầu dân vẫn quen gọi là “hố xí máy”) trở nên phổ biến sau ngày miền Nam giải phóng. Tôi đã từng thấy trong một vài cuốn sách nước ngoài viết về Việt Nam đã vẽ sơ đồ cái hố xí hai ngăn để biểu dương nó như một phát minh quan trọng. Tôi đã xem Bảo tàng Thành phố London trong đó bày một cách trang trọng các loại “xí” mà người dân thủ đô nước Anh đã dùng qua mỗi thời và nghĩ rằng một ngày nào đó tại Bảo tàng Thành phố Hà Nội cũng nên xây một cái “nhà xí hai ngăn quen thuộc một thời.
Ông bạn tiến sĩ của tôi thì khẳng định rằng đó là một phát minh quan trọng mà những nguyên lý của nó đang được một số nước kể cả một số nước tiên tiến ứng dụng trong khuynh hướng được gọi là “vệ sinh khô” nhằm ứng phó với việc nguồn tài nguyên nước ngày càng trở nên khan hiếm. Cứ làm một con tính, theo cung cách phổ biến hiện nay, mỗi một bãi đái phải tốn từ 3 đến 5 lít nước xả, mỗi một bãi ỉa thì chừng gấp đôi, tổng số nuớc đáp ứng cái nhu cầu không thể không có này lớn đến nhường nào.
Tiến sĩ còn cho biết ngọn nguồn của “hố xí hai ngăn” này từ một cán bộ của địa phương tỉnh Quảng Ngãi (đến nay chưa xác minh được tính danh), nhưng sáng kiến này được Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch rất quan tâm. Là một nhà dịch tễ học, bác sĩ Thạch nhận ra những ưu việt của giải pháp xử lý này. Lan truyền trong ngành y câu chuyện đã thành truyền thuyết là Bác sĩ Thạch luôn đặt trên bàn làm việc và trước mặt mình một cái lọ đựng thứ phân đã được ủ đúng quy cách lấy từ nhà vệ sinh của mình để chứng minh cho mọi người tác dụng của sáng kiến nọ để thuyết phục áp dụng loại nhà vệ sinh này trong đời sống…
Tiến sĩ lại cho biết vấn đề giải quyết việc ỉa đái này cũng đựơc coi là vấn đề toàn cầu vì nó thiết thực với chất lượng sống cũng như vấn đề môi trưòng sống của con người. Ở các nước phương Tây phát triển khi đã đạt tới việc ứng dụng những kỹ thuật, thiết bị tiên tiến cho các loại nhà vệ sinh thì bắt đầu quay trở lại việc nghiên cứu theo chiều hướng bảo đảm môi trường và tái sử dụng các chất thải. Ở Thụy Điển chẳng hạn, nước tiểu ở những nhà vệ sinh công cộng đựơc góp lại vào những xtec để tái sử dụng việc trồng các sản phẩm sạch. Họ cho rằng giải pháp làm sạch rồi thải vào các nguồn nước các chất do con người thải ra là hạ sách và lãng phí… Họ còn tính toán rằng số chất có ích sản sinh từ những bãi nước đái của mỗi người thải ra đủ đáp ứng nhu cầu mà người đó cần đến trong cuộc sống.
Cách đây hơn một thập kỷ ở Trung Quốc các nhà khoa học đã nêu vấn đề một cách nghiêm túc là “Trung Quốc cần có một cuộc cách mạng các nhà vệ sinh”, thì vào thời điểm này, khi đang tăng tốc chuẩn bị cho Thế vận hội Bắc Kinh 2008 người Trung Quốc đang tỏ rõ quyết tâm biến nó thành sự thật.
Còn Việt Nam ta, hãy thử khởi động bằng mối quan tâm đến việc ỉa đái của con em chúng ta bắt đầu từ nhà trường và từ ngày hôm nay!"
Duơng Trung Quốc
Được đăng bởi HONG HANH vào lúc 17:05 0 nhận xét Các liên kết với bài này
Chủ nhật, tháng mười một 04, 2007
NGHĨ GÌ VẬY TA ?

Được đăng bởi HONG HANH vào lúc 15:01 0 nhận xét Các liên kết với bài này
Thứ năm, tháng mười một 01, 2007
MÓN ĂN VIỆT - TÂM HỒN VIỆT
Hôm nọ vào lang thang vào blog của Metinfo phát hiện ra một blog quá dễ thương của một cô gái Việt sống trên đất Mỹ.
Blog chỉ chuyên giới thiệu về ẩm thực Việt Nam với công thức và lời chú dẫn bằng tiếng Anh. Nhìn vào tiêu đề các entry đã thấy mê: rau muống chiên xù, muối tôm Tây Ninh, canh rau nhút khoai sọ, lẩu mắm, canh chua cá bông lau... rồi cả đậu rồng xào tỏi nữa chớ (chủ blog giới thiệu là gốc Hà Nội, vậy mà biết một món ăn rặt ròng Nam bộ thì quá nể !). Điều ấn tượng nhất vẫn là hình ảnh tại blog. Như tấm hình củ ấu trong một entry trước đây trên blog này là của tôi "mượn" từ blog kikirice.
Cũng muốn giới thiệu bạn bè biết blog nầy lắm, ngặt nổi chưa quen chủ nhân để xin phép nên đành chịu.
Tôi rất mê những điều cực kỳ giản dị, những điều thật dễ thương từ những blog kiểu của nhà văn Lý Lan hay của Kikirice. Cám ơn các chủ nhân blog vừa nêu nhiều nhiều !
Được đăng bởi HONG HANH vào lúc 09:21 3 nhận xét Các liên kết với bài này
Thứ tư, tháng mười 31, 2007
LAN MỚI NHẤT THẾ GIỚI
Mấy nhà khoa học thế giới vừa công nhận 7 loài lan mới phát hiện tại vùng rừng núi Trường Sơn, thuộc địa phận tỉnh Thừa Thiên - Huế là những loại lan mới nhất. Tiện tay đưa lên blog cho bà con chiêm ngưỡng.
Hoa này thấy lạ nhất, nhưng sao hổng thấy hồn vía hoa lan chút nào !

Hoa này cũng vậy, chỉ thấy giống mỗi cái lá lan.


Nhìn đi nhìn lại, thấy loại hoa lan tim tím nầy sao giống y chang... giò lan đang nở ở nhà.

Nhìn hơi kỳ kỳ phải không !
Còn thấy kỳ cục ác liệt !

Mà sao lúc nầy mấy giò lan ở nhà đua nhau nở quá xá. Ác nỗi cái máy chụp hình nó bị cà giựt nên hổng khoe khoang lên đây được.
Hết giờ làm việc rồi, về nhà đem máy ảnh đi sửa thôi !

Được đăng bởi HONG HANH vào lúc 18:07 0 nhận xét Các liên kết với bài này
NGƯỜI VIỆT MÌNH GIỎI THIỆT (phần 3)

Tuổi Trẻ sáng nay dịch lại một bài viết khá hay về một người Việt Nam. Xin được post lên đây cho bà con đọc:

"Creator Synectics, một công ty tư vấn kinh doanh toàn cầu trụ sở tại Anh, vừa công bố danh sách "100 thiên tài đương thời thế giới". Trong danh sách có một nhà khoa học gốc Việt là tiến sĩ Võ Đình Tuấn, xếp hạng 43. Hiện ông là viện trưởng Viện Vật lý lượng tử Fitzpatrick của Đại học Duke (Bắc Carolina, Mỹ).


Năm 17 tuổi, từ Sài Gòn ông đi Thụy Sĩ du học. Ông tốt nghiệp cử nhân vật lý tại Trường Bách khoa liên bang Lausanne (1971), và bốn năm sau ông được trao bằng tiến sĩ hóa lý sinh (biophysical chemistry) tại Viện Kỹ thuật liên bang Zurich, Thụy Sĩ. Sau khi nhận bằng tiến sĩ, ông sang định cư tại Hoa Kỳ.

Trang web của Cơ quan Thương hiệu và phát minh Hoa Kỳ (USPTO, trực thuộc Chính phủ Mỹ) cho biết bằng phát minh đầu tiên của Võ Đình Tuấn trao cho sáng chế "Băng dán cứu sinh" (1987) là một loại băng rất nhỏ và dễ sản xuất hàng loạt, dùng để gắn vào áo của công nhân khi họ làm việc trong những môi trường có nguy cơ cao, nhằm ghi lại các thông số của loại chất độc hại mà họ bị mắc phải trong quá trình lao động. Chỉ cần 11 giây người ta đã biết mình bị ngộ độc ở mức độ nào và chữa chạy ngay mà không cần phải đưa vào bệnh viện, rồi phải tốn thì giờ lấy máu, nước tiểu để xét nghiệm.

Theo trang web của Hội Thanh niên sinh viên VN tại Nhật Bản (http://www.vysa.jp/), trong lĩnh vực y khoa, tiến sĩ Tuấn đã tìm ra sự biến đổi gen trong cơ thể người và nhờ đó phát minh ra những hệ thống chẩn đoán sử dụng việc khám phá các ADN gây bệnh tiểu đường và ung thư. Tất cả hệ thống của ông đều dựa trên phương pháp "Tia sáng đồng hành" (SL: synchronous luminesence) dễ ứng dụng, do các dữ kiện được ghi lại hiển thị và được đọc cùng lúc bằng tia laser và sợi quang. Nhờ vậy mà bệnh tật có thể được điều chỉnh kịp thời mà không cần phải uống thuốc... Phương pháp của ông cũng được các công ty dược và tổ chức môi trường chấp nhận. Các viện nghiên cứu lớn đã sử dụng kỹ thuật của ông như Viện Ung thư quốc gia Hoa Kỳ và hầu như tất cả bệnh viện của Mỹ đều áp dụng phương pháp và thiết bị chẩn đoán của ông.


Đến nay ông có hơn 30 bằng sáng chế. Tiến sĩ Tuấn cho rằng những nghiên cứu của ông chỉ có mục đích đơn giản là góp phần làm giảm những nỗi đau của con người. "Cái khó nhất đối với bệnh nan y như ung thư hay AIDS chính là phát hiện ra nó”.

Năm 2003, USPTO đã tôn vinh bốn nhà khoa học Mỹ, gốc Á trong đó có nhà bác học Võ Đình Tuấn. Bản thông cáo chính thức USPTO cho biết: "Các nhà khoa học này đã có những đóng góp to lớn vào thành tựu của khoa học và y khoa, nhất là những phát minh của họ đã giúp bệnh nhân chống lại nỗi đau tuyệt vọng của con người".

Vào ngày 9.5.2002, nhân kỷ niệm tháng truyền thống của các dân tộc thiểu số châu Á tại Mỹ, bà J. C. Hayward - người phát ngôn của USTPO - cho rằng những phát minh của tiến sĩ Võ Đình Tuấn cùng các nhà khoa học khác đã góp phần làm cho nước Mỹ trở thành nước có nền khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất trên thế giới. Điều đáng nói là Võ Đình Tuấn đều có tên trong cả hai danh sách được vinh danh năm 2002.

Trong năm 2002, các trường tiểu học và trung học của Mỹ đều chiếu cuốn video về những nhà khoa học, trong đó có tiến sĩ Tuấn, cho các học sinh xem như một chương trình ngoại khóa. Bà Hayward nói: "Chủ yếu để thế hệ trẻ Hoa Kỳ nhớ đến những nhà bác học của các dân tộc và màu da khác nhau đã có những đóng góp to lớn không những cho xứ sở Hoa Kỳ mà còn cho toàn thế giới".

Tiến sĩ Võ Đình Tuấn còn là viện sĩ Viện Hóa học Mỹ và là biên tập viên cũng như cố vấn của nhiều tạp chí quốc tế chuyên ngành. Ông đã đoạt năm giải thưởng nghiên cứu & phát triển (R&D) vào các năm 1981, 1987, 1992, 1994 và 1996; tác giả của hơn 300 công trình được in ấn trên các tạp chí khoa học.

Ông cũng nhận được rất nhiều giải thưởng quốc tế khác. Hiện nay, nhà khoa học tài năng này đang nghiên cứu cải tiến những công nghệ mới để sản xuất những thiết bị y khoa hiện đại, có kích thước nhỏ và giá thành thấp nhằm góp phần nâng cao tính hiệu quả và tiết kiệm trong chẩn đoán và điều trị bệnh.


Đứng đầu danh sách mà Creator Synetics công bố ngày 29.10 là nhà hóa học Thụy Sĩ Albert Hoffman (đã 101 tuổi, nổi tiếng thế giới như người phát minh ra LCD) và thiên tài máy tính người Anh Tim Berners - Lee (một trong những người sáng tạo ra mạng Internet). Ba người còn lại trong nhóm năm người đầu tiên là nhà đầu tư George Soros (Mỹ), Matt Groening (nhà làm phim hoạt hình châm biếm, Mỹ) và chính khách, cựu tổng thống Nam Phi Nelson Mandela.


Ngoài ra, danh sách cũng có những đại diện của Nga (nhà toán học Grigory Perelman đứng thứ 10 hay nhà chế tạo súng tự động nổi tiếng nhất thế giới Mikhail Kalashnikov ở vị trí 83), Brazil, Trung Quốc, Iran, Nhật Bản (nhà sáng chế robot Hiroshi Ishiguro), Ireland, Ba Lan, Đức, Canada, Philippines, Tây Ban Nha, Hà Lan, Ấn Độ, New Zealand, Áo và Na Uy.

Chỉ có 15 phụ nữ trong nhóm 100 thiên tài còn sống này, trong đó có Joan Rowling - tác giả cuốn Harry Potter (Anh) và nữ diễn viên Meryl Streep (Mỹ). Nhiều người trong danh sách là những nhân vật nổi tiếng trong lĩnh vực văn hóa cộng đồng, ví dụ như ca sĩ Paul McCartney (Mỹ) và nhạc sĩ David Bowie (Anh), đạo diễn Quentin Tarantino (Mỹ), nhà văn Stephen King (Mỹ).

Theo danh sách này, Mỹ là nước có nhiều thiên tài đương đại nhất (43), tiếp đó là Anh (23), 13 nhân vật đến từ châu Âu và 11 từ châu Á, trong đó chỉ có một người châu Phi. Các báo Anh (Telegraph, Daily Mail) đưa tin này đã tự hào vương quốc Anh là nước có nhiều thiên tài đương đại tính theo bình quân đầu người nhất: cứ 2,5 triệu người Anh lại có một thiên tài đang còn sống. Mỹ xếp thứ hai với một thiên tài còn sống trên 6,9 triệu dân.
Trong một trả lời phỏng vấn đăng trên trang web của Trung tâm Lượng tử ánh sáng y sinh học của Viện Thí nghiệm quốc gia Oak Ridge (ORNL) ở bang Tennessee, khi được hỏi: "Từ khi nào ông quyết định trở thành nhà khoa học?", tiến sĩ Võ Đình Tuấn đáp: "Chính cha mẹ đã truyền cho tôi giá trị của giáo dục và niềm say mê khoa học. Cha thường nói với tôi rằng không giống của cải vật chất có thể mất bất cứ khi nào, giáo dục sẽ đi cùng con tới cuối cuộc đời, ngay tại trường đại học tôi đã cân nhắc nghiêm túc việc nghiên cứu".

Theo lời ông, đó là vào đầu thập niên 1970, ngay sau cuộc "cách mạng sinh viên" năm 1968 tại Pháp và sau đó lan truyền khắp châu Âu. "Khi đó, sinh viên chúng tôi quan tâm tới rất nhiều đề tài, và chúng tôi thường đặt câu hỏi về ý nghĩa của cuộc sống cũng như chủ đích của sự tồn tại. Trong lớp, chúng tôi đọc sách vật lý và hóa học, nhưng ra khỏi lớp chúng tôi bị nhận chìm trong sách của Albert Camus, Jean-Paul Sartre (các nhà văn, triết gia Pháp, được coi là ủng hộ chủ nghĩa hiện sinh), Carl Jung (nhà tâm lý học Thụy Sĩ, nhà sáng lập tâm lý học phân tích), và Jiddu Krishnamurti (nhà văn, nhà hùng biện Ấn Độ).

Hầu như ai trong chúng tôi cũng suy nghĩ và mộng mơ, thường rất ngây thơ và trong sáng, rằng ai đó trong chúng tôi sẽ "tái tạo thế giới". Trong một khía cạnh, "giai đoạn hiện sinh" trong đời sinh viên đó của tôi tiếp tục tác động tới suy nghĩ của tôi về nghiên cứu khoa học. Tôi tin là khoa học, đôi lúc cũng cần đặt câu hỏi về ý nghĩa của nó và phải cải tạo chính nó để làm mới nó từ những tín điều và khuôn mẫu cũ”.
Được đăng bởi HONG HANH vào lúc 17:03 0 nhận xét Các liên kết với bài này
NGƯỜI VIỆT MÌNH GIỎI THIỆT (phần 2)
Hai vợ chồng tiến sĩ Trịnh Hữu Phước và tiến sĩ Võ Thị Diệp từ những cư dân của một vùng hẻo lánh tại tỉnh Bạc Liêu đã trở thành những nhà khoa học tài năng của Trung tâm Không gian NASA, chi nhánh Marshall, thành phố Huntsville, bang Alabama, Mỹ. Ông Phước hiện là kỹ sư phi hành không gian, phụ trách phát triển động cơ hoả tiễn cho phi thuyền bay đi từ mặt trăng. Bà Diệp là kỹ sư vật liệu cấu trúc, sáng chế và thử nghiệm vật liệu dùng cho động cơ hoả tiễn nhiên liệu đặc của phi thuyền con thoi.
TS Diệp cho biết, bà sinh ra và lớn lên trong gia đình 9 anh em, ở một ngôi làng rất nhỏ ở tỉnh Bạc Liêu. Khi đặt chân tới đất Mỹ bà đã 17 tuổi; không thể vào trung học được vì phải đi làm kiếm tiền nuôi bản thân và giúp đỡ gia đình. Bà Diệp quyết định chỉ đi học tiếng Anh để thi bằng GED. Sau khi đậu được bằng GED, bà vào cao đẳng cộng đồng và vào được đại học của Mỹ, tiếp tục học lên đến bằng cao học. Sau khi đi làm được 1 năm bà học tiếp bằng tiến sĩ hoá học.
Tiến sĩ Phước thì qua Mỹ năm 1979. Ban ngày ông đi học, ban đêm làm gác cửa thuê cho các biệt thự để kiếm tiền sinh sống hoặc vào mấy xưởng bò làm thuê. Vào trường học, khi học sinh ăn trưa thì ông đi rửa chén để phụ thêm tiền học.
Tiến sĩ Phước: "Hồi tôi học xong cử nhân, NASA đã nhận tôi, nhưng do lúc đó, tôi vẫn chưa có quốc tịch Mỹ nên họ có hứa là sau này khi tôi có quốc tịch rồi, họ sẽ nhận tôi vào làm trong chương trình không gian của họ. Đến khi tôi lấy được quốc tịch hồi năm thứ nhất của cao học, tôi xin vào làm, thì họ cho tôi vừa làm vừa học hết cao học.

Khi tôi nhận bằng phát minh, tôi nhìn lại những người ngồi chung dãy bàn với tôi, tôi cảm thấy rất hãnh diện vì tôi xuất thân từ một làng quê nhỏ ở Việt Nam mà giờ đây đã ngồi ngang với những khoa học gia ở Mỹ .
Tôi nghĩ tôi may mắn thôi, chứ tôi nhìn bạn bè của tôi, tôi thấy rằng nếu có điều kiện họ cũng giống như tôi vậy. Phần nữa, tuổi trẻ nghĩ về tương lai, tôi ước ao sau này cũng được thành công như những người khác, điều này thúc đẩy tôi vượt qua hết những khó khăn.
Hồi mới qua, giống như bà xã tôi, tôi cũng chưa có bằng trung học ở Việt Nam, cho nên tôi phải học GED, giống như bổ túc văn hoá. Tôi đậu được GED 6 tháng sau khi đến Mỹ. 6 năm sau, tôi nhận bằng cao học và đi làm cho Cơ quan không gian NASA của Mỹ. Nhưng may mắn là họ rất khuyến khích mình đi học thêm. Cho nên, đến năm 2004 tôi lấy được bằng tiến sĩ ở trường University of Alabama ở thành phố Huntsville.
Theo tôi, chương trình không gian, mặc dù nói là của Mỹ, nhưng những khám phá ngoài không gian đều là của chung cho cả thế giới, chứ không riêng của Mỹ. Thứ hai, tôi quan niệm rằng một nhà khoa học thì chỗ nào mình có thể đóng góp được thì mình đóng góp, không phân biệt phải làm cho Mỹ hay cho Việt Nam hay cho một quốc gia nào khác. Nếu sau này tôi về hưu, có thể tôi sẽ dịch sách hay về Việt Nam dạy, hướng dẫn sinh viên về những kỹ thuật mà tôi đã học hỏi ở bên này.".
Tiến sĩ Diệp: "Phải cố gắng vì mình sống phải có mục đích. Cuộc đời bằng phẳng thì ai cũng có thể làm được hết, nhưng sự khó khăn mới là thách đố cho mình để học hỏi nhiều hơn. Con đường tiến thân duy nhất là con đường học vấn. Hồi mới qua Mỹ, tôi đi học về phải ghé vào nhà hàng làm thâu ngân. Có nhiều lúc buồn ngủ từ trong tim, trong ruột gan, tôi phải tự ngắt vào người mình cho đau điếng để tỉnh ngủ. Cuối tuần, tôi phải đến nhà người ta chùi dọn. Có nhiều lúc lau dọn nhà cho người ta, tôi suy nghĩ trong tương lai mình phải làm sao cho bằng họ.Thành ra, cuối cùng bây giờ, nói về vật chất thôi, những gì họ có trong nhà thì tôi cũng có khả năng có được như họ. Có nhiều khi tôi cũng suy nghĩ không biết nếu bây giờ tôi trở lại, những người đó sẽ nghĩ mình như thế nào, vì lúc đó họ nhìn mình với cặp mắt là một người lao công.
Riêng bản thân tôi, tôi có ước vọng là khi về già, tôi sẽ trở về Việt Nam mở trường dạy cho những đứa trẻ ở quê. Vì tôi lớn lên tại vùng quê, tôi thấy được có những người rất có khả năng, có tài trí. Tôi may mắn hơn những người khác là có được cơ hội thành công cho nên tôi thích về truyền đạt những kiến thức của mình cho thế hệ trẻ".

Được đăng bởi HONG HANH vào lúc 15:12 0 nhận xét Các liên kết với bài này
CÓ MỘT NGƯỜI VIỆT KHÁC CŨNG... GIỎI LUÔN !
Đi tìm một vài tấm hình minh hoạ cho entry anh chàng đầu bếp giỏi nhất nước Mỹ. Tìm hoài không có, trong khi đó hình món ăn do "một người Việt khác" thì nhiều quá trời. Mà coi bộ “người Việt” này cũng giỏi quá chừng nghen. ;) ;) :D :D
Có bận nhà thơ Lê Chí và nhà ẩm thực "tự phong" Phù Sa Lộc đi Hà Tiên về cho chủ blog một túi nấm tràm khô. Lẽ ra thì có nấm tràm tươi nhưng các bác để quên trên xe hơi và nhà văn Lê Văn Thảo đã chở tuốt về Sài Gòn. Nghe mà tiếc đứt ruột. Nấm tràm ngâm nước, rửa sạch cát, đem nấu canh với tép bạc (dân Bắc nói là tôm bóc nõn) và đủ thứ rau. Chèn ơi, cái vị đắng của nấm tràm nó mới... ngọt làm sao ! Nói thiệt đó !
Còn đây là nấm mối - loại nấm mắc nhất Việt Nam - do nhà báo Khoa Chiến đem qua cho. Một mớ đem xào, một mớ đem nấu canh rau tập tàng. Đặc biệt cả hai món này chỉ nêm với một thứ gia vị duy nhất là muối ớt, chỉ vậy mà thôi. Tự thân chất ngọt, mùi thơm của nấm mối sẽ là linh hồn của tất cả.
Ở xứ Nam Bộ mà không biết kho mắm thì coi như... bỏ, cũng như xưng danh dân miền Tây mà không biết uống rượu đế. Cá rô phải đem kho với mắm sặt Cà Mau mới đúng điệu, vừa thơm vừa mặn mòi, mắm Châu Đốc ngọt quá lại có màu đỏ coi không được tự nhiên. Thèm thiệt !
Cá rô nướng ăn kèm với rau răm, chấm với muối ớt. Tại vì dân thành thị bây giờ ám ảnh tiến bộ khoa học kỹ thuật nên khoái ăn muối I ốt, thành thử hương vị đồng quê phai nhạt ít nhiều. Đúng điệu cá rô phải nướng lửa rơm hoặc than củi, da cá cháy xém một tí; ớt hiểm phải đâm với muối cục, có vậy miếng cá nướng mới đậm đà hơn.

Được đăng bởi HONG HANH vào lúc 11:05 4 nhận xét Các liên kết với bài này
NGƯỜI VIỆT MÌNH GIỎI THIỆT (phần 1)
Tin hot nhất trong cữ cà phê sáng nay là chuyện một người Việt được xếp hạng thứ 43 trong 100 thiên tài đương đại. Ai cũng buột miệng: Dân mình giỏi thiệt nghen. Chị N.T.K.C thì điện thoại bảo: giới trẻ hiện nay cần những nhân vật như vậy để làm thần tượng.
Tôi thì khoái nhất những chuyện về dân xứ mình như vậy. Mò mẫm trên web tìm thông tin cho bà con đọc cho vui nghen !
Bắt đầu từ chuyện anh Huỳnh Quốc Hưng - người đoạt giải nấu ăn giỏi nhất nước Mỹ. Sở dĩ tôi chọn ông này đầu tiên vì tôi rất mê nấu ăn và tôi cũng nghĩ chuyện nấu nướng coi bộ quan trọng không kém gì chế tạo phi thuyền không gian đó nghen.

Theo báo chí nước ngoài đã đăng và blog tui "cọp" về thì đêm 3.10 mới đây, trong cuộc thi "Đầu Bếp Giỏi Nhất Nước Mỹ" (Đài truyền hình NBC, kênh Bravo tổ chức), anh Huỳnh Quốc Hưng, 29 tuổi, hiện đang là “phó bếp” của nhà hàng nổi tiếng Guy Savoy ở Las Vegas đã đoạt danh hiệu “Khôi Nguyên Ẩm Thực”.
Bí quyết đặc biệt của Hưng là nước mắm, một gia vị rất đặc biệt của Việt Nam. Hưng cho biết anh mê nấu ăn là từ mẹ của mình. Tốt nghiệp trung học, Hưng ghi danh vào trường chuyên nghiệp dậy nấu ăn của Hoa Kỳ A.O.S Culinary Arts, sau đó làm việc ở Puerto Rico 9 năm. Thời gian này, Hưng chuyên nấu các thức ăn Nhật và sau đó, để trở thành đầu bếp chuyên nghiệp, anh ghi danh học tiếp tại The Culinary Institute of America ở New York. Học xong, anh về làm ở nhà hàng Florida, rồi lại trở về làm ở nhà hàng tại New York, và một thời gian sau đến Las Vegas làm việc với tư cách là phó bếp cho nhà hàng Guy Savoy. Theo anh, nấu ăn là cả một nghệ thuật, và phải nấu bằng cả tấm lòng của mình.
“Nước mắm là một gia vị mà tôi rất thích. Chính vì vậy, món nào tôi cũng có thể nêm nó vào được. Khi tôi nêm nước mắm vào thức ăn tôi nấu, nó trở nên ngon miệng một cách lạ kỳ và không ai có thể biết được, nếu tôi không nói ra. Nước mắm mà tôi ưa dùng là nước mắm 3 con cua.
Điều buồn cười nhất là bất cứ món gì tôi cho nước mắm vào thì món đó được ưa thích nhất. Thí dụ, khi tôi nấu ở nhà hàng Guy Savoy, tôi có 10 món, trong đó có 3 món tôi nêm nước mắm vào, thì 3 món đó lại được khách hàng yêu cầu nhiều nhất, và, họ chẳng bao giờ biết là 3 món đó tôi đã phải nêm nước mắm vào mới trở nên ngon như thế. Tôi không dùng nước mắm nguyên thuỷ nhiều, mà tôi pha thêm nước chanh, hay dùng với cà chua, dấm...Trong cuộc thi chung kết, món đầu tiên tôi sử dụng hamachi, một loại cá của Nhật, và cà chua, dấm, và chế biến theo vị của món Thái.. Món thứ hai, tôi dùng tôm, đường, thịt heo muối, và nước mắm. Và món chính là thịt vịt với sả, mè. Bên cạnh đó, chính vì tôi biết cách làm thế nào để chọn các món ăn không mất nhiều thời gian nấu mà vẫn giữ được vị ngon của nó nên tôi đã thắng cuộc”.
Khi hỏi, điều gì đã làm cho anh vững tin bước vào cuộc thi và giúp cho anh thành công như thế ? Anh cho biết, chính nhờ mẹ anh, người đã hướng dẫn anh từ thuở ấu thơ, đã có ảnh hưởng lớn trên cách nấu nướng của anh:
“Mẹ tôi là một người chưa bao giờ đi học nấu ăn cả. Khi gia đình chúng tôi đến Mỹ, mẹ tôi đã cố gắng hết sức để giúp nhà hàng của ba tôi. Mẹ tôi chỉ biết nỗ lực cải tiến các món ăn và cách thức nấu để mỗi ngày đồ ăn được ngon hơn. Và các gia vị mẹ tôi chế biến thì thật tuyệt vời vì bà biết nêm nếm sao cho chua, ngọt, mặn... vừa đủ. Và hầu như món nào cũng thật tuyệt. Cho tới bây giờ, tôi cũng không biết tại sao mẹ tôi lại nấu ăn ngon như vậy. Tôi nghĩ là mẹ tôi đã truyền cho tôi sự đam mế nâú ăn, vì tôi rất thích ăn các món ăn do mẹ tôi nấu, và cũng chính bà đã dậy tôi nêm nếm như thế nào...”.

“Các cô dì của tôi đã phản đối và anh em họ của tôi cũng vậy. Ai cũng nói tôi đi học trường dậy nấu ăn là không có tương lai, sẽ làm việc cực nhọc trong bếp mà không được gì cả. Suốt cuộc đời sẽ chôn vùi trong nhà hàng. Nhưng tôi phản đối và nói rằng tôi sẽ quyết tâm làm cho tên tuổi của tôi nổi tiếng cùng với những món ăn mà tôi chế biến ra.
Ngay lúc đó, tôi đã tự lập một kế hoạch cho con đường tương lai của mình, không phải chỉ làm việc ở nhà hàng mà còn phải làm sao cho mọi người biết đến các món ăn do chính mình nấu. Chính vì vậy, tôi đã luôn cố gắng tự rèn luyện bản thân, không bao giờ ngừng lại, và luôn tự tìm tòi, học hỏi thêm..”.

“Tôi nghĩ là các bạn hãy lựa chọn cuộc sống cho chính bản thân mình. Chúng ta chỉ có một đời để sống và hãy sống cho chính bản thân mình. Đừng sợ hãi, và hãy tự khẳng định mình. Hãy làm việc thật chăm chỉ, cật lực và cuối cùng sẽ đạt được sự mong ước của mình.”
Được đăng bởi HONG HANH vào lúc 10:38 0 nhận xét Các liên kết với bài này
Thứ hai, tháng mười 29, 2007
NGÀY XƯA NƠI NÀY LÀ DÒNG SÔNG
“Phố bỗng thành dòng sông uốn quanh” – chân dung phố xá Cần Thơ những ngày triều cường hổm rày là như vậy đó. Lý giải chuyện này, trong buổi cà phê hôm qua, bác H.T liệt kê một loạt nguyên cớ: chuyện lòng sông bị bồi lắng mà người có trách nhiệm thì khoái đi đào kênh hơn, chuyện dân tình làm đê bao trên thượng nguồn Cửu Long. Tôi thì nghĩ đến chuyện mấy ông kiến trúc đô thị cứ tự do nâng cốt nền. Đường 3/2, Trần Hoàng Na, Trần Ngọc Quế… mới làm sau này đã nhấn chìm nhà dân xuống hẳn ½ mét, thì việc các con đường khác trở thành lòng chảo, thành một túi chứa nước cho thành phố là chuyện hiển nhiên. Thầy Xuân thì nghĩ xa hơn - đến chuyện các nước đang sử dụng chung con sông Mekong đã làm gì, đang làm gì trên dòng chảy của nó.

Tối qua, bác L.D xăng xái đi chụp hình như một nhiếp ảnh gia thứ thiệt (chỉ buồn là TN chưa đăng – khác với hổng đăng nghen bác L.D). Bác này là dân kinh doanh mà coi bộ cũng máu mê báo chí dữ. Bác còn rủ rê vô blog coi hình. Hình của bác thì hẳn nhiên là hổng đẹp bằng hình của chú Khả rồi, nhưng có một ý của bác L.D khiến tôi phải suy ngẫm – ngày xưa nơi này vốn là những dòng sông.
Chợt nhớ, trong bài “Người lưu giữ ký ức”, có một đoạn tôi đã viết như thế này: “Cách đây ngót cả thế kỷ, đại lộ Nguyễn An Ninh bây giờ là một con kênh chảy vào trung tâm thành phố Cần Thơ. Ghe xuồng chở dân quê đi khám bệnh ở đa khoa thường qua lại lối nầy. Trải qua bao dâu bể, kênh đã được bồi lấp, phố xá trở nên thênh thang, xe cộ dập dìu... Thế nhưng, ngôi nhà 108 vẫn trầm mặc nằm đó. Dường như dòng chảy cuộc đời không chạm vào được đến hiên nhà lợp ngói rêu phong này. Dễ chừng đến mấy thế hệ đàn bà trong ngôi nhà ấy vẫn không sao thay đổi được nếp nghĩ - ngày xưa phố là dòng sông ! Đến giờ, họ vẫn sai bảo con cháu trong nhà rằng – “Sắp nhỏ qua bên... sông mua dùm bà tí đường, tí muối”. Không gian trầm mặc đó cứ thấm đẫm, thấm đẫm khiến người đàn ông duy nhất còn lại trong ngôi nhà lại say mê đi tìm, đi lưu giữ những dấu vết xưa”… (xem nguyên văn ở blog Dấu Xưa Nam Bộ).

Mà đâu mỗi chuyện lấp sông, ngăn dòng chảy. Dòng chảy MeKong đã trở nên bất thường hơn bao giờ hết. Những đổi thay dòng chảy, những chặn dòng cửa sông… đã đảo lộn tùng phèo mọi thứ. Cây lúa ma không còn, phù sa bồi đắp không thuận theo con nước như hồi xưa... Cùng với dòng chảy thời gian tâm tính con người cũng theo đó mà đổi thay. Dường như với một ám ảnh mình là sinh vật cấp cao đã khiến con người ngày càng trở nên quyết đoán một cách lạnh lùng. Họ không ngừng chứng tỏ cái mạnh, cái ưu việt của mình bằng cách biến chuyển thế giới, đổi thay triệt để những gì được coi là trật tự của thiên nhiên.

Con sông MeKong không còn hiền hoà như xưa. Và theo đó tâm tính con người liệu có an nhiên tĩnh tại như thưở nào.
CHÀO NĂM MỚI 2008

Một ngày đầu năm 2008 đã bắt đầu bằng tiếng gõ cửa cóc cóc, cọc cọc của những tin nhắn từ lúc 0h30. Đó là chưa kể có một người bạn luôn ám ảnh bởi sự nghẽn mạng đã bắn tin nhắn từ lúc 21h30 ngày 31.12 cho chắc ăn ! Gặp lúc đang ngon giấc, nên tôi chỉ có thể mắt nhắm, mắt mở bấm Reply đáp lễ với nội dung: chị cũng chúc em như vậy, em cũng chúc chúc anh như vậy, tao cũng chúc mày y chang... !!! Rất may là tên "bạn gái" của tôi không nhắn tin, bởi lẽ hắn là kẻ chúa ghét những tin nhắn không có... sắc thái, không có bản sắc !

Nhưng đầu năm, đầu tháng mà suy nghĩ cho ra 1001 tin nhắn có bản sắc thì có nước hết hơi.

Thôi thì, để cho nó gọn, tôi sẽ chúc mọi người tất tật những lời chúc dưới đây. Nếu ai đó lười biếng y như tôi thì cứ sử dụng lại thoải mái vì tôi cũng copy trắng trợn từ trên net. Cũng hổng biết, nội dung mấy lời chúc tiếng Tây, tiếng U nó ra làm sao nữa đó !

Vui vẻ nguyên năm nghen mọi người !



12 tháng phú quý, 365 ngày phát tài, 8760 giờ sung túc, 525600 phút thành công 31536000 giây VẠN SỰ NHƯ Ý.

Wishing you 1 year of happiness, 12 months of fun, 52 weeks of gladness, 365 days of success, 8760 hours of good health and 525600 minutes of good luck!
------------------------------------
Ngàn lần như ý, Vạn lần như mơ, Triệu sự bất ngờ, Tỷ lần hạnh phúc.
------------------------------------
Tống cựu nghênh tân – Vạn sự cát tường – Toàn gia an phúc
------------------------------------
Đong cho đầy Hạnh phúc. Gói cho tròn Lộc Tài. Giữ cho mãi An Khang. Thắt cho chặt Phú Quý. Cùng chúc nhau Như Ý, Hứng cho tròn An Khang, Chúc năm mới Bình An. Cả nhà đều Sung túc.
------------------------------------
Mùa xuân xin chúc Khúc ca an bình Năm mới phát tài Vạn sự như ý Già trẻ lớn bé Đầy ắp tiếng cười Trên mặt ngời ngời Tràn đầy hạnh phúc Xuân đến hy vọng Ấm no mọi nhà Kính chúc ông bà Sống lâu trăm tuổi Kính chúc ba mẹ Sức khoẻ dồi dào Đôi lứa yêu nhau Càng thêm nồng ấm Các em bé nhỏ Học giỏi chăm ngoan Chúc Tết mọi người Năm mới hoan hỉ Gặp nhau niềm vui...

------------------------------------
Sang năm mới chúc mọi người có một bầu trời sức khoẻ, một biển cả tình thương, một đại dương tình cảm, một điệp khúc tình yêu, một người yêu chung thủy, một tình bạn mênh mông, một gia đình thịnh vượng. Chúc các bà, các ông, các cô, các chú, các chị, các anh sang năm mới vạn sự như ý, tỷ sự như mơ, làm việc như thơ, đời vui như nhạc, coi tiền như rác, coi bạc như rơm, chung thủy với cơm và sắc son với phở. Chúc vui vẻ...
------------------------------------
Cung Chúc Tân Xuân Phước Vĩnh Cửu Chúc Trong Gia Quyến Được An Khương Tân Niên Lai Đáo Đa Phú Quí Xuân Đến An Khương Vạn Thọ Tường
------------------------------------
Năm hết tết đến Rước lộc vào nhà Quà cáp bao la Mọi nhà no đủ Vàng bạc đầy tủ Gia chủ phát tài Già trẻ gái trai Xum vầy hạnh phúc Cầu tài chúc phúc An khang thịnh vượng

------------------------------------
Oh my Dear, Forget ur Fear,Let all ur Dreams be Clear,Never put Tear, Please Hear,I want to tell one thing in ur EarWishing u a very “Happy NEW YEAR“!

------------------------------------
Drop the last year into the silent limbo of the past. Let it go, for it was imperfect, and thank God that it can go. Here’s wishing you a very Happy New Year!
------------------------------------
Happy New Year! Grant that I May bring no tear to any eye When this New Year in time shall end Let it be said I've played the friend, Have lived and loved and labored here, And made of it a happy year!
------------------------------------
Ring out the old, ring in the new, Ring, happy bells, across the snow: The year is going, let him go; Ring out the false, ring in the true. Happy New Year!

------------------------------------
A Relaxed Mind, A Peaceful Soul, A Joyful Spirit, A Healthy Body & Heart full of Love.. All these are my Prayers for You. Wish you a Happy New Year!
------------------------------------
With the entire Rose's Perfume & with all the lights in the world & with all the children's Smiles...I Wish that your dreams come true! Happy New Year 2008!!
------------------------------------
May the Year 2008 Bring for You Happiness, Success and filled with Peace, Hope & Togetherness of your Family & Friends....Wishing You a HAPPY NEW YEAR!!
------------------------------------
New is the year, new are the hopes and the aspirations, new is the resolution, new are the spirits and forever my warm wishes are for u. Have a promising and fulfilling New Year 2008
------------------------------------
Years may come and go, but this year I specially wish 4 u a double dose of health n happiness topped with loads of good fortune. Have a gr8 year ahead! Happy New Year!!!!
------------------------------------
When the mid-night bell rings tonight, Let it signify new and better things for you,Let it signify a realization of all things you wish for,Let it signify a year of courage and believes,Wishing you a very, very, very prosperous 2008

------------------------------------
New Year is the time to unfold new horizons & realize new dreams, to rediscover the strength & faith within u, to rejoice in simple pleasures & gear up 4 new challenges. Wishing u a truly fulfilling 2008
------------------------------------
Fresh Air, Fresh Ideas, Fresh Talent, Fresh Energy, I wish U to have a Fresh and Bright New Year. HAPPY NEW YEAR!
------------------------------------
Each moment in a day has its own value. Morning brings HOPE, Afternoon brings FAITH, Evening brings LOVE, Night brings REST, Hope you will have all of them everyday. Happy New Year!
SẼ NGHE TRONG ĐÊM DDVN

VŨNG LẦY CỦA CHÚNG TA

Sáng tác: Lê Uyên Phương



Theo em xuống phố trưa nay đang còn chất ngất cơn say
Theo em bước xuống cơn đau, bên ngoài nắng đã lên mau
Cho nhau hết những mê say, cho nhau hết cả chua cay
Cho nhau chất hết thơ ngây, trên cánh môi say
Trên những đôi tay, trên ngón chân bước về tình buồn, tình buồn
Yêu nhau giữa đám rong rêu, theo dòng nước cuốn lêu bêu
Đi qua những phố thênh thang, đi qua với trái tim khan
Ði qua phố bước lang thang, đi qua với trái tim khan
Theo em xuống phố trưa mai đang còn nhức mỏi đôi vai
Theo em bước xuống cơn đau, bên ngoài nắng đã lên mau
Cho nhau hết những mê say, cho nhau hết cả chua cay
Cho nhau chất hết thơ ngây, trên cánh môi say
Trên những đôi tay, trên ngón chân bước về tình buồn, tình buồn

Qua đi, qua đi dứt cơn mê
Tình buồn chồng chất lê thê
Qua đi, qua đi dứt cơn say
Tình này tình rồi thay
Ta sống trong vũng lầy
Một ngày vùi dần, còn vùi sâu, còn vùi sâu
Trong ngao ngán không dứt hết cơn cơn ê chề
Ta sống trong vũng lầy
Một ngày vùi dần, còn vùi sâu, còn vùi sâu
Trong ngao ngán không dứt hết một, một lần đau.

http://cakhucvietnam.com/Song2745.aspx


Lê Uyên Phương (1941 – 1999) là một trong những nhạc sĩ lớn của dòng nhạc tại Sài Gòn trước năm 1975. Ông tên thật là Lê Minh Lập, sinh ngày 2.2.1941 tại Đà Lạt. Trong thời kỳ chiến tranh, giấy tờ bị thất lạc, trong hai lần làm lại giấy khai sinh, tên của ông bị nhân viên giấy tờ nhầm thành Lê Minh Lộc rồi Lê Văn Lộc. Từ đó ông giữ cái tên Lê Văn Lộc.
Cha của Lê Uyên Phương vốn họ Phan, nhưng vì ảnh hưởng cuộc cách mạng của cụ Phan Bội Châu nên phải đổi thành họ Lê. Mẹ của Lê Uyên Phương là Công Tôn Nữ Phương Nhi, ông lấy chữ Phương trong tên của mẹ làm tên cho mình. Cùng với chữ Uyên, tên người bạn gái đầu tiên, ông ghép thành nghệ danh Lê Uyên Phương.
Lê Uyên Phương gặp Lâm Phúc Anh ở Đà Lạt. Cô sinh ngày 17.1.1952 tại phố Hàng Bồ, Hà Nội. Cha của cô là một thương gia gốc Hải Nam, còn mẹ cô là người Triều Châu, vợ thứ năm trong tổng số 9 người vợ của cha cô. Năm 1954, gia đình cô gồm bố mẹ, cô và người em gái tên Lâm Phi Yến từ Hà Nội di cư vào miền Namvà sống tại một ngôi nhà khang trang ở Chợ Lớn. Đó cũng là nơi đặt văn phòng của một công ty vận tải chạy đường Quy Nhơn, Huế, Đà Nẵng của cha cô.

Năm 1968 hai người thành hôn. Họ trở thành đôi tình nhân song ca nổi tiếng. Vì Lâm Phúc Anh không muốn dùng tên thật nên lấy nghệ danh là Lê Uyên cắt từ chữ Lê Uyên Phương. Hai người song ca được gọi Lê Uyên và Phương.
Lê Uyên Phương khởi sự viết nhạc từ năm 1960 với Buồn đến bao giờ viết tại Pleiku. Trong những năm đầu cùng nhau đi hát, Lê Uyên và Lê Uyên Phương chỉ giới hạn phạm vi hoạt động của mình trong khuôn viên các đại học trước khi chính thức lấy tên Lê Uyên và Phương vào năm 1969, sau lần trình diễn tại quán Thằng Bờm của phong trào Du Ca Việt Nam. Những năm đầu thập kỷ 1970, từ Đà Lạt vào Sài Gòn, Lê Uyên và Phương đã đem một luồng gió mới đến với tân nhạc. Những ca khúc nồng nàn, khắc khoải đôi khi bàng bạc, triết lý của họ đã được giới trẻ đón nhận nồng nhiệt. Lê Uyên Phương đã viết nhiều nhạc phẩm nổi tiếng như: Bài ca hạnh ngộ, Còn nắng trên đồi, Dạ khúc cho tình nhân, Lời gọi chân mây, Vũng lầy của chúng ta... Ngoài âm nhạc, Lê Uyên Phương còn viết văn và làm thơ: Không Có Mây Trên Thành Phố Los Angeles..
Năm 1979, Lê Uyên và Phương rời khỏi Việt Nam và định cư tại Nam Califonia, Hoa Kỳ. Họ có hai con gái là Lê Uyên Uyên và Lê Uyên My. Sau 15 năm chung sống, khoảng năm 1984, 1985 cuộc hôn nhân của hai người tan vỡ. Một thời gian sau, họ tái kết hợp về mặt nghệ thuật qua những lần xuất hiện trên những chương trình video của các trung tâm Làng Văn, Thuý Nga, Asia đã được khán thính giả đón nhận một cách nồng nhiệt.
Lê Uyên Phương mất ngày 29.6.1999 tại bệnh viện UCI (University of California in Irvine) vì bệnh ung thư phổi. Sau khi Lê Uyên Phương qua đời năm 1999, Lê Uyên đã đứng ra thực hiện được hai CD gồm một số ca khúc của Lê Uyên Phương. CD thứ nhất là Yêu nhau khi còn thơ gồm những nhạc phẩm đầu tay của Lê Uyên Phương sáng tác từ đầu thập niên 1960, phần lớn được ra đời ở Pleiku là nơi Lê Uyên Phương đã từng dạy học một thời gian, trước khi trở về Đà Lạt. CD thứ hai mang tựa đề Tình như mây cõi lạ, gồm 9 nhạc phẩm trong tổng số trên 40 bài nhạc phổ từ thơ của Lê Uyên Phương.
Được đăng bởi HONG HANH vào lúc 10:04
TÔI THÍCH
Có ba nhà văn mà hầu như tôi mua khá đầy đủ tác phẩm – Bình Nguyên Lộc, Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Khải. Giọng văn của các ông khá đặc trưng cho 3 miền Bắc Trung Nam.

Ở Bình Nguyên Lộc đó là cái phóng khoáng, bộc trực, dữ dội của miền Nam – và trên hết ở Bình Nguyên Lộc là dẫu hiện thực vùng đất khẩn hoang ấy có dữ dội đến mấy, nhân vật của ông có giang hồ đến mấy thì vẫn ẩn chứa một nét hồn hậu, bao dung, bất cần đời như vùng đất nầy vốn vậy. Điều này là rất hiếm. Ấy là ông đã hiểu mảnh đất nầy đến tận cùng vậy. Có thể khẩu vị văn chương mỗi người mỗi khác, hoặc giả văn hoá nền của mỗi nhà văn, của mỗi thời mỗi khác. Nhưng nếu viết về Nam bộ mà ác quá, tỉnh quá thì liệu có hiểu đến tận cùng mảnh đất này hay không !

Còn đối với Hoàng Phủ Ngọc Tường thì quả là chưa ai viết bút ký được như ông. Nếp sống miền Trung vốn nhỏ bé, khuôn phép như hình dáng mảnh đất vốn vậy. Vậy mà văn chương ông Tường mượt mà, sang trọng, bóng bẩy, vượt ra mọi khuôn phép, ngữ cảnh đến lạ lùng.

Đối với các nhà văn miền Bắc, cụ Nguyễn Tuân cứ như một tuợng đài sừng sững với cái lối chơi chữ như cách chơi hoa thuỷ tiên ngày Tết vậy. Nhưng tôi vẫn không tìm được sự rung cảm. Riêng đối với Nguyễn Khải thì tôi thích thật sự. Tôi không nhớ lắm văn chương ông với những Xung đột hay Mùa lạc như người ta vẫn tán tụng, nhắc đến khi ông mất đi. Chỉ với Gặp gỡ cuối năm hay Cách mạng tôi mới nhận ra một góc khác của người Hà Nội gốc. Sang trọng, sâu sắc, đa tầng. Cái thành công của Nguyễn Khải là đã thuyết phục được người đọc rằng đã có một thời Hà Nội là như thế, con người Hà Nội là như thế. Tiếc là Hà Nội bây giờ không vậy, con người Hà Nội như vậy dần ít đi, chất Hà Nội cũng đã khác xưa nhiều quá.

Ngày ông mất, có quá nhiều bài báo viết về ông. Nhưng bài hay nhất vẫn là bài của… chính ông ! Xin đăng lại bài do nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Hải phỏng vấn ông Nguyễn Khải trước khi ông mất.

* Thưa ông, Nguyễn Khải là nhà văn của thời sự, của tâm lý nhân vật, ông đã tạo dựng nhiều loại nhân vật của nhiều thời khắc. Nếu bây giờ còn sức khỏe để viết, ông sẽ chọn loại nhân vật nào của hôm nay?

- Tôi thích những người quyền lực về tinh thần, chiến đấu đầy bi kịch cho dân chủ và tiến bộ xã hội. Loại người có thế giới tinh thần mạnh mẽ, muốn thay đổi, không muốn sống như cũ nữa. Ở trạng thái này, con người sẽ phong phú. Tôi thích viết những cái chênh vênh lạc thời. Con người của hôm nay đa dạng lắm. "Xuân tóc đỏ” hiện đại cũng nhiều lắm. Sợ nhất là cái giả dối. Nếu viết về loại người "Xuân tóc đỏ” phải có tài, phải thổi lửa "tiêu hóa" được tài liệu. Lửa chưa đủ sức thiêu cháy tài liệu, cứ để lổn nhổn là bất tài.
Có những anh vai mỏng gánh trách nhiệm quá lớn, không biết sợ, cứ thấy ổn cả. Hạ cánh an toàn là câu mất dạy. Phải nhớ Khang Hy: "Việc vừa xong thì họa cũng vừa xong".

* Tuyển tập Nguyễn Khải ra rồi, dạng hồi ký đời văn cũng co Thượng đế thì cười, tổng kết bút pháp thì có Trôi theo tự nhiên. Ông có nghĩ cuốn sách tiếp theo sẽ là gì không ạ?

- Tôi có viết một vài tùy bút chính trị. Còn vừa lóe ra một đề tài rất thích. Tôi định viết, tôi rất thèm được sống một mình. Không lúc nào con người được sống một mình. Từ hàng xóm, con cái, mọi việc đều có tập thể nhảy bổ vào. Thế giới tinh thần chỉ có tập thể, không có trách nhiệm cá nhân. Thời đổi mới này người ta kêu cô đơn, nhưng tôi cũng thèm sống một mình. Tầm quan trọng của cá nhân. Một xã hội thấy được sức mạnh cá nhân, con người phải có quyền tự do quyết định số phận mình - quyền tự chủ. Nhưng mà chưa viết thì bí mật hộ nhé.

* Ông nói rằng mình viết thường là tìm mẫu người quen thuộc với vùng nghĩ, vùng cảm của mình, và phải đi mới tìm được. Ông thích đi đâu sắp tới?

- Đúng rồi, tạng của tôi ngồi một chỗ không viết được. Đi là nó đụng vào, tóe ra. Khoa học nghệ thuật, nghề sáng tạo không có cách gì bảo thủ được. Văn tôi bây giờ không còn tả cảnh. Nếu còn sức, tôi sẽ đi tìm loại nhân vật làm chính trị, có quyền lực, tính tình phóng khoáng, chủ động, vượt lên cho tương lai. Làm quan, làm chính trị mà tử tế đàng hoàng, có đầu óc, nhân vật sẽ nói được nhiều lắm. Chắc chắn phải mất một năm đi tìm. Cũng cao tuổi, yếu, nói thôi mấy lần rồi. Nhưng nếu khỏe, đi vớ đi vẩn thì lại viết.
Nếu như bây giờ đi một vệt Phú Thọ, Nam Định hoặc quanh Hà Nội có thể viết được tập truyện ngắn. Tôi thích vùng Vĩnh Yên, Phúc Yên. Mong một, hai tháng nữa khỏe, ra Hà Nội một chuyến lại được viết. Nhưng sống lâu thời này đầu óc phải mới tinh, tràn ngập sự thay đổi. Rung động đời sống nhỏ nhất phải đến với anh. Cuộc sống thay đổi hằng ngày, phải xem để thay đổi.

* Vùng đồng bằng Bắc bộ là quê hương văn học của ông, nhưng hầu hết các tác phẩm lớn của ông lại được viết ở Sài Gòn. Mảnh đất phương Nam có ý nghĩa như thế nào?

- Nói ví von thế này: miền Bắc cho tôi độc lập, miền Nam cho tôi dân chủ, tự do. Nó bật ra đa thanh. Những cú hích quan trọng tìm ra vỉa sống mới. Ngậm ngùi, hi vọng, tự do là từ trong này mà ra.
Sau giải phóng, tôi gặp các nhân vật lạ khác với nhân vật quen thuộc của tôi trước đây: giám đốc, bí thư, chủ nhiệm hợp tác xã... Nhân vật mới ở miền Nam là các linh mục tốt nghiệp ở nước ngoài, là các trí thức có cách suy nghĩ riêng, là nhiều bà con họ hàng, là nhiều số phận thay đổi. Có người gặp nói cả tuần không hết chuyện. Họ rộng mở, phức tạp, phù hợp với một thời kỳ lịch sử - xã hội hiện đại.
Tôi yêu vùng quê đồng bằng Bắc bộ, nhưng viết các vấn đề có ý nghĩa triết học, tư tưởng phải là thế giới tập trung chính trị, văn hóa, là ở đô thị. Muốn viết sâu, đậm, không thể không "lôi" về Hà Nội. Một nửa sự nghiệp của tôi là ở trong Nam này cũng vậy. Tôi muốn đi vào giới trí thức, vì trí thức biết buồn cái buồn của người khác. Nhân vật của thành phố lớn là con người của trí thức.

* Nếu tự tóm tắt chân dung nhà văn Nguyễn Khải, thì thế nào ạ?

- Về nhà văn tôi tổng kết: tuổi và thời thế là quan trọng. Có những kiểu nhà văn tài năng bẩm sinh, bộc lộ rất trẻ, chưa sống lâu đã có tác phẩm lớn như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Thạch Lam. Sau này có Nguyễn Huy Thiệp, Đỗ Chu, Phạm Tiến Duật. Vàng Anh bẩm sinh "há miệng" thành văn. Những tác phẩm đầu tay của Đỗ Chu đọc thấy sợ, văn chương ấy lúc 17, 18 tuổi. Trạm quân bưu, Thung lũng Cò, Ráng đỏ, cái nào cũng hay. Tư thế nhà văn trăn trở cùng đất nước.
Còn có kiểu nhà văn phải sống lâu, sống nhiều, được gặp thời thế đặc biệt. Tôi ở loại này. Không u mê, tự thay đổi, mới có cống hiến. Văn chương nhiều cái huyền bí, không biết lúc nào hay, lúc nào không. Còn đời riêng cá nhân tôi chả có gì đáng viết. Tôi ghét sự lê la, có tí rượu, tí bột lăn tôm là uống rượu, tôi ghê lắm. Văn nghệ sĩ ăn nói tục tằn, hống hách kiểu lãnh tụ đại ca, trưởng nhóm, hoặc khệnh khạng làm giai thoại, tôi cũng không thích. Tôi thích tính thoải mái của Lê Đạt, thích nhất cái thật của Kim Lân.
Tôi cô độc bẩm sinh. Nếu không có cách mạng, chắc tôi là tu sĩ. Một lần tôi đến tìm ông cha tìm hiểu về Vatican 2 để viết sách tôn giáo. Trong lúc chờ, tôi ra mua thuốc lá. Người bán thuốc nhìn tôi hỏi: "Cha mua loại nào? Con biếu cha bao diêm". Chắc mặt tôi giống linh mục.
Đời tôi chỉ yêu viết lách. Sống nhạt, dễ thỏa hiệp, bao dung nhưng quyết liệt khi viết. Tôi nghĩ nhà văn phải sống khó chịu nhất, không thỏa mãn, luôn cảm thấy muốn cao hơn, xa hơn. Phải là người tìm tòi ngược thời. Thời nào với mình cũng là chật, mới là tốt.

NGUYỄN THỊ NGỌC HẢI thực hiện
TẾT NẦY ĐI BẢO TÀNG
Cuối năm làm việc thiện nè - PR không công cho Bảo tàng Cần Thơ nghen. Chủ blog chỉ muốn trả công bằng cách học lóm nghề làm bánh lá liễu mà thôi ! Thiệt tình là từ nhỏ tới lớn chưa thấy mà cũng chưa ăn bánh nầy lần nào, dù được mệnh danh là người có... tâm hồn ăn uống ! Uhm...

Thông cáo báo chí

“Sắc Xuân Miệt Vườn”
TRÌNH DIỄN KỸ THUẬT NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG
VÀ ẨM THỰC ĐẶC TRƯNG DÂN TỘC VIỆT, HOA, KHMER

8g thứ Hai, ngày 28/01/2008 (tức ngày 21 tháng Chạp âm lịch), lễ khai mạc chương trình “Sắc Xuân Miệt Vườn” trình diễn kỹ thuật nghề thủ công truyền thống và ẩm thực đặc trưng dân tộc Việt, Hoa, Khmer diễn ra tại Bảo tàng thành phố Cần Thơ, hoạt động kéo dài đến ngày 03/02/2008 (tức ngày 27 tháng Chạp). Đây là hoạt động chào mừng năm Du lịch quốc gia tổ chức tại Cần Thơ với chủ đề “Miệt Vườn Sông Nước Cửu Long” và mừng Đảng, mừng Xuân Mậu Tý. (chủ blog phụ chú: hoạt động chào mừng năm du lịch mà coi bộ xôm tụ hơn nơi chủ xị nghen !)

Chương trình “Sắc Xuân Miệt Vườn” là kết quả bước đầu của những nỗ lực bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa phi vật thể trong cộng đồng dân cư trên địa bàn thành phố Cần Thơ trong thời gian qua do Bảo tàng Cần Thơ thực hiện. Với 9 hoạt động gồm nghề thủ công truyền thống: đan đát, dệt chiếu, đan lọp; ẩm thực đặc trưng dân tộc Việt: bánh tét, bánh xèo; dân tộc Hoa: bánh in, bánh lá liễu; dân tộc Khmer: cốm dẹp, bánh gừng, sẽ cùng trình diễn trong sáng khai mạc và luân phiên giới thiệu trong suốt tuần lễ của chương trình. (chủ blog phụ chú: Bảo tàng làm được vậy là quá pro. Hoan hô. Nhưng nên mở rộng cửa cho bà con vô, bớt bớt chuyện mời quan quyền nghen !)

Đến với chương trình “Sắc Xuân Miệt Vườn”, khách tham quan không chỉ được ngắm nhìn các sản phẩm gợi nhớ hình ảnh cái Tết dân tộc mộc mạc, dân dã ở miệt vườn mà còn được gặp gỡ, trao đổi với nghệ nhân đến từ các làng nghề thủ công truyền thống ở Cần Thơ như: dệt chiếu Cái Chanh, đan lọp Dì Tho, ... và có cả bà Mười Xiềm, người đã tham dự Lễ hội Đời sống dân gian Smithsonian 2007 tại Hoa Kỳ cũng tham gia cuộc trình diễn lần này. (chủ blog phụ chú: Hoan hô Bảo tàng thêm một lần nữa. Vì chủ blog thấy nhiều người bình chọn điểm đến năm Tý bỏ quên tuốt luốt bà 10, trong khi đến... "cục sình" cũng hổng quên). Và không chỉ là hình ảnh, những âm thanh lách cách của bàn dập, cây chuồi khi dệt chiếu, tiếng thình thịch của cối chày đâm cốm dẹp hay mùi thơm của nếp mới, của nắng trên những cọng lác khô còn tạo ra không khí nô nức của miệt vườn khi Tết đến, Xuân về. Bên cạnh những món ăn quen thuộc của người Việt ở Nam bộ như: bánh tét, bánh xèo còn có những món chỉ xuất hiện trong các dịp lễ, Tết của người Hoa, người Khmer như: bánh gừng, bánh lá liễu .. đã cho ta thấy dấu ấn của quá trình cộng cư, chung sống giữa các dân tộc trên vùng đồng bằng Cửu Long.

Cảm nhận về ẩm thực có thể sẽ khác nhau ở mỗi người, và các hoạt động trong chương trình “Sắc Xuân Miệt Vườn” cũng không phải là tất cả những hoạt động đón Xuân của người dân đồng bằng sông Cửu Long nhưng những người tham gia cuộc trình diễn đều đến từ các làng nghề, với những trăn trở trong cuộc sống và nghề nghiệp cụ thể trước thách thức của quá trình Cần Thơ đang đẩy mạnh công cuộc đô thị hóa. Dù có hay không có danh hiệu, họ thực sự là những “nghệ nhân” vì đang nắm giữ những bí quyết nghề nghiệp không chỉ được tích lũy gần đây mà có thể từ đời cha mẹ, ông bà mình. Từ mỗi cá nhân như vậy góp phần làm nên kho tàng di sản văn hóa phi vật thể của cộng đồng, dân tộc. (chủ blog phụ chú: OK Bảo tàng luôn. Chủ blog phát hiện ra nhiều nghệ nhưn không tên tuổi lắm. Như chuyện bà bán bánh cam kế nhà bà 10 vậy. Nhưng thôi chủ blog tạm giấu, hổng kể nữa, dĩ lỡ mai nầy mấy nghệ nhưn có chút đỉnh tên tuổi, ra đường vấp... cục sình thì chí nguy). Sự nghiệp bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa dân tộc là trách nhiệm của mỗi người, của toàn thể mọi người và nó đã làm nên dòng chảy văn hóa qua bao thế hệ. Sự quan tâm của thế hệ hôm nay là hành động thể hiện trách nhiệm của mình, sẽ giúp các nghệ nhân thêm sức mạnh trong hành trình tìm những cơ hội phát triển mới. Việc tổ chức hoạt động trình diễn của Bảo tàng là mong tạo điều kiện, bắc chiếc cầu nối cho nghệ nhân đến được với cộng đồng trong khi cung cấp cho khách tham quan một góc nhìn mới về đời sống người dân trong những ngày chuẩn bị mừng Tết nguyên đán.

Lịch trình diễn:

* Thứ hai, 28/01/2008 (21 tháng Chạp):
- 8g Lễ khai mạc
- Sáng: 9 loại hình trình diễn.
- Chiều: Bánh xèo.

* Thứ ba, 29/01/2008 (22 tháng Chạp):
- Bánh xèo.
- Đâm cốm dẹp.
- Đan lọp.

* Thứ tư, 30/01/2008 (23 tháng Chạp):
- Bánh tét.
- Bánh gừng.
- Dệt chiếu.

* Thứ năm, 31/01/2008 (24 tháng Chạp):
- Bánh in.
- Đan đát.

* Thứ sáu, 01/02/2008 (25 tháng Chạp):
- Bánh xèo.
- Đan lọp.
- Dệt chiếu.

* Thứ bảy, 02/02/2008 (26 tháng Chạp):
- Bánh tét.
- Cốm dẹp.
- Bánh lá liễu.

* Chủ nhật, 03/02/2008 (27 tháng Chạp):
- Bánh tét.
- Bánh gừng.
- Đan đát.

Thời gian hoạt động: Từ 8g đến 17 giờ mỗi ngày.
tại:
Bảo tàng thành phố Cần Thơ,
Số 6, Phan Đình Phùng, thành phố Cần Thơ.
Được đăng bởi HONG HANH vào lúc 20:59
VỀ QUÊ CHỤP HÌNH TẾT KHẢ ƠI !
Tết nhứt tới nơi rồi. Đi đâu cũng thấy bánh tét. Nhớ Tết năm rồi, bác Tuyên làm cả một lễ hội bánh tét ở Nhà lồng Chợ cổ Cần Thơ. Chú Khả nhà ta chụp hình tới tấp. Mới đó đã một năm. Người chụp đã lưu lạc phương nao. Báo nhà thì thiếu ảnh trầm trọng.
Khả ơi ! Ở đâu rồi. Hổng nhớ quê hả. Về xứ mình chụp hình Tết đi thôi !
Hình của chú Khả đây nè ! (Hồng có nhuận bút nghen Kh.)
Bánh tét Cần Thơ danh tiếng

Cách gói cũng dễ thôi. Chủ blog cũng biết gói.

Ăn thua là gói vừa vặn, không lỏng quá bánh bị nhão, không chặt quá bánh bị chai, sống. Còn thế nào là lỏng, là chặt thì... tui hổng biết cách diễn đạt !
Cách cột dây bánh cũng vậy luôn. Cách đây độ mươi năm, vợ chồng chủ blog về quê, vợ thì gói, chồng thì cột dây. Mấy đứa em dâu bái phục. Má chồng thì cười rạng rỡ. Hi hi
Bà cụ gói bánh nầy hay lắm. Đợi chủ blog viết đăng báo Thanh Niên rồi coi sau nghen !
Nhân bánh thiệt là đa dạng, như là thịt heo nạc nè
màu vàng là đậu xanh cà nhuyễn, màu đỏ là thịt heo và lạp xưởng, màu vàng gạch tôm là lòng đỏ hột vịt muối (máy chú Khả quá xịn, màu nào ra màu đó !)
nhân chuối nữa nè (con trai của tui khoái lắm), còn nếp ngâm lá cẩm thấy đẹp gì đâu !
bà con bu lại coi quá xá
một anh Tây thì chụp hình lia lịa
gói xong rồi nè
nấu bánh thôi
tiệc đứng chỉ toàn bánh tét là bánh tét
đêm lễ hội bánh tét hoành tráng chưa !
Cám ơn chú Khả vì đã để lại cho chị mấy tấm hình nầy nghen !
Coi xong nhớ nhà dữ không ?
TẾT ĐẾN NƠI RỒI

Coi trên góc tờ báo sáng nay thấy đã là 21 tháng Chạp. Mới 8 giờ sáng, bác Khoa Chiến đã qua tới văn phòng. Chèn ơi, trên xe bác cộ đủ thứ quà Tết: rượu Phú Lễ, bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc, kẹo dừa Bến Tre và cả nước màu dừa để kho cá nữa chứ. Chị Ba Hường lúi húi tỉ mẩn phân chia quà cho anh em vô từng túi một thấy mà bắt nôn tới Tết. Một hồi, lại thấy bác Thái Nguyên ì ạch chở đường cát vô cho. Nhưng hoành tráng nhất, bất ngờ nhất vẫn là thùng quà to đùng từ Văn phòng Bình Định gởi tới. Chu mẹt ơi, cái thùng to là vậy, gói ghém kỹ là vậy mà cũng nghe nức mũi cái mùi quyến rũ của danh tửu Bàu Đá. Điện thoại cho Ngọc Toàn đã nghe cái giọng cười… “khả nghi”: “Chị ơi, chị khỏi gởi quà cáp gì cho em mất công lắm. Chị có tốt thì kiếm… vài em đóng thùng gởi ra thì em đa tạ nhiều. Còn không thôi thì cho luân chuyển… nhân viên. Văn phòng em đăng ký em Quyên đó nghen”. Ha ha ha… Hồi nào tới giờ toàn là nghe "luân chuyển cán bộ", cái vụ "luân chuyển nhân viên" này coi bộ mới à nha ! Tất thảy đều cười toe. Vậy là nghe mùi Tết rồi !

Sực nhớ bữa nay có lễ hội ở Bảo tàng, chạy vội ra ngoài đó. Lại thấy, mấy ông, mấy bà ngồi dệt chiếu, đương rổ, vót nan… đằng kia thì mấy chị, mấy dì lúi húi đâm cốm dẹp, đổ bánh in, nặn bánh gừng… (đợi chủ blog viết báo Thanh Niên rồi đọc sau nghen). Chủ blog hứng chí nhảy vô tiếp mấy em Bảo tàng bán cốm dẹp. Kỷ lục mới xác lập, chỉ mất có 10 phút, chủ blog bán hết một thúng cốm dẹp, một ký 20 ngàn đồng. Chủ blog hổng có cân thiếu, để cái... đức lại cho bạn nhậu mừ ! Cũng may, chủ blog còn để dành cho mình được 600 gram. Bà con rủ rê mình ngày mai qua đứng bán nữa vì coi bộ mình có… giang mua bán ! Hê hê, phải tui bán nhựt trình mà chạy cỡ đó thì sếp khen phải biết ! Ừa, lại thêm một chuyện. Bà Mười Xiềm gặp chủ blog liền nhào tới hun lia lịa, vừa hun vừa khóc mếu máo: “Chèn ơi, hổm rày cô đi đâu lâu quá vậy. Tui nhớ cô muốn chết, nhiều lúc giở mấy cái bao tay của cô mua cho mà tui rớt nước mắt. Lát ở lại ăn bánh xèo nghen”. Bà con ngạc nhiên quá xá cỡ, hổng biết chuyện gì đang xảy ra ! Tánh tình người dân miền Tây đã vậy đó !
Được đăng bởi HONG HANH vào lúc 14:56
THẾ LÀ MỢ NÓ LẠI ĐI TÂY !
Tình hình là độ chừng hơn tháng nữa chủ blog lại có dịp đi Tây. Nghĩ đến việc được rảo bộ giữa 2 kinh kỳ: Luân Đôn và Bá Linh là thấy sướng tỉ tê rồi. Mấy tên bạn thân gào lên: đừng có giở trò đi lạc như bữa hổm nghen bà ! He he, tôi thầm nghĩ, lạc thì dễ rồi nhưng vẫn đề là có... cơ hội nhậu nhẹt hoành tráng như xưa hay không mới là điều đáng nói !
Chiều nay vừa ngồi rị mọ cái thủ tục xin visa, vừa tủm tỉm cười để đừng... bực mình mất vui mấy ngày Tết. Nè nghen, với cái tờ khai hồi đi Ph. tui nhớ chỉ có 2 tình trạng liên quan đến hôn nhơn, một là có hai là không. Ai dè, nhờ tờ khai mới nầy mà chủ blog mới biết là có đến 5 tình trạng nghen ! Nè: độc thân, kết hôn, ly hôn, ly thân và còn cả... goá phụ (Chèn ơi, bản khai nầy quên mất tiếng Việt nó rắc rối lắm, gặp phải mấy ông chết vợ thì phải tìm một từ gì cho nó đặng hơn chớ !). Và rồi cả một lô xích xông những câu hỏi có hay chưa, có hay không ?
Bác Th. - tư lệnh miền Trung - nghe nói bèn ta thán: "Chi mà mệt dữ rứa hè. Nghe mà hãi. Bọ ở nhà thôi trớt”. Tôi cả cười và can: “Thôi thôi, bọ ráng đi Tây một chuyến mà làm cái phóng sự cho nó hoành tráng. He he, đảm bảo khôi hài y như Hai Lúa lên Sè Goong nghen”.
Chủ blog đang đợi cái thủ tục xin visa đi Phi châu xem nó ra làm sao. Đảm bảo, hổng có phóng sự hay là hổng ăn Tiền !
Được đăng bởi HONG HANH vào lúc 10:53
QUÀ CHO TÔI, THÚ VUI CỦA TÔI ?
Báo chí sáng nay lại loan tin về chủ sở hữu chiếc Rolls Royce màu xanh diệp lục với giá 1,32 triệu USD (giá xuất xưởng 486.360 USD). Tôi chẳng chú ý lắm đến những chi tiết mô tả chiếc xe như nạm vàng thật, ốp gỗ óc chó, bọc da lộn… vân vân và vân vân. Chỉ chú ý đến hai chuyện: bà D. cho biết tất cả các xe của bà sở hữu đều mang biển số của Bình Định xứ nhà mặc dù bà đang ở đất Sài Thành, chiếc Rolls Royce nầy có số cực đẹp 77L – 7777 ! Chuyện thứ hai lại là thú vui của bà D. Hãy nghe bà tâm sự: “Tôi muốn mua cho mình một món quà có giá trị. Cả đời tôi chưa có thú vui nào ngoài việc thưởng thức ô tô”. Cần biết thêm, dù giàu là vậy nhưng bà D. chưa bao giờ đi nước ngoài và rất sợ đi máy bay.

Ngồi nhâm nhi cà phê sáng, đọc đi đọc lại mẩu tin nầy mà bật cười thú vị. Tự dưng lại suy ngẫm vậy thú vui của tôi là gì ? Và liệu khi mình tự đi mua quà tặng cho mình thì liệu mình sẽ chọn cái gì đây ? Tôi thì khác bà D. rất thích đi máy bay và lại không hề biết đi xe máy nói chi đến chuyện chạy xe hơi. Vậy nên, tự thưởng cho mình chiếc Honda@ hay SH hả - xưa rồi Diễm; tự thưởng cho mình chiếc Lexus ư - sức mấy bồ Tèo ! Làm sao bây giờ - chẳng lẽ tự thưởng cho mình chiếc chuyên cơ !!! Ha Ha Ha…

Nói chơi cho vui vậy thôi. Chứ suy ngẫm một cách nghiêm túc thì liệu có ai tự nghĩ đến việc sẽ tự thưởng cho mình một cái gì đó, tự hỏi mình liệu thú vui của mình là gì ? Và sau khi hỏi sẽ là dám thực hiện điều đó !

Hôm qua là một ngày bận rộn đến tận 10 giờ đêm. Nấu một tô canh cá khoai cực ngon, tiêu cay xé, chuẩn bị ăn thì nghe 2 cú điện thoại một của đối tác, một của sếp, và sau đó là vô số cuộc gọi khác. Chị Tô rên rỉ qua điện thoại: “Tui đang vật lộn với cái logo của bà nè. Bà có biết là 28 tết tui phải quảy balô qua xứ sương mù không. Nhà có 4 người mà ăn tết 3 nơi”. Xúi chị Tô trốn qua Pháp ăn Tết với bé Nhí nhưng đừng cho sếp biết. Hi hi. Kết cục làm được nhiều việc cho chuyến đi sắp đến của Toà soạn và đồng nghĩa với việc túi bụi với cả núi việc và sẽ không biết Tết là gì. 11 giờ đêm bụng đói meo, uống tạm 1 ly sữa. Chồng hỏi: Ủa, vậy mình kiếm tiền để làm gì ? Câu hỏi tưởng là dễ nhưng lại quá khó để tìm câu trả lời ! Dứt khoát tôi sẽ tính sổ cuối năm với bản thân tôi.
Được đăng bởi HONG HANH vào lúc 07:52
TẤT NIÊN
Cũng như thông lệ hàng năm, tiệc Tất niên đã mãn cuộc tăng 2 tại trụ sở văn phòng. Với rượu, với ly chén ngổn ngang, với tiếng ghita bập bùng...

Cũng như thông lệ, tiệc năm nào cũng vui, cũng tưng bừng và cả chuyện ai ai cũng được… ăn ngon, mặc đẹp ! Hi hi. Mr Châu nhận xét: “Bộ năm nay có gì vui hay sao mà TN ăn Tết lớn quá”. Chủ nhà chưa kịp nói câu nào thì khách đã tới tấp trả lời thay: “Trời, dzậy mà lớn hả. Mọi năm còn hoành tráng hơn kìa”. Hà… Hà… Cái này là thiên hạ nói chớ hổng phải… chủ nhà nổ nghen. Chủ nhà mà chịu nổ thì… nổ cỡ pháo đại ai mà chịu đời cho thấu (!).

Tối qua, lên phát biểu mở màn có phần lúng túng, va vấp. Chỉ vì, tự dưng lúc đó thấy hiển hiện những sự kiện của cả một năm qua. Có nhiều người mới đến mà cũng có quá nhiều người ra đi. Mỗi một người ra đi lại có một nỗi niềm riêng, một thân phận riêng. Những điều trọn vẹn của những buổi Tất niên 8 năm qua cứ như là một giấc mơ, không bao giờ lập lại được nữa.

Sáng nay, ngồi giở lại “chuyên đề” ảnh Tất Niên của 8 năm trời. Trong ảnh toàn là những nụ cười hết cỡ. Của hết thảy anh em văn phòng, của các đồng nghiệp, của các nhà văn, nhà thơ, của những thân hữu… Đằng sau mỗi tấm hình là tôi lại nhớ như in từng câu nói lúc đó, từng giai thoại lúc đó. Nhìn nụ cười trong ảnh nhưng sao mắt mình lại nhoè đi !

Lần đầu tiên, cảm nhận được cái buồn da diết của bài Happy New Year !
VỀ QUÊ CHỒNG ĂN TẾT

1. Hình như có đến hơn 2 năm rồi tôi không về quê chồng. Có quá nhiều lý do để tôi biện bạch trong quãng thời gian đó. Hết công việc nhiều, đến bận bịu, hết cất nhà mới, lại nại rằng ba má chồng vẫn hay lên ở với mình đó thôi… vân vân và vân vân. Có điều những điều tôi viện dẫn ra vẫn không phải là điều tôi nghĩ.

Tôi là một đứa yêu mảnh đất Nam bộ đến cực đoan. Mảnh đất này hiển hiện thô ráp, hồn hậu theo một góc nhìn của tôi. Như chuyện quê chồng của tôi vậy. Đã gần 20 năm, vậy mà tôi cứ nhớ như in cái ngày lóc cóc theo H. về quê. Tàu đò chỉ ghé đầu bờ Kinh Kiểu Mẫu, tiền trong túi thì lúc nào cũng vơi, mà nếu có tiền cũng chẳng có đò ngang đò dọc như bây giờ để thuê. Cả hai đứa dò dẫm trên bờ kênh trơn trợt, H. xách dùm tôi đôi dép mà cứ nhìn trước ngó sau để người quen không thấy. Ở xóm quê bên bờ Kinh Già Dong đó, lần đầu tiên tôi biết nấu một nồi cơm cấy to đùng cỡ 20 lon gạo, biết băm mắm sặt để chưng, biết giăng lưới, biết bơi xuồng ra ruộng hái rau… Còn nhớ, mấy bà chị chồng cứ xót xa một nỗi rằng, rồi đây thằng em trai mình lấy một con nhỏ làm báo tối ngày chỉ biết lẹt xẹt đầu này đầu kia làm vợ thì liệu nó có biết nấu ăn, có biết làm công chuyện nhà hay không ? Vậy nên, mỗi khi về quê là tôi bị thử sức quá mức. Tỷ như chuyện nạo dừa làm bánh, trái dừa bung thì to đùng, tôi vật lộn hè hụi với nó thiếu điều bị té bật ngửa năm sáu bận mới lột hết được lớp vỏ dày cui bên ngoài. Hoặc tỷ như chuyện gặp đám tiệc ngồi vút giá đậu xanh, trời chưa tỏ mặt người, muỗi bay rợp trời thiên là tôi phải hè hụi ra cầu ao ngồi lượm sạch từng miếng tro trấu, từng cái rễ rối bời. Rồi chuyện nấu những nồi chè trôi nước cỡ chừng 200 viên, đổ bánh xèo thì phải xay cỡ 5 ký bột, đổ bánh bông lan phải tính bằng từng đêm… Về ngay mùa chụp đìa thì xem như ngày này qua ngày nọ bắt cá, làm cá luôn tay. Được cái đám em chồng, cháu chồng lúc nào cũng vây quanh phụ hợ hai vợ chồng tôi. Hồi đó, tụi nó hồn nhiên và dễ thương đến lạ lùng. Tôi nhớ như in căn nhà của ba má H. lúc đó, cái chái bên hè nhà vốn là gian bếp, có đặt bộ ván ngựa là nơi trú ngụ của tụi tôi. Má chồng tôi cứ hỏi sao tụi tôi không vô buồng mà ngủ. Nại lý do nầy kia, nhưng cái chính nhất mà tụi tôi giấu biệt là có ngủ ở đó thì tới lúc 5 giờ sáng tôi mới có thể nhờ H. chắt nước dùm nồi cơm cấy to đùng, mới nhờ H. cùng tôi đi gỡ dùm tay lưới lấy cá về kho. Chuyện nhờ vả chồng kiểu này phải giấu biệt vì chị em bạn dâu của tôi thì giỏi vô cùng. Họ làm tất tật có thấy nhờ vả ai đâu. Mà hồi đó cá tôm trong đìa nhiều vô kể. Vợ chồng tôi giăng một tay lưới rách bươm mà một đêm phải đi gỡ 3, 4 bận không thôi cá dính nhiều cuốn lưới mất tiêu. Còn chuyện dính rắn thì nhiều vô phương, chuyện H. thấy rắn quăng luôn tay lưới bị mấy thằng em càm ràm xảy ra như cơm bữa. Hai mươi năm trôi qua mà tôi vẫn nhớ như in nồi canh rau tập tàng nêm mắm, mớ cá sặt kho quẹt trong cái chảo đen thùi lùi bị sứt một cái quai. Nhớ cả cách má chồng tôi nhổ mấy bụi môn nước đem vô nấu cháo với lươn và cũng nêm vô chút mắm. Ông anh chồng thì hay kiếm mớ cá rô mề cho chồng tôi nướng lửa than chấm muối ớt. Và tôi nhớ cả những đêm mưa sụt sùi, nằm trên bộ ván trong chái bếp mà nghe bolero, nghe cải lương, nghe riết cái băng cassette nhão nhề. Mảnh đất Nam Bộ đối với tôi là như vậy, hạnh phúc trong hiện tại; chẳng ưu tư, suy nghĩ về một ngày mai.

Thời gian cứ vậy mà trôi qua. Đám em chồng, cháu chồng ngày một tấn lên. Đứa trụ lại, đứa bỏ xứ ra đi. Những khi giỗ chạp về quê đã không còn thấy đông đủ như xưa. Nhà có đám tiệc không thấy mấy đứa em bạn dâu làm bánh khéo như mọi năm. Độ chừng 10 năm trước, tụi nó bỏ quê ra chợ bán buôn. Da trắng hơn, vòng vàng nhiều hơn. Giỗ chạp thấy tụi nó xách lủ khủ bánh tây, nước ngọt về, ăn nói rổn rảng. Chợt thấy lòng đắng ngắt chứ chẳng thấy vui sướng gì. Xóm quê lần hồi cũng khác. Cá tôm không còn như xưa. Nhà trong quê mà bắt đầu phải sắm ống khoá, trồng được cây xoài cũng phải mua miếng lưới ví xung quanh. Cảnh quê mỗi ngày mỗi khác, con cháu lần hồi bỏ xứ ra đi. Ba má chồng tôi theo đó cũng già xọm đi theo năm tháng. Và tôi cũng không còn cái háo hức về quê. Tôi cứ muốn giữ nguyên vẹn cái ký ức đẹp về mảnh đất Nam bộ như tôi từng cảm nhận thưở ban đầu.

2. 29 Tết năm nay, vợ chồng con cái quyết định có bận rộn cách mấy cũng phải về quê. Biết một hai năm nữa cuộc sống rồi sẽ ra sao. Chạy xe một mạch tới Rạch Ráng đã thấy thằng em chạy đò ra rước. Đi ngang Lung Trấp, thấy lau sậy mịt mùng, nhà cửa chênh vênh, tự dưng thấy nhớ bà Ba Phó hồi còn sống quá đỗi. Một bà già Khmer nghèo đến cùng cực, bà Ba hay qua nhà ba tôi làm chuyện này chuyện kia, đổi lại ba mẹ tôi dọn cơm ăn tươm tất và không quên cho bà Ba một xị rượu. Vậy là bà Ba mãn nguyện lắm. Hay chuyện ông Bảy Tiền, nhà không giàu có gì mà cách đây độ chừng 15 năm ông Bảy đã từng bán mấy công ruộng để lấy tiền mua cái máy hát nghe chơi. Chiều chiều ông Bảy lót miếng vải nỉ non ở đầu mũi ghe để làm chỗ đặt cái máy hát, vậy rồi ổng chèo ghe từ đầu kinh đến cuối kinh mở cải lương ong óng cho hàng xóm nghe khính ! Mỗi lần vậy, ý chừng thấy trái tai, chướng mắt ba tôi chưởi ổng tắt bếp. Năm nay về thấy ổng mới cất được căn nhà tường độ chừng trăm ngoài triệu. Nghe nói ông Bảy Tiền mới gả đứa con gái cho Đài Loan. Cũng mừng là thằng rể này không đui què mẻ sứt, cũng không già cắp thùng thiếc. Ngon hơn nữa, thằng rể Đài Loan cũng nhậu không thua gì ông Bảy, xỉn lên rồi nó cũng la lối nhặng xị, được cái nhờ ngôn ngữ bất đồng nên coi như là hổng phải nó… chửi ông già vợ ! Ông Bảy Tiền lúc nầy coi bộ còn chảnh hơn hồi bán ruộng lấy tiền mua máy hát nữa không chừng.

Thằng em út đã về quê, vợ chồng thằng cháu đã sắm chiếc ghe bán tạp hoá trên sông, nghe đâu dịp Tết bán được 5, 6 triệu mỗi ngày. Vợ chồng anh Tư - vốn rặt ri nông dân và quyết chí sống chết với mảnh vườn hương hoả - chuẩn bị cất nhà mới. Bà chị dâu đang vừa đặt rượu bán tết, vừa may đồ cho hàng xóm vậy mà thấy vợ chồng tôi về đã xăng xái đi bắt gà nấu cháo. Biết ý chồng tôi, chị Tư làm luôn mớ cá sặt làm một chảo kho quẹt mặn quéo lưỡi. Đốn cây chuối, mài cây dao bầu bự chảng để xắt chuối cây làm gỏi tự nhiên tôi thấy nhớ cảnh nhà hồi tôi mới về làm dâu đến nao lòng. Đám em chồng, cháu chồng hồi đó giờ đứa nào cũng con cái đùm đề. Cũng cảnh lao nhao soạn đồ Tết, lì xì Tết nhưng nghe tụi nó kêu toàn là ông cậu, bà mợ, ông chú, bà thím mà nghe thắt cười. Ba má tôi lúc này coi bộ cũng khoẻ hơn nhiều. Tối đi lên nhà chế Ba, ba tôi cũng xuống xuồng đi cùng coi bộ tỉnh tuồng lắm. Má chồng tôi bảo: “Ông thầy nói với má rồi, qua được tuổi 79 là khoẻ ru. Hồi đó ông lụi xụi quá, má bắt lo đủ thứ”. Lên nhà chế Ba, thấy vợ chồng thằng Biên lúi húi đánh trứng đổ cho một ảng bột đổ bánh bông lan; chế Ba thì xào một chảo mứt chuối, gừng to đùng. Mới 5 giờ sáng ngày 30 Tết mà trong nhà đã thức giấc chộn rộn. Bước xuống ghe tạp hoá của thằng mở hàng ngày cuối năm. Thấy nó bán đủ thứ, mua bịch hột dưa, mứt bánh và cả mấy bịch thèo lèo cứt chuột. Thằng cháu ghẹo: “Năm nay nội ăn Tết lớn ha”. Soạn chiếc xuồng ra chợ huyện chen lấn nhau mua thịt, mua hột vịt về kho nước dừa, má nói có khạp dưa cải ngon lắm; lại nghe H. nói ngoài bờ đìa anh Tư trồng khổ qua tốt dữ, vậy thì mua thêm ký thịt về nhồi nồi canh.

Cứ như hiển hiện không khí ngày xưa. Hình như cái không khí đó, cái căn cơ từ gốc rễ ruộng đồng đó đã khiến ba má tôi tỉnh tuồng lên rất nhiều. Ba má tôi nói chừng nào tôi đi nước ngoài về sẽ lên chơi. Ba tôi coi bộ vui nhứt, ổng nói thấy con cháu được vậy là ổng mãn nguyện rồi. Lại nhớ hai đứa em dâu đang rã gánh, phải chi tụi nó cũng cố công bám đất như vợ chồng anh Tư, khổ một chút mà hạnh phúc vui vầy. Đằng này ... Thiệt tình là vừa buồn vừa giận tụi nó hết sức !
Tối Mùng Một Tết
ANH CHIẾN, CHỊ BIẾT

Năm nay coi bộ anh Khoa Chiến nhà ta ăn Tết vừa lớn, vừa vui. Đầu năm mở mail thấy một tạp bút của ảnh. Đưa lên đây cho bà con cùng đọc mấy ngày Tết. (người đang lui cui trong ảnh là chị Biết)


QUÀ QUÊ

* NGUYỄN KHOA CHIẾN

Chồng đi làm ăn xa nhà trên trăm cây số. Vợ sống ở Xứ Dừa, cũng là vùng quê kiểng. Mỗi năm, cứ những ngày giáp Tết, vợ lại trông ngóng chồng về. Không gì, cũng chỉ để góp một tay sửa soạn nhà cửa đón chào năm mới... Nhưng có lẽ điều đáng nói nhứt là được cùng chồng tranh thủ thời gian mang chút đỉnh quà quê đi thăm mấy người bà con ở thành phố, tức Sài Gòn, gọi tắt theo kiểu gọi người miền Tây Nam bộ.

Năm nay cũng không khác. Vợ chồng đã "a lô" trước cho nhau ngày giờ lên đường. Vậy là vợ ở nhà sắp sẵn các thứ cần đem theo. Còn chồng, cuối năm lu bu, xong công việc thì đã cuối ngày, vẫn ráng vượt đường xa về nhà ngay trong đêm để kịp được giờ "G" sáng hôm sau. Vợ đón chồng, ái ngại: Mệt không anh, hay là nghỉ một ngày rồi đi. Chồng thông cảm: Mệt nhưng đi được, không đi, sợ không đủ thời gian... Vợ thấy ấm lòng, thầm vui trong mắt, không biết giấu niềm vui ở đâu, cứ đi quanh dòm mấy món quà quê coi đã đủ chưa. Ý là "nàng" đã "khôn hồn" gởi trước một số thứ cồng kềnh (như mấy chậu bonsai) theo xe dịch vụ cho "chàng" đỡ cực. Quà quê chẳng đáng gì: vài chục bánh phồng bánh tráng, ít chai nước màu (dừa), mấy keo mắm tép, bốn năm cặp bưởi da xanh đặc sản... Rồi vợ chồng rủ nhau đi ngủ sớm đặng sớm mai lên đường có thể về kịp trong ngày.

Tiếng là ngủ nhưng chàng cứ chập chờn mê mê tỉnh tỉnh. Nôn nao như thuở còn thơ nằm chờ sáng để vinh dự được bưng mâm lễ vật đơn sơ nhưng ăm ắp nghĩa tình theo cha đi chúc Tết thầy. Nàng cũng chẳng hơn gì chàng, thao thức vì nỗi lo chiếc xe gắn máy của chồng đèo vợ có cộ hết những món quà quê lỉnh kỉnh để thượng lộ bình an. Để rồi chưa tới 4 giờ sáng vợ chồng đã lồm cồm thức dậy. Vợ chồng cùng nhau coi lại xe cộ và sắp xếp đồ đạc lên xe đến lúc vừa bụng, rồi châm bình trà nóng cùng ngồi nhâm nhi ít phút trước lúc lên đường khi chưa tỏ mặt người.

Trời lạnh nhưng lòng thấy ấm khi nghĩ chỉ vài tiếng đồng hồ tới vợ chồng được tận tay trao quà quê cho mấy người bà con xa xứ. Và còn ấm hơn, một cái ấm dịu ngọt, khi sực nhớ ra đã lâu vợ không ôm eo ếch chồng trôi trên một quãng đường dài như một cuộc du ngoạn vừa lạ vừa quen. Chồng vợ thầm biết ơn nhau dù có lúc vòng tay ôm nàng nới lỏng vì...mắc cỡ khiến chàng phải (khoái trá) nhắc chừng.

Phải, gọi là cuộc du ngoạn vừa lạ vừa quen chắc cũng không ngoa. Thì cứ nhìn hàng đoàn xe gắn máy chen chúc nhau trên quốc lộ ngược xuôi về thành phố có lúc muốn nghẽn đường rồi đoán thử tâm trạng của bao con người đang ngược xuôi ấy. Này nhé, lúc đi lên, thì xe từ thành phố đổ ngược về nhiều, có bao người trong đó đang tranh thủ "dọt" về quê để kịp cúng rước ông bà và kịp quay lên, có bao người tha hương kiếm sống đang quày quả trở về trong sự ngóng chờ ấp iu niềm hy vọng của người thân... Còn lúc đi về, trong số những người đi ngược chiều với mình, ai trong họ cũng là người mang quà quê đi chia xẻ, ai trong họ cũng đi cả vợ cả chồng như mình... Có lẽ cái sự đoán tâm trạng ấy mười phần sai hết chín, nhưng không hề gì, bởi biết đâu nhờ vậy, đường dài dằng dặc bỗng trở nên... ngắn ngủn!

Cũng không ngoa khi vợ chồng ghé nhà chị Ba Kim (chị bà con bên vợ) mà Tết trước mình cũng ghé tặng quà. Chị đã hơn 70 tuổi, xa Xứ Dừa thuở còn thơ ấu, một đời sống ở Sài Gòn, nhưng càng về già càng đậm nỗi nhớ quê. Thêm một tuổi, chị chẳng mấy khác trước: mắt vẫn mờ, gối mỏi tay run. Chỉ có khác, trong đôi mắt mờ ấy ánh lên niềm vui khó diễn tả khi năm nay chị được ăn Tết đầm ấm bên đứa em trai từ Mỹ trở về mà vợ chồng bất ngờ được gặp. Anh chỉ là em nuôi nhưng cư xử như em ruột. Trước khi về nước, ảnh đã kịp lo một nơi ăn chốn ở tươm tất hợp với tuổi già của chị. Quà quê của vợ chồng đứa em dành cho chị cũng chẳng khác trước: một cặp bưởi da xanh, vài chục bánh tráng bánh phồng, một chai nước màu dừa, vậy mà năm nay dường như quyện hương vị lạ : nguôi ngoai nỗi nhớ quê pha lẫn sự nguôi quên nỗi niềm cô quạnh.

Bởi vậy, cấp tập cả ngày trời đi chia xẻ quà quê đến 9 giờ tối mới về tới nhà mà vợ chồng hỏi nhau có mệt không thì ai cũng bảo không. Nói dóc. Chẳng qua là nói cho nhau yên tâm. Nói không mà buông ra là ngủ say như chết. Nhưng là một cái chết sướng -mãn nguyện, thanh thản và an lạc. Bởi vậy, bỗng muốn hét lên một cái cho đã : Cảm ơn quà quê!
N.K.C
Được đăng bởi HONG HANH vào lúc 02:06
TÂN NIÊN BLOG

Năm nay có một cái Tết nghỉ ngơi đúng nghĩa. Ăn - ngủ - dán mắt lên màn hình tivi hoặc computer. Và như vậy cũng đồng nghĩa với việc không có chút chi bản sắc, phong vị Tết xưa.

Mà hình như đối với chủ blog thì khái niệm nghỉ ngơi coi bộ hơi xa xỉ. Bằng chứng: ăn nhiều quá - bị viêm họng, ngủ trưa nhiều quá - bị nhức đầu... Và giờ đây khi ngồi... khai phím mừng Tân niên thì chủ blog ở trong tình trạng mắt long lanh, má đỏ bừng vì... đang hâm hấp sốt (!).

Thế mới biết, làm việc chưa chắc đã khổ, nghỉ ngơi nào đã sung sướng gì đâu.

Vậy nên, chủ blog chúc anh chị em thân hữu, bạn bè gần xa một năm mới: công việc đầy tràn, tiền bạc tùm lum, hãy tranh thủ nghỉ ngơi, an lạc trong chính vòng xoáy nhộn nhạo của đời mình nghen !
Được đăng bởi HONG HANH vào lúc 09:32
HAPPY BIRTH DAY TO... "TUI" !

4 giờ sáng lên xe về Toà soạn. Dọc dường ghé Mekong Rest Stop ăn vội vàng một tô gì đó chẳng nhớ, uống vội vàng một ly café. Vậy là bắt đầu một ngày túi bụi với vô vàn những thứ linh tinh lang tang liên quan đến chuyến đi sắp đến. Bạn bè réo, đồng nghiệp gọi, khách hàng níu áo. Trời ơi, giá mà tôi có ba đầu sáu tay. Nhìn quanh thấy sếp, thấy đồng nghiệp cùng đi với mình lại đang ước ao giá mà có sáu đầu, chín tay. Hà hà… Vậy thì phải cố thôi. Trong bộn bề công việc, tự dưng lại… tự hào quá đỗi vì tờ báo của mình làm được quá nhiều điều tưởng chừng là không thể. Thế nên, không than mệt nữa. Ráng mà giải quyết thêm một mớ công việc cho khách hàng.

Còn điều được thì nhiều lắm: là tên lính đầu tiên được sếp lì xì lấy hên đầu năm (do nhanh chân, lẹ miệng… hì hì); thằng bạn luôn miệng “em hả” cũng lì xì luôn (tên này vốn hào phóng và luôn tốt bụng với bạn bè, hổng phải căn cứ theo phong bao lì xì nghen V.H); trưa ghé Nhà xuất bản rinh chồng sách Dấu xưa Nam Bộ vừa được tái bản, chữ ký đầu tiên của năm Tý là chữ ký lĩnh nhuận bút sách mới đã tỷ chớ; về lại Toà soạn thì Phòng phát hành rủ nhậu đầu năm; tối về ghé Mekong Rest Stop kiếm cái bỏ bụng, làm quen với tay bếp trưởng có biệt danh Huy Bắc Kỳ (he he… em mình hổng chịu tính tiền, bảo là lâu lâu mới có dịp đãi chị !), 10 giờ tối về đến phà Bình Minh thấy xe kẹt một hàng dài đến 10 km, lấy Thẻ nhà báo hươ hươ cho xe chạy trái chiều một mạch… Thoát ! Quả là một ngày xuất hành quá may mắn.

Sực nhớ, hôm nay là ngày sinh nhật mình (!). Tên “bạn gái” chưng hửng: “Ủa sao H. lại quên mất tiêu ngày sinh nhật của H. vậy ta”. Hà hà… thì “bạn gái” cũng đang tẩu hoả nhập ma như “bạn trai” đây nè. Vậy nên, bỏ qua tất cả. Trong điện thoại có đúng 3 tin nhắn liên quan đến ngày sinh nhật:


1. “VMS-MobiFone xin gởi những lời chúc mừng tốt đẹp nhất nhân ngày sinh nhật của Quý khách”
2. “VMS-MobiFone gởi tặng 150 ngàn đồng nhân kỷ niệm sinh nhật của Quý khách trong thông báo cước của tháng sinh nhật Quý khách”
3. “Nhân ngày sinh nhật Quý khách, chương trình Kết nối dài lâu xin chúc mừng và tặng Quý khách 5 điểm thưởng”

Chỉ vậy mà thôi !

Và bây giờ thì : Happy Birthday to… “tui” !
VUI BUỒN SÁNG THỨ SÁU

Báo Sài Gòn Tiếp Thị đưa tin sáng nay: chỉ trong ngày khai trương đầu năm (mùng 4 tết), doanh thu của hệ thống FAHASA đạt 1 tỷ đồng. Con số này sẽ tương đương với cái gì đây. Người ta sẽ dễ nhẩm tính quá giá trị của vàng, của xe hơi, của bất động sản ! Nhưng nên nhớ đây là doanh thu của sách. Nghe nói mấy em thiếu nhi dùng tiền lì xì mua sách nhiều lắm; còn mấy ông Việt kiều về nước thì khuân đi nào là: sách lịch sử, văn hoá truyền thống, khảo luận, khảo cứu... Nhẩm hoài mà cũng hổng biết 1 tỷ đồng tương đương mấy cuốn sách. Chỉ biết mấy con số cụ thể có liên quan sự kiện nầy là như vầy: thằng con của chủ blog lấy tiền lì xì mua 2 cuốn sách Lịch sử lớp 11 và 12, bởi vì cu cậu chuẩn bị thi học sinh giỏi môn Lịch sử vào tháng 4 này; sách vừa tái bản của chủ blog mới ra lò nóng hổi có giá 35 ngàn đồng (lên giá thấy sợ, sách ra đợt đầu hồi năm ngoái giá có 25 ngàn thôi). Cái nầy gọi là... "ăn theo sự kiện" để... mẹ con chủ blog "khoe khoang" đầu năm tí xíu ! He he, lượng thứ, lượng thứ !!! Vui !

Cũng theo... tùm lum báo sáng nay thì sự kiện hai thằng bé bị mẹ lột trần, xích vào cây cột đèn khiến chủ blog xốn xang quá đỗi. Bỏ qua sự việc “ngược đãi” của bà mẹ, việc đăng tải tùm lum hình ảnh hai thằng xé mặc độc cái quần xì cứ thấy sao sao. Dẫu cho nó còn bé bỏng, nhưng đã có nhận thức, đã biết tự trọng, đã có sĩ diện, đã biết mắc cỡ trước bạn gái… Bạn bè nó sẽ nghĩ sao đây, nó sẽ bị chế giễu ra sao đây ! Chủ blog thấy hồi nào tới giờ người lớn hay chọc ghẹo con nít theo kiểu… lén lén tuột quần nó giữa chốn đông người. Phản ứng của nó ngay lập tức là đỏ mặt tía tai, giận dữ phừng phừng, đứa nào cũng la hét inh ỏi, có đứa lại bật lên tiếng chưởi thề đầu đời từ hoàn cảnh nầy mà ra. Và người lớn sau đó, ít ai nhận ra lỗi lầm do mình mà ra, hầu như người nào cũng hét ngay lên: sao mầy dám hỗn vậy hả (!). Cũng may chuyện tuột quần đó chỉ trong một phạm vi nhỏ biết mà thôi, chứ chưa đến nỗi phơi bày tô hô trên nhựt trình. Buồn !
LẠNH CẮT DA
Mười ngày bù đầu với DDVN. Tự nhiên thấy, những thành viên tham gia ai cũng... "thiên tài" cả ! He He He ! Có rất nhiều điều tưởng chừng không thể nhưng lại... có thể tất tật ! Và khi dịch chuyển trong vòng xoáy công việc, gặp gỡ người này, người nọ; chuyện này, chuyện kia so ra mới thấy đồng nghiệp, bằng hữu quanh mình đa phần dễ thương lạ lùng.
Chiều nay xem như tạm ổn ! Trưa nay, kéo chị K.C, Th.N, D.L đi Nhà hàng Món Huế. Uh ! Chỉ có ăn uống mới khiến cho mọi người giải tỏa stress và hồi phục tinh thần nhanh thôi ! Bí quyết đó nghen. Thêm một điều: ăn phải ngon, quán phải đẹp, bạn phải hiền ! Giống quảng cáo cái loại bia gì đó quá xá xà xa...
Cũng trong 10 ngày qua, tự nhiên chủ blog lập được một kỷ lục mới. Đi Hà Nội 2 chuyến, chuyến đầu đúng 24 tiếng đồng hồ, 10 giờ sáng ra sân bay TSN, 10 giờ sáng hôm sau có mặt lại rồi. Hôm qua còn kinh khủng hơn, 7g30 bay ra Nội Bài, đến 23h45 đã có mặt lại TSN, lại còn tranh thủ buổi trưa đi chụp hình Văn Miếu Quốc Tử Giám nữa chớ (đó là cách khỏi thuê khách sạn ở một mình có 2 tiếng đồng hồ một cách lãng nhách). Cả hai chuyến Hà Nội lạnh như cắt da cắt thịt 10 - 14 độ C. Chui vô Chả cá Lã Vọng xì xụp bên bếp than hoa nóng ấm, nhưng công việc dồn ứ khiến chẳng thấy ngon. Có điều ghi nhận chủ nhà bày trí bàn thờ quá đẹp với hoa đào, với quả phật thủ, với bưởi đỏ tươi căng bóng. Thấy không khí Tết nhất gì đâu.
Chiều ngày mai lại... bay ra Hà Nội !
Đi đến mức mình thấy ngán ! Không chảnh nghen bà con !
Được đăng bởi HONG HANH vào lúc 15:55
ENTRY CẦN ĐỌC VÀ NHỚ... HỒI ÂM
Hôm trước về Toà soạn, Q. - một tay nghiện thuốc lá hạng nặng, đàn guitar rất cừ và mê văn chương Nga (hai điều sau mới nghe anh Khoa Ch. nói chứ chưa có dịp kiểm chứng !) – nói: “Em hay vô blog của chị lắm”. Giật mình một tí, vì tui có rỉ tai, truyền miệng cái “nơi chốn ảo” chi mô. Lang thang vào một vài blog khác – cái thì trú ngụ ở yahoo, cái thì vnweblogs, cái thì blogspot – và cả một vài trang web khác nữa cũng thấy cái link dẫn đến cái… Ngẫm nghĩ của mình. Thừ người ra mà… nghĩ ngẫm, chủ blog thấy mắc dị òm ! Cũng may mà tui chưa đến nỗi mắc bệnh… đại ngôn để giờ còn chút tự tin mà… bờ lốc cốc tiếp.

Dài dòng một tí để dẫn dây đến một câu chuyện hoàn toàn khác. Hổm rày, chủ blog cứ băn khoăn mãi chuyện đi tìm tài trợ - không phải cho bổn báo TN mà là cho một trang web văn chương của vùng châu thổ. Chủ blog vốn có tiếng là… “bang chủ cái bang”. Hễ bang chủ đeo bị, quơ gậy đả cẩu bổng là thể nào cũng có chút đỉnh ngân lượng đặng… hành hiệp giang hồ ! Nhưng đó là cho những chương trình từ thiện ngoài mặt báo của bổn báo. Hôm trước tâm sự với anh Kh. Ch, ảnh cũng đăm chiêu… nhổ râu mà chép miệng: “Gay thiệt hí. Chừ miềng làm răng hè”.

Tối nay, chủ blog ngủ không được vì… thiếu ly cà phê thứ 3 trong ngày ! Bắt chước anh Kh Ch. cũng chép miệng (chỉ tiếc là hổng nhổ râu được mà thôi) mà rằng: “Gay thiệt hè… thiệt hè… hè… hè”. Chủ blog chợt loé lên một ý nghĩ - Có khi nào trong những người ghé thăm nơi chốn dù là ảo ảnh này có máu mê văn chương thơ phú và tình nguyện làm Mạnh thường quân ? Thử phân loại một tí: người chỉ mê văn chương thì gởi chút đỉnh xem như là cái tình; người có liên quan đến giới thương mãi thì ngẫm nghĩ thử xem nếu mình quảng bá ở cái trang web văn chương châu thổ này thì sao (nói nhỏ một tí: lượng truy cập vô đây hơi bị nhiều nghen, thêm nữa cái Hội Nhà văn to đùng mà đã có quép quyết gì đâu – phân tích đầy tính khoa học đó, tin tui đi); rốt cùng gặp người vừa có máu kinh doanh mà vừa mê văn chương thì quá đã rồi !

Chủ blog sực nhớ tuần rồi ghé NXBVN vừa lãnh nhuận bút đợt tái bản cuốn “Dấu xưa Nam bộ” (trang web văn chương có trích đăng – cám ơn hai bác Lê Chí và Vũ Hồng nghen). Thế nên, của ít lòng nhiều chủ blog xin trích góp một triệu đồng để mong “hai bác vừa nêu” cố gắng duy trì cái địa chỉ quen thuộc bấy lâu nay để dân giang hồ còn có chỗ ghé thăm. Xin đa tạ.

Và xin gởi đến các bạn đã, đang và sẽ ghé thăm blog của tui cái địa chỉ như sau: www.vannghesongcuulong.org.vn . Cứ ghé và sau đó nhớ lời tui vừa nhắn nhe nghen ! Sẽ hậu tạ bằng cách có đi đâu hành hiệp sẽ kể lể chuyện giang hồ cho các bạn nghen chơi cho vui.
Được đăng bởi HONG HANH vào lúc 00:29 3 nhận xét Các liên kết với bài này
Thứ sáu, tháng ba 21, 2008
VÌ CỚ LÀM SAO !
1. Mớ bòng bong.
Đi London về đã 10 ngày nay. Bà con thấy chủ blog kể chuyện nhặng xị bên ngoài – toàn là chuyện hấp dẫn mà chỉ có dân giang hồ thứ thiệt mới kinh qua – bèn thắc mắc rằng cớ làm sao không thấy đưa lên mạng đặng mà… khoe khoang !
Phù, biết nói sao đây khi đối diện với một mớ bòng bong, bụng dạ đâu mà bờ lốc cốc.
Nhưng giờ thì khỏe rồi. Khai thông mọi thứ.
Sáng nay, chủ blog đối diện trước 3 chọn lựa – mà toàn là những “điểm nóng” – hì hì, chủ blog được “oánh giá” hơi bị quá hớp so với bản thân tự “oánh giá”. Nói thiệt chứ không phải giả bộ khiêm tốn chi mô ! Thế nên, lựa một “chọn lựa” vốn đã “lựa chọn” bấy lâu nay. Hy vọng mọi chuyện sẽ tốt và sẽ gặp toàn là những chuyện tốt. Ừ, mà tốt đẹp hay không chính là do quan niệm của mình. Rất thích câu nói của cha nội giàu nhất thế giới: “Nếu bạn không cảm thấy hạnh phúc thì đấy là do lỗi của bạn mà thôi”.
2. Ân hận đà muộn rồi.
Cũng trong 10 ngày qua, chủ blog xù đẹp 2 cái hẹn với… bạn giang hồ. Nhưng không về R.G với “bạn gái” cũng không sao. Có điều cái thất hứa với ông Hải thì quả là bậy bạ hết sức. Quả tình là hôm đó tụi nhỏ ở S.G về đầy nhà, bỏ đi thì không được lại thêm công việc dồn đống. Những ngẫm lại, cả đời ông H. chỉ có một hai dịp như thế này. Ổng giận mình thiệt sự. Hôm kia ổng chưởi cho một tràng liên thanh qua điện thoại – vẫn chưa biết ổng giận. Hôm nay, ổng tâm sự hết sức buồn bã, lại không chưởi thề như thói quen của ổng vốn vậy – thì biết là giận thiệt rồi. Mình đâm ra hoang mang quá đỗi. Tối nay nói chuyện với ổng 2 ý: một là chủ blog ân hận thật sự, hai là chủ blog cũng… mừng bởi lẽ ổng có giận thật sự thì chứng tỏ chủ blog có một vị trí trong tình nghĩa giang hồ này chớ ! Nhưng cũng có một bài học nhớ đời.
Đúng là… giang hồ ta chỉ giang hồ vặt !
Được đăng bởi HONG HANH vào lúc 20:58 0 nhận xét Các liên kết với bài này
Thứ tư, tháng ba 19, 2008
250 NĂM TRƯỚC DÂN VIỆT MÌNH NẤU ĂN VẦY NÈ !
Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã có cho ta một tài liệu thật thú vị với "Món Ăn Việt Nam Đời Xưa theo sách Thực Vật Tất Khảo". Giới thiệu lên đây để bà con coi thử 250 năm sau cháu chắt, hậu duệ có tiến bộ gì so với tổ tiên, cụ kỵ của mình không nghen. Còn như chủ blog đây xem sơ sơ thì thấy toát mồi hôi hột toàn thân vì kính nể. Chủ blog cũng đồ rằng nếu tổ tiên cụ kỵ mà biết cái thời đại thức ăn nhanh bây giờ nó ra làm sao thì e là các cụ kêu thét lên 3 tiếng rồi lăn ra bất tỉnh ! Thương thay ! Thương thay !



Nấu nướng là một phần quan trọng của văn hóa. Những di tích thuộc về môn nầy là chứng chính xác để đo trình độ văn minh của một dân tộc vào một thời đại.

Ở nước ta, nay còn thấy một bản cảo, bằng chữ nôm, chép những món ăn với cách làm trước nay hơn 250 năm. Cảo ấy mang tên " Thực vật tất khảo tường kí lục " (1), nghĩa là : tập ghi rõ ràng những phép phải khảo khi làm các món ăn. Ta sẽ gọi tắt cảo ấy là " Thực vật tất khảo ". Cảo gồm 125 tờ giấy dó, khổ nhỏ 14 x 22 phân. Mỗi trang viết 8 cột. Trong cảo có 279 tiểu đề. Mỗi tiểu-đề có ghi số mã (thứ-tự) từ 1 đến 288. Vì lẽ có số mã bị bỏ sót, có số mã được dùng hai lần, cho nên tiểu đề ít hơn số mã. Mỗi tiểu-đề mang tên một món ăn, trừ tiểu đề mang số 184 " Trị lăng pháp " (2) nghĩa là phép xây lăng (mộ vua, chúa). Kẻ dọn cảo nầy đã sao lục góp lại nhiều sơ cảo có trước, trong đó có hai thực phả. Thực phả đầu chứa 174 món ăn, thực-phả sau chứa 104 món. Hai phả ấy có ghi đến 90 món và lời giải trùng nhau. Nếu lọc lại thì chỉ còn 189 món khác nhau, tuy rằng tổng số ghi là 279 món và số mã đánh từ 1 đến 288. Tuy vậy, hàng đầu cảo mang hai chữ tân san (3) nghĩa là mới khắc. Ta không rõ rằng vốn đã có bản khắc chăng, hay là ý soạn giả muốn đem cảo nầy ra khắc.

Sau các đoạn đuợc sao tập, còn thấy ghi thời điểm. Đó là những thời điểm các sơ cảo. Dẫu sao, các điều ghi lại trong cảo nầy theo các thời điểm ấy, chắc đã có từ hơn 250 năm, vào khoảng đầu đời vua Cảnh Hưng nhà Lê. Tóm lại, cảo " Thực vật tất khảo " gồm có hai phần chính là hai thực phả và ba phần phụ như sẽ thấy sau : (hình 1)
Những món ăn được ghi lại đều thuần túy Việt Nam, dùng trong mọi từng lớp xã hội, từ nước cáy ở thôn quê, qua cá rán nhà trưởng giả, đến ram mọc chim nhà quyền quí. Đáng chú ý là không thấy những món nay coi là rất sang, như vây, bóng, yến sào. Vây, bóng có lẽ ngoại lai. Còn yến sào thì được dùng làm gia vị cho nhiều món. Sự hiện diện yến sào và phép xây lăng trong cảo khiến ta phải nghĩ rằng soạn giả cảo nầy là một thái giám coi việc nội vụ trong cung chúa Trịnh hoặc vua Lê. Năm soạn phép xây lăng (1735) chính là năm vua Long Đửc mất. Ý chừng, ấy trỏ lăng vị vua nầy.
Trong số các món ăn được ghi, đại khái có hơn 10 loại: mỗi loại gồm nhiều thứ: loại Bánh (28 thứ), Xôi (15), Mứt (19), Dưa (10), Mắm (24), Cá (16), Thịt chả (15), Chim gà (17), Món chay (19), Bột, Kẹo, Bún, Nấm, vân vân (26).
Về cách làm những món ăn, văn dùng toàn là văn xuôi nôm viết theo lời nói thông thường, giản dị, có nơi ngắn ngủi nên tối nghĩa. Vả chăng kẻ viết nôm trong cảo không phải nhà nho giỏi chữ, cho nên chữ nôm viết không chính-xác, không thống nhất. Những Việt từ dùng đây thường trỏ món ăn hoặc cách nấu nướng; nó không thường thấy trong những tập văn chương ta quen biết. Khi biên giả dùng phép hài thanh, thì có lúc dùng âm tố Hán quá xa âm tố Việt mà mình muốn diễn, ví dụ dùng các âm Hán tiếp, lồi, kim, tạm để diễn những từ Việt bếp, nhồi, rim, rạm. Vì vậy, phiên âm cảo nầy gặp nhiều trở ngại. Kết quả cũng không chính xác. Nhưng đây là một tư liệu rất quan trọng để khảo ngôn ngữ và chữ nôm dân gian về đầu đời Cảnh Hưng.
Tôi bắt đầu giới thiệu một vài món ăn, bằng cách diễn âm y nguyên văn nôm. Tôi sẽ chú thích chữ khó, nêu chữ ngờ. Có chỗ tôi thêm, trong cặp vòng đơn, một chữ để câu văn thành dễ hiểu. Hoặc có chữ nôm không đoán ra âm, tôi sẽ thay bằng âm khác cho xuôi nghĩa ; âm thế sẽ đặt giữa cặp vòng vuông [...], và nếu làm được thì tôi sẽ viết thêm chữ nôm bị nghi ngờ. Cảo nầy, mỗi trương viết 8 dòng, chữ tháo khó đọc. Riêng những món trùng điệp ở hai thực phả, thì có thể so sánh mà sửa chữa chỗ sai chỗ sót. Tôi sẽ ghi chú thích liền sau mỗi bài.
1. XÔI VÒ – số 31 và 207
Lấy đậu xanh mà ngâm, phỏng một trống nửa canh(a). Văn (b) ra xem nó tróc vỏ (chưa). Lấy muối mà xát khan (c) cho bẵm (d) có bọt ra, sẽ đãi cho sạch. Chọn gạo nếp cái tốt cho sõng (e). Gạo, vò đi, để ngâm một chốc, vớt ra. Mỡ với đậu trộn vào, xôi lên (f). Phỏng nó chín hai phần còn một, thì đổ ra, quạt cho ráo, cho nguội. Đánh nước muối, tưới vào, trộn đi cho đều. Lại xát đậu vào, lại xôi lên cho chín. Xem mặt xôi nó đã chín trong mặt, lớn hạt xôi mà nhẻo (g) (chưa), thì tra đường. Nếm cho vừa. Hoặc nó còn cứng hạt xôi, (thì) lại tới nước, với tra đậu; lại xôi lần nữa. Vát (h) ra, sẽ tra đường. Hoặc nó rắn thì tra đường nước; hoặc nó nát thì tra đường tán. Tra đường vào sàng (i) mà đưa (j) cho chóng. Lấy hạt sõng, tra đường còn nóng, chớ tra nguội. Nếm cho vừa thì thôi.
Như bằng làm xôi chay, thì đừng mỡ.

chú thích : (a) Trống canh : thời-gian bằng hai giờ ngày nay. (b) Văn : cầm vào đầu ngón tay mà xát đi xát lại. (c) Khan : không ướt, không trộn nước. (d) Bẵm : mạnh, với nhiều sức. (e) Sõng : trong, bóng. (f) Câu sau diễn theo bài số 207 ; bài kia sót nhiều chữ. (g) Nhẻo : cũng viết dẻo. (h) Vát (4) : có thể đọc vớt. Hoặc là vát, âm còn trong thành ngữ vớt vát. (i) Sàng : đồ tre đan bẹt và mắt thưa, có thể dùng để rây. Đây theo bài số 207. (j) Đưa : vận chuyến sàng để rây.
2. GIÒ LỤA – số 155 và 252
Giò lụa thì chọn thịt thăn (a) đừng hôi. Lấy ngón (tay) mà văn (b) cho dẻo tốt. Chớ mua thăn già, thăn non. Như bì thì bì lợn non, cho trắng, tốt, mỏng bì. Đem về đánh muối bì cho trắng. Luộc lá chuối cho lụi (c); rửa đi. Sắp lá cho sẵn. Lét (d) thăn ra, dần (e) qua đi. Đâm cho chóng nhỏ. Phỏng cái giò thì ba đồng (f) mỡ chứ, trộn vào mà cùng đâm. Tra nước mắm cho vừa; mà bó cho chặt, mà nấu cho chín. Phỏng nấu nó, như luộc trứng chín thì nó chín. Sẽ lấy ra mà ép, mà châm (e) cho ráo.
Chú thích : (a) Thăn : thịt nạc ở dọc lưng lợn. (b) Văn : xem bài 1 , (b). (c) Lụi : héo mềm. (d) Lét (5) : có thể đọc trét, sét hoặc dẹt chăng ? ý là trải trên chỗ bằng. (e) Dần : lấy sống dao mà đập cho mềm. (f) Đồng : 1/10 lạng, chừng bằng 3,9 gam. (g) Châm :chọc thủng lá gói cho nước chảy đi.
3. NEM BẢNG – số 159 và 254
Nem bảng (a) thì lấy nửa thịt thăn (b), nửa thịt rọi (c). Chọn lấy thịt nào đừng hôi; đem về, lạng (d) đi cho hết gân. Mà thái ra từng miếng mà muối; để một chốc, nó ra nước (thì) lấy khăn vải vắt đi cho ráo. Thái cho mỏng, dần (e) cho nhỏ mà đâm. Rồi sẽ băm (f) một ít mỡ mà đâm một nơi (g) cho nhỏ. Rồi sẽ trộn lại làm một; sẽ đâm. Tra một ít cơm với thính (h); nếm cho vừa mùi, mà bóp cho đều. Với lấy một tấm thịt ba rọi (i); lấy nồi luộc vừa chín đến chứ. Rồi tra một ít mật với rượu vào thịt ấy mà bác cho vàng tốt. Rồi rửa nước lã đi; lấy khăn vải mà lau cho ráo. Rồi liền lộng (j) hết trên thịt nó đi. Lại cắt chung quanh nó đi. Rồi thái ra cho mỏng, mà rắc muối với thính cho vừa. Lấy lá vông (k) mà lót. Rồi đặt thịt ba rọi ấy quanh, thịt nem ở giữa. Dát (l) cho mỏng. Gói lá chuối ngoài cho kín, mới ngon.
Tháng sốt thì một đêm đã nên ăn. Tháng rét thì hai ba đêm mới nên ăn.
chú-thích : (a) Bảng : tên một cách làm nem, có thể là tên làng gốc, như nói cốm vòng (làng Dịch Vọng). Bảng đây trỏ làng Đình Bảng chăng? Cảo nầy chỉ mách hai thứ nem mà thôi : nem bảng và nem gói. (b) Thăn : xem bài 2, (a). (c) Rọi : thịt gồm nhiều lớp nạc và mỡ lẫn nhau ; cũng gọi thịt ba rọi (ba lớp). (d) Lạng : lấy mũi dao sắc tách thịt ra. (e) Dần : xem bài 2, (e). (f) Băm (6) : theo nôm thì âm đáng là lăm, trăm... Đoán ấy là băm, nghĩa là chặt nhỏ. (g) Nghĩa là riêng. (h) Thính : gạo rang và nghiền nhỏ. (i) Ba rọi : xem (c) trên. (j) Lộng (7) : nghĩa là khoét, như nói chạm lộng. (k) Vông : cây gỗ nhỏ mọc ở bờ rào, gỗ mềm, lá cụm ba, phẳng, mỏng, hình tim, dùng gói nem ; cũng có tên vông nem, thuộc loại Erythrina. (l) Dát(8): làm mỏng. Nếu đọc đặt thì không đắt ý.
4. CHIM ĐỒ – số 122 và 262
Làm lông. Đánh muối (cho) trắng. Mổ phanh ra, mà dần (a) qua cái chim. Lấy thịt sườn lợn, mà chặt từng miếng. Một ít nước đường, nước mắm. Phỏng ba lát gừng. Phỏng nửa quả chanh nhỏ, vắt lấy nước nó một ít. Với tương tàu, hành với cây răm. Bóp vào làm một trong cái chim ấy. Sẽ để vào bát mà đồ (b). phỏng hầu chín đem ra, bỏ xương. Lọc lấy nước với thịt chứ, mà nếm mùi (cho) vừa. Hoặc thiếu mùi chi thì thêm mùi nấy. Lại để vào, lại đồ bao giờ ăn sẽ lấy ra. Như tra tương tàu thì cũng nên.
chú thích : (a) Dần : xem bài 2. (e). (b) Đồ : nấu hấp bằng hơi nước.
5. CHIM QUAY, GÀ QUAY – số 116 và 260
Chim (hay) gà cũng làm lông. Đánh muối cho sạch. Lôi lòng đi. Mỡ với hành ép vào trong bụng nó. Xỏ bàn (a) mà quay cho chín. Lấy miếng mỡ mà phất. Nó vàng, nó dừ thì thôi.
chú thích : (a) Bàn : dụng cụ để quay đồ ăn, hình cái bàn ; gồm có cái que để xuyên qua con gà mà quay trên than nóng.
6. CÁ NHỒI – số 145 và 277
Đánh vảy đi. Mổ bên sống (a) nó ra, lấy xương ra cho hết. Rồi kéo lấy thịt nó. Rồi lạng (b) hết xương con nó đi. Để dưng (c) da nó chứ. Cá kéo ra thì đâm cho nhỏ. Phỏng ba phần cá (thì) một phần mỡ, một phần cua, một ít yến sào. Đâm vào làm một. Tra nước mắm, nước đường vào. Nướng thử nếm cho vừa. Nhồi vào (da) con cá. Lấy nước thịt sườn, nước chanh, nước mắm, nước đường, pha vào làm một. Để con cá vào bát. Sẽ đồ (d).
chú thích : (a) Sống : lưng. (b) Lạng : xem bài 3, (d). (c) Dưng: ở cạnh phần đang quan hệ; ví dụ: người dưng. (d) Đồ: xem bài 4,(b).
7. THANG CÁ – số 154
Hoặc (cá) trôi, hoặc cá chi thì cũng nên. Cá hành (a) cho tươi, mà rửa cho sạch. Mà xủi vảy nó đi. Lôi lòng đi, mà khử (b) đi dần. Mà kéo ra mà bỏ xương. Nơi đâu nó có đỏ thịt, thì cắt đi. Hễ ba cá thì một phân mỡ sống. Nhồi củ hành mà nướng. Đâm một nơi (c) Cho nhỏ. Rồi sẽ đâm lại làm một. Lấy cà cuống với nước mắm, sẽ tra vào cho vừa mùi. Rồi thì dát ra cho mỏng bằng cái đĩa ấy. Rồi luôn nấu nước lã lên cho sôi, mà tra bánh cá ấy vào. Nấu cho nó chín, thì sẽ vớt ra, mà để cho nó nguội. Rồi sẽ thái ra mỏng, để trên bát thang (d) ấy.
Nào nước nấu nó ấy, thì tra một ít sườn lợn với tôm canh (e). Cho vừa mùi chi thì thôi (f) : (tra) hoặc lá tía tô, hay là rau răm thì mặc lòng; mà thái, cũng để trên bát ấy. Hoặc có ăn kiêng thì đừng tra thịt lợn với cà cuống mà thôi. Lại cứ như phép làm.
chú thích : (a) Hành : dùng. (b) Khử: vứt bỏ đi . (c) Xem bài 3, (g). (d) Thang : món ăn thịt cá nấu với nhiều nước bản chất. (e) Canh (9) : thường đọc ngạmh (cá ngạnh); đây trỏ tôm khô dùng để nấu canh. (f) ý là : muốn gia vị thế nào cũng được.
8. MỨT CHANH – số 56 và 223
Chanh thì mài hay là gọt thì cũng nên. Rồi thì đánh muối cho bẵm (a) , cho sạch hăng. Chẻ bốn bên ra mà rửa nước lã cho sạch chua. (Tra) nước phèn cho nó vừa chát nước. Sáng ngày một lần thay nước, tối một lần thay nước; phỏng ba ngày cho nó hết nước hăng. Rồi lấy lá gai mà đâm ra cho đặc. Lấy nồi gang thịt (b) đánh cho láng. Đổ nước lá gai vào mà xếp chanh vào nồi. Một lớp chanh thì lại xếp một lớp lá gai. Bắc lên bếp nấu cho nó xanh. [Nước (c)] chưa xanh thì lại lấy lá cách (d) mà nấu; hai lần rửa đi cho sạch. Hoặc có làm mứt nào xanh, thì cứ như phép ấy mà làm.
Nấu nước đường mà đảo. Đem ra vắt đi cho ráo. Lại lấy đường mà ngào cho nó đen. Liệu vừa chứ, chớ cho nó đen quá mà xấu. Phỏng ba ngày sẽ nấu nước đường khác thay nó, (thì) nó mới trong tốt. Muốn thêm mùi thì tra một ít nước hoa; liệu cho lặn (e) mùi chứ (f). Như muốn làm ráo, đương (thì) chọn đường tốt. Các phép cũng thế ấy. Để nhỏ lửa, ngào mãi cho ráo mà thôi.
chú thích : (a) Bẵm : xem bài 1 , (d). (b) ý là : nồi bằng gang thường dùng để nấu thit. (c) Nước (10) chữa ra (11). (d) Cách (12) : theo thoạI số 56; đó là một thứ cây nhỡ trồng ở rào có lá xanh mướt, hình bầu dục rộng, có thể dùng gói nem. Thoại số 223 viết chữ (13) đọc khác tự dạng giống chữ cách trên, nhưng ý không chính xác bằng. (e) Lặn (14) (thoại số 56) và (15) (thoại số 223) : ý là không nổi mùi, không xông mùi. (f) Thoại 223 dừng ở dây, thêm đoạn sau bằng chữ bé. Còn thoại 56 thì không có đoạn sau, nhưng lại thêm chính văn sau : " Phỏng mùi hoa hoặc làm vội bấy giờ. Ngào rồi thì nấu nước đường khác, để cho lạnh (mà) thay. Bấy giờ nó mới được trong tốt ".
Xem chừng ý có trùng điệp với trên.
9. BÁNH RÁN – số 10 và 195 + 196
Lấy gạo nếp cái cho tốt, vò cho sạch, rây cho nhỏ, rồi phơi ra. Phơi thì phơi trong gió : chớ phơi nắng mà khét. Lấy bột lọc nếp mà nghiền cho nhỏ. (Đong thì) lấy chiếc đũa mà gạt bằng miệng bát. (Lấy) bốn bằng miệng bát bột đâm (a), một bằng miệng bát lẻ, (hoặc) hai bát bột lọc cũng nên. Trộn đi. Lấy rây mà rây, chín, mời bận cho đều Nấu nước, bắc lên với dềnh (b). Đâm ra cho nhỏ, mà vắt với nước bắc ấy. (Dùng) vừa dềnh,chớ lắm mà khét (c). Sú bột thì cho rắn; chớ sú ướt mà khó rán. Lăn vừng thì lấy một ít rượu pha với nước lã. Ngửi hơi rượu, (cho) một ít chứ, chớ pha nhiều.
Khi mới rán, thì phải (d) lửa chứ, đừng cả lửa lắm. Đến khi nó đã nặng đũa (e), (thì) một tay lấy một cái bánh mà tra vào nước đường. Bẻ ra xem. (Như) ngoài nó giòn, trong thì dở mủn (f), (thì) vớt ra cho chóng. Lấy giấy mà lăn đi cho hết mỡ, kẻo khét. (Bỏ) vào còn nóng, mới tốt cái bánh. Nếm cái bánh cho vừa đường. Đem lên, lấy giấy bịn (g) cho kín. Đó là bánh pha để lâu. Có muốn cho nó mỏng vỏ, thì pha bốn bột đâm (h), hai bột nếp lọc. Ăn bấy giờ thì ngon, nhưng để chẳng được lâu. ấy là bánh rán bột bộ (i).
Bánh rán bột lọc thì chọn lấy bột chợ nó bán ấy (a). Xem bột nào tốt thì mua lấy. Lại đong bốn bằng miệng bột lọc nếp thì một bằng miệng rưỡi bột lọc tẻ. Đâm lại làm một. Rây cho đều. Dù trộn lại, dù rán, cũng như bánh bột bộ.
Rán mầu xanh thì phơi lá (k) cho ráo mà (đâm) luôn với bột. Nướng lên (l) một ít, xem vừa mầu xanh (thì) sẽ nắm mà rán. Rán thì nhận cái bánh xuống, cho mỡ lên trên. Trộn (m) Cho mau, nó mới tốt. Đến khi nó [phồng (n)] thì hơn lửa, kẻo nó dẹp xuống. Các điều cũng như bánh bột bộ.
chú thích : (a) Bột đâm : ý trỏ bột gạo nếp nói ban đầu. (b) Dềnh : thứ quả hình bầu-dục, khi chín thì vỏ vàng đỏ, đượọc dùng để nhuộm bột. Cũng có tên dành-dành, chi-tử. Cây mộc nhỏ thuộc loài Gardina. (c) Khét : nôm viết (16), chắc đều phải đọc như vậy. (d) Phải : vừa đúng mức. (e) Nặng đũa : ý là khi chọc đũa vào thì phải đè mạnh. (f) Mủn : đọc mẳn hoặc mủn, nghĩa là trạng thái hạt nhỏ rời. (g) Bịn (17) : đáng đọc bện hoặc bịn (bít), ý là gói kín. (h) Xem chú thích (a) trên. (i) Bột bộ : bài số 195 mang đề " Bánh rán bột bộ ' , dứt ở dây. Đoạn nối sau là bài số 196. Cả toàn bài mang số 10, nhưng có bỏ sót một khoảng như sẽ thay sau. (j) : Đoạn nầy được chép riêng thành bài số 196 mang đề " Bánh rán bột lọc " Tuy tôi chưa biết chắc ý nghĩa từ bột bộ, nhưng qua hai bài số 195 và 196 thì thầy rằng trong nguyên liệu bánh rán bột bộ và bánh rán bột lọc chỉ khác nhau bằng dùng bột đâm cho bánh bột bộ, và bột chợ cho bánh bột lọc mà thôi. (m) Lá : có lẽ gai hay lá hiên mà ta thấy trong những bài khác, cũng trong trường hợp nầy. (n) Đây theo bài số 196, còn bài số 10 sót một ít chữ.
10. CHÈ NGŨ VỊ – số 18, 75, 76, 240 và 241
Tổng-luận - Trong cảo nầy có ba bài chung một tiểu-đề " Chè ngũ vị " số 18, số 75 và số 240. Hai số sau chung một lời. Lại có hai bài khác cũng chung một lời, số 76 và sồ 241, với đề " Chè tháng sốt ' , nghĩa là chè ăn vào tháng nóng. Xét nội-dung thì ấy cũng là chè ngũ vị; mà lời cảo bài 76 và 241 lại gần lời bài 18 hơn các bài 75 và 240. Xét chung năm bài, thì thấy Hán từ vị đọc nôm là mùi; mà mùi có hai nghĩa : một là mùi ngửi hoặc nếm, hai là mầu sắc. Tuy rằng ngũ vị cốt trỏ số năm nguyên liệu của một món ăn, như nói dưa ngũ vị (bài số 244), nhưng ở đây, ngũ vị có lẽ trỏ nguyên liệu có năm thứ mầu sắc khác nhau : trắng, vàng, biếc, xanh, đỏ. Còn số nguyên liệu trong các món chè, thì lại quá số năm. Trong ba bài số 18, 76, 241, thì dùng thạch trắng, quả dềnh vàng, củ huỳnh tinh biếc, lá hiên xanh, quả hồng tàu đỏ. Ngoài đường, số 18 có dùng thêm ba nguyên liệu : hạt sen, củ lạc (đậu phụng) và hạt dưa; các số 76 và 241 chỉ dùng thêm hai nguyên liệu: hạt sen và yến sào Đến khi các bài số 75 và 240, thì lại không thông qua năm mầu, và chỉ kể sáu thực phẩm được dùng : hạt sen, củ lạc, củ mài, huỳnh tinh, hồng tàu và yến sào. Sau đây, tôi sẽ phiên âm riêng rẽ các bài ấy, rồi sẽ chú thích chung.
10a. CHÈ NGŨ VỊ (Số 18)
Nấu thạch hoa (a) lên, để trắng. Với (mùi) vàng (thì) nấu (dềnh). Với mùi biếc thì giáo (b) hoàng tinh, cũng như (làm) bánh trôi nước ấy. Mùi xanh thì lấy lá hiên (c) non mà tẩm đi. Mùi đỏ thì lay hồng tàu. Chọn lấy (hạt) sen, bóc ra, nhỏ tầy đầu đũa ằy. Cắt hai bên đầu ; tống ruột nó đi. Lạc hoa sinh (d) thì luộc cho chín; cắt hai đầu nó đi; chọn đường cho trắng, mà nấu nước, lọc cho trong. Hạt dưa thì rang cho vừa, xỏa (e) lên cho nó trắng, đừng rang vàng; lấy nước đường mà dầm. Thức vàng, thức biếc, thức trắng, một thức (để) một nơi, cho nó thôi (f) ra ; bao giờ hầu (g) ăn, sẽ vớt sang nước khác, sẽ trộn các thức vào làm một. Như bằng (h) cái sen, cái hồng tàu, với lạc hoa sinh, với hạt dưa, bao giờ hầu ăn, thì sẽ để sen với hồng tàu, lạc hoa sinh với hạt dưa ; chớ tra để lâu; nó giun (i) lại mà lơi (j).
10b. CHÈ NGŨ VỊ (Số 75 và 240)
Luộc hạt sen cho bở. Luộc lạc hoa sinh cho bở. Cắt hai bên đầu nó đi. Củ mài thì cắt ra từng miếng, luộc cho chín. (Lấy) một ít bột hoàng tinh quấy vào nước mà nấu lên cho sôi. Ngửi [không] còn hôi, rồi sẽ tra hạt dưa, (hạt sen), lạc hoa sinh, củ mài vào mà nấu. Bấy giờ sẽ tra đường.
Nếm cho vừa (rồi) sẽ tra yến sào vào. Vớt ra cho chóng kẻo chát yến sào. Xả (k) lên trên bát, sẽ tra hồng tàu.
10c. CHÈ THÁNG SỐT (l) (Sồ 76 và 241)
Nấu thạch hoa (a) để vậy, đừng pha đường. Cắt ra từng khổ, thái cho mỏng. Sen thì tìm sen tươi, còn non, tầy đầu chiếc đũa. Bóc đi cho hết vỏ; bỏ lõi (m) trong nó đi. Nước thì nấu lên cho trong, để cho nguội. Đường thì rửa cho sạch bụi. Đổ đường vào mà đánh với nước lã ấy cho vừa mùi.
Lảy lá hiên non cho xanh; nơi đâu nó xanh thì cắt lấy bằng đốt ngón tay. Đảo (n) cho chín. Thạch hoa (thì) nửa nấu trắng, nửa ngâm (với) dềnh (o), (rồi) nấu cho vàng. Yến sào với thạch hoa, hạt sen, lá hiên, thì đổ nước vào mà ngâm cho lâu, rồi sẽ thay nước đường khác. Bao giờ ăn sẽ tra hồng tàu.
Ấy (là) chè tháng sốt. Dẫu để cả ngày thì cũng chẳng có thiu.
Như mùi biếc thì lấy bột hoàng tinh; (hoặc) lầy nước làm xôi gấm (p) mà làm. Xem cho nó vừa mùi. Tẩm nước lã đi cho hết hôi. Lấy khăn mà vắt bột cho ráo. Lấy chén nước đóng (q) như (khi) trụng (r) bánh phân (s). (Rồi) giáo lên cho chín. Lấy lá dong mà gói, rồi cắt ra cho mỏng.
Như mùi biếc, mùi vàng, thì lấy nước đường mà dầm. Bao giờ ăn sẽ tra nước đường khác.
chú thích : (a) Thạch hoa : chát nhầy lầy từ cây rong câu, ăn được ; cũng gọi tắt là thạch ; thuộc loại Agar. (b) Giáo : bỏ vào nước sôi mà quấy cho chóng đặc. (c) hiên : thứ cỏ loài tỏi, lá bẹt dài, hoa cuống dài, hình phễu, nở thành chùm mầu vàng đỏ. Búp ăn được, gọi là kim châm. (d) Lạc hoa sinh : thường gọi tắt là củ lạc (đậu phụng) ; nghĩa chữ nho là : hoa rụng xuống đất mà sinh củ. (e) Xỏa : trải tung ra. (f) Thôi : mầu hoặc mùi của một vật ngâm, nó thấm dần vào nước. (g) Hầu : gần, sắp. (h) Như bằng : còn như. (i) Giun(18) : co lại cũng nói chun, trun. (j) Lơi (19) : rời rạc, trái với săn. Chữ nôm nầy rất gần với (20) đọc chua. Nhưng ý đây e không hợp. (k) Xả : đổ chóng ra. (l) Tháng sốt : mùa hè ; ý là chè ăn cho mát ruột. (m) Lõi : mầm xanh nằm dọc trong hạt sen, vị đắng. (n) Đảo : nấu khan và chóng với lửa nóng, vừa nấu vừa đảo trên dưới cho khỏi cháy. (o) Xem bài 9, (b). (p) Gấm : thứ lá, đâm lấy nước dùng để nhuộm xôi làm xôi gấm (số 38 và 213), hoặc là xôi biếc (các sồ 43, 210, 211 ). (q) Đóng (21) : tạo hình bằng cách nén chất dẻo vào khuôn. Đây đọc đong thì không hớp ý. (r) Trụng(22) : giúng chóng vào nước sôi. (s) Bánh phân : một thứ bánh làm bằng bột hoàng tinh hoặc bột đậu, có thể trộn với bột súng, giáo lên hoặc tráng ra (các số 5, 6 và 186).
Được đăng bởi HONG HANH vào lúc 16:19 1 nhận xét Các liên kết với bài này
Thứ bảy, tháng ba 15, 2008
HẾT LƠ MƠ
Đã về mấy ngày rồi nhưng đến giờ mới thoát khỏi cảnh lơ mơ. Không phải vì hết lệch múi giờ (lý do này quá quý tộc, hổng hợp với chủ blog). Chắc hẳn vì đã hết ám ảnh những công việc trước DDVN.
Cuối tuần có đến 2 cuộc hẹn dự định đều rất hoành tráng. Một ở Rạch Giá, một ở Buôn Mê Thuột. Xù hết ! Đồng đội chưởi ỏm tỏi. Đành vậy.
Chừng nào hết lơ mơ hẳn sẽ cho lên blog những chuyện thú vị ở London.
Về không kịp để nối chuyến đi châu Phi ! Tiếc đứt ruột. Và tự dưng lại thấy... thèm đi nữa rồi !
Được đăng bởi HONG HANH vào lúc 00:07 1 nhận xét Các liên kết với bài này
Chủ nhật, tháng ba 09, 2008
LANG THANG LONDON
London bay gio lanh 6 do C. Thoi tiet kha khac nghiet so voi Paris minh di hom thang 10. Cai lanh cong them voi gio thoi nghe cat da, te tai. Ca nhon dua nao cung mac 3, 4 lop ao cong them khan quang co, ao banh to vay ma van run nguoi, tho ra khoi. Lau lau, thay mot cua hang nao do lai ghe vao, khong phai de shopping ma chi la... de suoi am ! Minh phat hien ra, dung ngay bac cua ra vao la am nhat, cu nhu co ca mot lo than hong.

Hom tien doan Duyen Dang Viet Nam ra san bay, ai cung choc gheo bon minh. Chi To bao: "London loanh quanh chi co bay nhieu do. Het Bigben, lai London Eye, het Buckingham lai Oxfort Street. May nguoi o them 4 ngay biet lam gi day. Dung co ma khoc ma di doi ve may bay nghen". Nghe cung phat hoang !

Nhung qua la Troi luon thau hieu dieu ma nhung ke giang ho nhu minh hang mong muon. Tu dung xuat hien mot anh chang dan Sai Gon - giang vien Dai hoc Kien Truc - dang tu nghiep tien si ben nay. Em nay nhau cung du, mau lang tu cung ghe ! Vay la lang thang khap xo xinh London.
Ca may ngay nay, hau nhu da kham pha het cai "mang nhen" tau dien ngam cua London, di tu Zone 1, den Zone 2, chuyen qua Zone 3. Cu nhu mot me cung. Toi qua, lang thang uong bia Bi, lai nhau bia Anh. Bua nay, len khu Camdon Lock - mot khu kieu nhu cho troi ben minh. Oi thoi, du loai thanh phan o noi nay. Da den, da trang, da do. Dua thi deo khuyen tai, dua xo lo mui; dua thi gan mot day hot vo chan may, dua thi gan vo ha ben ma; co dua cao troc loc dau toc de... xam hinh vao ! Vui nhat la di shopping o day, tra gia ta la nhu Viet Nam. Xem ra tui nay mau me sam do du doi.

Thich nhat la den duoc Di san van hoa the gioi - Kinh tuyen Greenwich - Dung dang chan tren duong ranh gioi. Thich chi khi trong mot loat ten cac thanh pho duoc diem den doc theo duong kinh tuyen co 2 dia danh cua Viet Nam: Sai Gon va Ha Noi. Chi tay vao diem Sai Gon - chup hinh mot phat. Qua da !

Hom qua, vao khu trung tam London, gap mot quan Viet voi ba chu la dan Rach Gia, qua London 28 nam roi. 8 vui qua chung. Bua nay, ra khu Kinh tuyen goc gap quan Vietnamese Food tuong bo, nhao vo gap ngay mot ong... China ! Nhung do la quan nay ban re. An buffet ma chi ton 8 £ moi nguoi.

Hen ve den nha se post hinh len cho ban huu xem. Internet o day mac qua ! Moi may tinh cua Ilbis Hotel deu co mot cai khe, bo vao do dong 1 £ (Bang Anh) = tuong duong 30 ngan dong, se xai duoc 20 phut ! Trong khi do, chi ton co 5,3 £ mua mot cai ve la co the lang thang tau dien ngam, di bao nhieu tuy thich trong vong 24 tieng dong ho. Ca nhom deu nhat tri rang, rang chiu nhin vao internet de danh tien ma shopping. Ha ha, so ton tien xu ma dam mua quan Levi's !
LANG THANG LONDON
London bay gio lanh 6 do C. Thoi tiet kha khac nghiet so voi Paris minh di hom thang 10. Cai lanh cong them voi gio thoi nghe cat da, te tai. Ca nhon dua nao cung mac 3, 4 lop ao cong them khan quang co, ao banh to vay ma van run nguoi, tho ra khoi. Lau lau, thay mot cua hang nao do lai ghe vao, khong phai de shopping ma chi la... de suoi am ! Minh phat hien ra, dung ngay bac cua ra vao la am nhat, cu nhu co ca mot lo than hong.

Hom tien doan Duyen Dang Viet Nam ra san bay, ai cung choc gheo bon minh. Chi To bao: "London loanh quanh chi co bay nhieu do. Het Bigben, lai London Eye, het Buckingham lai Oxfort Street. May nguoi o them 4 ngay biet lam gi day. Dung co ma khoc ma di doi ve may bay nghen". Nghe cung phat hoang !

Nhung qua la Troi luon thau hieu dieu ma nhung ke giang ho nhu minh hang mong muon. Tu dung xuat hien mot anh chang dan Sai Gon - giang vien Dai hoc Kien Truc - dang tu nghiep tien si ben nay. Em nay nhau cung du, mau lang tu cung ghe ! Vay la lang thang khap xo xinh London.
Ca may ngay nay, hau nhu da kham pha het cai "mang nhen" tau dien ngam cua London, di tu Zone 1, den Zone 2, chuyen qua Zone 3. Cu nhu mot me cung. Toi qua, lang thang uong bia Bi, lai nhau bia Anh. Bua nay, len khu Camdon Lock - mot khu kieu nhu cho troi ben minh. Oi thoi, du loai thanh phan o noi nay. Da den, da trang, da do. Dua thi deo khuyen tai, dua xo lo mui; dua thi gan mot day hot vo chan may, dua thi gan vo ha ben ma; co dua cao troc loc dau toc de... xam hinh vao ! Vui nhat la di shopping o day, tra gia ta la nhu Viet Nam. Xem ra tui nay mau me sam do du doi.

Thich nhat la den duoc Di san van hoa the gioi - Kinh tuyen Greenwich - Dung dang chan tren duong ranh gioi. Thich chi khi trong mot loat ten cac thanh pho duoc diem den doc theo duong kinh tuyen co 2 dia danh cua Viet Nam: Sai Gon va Ha Noi. Chi tay vao diem Sai Gon - chup hinh mot phat. Qua da !

Hom qua, vao khu trung tam London, gap mot quan Viet voi ba chu la dan Rach Gia, qua London 28 nam roi. 8 vui qua chung. Bua nay, ra khu Kinh tuyen goc gap quan Vietnamese Food tuong bo, nhao vo gap ngay mot ong... China ! Nhung do la quan nay ban re. An buffet ma chi ton 8 £ moi nguoi.

Hen ve den nha se post hinh len cho ban huu xem. Internet o day mac qua ! Moi may tinh cua Ilbis Hotel deu co mot cai khe, bo vao do dong 1 £ (Bang Anh) = tuong duong 30 ngan dong, se xai duoc 20 phut ! Trong khi do, chi ton co 5,3 £ mua mot cai ve la co the lang thang tau dien ngam, di bao nhieu tuy thich trong vong 24 tieng dong ho. Ca nhom deu nhat tri rang, rang chiu nhin vao internet de danh tien ma shopping. Ha ha, so ton tien xu ma dam mua quan Levi's !

Bye moi nguoi ! Tui giang ho tiep day !
HẾT LƠ MƠ
Đã về mấy ngày rồi nhưng đến giờ mới thoát khỏi cảnh lơ mơ. Không phải vì hết lệch múi giờ (lý do này quá quý tộc, hổng hợp với chủ blog). Chắc hẳn vì đã hết ám ảnh những công việc trước DDVN.
Cuối tuần có đến 2 cuộc hẹn dự định đều rất hoành tráng. Một ở Rạch Giá, một ở Buôn Mê Thuột. Xù hết ! Đồng đội chưởi ỏm tỏi. Đành vậy.
Chừng nào hết lơ mơ hẳn sẽ cho lên blog những chuyện thú vị ở London.
Về không kịp để nối chuyến đi châu Phi ! Tiếc đứt ruột. Và tự dưng lại thấy... thèm đi nữa rồi !
Được đăng bởi HONG HANH vào lúc 00:07
250 NĂM TRƯỚC DÂN VIỆT MÌNH NẤU ĂN VẦY NÈ !
Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã có cho ta một tài liệu thật thú vị với "Món Ăn Việt Nam Đời Xưa theo sách Thực Vật Tất Khảo". Giới thiệu lên đây để bà con coi thử 250 năm sau cháu chắt, hậu duệ có tiến bộ gì so với tổ tiên, cụ kỵ của mình không nghen. Còn như chủ blog đây xem sơ sơ thì thấy toát mồi hôi hột toàn thân vì kính nể. Chủ blog cũng đồ rằng nếu tổ tiên cụ kỵ mà biết cái thời đại thức ăn nhanh bây giờ nó ra làm sao thì e là các cụ kêu thét lên 3 tiếng rồi lăn ra bất tỉnh ! Thương thay ! Thương thay !



Nấu nướng là một phần quan trọng của văn hóa. Những di tích thuộc về môn nầy là chứng chính xác để đo trình độ văn minh của một dân tộc vào một thời đại.

Ở nước ta, nay còn thấy một bản cảo, bằng chữ nôm, chép những món ăn với cách làm trước nay hơn 250 năm. Cảo ấy mang tên " Thực vật tất khảo tường kí lục " (1), nghĩa là : tập ghi rõ ràng những phép phải khảo khi làm các món ăn. Ta sẽ gọi tắt cảo ấy là " Thực vật tất khảo ". Cảo gồm 125 tờ giấy dó, khổ nhỏ 14 x 22 phân. Mỗi trang viết 8 cột. Trong cảo có 279 tiểu đề. Mỗi tiểu-đề có ghi số mã (thứ-tự) từ 1 đến 288. Vì lẽ có số mã bị bỏ sót, có số mã được dùng hai lần, cho nên tiểu đề ít hơn số mã. Mỗi tiểu-đề mang tên một món ăn, trừ tiểu đề mang số 184 " Trị lăng pháp " (2) nghĩa là phép xây lăng (mộ vua, chúa). Kẻ dọn cảo nầy đã sao lục góp lại nhiều sơ cảo có trước, trong đó có hai thực phả. Thực phả đầu chứa 174 món ăn, thực-phả sau chứa 104 món. Hai phả ấy có ghi đến 90 món và lời giải trùng nhau. Nếu lọc lại thì chỉ còn 189 món khác nhau, tuy rằng tổng số ghi là 279 món và số mã đánh từ 1 đến 288. Tuy vậy, hàng đầu cảo mang hai chữ tân san (3) nghĩa là mới khắc. Ta không rõ rằng vốn đã có bản khắc chăng, hay là ý soạn giả muốn đem cảo nầy ra khắc.

Sau các đoạn đuợc sao tập, còn thấy ghi thời điểm. Đó là những thời điểm các sơ cảo. Dẫu sao, các điều ghi lại trong cảo nầy theo các thời điểm ấy, chắc đã có từ hơn 250 năm, vào khoảng đầu đời vua Cảnh Hưng nhà Lê. Tóm lại, cảo " Thực vật tất khảo " gồm có hai phần chính là hai thực phả và ba phần phụ như sẽ thấy sau : (hình 1)
Những món ăn được ghi lại đều thuần túy Việt Nam, dùng trong mọi từng lớp xã hội, từ nước cáy ở thôn quê, qua cá rán nhà trưởng giả, đến ram mọc chim nhà quyền quí. Đáng chú ý là không thấy những món nay coi là rất sang, như vây, bóng, yến sào. Vây, bóng có lẽ ngoại lai. Còn yến sào thì được dùng làm gia vị cho nhiều món. Sự hiện diện yến sào và phép xây lăng trong cảo khiến ta phải nghĩ rằng soạn giả cảo nầy là một thái giám coi việc nội vụ trong cung chúa Trịnh hoặc vua Lê. Năm soạn phép xây lăng (1735) chính là năm vua Long Đửc mất. Ý chừng, ấy trỏ lăng vị vua nầy.
Trong số các món ăn được ghi, đại khái có hơn 10 loại: mỗi loại gồm nhiều thứ: loại Bánh (28 thứ), Xôi (15), Mứt (19), Dưa (10), Mắm (24), Cá (16), Thịt chả (15), Chim gà (17), Món chay (19), Bột, Kẹo, Bún, Nấm, vân vân (26).
Về cách làm những món ăn, văn dùng toàn là văn xuôi nôm viết theo lời nói thông thường, giản dị, có nơi ngắn ngủi nên tối nghĩa. Vả chăng kẻ viết nôm trong cảo không phải nhà nho giỏi chữ, cho nên chữ nôm viết không chính-xác, không thống nhất. Những Việt từ dùng đây thường trỏ món ăn hoặc cách nấu nướng; nó không thường thấy trong những tập văn chương ta quen biết. Khi biên giả dùng phép hài thanh, thì có lúc dùng âm tố Hán quá xa âm tố Việt mà mình muốn diễn, ví dụ dùng các âm Hán tiếp, lồi, kim, tạm để diễn những từ Việt bếp, nhồi, rim, rạm. Vì vậy, phiên âm cảo nầy gặp nhiều trở ngại. Kết quả cũng không chính xác. Nhưng đây là một tư liệu rất quan trọng để khảo ngôn ngữ và chữ nôm dân gian về đầu đời Cảnh Hưng.
Tôi bắt đầu giới thiệu một vài món ăn, bằng cách diễn âm y nguyên văn nôm. Tôi sẽ chú thích chữ khó, nêu chữ ngờ. Có chỗ tôi thêm, trong cặp vòng đơn, một chữ để câu văn thành dễ hiểu. Hoặc có chữ nôm không đoán ra âm, tôi sẽ thay bằng âm khác cho xuôi nghĩa ; âm thế sẽ đặt giữa cặp vòng vuông [...], và nếu làm được thì tôi sẽ viết thêm chữ nôm bị nghi ngờ. Cảo nầy, mỗi trương viết 8 dòng, chữ tháo khó đọc. Riêng những món trùng điệp ở hai thực phả, thì có thể so sánh mà sửa chữa chỗ sai chỗ sót. Tôi sẽ ghi chú thích liền sau mỗi bài.
1. XÔI VÒ – số 31 và 207
Lấy đậu xanh mà ngâm, phỏng một trống nửa canh(a). Văn (b) ra xem nó tróc vỏ (chưa). Lấy muối mà xát khan (c) cho bẵm (d) có bọt ra, sẽ đãi cho sạch. Chọn gạo nếp cái tốt cho sõng (e). Gạo, vò đi, để ngâm một chốc, vớt ra. Mỡ với đậu trộn vào, xôi lên (f). Phỏng nó chín hai phần còn một, thì đổ ra, quạt cho ráo, cho nguội. Đánh nước muối, tưới vào, trộn đi cho đều. Lại xát đậu vào, lại xôi lên cho chín. Xem mặt xôi nó đã chín trong mặt, lớn hạt xôi mà nhẻo (g) (chưa), thì tra đường. Nếm cho vừa. Hoặc nó còn cứng hạt xôi, (thì) lại tới nước, với tra đậu; lại xôi lần nữa. Vát (h) ra, sẽ tra đường. Hoặc nó rắn thì tra đường nước; hoặc nó nát thì tra đường tán. Tra đường vào sàng (i) mà đưa (j) cho chóng. Lấy hạt sõng, tra đường còn nóng, chớ tra nguội. Nếm cho vừa thì thôi.
Như bằng làm xôi chay, thì đừng mỡ.

chú thích : (a) Trống canh : thời-gian bằng hai giờ ngày nay. (b) Văn : cầm vào đầu ngón tay mà xát đi xát lại. (c) Khan : không ướt, không trộn nước. (d) Bẵm : mạnh, với nhiều sức. (e) Sõng : trong, bóng. (f) Câu sau diễn theo bài số 207 ; bài kia sót nhiều chữ. (g) Nhẻo : cũng viết dẻo. (h) Vát (4) : có thể đọc vớt. Hoặc là vát, âm còn trong thành ngữ vớt vát. (i) Sàng : đồ tre đan bẹt và mắt thưa, có thể dùng để rây. Đây theo bài số 207. (j) Đưa : vận chuyến sàng để rây.
2. GIÒ LỤA – số 155 và 252
Giò lụa thì chọn thịt thăn (a) đừng hôi. Lấy ngón (tay) mà văn (b) cho dẻo tốt. Chớ mua thăn già, thăn non. Như bì thì bì lợn non, cho trắng, tốt, mỏng bì. Đem về đánh muối bì cho trắng. Luộc lá chuối cho lụi (c); rửa đi. Sắp lá cho sẵn. Lét (d) thăn ra, dần (e) qua đi. Đâm cho chóng nhỏ. Phỏng cái giò thì ba đồng (f) mỡ chứ, trộn vào mà cùng đâm. Tra nước mắm cho vừa; mà bó cho chặt, mà nấu cho chín. Phỏng nấu nó, như luộc trứng chín thì nó chín. Sẽ lấy ra mà ép, mà châm (e) cho ráo.
Chú thích : (a) Thăn : thịt nạc ở dọc lưng lợn. (b) Văn : xem bài 1 , (b). (c) Lụi : héo mềm. (d) Lét (5) : có thể đọc trét, sét hoặc dẹt chăng ? ý là trải trên chỗ bằng. (e) Dần : lấy sống dao mà đập cho mềm. (f) Đồng : 1/10 lạng, chừng bằng 3,9 gam. (g) Châm :chọc thủng lá gói cho nước chảy đi.
3. NEM BẢNG – số 159 và 254
Nem bảng (a) thì lấy nửa thịt thăn (b), nửa thịt rọi (c). Chọn lấy thịt nào đừng hôi; đem về, lạng (d) đi cho hết gân. Mà thái ra từng miếng mà muối; để một chốc, nó ra nước (thì) lấy khăn vải vắt đi cho ráo. Thái cho mỏng, dần (e) cho nhỏ mà đâm. Rồi sẽ băm (f) một ít mỡ mà đâm một nơi (g) cho nhỏ. Rồi sẽ trộn lại làm một; sẽ đâm. Tra một ít cơm với thính (h); nếm cho vừa mùi, mà bóp cho đều. Với lấy một tấm thịt ba rọi (i); lấy nồi luộc vừa chín đến chứ. Rồi tra một ít mật với rượu vào thịt ấy mà bác cho vàng tốt. Rồi rửa nước lã đi; lấy khăn vải mà lau cho ráo. Rồi liền lộng (j) hết trên thịt nó đi. Lại cắt chung quanh nó đi. Rồi thái ra cho mỏng, mà rắc muối với thính cho vừa. Lấy lá vông (k) mà lót. Rồi đặt thịt ba rọi ấy quanh, thịt nem ở giữa. Dát (l) cho mỏng. Gói lá chuối ngoài cho kín, mới ngon.
Tháng sốt thì một đêm đã nên ăn. Tháng rét thì hai ba đêm mới nên ăn.
chú-thích : (a) Bảng : tên một cách làm nem, có thể là tên làng gốc, như nói cốm vòng (làng Dịch Vọng). Bảng đây trỏ làng Đình Bảng chăng? Cảo nầy chỉ mách hai thứ nem mà thôi : nem bảng và nem gói. (b) Thăn : xem bài 2, (a). (c) Rọi : thịt gồm nhiều lớp nạc và mỡ lẫn nhau ; cũng gọi thịt ba rọi (ba lớp). (d) Lạng : lấy mũi dao sắc tách thịt ra. (e) Dần : xem bài 2, (e). (f) Băm (6) : theo nôm thì âm đáng là lăm, trăm... Đoán ấy là băm, nghĩa là chặt nhỏ. (g) Nghĩa là riêng. (h) Thính : gạo rang và nghiền nhỏ. (i) Ba rọi : xem (c) trên. (j) Lộng (7) : nghĩa là khoét, như nói chạm lộng. (k) Vông : cây gỗ nhỏ mọc ở bờ rào, gỗ mềm, lá cụm ba, phẳng, mỏng, hình tim, dùng gói nem ; cũng có tên vông nem, thuộc loại Erythrina. (l) Dát(8): làm mỏng. Nếu đọc đặt thì không đắt ý.
4. CHIM ĐỒ – số 122 và 262
Làm lông. Đánh muối (cho) trắng. Mổ phanh ra, mà dần (a) qua cái chim. Lấy thịt sườn lợn, mà chặt từng miếng. Một ít nước đường, nước mắm. Phỏng ba lát gừng. Phỏng nửa quả chanh nhỏ, vắt lấy nước nó một ít. Với tương tàu, hành với cây răm. Bóp vào làm một trong cái chim ấy. Sẽ để vào bát mà đồ (b). phỏng hầu chín đem ra, bỏ xương. Lọc lấy nước với thịt chứ, mà nếm mùi (cho) vừa. Hoặc thiếu mùi chi thì thêm mùi nấy. Lại để vào, lại đồ bao giờ ăn sẽ lấy ra. Như tra tương tàu thì cũng nên.
chú thích : (a) Dần : xem bài 2. (e). (b) Đồ : nấu hấp bằng hơi nước.
5. CHIM QUAY, GÀ QUAY – số 116 và 260
Chim (hay) gà cũng làm lông. Đánh muối cho sạch. Lôi lòng đi. Mỡ với hành ép vào trong bụng nó. Xỏ bàn (a) mà quay cho chín. Lấy miếng mỡ mà phất. Nó vàng, nó dừ thì thôi.
chú thích : (a) Bàn : dụng cụ để quay đồ ăn, hình cái bàn ; gồm có cái que để xuyên qua con gà mà quay trên than nóng.
6. CÁ NHỒI – số 145 và 277
Đánh vảy đi. Mổ bên sống (a) nó ra, lấy xương ra cho hết. Rồi kéo lấy thịt nó. Rồi lạng (b) hết xương con nó đi. Để dưng (c) da nó chứ. Cá kéo ra thì đâm cho nhỏ. Phỏng ba phần cá (thì) một phần mỡ, một phần cua, một ít yến sào. Đâm vào làm một. Tra nước mắm, nước đường vào. Nướng thử nếm cho vừa. Nhồi vào (da) con cá. Lấy nước thịt sườn, nước chanh, nước mắm, nước đường, pha vào làm một. Để con cá vào bát. Sẽ đồ (d).
chú thích : (a) Sống : lưng. (b) Lạng : xem bài 3, (d). (c) Dưng: ở cạnh phần đang quan hệ; ví dụ: người dưng. (d) Đồ: xem bài 4,(b).
7. THANG CÁ – số 154
Hoặc (cá) trôi, hoặc cá chi thì cũng nên. Cá hành (a) cho tươi, mà rửa cho sạch. Mà xủi vảy nó đi. Lôi lòng đi, mà khử (b) đi dần. Mà kéo ra mà bỏ xương. Nơi đâu nó có đỏ thịt, thì cắt đi. Hễ ba cá thì một phân mỡ sống. Nhồi củ hành mà nướng. Đâm một nơi (c) Cho nhỏ. Rồi sẽ đâm lại làm một. Lấy cà cuống với nước mắm, sẽ tra vào cho vừa mùi. Rồi thì dát ra cho mỏng bằng cái đĩa ấy. Rồi luôn nấu nước lã lên cho sôi, mà tra bánh cá ấy vào. Nấu cho nó chín, thì sẽ vớt ra, mà để cho nó nguội. Rồi sẽ thái ra mỏng, để trên bát thang (d) ấy.
Nào nước nấu nó ấy, thì tra một ít sườn lợn với tôm canh (e). Cho vừa mùi chi thì thôi (f) : (tra) hoặc lá tía tô, hay là rau răm thì mặc lòng; mà thái, cũng để trên bát ấy. Hoặc có ăn kiêng thì đừng tra thịt lợn với cà cuống mà thôi. Lại cứ như phép làm.
chú thích : (a) Hành : dùng. (b) Khử: vứt bỏ đi . (c) Xem bài 3, (g). (d) Thang : món ăn thịt cá nấu với nhiều nước bản chất. (e) Canh (9) : thường đọc ngạmh (cá ngạnh); đây trỏ tôm khô dùng để nấu canh. (f) ý là : muốn gia vị thế nào cũng được.
8. MỨT CHANH – số 56 và 223
Chanh thì mài hay là gọt thì cũng nên. Rồi thì đánh muối cho bẵm (a) , cho sạch hăng. Chẻ bốn bên ra mà rửa nước lã cho sạch chua. (Tra) nước phèn cho nó vừa chát nước. Sáng ngày một lần thay nước, tối một lần thay nước; phỏng ba ngày cho nó hết nước hăng. Rồi lấy lá gai mà đâm ra cho đặc. Lấy nồi gang thịt (b) đánh cho láng. Đổ nước lá gai vào mà xếp chanh vào nồi. Một lớp chanh thì lại xếp một lớp lá gai. Bắc lên bếp nấu cho nó xanh. [Nước (c)] chưa xanh thì lại lấy lá cách (d) mà nấu; hai lần rửa đi cho sạch. Hoặc có làm mứt nào xanh, thì cứ như phép ấy mà làm.
Nấu nước đường mà đảo. Đem ra vắt đi cho ráo. Lại lấy đường mà ngào cho nó đen. Liệu vừa chứ, chớ cho nó đen quá mà xấu. Phỏng ba ngày sẽ nấu nước đường khác thay nó, (thì) nó mới trong tốt. Muốn thêm mùi thì tra một ít nước hoa; liệu cho lặn (e) mùi chứ (f). Như muốn làm ráo, đương (thì) chọn đường tốt. Các phép cũng thế ấy. Để nhỏ lửa, ngào mãi cho ráo mà thôi.
chú thích : (a) Bẵm : xem bài 1 , (d). (b) ý là : nồi bằng gang thường dùng để nấu thit. (c) Nước (10) chữa ra (11). (d) Cách (12) : theo thoạI số 56; đó là một thứ cây nhỡ trồng ở rào có lá xanh mướt, hình bầu dục rộng, có thể dùng gói nem. Thoại số 223 viết chữ (13) đọc khác tự dạng giống chữ cách trên, nhưng ý không chính xác bằng. (e) Lặn (14) (thoại số 56) và (15) (thoại số 223) : ý là không nổi mùi, không xông mùi. (f) Thoại 223 dừng ở dây, thêm đoạn sau bằng chữ bé. Còn thoại 56 thì không có đoạn sau, nhưng lại thêm chính văn sau : " Phỏng mùi hoa hoặc làm vội bấy giờ. Ngào rồi thì nấu nước đường khác, để cho lạnh (mà) thay. Bấy giờ nó mới được trong tốt ".
Xem chừng ý có trùng điệp với trên.
9. BÁNH RÁN – số 10 và 195 + 196
Lấy gạo nếp cái cho tốt, vò cho sạch, rây cho nhỏ, rồi phơi ra. Phơi thì phơi trong gió : chớ phơi nắng mà khét. Lấy bột lọc nếp mà nghiền cho nhỏ. (Đong thì) lấy chiếc đũa mà gạt bằng miệng bát. (Lấy) bốn bằng miệng bát bột đâm (a), một bằng miệng bát lẻ, (hoặc) hai bát bột lọc cũng nên. Trộn đi. Lấy rây mà rây, chín, mời bận cho đều Nấu nước, bắc lên với dềnh (b). Đâm ra cho nhỏ, mà vắt với nước bắc ấy. (Dùng) vừa dềnh,chớ lắm mà khét (c). Sú bột thì cho rắn; chớ sú ướt mà khó rán. Lăn vừng thì lấy một ít rượu pha với nước lã. Ngửi hơi rượu, (cho) một ít chứ, chớ pha nhiều.
Khi mới rán, thì phải (d) lửa chứ, đừng cả lửa lắm. Đến khi nó đã nặng đũa (e), (thì) một tay lấy một cái bánh mà tra vào nước đường. Bẻ ra xem. (Như) ngoài nó giòn, trong thì dở mủn (f), (thì) vớt ra cho chóng. Lấy giấy mà lăn đi cho hết mỡ, kẻo khét. (Bỏ) vào còn nóng, mới tốt cái bánh. Nếm cái bánh cho vừa đường. Đem lên, lấy giấy bịn (g) cho kín. Đó là bánh pha để lâu. Có muốn cho nó mỏng vỏ, thì pha bốn bột đâm (h), hai bột nếp lọc. Ăn bấy giờ thì ngon, nhưng để chẳng được lâu. ấy là bánh rán bột bộ (i).
Bánh rán bột lọc thì chọn lấy bột chợ nó bán ấy (a). Xem bột nào tốt thì mua lấy. Lại đong bốn bằng miệng bột lọc nếp thì một bằng miệng rưỡi bột lọc tẻ. Đâm lại làm một. Rây cho đều. Dù trộn lại, dù rán, cũng như bánh bột bộ.
Rán mầu xanh thì phơi lá (k) cho ráo mà (đâm) luôn với bột. Nướng lên (l) một ít, xem vừa mầu xanh (thì) sẽ nắm mà rán. Rán thì nhận cái bánh xuống, cho mỡ lên trên. Trộn (m) Cho mau, nó mới tốt. Đến khi nó [phồng (n)] thì hơn lửa, kẻo nó dẹp xuống. Các điều cũng như bánh bột bộ.
chú thích : (a) Bột đâm : ý trỏ bột gạo nếp nói ban đầu. (b) Dềnh : thứ quả hình bầu-dục, khi chín thì vỏ vàng đỏ, đượọc dùng để nhuộm bột. Cũng có tên dành-dành, chi-tử. Cây mộc nhỏ thuộc loài Gardina. (c) Khét : nôm viết (16), chắc đều phải đọc như vậy. (d) Phải : vừa đúng mức. (e) Nặng đũa : ý là khi chọc đũa vào thì phải đè mạnh. (f) Mủn : đọc mẳn hoặc mủn, nghĩa là trạng thái hạt nhỏ rời. (g) Bịn (17) : đáng đọc bện hoặc bịn (bít), ý là gói kín. (h) Xem chú thích (a) trên. (i) Bột bộ : bài số 195 mang đề " Bánh rán bột bộ ' , dứt ở dây. Đoạn nối sau là bài số 196. Cả toàn bài mang số 10, nhưng có bỏ sót một khoảng như sẽ thay sau. (j) : Đoạn nầy được chép riêng thành bài số 196 mang đề " Bánh rán bột lọc " Tuy tôi chưa biết chắc ý nghĩa từ bột bộ, nhưng qua hai bài số 195 và 196 thì thầy rằng trong nguyên liệu bánh rán bột bộ và bánh rán bột lọc chỉ khác nhau bằng dùng bột đâm cho bánh bột bộ, và bột chợ cho bánh bột lọc mà thôi. (m) Lá : có lẽ gai hay lá hiên mà ta thấy trong những bài khác, cũng trong trường hợp nầy. (n) Đây theo bài số 196, còn bài số 10 sót một ít chữ.
10. CHÈ NGŨ VỊ – số 18, 75, 76, 240 và 241
Tổng-luận - Trong cảo nầy có ba bài chung một tiểu-đề " Chè ngũ vị " số 18, số 75 và số 240. Hai số sau chung một lời. Lại có hai bài khác cũng chung một lời, số 76 và sồ 241, với đề " Chè tháng sốt ' , nghĩa là chè ăn vào tháng nóng. Xét nội-dung thì ấy cũng là chè ngũ vị; mà lời cảo bài 76 và 241 lại gần lời bài 18 hơn các bài 75 và 240. Xét chung năm bài, thì thấy Hán từ vị đọc nôm là mùi; mà mùi có hai nghĩa : một là mùi ngửi hoặc nếm, hai là mầu sắc. Tuy rằng ngũ vị cốt trỏ số năm nguyên liệu của một món ăn, như nói dưa ngũ vị (bài số 244), nhưng ở đây, ngũ vị có lẽ trỏ nguyên liệu có năm thứ mầu sắc khác nhau : trắng, vàng, biếc, xanh, đỏ. Còn số nguyên liệu trong các món chè, thì lại quá số năm. Trong ba bài số 18, 76, 241, thì dùng thạch trắng, quả dềnh vàng, củ huỳnh tinh biếc, lá hiên xanh, quả hồng tàu đỏ. Ngoài đường, số 18 có dùng thêm ba nguyên liệu : hạt sen, củ lạc (đậu phụng) và hạt dưa; các số 76 và 241 chỉ dùng thêm hai nguyên liệu: hạt sen và yến sào Đến khi các bài số 75 và 240, thì lại không thông qua năm mầu, và chỉ kể sáu thực phẩm được dùng : hạt sen, củ lạc, củ mài, huỳnh tinh, hồng tàu và yến sào. Sau đây, tôi sẽ phiên âm riêng rẽ các bài ấy, rồi sẽ chú thích chung.
10a. CHÈ NGŨ VỊ (Số 18)
Nấu thạch hoa (a) lên, để trắng. Với (mùi) vàng (thì) nấu (dềnh). Với mùi biếc thì giáo (b) hoàng tinh, cũng như (làm) bánh trôi nước ấy. Mùi xanh thì lấy lá hiên (c) non mà tẩm đi. Mùi đỏ thì lay hồng tàu. Chọn lấy (hạt) sen, bóc ra, nhỏ tầy đầu đũa ằy. Cắt hai bên đầu ; tống ruột nó đi. Lạc hoa sinh (d) thì luộc cho chín; cắt hai đầu nó đi; chọn đường cho trắng, mà nấu nước, lọc cho trong. Hạt dưa thì rang cho vừa, xỏa (e) lên cho nó trắng, đừng rang vàng; lấy nước đường mà dầm. Thức vàng, thức biếc, thức trắng, một thức (để) một nơi, cho nó thôi (f) ra ; bao giờ hầu (g) ăn, sẽ vớt sang nước khác, sẽ trộn các thức vào làm một. Như bằng (h) cái sen, cái hồng tàu, với lạc hoa sinh, với hạt dưa, bao giờ hầu ăn, thì sẽ để sen với hồng tàu, lạc hoa sinh với hạt dưa ; chớ tra để lâu; nó giun (i) lại mà lơi (j).
10b. CHÈ NGŨ VỊ (Số 75 và 240)
Luộc hạt sen cho bở. Luộc lạc hoa sinh cho bở. Cắt hai bên đầu nó đi. Củ mài thì cắt ra từng miếng, luộc cho chín. (Lấy) một ít bột hoàng tinh quấy vào nước mà nấu lên cho sôi. Ngửi [không] còn hôi, rồi sẽ tra hạt dưa, (hạt sen), lạc hoa sinh, củ mài vào mà nấu. Bấy giờ sẽ tra đường.
Nếm cho vừa (rồi) sẽ tra yến sào vào. Vớt ra cho chóng kẻo chát yến sào. Xả (k) lên trên bát, sẽ tra hồng tàu.
10c. CHÈ THÁNG SỐT (l) (Sồ 76 và 241)
Nấu thạch hoa (a) để vậy, đừng pha đường. Cắt ra từng khổ, thái cho mỏng. Sen thì tìm sen tươi, còn non, tầy đầu chiếc đũa. Bóc đi cho hết vỏ; bỏ lõi (m) trong nó đi. Nước thì nấu lên cho trong, để cho nguội. Đường thì rửa cho sạch bụi. Đổ đường vào mà đánh với nước lã ấy cho vừa mùi.
Lảy lá hiên non cho xanh; nơi đâu nó xanh thì cắt lấy bằng đốt ngón tay. Đảo (n) cho chín. Thạch hoa (thì) nửa nấu trắng, nửa ngâm (với) dềnh (o), (rồi) nấu cho vàng. Yến sào với thạch hoa, hạt sen, lá hiên, thì đổ nước vào mà ngâm cho lâu, rồi sẽ thay nước đường khác. Bao giờ ăn sẽ tra hồng tàu.
Ấy (là) chè tháng sốt. Dẫu để cả ngày thì cũng chẳng có thiu.
Như mùi biếc thì lấy bột hoàng tinh; (hoặc) lầy nước làm xôi gấm (p) mà làm. Xem cho nó vừa mùi. Tẩm nước lã đi cho hết hôi. Lấy khăn mà vắt bột cho ráo. Lấy chén nước đóng (q) như (khi) trụng (r) bánh phân (s). (Rồi) giáo lên cho chín. Lấy lá dong mà gói, rồi cắt ra cho mỏng.
Như mùi biếc, mùi vàng, thì lấy nước đường mà dầm. Bao giờ ăn sẽ tra nước đường khác.
chú thích : (a) Thạch hoa : chát nhầy lầy từ cây rong câu, ăn được ; cũng gọi tắt là thạch ; thuộc loại Agar. (b) Giáo : bỏ vào nước sôi mà quấy cho chóng đặc. (c) hiên : thứ cỏ loài tỏi, lá bẹt dài, hoa cuống dài, hình phễu, nở thành chùm mầu vàng đỏ. Búp ăn được, gọi là kim châm. (d) Lạc hoa sinh : thường gọi tắt là củ lạc (đậu phụng) ; nghĩa chữ nho là : hoa rụng xuống đất mà sinh củ. (e) Xỏa : trải tung ra. (f) Thôi : mầu hoặc mùi của một vật ngâm, nó thấm dần vào nước. (g) Hầu : gần, sắp. (h) Như bằng : còn như. (i) Giun(18) : co lại cũng nói chun, trun. (j) Lơi (19) : rời rạc, trái với săn. Chữ nôm nầy rất gần với (20) đọc chua. Nhưng ý đây e không hợp. (k) Xả : đổ chóng ra. (l) Tháng sốt : mùa hè ; ý là chè ăn cho mát ruột. (m) Lõi : mầm xanh nằm dọc trong hạt sen, vị đắng. (n) Đảo : nấu khan và chóng với lửa nóng, vừa nấu vừa đảo trên dưới cho khỏi cháy. (o) Xem bài 9, (b). (p) Gấm : thứ lá, đâm lấy nước dùng để nhuộm xôi làm xôi gấm (số 38 và 213), hoặc là xôi biếc (các sồ 43, 210, 211 ). (q) Đóng (21) : tạo hình bằng cách nén chất dẻo vào khuôn. Đây đọc đong thì không hớp ý. (r) Trụng(22) : giúng chóng vào nước sôi. (s) Bánh phân : một thứ bánh làm bằng bột hoàng tinh hoặc bột đậu, có thể trộn với bột súng, giáo lên hoặc tráng ra (các số 5, 6 và 186).
VÌ CỚ LÀM SAO !
1. Mớ bòng bong.
Đi London về đã 10 ngày nay. Bà con thấy chủ blog kể chuyện nhặng xị bên ngoài – toàn là chuyện hấp dẫn mà chỉ có dân giang hồ thứ thiệt mới kinh qua – bèn thắc mắc rằng cớ làm sao không thấy đưa lên mạng đặng mà… khoe khoang !
Phù, biết nói sao đây khi đối diện với một mớ bòng bong, bụng dạ đâu mà bờ lốc cốc.
Nhưng giờ thì khỏe rồi. Khai thông mọi thứ.
Sáng nay, chủ blog đối diện trước 3 chọn lựa – mà toàn là những “điểm nóng” – hì hì, chủ blog được “oánh giá” hơi bị quá hớp so với bản thân tự “oánh giá”. Nói thiệt chứ không phải giả bộ khiêm tốn chi mô ! Thế nên, lựa một “chọn lựa” vốn đã “lựa chọn” bấy lâu nay. Hy vọng mọi chuyện sẽ tốt và sẽ gặp toàn là những chuyện tốt. Ừ, mà tốt đẹp hay không chính là do quan niệm của mình. Rất thích câu nói của cha nội giàu nhất thế giới: “Nếu bạn không cảm thấy hạnh phúc thì đấy là do lỗi của bạn mà thôi”.
2. Ân hận đà muộn rồi.
Cũng trong 10 ngày qua, chủ blog xù đẹp 2 cái hẹn với… bạn giang hồ. Nhưng không về R.G với “bạn gái” cũng không sao. Có điều cái thất hứa với ông Hải thì quả là bậy bạ hết sức. Quả tình là hôm đó tụi nhỏ ở S.G về đầy nhà, bỏ đi thì không được lại thêm công việc dồn đống. Những ngẫm lại, cả đời ông H. chỉ có một hai dịp như thế này. Ổng giận mình thiệt sự. Hôm kia ổng chưởi cho một tràng liên thanh qua điện thoại – vẫn chưa biết ổng giận. Hôm nay, ổng tâm sự hết sức buồn bã, lại không chưởi thề như thói quen của ổng vốn vậy – thì biết là giận thiệt rồi. Mình đâm ra hoang mang quá đỗi. Tối nay nói chuyện với ổng 2 ý: một là chủ blog ân hận thật sự, hai là chủ blog cũng… mừng bởi lẽ ổng có giận thật sự thì chứng tỏ chủ blog có một vị trí trong tình nghĩa giang hồ này chớ ! Nhưng cũng có một bài học nhớ đời.
Đúng là… giang hồ ta chỉ giang hồ vặt !
HOA CHỈ LÀ HOA THÔI MÀ !
Mùa này, hoa bằng lăng nở tím các con đường nội ô Cần Thơ. Đường Tự Đức, đường Hàng Xoài đầy sắc độ của màu tím – màu của lãng mạn, của hoài nhớ, của mộng mơ, của gì gì đó… tuỳ tâm trạng khách bộ hành. Tất cả chỉ là sự liên tưởng của người ta. Còn hoa chỉ là hoa thôi mà !

Ừ, mà liệu thời buổi này có còn khách bộ hành nữa không đây, khi song hành với thời gian thì không gian đã thay đổi quá nhiều. Người Cần Thơ đã bắt đầu tập lề thói đi nhanh, sống nhanh… như những đô thị phát triển khác. Tên phố đã đổi thay. Thay vì Tự Đức đã là Lý Tự Trọng, thay vì Hàng Xoài đã là Hoà Bình. Trên những con đường này, xe hơi nhiều hơn, xe máy phóng nhanh hơn. Khuôn mặt người ta ắt hẳn theo đó cũng khác hơn. Lề đường dành cho khách bộ hành nay la liệt quán xá, bãi giữ xe. Những cư dân còn quen miệng gọi Tự Đức, Hàng Xoài đa phần đã như ngọn đèn trước gió. Khách bộ hành là họ đấy nhưng đâu còn không gian nào để họ hoài niệm, nói chi đến chiêm nghiệm này kia. Vậy hàng hoa kia liệu có buồn, có cô đơn. Hay hoa cũng chỉ là hoa !

Mới đó mà mình đã gắn bó với cái thành phố có chút chi trễ nãi, bình thản này đã 10 năm. Khoảng thời gian đủ để mình nhớ một vài gốc cây, một vài góc phố thân quen nào đó. Như những hàng cây bằng lăng tím ngắt chẳng hạn. Đâu như chỉ có 3, 4 cây gì đó cho ra những cánh hoa tím phơn phớt trắng đẹp lạ lùng. Một cây ở đầu đường Tự Đức (xéo góc café Ca Dao), hai cây trên đường Hàng Xoài (một đối diện café Tâm, một ngang mặt Shop trái cây 42), lại còn một cây khác bên hông Ngân hàng NN&PTNT. Mỗi khi tới mùa hoa nở, thế nào hai ông bạn già Tr và Đ cũng lại gọi điện ơi ới: “Cây bằng lăng bông trắng nở rồi kìa. Bà thấy chưa”. Ủa, hoa chỉ là hoa thôi mà mấy ông bạn !

Cách đây độ chừng 4 năm, quán café bên hông Bưu điện tỉnh, đầu đường Hàng Xoài là nơi chốn quen thuộc của mình. Chỉ là lề đường thôi nhưng tấp nập người. Quán có mấy tên chạy bàn vui tính, nhanh nhẹn tính ý. Khách đông cỡ nào, tụi nó cũng quen mặt, thuộc luôn sở thích. Đến đỗi hôm nào không có ý định uống café đá thì vừa xuống xe mình đã phải gào lên: Ê, bữa tay tao đổi ý nghen ! Ngồi ở chỗ này vừa mát, vừa có thể nhìn ngắm phố phường và theo đó mà tám, mà bình luận chuyện đời lung tung, vui vô kể. Như chuyện, có hôm một bác tài chạy xe lôi chở mấy cần xé cam, chặt cua ngay đài phun nước gắt quá khiến xe bị lật. Người ngợm bác tài thì hổng sao nhưng cam quýt thì tung toé. Từ xa, có hai anh áo vàng chạy tới lúi húi lượm cam. Vậy là bên hàng quán này người ta bình lựng quá xá. Nào là: Mấy ông thấy không, người ta tốt quá mà, ai nói họ chỉ biết làm mặt lạnh hả. Nào là: Lâu lâu mấy chả làm chuyện coi được quá xá, nhìn số xe để lên báo khen cái cho đã đi bồ. Tám chưa dứt câu lại thấy mấy anh áo vàng lượm cam vừa đủ để… bỏ vô túi quần rồi… rồ ga chạy tiếp ! Ha ha… khỏi kể cũng biết câu chuyện hôm đó nó vui cỡ nào. Ừ mà đến bây giờ khi viết entry này, mình mới sực nhớ, hôm đó chằng có ai - kể cả những người cự nự mấy anh áo vàng hăng nhất - chịu băng qua đường lượm cam tiếp cho bác tài cả (!). Một ngày nọ, tới quán, không chỉ mình mà cả những khách quen khác thấy trống lơ, trống lốc, mặc dù các dãy bàn ken kín người, không ghế trống như xưa nay vốn vậy. Nhìn lên trời, thấy trống hươ, trống hoác. Hoá ra, cây mai hoàng hậu ở góc quán đã bị đốn hạ cho việc chỉnh trang lề đường tự bao giờ. Tiếc ngẩn, tiếc ngơ. Lâu nay thấy vắng, cứ tưởng nó chưa ra hoa. Vậy là từ ông cán bộ bên uỷ ban, đến cha chủ tiệm vàng, bà chủ sạp vải đến thằng cha bán vé số có cái bụng chang bang vì xơ gan cổ trướng cũng bàn tán: Cây này cho hoa nhiều nhứt nghen. Mấy ông nhiếp ảnh tới mùa là ra chụp nhiều lắm. Cha, cây mai này hổng còn coi chừng bà chủ làm ăn hổng bằng trước nghen… Mình bật cười vì cái tính nhiều chuyện của người ta. Hoa cũng chỉ là hoa thôi mà !

Năm tháng qua đi. Quán café bên gốc mai hoàng hậu đã không còn. Bà chủ café bưu điện mở ra nhiều quán mới. Bà này coi bộ cũng giàu dữ. Mua toàn nhà mặt tiền bự bự ở mấy đường lớn không hà ! Mình cũng tới thử mấy quán mới của bà ta. Nhưng để có cảm giác an nhiên, tự tại như quán xưa thì sao khó quá. Cũng đã ghé thử vào quán khác như Hợp phố, như Thiên Nga, như VIP… nhưng tai nghe nhạc xập xình, bàn ghế cứ như đồ giả trang thì liệu có hồn vía nào mà nghĩ ngợi lung tung. Nhìn qua hiên quán thấy vài đọt bằng lăng hoa tím, nhưng tầm nhìn lại vướng víu mấy dây điện chớp tắt xanh đỏ lại thấy buồn bực trong lòng. Tự nhiên thấy hoa đã không còn là hoa đấy thôi !

Đôi khi suy nghĩ vu vơ. Cái thành phố bình an này nắm níu mình vì lẽ gì. Mấy ông anh cũng nói rằng, một nơi chốn không bà con, không thân thích, không họ hàng thì ở hay không ở cũng vậy mà thôi. Nhiều khuôn mặt lướt qua, nhiều kỷ niệm lướt qua… Mình bỗng phát hiện ra những điều lưu giữ trong ký ức mình lâu nhất vẫn là những chuyện hết sức vu vơ, không đâu vào đâu. Như chuyện hoa bằng lăng, hoa mai hoàng hậu bên góc phố chẳng hạn. Hoa chỉ hoa thôi mà, tại sao cứ nắm níu chân người !
BỬU CHỈ VIẾT VỀ NHẠC PHẢN CHIẾN CỦA TRỊNH

Ngẫm nghĩ
Thứ năm, tháng tư 17, 2008
ĐẶNG TIẾN VIẾT VỀ NHẠC PHẢN CHIẾN CỦA TRỊNH
TRỊNH CÔNG SƠN Tiếng hát Hoà Bình
Đặng Tiến

Báo Văn Học, California, số 39, tháng 4-1989, có ghi lại một buổi tọa đàm về bộ truyện Mùa Biển Động của Nguyễn Mộng Giác, nhà văn Nhật Tiến đã phát biểu ngoài đề: "Nói về tác phẩm văn nghệ mà ảnh hưởng rõ nét nhất, tôi nghĩ có lẽ mình chỉ có nhạc Trịnh Công Sơn, nó gây cái tâm lý phản chiến. Còn tác phẩm văn thơ của chúng ta nó chỉ bàng bạc thôi". Anh còn khẳng định: "nó đi thẳng vào đời sống". Nhà văn Hoàng Khởi Phong vùa vào: "Riêng với nhạc Trịnh Công Sơn, tôi nghĩ có đi thẳng vào lòng người" (tr. 55).

Cái thời làm nhạc phản chiến ... thời đại bác ru đêm ...

Dùng chữ nhạc phản chiến, theo kiểu anti-guerre, anti war, là nói cho gọn, và đã có người phản bác, cho rằng mông lung, vì người nghệ sĩ chân chính nào mà không chống chiến tranh ? Ngoài ra, những ca khúc Trịnh Công Sơn tố cáo chiến tranh, gào gọi hoà bình còn bày tỏ khát vọng thống nhất đất nước, tình tự dân tộc, tình yêu nhân loại, niềm tin vào cuộc đời, tình người và hạnh phúc lứa đôi. Những tình cảm này đan quyện vào nhau. Hơn nữa, một số nhạc tình thuần tuý, nội dung không quan hệ gì đến chiến tranh, khi nghe trong đám đông, cũng tạo nên một cảm giác thời thế, từ một thời phản chiến.

Vì vậy, gọi nhạc "phản chiến" là nói tắt, trong điều kiện bất túc của ngôn ngữ. Gọi cách khác, là ca khúc tranh đấu cho hoà bình, tuy dài dòng mà vẫn không đủ ý.

Nói chung, những ca khúc "phản chiến" của Trịnh Công Sơn gia tăng số lượng và cường độ dài theo cuộc chiến, đồng thời cũng chuyển mình theo từng giai đoạn ngắn của thời cuộc thập niên 1963-1973. Nhưng là tiếng nói tự phát, phản ứng tự nhiên của một cá nhân, một công dân, không thuộc đảng phái hay tổ chức chính trị nào. Đây là điều kỳ lạ trong hoàn cảnh chính trị thời đó và chính nó đã tạo ra hào quang của Trịnh Công Sơn: người ta hát, và yêu Trịnh Công Sơn, tạo ra hiện tượng Trịnh Công Sơn, một là vì ca khúc của anh đáp ứng lại những khát vọng của thời đại, hai là người nghe, trực cảm rằng những lời ca ấy không mang một ý đồ chính trị nào.

Bây giờ, hơn ba mươi năm sau các sự cố, nghe lại ca khúc Trịnh Công Sơn, so sánh với những yêu sách thời đó, chúng ta có thể tin được vào chứng từ của họa sĩ Bửu Chỉ, bạn thân với Trịnh Công Sơn trong nhiều giai đoạn, trước và sau 1975,

"Tắt một câu, trong dòng nhạc phản chiến, của mình Trịnh Công Sơn đã chẳng có một toan tính chính trị nào cả. Mà tất cả làm theo mệnh lệnh của con tim mình (...). Trái tim nhân ái, nhạy cảm, chỉ biết nói lên những cảm xúc nồng nhiệt của mình đối với quê hương, dân tộc, dù thiếu vắng một thái độ chính trị, nhưng trung thực. Nghĩa là tự đáy lòng mình thì mình nói"
Bửu Chỉ đã tham dự vào Phong Trào Sinh Viên đấu tranh cho hòa bình, trực diện chống đối chính quyền Sài gòn, bị bắt 1971 và chỉ được phóng thích năm 1975. Anh sinh hoạt với Trịnh Công Sơn tại hội văn nghệ Bình Trị Thiên những năm 75-79, cho đến nay vẫn được xem như là một tiếng nói trung thực. Khi Bửu Chỉ nhận thấy - hay thật ra là phản ánh một dư luận - cho Trịnh Công Sơn là "thiếu vắng một thái độ chính trị, nhưng ..." thì chúng ta có thể hiểu thêm được một hoàn cảnh, để từ đó tìm hiểu vị trí Trịnh Công Sơn trong thế sự, giữa những âm thanh và cuồng nộ.

Và phải chăng vì chỉ viết "theo mệnh lệnh của con tim", chứ không theo một thứ mệnh lệnh khác, mà ngày nay những ca khúc tranh đấu của Trịnh Công Sơn, dù đã đóng góp lớn lao vào biến chuyển của đất nước, đã không được in lại, hát lại trong nước, như một số tác phẩm khác, của các vị Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn, v.v. Và những văn bia, những kỷ yếu chính thức ghi lại thành tích cách mạng thời đó, ngày nay cũng không nhắc nhở gì đến Trịnh Công Sơn.

Ngoài ra, nếu nhạc thời thế của Trịnh Công Sơn xuất phát từ cảm xúc, thì ta có thể lần theo lịch trình sáng tác để tìm đến những biến chuyển trong tâm tư tác giả trước thời cuộc sôi động lúc đó. Tuy nhiên chúng tôi khó nắm chắc thời điểm thành hình của từng ca khúc, dù đã cố gắng. Chỉ mong đề xuất những nét chính.

Sau đệ nhị thế chiến, nhiều tư trào hoà bình trên thế giới đã tạo ra giòng thơ nhạc phản chiến như bài Barbara, thơ Prévert, Kosma phổ nhạc, đã thịnh hành tại Miền Nam những năm 1950, với lời ca thật mạnh "ôi ngu xuẩn chiến tranh" nguyên văn tiếng Pháp khá tục "quelle connerie la guerre". Tiếp đó, là những bài hát phản chiến thô bạo của Boris Vian đã vang dội một thời trong tuổi trẻ Trịnh Công Sơn. Theo sau là nhạc phẩm của Bob Dylan và Joan Baez. Chúng tôi đã nhắc qua điều này trong một bài trước đây.

Có lẽ những suy nghĩ về dân tộc, đất nước, số phận con người trong chiến tranh đã manh nha từ lâu ở Trịnh Công Sơn, và đã được khơi động từ những biến cố tại Huế và miền Trung năm 63, mà bạn bè anh đã tham gia tích cực và sôi nổi. Bản thân Trịnh Công Sơn không dự cuộc trực tiếp, nhưng khó có thể nói là không giao động. Sau những bản nhạc tình đã nổi tiếng, thì 1964, Trịnh Công Sơn đưa vào Lời Mẹ Ru một vài âm hưởng xót xa, báo hiệu cho những ru khúc đau thương về sau: Lời mẹ ru con nghe ra nỗi niềm Đời mẹ ru con mây kia cũng buồn Con ngủ trên mây Tiếng khóc ban đầu còn đau, còn đau Ru con khôn lớn ... Con Rồng cháu Tiên Một đời ru con, nên mắt ưu phiền.

Về thời điểm, tư liệu của Hoàng Nguyên Nhuận, bút danh của Hoàng văn Giàu, xác nhận "năm 1963, trong lúc anh chị em chúng tôi lận đận trong tù, sau chiến dịch Nước Lũ thì Trịnh Công Sơn vẫn còn mơ màng Nhìn Những Mùa Thu Đi. Đến năm 1964, sau khi nhập Tuyệt Tình Cốc, thì Trịnh Công Sơn hầu như đã trở thành một người mới".

Lối hát ru Việt Nam, như ru con Nam Bộ, thỉnh thoảng cũng có câu thắt thẻo ruột gan, nhưng ít khi diễn tả buồn đau trong thân phận làm người như ở Trịnh Công Sơn, càng về sau càng da diết.

Vết Lăn Trầm, 1965, là một ca khúc đậm đặc phong cách Trịnh Công Sơn, đau thương và huyền bí:

Vết lăn trầm vết lăn trầm Hằn lên phiến đá nâu thêm ưu phiền Như có lần chim muông hằn dấu chân Người đi phiêu du từ đó chưa thấy về quê nhà Người chợt nhớ mình như đá Đá lăn vết lăn trầm Từ cơn đau ấy lưu thân mỏi mòn Ôi mắt thầm van xin lời thánh đêm Bài ca dao trên cồn đá Trên ngai vàng quê hương ...

Ca từ rệu rã, u hoài, xa vắng, nhưng cô đọng cả tâm giới Trịnh Công Sơn, lúc ấy và về sau. Về sau, sẽ có hằng vạn chuyến xe claymore lựu đạn, hằng vạn tấn bon trút xuống đầu làng, cũng chỉ là âm vang lăn trầm vết đá. Hoàng Phủ Ngọc Tường, bạn thân Trịnh Công Sơn đã tinh ý nhận xét:

"Vết Lăn Trầm bắt đầu tiếp cận nỗi bất hạnh của một tuổi trẻ bị cuốn hút vào cơn lốc của chinh chiến, và đây là bài hát mở đầu nội dung phản chiến của nhạc Trịnh Công Sơn "

Chọn 1965 làm thời điểm cho nhạc thời thế Trịnh Công Sơn, còn có những lý do khác : đó là cao điểm của chiến tranh Việt Nam, thời của những Người Chết Trận Đồng Xoài, Pleime ... thời người Mỹ đổ bộ lên Miền Nam, bắt đầu ném bom Miền Bắc. Cũng là cao trào tranh đấu miền Trung trước khi bị dập tắt vào năm 1966.

Thời đó, ca khúc Trịnh Công Sơn, nhạc tình và nhạc tranh đấu, được in ronéo, chuyền tay. Năm 1966, nhà An Tiêm xuất bản tập Ca Khúc Trịnh Công Sơn, Thần Thoại Quê Hương, Tình Yêu và Thân Phận, 12 bài, ngoài Tuổi Đá Buồn làm từ 1961, những bài khác làm vào 1965-1966, đều mang nội dung : thân phận trong chiến tranh.

Mùa hè 1965, trong năm 1966 và sang 1967, Trịnh Công Sơn đã sáng tác một loạt ca khúc chống chiến tranh nổi tiếng: Người con Gái Việt Nam Da Vàng, Đại Bác Ru Đêm, Tình Ca của Người Mất Trí, ... Tác giả tự ấn hành lấy, do đó không ghi năm xuất bản, thành tập Ca Khúc Da Vàng. Về sau, sau Mậu Thân, 1968, anh thêm 2 bài: Hát Trên Những Xác Người và Bài Ca Dành cho Những Xác Người, ghi là Ca Khúc Da Vàng 2, dự tính in trong tập Kinh Việt Nam, tự xuất bản 1968. Những bản in lại về sau, không thấy 2 bài này. Vậy ta có thể xem Ca Khúc Da Vàng gồm 12 hay 14 bài, tùy phương pháp.

Gần đây Khánh Ly có hát và phát hành ba đĩa hát CD lấy tên Ca Khúc Da Vàng I (1996), II (1998) và III (1999), mỗi CD gồm 10 bài, có đủ 14 bài da vàng chính danh. Những bài khác là nhạc phản chiến nổi tiếng của Trịnh Công Sơn.

Tập Kinh Việt Nam mở đầu bằng lời tựa, tác giả bày tỏ khát vọng hoà bình, viết 1968, có lẽ sau Mậu Thân và tin tức về hòa hội Paris; tập nhạc gồm có 12 bài, bắt đầu bằng Dân Ta Phải Sống và khép lại với Nối Vòng Tay Lớn.

Năm 1970, dưới tên nhà xuất bản Nhân Bản, anh tự ấn hành Ta Phải Thấy Mặt Trời, gồm 11 bài, như: Việt Nam ơi hãy Vùng Lên, Huế Sài Gòn Hà Nội, v. v.

Năm 1972, sau Mùa Hè Đỏ Lửa, anh cho in tập Phụ Khúc Da Vàng, vẫn dưới tên nhà xuất bản Nhân Bản, gồm 9 bài: Một Ngày Vinh Quang, Một Ngày Tuyệt Vọng, Xác Ta Xác Thù, Chưa Mất Niềm Tin. ...

Bửu Chỉ sau khi nhắc lại thư mục, đã ghi : "tổng kết 5 tập với 58 ca khúc, chưa kể những bài rời được sáng tác ngay trong những cuộc xuống đường, cùng thanh niên, sinh viên, học sinh Huế"
Trong một tiểu luận Cao học đệ trình tại Đại Học Paris 7, 1991, Michiko Yoshi, cũng là bạn , được Trịnh Công Sơn giúp đỡ và hướng dẫn, đếm được 69 bài phản chiến. Trên tổng số 136 bài làm từ 1959 đến 1972 mà cô ấy sưu tầm được, tỷ lệ là 51 %. Nếu chỉ tính từ 1965 đến 1972, tỷ lệ còn cao hơn nữa. Nghĩa là trong một thời gian dài, thời gian sáng tác khoẻ nhất, rung cảm chính của Trịnh Công Sơn là thời thế. Và ngược chiều, chính những ca khúc kêu gọi hoà bình đã làm nên danh tiếng Trịnh Công Sơn, đã tạo nên huyền thoại Trịnh Công Sơn, trong một thời điểm nhất định của miền Nam Việt Nam vào những năm 1966-1972.

Thời điểm sáng tác hay in ấn một nhạc bản không quan trọng bằng việc công chúng phổ biến, hưởng ứng những bài hát đó trong giai đoạn, hoàn cảnh nào. Chúng tôi ghi cặn kẽ thời điểm để làm tư liệu về sau.

Hoàng Nguyên Nhuận nhắc lại "nếu Huế là thánh địa của Phật Giáo và nếu bản nhạc Phật Giáo Việt Nam của Lê Cao Phan là nhịp đạo hành của thanh niên Phật tử, thì Trịnh Công Sơn chính là nhịp đập con tim của phong trào thanh niên trên đường vận động hoà bình, độc lập và an lạc cho đồng bào đồng loại " tại các thành phố miền Nam từ 1963 đến 1966.

Từ 1965, theo trí nhớ Đinh Cường, Trịnh Công Sơn mới trực tiếp "xuống đường" tham dự vào những buổi hát của sinh viên, học sinh Sài Gòn, bắt đầu tại trước viện Đại Học Sài Gòn, rồi từ khuôn viên trường Đại Học Văn Khoa. Sau đó Trịnh Công Sơn thường hát với Khánh Ly, từ 1967, theo lời Khánh Ly kể, cho đến sự cố nổ súng tại trường Đại Học Văn Khoa cuối năm 1967. Sau biến cố này, Sơn thôi đi hát "cho đồng bào tôi nghe" hát trước quần chúng đông đảo, chủ yếu là thanh niên, sinh viên Sài Gòn. Nhưng vẫn còn về hát cho sinh viên Huế cho đến 1970-1971.
Nhiều người đã nhắc đến giai đoạn này, nhưng ít ai còn nhớ cụ thể : Trịnh Công Sơn và Khánh Ly đã hát những bài gì. Michiko còn giữ cuộn băng thu lại một buổi hát cộng đồng, có lẽ một trong các buổi cuối cùng tại Quán Văn Sài Gòn, tháng 12 năm 1967, với cả không khí quần chúng:

Trịnh Công Sơn hát: Người Già Em Bé, Đêm Bây Giờ Đêm Mai, Ngày Dài Trên Quê Hương, Ngụ Ngôn Mùa Đông, Tôi Sẽ Đi Thăm, Đi Tìm Quê Hương, Người Con Gái Việt Nam Da Vàng.

Khánh Ly hát: Diễm Xưa, Mưa Hồng, Ru Em Từng Ngón Xuân Nồng, Gọi Tên Bốn Mùa, Còn Tuổi Nào Cho Em, Tình Ca Của Nguời Mất Trí, Xin Cho Tôi, Xin Mặt Trời Ngủ Yên, Tuổi Đá Buồn.

Trịnh Công Sơn và Khánh Ly song ca: Nhìn Những Mùa Thu Đi, Ca Dao Mẹ.

Chúng ta lưu ý đến nội dung xen kẽ của những ca khúc, được trình diễn trong các buổi hát công cộng, đông đảo đến hàng trăm, hàng ngàn người nghe hay trong những cuộc họp mặt bỏ túi giữa bạn bè. Tình khúc được hát giữa những bài chống chiến tranh, tự dưng cũng mang tác dụng "phản chiến". Đây là hậu quả tâm lý tự nhiên, mà ngày nay lý thuyết liên văn bản đã thừa nhận. Những bài hát ca ngợi tình yêu, tiếc thương hạnh phúc, những Diễm Xưa, Tuổi Đá Buồn bỗng nhiên mang một nội dung hòa bình. Từ đó xác định được trong sự nghiệp Trịnh Công Sơn bài nào là nhạc "phản chiến", không phải là việc đơn giản về mặt thực tế. Dù rằng về mặt sách vở, ta có thể đếm được 58 bài như Bửu Chỉ hay 69 bài như Michiko.

Làm sao em biết bia đá không đau...
Này em đã khóc chiều mưa đỉnh cao...
Tóc em như trời xưa đã qua đi ngàn năm...
Tuổi nào ngồi khóc tình đã nghìn thu...
Rồi mùa xuân không về, mùa thu cũng ra đi ...

Những câu hát, trích từ tiếng hát Khánh Ly thời 1967 ca ngợi tình yêu, nhưng có nhất thiết là tình yêu trai gái ?

Gọn hơn nữa: tình yêu như trái phá, là chuyện tình yêu, hay trái phá ?
Về ý nghĩa, âm hưởng của một bài hát tuỳ thuộc vào bối cảnh, trong lý thuyết liên văn bản. Nhìn Những Mùa Thu Đi là một bản nhạc tình, không can dự gì đến thế sự. Nhưng Thái Kim Lan đã kể lại một kỷ niệm súc tích: Ngày 20/8/1963, chính quyền Sài Gòn tấn công vào chùa chiền khắp nước, chị bị bắt tại Huế cùng với nhiều thanh niên sinh viên Phật tử và nhiều người bị tình nghi, như Hoàng Phủ Ngọc Tường, tình cờ trong túi có mảnh giấy ghi bài hát:

"Huế dạo ấy đang độ vào thu, ban đêm mưa sầm sập trên mái ngói, buổi sáng sớm trời trong trẻo, một thứ trong suốt như đóng đinh vạn vật dừng lại ở một điểm cố định, cây bàng độc nhất trong sân đứng với mấy chiếc lá đỏ trên cành, chúng tôi ngồi 'tay trơn' trên nền nhà, trẻ măng là mái tóc và vầng trán, trẻ măng là sự ôm ấp những lý tưởng, những hoài vọng, những ước ao, những chờ đợi của tuổi hai mươi - và chúng tôi đã đếm ngày tháng bằng ' Nhìn Những Mùa Thu Đi' ..."
Và trong tù, sáng trưa, chiều tối, ngày này qua ngày khác, các bạn trẻ đã huýt sáo hay ngân nga bài này.
"Trong đời tôi, đã nghe và đã hát một bài chưa bao giờ nhiều lần và trong một quãng thời gian dài liên tiếp trong 3 tháng như thế (...)
Có thể nói hành trình ca khúc Trịnh Công Sơn thực sự bắt đầu từ 'Nhìn Những Mùa Thu Đi' chứ không phải 'ướt mi', dù 'ướt Mi' đã làm cho người ta biết đến Sơn".

Chị nói vậy là chủ quan. Nhưng vô hình trung, đã tiết lộ một sự thật: Nhìn Những Mùa Thu Đi có thể là tác phẩm đầu tay, dưới dạng thức một bài thơ, làm từ 1957, Trịnh Công Sơn đã tự phổ nhạc nhiều lần, nhưng chỉ mới chép tay cho bạn bè. Do đó mà tình cờ nó nằm trong túi Hoàng Phủ Ngọc Tường đêm 20/8/1963, khi anh đang ngủ ở nhà thì bị công an đến bắt. Nếu không có sự cố, có thể là bản thảo sẽ bị thất lạc, như nhiều sáng tác của Trịnh Công Sơn, có thể lên đên 50 % trên tổng số.

Về nội dung bài hát, không phải chỉ một mình Thái Kim Lan nhận ra niềm u hoài của một thế hệ, khi hát và nghe trong hoàn cảnh đặc biệt. Bản thân tôi không tranh đấu, không tù tội gì, cũng đã cảm nhận được tâm sự của một lứa tuổi:

Gió heo may đã về Chiều tím loang vỉa hè...Thương cho người rồi lạnh lùng riêng

Nó không tình luỵ như Chiều tím chiều nhớ thương ai của thơ Đinh Hùng, Đan Thọ phổ nhạc. mà là vết bầm tím trong tâm tư một thời đại. Bây giờ tôi còn cảm động khi nghe lại bài hát, do chính Sơn hát cùng với Khánh Ly:

Trong nắng vàng chiều nay Anh nghe buồn mình trên ấy Chuyện chúng mình ngày xưa Anh ghi bằng nhiều thu vắng Đến thu này thì mộng nhạt phai

Tình và Mộng ở đây, không nhất thiết phải dính dáng gì đến phụ nữ.
Mãi đến gần đây, tôi mới nghe Lý Quý Chung kể lại rằng chính quyền Sài Gòn hồi ấy đã nghi ngờ "trên ấy" là trên chiến khu.

Thêm một liên văn bản khác: Nguyễn Quốc Trụ trong bài viết tưởng niệm Trịnh Công Sơn, kể lại rằng cho đến khoảng 1966:

" Chưa để ý đến nhạc Trịnh Công Sơn, nói rõ hơn, nó chưa thấm vào tôi. Phải khi đứa em tôi mất, tới lượt tôi vào Trung Tâm Ba Quang Trung, trong những đêm cận Tết, nằm trên chiếc giường sắt lạnh lẽo, một anh chàng nào đó, chắc quá nhớ bồ, cứ huýt sáo bài 'Tình Nhớ', gần như suốt đêm, thế là tiếng nhạc bám riết lấy tôi, rứt không ra. Lúc này tiếng nhạc của anh, đối với riêng tôi, qua lần gặp gỡ trên, như trút hết những âm tiết địa phương, và trở thành tiếng nói chung của Miền Nam, tức là của cả thế giới, vào thời điểm đó, khi cùng nói: hãy yêu nhau thay vì giết nhau. Bởi vì chưa bao giờ và chẳng bao giờ Miền Nam chấp nhận cuộc chiến đó. Chính vì vậy, họ lãnh đạm với chính quyền, ưu ái với Miền Bắc, vì họ đều tin một điều: Miền Bắc sẽ kết thúc cuộc chiến, và người Mỹ sẽ ra đi. Nhạc Trịnh Công Sơn nói lên tiếng nói đó.
Tính phản chiến của nhạc anh, chính là tính phản chiến của cả một miền đất".

Giữa một rừng than khóc ki khu, thì bài Nguyễn Quốc Trụ, nhanh, ngắn nhưng giá trị. Vì chính xác và dũng cảm. Ai đó nói: hình học là nghệ thuật lý luận đúng trên một hình vẽ ... sai. Nguyễn Quốc Trụ khởi đi từ một bản nhạc tình... ngoài đề. Tình Nhớ thì can dự gì đến phản chiến ? Bài hát đại khái:

Người ngỡ đã xa xăm Bỗng về quá thênh thang Ôi áo xưa lồng lộng Đã xô dạt trời chiều ...

Nói về nhạc phản chiến, cứ gì phải dựa vào Đại Bác Ru Đêm ?
Một ví dụ liên văn bản nữa, bài Cõi Tạm, thường được nghe sau này,

Nhân gian về trọ nhiều nơi Bâng khuâng là những đôi môi rất hồng
Là một câu hát nhẹ nhàng, vui tươi, nhưng gợi đau thương cho những kẻ đã từng biết tiền thân câu này:

Nhân gian về trọ nhiều nơi Riêng đây là chốn chưa nguôi máu đào

Tác phẩm được làm năm 1973, hoà ước Paris đã được ký kết mà bom đạn vẫn tiếp tục rơi trên đất nước. Và nhà thơ Ngô Kha, thân thích với Trịnh Công Sơn, đã bị bắt và tra tấn đến chết, thủ tiêu mất xác tại Huế.

Nếu chỉ làm nhạc tình, thì Trịnh Công Sơn sẽ là Lê Uyên Phương hay Từ Công Phụng; nếu chỉ làm nhạc đấu tranh Trịnh Công Sơn sẽ là Nguyễn Đức Quang hay Tôn Thất Lập; nếu pha pha tình yêu và thân phận, Trịnh Công Sơn sẽ là Vũ Thành An. Nếu chỉ phản chiến, e chỉ hơn Nguyễn văn Đông.

Nhưng Trịnh Công Sơn đã tổng hợp một thời đại và xây dựng được một sự nghiệp riêng, gắn bó với vận mệnh đất nước.

Rào nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn vào một ấp chiến lược, là việc không sát với thực tế xã hội. Trong thời gian 1967-1972, Sơn sáng tác khoảng 70 bài hát kêu gọi hòa bình, và khoảng một nửa được phổ biến rộng rãi. Nhưng những ca khúc thuần tuý thế sự đó đã được kết hợp với hàng trăm tình khúc khác, cùng phong cách, trong một hoàn cảnh xã hội và chính trị đặc biệt, đến với quần chúng thanh niên cùng tâm trạng. Những điều kiện đó đã hội tụ vào thời hoàng kim của kỹ thuật thu âm bằng máy ghi âm gọn nhẹ, từ băng cối chuyển sang băng cassette, phổ biến từ trong nước ra đến hải ngoại. Từ những Trung Tâm Băng Nhạc và ... Đài Phát Thanh Sài Gòn !

Nghệ thuật Trịnh Công Sơn xét trong toàn bộ, nội dung, hình thức, chủ đề, thể loại, hội với những điều kiện khách quan về chính trị, xã hội, kinh tế, kỹ thuật đã tạo danh tiếng Trịnh Công Sơn trong một thời gian kỷ lục, như Phạm Duy đã nhắc: "Tình khúc Trịnh Công Sơn ra đời, từ giàn phóng là Quán Văn được hoả tiễn Khánh Ly đưa vút vào phòng trà, rồi vào băng casette và chỉ trong một thời gian rất ngắn đã chinh phục được tất cả người nghe.. So sánh với những tình khúc ba bốn chục năm qua, ngôn ngữ trong nhạc Trịnh Công Sơn rất mới".

Sở dĩ đi nhanh như thế vì nhạc tình yêu đã kết hợp với nhạc đấu tranh, được hát trực tiếp, hát cộng đồng. Tác giả hoà nhập vào quần chúng, rồi trở thành một hiện tượng phút chốc thành thần tượng. Đã có lúc thính giả mộ điệu xâu xé để chia nhau mỗi mảnh áo măng tô cũ rách của Trịnh Công Sơn, theo lối "fan" ở phương Tây.

Ngoài ra, hiện tượng Trịnh Công Sơn cũng đã thành hình qua vài yếu tố phụ : dáng người mảnh khảnh, nho nhã, bạch diện thư sinh làm người ta yêu mà không làm người ta sợ. Anh chăm sóc kỹ lưỡng cách ăn mặc, "sang"một cách kín đáo, "thàng" khi trình diễn. Nói năng nhỏ nhẹ, giọng Huế dịu dàng, trung lập, không phải là giọng Bắc Kỳ toàn trị, hay Nam Kỳ tự trị, mà với một giọng Huế trung dung, thường thường là phát âm đúng. Lối nói thân mật, tạo ra ảo tưởng ở nhiều người: mình là người thân thiết của Trịnh Công Sơn, không "nhất" thì cũng gần gần như vậy. Cái cảm giác "gần gần" không phải lúc nào cũng lành mạnh.

Lối sống đơn giản: cà kê bạn bè, khề khà quán sá. Thịnh thời 1967, đêm đi hát, khuya về, kê ghế bố ngủ với bạn bè ở hội Hoạ Sĩ Trẻ, sáng dậy ra quán đợi bạn đãi tách cà phê, mời điếu thuốc lá. Rượu chè, thuốc lá cũng là cách đến, cách ở lại với đời, đãi đưa bè bạn, dần dần tới chỗ đãi đưa số mệnh. Nghiện mà không ngập. Lữ Quỳnh, bạn thân, cho rằng Sơn không nghiện. Nói thế là để bao che, nhưng cũng có cơ sở.

Thêm vào hình ảnh Khánh Ly, "Ôi tóc em dài đêm thần thoại ..." , khi hát đi chân đất – nữ hoàng chân đất, La comtesse aux pieds nus – của một thời – giọng hát rũ rượi, da diết, diễn tả nỗi trầm thống vô vọng : "tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người". Hai người đi với nhau, tạo nên hình ảnh "đôi lứa", một đôi trai/gái trong tình bạn hồn nhiên, vô tội, nhắc lại trong giới thanh niên trí thức tiểu thuyết Đôi Bạn chưa xa của Nhất Linh. Cũng có quê hương, tình yêu, thân phận, nhiệm vụ với đất nứơc, trong đó, mùa thu cũng ra đi, mùa đông vời vợi, mùa hạ khói mây, tình yêu dấu chim bay. Lời ca như nhắc lại một cô Loan tựa cửa nhìn xa ... Mây vẩn từng không chim bay đi ... (Xuân Diệu).

Truyền thuyết uyên ương là một ước mơ cao đẹp của Á Đông ; nhưng giới hạn tình cảm trong vòng nam nữ, vợ chồng, tính dục. Chuyện Khánh Ly-Trịnh Công Sơn dường như không vậy. Ngày 8/4/2001, Khánh Ly kể lại "một mối liên hệ cao hơn, đẹp đẽ hơn, thánh thiện hơn là những tình cảm đời thường". Hình ảnh đôi bạn trẻ, một couple ở đây rất mới, đáp lại ước mơ hiện đại của một thế hệ thanh niên muốn phá vỡ quan niệm nam nữ thọ thọ bất thân còn đè nặng lên xã hội Việt Nam. Và muốn lìa bỏ kỷ niệm những mối "tình nghèo, anh cày thuê, em dắt trâu" kiểu đồng hương Ngọc Cẩm-Nguyễn Hữu Thiết.

Trong dư luận, họ cũng không bị nghi ngờ hay tai tiếng, dù người đời có kẻ thắc mắc, tò mò. Những tâm hồn phóng khoáng và "hiện đại" thì gạt phăng đi loại "tò mò bệnh hoạn" ấy. Và đặc biệt Trịnh Công Sơn là người tăm tiếng mà không tai tiếng. Thính giả yêu thương ái ngại cho anh chàng nhạc sĩ tài hoa ngần ấy mà bao giờ cũng bị tình phụ mà không nghe nói phụ tình : Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ. Mà sự thật cũng gần gần như thế, dù rằng không ai đi tìm hiểu vì sao mà "lúc đưa em về là biết xa nghìn trùng".

Hơn nữa, ca khúc Trịnh Công Sơn gây được tiếng vang là nhờ giọng hát Khánh Ly: "Một giọng hát có thể xuống rất thấp, rất trầm, mà cũng có thể lên rất cao, một giọng hát khoẻ, dài hơi, giàu nhạc tính. Khánh Ly bao giờ cũng hát đúng giọng, đúng nhịp, ngân, láy đúng lúc, cách phát âm tiếng Việt chuẩn xác – càng về sau càng già giặn thêm – một giọng hát ngay từ thời ấy, tuy vẫn còn nguyên cái chất tươi mát, hồn nhiên của tuổi đôi mươi, nhưng dường như đã mang nặng sầu đau ; một giọng hát vừa có thể lẳng lơ một cách đáng yêu, trong các bản tình ca lãng mạn, lại vừa có thể phẫn nộ, bi ai, trong các bài ca phản chiến" - như nhận xét của Văn Ngọc. Bạn Văn Ngọc, theo sự hiểu biết của chúng tôi, là một người uyên bác về âm nhạc.

Cuối cùng, Trịnh Công Sơn và Khánh Ly thường đi hát cộng đồng, nghĩa là hát không công, không lấy thù lao, chủ yếu là cho thính giả trẻ, tại các giảng đường, giáo đường. Họ tạo, hay tái tạo, một hình ảnh lý tưởng cho nghệ thuật, nhất là nghệ thuật ca hát – mang theo lý tưởng nhân đạo, tình yêu và chính trị. Trong khi đó, đa số nhạc sĩ khác hát để lấy ca-sê, lấy tiền, hay lãnh lương. Có khi lãnh lương để hát "cho đồng bào tôi nghe".

Trong một dư luận – và hoàn cảnh xã hội – thuận lợi, nhạc Trịnh Công Sơn còn đáp ứng lại nhiều nhu cầu tâm lý khác của Miền Nam, bằng nội dung và nghệ thuật trong ca khúc.

Tâm lý thời đó, chủ yếu là chống chiến tranh. Và nói như Phạm Duy, ai mà chẳng phản chiến, cứ gì là Trịnh Công Sơn ?

Như vậy, từ đâu mà nhạc kêu gọi hoà bình của anh lại tạo nên hiện tượng ? Phải chăng từ vị trí Trịnh Công Sơn chọn lựa để tố cáo chiến tranh. Không nên nói giản lược: tự quan điểm nhân dân, vì nhân dân là một khái niệm chính trị khó định nghĩa, thậm chí còn bị nhân danh trong những mưu đồ đen tối.

Ở Miền Nam, vào thời điểm 1970, người dân không còn tin cậy vào chính quyền và những tổ chức chính trị. Họ có tín ngưỡng, nhưng không tin cậy vào tôn giáo như là những thế lực chính trị. Thiên Chúa Giáo, Cao Đài, Hoà Hảo, đã từng được võ trang từ thời chiến tranh Việt Pháp. Phật giáo nổi tiếng chủ trương bất bạo động, cũng có thời kỳ được vũ trang, dù chỉ trong giai đoạn ngắn, 1965; đường lối đưa bàn thờ Phật xuống đường không phải là ai cũng tán thành. Phạm Duy đã hát những bài Tâm Ca tâm huyết "tôi sẽ hát to hơn tiếng súng bên bờ ruộng già" nhưng mặc bà ba đen đứng chung với những đoàn Xây Dựng Nông Thôn. Tôn Thất Lập Hát cho Dân Tôi Nghe, thì không mấy người hát theo, vì "dân tôi" nhận ra tiếng gọi đến từ phía "bên kia".

Sinh trưởng trong một gia đình phật giáo, Trịnh Công Sơn vẫn giữ khoảng cách với các cao trào chính trị do Phật giáo chủ động, dù về sau, Hoàng Nguyên Nhuận có khẳng định "phong trào đấu tranh của thanh niên sinh viên học sinh Huế bùng nổ tự mùa Hạ 1963, đã đẻ ra Trịnh Công Sơn " (bđd). Thời điểm đó, lời nhạc Trịnh Công Sơn mang từ vựng Thiên chúa giáo nhiều hơn từ vựng Phật giáo: như giáo đường, lời buồn thánh, vùng ăn năn, cát bụi, địa đàng ... Nhưng đây là chữ nghĩa văn chương nhiều hơn là rung cảm tôn giáo, gọi là khuôn sáo cũng được, dùng để đẩy đưa câu hát cho có vẻ "hiện đại". Khi cần phải khẳng định một thái độ chính trị giữa những biểu ngữ, gậy gộc thì Trịnh Công Sơn chọn lựa minh mẫn :

Đợi chờ yêu thương trên cây thánh giá Đợi xoá sân si dưới bóng bồ đề
(Đợi có một ngày),trong Phụ Khúc Da Vàng, 1972

Không theo giáo phái, Trịnh Công Sơn không phải là người đảng phái. Không nghe anh nói, mà không nghe ai nói là anh dây dưa với một chính đảng nào, cái đảng của Miền Nam đã để lại kỷ niệm hãi hùng gần nhất là đảng Cần Lao. Còn đảng Cộng Sản thì không dễ gì tiếp xúc...

Anh Nguyễn văn Trung, trong nhiều bài báo trên Văn Học gần đây, có nhắc lại giai đoạn đó và cho biết các "phong trào sinh viên thời đó do Thành Đoàn chỉ đạo, triển khai điều khiển ". Lê văn Nuôi, chủ tịch Tổng Đoàn Học Sinh Sài Gòn hồi đó kể lại rằng, trong ban Chấp hành Tổng Hội Sinh Viên, nhiệm kỳ 69-70, gồm có 7 người thì đã có 4 là người của Thành Đoàn, như chủ tịch Nguyễn văn Quỳ, phó chủ tịch Huỳnh Tấn Mẫm. Và có lúc phó tổng thống Kỳ đã cho mượn nhà làm trụ sở. Tuy nhiên, anh Trung không nhắc, có lẽ vì là ngoài đề, vô tình thôi, là những phong trào đó phát triển được là có sự khuyến khích của người Mỹ, với những Chương Trình Hè, Lên Đường, Quận 8, v.v, chưa kể những tổ chức Thanh Niên Thiện Nguyện, Thiện Chí "nằm vùng" từ trước.

Và dĩ nhiên, chính sách của người Mỹ được chính quyền Sài Gòn thực thi. Đó là thời Nguyễn Cao Kỳ, với nội các chiến tranh, chính phủ của Người Nghèo, của người Trẻ, làm Cách Mạng Xã Hội, v.v. Ông Kỳ muốn lấy lòng thanh niên trí thức tiến bộ, trong đó có Nguyễn văn Trung. Ông lại muốn dựa vào khối phật giáo Ấn Quang, và có cảm tình với đám tranh đấu miền Trung mà ông đã thẳng tay đàn áp năm 1966. Hoàng Nguyên Nhuận mới đây còn nhắc lại.

Riêng với Trịnh Công Sơn, tướng Kỳ lại có tình riêng, một cảm tình nghệ sĩ liên tài. Ngoài những chai rượu, ông còn cho đi máy bay về Huế để ... hát nhạc phản chiến !

Dài dòng như vậy để người đọc thấy tại sao một nhạc sĩ không hợp lệ quân dịch, lại có thể ngang nhiên hát nhạc phản chiến tại trường Đại Học Văn Khoa, ngay trước dinh Độc Lập, và dõng dạc: Gia tài của Mẹ một bọn lai căng, gia tài của Mẹ một lũ bội tình.

Trịnh Công Sơn sống giữa những tranh chấp chính trị mà không dính líu đến chính quyền hay đảng phái, giáo phái, phe phái. Mặc dầu anh thích bạn bè, ưa đàn đúm.

Quần chúng biết ngay điều đó. Chúng ta ngày nay mất công nghiên cứu văn bản, khổ tâm truy tầm tư liệu để tìm hiểu, chứ quần chúng thì họ rất nhạy bén, và nhận ra đâu là tiếng nói vô tư, ngay thật, đâu là tiếng nói có dụng ý, mưu đồ.

Đây là lý do chính giải thích sự thành công nhanh chóng của Trịnh Công Sơn, một sớm một chiều đã thành hiện tượng.

Ví dụ bài Tình Ca Của Người Mất Trí, 1967, đã được tiếp nhận và truyền bá tức khắc :

Tôi có người yêu chết trận Pleime
... chết ngoài Hà Nội
... chết không hận thù Nằm chết như mơ ...

Quần chúng hiểu ra ngay biểu tượng "mất trí", một bài hát không có lập trường theo bên này, hay được chỉ đạo từ phía bên kia. Lời ca dội vang chiến sự, nhưng không có mưu đồ, quả là lời người mất trí. Mất trí là mất tất cả, không còn gì, ngoài cái trí của mình, của riêng mình. Cái trí xa lìa thực tại, bị sa thải ra ngoài thực tại. Trí tuệ ấy chỉ yêu Một Người, nhưng người yêu duy nhất đã chết trên khắp chiến trường, chết mọi kiểu, mọi cách, thậm chí nằm chết như mơ. Chết như mơ ?

Người ta thường nói : đẹp như mơ, chứ ai nói chết như mơ .

Tinh nghịch đổi vài chữ, câu hát vẫn hợp lý, vẫn hay, dù ý nghĩa bị lật ngược:

Tôi có người yêu gặp tại Ba Gia Tôi có người yêu vừa mới đêm qua Yêu thật tình cờ, yêu chẳng hẹn hò Yêu chẳng thề nguyền hạnh phúc như mơ

Lật ngược hay xếp xuôi, tỉnh trí hay mất trí, tình ca hay chiến ca, ai biết đâu là đâu.

Cũng như bài sau này : Hát Trên Những Xác Người, làm sau Mậu Thân 1968 :

Mẹ vỗ tay reo mừng chiến tranh Chị vỗ tay hoan hô hoà bình Người vỗ tay cho thêm thù hận Người vỗ tay xa dần ăn năn ...

Không biết phải giải thích ra sao, ngoài cơn điên loạn của một thời đại.
Nói về những oan khốc chiến tranh, Trịnh Công Sơn đã có lời nhập đề tưng tửng :

Đại bác đêm đêm dội về thành phố Người phu quét đường ngừng chổi lắng nghe

Nghe như là nghe nhạc, nghe quen như câu dạo buồn. Nhạc không lời, một loại romance sans parole. Thậm chí: đại bác như kinh không mang lời nguyện.

Đại bác như kinh ?

Bài hát kết thúc bằng cụm từ có mẹ có em. Cũng như những thành ngữ : có mẹ có cha, có anh có em, có vợ có chồng, có mẹ có em, diễn tả cảnh sum họp, ấm cúng, nhưng ở đây là một đống xương thịt bầy nhầy:

Từng vạn chuyến xe claymore lựu đạn Hàng vạn chuyến xe mang vô thị thành Từng vùng thịt xương có mẹ có em

Sơn có những lời tưng tửng tàn độc như thế, hay đèn thắp thì mờ, ám ảnh cả một đời bạn mình là Bửu Ý. Nguyên tác trong bài Đi Tìm Quê Hương (1967):

Người nô lệ da vàng ngủ quên Ngủ quên trong căn nhà nhỏ Đèn thắp thì mờ ...

Dĩ nhiên, trong văn cảnh, câu hát có nghĩa : đèn không đủ sáng. Nhưng lìa văn cảnh, lời ca dội vào tim: đèn thắp thì sáng, chứ sao đèn thắp thì mờ ?

Nhẫn nhục trong những cơ cực trầm kha truyền kiếp, người phụ nữ Huế có câu hát não nùng:

Ví dầu đèn tắt, có trăng Khổ thì em chịu, biết mần răng đặng chừ ?
Nhưng cũng không đoạn trường bằng đèn thắp thì mờ. Bây giờ Sơn đã đi xa, nhớ câu hát xưa mà thương những người bạn cũ, những người còn ở lại, trong cuộc đời mà Tản Đà đã định nghĩa: đời là cõi bắt con người phải sống.
Những ngọn đèn. Thắp thì mờ...

Năm 1968 là khúc quành trong thời sự Việt Nam, đồng thời là bước ngoặt trong nhạc cảm Trịnh Công Sơn. Có thể có những lý do riêng chung.

Trước hết, là sự kiện nổ súng đêm hát 20/12/1967, tại Quán Văn trong khuôn viên trường Đại Học Văn Khoa. Để tuyên bố kỷ niệm ngày thành lập Mặt Trận Giải Phóng, một nữ khán giả đã cướp micro ; nhân viên ban tổ chức giành lại, và bị bắn trọng thương. Cô gái lên xe Honda bỏ đi. Khoảng hai trăm thính giả - trong đó có nhiều quân nhân - đã dương mắt nhìn theo. Trịnh Công Sơn cùng với Khánh Ly, từ đêm đó không còn đi hát như thế tại Sài Gòn. Nhưng về Huế vẫn hát với sinh viên, đến 1970-1971 thì lại hăng hái tham gia tích cực những sinh hoạt cộng đồng tại Huế.

Do đó, vụ Tết Mậu Thân 1968, anh ở Huế, và đã ẩn thân ở thư viện Đại Học Huế (....) Sơn đã (...) đã sáng tác hai bài tố cáo cảnh giết người, chôn người là Hát Trên Những Xác Người và Bài Ca Dành Cho Những Xác Người, với địa danh bãi chôn người chính xác: Chiều đi qua Bãi Dâu ... Sau đó Trịnh Công Sơn vẫn ở Huế, làm một số bài ca gửi vào Sài Gòn, mà sinh viên, thanh niên tiếp tục hát trong những phong trào xuống đường lúc đó rất sôi nổi.

Hiệu quả chính trị của vụ Tổng Công Kích 1968 là hoà hội Paris mở ra để kết thúc chiến cuộc. Khả năng hòa bình đã ló dạng và Trịnh Công Sơn chuyển hướng, làm những ca khúc có nội dung chính trị rõ rệt, trực tiếp kêu gọi hoà bình, với tập Kinh Việt Nam (1968) và Ta phải thấy Mặt Trời (1969).

Thời điểm này, họa sĩ Trịnh Cung, bạn anh, đã vẽ bức tranh nổi tiếng : Đứa Trẻ Du Ca, tay ôm đàn cầm, có con chim đậu trên mái tóc, ý muốn nói hòa bình đang về trong thôn xóm. Hoà bình là khát vọng chung của thanh niên, và người dân thời đó, mà ca khúc Trịnh Công Sơn đã vang vọng qua những tiêu đề: Ngày Mai Đây Bình Yên, Cánh Đồng Hoà Bình, Đồng Dao Hoà Bình. Và đặc biệt là Nối Vòng Tay Lớn.

Cho đến ngày hoà hội Paris, nhạc thời thế Trịnh Công Sơn chủ yếu là oán trách chiến tranh, một cách thụ động, tố giác những oan khiên vừa tàn khốc vừa phi lý, cảnh một chiếc xe tang, trái mìn nổ chậm, người chết hai lần, thịt da nát tan (Ngụ Ngôn Mùa Đông). Hay than vãn: ôi quê hương đã lầm than, sao còn, còn chiến tranh (Du Mục).

Trong Kinh Việt Nam, từ 1968, anh tích cực kêu gọi: Dân ta phải Sống, Dựng lại Người, Dựng lại Nhà, Hãy đi cùng Nhau, và cụ thể hơn nữa Nối Vòng Tay Lớn. Hay ít nhất cũng là Chờ nhìn Quê Hương sáng chói và tra vấn Ta thấy gì đêm nay ? Sao mắt Mẹ chưa vui ? Đấy là tên những bài hát, những Hành Ca trong tham vọng trở thành một hành khúc Việt Nam:

Đoàn người đi miên man Tìm ánh sáng cho Việt Nam Tìm quê hương xưa Giống Tiên Rồng, giống da vàng ... Nối cho liền, nối hai miền ...

Nói là "quốc ca hụt" là đùa vui, nhưng cũng không sai bao nhiêu (giá dụ : nếu đám tranh đấu Miền Trung thành công trong dự tính ly khai năm 1965, rồi từ đó nắm được chính quyền Miền Nam, thì chúng ta e phải đứng nghiêm, nghe nhạc Trịnh Công Sơn khi chào cờ. Chuyện đã không xảy ra, nhưng không phải là không có khả năng xảy ra trong tuyệt đối).

Thời điểm 1968, hội nghị Paris thật sự đã tạo nên niềm hy vọng vô biên. Trịnh Công Sơn viết lời tựa Kinh Việt Nam:

Kinh Việt Nam là những tiếng kêu thương thống thiết, khởi sự tự một thực trạng máu xương ... Những bài ca được viết từ những hân hoan lắng nghe được trong lòng người. Đó là nỗi hân hoan của đám đông chờ mong ngày hồi sinh ...

Đã có điều gì không thật suốt hai mươi năm nay (...) Chúng ta, dù muốn dù không, bị biến thành những mũi tên định hướng được bắn đi từ những đồ hình huy hoàng tưởng tượng và ngắn hạn. Dân ta tàn phế hai mươi năm. Nước mắt và máu đã làm thành những con suối lớn chảy mòn tiềm lực sáng tạo (...)

Xin hãy dừng tay và cùng chờ nhìn một mặt trời tươi trẻ sẽ đựoc khai sinh ở phương đông (...)

Xin hãy dừng tay để được nghe ba mươi mốt triệu tiếng hò reo trong cùng một phút hân hoan (...)

Tiếng hát đã có thể cất lên để nuôi lớn ước mơ (...)

Một ước mơ vĩ đại, làm bằng những đau thương nối dài vào hoang tưởng "một ngày mà lòng mình vui sướng hơn muôn nghìn năm" (Cánh Đồng Hoà Bình).

Bây giờ, nhớ lại mà thương cho một thế hệ thanh niên đã dở sống dở chết trong hoang tưởng:

Hai mươi năm hận thù đã qua Hôm nay thấy mặt người đổi mới Ta yêu Trời, ta yêu ta, ta yêu em Ta yêu nắng hòa bình vừa đến... Hai mươi năm chờ đợi từng phút giây Hôm nay tiếng Hòa Bình đã thấy Trên môi người trên môi ta, trên môi em Trên môi những người Việt nghèo khốn Hai mươi năm chờ đợi đã lâu ...
(Đồng Dao Hòa Bình)

Hai mươi năm là tính từ 1948, hay trước đó nữa, nghĩa là không kể Điện Biên Phủ, không kể đến hiệp định Genève, dù sao cũng tạo được cảm giác hoà bình trong đôi ba năm. Nhưng nền hoà bình tạm bợ ấy đã phải mua bằng cái giá chia đôi Nam Bắc, mầm mống cho một cuộc chiến tranh khác, lâu dài hơn, thảm khốc hơn, gây nhiều thù hận hơn. Khi Sơn viết hai mươi năm nội chiến từng ngày, thì hằng triệu người đã hát, từ năm này qua năm khác, dù có lúc bị cấm. Hai chữ nội chiến, nếu không có lý, cũng có cơ sở tình cảm của nó. Và đáp ứng lại với tâm lý quần chúng không bị chính trị hóa, không bị giáo dục chính trị, những người dân đau lòng vì cảnh nồi da xáo thịt, mà không truy tầm đến căn nguyên phức tạp.

Có lúc anh bộc trực, chính xác hơn:

Hai mươi năm là xác người Việt nằm Làm sao ta giết hết những đứa con Việt Nam ? Xưa ta không thù hậnVì đâu tay ta vấy máu ?
(Tuổi Trẻ Việt Nam) 1969

Không dễ dàng gì trả lời câu hỏi vì đâu, nếu không đơn giản lặp lại luận điệu bên này hay bên kia. Không có cuộc chiến tranh nào mà lý do đơn giản, chỉ có những đầu óc đơn giản. Thời Nam Bắc Triều, Trịnh Nguyễn phân tranh, Nam Hà Bắc Hà, cuộc chiến chưa chắc đã bắt nguồn từ những lý do đơn giản. Giữa lòng thế kỷ XX, hoàn cảnh càng phức tạp. Chiến tranh Việt Nam, khởi sự là dân tộc giành quyền tự quyết, chống ngoại xâm, nhưng cũng là chiến tranh ý thức hệ, nối dài biên giới chiến tranh lạnh, với sự can thiệp của nước ngoài. Nhưng đồng thời cũng có tính cách nội chiến:

Triệu người đã chết, hãy mở mắt ra Lật xác quân thù, mặt người Việt Nam trên đó Đi trên những xác người: bao năm thắng những ai ?
(Những Ai còn là Việt Nam) 1969

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không nghị luận chính trị, vì nghị luận sẽ không thành bài hát; anh chỉ nói lên cảm xúc:

Ôi bom đạn cày trên những xác Ôi da vàng Việt Nam vỡ nát Xương thịt đó thiêng liêng vô cùng
(Đêm Bây Giờ, Đêm Mai) 1967

Bây giờ lý luận rằng nguồn gốc của chiến tranh Việt Nam không phải là nội chiến là việc của người làm chính trị, phân tích "bản chất" theo chính kiến, "chính nghĩa" của mình. Người nghệ sĩ chỉ nói lên hiện tượng.

Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ phản chiến; quần chúng có hai con đường đến với anh: một là đến với người nhạc sĩ, hai là đến với người phản chiến; họ chọn con đường thứ nhất, nếu anh có tài; họ chọn con đường thứ hai, nếu anh đáp lại tâm tư của họ. Còn những người đi tìm một đồng chí hay chiến hữu, thì dĩ nhiên là thất vọng rồi công phẫn.

Cả hai chính quyền Nam Bắc đã trả công hậu hĩ, và trả ơn đầy đủ cho những cán bộ "hát cho dân tôi nghe". Dân tôi không nghe, lỗi đâu phải tại "cánh vạc bay" ?

Từ 1968, trong những gào gọi hoà bình, thêm một ý tưởng hiện ra rõ nét, là thống nhất đất nước.

Hoà bình là một ước vọng của nhân sinh, ai ai cũng chia sẻ. Thống nhất là một đòi hỏi chính trị, người muốn thế nọ, kẻ muốn thế kia, đại khái qua hai câu hỏi: thống nhất bằng cách nào; và ai chủ động thống nhất ? Trịnh Công Sơn nói lên niềm mơ ước công dân, và không trả lời hai câu hỏi chính kiến, cũng như nhiều nhạc sĩ khác: Phạm Đình Chương viết Hội Trùng Dương, Phạm Duy viết Con Đường Cái Quan, đều chia sẻ một nguyện vọng.

Khát vọng thống nhất đã bàng bạc trong những bản nhạc của Sơn trước đó:

Đêm sông Hương nhung nhớ Ngày Cửu Long mơ, mơ thấy gì Mơ một ngày Hồng Hà góp Hội Trùng Dương Đây quê hương trông ngóng và mẹ chờ mong
Lại Gần Với Nhau (1966)

Nhưng phải đợi đến Kinh Việt Nam (1968) yêu sách ấy mới được diễn đạt chính xác:

Chờ ngày Việt Nam thống nhất Chờ Nhìn Quê Hương Sáng Chói Reo vui cờ thống nhất Chân bước đi trên ba Miền
Những Ai Còn Là Việt Nam
Chính chúng ta phải có mọi quyền Đứng lên đòi thống nhất quê hương
Chính Chúng Ta Phải Nói
Bắc Nam Trung ơi đoàn kết một miền
Huế, Sài Gòn, Hà Nội

Thậm chí anh đã hát rất quyền uy: Hỡi Ba Miền vùng lên Cách Mạng.
Nói Một Miền Rưỡi, thì không sao; nói Ba Miền là đã có vấn đề; nói Hai Miền "vùng lên cách Mạng" sẽ còn nặng tội hơn nữa ! Ôi ! Sơn ơi là Sơn ơi !

Những bài hát rền vang khí thế. Quan điểm chính trị rõ nét, dù là tự phát, cũng có thể thành hình qua những thảo luận với bạn bè. Vì không dễ gì mà trong vài tháng, Sơn đã sáng tác được hằng chục bài hát đồng quy về một nội dung chính trị nhất quán.

Mưu cầu hoà bình đi đôi với ước mơ thống nhất là khát vọng chung. Và đến 1968, người dân thấy rõ không thể có hoà bình mà không có thống nhất. Không cần am tường chính trị cũng thấy điều ấy. Vài ba năm trước, những người thân thiết với Trịnh Công Sơn trong phong trào tranh đấu Miền Trung còn mơ tưởng: "tạm thời Nam Bắc làm hoà, để có lý do cho Mỹ rút chân ra khỏi Việt Nam. Miền Nam Trung Lập trong vòng hai mươi năm (...) Nam Bắc hiệp thương" như Hoàng Nguyên Nhuận đã tuyên bố trên báo Chuyển Luân.

Khi tại Paris hoà hội bốn bên đang tiếp diễn, thì trên danh nghĩa Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã biến thành Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời. Rõ ràng là Nam Bắc thế vô lưỡng lập: muốn có hoà bình thì phải thống nhất Nam Bắc bằng cách này hay cách khác.

Cách nào đi nữa thì cũng dưới một màu cờ, do đó Trịnh Công Sơn đã hát: Ta thấy gì trong đêm nay ? Cờ bay trăm ngọn cờ bay ... Anh mong sớm Dựng lại Người, Dựng lại Nhà : tình ta bay theo sóng ngọn cờ ...

Không thể trá hình được câu hỏi: ngọn cờ gì ? Thật tâm thì Trịnh Công Sơn cũng không biết là cờ gì. Trả lời câu hỏi đó, là thêm một lần chia rẽ, đau thương.

Nhạc sĩ rất bén nhạy, từ 1968 đã linh cảm:

Đêm nay hoà bình, sao mắt mẹ chưa vui Nhìn quanh anh em không ai còn lại Anh thầm gọi tên ai. Gọi tên ai ... Anh đi trận về nghe lại chuyện kể Ngỡ giấc mơ ...
(Sao mắt Mẹ Chưa vui)

Năm ấy, bài hát thành công nhất là Nối Vòng Tay Lớn:

Rừng núi dang tay nối lại biển xa Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà(...) Thành phố nối thôn xa vời vợi Người chết nối linh thiêng vào đời ...

Nhạc điệu phong phú, hào hùng, phóng khoáng và lời ca vừa nhẹ nhàng vừa súc tích, nối liền con người với nhau, với đất nước, thành phố với thôn quê, quá khứ với hiện tại, người chết với tương lai. Nhà văn Nguyễn văn Thọ, một bộ đội "phía bên kia", kể lại rằng khi tiến quân vào Sài Gòn ngày 30/4/1975, nghe bài này anh đã chùng tay súng:

" Mặt đất bao la, anh em ta về Gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng trời rộng
Lời ca không phải là tiếng thách thức tử thủ. Lời ca không phải là tiếng bể máu như kết cục thường của chiến cuộc, lời ca khi ấy làm chùng xuống không khí thù hận và hằn học".

Nhưng đây là chuyện về sau - nói ra đây - để thấy tác dụng của một khúc nhạc phản chiến.

Năm 1969, Bửu Chỉ kể lại: "thỉnh thoảng người ta lại nghe phong thanh đâu đó về một giải pháp hoà bình cho Việt Nam, rồi tại tắt ngấm... Phong trào đấu tranh hoà bình Việt Nam ở các đô thị lại bùng lên mãnh liệt" (Bài đã dẫn), nhạc khúc Trịnh Công Sơn gắn bó với hoàn cảnh, mang một nét mới: chính chúng ta phải nói: chính người dân Việt Nam phải có quyền quyết định về vận mệnh dân tộc, trên cơ sở hoà bình - thống nhất:

Khi tim người rực lửa cầu mong Chính chúng ta phải có mọi quyền Đứng lên đòi thống nhất quê hương Quyết chối từ chém giết anh em Chính chúng ta phải nói hoà bình Đất nước này chỉ còn lại người điên

Tháng 8/1969, anh viết: "Hai mươi năm qua con người Việt Nam khốn khổ đã hiểu được thấm thía rằng không còn một nhân danh nào đủ ý nghĩa và xứng đáng để còn một chỗ đứng trên cái điêu tàn to lớn phủ ngập đời sống nơi đây nữa".

Trịnh Công Sơn kêu gọi Ta Đi Dựng Cờ, Đừng Mong Ai đừng Nghi Ngại. Lời ca hùng hồn, khẩu hiệu, có lúc đại ngôn: đã đến lúc cách mạng tiến lên. Bài Ta Quyết Phải Sống:

Còn sống xin các anh quyết còn cách mạng Đời ta ta lo, xin xếp vũ khí ...

Quyết làm cách mạng và phải xếp vũ khí: nguyện vọng thành khẩn và ngây thơ của một nghệ sĩ giữa những thế lực vô minh, với hằng triệu tay súng mỗi bên, với pháo đài bay, xe tăng, hoả tiễn. Cách mạng, trong mơ ước Trịnh Công Sơn là cuộc đổi đời triệt để, tự bóng tối ra ánh sáng, từ xương máu ra hoà bình "một rạng đông mới sẽ được khai sinh. Nhựa mới sẽ luân lưu cuồn cuộn trong những thân thể Việt Nam".

Trong Những Giọt Máu Trổ Bông, sau khi tính sổ hằng tỷ tỷ giọt máu đã chảy thành suối thành sông hay đã khô cằn trên đất nước, đã che khuất mặt trời, nhạc sĩ quyết định:

Những giọt máu đến ngày trổ bông Nở hoà bình cho đêm vắng xôn xao tiếng người Ngày dân ta đi dành lấy hoà bình Ta phải thấy mặt trời

Và Mặt Trời là biểu tượng ánh sáng, hơi ấm, sự sống và phương hướng: phương Đông, phía mặt trời mọc: "Tuổi trẻ Việt Nam, trời sáng phương Đông". "Một mặt trời tươi trẻ sẽ được khai sinh ở phương Đông". Sơn có lần giải thích: người phương Tây, khi định hướng, dùng chữ orientation, nghĩa là nhắm hướng orient, phương Đông. Việt Nam là chiến trường giữa những thế lực mê chấp đến từ phương Tây. Trong khi đó, phương Đông nguồn cội của đức tin, là quê hương của hoà bình, hoà giải và hoá giải.

Anh và bạn bè anh ở Huế, trong giới Phật tử, đã tin như vậy, theo hồi ký gủa Giáo sư Erich Wulff khi ông kể lại vụ xe thiết giáp đàn áp dân lành tại Huế tháng 5/1963 mà ông đã mục kích. Ông nói về thanh niên Huế và chiến tranh: "Họ xem như là một cuộc chiến tranh tôn giáo (...) càng ngày càng cổ võ cho một nền văn hoá dân tộc mang tính cách Phật giáo và một sách lược chính trị trung lập".

Tư tưởng Phật giáo tiềm ẩn nơi Trịnh Công Sơn, có lẽ đã khởi sắc từ ý thức chính trị, xã hội và văn hoá, trong một thời điểm nhất định. Do đó, tâm hướng về nguồn, về phương Đông, về Đạo trong nghĩa Phật giáo hay Lão Trang, ở Trịnh Công Sơn khác với Hơi Tàn Đông Á nơi Vũ Hoàng Chương ba mươi năm trước, và cách nhau hai cuộc chiến tranh; rồi ý hướng về Đạo, vài ba năm sau, từ 1973, sẽ đơm hoa kết nụ thành những đoá hoa vô thường trong nhiều ca khúc.

Phật tính là mạch nước ngầm trong tâm hồn Trịnh Công Sơn, gặp một hố bom, nó chợt Thấy Mặt Trời, và tuôn trào thành Nguồn Thơ Suối Nhạc.

Phụ Khúc Da Vàng, xuất bản 1972, gồm 9 bài, với Người Mẹ Ô Lý, bài hát tặng người Mẹ già đã gặp trong đoàn người từ Quảng Trị về Huế ; và Mùa áo Quan, tặng những thành phố Việt Nam, có một lần không còn bóng dáng con người, phản ánh chiến trường Trị Thiên khốc liệt những năm 1971-1972, với mặt trận Nam Lào, Đường 9, Cổ thành Quảng Trị, Mùa Hè Đỏ Lửa. Xa hơn nữa, trên khắp chiến trường miền Nam, đi đâu cũng thấy xác người Trị Thiên, theo lời Phan Nhật Nam: Kontum thì dân dinh điền, An Lộc là dân cạo mủ cao su, Bình Giả là dân Cam Lộ, Khe Sanh mới đến định cư. Những phận người nằm chết cong queo, chết vào lòng đèo, chết cạnh gầm cầu, chết nghẹn ngào mình không manh áo. Phan Nhật Nam "nhìn tận mắt những thảm cảnh trên vùng đất quê hương : một bộ xương trẻ con trong chiếc thau nhựa bạc màu ... Một người đàn bà đưa bàn tay trước từng miếng thịt, xoa trên chiếc đầu lâu của người chồng xấu số ".

Khi các phe phái hoà đàm tại Paris thì bom đạn vẫn ác liệt. Chiến xa miền Bắc đã tràn qua sông Bến Hải, mục tiêu vừa quân sự, vừa chính trị là bôi xoá tàn tích hiệp định Genève và vĩ tuyến 17, chứng tỏ chiến trường Việt Nam là một, trong khi chờ đợi nước Việt Nam là một.

Bề ngoài Trịnh Công Sơn vẫn hô hào "Chưa mất niềm tin, vì quê hương sẽ có ngày hoà bình (...), trong lòng nhau thấp thoáng bóng cờ chung". Nhưng ở thâm tâm anh đã bi quan lắm khi "đợi con kên kên trên cành nhỏ lệ ":
Bao nhiêu năm chờ đợi Oán thù là khí giới Trong con tim lời nói yêu thương Đã mất rồi Đợi Có Một Ngày

Trịnh Công Sơn gói ghém nỗi hoang mang chán chường một thế hệ:

Mười lăm năm em có buồn không ?... Đường anh em đi hoài không tới Đường văn minh xương cao cùng với núi Đường lương tâm mênh mang hoài bóng tối... Hãy nhìn lại anh em trên chiến trường Tìm đâu ra những nét mặt thù Được hay thua những thắng bại kia Mặt quê hương tan nát từng giờ
Hãy Nhìn Lại

Khúc hát ngắn đã quy chiếu mọi góc cạnh, kích thước một cuộc chiến tranh, thuộc loại khốc liệt nhất mà dân tộc phải trải qua. Nếu ai đó chê trách Trịnh Công Sơn lờ mờ về chính trị, thì phải hiểu chính trị theo nghĩa lập trường, phe phái. Đứng trên lương tâm dân tộc mà nói, ít có sử gia hay nhà bình luận chính trị nào, mà thu vén được cả bi kịch của đất nước trong cả chiều dài, chiều rộng lẫn chiều sâu bằng bấy nhiêu câu chữ, được giai điệu của nhạc thuật xoáy sâu vào tâm khảm của thời đại.

Đã nhiều người nói Trịnh Công Sơn là thiên tài. Sự đánh giá thành tâm, nhưng mơ hồ, sử dụng một khái niệm khó định nghĩa và không có tiểu chuẩn. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, chữ thiên tài bao hàm một ngụ ý chính trị. Nhưng nhìn dưới ánh sáng nào đi nữa, sự nghiệp Trịnh Công Sơn cũng là một
khối tài tình. Tài và tình sinh ra nhau, nuôi dưỡng lấy nhau bằng lương thực một trần ai khổ ải. Chữ tài, phần nào, là của trời cho; chữ tình là khối đau thương khổ luyện trong khổ nạn.

Và chính khối đau thương - qua những lời ca phản chiến - đã vinh danh Trịnh Công Sơn trong khổ nạn, vinh danh bên ngoài ý muốn của nhiều quyền lực thế trị; và sau này nữa, bên ngoài những mê chấp sân si.

Song song với ca khúc hoà bình làm trong một thời điểm đặc biệt, Trịnh Công Sơn vẫn sáng tác nhạc phẩm ca ngợi tình yêu, tình bạn, thiên nhiên và cuộc đời. Tất cả tâm cảm ấy cùng chiếu rọi về tình người, nổi bật trong bất hạnh.

Nhân đề tài Ca khúc đòi hỏi Hoà Bình của Trịnh Công Sơn, chúng tôi nhắc lại từng giai đoạn trong quá trình nhạc phẩm và bối cảnh chính trị, xã hội của miền Nam chủ yếu từ 1965 đến 1972. Trong những điều kiện tạo nên hiện tượng Trịnh Công Sơn, có yếu tố lớn lao với kích thước lịch sử, có chi tiết bình thường như cách ăn mặc hay ăn nói. Trong tâm tưởng người nghe khó đo lường được cái gì là chính, cái gì là phụ trong những điều kiện làm nên danh phận một tác gia. Điều này bổ sung cho điều kia, chúng tôi ghép lại như những mảnh vỡ của một thời đại.

Và cũng lưu ý dè dặt: bài nào chính xác là phản chiến ? Đối với những người từng nghe, từng sống những ca khúc Trịnh Công Sơn thời thịnh hành, thì khó trả lời.

Với nhiều người, toàn bộ nhạc Trịnh Công Sơn thời đó đều diễn tả khát vọng hoà bình. Những bản nhạc tình, dù chỉ hoà tấu không lời, cũng vang vọng ít nhiều âm hưởng của niềm mong ước đó. Nhưng có một cách phân biệt, nghịch lý nhưng thiết thực: bài nào mà ngày nay không được in lại, đồng thời không được trình diễn trong nước, thì nó là nhạc ... phản chiến !

Đây lại là một cách gián tiếp minh xác vị trí chính trị của Trịnh Công Sơn trong giai đoạn anh làm khoảng 70 bài hát được gọi là phản chiến.

Trong số phận làm dân, và danh phận một tác gia, bên ngoài tài năng, có thể nói Trịnh Công Sơn là người may mắn, may mắn hơn đa số bạn bè một thưở. Nhưng con người dù may mắn đến đâu, thì cũng không thể may mắn hơn Lịch Sử.

Bài hát duy nhất mà chúng tôi có thể xác định thời điểm sáng tác là Ra Đồng Giữa Ngọ làm tại Huế tháng 12 năm 1974, vào những ngày năm cùng tháng tận của một chế độ, chế độ đã sinh trưởng ra anh. Bài hát tiên tri về nhiều mặt:

Thằng bé xinh xinh chơi diều giữa Ngọ Ngờ đâu hội ngộ tan giữa hư không.
Sơn qua đời ngày 1 tháng Tư, cũng vào giờ giữa Ngọ, như con diều bay mà linh hồn lạnh lẽo, con diều rơi cho vực thẳm buồn theo ...
Đối với một số thân bằng quyến thuộc, Sơn bao giờ cũng như đứa bé, suốt đời buồn vui như một đứa bé, nhìn theo " hòn bi xanh, trái đất này quay tròn", nhìn thân phận như cánh diều giữa trời lộng gió. Và ngày nay có người còn hát theo Sơn :
Thằng bé xinh xinh bay vờn giữa Ngọ Ngờ đâu hội ngộ tan giữa hư không Tan trong trời hồng làm giọt mưa trong Tan trên cuộc đời làm lời ru êm Tan trong nụ cười gọi mời yêu thương Tan trong cội nguồn.

Vậy thôi, thôi nhé, vậy nhé, Sơn nhé.

Khi khác gặp lại

No comments:

Post a Comment