Monday, November 29, 2010

"làm sao giết được người trong mộng ????"

"làm sao giết được người trong mộng ????"
Nhớ ơi nguội bớt cho nhờ...

Hồi trước, lần nào tôi gọi điện thì chị cũng giòn tan nói nhằm nhò chi có sao đâu, buồn gì buồn hoài. Lúc đầu mấy mẹ con cũng sốc, giờ quen rồi, vui lại rồi, trước người ta cũng vắng nhà, đi công tác suốt, giờ không khác gì mấy…

Sau câu nói đó, tôi tin ở chỗ thị trấn Ga xa xôi kia, chị đang cắn môi nhừ. “Người ta” mà chị nhắc qua là anh chồng mủ mỉ ít nói hay cười yêu chiều vợ con, chị vẫn thường khoe và tôi cũng đã gặp vài lần, thầm khen chị ấy lấy được thằng cha tử tế. Như thường lệ, bảy tháng rồi anh vắng nhà, điều duy nhất khác là anh bỏ đi sống cùng người đàn bà khác. Ba mẹ con chị như gặp ác mộng, sống những ngày ngơ ngẩn, choáng váng bước hụt bước hẫng, liêu xiêu sống dựa vào nhau. Thời gian trôi cũng chông chênh như người chông chênh đau. Lâu lâu tôi hoặc gọi điện hoặc nhắn tin, nói vài câu tếu táo vui, hỏi thăm chuyện trên trời dưới đất, tự thấy mình như đưa cho chị chiếc khăn thấm bớt nước mắt. Lại nghe chị cười, khoe, mấy mẹ con mới đi núi về nè, tuần tới chở nhau đi biển, còn tính viếng chùa xa… Lại nghe tôi nói, ừa, ráng vui vẻ nghen thay cho câu tạm biệt. Lại giật mình sau đó, trời đất, chị có than buồn đâu mà mình kêu vui. Rõ ràng là chị nói, “chuyện như chiêm bao vậy mà, tỉnh ra là hết. Nghỉ hè nên tranh thủ đi chơi thôi. Ờ, ờ, hè năm trước…”

Câu nói bỗng dừng phắt ở đó, đứt đột ngột, tôi đoán là do bóng anh chồng xuất hiện thấp thoáng trong cái “hè năm trước…”. Và anh này sẽ còn trở đi trở lại trong ngày tám tháng ba năm trước, quốc khánh năm trước, đám giỗ ba năm trước, đám cưới đứa em năm trước, ngày này năm trước… Cái năm trước từng rất ngọt ngào, đầm ấm. Năm trước của thời chưa mất, hạnh phúc chưa bị bão, tình yêu chưa tỉnh chiêm bao. Giờ thì trở thành nỗi ám ảnh của đỉnh núi với vực sâu.

Giờ thì năm trước hay dẫn anh chồng quay về nhà. Bứt không đứt, dứt không rời, bứng không xong. Anh ta vẫn lảng vảng, vẫn âu yếm nói cười, nhưng lại gây đau như cầm cây dao lụt nhách mà cứa trên da thịt chị. Thiệt không biết làm sao để quên phứt cho rồi, có bữa đang khoe vui lắm vui thiệt bỗng chị thở dài, than vậy.

Tôi nói tôi cũng không biết, chưa có kinh nghiệm vụ này (mà cũng không mong có kinh nghiệm đâu nghen). Tôi hình dung ra một cách là chờ, cứ để người đàn ông (từng) yêu dấu quay đi quay lại với cây dao gỉ sét đó (nỗi đau đôi khi cũng giết người như bệnh uốn ván, chớ giỡn). Chờ tới ngày thứ ba trăm sáu mươi sáu, ký ức cũng mòn, chị không đủ kiên nhẫn mà ngậm ngùi dài nhằng, “ngày này năm trước năm trước nữa…”. Thật ra cái năm trước năm trước đó tự nó không muốn quay lại, đã xa xôi, mòn mỏi lắm rồi. Anh chồng chị sẽ về nhà ngày một ít dần, chỉ còn mỗi năm một lần, đúng ngày kỷ niệm cơn lốc mang tên Bội Bạc cuốn anh ta đi mất.

Ờ, thì chờ. Như thể chờ củi tàn, bớt lửa. Một mùa hè nữa. Gọi tìm nhau hỏi chị lúc này sao, chị giòn tan vui lắm em ơi hết sạch buồn rồi, mấy bữa trước mấy mẹ con dọn cái kho, thấy đôi dép của người ta, chị không còn cảm giác gì hết, đem bán ve chai.

Trời, tôi nghe mà tuyệt vọng quá, thì ra anh ta vẫn về nhà phá rối mẹ con chị bằng nhiều cách khác, bằng đôi dép, cái khăn, bậc thềm, cánh cỗng… Những thứ vô tình nên đã vô tình giữ lại hình ảnh anh trên sợi vải, cây đinh, thớ gỗ, viên gạch…

Chắc chị chỉ có cách bán nhà đi khỏi chỗ này, nhưng con đường, hàng cây, cái chợ, và thị trấn Ga buồn xo run rẩy mỗi khi có tàu qua, cả những đoàn tàu kia làm sao mà bán được ? Ngay khi chị yêu một người đàn ông khác, cũng không sao trốn khỏi những ý nghĩ bỗng dưng, chồng cũ của mình không có nhiều râu như người này, ông chồng cũ thẳng thớm lắm, không phong trần như người này, hồi xưa ông chồng kia cũng vậy, rất dịu dàng…
Cây dao lụt của anh chồng, thời gian đã làm mòn tận cán, nhưng hình ảnh anh trong ký ức tự nó cũng gây đau. Chị ơi cố chờ đến năm sau năm sau năm sau năm sau…
(bài đăng Sì Gòn tiếp thị nguyệt san)

Hẹn tới bạc đầu

Hẹn tới bạc đầu
Có lúc tôi thuộc lòng câu càm ràm đầu môi của má, “lúc già khổ lắm nghen…”. Quãng đó tôi mới sinh, còn ở cử, làm gì má cũng rầy, thò chân xuống giường má nói lúc già sẽ mỏi, liếc qua trang báo má cảnh cáo lúc già mắt mờ, nằm chán nhừ cả người nhưng mới ngồi dậy má cằn nhằn, lớn tuổi đau lưng cho mà coi…

Tôi giả bộ nghe lời má, nhưng nghĩ thầm, mình đâu có tính là sẽ sống tới… già, thật lòng. Mười năm trước tôi đã mơ tới viễn cảnh mình trở thành một bà già vui vẻ, quậy tưng với đám cháu. Năm năm trước, tôi thấy lo việc mình xấu sẵn, về già chắc xấu sâu sắc lắm, tốt nhất là đừng để ta già. Giờ thì tôi quên luôn chuyện mình sẽ già, quên là sẽ gặt những ngày từng gieo. Mất ý thức về một tương lai mà tôi sẽ có.

Bí quyết sống trường thọ. Bảy cách để tuổi già minh mẫn. Tuổi cao, sống chung cùng huyết áp. Những bài báo đại khái giống vậy, tôi bỏ qua, cảm thấy chúng không dành cho mình. Không lo việc chân lúc này đang bước có liên quan tới cái đầu gối bốn mươi năm sau. Hay miệng lúc này đang ăn liên quan tới răng bốn mươi năm nữa. Hay lúc này coi ti vi sẽ liên quan tới mắt bốn mươi năm sắp tới. Quy từng ấy năm ra ngày, thấy mù mịt gì đâu. Tôi hay nói vui với bạn bè, hẹn bạc đầu nghe đã sợ, thôi đừng có hẹn kiếp sau. Chẳng làm chi hết, chỉ nặng nề, ngơ ngác thêm thôi.

Cũng do nhiều lúc, hôm nay sống cho hôm nay còn chưa xong, lo chi xa ngái. Bữa nay vẫn còn nợ thằng con lời hứa đi công viên, nợ ba mấy bài thơ ông nhờ đánh máy giùm, đứa em họ nằm viện hai ngày rồi mà chưa đi thăm được, cuốn sách đang đọc dỡ, hoa sân sau sắp tàn mà tâm chưa yên để ngắm. Những việc đó chắc phải đến mai mới làm, nên nghĩ tới nhiều lắm là đến tối mai.

Trong một loạt ước mơ : trở thành… tỉ phú (dù chưa biết bằng cách nào), bỗng dưng xinh đẹp (vụ này còn mờ mịt hơn), lên đỉnh everest (còn gì tuyệt vọng bằng)… thì sống dai, sống thọ là thứ hy vọng không bao giờ tôi nghĩ tới. Tôi hơi cực đoan, nghĩ đời như chewing-gum, càng nhai lâu càng nhạt dần, nên tôi thích kết thúc như một viên kẹo, đầy dư vị ngọt ngào.

Nhưng sự rầy rà của má tôi đã nhắc một sự thật, có thể tôi sẽ già (với bao nhiêu là bệnh tật ho hen nếu hiện tại bây giờ cãi lời má), mùa xuân sẽ đến và đi ngoài ngõ, dù tôi có thích hay không. (Theo lời má) cái gì tôi làm hôm nay sẽ lãnh hậu quả lúc về già, nhân quả tại chỗ, khỏi chờ kiếp này kiếp nọ… Tôi phải đi cho hết cái đời xa thăm thẳm, dù nhiều khi sợ quá, phải giả bộ quên đi. Tôi sẽ trở thành bà già, chắc chắn. Vì má tôi nói vậy. Vì lúc này gặp mấy bà già thiệt ngộ.

Ví dụ như bà già này, trong truyện vui, có tên cướp kia xách súng lên cướp tàu điện ngầm, gã dọa không giao vàng vòng tiền bạc ra sẽ bị cưỡng hiếp không thương tiếc, một bà cụ móm mém cười khà khà, ậy, chú nói thì chú phải giữ lời nghen.

Ví dụ như bà già này, cũng trong truyện vui, có bà cụ một trăm hai mươi bốn tuổi tự dưng bị đau lưng, bà than với mấy đứa cháu chắt, nói “chắc cố sống hong thọ quá, bây ơi. Anh nhà báo kia lại phỏng vấn cụ, lúc ra về anh bịn rịn, “gặp cụ lần này không biết còn có lần sau…”. Bà cụ tỏ ra thương xót, “chú em còn trẻ, bị bệnh sao mà bi quan vậy ?”

Hay như bà già này, là chuyện thật, bà thím tôi chín mươi hai tuổi rồi, góa bụa bốn mươi năm, lúc này sáng sáng hay ngồi than, đêm qua có thằng cha nào đòi chun vô mùng tao, làm ngủ ngê không được gì hết. Những buổi chiều, bà rón rén đi xếp quần áo nhét chật cái túi vải, rồi thì thầm, “có người rủ tối nay trốn đi”, rồi ngồi bên cửa sổ đợi. Sáng hôm sau gặp bà đem hành lý cất vào tủ, hỏi bà sao còn ở đây, bà lại thầm thì, mấy đứa con còn nhỏ quá, bỏ đi tội tụi nó. Nghe vậy, đám con bà ngồi khóc, già mà còn khóc.
Lâu lắm, tôi mới lại tơ tưởng cái ngày mình trở thành bà già…
(Bài đăng Phụ nữ Sì Gòn - tửng từng tưng để giải tỏa bớt căng thẳng vụ báo này vô tình làm một vụ động trời : ca ngợi hải quân Việt mà minh họa bằng ảnh hải quân Tàu)

Biết sợ

Biết sợ biết
Biết
Truyện 1200 chữ by Tui

Quán cà phê “Đầu Xóm”, cái tên như cặm một cây thắc mắc, đầu xóm là đầu xóm nào, tại sao là đầu xóm mà lại nằm chặng giữa con hẻm gầy tong teo, ngoằn ngoèo giữa lòng thành phố? Sớm nay góc quán nơi ông già bán vé số ngồi nhâm nhi trà đá, như cái nhánh thắc mắc, ông đó uống trà đá mà sảng khoái, khoan thai thưởng thức từng ngụm, như sợ hết.

Sớm nay có thằng nhỏ ngồi tuyệt vọng ngó quanh, thấy mình đang khuyết đi, cảm giác chính nó đang bị ông già hớp từng ngụm từng ngụm một. Một ông già gầy gò lạ mặt với cái nón phớt nỉ đội trên đầu. Hai giờ trước, lúc mùi vị của sự xui xẻo chưa loang ra đến mức nắm trong tay được, thằng nhỏ cũng vui vẻ giống ông già. Hứng khởi, nó góp chuyện quanh mẩu tin trên báo:

- Tui có biết vụ đó, ông kia lấy mấy tỉ bỏ túi đi chơi, giữa chừng bị mất. Thấy ghê thiệt...

Ông già bật cười trước cái vẻ e hèm quan trọng của thằng nhỏ, đôi mắt hấp háy dưới vành nón cũ, hỏi:

- Ậy, chú em, sao xài chữ biết dễ dãi vậy? Chú em nói biết mà biết tới đâu? Có biết tụi trộm nó lấy ra làm sao, rồi cái ông mất buồn làm sao, tiền đó giờ cất chỗ nào không?

- Trời đất - thằng nhỏ nhổm một chân lên khỏi ghế, cái đầu gối xương xẩu đụng tới vành tai - Sao tui biết được, công an đang điều tra mà.

- Thì đó - ông già hớp một hớp trà, rủ rỉ - chú đừng có nói biết. Phải sợ chữ biết như sợ cây roi của bà già chú vậy.

Thằng nhỏ cụt hứng, hơi giận, mấy hột mụn mẩy lên trên gương mặt đỏ rần, nó mai mỉa:

- Bắt bẻ nhau từng chữ chi vậy ông ơi. Đây nè (dằn ly xuống bàn cái cộp), ly nước này không lẽ tôi nói là không biết, cà phê mà không biết, chết sướng hơn.

Ông già ngẩng lên, tựa hẳn vào lưng ghế, nét mặt bao dung, ôn tồn hỏi:

- Vậy chú có biết ly cà phê này có mấy phần là bột bắp, biết mùi cà phê này tự nhiên hay chỉ là hương liệu, cái đắng này tự nhiên từ những trái cà phê trồng trên rẫy hay do người ta bào chế ra?

Thằng nhỏ bỗng nghĩ giờ nó là con thỏ. Ông thợ săn đang chờ đó, ánh nhìn giễu cợt, a ha mày chạy đâu cho thoát tao. Nhưng nó là thỏ, nó phải vùng vẫy.

- Vậy ông biết cái bông đó không?

- Không biết - tưởng gì, con thỏ lại chạy vô bụi bông vạn thọ ở hiên nhà bên kia hẻm, ông thợ săn hơi mỉm cười - thấy quen thôi, thứ bông vạn thọ này hồi má tôi còn sống, tết nào bà cũng gieo vàng cả một vạt sân, đẹp vô phương. Nhưng tới lúc già như vầy tôi chưa biết nó có bao nhiêu cánh, bao nhiêu nhụy, nở trong bao lâu thì rã...

Thằng nhỏ tiu nghỉu nuốt nước miếng thở dài, bữa nay mất hứng gì đâu. Sáng mới chải đầu xong thì má nó càm ràm, riết rồi muốn gặp mặt con phải thức thiệt khuya, dậy thiệt sớm, nuôi con lớn bằng này, con đi nhận thiên hạ bằng má... Má thằng nhỏ đang giận, hôm qua bà nhìn thấy con trai rứt ruột, con trai thương yêu của bà hì hụi rửa chén giùm con bồ nó, trong căn nhà cách đây chừng trăm bước. Bà cảm giác mất con rồi, mất từng ngày, khi nó chở bồ đi chợ, nó vô bếp nhà người ta phụ nấu nướng, nó nằm dài nhà người ta coi phim trong khi phim ở nhà cũng giống hệt. Có bữa gánh trái cây ế về ngang, thấy thằng con múc nước cho con nhỏ gội đầu, bà muốn quăng gánh bên đường cho rồi.

Thằng nhỏ đâu biết, nó tưởng má nó lớn tuổi nên đổi tánh khó khăn, nên bà vừa định há miệng rầy rà là nó bỏ đi. Bữa nay không chạy khỏi vì chiếc xe đạp bị tuột sên, chắc nhỏ em phá “để anh Ba khỏi đi chở gái”. Nuốt giận ra tới quán cà phê, vừa mới vui, vị đắng mơn man trên môi, trôi chưa khỏi cổ họng thì gặp ông - già - không - biết này, đúng là rủi quá. Thằng nhỏ than thầm.

Nhưng bây giờ mà nín thinh luôn thì mất mặt với mấy người quen đang ngồi quán sáng nay đang thích thú theo dõi cuộc tranh cãi, nhất là có anh rể của con bồ đang tủm tỉm cười ngồi cạnh nó đây. Giữa cuộc giằng co vậy mà con em còn chạy lại kêu “chút nữa anh Ba về sửa cái máng cho má hứng nước mưa uống, khỏi tốn tiền đổi”. Thằng nhỏ gạt ngang “từ từ tao về”. Vài phút sau đó con bồ nó trên đường đi làm móng tay ghé lại dặn “chút nữa anh lại đóng giùm em mấy cây đinh máng khăn, hén”.

Thằng nhỏ cố cười tươi gật gật đầu, nói để đó cho anh, nhưng bụng tính cách phản pháo ông già, mót chút vinh quang khi rời quán. Bằng bất cứ gì trong tầm mắt nó, từ gói thuốc lá, chai nước ngọt đến đôi dép mòn lẹm gót, cái nón nỉ bạc màu của ông già. Ông vẫn khăng khăng nói không biết, nhìn thấy hay nếm được hay cầm trong tay, ôm vào lòng, chưa chắc biết. Chữ của ông già là “thấy quen”, “nó gọi là”. Vờn nhau chán chê ông với tay hái trên trời xuống một câu choáng váng:

- Chú em vẫn không chịu sợ chữ “biết” hả? Vậy má chú đó, chú biết không? Biết bà nghĩ gì không? Vui hay buồn, thảnh thơi hay rối bời? Bà có đang thương nhớ ông nào?

Mất sạch kiên nhẫn, thằng nhỏ rít lên:

- Chớ ông không biết con mình?

- Không - ông già rút một ngàn đồng dằn dưới đáy ly trà đá cạn queo - tôi quen tụi nó.

Ngón tay trỏ quèo nón sụp che lại ánh mắt nhìn xuống tối rười rượi, ông già nắm chặt xấp vé số trong bàn tay xương xẩu, đứng dậy đi. Ai đó hình như từng hỏi han ông già, ngậm ngùi nhìn theo, ông đó nói phải à mầy, nuôi con biết đâu được cái ngày nó hắt mình ra đường chan dầm mưa nắng.

Ừa ai biết được... Bảy mươi ba buổi sáng sau, nơi quán cũ, thằng nhỏ tiu nghỉu ngó con bồ nó ăn mặc mong manh ôm sát thằng con trai khác lượn chiếc SH ngang qua, ai đó cà rỡn “biết nhỏ đó không mậy?”.
Thằng nhỏ gầm gừ trong cổ họng: “Không biết, thấy cái rún quen quen...”.
(Bài đăng Tuổi Trẻ Sì Gòn)

Coi phin Trung Quốc !

Coi phin Trung Quốc !
Ngồi buồn coi phim con nít…


Mỗi năm đến hè là thằng con rủ coi Tây Du Ký.

Hồi nào giờ chưa thấy bộ phim nào mà nhân vật chính xấu xí, lông lá, quái dị, không yêu đương, hẹn hò, không xxx nóng bỏng nhưng lại sống dai như phim Tây Du Ký. Cũng chưa thấy phim nào chiếu miệt mài, trở thành phim “đinh” của mấy đài truyền hình mỗi khi hè lại.

Tụi nhỏ coi hoài không chán. Mình cũng coi hoài không chán. Hồi nhỏ, mê mấy phép thần thông biến hóa nhí nhố của anh chàng khỉ khọt. Chừng mười sáu tuổi mê phim vì ông Đường Tam Tạng đẹp trai (dù không có tóc) và hồ nghi mấy cảnh biến hóa sao hơi… giả. Bây giờ thì biết là nó giả quá chừng, những trò đi mây về gió biến người thành rắn, nhện, biến cây gậy dài nhằng thành chiếc kim giắt lổ tai…

Bây giờ mê Tây Du Ký vì thấy nó… buồn. Yêu quái ít xuất thân từ… yêu quái, mà toàn là con ông cháu cha, vật cưng, thú cưng của mấy ông “ở trển”. Mấy ông này ngộ, nghe méc rồi mà có ông mặt tỉnh bơ, ủa, cái con ấy (hay vật ấy) tui mới thấy đây mà, có ông còn nhào vô đánh khổ chủ vì cho rằng mình bị vu khống. Mấy ông trời (ông, cha) đi bắt mấy ông trời (con) cũng hết sức nhẹ nhàng, thư thái, lại khều khều, “Mi thật là quá lắm nghen…”. Chẳng may chàng khỉ quạu quọ, cằn nhằn, làm mình làm mẩy quá, thì mấy ông trời (cha) cũng đằng hắng rầy lấy lệ, yêu nghiệt, ai cho xuống đây quậy hả ? Mau, theo ta về (Câu này còn có nghĩa, trời ơi, còn chần chừ ở đây hoài con khỉ đó nện cho chết tươi bây giờ).

Và “lực lượng đặc nhiệm phòng chống tội phạm” cùng tội phạm trìu mến ngó nhau, rất chậm rãi, ung dung cưỡi mây về. Khung cảnh cực kỳ thơ mộng, bóng người khuất dần sau làn khói trắng.

Như chưa từng có những bãi xương khô…

Như chưa hề có những oan hồn…

Như chưa bao giờ đau đớn phận con người.

Và cái đoàn người đi thỉnh kinh, đoàn người cô đơn, đoàn người đau khổ ấy, có kẻ suýt chết ấy lại hồ hởi lên đường, để tiếp tục bị những thế lực đen tối có xuất thân cao quý dập vùi, hãm hại. Đi cho đủ kiếp nạn, cho thấu hết khổ này đến khổ khác.

Có lúc ngồi nghĩ, phải mình làm phim này, mình cho mấy anh trong phái đoàn thỉnh kinh diễn thêm chút xíu ở cái đoạn trời (con) được trời (ông, cha) rủ đi… nhậu (ai biết được điều gì xảy ra trên… trời ?), mình sẽ đặc tả vẻ ngẩn ngơ, chua xót tràn ngập trên mặt, tối sầm trong mắt họ, mình thuê chiếc trực thăng bay lên cao để quay đám người cô đơn đó, cô đơn tận cùng, cô đơn đến tuyệt vọng. Lọt thỏm giữa đất trời, nhỏ bé như giun như kiến dưới cái nhìn giễu cợt của người trời. Và anh hùng của mình, chàng khỉ ngang tàng hoang dã của mình, Tôn Ngộ Không tài năng, dũng cảm, thông minh, trung hậu nhưng chiến đấu một cách tuyệt vọng với những bức tường chắn vô hình. Bọn xấu chỉ cần phủ phục liếm tay chủ, là ung dung ở cõi trời. Nhàm chán, buồn tình, lâu lâu xuống trần hại người chơi, rồi về, làm gì được nhau ?

Coi hè này, bỗng nghĩ hè tới Tây Du Ký đến hẹn lại lên. Hè tới, mình thêm một tuổi, ngồi xem phim với con, không biết bật ra được nỗi người nào nữa ?

(Bài đăng Phụ nữ Sì Gòn)

Ai đi ngoài sương gió

Ai đi ngoài sương gió
Anh báo trẻ nói cuối tháng sẽ trả nhà, sẽ không tiếp tục bám mảng thời sự của mảnh đất nhiều… thời sự này nữa. Hỏi sẽ đi đâu, cậu nhỏ ngó ra ngoài trời, cười nhẹ, “em lang thang Bạc Liêu, Sóc Trăng, qua miệt Hậu Giang hay Kiên Giang chưa biết chừng…”
Cũng phải, anh trẻ này cực kỳ “ngọt” với thể loại phóng sự, ký sự mà muốn săn được nhiều phóng sự thì chịu khó đi. Cũng phải, anh trẻ vẫn chưa vướng bận vợ con gì, tha hồ mà lang bạt kỳ hồ. Cũng phải, đã đến lúc cởi bỏ cái áp lực quay cuồng với những tin tức nóng cho đủ… chỉ tiêu. Cũng phải, đất này chật quá, anh viết trong cơn tranh đấu không ngừng, giữa sự thật và những cái vỗ vai thân ái của chú Ba, chú Bảy…Bạn bè viện dẫn vài ba cái lý do để gật gù, để che giấu sự lo lắng trong lòng. Tự hỏi, đó là cái chông chênh tự nhiên của một người khi hay bạn mình sắp đi xa, sau này muốn ngồi cafe với nhau cũng khó, dù lắm lúc gặp chỉ hỏi một câu, “lúc này có gì mới ?”, sau đó thì ai nấy gục đầu vô mấy tờ báo. Hay do bản năng phụ nữ, bỗng dưng cậu nhỏ gọi mình chị ơi chị à giờ lại khăn gói đi xa, mà dáng vẻ nó vốn gầy gò, khắc khổ như trái mướp khô.
Hay sự bất an này có nguyên nhân từ những chuyện anh báo trẻ vừa trải qua. Tháng trước anh bị một anh công an khu vực khóa tay trong khi đang chụp ảnh mấy căn nhà đang cháy. Vài ngày trước đó anh cũng có mặt trong vụ một sỹ quan quân đội đập phá máy ảnh và đánh nhà báo. Và những lời hăm dọa, mua chuộc qua tin nhắn, qua điện thoại mà anh đã nhận trong suốt hành trình làm báo của mình. Nên từ lâu đã thấy sương gió vờn quanh chỗ anh trẻ đứng, ngồi. Nghề báo bắt đầu lộ rõ sự bất trắc, khi thi thoảng lại gặp những mẫu tin người báo bị đánh đập, hành hung, rồi thì lao lý… Cái nghề ai cũng nghĩ là sang, là oai bỗng dưng cũng nhiều rủi ro, gần giống như anh thợ hồ bị sập giàn giáo, như anh thợ mỏ bị sập hầm lò, như khu chợ của những chị bán vải bị cháy….
Những tin tức bất an đôi lúc khiến người báo tỉnh nhỏ như lạc đi, chẳng biết đi đâu, làm gì, viết gì, mình là ai,?! Nhưng tới đây, cậu nhỏ mới gió sương thật sự, đương đầu với bất trắc thật sự. Những bất trắc không cần cơn cớ, có thể một anh dân phòng say quá nên nện cho anh báo trẻ này mấy dùi vì cái tội… nhìn mặt thấy ghét. Có thể anh bị cho ngủ với bầy muỗi đói một đêm vì la cà trong vụ khiếu kiện đông người. Anh cũng có thể bị hoạnh họe cả ngày bởi một anh công an xã nông nổi. Thí dụ vậy, và anh không thể dùng lý lẽ để bảo vệ mình, bởi ngay từ đầu luật đã bị lệ vô hiệu hóa. Anh sẽ rút thẻ nghề ra, như dùng đến con dao hai lưỡi, những người này không yêu anh, trước giờ họ cười với anh vì họ sợ. Bây giờ thì họ không sợ nữa.
Giữa những tai nạn đó, cậu nhỏ không có bạn bè ở bên, để nhận vài câu hỏi han, khích lệ tay đã bớt đau chưa, sao lúc này ốm vậy, kiếm gì đó viết đi, viết cho người nghèo đỡ bị quên… Nhưng cậu nhỏ chọn rồi, dấn thân. Quen sương gió dưới mái nhà nên ngại gì sương gió đường xa, cậu ta chặc lưỡi, phẩy tay ra chiều khinh bạc, một nỗ lực ngượng ngập những mong xóa tan sự lo lắng của bạn bè. Buổi sáng giữa tháng mười ấy, có xe bán bong bóng đi qua, nó phát một bài nhạc ngớ ngẩn, “Anh chỉ biết câm nín nghe tiếng em khóc”. Bài hát này nói giùm lòng ai vậy trời ?!
(bài đăng TBKTSG)

Bé lên ba…

Bé lên ba…
Chuyện cục kẹo
Có người kể tôi nghe câu chuyện cũ này, hỏi ý tôi sao.
Chuyện rằng, có bé lên ba bé… không đi mẫu giáo như lời hát trẻ con hay hát.
Em đi chợ chơi với mẹ. Đó là một ngày chiến tranh vẫn mỏi mòn chơi trò chơi bom đạn, cùng đi chuyến đó còn có bốn người đồng đội khác của mẹ em. Thì lâu lâu cũng đi chợ một lần, chuyện đó bình thường với những biệt động quân, buổi chợ này cũng bình thường, chỉ là tấn công... Ty cảnh sát thị xã Cà Mau.
Để bảo đảm bí mật, bất ngờ, để kịch bản áp sát hoàn hảo, tiếp cận mục tiêu an toàn, mẹ đưa em theo. Một bà mẹ nghèo, lam lũ ẳm đứa con gái nhỏ, gầy gò, nhà quê ngơ ngác giữa xa hoa. Bâng quơ đi đằng sau là một người con gái 21 tuổi xách cái giỏ cũ kỹ đựng khối mìn nặng gần 10kg, nhập nhòa trong đám đông đằng xa nữa là một tổ khác gồm hai người, họ sẽ chi viện khi có tín hiệu. Nhưng những người đi sau chưa qua khỏi khúc đường thì tiếng nổ đã làm rung chuyển thị xã Cà Mau, lẫn trong những thi thể kẻ thù, có mẹ, đồng đội của mẹ và em. Kế hoạch rời đi đã gặp trục trặc vì những sơ suất nhỏ, và họ chọn cho mình sự hy sinh.
Người đồng đội đó, được phong tặng danh hiệu anh hùng, mẹ em được công nhận liệt sĩ, được truy tặng huân chương chiến công hạng Nhì. Bé bị quên lãng trong nấm mồ chung, mang tên mẹ.
Nhưng không có sự lãng quên nào là mãi mãi, một ngày đẹp trời, người ta nhớ tới em. Người ta tự hỏi tại sao không công nhận em là liệt sỹ, người ta này hỏi người ta khác, tại sao và tại sao ?
Rốt cuộc người ta cãi nhau, vài người bảo em vẫn còn nhỏ quá, em không ý thức, em đã đủ mười tám tuổi đâu, có lý tưởng gì đâu. Em có phân biệt được kẻ thù đâu mà đánh giặc, may lắm, thì em chỉ biết chạy trốn xuống hầm mỗi khi có máy bay. Em chết, chỉ vì em phải theo mẹ, trẻ con thì theo mẹ chứ theo ai ? Buổi sáng hôm đó, em đâu có nghĩ mình đi chiến đấu, mà Tổ quốc là gì, độc lập tự do là gì với đứa trẻ lên ba ? Em chỉ biết má với mình đi chợ, vì lúc thay đồ mới cho em má nói, mình đi chợ chơi nghen, út cưng của má.
Nhưng một số người không chịu, với họ, em là một sinh mạng, chúng ta mang một sinh mạng vào trận đánh chứ không mang theo con búp bê, thú nhồi bông, hay con chó con. Không có bé, tổ công tác đó chưa chắc tiếp cận sâu vào hang ổ kẻ thù, chiến công đó chưa chắc lẫy lừng như vậy. Nếu chúng ta chỉ xem em như là nạn nhân chiến tranh như bao đứa trẻ khác, liệu có thỏa đáng không khi em cùng mẹ đi vào trận đánh có kế hoạch tác chiến hẳn hoi.
Cuộc tranh cãi không kết thúc được vì những cái lý của những người ta. Tôi nghe xong, nuốt nước mắt vào lòng, trợn trạo cà rỡn, nói sao không kiếm nhà ngoại cảm nào thiệt giỏi tìm gặp linh hồn bé, hỏi coi bé thích gì. Tí ơi Nị ơi, Mén ơi Đẹt ơi, con thích gì ? thích là liệt sỹ hay chỉ thích làm nắm tro bụi tan rồi, phiêu lãng trong lòng đất ?
Nhưng linh hồn nhỏ trả lời trớt quớt, kon hít ăn chẹo dùa .
Tạm dịch, con thích ăn kẹo dừa. Bé không trách móc, oán giận, không kể công, đòi hỏi, không kêu lên lỗi tại ai, như người lớn. Chuyện nhỏ teo như… cục kẹo mà người lớn cứ cãi nhau. Thương làm sao những tâm hồn người lớn đã từ lâu tuyệt chủng ngọt ngào.
Cho nên đôi lúc trước trẻ con, có tôi - người - lớn cúi đầu. Lần này thì tôi cúi đầu rất thấp.
(bài đăng sgtt)

Không dấu vết

Không dấu vết
Những buổi sáng ngồi cà phê ở quán quen, đôi khi tôi hay bị mất cảm giác về thời gian. Như thể mình đang ngồi trong ngày hôm qua, hôm kia.

Quán vẫn cũ, những bức vách đã tróc lở vôi, và rêu bắt đầu ửng lên một màu xanh, như bộ râu quai nón của một chàng trai vừa cạo qua ngày. Người vẫn cũ, từ cô bé phục vụ tóc nâu đang hỏi anh ơi uống gì nhưng cô có vẻ chẳng chờ đợi câu trả lời vì đã thuộc lòng sở thích của từng người. Anh bán bán dạo cũng không cần hỏi, cũng biết người nào đọc báo gì và dúi đúng tờ báo vào tay. Chị bán vé số lượn lờ chờ một cái gật đầu. Bà cụ bán bánh phồng nếp đứng nấn ná vô vọng đợi niềm thương nhớ tuổi thơ, thương nhớ quê mùa của một ai trong đám đông này.

Và mấy anh quen quen ngồi kia là công chức làm việc trong những cơ quan đặt trên con đường này, tôi biết tên từng người, biết cả chuyên môn gì, chức vụ gì, dù chưa lần nào chào nhau. Quán nhỏ, nhìn mặt riết rồi quen, không muốn biết cũng biết, không muốn nghe lóm cũng buộc phải nghe. Nhưng sáng nào câu chuyện tình cờ nghe được từ mấy anh cũng xoay quanh chuyện… nhậu bữa qua. Nó ít nhiều xua tan cái không khí đờ đẫn lười nhác trên dáng họ, nhưng dự báo một sự trống rỗng kỳ dị. Họ hỏi nhau tối qua nhậu ở đâu, với ai, mấy giờ về. Đề tài rộng hơn là món ăn tối qua, loại rượu (hoặc bia) tối qua, chuyện phiếm tối qua, cả… vui buồn của những bà vợ tối qua, và cảm giác cơ thể sáng nay khi đã qua giấc say mèm…

Ngồi một mình chờ bạn tới, tôi hay ước phải chi mấy anh đó nói chuyện về một cuốn sách hay, một bài báo hay vừa đọc, một tin nóng vừa phát trên ti vi…để tôi kéo ghế qua ngồi hóng hớt, góp chuyện cho đỡ buồn. Tiếc là cuộc gặp tưởng chừng giản dị đó chưa từng xảy ra. Những trang báo lật nhanh trong tiếng muỗng chạm đáy ly leng keng, nhưng vẻ mặt họ không chút gì quan tâm phiên chất vấn ở quốc hội sáng nay, chiếc máy bay mất tích, trái đất đang nóng dần lên, băng sẽ tan, châu thổ này sắp ngập trong nước biển… Cũng chưa bao giờ tôi nhìn thấy họ cầm cuốn sách trên tay, có thể họ đọc sách ở nhà, hay trong văn phòng, nhưng sáng nay gặp bạn bè thì họ chỉ khoe, hôm qua đánh trận ở Phượng Vĩ, say quá trời, gọi cho ông mà không được. À, trưa qua có thằng bạn dưới huyện lên xách theo mấy con rắn nước, quần nhau tơi bời, ngủ luôn. Câu chuyện cứ cuốn theo vậy vậy vậy vậy. Và tôi buồn mình ên.

Quá nhiều bạn bè, quá nhiều người quen của tôi đã gởi một phần đời vào những tiệc tùng gọi mời giăng giăng trong thành phố. Nhưng chiếu rượu, quán rượu hoặc quá hời hợt hoặc quá bận bịu, nên đã để đời họ trôi đi, không tăm tích.

Những khi ngó tờ lịch chói chang ngày mới, tôi thường tự hỏi, ngày này năm trước, mình ở đâu, làm gì ? Bằng cách đó tôi biết đoạn đời đã qua mình sống như thế nào. Nhưng một năm ròng rãi, dồn đếm lại thì chỉ vài ba ngày là nỗi nhớ còn níu lại được. Ừa, ngày này năm trước mình ở Trường Sơn, ruột réo sôi ngồi ngắm bướm bay, ước bướm là… gà để chụp một con đốt lửa nướng ăn cho bớt đói. Ngày này năm trước mình đọc trang cuối cùng của cuốn Suối Nguồn của Ayn Rand. Ngày này năm trước, người bạn viết già đã nói mình nghe bài học về sự kính trọng chữ nghĩa. Ngày này năm trước, mình trồng cây bằng lăng trước sân nhà… Hàng trăm ngày còn lại, tôi đã không có câu trả lời, bởi nó đã tẻ nhạt trôi đi cùng những công việc nhàm chán, những quán xá những la cà…

Nên những khi ngồi quán, tôi nhìn quanh và nghĩ, ngày này năm trước, những người kia làm gì, ở đâu. Từ những chuyện vãn rời rạc vẳng lại, không hiểu sao tôi nghĩ họ có rất ít câu trả lời…
Đành đổ lỗi cho cái không khí buồn tẻ của tỉnh lẻ, cái nhàm chán của đời công chức, cái vồn vã quyến rũ của những quán rượu… đã làm vụn đi, làm phai lạt những người ta.
@ThaiKhanh : (bài đăng Sgtt)

Phía những người yêu

Phía những người yêu (trọn)
Hù dọa mấy em sắp làm cha làm mẹ, chia sẻ với những bạn đã làm cha mẹ...
Ngay lúc này đây, cái ngăn tủ tôi dành cho em gái đã đầy. Cái chỗ riêng này tôi xếp những những chiếc đầm bầu tôi đã mặc vài ba lần, những tã lót, áo nón… con tôi từng dùng qua, còn như mới. Bắt đầu từ khi em báo tin sắp làm mẹ, lần đầu. Tôi mua cho em cái đĩa người ta dạy chăm sóc trẻ sơ sinh, một cuốn sách viết về những bệnh con nít hay mắc phải. Gần như đã đầy đủ cho cuộc vượt cạn vào cuối năm.

Sinh con đầu lòng, em ngơ ngác không biết phải chuẩn bị gì. Tôi cười bảo, chỉ thiếu trái tim bà mẹ nữa, nhưng không sao, em sẽ có nó khi bụng bắt đầu tròn sau áo. Đó không chỉ là một trái tim mạnh mẽ mà còn phải thật dẻo dai, để giữ sống trong những giây phút dằng dặc nhất, những nhịp đập bàng hoàng nhất, những khi đau nhói nhất. Làm mẹ, mà là mẹ Việt, em sẽ phải run rẩy nhiều khi…

Ngay những ngày đầu tiên, lúc mang con đi chích (tiêm) ngừa, những nhịp tim run rẩy sẽ bắt đầu vì em nghĩ tới những tai biến quanh chuyện này mà mà báo chí cứ một hai ngày lại phản ánh. Những liều vacxin lẽ ra sẽ bảo vệ con em, nhưng lại làm hại đứa trẻ, không biết chừng. Và em sẽ luôn luôn sợ hãi lo âu bởi những lý do cũng gần giống vậy.

Con bệnh, đưa con tới bác sỹ, nhưng em không biết bác sỹ có vì nóng vội mà cho kháng sinh quá liều, có vì mệt mỏi mà bỏ qua dấu hiệu bệnh, để rồi bệnh A chữa B, có vì thu nhập mà tiếc nuối để bệnh kéo dài, để buổi mai bệnh nhân còn quay lại.

Con đi nhà trẻ, em trao con tận tay cô giáo, tay cô mềm lắm, và cô cũng xinh đẹp nữa, nhưng em chỉ biết đến đó, em không biết khi mình ra về cô giáo có tốt với con không ? Cô ấy có yêu con, dạy con múa hát, dịu dàng giúp con ăn hay sẽ cấu nhéo, dọa dẫm, dùng băng keo dán miệng, hay lơ đãng để con chơi với nước, một mình.

Con lên tiểu học, tiễn con tận cửa lớp, em không thể đứng đó mãi, khi quay lưng lại, em chẳng thể nào biết được thầy giáo có dùng thước đánh con, có bắt quỳ xó lớp nửa ngày, đứng giữa sân trường giữa chang chói nắng, và để trả giá cho tính nghịch ngợm, con phải hít đất vài mươi cái, hay bị xách tai ? Thầy sẽ đối xử với con trong công bằng hay yêu hơn những bạn có học thêm ở nhà riêng của thầy, sẽ giúp con ngồi thẳng hay bỏ mặc con lưng cong, mặc cho con đeo kính…

Và những bài học con nhận được ở trường, có khai sáng tâm hồn con, giúp con hiểu biết và mê say khám phá cuộc sống hay mệt mỏi, sợ sệt, chán chường. Em sẽ tự hỏi điều đó khi nhìn thấy những bài học con học, cái cặp sách nặng nề mà con mang, vẻ nhàu nhĩ mụ mị mỗi khi con tan trường về. Trái tim em run lên vì nghi ngại, không biết tại sao nơi mà em tin tưởng gởi gắm sẽ dạy con nên người, lại làm con mệt mỏi đến nhường này.

Giữa muôn trùng vây bủa, chực kéo con ra khỏi vòng tay em, có những hiểm họa em sẽ đề phòng được. Xe cộ trên đường. Những cái bẫy của Internet. Sông nước ao hồ. Cả khi thời tiết bất an, như những cơn mưa đầu mùa, nếu em bọc con đủ ấm, sẽ giúp nó khỏi bị cảm lạnh. Nhưng hiểm họa đôi khi tới từ những người, những chốn mà em tin rằng sẽ cùng với em yêu thương và bảo vệ đứa trẻ ngây thơ trong veo này, lại làm nó tổn thương. “Ta không đề phòng từ phía những người yêu. Cây ngã về nơi không có vết rìu…”, hai câu thơ này, chẳng phải một hôm nào chúng ta cùng tấm tắc khen ông Hữu Thỉnh viết hay, hay mà buồn, hay vì buồn. Em đã từng nhớ mỗi khi gặp phải lừa dối, phản trắc nhưng em chắc không tưởng tượng được những câu thơ chua xót đó sẽ ám ảnh theo khi em làm mẹ, khi cố bảo bọc và che chở cho những đứa con non nớt.

Bà ngoại chúng ta làm mẹ rất giản dị, bà chỉ sợ bom rơi đạn lạc, sợ chiến tranh, sợ những căn bệnh ban đen ban đỏ, sài đẹn cướp mất con của bà.

Mẹ chúng ta làm mẹ cũng giản dị, chỉ sợ con không đủ no vào những năm cả nước Việt xanh xao bo bo nấu cùng với gạo, con sẽ không đủ sức chống chọi với những cơn sốt xuất huyết, sốt thương hàn…

Tôi, em làm mẹ thì sợ muôn ngàn nỗi. Sợ cả hộp sữa bột thơm tho biết đâu lại chứa những chất độc mang bộ mặt thơm tho. Hiểm họa không chỉ đến từ trước mặt. Sẽ có nhiều lần trong đời, em ước ao lại được gói con vào lòng, mang con theo trên mọi ngả đường, mọi sớm chiều, bởi con vừa ra khỏi tầm mắt mẹ, là bất trắc lẽo đẻo theo.

Nên em, trót làm phụ nữ Việt, sẽ trở thành anh hùng ngay khi đứa con cất tiếng khóc chào đời. Gặp nhau ngay lúc xa nhau, sum họp đúng lúc chia lìa, trái tim mẹ bắt đầu ngơ ngác ngổn ngang, ngơ ngác …

(bài đăng sgtt)

Trái tim hư hao...

tào lao về trái tim hư hao...

Trên mâm cơm của đám em, anh Hai xuất hiện còn thường xuyên hơn là món trái cây tráng miệng. Công chức nghèo, trái cây đắt đỏ bữa có bữa không, nhưng anh luôn có chuyện để nhắc nhớ, và chân dung đó thường đi kèm một mệnh đề, tuy nghèo mà… Thí dụ như tuy nghèo mà rộng rãi khi anh gom sạch tiền cho bạn bè mượn. Tuy nghèo mà sang khi anh cho thằng con trai đi du học bên malaysia. Tuy nghèo mà đào hoa khi trong hoàn cảnh gà trống nuôi con lại được bạn gái vây quanh ríu rít.

Lúc này, đứa em xa nhà mới hay thêm một mệnh đề nghiệt ngã, tuy nghèo mà đau tim. Có thể trái tim đã cảnh báo nhiều lần chuyện nó không được khỏe, nhưng anh tưởng tim loạn nhịp vì cô áo hồng áo tía, tim co thắt vì thư con gởi về nhắc món tiền có quá nhiều con số, tưởng khó thở vì khói bụi, tưởng lồng ngực đau vì vợ cũ lấy chồng... Giờ bác sỹ tường thuật chính xác lời trái tim muốn nói, nó hư hao đôi ba chỗ. Mổ sẽ hết, nếu không hết thì thay tim luôn, dễ ợt. Nhưng có thể trong khoảng thời gian chờ kiếm đủ tiền và cả tim (nếu cần), thì trái tim đau mệt quá, nghỉ chơi. Và mấy đứa nó sẽ mất anh, mãi mãi đôi chân ra đi đôi giày ở lại.

Không dễ dàng chấp nhận được điều đó. Mấy anh em sống rất tình cảm, dù anh từng là “sát thủ của những thần tượng” khi dọn dẹp sạch thần tượng của một đứa vốn hâm mộ những chính khách nổi tiếng, nhưng anh nói ông V, ông P… đó ham hố quyền lực, độc tài… với lập luận sắc bén không tin không được. Đứa em áo nảo làm đám tang cho thần tượng của mình như đã từng tống tiễn những thần tượng ca sỹ, diễn viên… năm xưa. Anh còn đứa em khác, ai oán gọi anh là “sát thủ hoa hồng”, bởi mỗi cô bạn gái nó gặp anh xong, thì ba ngày sau đòi chia tay “vì thấy anh thua anh Hai xa”

Nhưng giờ anh có là sát thủ gì cũng không quan trọng, với trái tim đau. Và bữa nhậu chiều nay, tin nhắn chiều nay, giọng nói của anh chiều nay, bóng anh qua cửa chiều nay có thể mai ta không còn thấy lại, nghĩ vậy, nên có đứa bật khóc, nước mắt chảy ròng. Riêng đứa đi xa lại choáng váng bởi nó không nhớ gì ở lần gặp anh gần nhất, non một năm trước. Nó không nhớ hôm đó hai anh em nói chuyện gì, tóc của anh hay vẻ mặt anh ra sao, không nhớ áo anh màu gì… Không phải vì trí nhớ nó tồi mà vì nó nghĩ đó chỉ là một cuộc gặp nhỏ trong hàng ngàn cuộc gặp, không quan trọng gì cả, mai mốt nó về lại la cà quán xá với anh. Cả hai đều còn trẻ, lo chi mà lo.

Nhưng ngày mai, có thể là tối nay, trong trận bóng đá giữa đêm, trái tim bị phì đại, hay ứ huyết gì đó đình công mà thành, đứa em xa gần như không còn gì của anh hết. Những đứa đang ở gần anh mà còn hoang mang trước dự cảm mất mát này.

Thấy em ỉu xìu, mếu máo, anh tỉnh bơ nói, tôi về dưới trước rảo một vòng coi quán xá chỗ nào ngon, mai mốt mấy em vừa xuống tới là mình kéo nhau đi tiệc tùng liền. Một đứa phát hiện ra anh mang giấy tờ tùy thân kè kè trong túi, anh cười, đem theo lỡ về bất ngờ có giấy tờ qua hải quan, bên đó biết đâu thủ tục hành chánh còn dữ dội hơn bên này.

Anh xài chữ “về” nhẹ nhỏm như về nhà, về quê. Tim thì cũng đau rồi, đời người cũng bấp bênh rồi, giờ quan trọng là tiêu hóa sự thật đó. Mấy đứa em bắc chước theo anh, tụi nó đem trái tim nhăn nhó của anh ra đùa. Có đứa ra kèo, tuần nào, ngày nào thì tim ngừng đập. Có đứa nói anh ơi anh, em là quen cháu vợ một ông làm quản trang, anh cần ngang mấy mét dài mấy mét em lo cho. Có đứa hỏi anh ơi di chúc nhớ nhắc tên em nghen. Có đứa thấy tin nhắn của anh, nó hỏi lại, ở dưới vẫn cho nhắn tin hả anh, vẫn dùng được số cũ hả anh ?

Đôi lúc thấy vụ đùa cợt này vô duyên quá, mấy đứa áy náy nói, “xin lỗi anh, giỡn như vầy nếu mà anh có mệnh hệ nào, tụi em sẽ ân hận lắm”. Hóa ra lời xin lỗi này lại dẫn đầu danh sách những câu nói vô duyên. Hóa ra không cần nói gì thì anh cũng biết tâm trạng tụi nó, tếu táo chơi để nuốt ngược nỗi cay đắng vào lòng, để anh thấy tụi nó cũng lạc quan, nên mới ngạo nghễ trên cái chết.

Chỉ ánh mắt của đám em nói rằng, tụi nó sợ. Chết vì đau tim thì cũng giống như thụp xuống cột dây giày, hay gục đầu trên bàn vì say… Lúc nào cũng cảm giác đang tiễn nhau đi. Bữa nhậu này có thể là bữa nhậu chia tay. Cú quàng vai này có thể là lần cuối. Tin nhắn này có thể là tin nhắn cuối.

Nói thì hơi vô duyên, nhưng đôi lúc trái tim cũng nên đau, để người ta trân trọng nhau, từng giây từng giây từng giây phút một.

(Bài đăng Kotex Sì Gòn)

Người đi ngang cửa

Người đi ngang cửa
Cương quyết viết một cái gì đó vui thiệt vui, chớ bạn bè ghé thăm than nhà này giống cái chùa quá rồi, buồn chi mà buồn dữ vậy trời ? Đây, cái này vui nè... (thấy màu tím là biết rồi, hén)

Một vài buổi sáng khi mở tầng tầng lớp lớp những ổ khóa cửa, tôi tính đâu đêm qua nhà tôi đã trôi ra khỏi thành phố rồi.

Lúc đó ngoài đường có vài người đàn ông quần cụt đóng phèn, quảy túi câu thả đi qua, tay xách đòng đưa giỏ cá, ôm thêm mấy cái lờ, lọp. Cả người họ ướt, tóc ướt chảy xuống gương mặt ướt. Họ đi lủi thủi về phía cuối đường, nơi có một đám lau sậy chắn ngang, họ vạch mớ cỏ cây hoang dã đó ra, chui vào và mất hút.

Cũng có khi thấy vài người phụ nữ bước ra từ bức rèm lau lách, đội thúng rau đi ngang nhà. Nước từ những mớ rau cải chảy tong tong. Có mấy đứa nhỏ lắc xắc chạy theo, da đen và tóc cháy, người cũng ướt đẫm vì va quệt phải sương sớm còn đẫm ướt.

Tôi nhớ cái xóm ngoại ô của mình, những buổi sớm, ngoài đường cũng có những người đi giống hệt như vầy. Chỉ khác là khung cảnh xung quanh chúng tôi là vườn ruộng, bên đường là một con kinh. Nhưng ở chỗ này, khi cánh cửa mở bằng một góc một trăm tám mươi độ, tôi sẽ thấy tấm panô lớn vẽ quy hoạch khu tái định cư phường x, như một lời hứa hẹn sẽ rất hiện đại và sang trọng, với quãng trường, trung tâm hành chính, những trường cấp một, hai, ba. Hoặc khi tò mò dõi theo coi những người ướt nhẹp đó đi đâu, mắt tôi phải trượt dài theo những dãy nhà cao ngệu. Nhà tôi không trôi đi đâu hết, nó vẫn nằm trong thành phố, chỉ cách trung tâm thành phố chưa đầy hai cây số về hướng Đông, theo đường chim bay.

Và những người nương náu trong lau sậy cũng quá gần tôi, đến nỗi ngày nào cũng có những con chó cò chó vện mặt mũi giang hồ chạy ra chọc ghẹo đám chó kiểng xinh đẹp thơm tho, cho dậy động cả xóm lên, rồi tung tăng đắc thắng chạy về, co chân bậy một phát đánh dấu lãnh thổ của mình trước khi mất hút. Ngày nào tôi cũng thấy những đứa trẻ từ trong đó chui ra đi tới cửa hàng ngoài này mua kẹo, chai nước tương, đường cát, tiêu tỏi hay bột ngọt… Khu quy hoạch vẫn còn dang dở, mở đường tới đâu người ta xây cất nhà theo tới đó, hết đường thì sậy mọc che giấu những thân phận bí ẩn khác. Lần theo những lối mòn nhỏ xíu, lần theo những sợi dây điện máng lòng thòng trên mấy đọt tre khô, hay mấy cây so đũa… sẽ gặp nhà, gặp người. Họ từ nơi khác trôi giạt tới, hay họ đã từng là chủ của những mảnh đất này, khi nó còn là đồng ruộng. Và giờ họ đi trên nó như những người khách lạc lõng buồn bã. Mai kia con đường nhựa xuyên thẳng qua cái hàng rào lau sậy đó, họ sẽ nấp xa hơn trong một đám lau sậy xa hơn, hoặc vĩnh viễn rời đi, hoặc phải cất nhà lầu (bằng tiền bán đất, hay bán cá, bán rau…).

Bởi trong khu quy hoạch, có những con đường nhất thiết phải cất nhà cao ba, hay bốn tầng. Nhiều chiều rủ thằng con đi dạo, chào hỏi người này người kia đôi ba câu, mới hay cả một con đường không có nhà nào đã từng sống ở đây, trước quy hoạch. Khu tái định cư này thực chất đã bỏ chữ “tái” ở lại quán phở bò.

“Ở nhà lầu mà đi cắm câu còn kỳ cục hơn là đi cắm câu trên đường nhựa”, có lần kêu một thím trong xóm sậy mua bó cải xanh, thím nói vậy. Chúng tôi ngồi ở nơi xưa là miếng ruộng của thím và thím nói, lần nào đi qua cũng nhớ chuyện hồi đó… Đất bán hết, tiền sắm cho đứa này chiếc xe, cho đứa kia miếng nền ra riêng, ở lại tạm bợ trên vườn cũ, bao giờ người ta lấn tới, thì mình đi.

Nhưng cũng có những người trong xóm sậy lại có hoàn cảnh khác, họ giữ lại được nền nhà, dành dụm được ít tiền để cất nhà gởi ngân hàng, nhưng chờ năm này qua tháng nọ, con đường nhất định không bước tới là không. Chờ đợi lâu và tiền cũng hao hớt, họ lo khi người ta cho xe ủi mở đường, cặm cột điện ngang qua mảnh đất còn chút xíu của mình, có khi mình cũng phải cắm bảng bán nền.

Họ chạy xe ôm, chờ đợi.Họ cuốc đất trồng rau quanh nhà, chờ đợi. Họ đi cắm câu đặt lọp ở một nơi cũng đã được quy hoạch rồi, nhưng vẫn còn đầy ao đìa, đồng trũng, họ chờ đợi. Một sự mất mát nào đó sẽ tới. Họ không phát quang đám sậy che chắn quanh, tôi tự hỏi không biết họ làm biếng, hay khi cỏ cây rạp xuống, phơi bày cuộc sống là một nỗi đau, và chúng tôi có trông thấy nhau thì phía họ cũng bị quên lãng, bị gãy rời.

Chỉ đôi khi dậy sớm, tôi nhìn thấy những con người đen đúa ướt đầm đi qua cửa, họ không cười, nhanh nhanh và lầm lũi, họ không nhìn quanh chỉ đăm đăm hướng về phía lau sậy mịt mùng. Lúc đó, mới nhớ họ vẫn còn ở đó, rất gần.

Trời hỡi làm sao cho khỏi… Lọa ???

Trời hỡi làm sao cho khỏi… Lọa ???
Lúc rày nghe nói ngư dân nước mình bị tàu Lọa ăn hiếp, bắt bớ, đánh đuổi dữ quá, sông quê mình bị Lọa bóp họng từ xa, đất quê mình bị Lọa che lấn từng tấc một… tinh thần dân tộc của chú Tư bừng bừng trỗi dậy, chú liền họp mặt gia đình thông báo từ nay cấm không xài đồ của nước Lọa nữa, không lý gì nó bức hiếp chà đạp mình vậy mà mình cứ nhơn nhơn xài đồ Lọa, làm giàu cho nó.

- Phải chống lại sự xâm lăng của Lọa ngay từ trong nhà mình – Chú nói với sự quyết tâm ngút ngất.

Ở nhà chú Tư, lệnh chú là lệnh trời. Thím Tư là ngừơi đầu tiên cảm nhận trời sập cái rầm xuống đầu mình, tối tăm mày mặt, cái phim Lọa “yên yên mông mông” mà thím đang coi đang tới khúc chia ly mùi mẩn gay cấn. Nhưng giờ trong nhà đang có chiến dịch tẩy chay hàng Lọa, nên ti vi hầu như không hoạt động. Chú để cái búa cạnh nó, chú nói, hễ phát hiện ra ai coi phim Lọa, nghe nhạc Lọa là chú bửa… ti vi cho tan nát đời con… chip luôn.

Tánh chú nói là làm, ai cũng ớn. Bàn thờ nhà chú giờ chưng toàn trái cây héo, bởi trái cây mà tươi rói căng mọng chắc chắn là từ bên Lọa chở qua. Đồ chơi của thằng Tu Ti cháu nội chú bị đem bán ve chai hơn một nữa do “made in Lọa”. Thằng Sáu buộc phải cho không cái điện thoại Lọa mua có hơn một triệu mà coi được ti vi, nghe nhạc lồng lộng, nó mua lại cái di động hiệu Nó Kìa. Đem về chú Tư săm soi rồi hét lên, cha chả cái thằng Sáu, điện thoại này cũng sản xuất ở Lọa nghen mậy. Thằng Sáu mặt xanh như tàu lá, chạy đi đổi lại cái điện thoại Việt cho chắc ăn. Mấy bữa sau đọc báo thấy điện thoại nhãn Việt toàn đặt hàng gia công bên Lọa, thằng Sáu kêu chú Tư cho năm triệu, cỡ tiền đó mới mong hàng không liên quan tới đất nước ất ơ kia. Chú Tư đổ mồ hôi hột, nhưng cố bấm bụng vì những đồng bào đau khổ của mình, vì yêu nước mình nên mua điện thoại… Nhật Bản cho con nó xài.

Rắc rối đâu chỉ có vậy, cái phim Việt “Thái Sư Trần” nhưng quay cảnh bên Lọa, cả son phấn trên mặt diễn viên cũng do người Lọa phết lên. Chú Tư tức mình nói với thằng Hai, tao chống mắt coi làm phim Lý Thường Kiệt thì đi quay ở đâu, tại vì ông Kiệt này chống nước Tống, tức là tiền thân của nước Lọa, họ đâu có ngu mà cho mình qua đất họ quay phim chửi họ. Thằng Hai cười, cũng chưa biết sao à tía, tại vì phim lịch sử nước mình hay mặc nhầm quần áo của Lọa lắm, nói chuyện giống y phim Lọa nói, sao tía cự được, tía có sống ở một ngàn năm trước đâu.

Chú Tư cảm thấy ngán ngẩm lắm rồi, tối qua thím Tư mặc cái áo ngủ mỏng tang mới mua, liếc qua mà chú nóng bừng ngây ngất, ai dè áo mang mác Lọa, làm chú mất hứng quá chừng. Ngó qua ngó lại trong nhà thấy cái gì cũng của Lọa, chén ăn cơm, ly uống nước, hột gà, hột quẹt, đèn pin, tới cây đập ruồi của made in Lọa nữa là sao là sao là sao ? Chú vừa tống chúng ra ngoài đống rác vừa kêu trời.

Nhà trống trơ, vợ con chú ủ rủ, đồ Lọa bị đẩy ra khỏi nhà mang theo bao nhiêu vui thú trên đời, không phim Lọa ti vi chẳng có gì để thím coi, con Út Chín phải lén đọc mấy tờ “Nhí Nhảnh”, “Nhí Nhố” ở ngoài đường, đem về nhà chú Tư thấy trong đó toàn là hình diễn viên Lọa là chết chắc, Út Mười không có con sâu nhồi bông gòn để ôm ngủ, nó trằn trọc đêm đêm. Một bữa thằng Hai đòi đổi tên, chớ tên nó lai Lọa quá, gì mà Hà ĐạiCương, phải đổi lại là Sông LớnCứng, thằng Ba Hà Đức Minh thì đổi là Sông Nết Sáng, thí dụ vậy… Mà tía cũng phải đổi thành Sông gì đó nghen. Con đi hỏi thủ tục đổi tên rồi, đóng chín dấu, qua bốn cửa là xong, nhà mình thuần Việt. Nhưng con lo mấy cái đơn xin không biết viết sao cho nó Việt hết cỡ, thí dụ "Độc lập - tự do - hạnh phúc" thì mình viết là "một mình sung sướng thoải mái" được không ?

Chú Tư ngã vật ra chết giấc. Cũng may nhà còn sót lại chai dầu cù là nhập bên.. Lọa mới đánh gió lay tỉnh chú được. Thiệt tình

Ngã rẽ tình cờ…

Ngã rẽ tình cờ…

Có một lần dại dột lên ti vi, tôi đã dại dột rơi nước mắt khi kể về buổi sáng tôi chính thức từ giã trường học, buổi sáng tôi nằm vùi trên gác nghe vòng xe đạp của bạn mình lao xao ngang qua, áo dài tôi đã xếp cất chèo queo nơi đáy tủ. Phút nghẹn ngào không kềm chế được làm ba má tôi rất đau lòng.

Tôi hối hận vì điều đó. Ngay cả khi tôi không tỏ ra buồn bã thì ba má tôi cũng đã quá áy náy, xót xa cho việc bỏ học giữa chừng của tôi. Họ nói chỉ cần cố gắng chút nữa thôi, tôi sẽ học hành tới nơi tới chốn. Tôi cười, “nhưng con sẽ không bao giờ viết văn, không trở thành nhà văn, con sẽ là kế toán, hay luật sư, hay kỹ sư gì đó…”. Tôi không biết những lời này có làm an ủi được ba má tôi, nhưng thật sự nó an ủi tôi những khi nghĩ, mình học hơi… ít.

Và thỉnh thoảng tôi lại nghĩ tới cơ duyên, số phận, để giải thích cho việc mình bỗng dưng muốn… viết (văn). Giữa năm lớp Mười, bạn bè đang rần rần, đang ở một cái tiệm bán gạo sát bên chợ, tôi nghỉ học, về ở căn nhà ngoại ô thênh thang với ông ngoại đang đau yếu, với vườn rau cũng thênh thang. Cuộc dịch chuyển đột ngột, quay quắt như một cú sốc. Từ môi trường sôi động tôi bị dời đến chỗ vắng ngắt, đến nỗi có khi tìm một người để nói chuyện cũng không ra. Nhà tôi lúc đó không khá giả, nên các thành viên trong gia đình chỉ gặp nhau đúng bữa cơm, rồi ai nấy phải làm việc, mưu sinh. Ngoại tôi bị tai biến mạch máu não, đi đứng khó mà trò chuyện càng khó. Và tuổi tác chúng tôi cách biệt quá lớn, hiếm có chuyện gì đó mà cả hai đều quan tâm, đều thấu hiểu để nói cho vui. Không kể những khi dì tôi đón ngoại về, tôi chỉ còn mình tôi, trơ trọi.

Một mình thì suy nghĩ mông lung, thì nói chuyện với chính mình. Ở giữa vườn rau dền của má, tôi vừa cắt rau vừa tưởng tượng đủ thứ chuyện, tôi hình dung ra những con người, họ nói năng, đi lại trong đầu tôi. Giờ nhớ lại tôi hơi sợ, nếu mình không chọn cách viết văn chắc chắn mình sẽ… khùng. Mà, hồi nhỏ cả nhà tôi sợ tôi khùng lắm rồi, bởi tôi hay vừa đi vừa viết chữ vào không trung, trong đầu nghĩ gì viết ra chữ đấy. Trường học cách nhà hơn ba cây số, tôi toàn đi bộ, để lại bao nhiêu khói chữ trên đường.

Giờ tôi viết chữ trên giấy, vẽ một thế giới trong đầu tôi ra giấy. Ngay khi viết truyện ngắn đầu tiên, tôi đã ý thức, tôi viết chẳng qua vì cô độc dữ quá, vì thay đổi môi trường sống đột ngột, cú sốc lại xảy ra ngay tuổi vui tuổi chơi, tuổi cần bè bạn. Tôi chọn cách trò chuyện với thế giới chung quanh bằng những trang viết, bỗng thấy thật dễ chịu khi suy nghĩ, niềm vui, nỗi buồn của mình được mọi người chia sẻ. Và bạn bè tôi giờ không còn gói trong lớp học, bạn tôi bốn phương trời.

Lâu lâu gặp những đứa bạn học chung lớp chuyên văn, những đứa ngày xưa hay đi khao chè tôi bằng tiền nhuận bút của tụi nó, lúc đó tôi chỉ cắm cúi ăn mà không mảy may ý thức được mình sẽ viết giống nó, nhưng vào đại học là bạn dọn dẹp văn chương. Còn tôi chỉ vì một bữa phải đứng lại bên đường ứa nước mắt ngó bạn bè đi qua, không ai chơi với tôi nên tôi bèn lấy… chữ ra chơi. Thấy cũng vui đôi chút. Và vui ba bốn chút khi việc này làm ba má tôi bớt dằn vặt, đau đáu.

Nhưng các bạn đừng có ai làm giống tôi, đùng đùng bỏ học để cho có… sốc viết văn chơi. Tôi nghĩ, chữ cũng khinh ngạo, bạc bẽo và thất thường, có khi mình muốn chơi với nó mà nó chẳng chịu chơi với mình, lúc đó chì với chài đều mất, khổ thân. Muốn gì cũng phải ướm hỏi chữ coi, ê, mầy thấy tao sao, chơi được không, chữ gật đầu rồi hãy tính tiếp.

Gỡ bỏ cho nhẹ bớt...

Gỡ bỏ cho nhẹ bớt...
"Cúi xuống vùng non xanh mát..."
Cạnh quán cà phê Văn Nghệ có ông trải chiếu ở vỉa hè bán đồ cổ, hay mở cái băng nhạc Trịnh Công Sơn Hát cho quê hương Việt Nam 1 thu âm năm 1969. Nghe lần đầu, thề có mấy lá bàng rơi bữa đó, tôi muốn chạy qua ôm ông đồ cổ một cái, vì ông đem những bài hát này ra con đường vốn chỉ rùng rùng nhạc vũ trường, nhạc trẻ kiểu “yêu thì nói hông yêu cũng nói”… Giữa bụi đời mù mịt, giữa xe cộ ngược xuôi, cô Ly của bốn mươi năm trước cất tiếng hát trong veo, “Cúi xuống. Cho bóng đổ dài. Cho xót xa mặt trời. Cho da thơm trên người nay cũng phôi pha…”, nghe mát rượi lòng, nghe khoẻ dễ sợ.Nhạc “nghe khoẻ”, là chữ của thằng nhỏ ở tiệm bán băng đĩa quen. Một lần tôi ghé qua, nó khoe “em có nhạc này nghe khoẻ lắm, bảo đảm chị thích”, rồi nó đem ra mấy cái đĩa nhạc thu âm hồi năm một ngàn chín trăm mấy mươi gì đó. Gương mặt của Thái Thanh, Hà Thanh… trên bìa đĩa coi trẻ măng, trong sáng, hơi quê quê, dễ thương kinh khủng. Nghe chúng lần đầu, tôi đã nghĩ, tình cờ thằng nhỏ tặng mình quà quý.
Nhưng thằng nhỏ không tình cờ chút nào khi miêu tả cảm giác về một bài hát bằng chữ “khoẻ”, mà không phải là “hay”, là “xúc động”, là “sởn tóc gáy”. Khoẻ, vì dễ chịu, khoan khoái, thoải mái. Vút khỏi tiếng đệm guitar bập bùng, là chơi vơi tiếng hát non trong, mộc mạc, chân phương, đôi lúc vụng về, run rẩy. Ca sĩ không dùng bất cứ phương tiện nào kỹ thuật nào để nương dựa, lấp liếm hay che đậy, cứ hồn nhiên như vậy cất cao tiếng hát từ đáy lòng, thanh thoát.

Những ca sĩ ấy sau này khi đạt đến đỉnh cao của tài năng, họ rực rỡ, họ nổi tiếng, họ thu nhiều bản nhạc gần như hoàn hảo, nhưng sự giản dị năm xưa mãi mãi ở lại với… năm xưa. Tôi ngã lòng vì sự giản dị đó. Kiểu giản dị mà mười năm trước chưa chắc tôi đã thích, bỗng dưng bước chân qua tuổi ba mươi, bỗng dưng thấy… khoẻ khi đứng trước những tấm ảnh trắng đen, những bức tranh lụa, những trang viết của Thạch Lam, những minh hoạ nguệch ngoạc mấy nét chì, những bản nhạc thu âm năm xửa năm xưa, hay những bản demo trên mạng…

Ông già bạn tôi có lần nói, viết sao cho càng giản dị thì văn chương càng đẹp. Tôi cười nói, “câu này của chú mười một chữ, mà hai mươi hai năm nữa chưa chắc cháu làm được”. Ông cười cười, “sai bét, cháu đã làm được rồi, mấy cái truyện đầu tay đó”. Nhưng những trang viết giản dị, ngây ngô có phần khờ khạo đó tôi càng sống càng trải đời càng rời xa chúng. Giờ mà viết được vậy, coi bộ khó hơn lên trời.

Ngó qua ngó lại, tôi thấy cải lương cũng vậy. Hồi trước, tôi mê cải lương, mê ngẩn ngơ những bản vọng cổ xa xưa thu trên đĩa nhựa. Nghệ sĩ giọng nào ra giọng nấy, chữ nào tròn chữ nấy, ngón đờn dù tài hoa lả lướt đến đâu vẫn giữ sự trong trẻo, hồn hậu, vẫn tôn giọng ca lên hàng đầu. Thứ vọng cổ này nếu ngồi kế cassette thưởng thức chưa đã, phải dỏng tai nghe ké bên hàng xóm, hay ngồi ngoài vườn nghe trong nhà vẳng ra, chỉ tiếng ca và tiếng ca, gió đàn qua đánh lại, mùi ác liệt. Cải lương giờ đã qua thời hoàng kim, người ta biện ra nhiều lý do, nhưng nó làm rơi mất một đứa hâm mộ như tôi chỉ vì một bữa kia Vũ Linh nắm tay Tài Linh chạy lên đồi cỏ non. Xét theo tính hợp lý, tôi chấp nhận được chuyện ca vọng cổ lúc yêu nhau, đánh nhau, bắn giết nhau, miễn là xảy ra trên sân khấu, trên sàn diễn, nhưng giữa đường tự nhiên có hai người vừa ôm khít rịt mắt nhìn đắm đuối vừa ca khơi khơi chắc tôi phải nghĩ tới bệnh tâm thần. Tô Ánh Nguyệt năm xưa đau nỗi đau xa con chỉ cần nghẹn ngào bước từng bước run lẩy bẩy, nắm tiền trong tay bay bời bời; Tô Ánh Nguyệt bây giờ vừa gào thét vừa bứt xé hàng khuy áo khoe da thịt, mệt gì đâu.

Chia sẻ ý nghĩa này với ba đứa bạn, một đứa cười “vậy mới là tìm tòi, sáng tạo”, đứa kia hỏi vặn “bộ khùng sao mà đi coi cải lương”, đứa còn lại nói “thấy ghê thiệt nhưng thời này nó… phức tạp vậy”. Ừa, đúng là thời này phức tạp thiệt, bữa trước muốn mua cái áo “nhìn thấy khoẻ”, màu sắc nhã nhặn, hoa văn đơn giản, kín đáo mà phải lục tung cả cửa hàng trong con mắt căm hờn của chị chủ. Sách, băng đĩa thì nhất thiết phải siêng năng lục lọi, lâu lâu mới rinh được một cuốn văn đẹp kiểu Thạch Lam, lâu lâu mới chộp được một vài đĩa “nhạc nghe khoẻ”, sao chép lại từ những nguyên bản của mấy chục năm trước nên chất lượng cũng được chăng hay chớ.

Có lần hỏi thằng nhỏ mấy cái đĩa nhạc cổ lỗ sĩ này bán chạy không, nó nói “người ta mua nhiều lắm, nhưng chị là trẻ nhất”. Lại hỏi tiếp, “bộ thấy tôi mệt mỏi già nua lắm sao mà nghĩ nhạc này hợp với tôi”. Thằng nhỏ cười, “tại em thấy chị không đeo vòng vàng gì hết”. Câu trả lời này làm tôi nhớ mấy giai thoại thiền, kiểu như hai ông đi bên bờ sông, một ông hỏi đại niết bàn là gì, sư trả lời, “mau”. Hỏi “mau gì”, ông sư trả lời, “xem nước”. Hiểu chết liền.

Bữa qua ngồi quán chiều vắng ngắt, ông đồ cổ lại mở cái đĩa hát cổ, cô Ly đổ giọng ca mát rượi ra hè phố, “Cúi xuống. Vùng non xanh mát. Và cao tiếng hát cho cơn ưu phiền tan…” bỗng thấy tâm hồn mỏi mệt của mình đang được sự giản dị nào đó cứu chuộc. Cảm giác gan bàn chân tôi vừa chạm vào mặt đất, hình như tôi vừa tháo giày ra bỏ bên đường.

Nhưng tuổi hai mươi gặp gì cũng hăng hái đeo mang, thấy gì cũng hớn hở vơ lấy vào mình, lỉnh kỉnh những phấn son, tô vẽ và xiêm áo, tuổi hai mươi ấy giờ nằm lại ở đâu?

Mong manh của người

Mong manh của người…

Chị D ở Đài phát thanh kể, có lần hỏi phỏng vấn một giám đốc lâm trường. Ông nhiệt tình cho chị cuộc hẹn. Chị khăn gói tới, ông ngơ ngác nhìn quanh hỏi ủa không có máy quay phim hả, tưởng thu hình chớ, vậy phỏng vấn chi mất công. Ông giám đốc phủi phủi không khí rồi bứt cái cravat trên cổ ra. Khi đó khu vực rừng của ông đang đứng trước nguy cơ cháy rất cao, chị định hỏi lâm trường đối phó ra sao. Nhưng có vẻ mấy bữa nay ông quên canh chừng lửa mà chuẩn bị bộ vó để lên ti vi. Chị D nhớ lại cảm giác bữa đó, “Chị hận máy quay phim ghê gớm, nó chỉ là máy móc thôi mà hạ gục nhân cách một con người…”.
Mình vừa buồn vừa cười, sực nhớ coi chương trình thời sự trên ti vi, thường gặp vài anh đang ngáp bời bời, nhác thấy máy quay của phóng viên lia tới ngay lập tức sửa lại tư thế ngồi, lúi húi ghi ghi chép chép, mặt mũi đăm đắm suy tư. Mình cũng có ý nghĩ gần giống chị D, sao mà người ta dễ bị sai khiến vậy ? Sẵn sàng biến thành một người khác chỉ vì lý do không đâu.
Đi đám cưới, mình tức cười nhất là lúc cô dâu chú rễ đến chào, lôi máy quay theo. Cả bàn chục người ngồi đơ ra, đũa nằm ngơ ngác trên miệng chén, máy quay lướt qua những đôi môi còn rưng rưng mỡ mà mặt mũi nghiêm trang như đang dự cuộc họp phòng chống bão gần bờ. Có lúc mình lọt tuốt vô cảnh đó, dưới ánh đèn chói lóa, trong lúc đôi đũa mình phân vân không biết tiến hay lùi, mình nhớ tới tụi con nít trong những xóm nghèo bên sông Ông Đốc, hôm mình quay phim tụi nó bằng cái máy ảnh cùi bắp, có đứa ở truồng tay mằn chim, có đứa liếm láp nước từ que kem chảy xuống cùi tay, có đứa cố chen đưa cái mặt già khằng, nước mũi xanh đặc quánh cứ thập thò dưới mũi. Tất cả tụi nó đều thản nhiên cười toe toét, chuyện người khác nhìn mình ra sao, nhìn mình bằng gì chẳng quan trọng cóc khô…
Mình cũng vài lần ghé qua chương trình truyền hình chuyến xe tình yêu đang được giới trẻ yêu thích. Thấy tươi tắn, vui vui, thú vị, nhưng vẫn là cảm giác đang xem phim truyện. Dù nhà sản xuất khẳng định rằng đây là truyền hình thực tế, mấy bạn thanh niên trên chuyến xe đó hoàn toàn sống như họ có, những hình ảnh mang tính chất ngẫu nhiên tình cờ, máy quay luôn được giấu kỹ… Ừa, tin vậy. Nhưng cảm giác phim truyện không phải ở chỗ nhà quay phim nằm núp lùm bụi nào mà ở chỗ chàng và nàng - những thành viên tham gia chương trình - ngay khi đăng ký lên chuyến xe này ai cũng biết mình có thể bị (hay được) ghi hình bất cứ lúc nào, ở đâu. Ý thức đó không bao giờ buông bỏ chàng khi ngồi trên ngọn đồi để chờ tỏ tình với người yêu, khi nàng nấu món canh ngót vẫn thường nấu ở nhà, khi hai người hứ nguýt, giận hờn nhau hay điên lên vì ghen tuông.
Xem, và thấy tình yêu sao mong manh ghê gớm. Mong manh vì người ta chạm vào nhau, tìm kiếm một tình yêu bằng lớp áo bên ngoài. Ai đó giống chị ấy cảm thấy yêu ai đó giống anh ấy. Mỗi khi có đôi nào nắm tay nhau rời khỏi chuyến xe, mình thấy bất an sao đó. Phần diễn đã xong, không còn ám ảnh cái máy quay phim, trở về với con người thật của mình, thể nào cũng xảy ra những hớ hênh, những vụng về, bối rối… Và một trong hai người hoặc cả hai nhận ra người kia không phải kẻ mình đã yêu trên chuyến xe tình.
Mình thấy hơi giận cái máy quay phim, biến đổi tình yêu thành ra một thứ gần giống tình yêu, làm bao nhiêu người cả tin thổn thức. Nhưng đâu chỉ mình cái máy đó, nhiều thứ thậm chí mình không rờ rẫm được, không thể bấm nút “rec” mà vẫn xoay người ta đổi thay ngoay ngoắt. Cái hôm chồng nghe tin tổ chức cơ cấu anh làm phó giám đốc sở, chị vợ đã thôi không còn tới nhà mình xách cặn heo. Mình có chị bạn vui vẻ hồn nhiên biết bao nhiêu, năm kia chị làm được bài thơ, mọi người gọi đùa nhà thơ, giờ chị ngồi với mình mà tâm miên man bên những vần điệu, nói chuyện với mình mà mắt mơ màng ngó lá rơi, bướm lượn, hồi lâu thảng thốt, trời, con chim sâu đó hót nghe cô đơn quá.
Trời, con chim đó có đứng một mình đâu, nó đang cãi vã vang với bầy đàn trên nóc nhà, mình không thấy nó cô độc chút xíu nào. Nhưng, ờ, thật tình, có tiếng gì đó buồn quá…

Mưa nắng phai ai

Mưa nắng phai ai
Câu hoài hong thấy còm mới, đành post cái này lên, kekeke

Bà ngoại tôi hồi còn sống, mỗi lần nghe những chuyện người hại người, bà nói, chắc là bị ma nhập. Bà không tin và không giải thích được tại sao người này lại cầm dao cắt thịt da, lại làm tắt rụi hơi thở của người khác. Với bà, con người không ác, có – thứ - gì – đó khiến con người ác.
Nhờ vậy, bà ngoại giữ niềm tin miên viễn vào sự tốt đẹp của con người. Tin yêu hết cuộc đời. Ngoại đột ngột qua đời, bà vẫn chưa kịp dạy tôi cách bó chổi rơm, vót nan đan rổ, tôi vẫn chưa học nướng bánh bông lan… mà tiếc nhất là học chưa tròn cách nhìn người bao dung đó. Tôi bối rối. Tôi không đổ thừa cho ma quỷ nữa, vì thế giới đó giờ có linh hồn của ngoại, của ông bà tổ tiên, những người đã từng sống rất hiền thì không thể làm ma ác.
Có cô giáo già về hưu dọn mảnh vườn hoang cất nhà làm hàng xóm của tôi, đã dạy tôi nhìn con người theo cách khác, không thể nói là kém vị tha hơn kiểu của ngoại tôi. Cô nói con người tiến hóa từ loài thú, nên không tránh được trong người ai đó còn sót một chút xíu tính thú. Nghĩa là hồi nhỏ tôi hay đánh nhau với đám bạn bởi trong người tôi còn chút cặn của chó sói, hay sư tử, lý do này khiến tôi hung hăng, chớ thật ra tôi đâu có hung hăng. Ái chà…
Năm tôi mười lăm tuổi, má dẫn tôi hành hương núi Sam vía Bà chúa xứ. Lễ xong người ta rủ đi qua Tri Tôn chơi núi. Và tôi đến Ba Chúc lần đầu, khi trên những bức tường đổ nát quanh đó còn bê bết những mảng máu khô. Máu của trẻ em, của những người già, của những người đàn bà chết trong thảng thốt, chết mà không hiểu sao mình lại chết. Vùng đất đi qua cuộc thảm sát đẫm máu của Khơ – me Đỏ vẫn còn ngổn ngang nhiều vụn xương người. Hai má con tôi đứng khóc trước những tấm ảnh đen trắng chụp những thi thể gầy gò, còng queo như những dấu hỏi dưới trời thăm thẳm.
Lúc đó tôi không sợ, sau này khi quay lại Ba Chúc nhiều lần nữa, tôi vẫn không thấy sợ hãi, chỉ có cảm giác thất vọng ghê gớm, về con người. Ngay khi đứng giữa những bức ảnh loang lổ, đứa trẻ nào bị xé làm đôi, người phụ nữ nào bị xóc cây vào cửa mình… tôi nhận ra tội ác này không phải vì chút thú tính còn sót lại, nói vậy tội nghiệp tụi thú. Bà giáo già, cũng như bà ngoại tôi, thật ra cũng vì bối rối mới đành đổ lỗi cho ma quỷ, cầm thú… cho gọn.
Có thể bằng cách đó, chúng tôi chế ngự được nỗi thất vọng, bởi không thể không thương yêu con người, bởi trong chúng tôi vẫn còn rất nhiều người tốt. Những câu nói dịu dàng. Những ánh nhìn ấm áp. Những bàn tay nồng nàn thô ráp… Nên đôi khi đọc báo thấy chuyện cha trói con, kéo xểnh lông chông trên đường bằng xe máy, hay trò mang dao vào giảng đường đuổi giết thầy, chồng lột trần vợ nhốt vào chuồng chó, con đẩy mẹ ra đường ăn xin… tôi thấy ngơ ngác, thấy nên tìm gì đó vịn vào, bất cứ gì để biện minh cho sự tha hóa, nhẫn tâm của họ. Nghĩ, nắng này, mưa này tới đá còn phai, còn bạc màu, thì con người có kẻ cũng phai đi chất người một chút, hay chín mười chút, hay trăm ngàn chút. Người ta ai cũng phai, phai ít còn người, phai nhiều chỉ còn con. Tại mưa nắng hết.
Giống như cô vợ không còn giữ được tình yêu của chồng, thấy chồng đi với người khác, cô liền nghĩ con đàn bà kia chắc là có bùa Chà. Cố gắng để không gọi tên sự thật, tôi khoan khoái xoa tay, thấy an ủi vô cùng, giờ mình vô cảm hơn hồi xưa, rắp tâm toan tính hơn xưa… do bởi… trời mưa.
Tôi ước gì ý nghĩ đó có thể an ủi mình mãi. Nhưng tin trên báo sáng cứ xoáy vào lòng, hôm qua một em bé qua đời bởi nhát chém oan nghiệt từ hằn thù của người lớn, một em bé khác bị đánh đập, bỏ đói vì xin không đủ số tiền quy định của những kẻ chăn dắt, cũng hôm qua. Tôi không biết nên yêu thương con người theo kiểu nào mới phải ? Đối diện, vẽ chi tiết, đường nét của cái ác, gọi tên, chiến đấu với nó hay ngụy biện cho sự thoái hóa của con người bằng những thứ không biết kêu oan, che đậy, phủ lên nó bằng bức rèm mưa nắng mông mênh ?

Trăng khuyết…

Vài ba trăng khuyết…

Không cần nhìn em thêm lần nữa thì cũng nhận ra em bị thiểu năng trí tuệ. Người mang dị tật này thường có dáng dấp, gương mặt với mắt này mũi này… giống hệt nhau. Tròn lẳn, bầu bĩnh, phúng phính nhưng làm người ta nhói đau khi va ánh mắt vào. Em nuôi bệnh ở giường bốn mươi tám, tôi ra vào với má ở giường năm mươi hai. Những buổi sáng khi mười mấy con người ở phòng này nhao nháo rối bời với việc tắm giặt, chải chuốt, ăn uống, thì em bò ra chùi rửa, quét dọn khoảng hành lang, mấy cái phòng vệ sinh nhớp nháp. Chúng tôi không nhúng tay vào vì biết đó là phần việc của mấy chị lao công bệnh viện, chút nữa họ sẽ làm, họ nhận lương để làm những chuyện này.
Nhưng cô bé, với trí khôn khiếm khuyết của mình, não em thiếu mất vùng mang tên đùn đẩy, chờ đợi. Em làm vì thấy nơi này bẩn thỉu quá. Người khôn không vậy, họ thà chịu khó nín thở, bịt mũi, nhón dép lên những cái vũng chèm nhẹp… để chờ đợi. Ngay cả dì em, người đang sưng húp vì mang quả thận hư khá nặng, chị cũng cằn nhằn con nhỏ đi làm chuyện tào lao, ai kêu ?
Phải em làm vì ai đó sai bảo thì em đã không đẹp đến vậy, không làm tôi mắc cỡ, tần ngần những khi nhìn em quét lau loẹt xoẹt, thấy mình giảm chiều cao chắc còn cỡ một thước hai, nhưng tôi là con người toàn vẹn, hiểu biết, đọc nhiều sách, nên tôi vẫn ngồi trơ trơ vảnh móng tay. Bù lại, tôi hay rủ em ra ngoài dúi cho khi hộp sữa tươi, khi cái bánh bông lan... Mừng rỡ nhận quà nhưng em dáo dác ngó vào trong, “dì chửi chết…”. Người phụ nữ đó không biết vì bệnh tật làm cho bứt rứt đau đớn hay do nỗi bực dọc gì mà rầy la em suốt ngày. Nhưng suốt ngày em chỉ toe miệng ra cười, lăng xăng đấm bóp, đi mua cơm, giặt giũ quần áo… Có lần tôi nói giỡn, “em với dì giống hệt nhau, y như hai mẹ con vậy…”. Em hạ giọng thầm thì, vẻ như sắp trao cho tôi một bí mật lớn lao, “mẹ em đó, em giả bộ kêu dì Chín để mẹ khỏi mắc cỡ, tại đẻ ra em khùng khùng…”. Xế trưa, tôi bỗng nhìn thấy một mảnh trăng đầu mùa, khuyết còng, mỏng tang gần như trong suốt treo diệu vợi giữa trời, ngó nao lòng lắm, không thể nói ra lời. Không biết vì đẹp hay vì buồn.
Như món canh tạo hóa nấu lạt, cô bé chỉ thiếu một chút thôi là lành lặn kiếp người. Bất chấp điều đó, em vẫn đẹp theo kiểu của mình. Đẹp vì hao khuyết. Đẹp mà không biết.
Xóm tôi ngày trước cũng có một anh thiểu năng trí tuệ, mọi người gọi Lủ khùng. Đám tang nào anh Lủ cũng tới, phụ lo trà nước và đánh trống. Khuya xa, khi mọi người đã mòn mỏi lủi đi kiếm chỗ chợp mắt, anh Lủ vẫn không bao giờ để thưa tiếng trống. Giữa hai hồi trống, thấy cỗ áo quan nguội lạnh, anh đi sửa lại cây đèn cầy nghiêng, đốt giấy vàng bạc, thắp nhang, rồi khói lại tiếp tục nối vào khói ấm áp… Lủ lủi thủi, mà tận tụy. Buổi khách viếng đông, đám thanh niên kia cà lơ phất phơ, bởi một mình anh Lủ chạy trà nước cũng đủ chu đáo rồi, dù mệt đừ, mồ hôi nhễ nhại, nhìn thương. Người như anh ở chốn nhốn nháo nào cũng bị lạc giữa những người khôn toan tính thiệt hơn.
Lại nhớ Soi, một khán giả hâm mộ đặc biệt của anh nghệ sỹ bạn tôi, bẩm sinh ngây ngô dài dại. Chị mê cải lương, mùa khô nào đoàn hát về chị cũng đi coi, và vô cùng ngưỡng mộ anh bạn tôi. Hết buổi diễn, chị thường len vào đằng sau sân khấu để tặng anh khi thì trái khế, trái bần, khi thì cái bánh dừa, khúc mía… không quên ngọng ngịu khen, hát hay quá à... Lớn tuổi, anh không đi hát nữa, quản lý đoàn một thời gian anh về Sở làm việc như một công chức bình thường. Có chiều từ cơ quan về anh thấy chị Ngơ Ngẩn đứng chờ ở cỗng. Anh hỏi, “Em kiếm tôi à, Soi?”. Chị chìa ra mớ bông rau muống héo queo, chắc là hái ở dọc đường, nói “Cho nè…”. Tay đưa về phía anh mà mặt day chỗ khác, ngượng ngùng đúng kiểu… cải lương. Xong chị ra về, từ trung tâm thành phố, Soi phải đi hơn hai mươi cây số đường sông mới tới nhà mình.
Hơn nữa đời ca diễn, người nghệ sỹ nổi tiếng lần đầu tiên nhận được một bó hoa kỳ lạ. Nghe chuyện, ai cũng buồn cười, nhưng trong lòng nhuốm màu chua xót, mai kia khán giả không còn nhớ anh nữa, tên anh, giọng hát anh bị vùi dập mất tăm giữa những thần tượng mới, thì anh vẫn còn chị Ngẩn Ngơ, lâu lâu lại xuất hiện để tặng hoa cỏ dại hái bên đường xơ xác, tưởng thưởng cho người nghệ sỹ này đã từng sáng chói, vàng son. Chị không được trời cho chức năng quên lãng.
Nhưng cái mối quan hệ bi hài, vừa buồn cười vừa ngọt ngào vừa xót xa đó không phải ai cũng có. Bạn tôi vô tình nhận được vì anh đã bình thản chào đón một khán giả dị tật như một người bạn lâu ngày, như một người bình thường với trái tim, khối óc bình thường, “Em chờ tôi lâu không, Soi ?”. Cho là anh giả bộ, anh diễn, nhưng hình như không nhiều người diễn cho ra cái vai nhân hậu đó…

Chè : Nói thiệt, lúc viết bài này tui quợn dữ lắm, tại vì tui để ý rùi, hễ tui viết liên quan tới bệnh gì thì người thân tui có bệnh ấy. Trước viết CDBT có vụ thằng nhỏ chảy nước mắt sống, sau này xảy ra chuyện thằng con tui lúc còn trong tháng, bị trào sữa lên mặt, lên mắt, giờ hay chảy nước mắt sống lắm. Bác sỹ vườn nói có cái ống thoát nước mắt trong mắt bị tắc rùi(tui nôm na vậy), lớn lớn chở đi Sài Gòn thông ống. Tui hoang mang không biết chữa có khỏi không thì mới đây, viết tào lao về trái tim hư hao, cái má tui đang mạnh giỏi mập mạp rắn rỏi, 66 tuổi còn chạy xe máy đi ào ào, chuyên làm tài xế chở ba tui đi huyện chơi, tự dưng lăn đùng ra nhồi máu cơ tim, vào đúng ngày 15/08 (vậy là các bạn biết lý do tại sao blog tui đứng hình lâu zị hén ). Tui phải lấy hết sức can đảm để mà viết cái bài này vì tui thấy chắc mình hong có sinh đứa nữa.
Thiệt là bi thảm lắm, giờ tui hong biết cho nhân vật tui chết vì cái gì nữa, nhưng tốt nhất là hong nên đụng xe, té hố ga, dây điện thoại quấn, bệnh ung thư, chìm xe chết đuối trên đường, ăn khoai tây Trung Quốc bị ngộ độc, bị tàu Trung Quốc bắn, ngộp thở vì công nhân Trung Quốc bao vây... Mấy cái này có nguy cơ cao, có lẽ nên lấy lý do bù loong máy bay rớt trúng đầu, chết.
Vậy đi !

Má,và con

Má,và con

Tôi nghĩ, đôi khi vô tình tôi làm má buồn.

Như chiều qua, tôi nói lúc này tóc con bị rụng quá trời, coi trên internet người ta dạy mua thuốc này thuốc này sẽ bớt. Hay hôm kia khi giỡn với nhóc con, phát hiện ra lưỡi nó bị nấm đóng dày, tôi mở máy tính, xong gật gù, trên mạng người ta kêu mua thuốc x thuốc y, hoặc hái lá a, lá b giã lấy nước rơ lưỡi, nhóc sẽ khỏi.

Có lần tôi khoe vài bí quyết nấu ăn, cách chọn gà ngon, má ngạc nhiên, mèn ơi trên mạng có đủ thứ hết trơn hả ? Tôi cười khoái chí, gì cũng có má à, trên trời dưới đất, muốn biết gì cứ gõ vài ba chữ là mạng cho mình biết tuốt. Má nói ngộ quá, cái mạng là cái gì mà hay dữ ta. Giọng má không một chút ngậm ngùi nhưng bỗng dưng tôi nghĩ má ngậm ngùi.

Là vì má đang ở bên tôi, nhưng khi bối rối và ngơ ngác tôi đã không hỏi má. Sống bảy chục năm dài, trải qua bao nhiêu biến cố, má vén khéo đảm đang, chèo chống gia đình nuôi nấng mấy chị em tôi khôn lớn, phải nói là má biết nhiều, rất nhiều. Nhưng tôi không hỏi má, tôi chạy tới internet, gọi “vừng ơi…”, và đôi lúc khoe khoang những kiến thức mà má đã “rành sáu câu” rồi.

Một phần ý nghĩa của mối quan hệ già – trẻ (hay má - con) là cho – nhận, dạy – học… nhưng giá trị đó đang ít nhiều thay đổi. Sự mất mát rất từ tốn không nhận biết ngay được, cho đến khi đủ lớn và sâu, người ta mới giật mình, sực nhớ ra lúc này mình nói bằng ngón tay nhiều hơn bằng miệng, nhìn màn hình máy tính hay điện thoại nhiều hơn nhìn người. Sực nhớ có thể má đã buồn, má sống nhiều nhưng những trải nghiệm mà má đang gìn giữ, tôi không ngó ngàng tới.

Như thể tôi là tôi khác, không phải con bé đen nhẻm hồi lên bảy lên mười, đi vào cuộc đời bằng cánh cửa do má mở, suốt ngày lẽo đẽo theo chân má, để hỏi má ơi cái kia để làm gì, má ơi cái này tại sao... Ngày tôi về nhà chồng, má không dám đi đâu, suốt ngày chờ bên điện thoại, vì tôi hay gọi về hỏi, má ơi kho cá bằng muối hay nước mắm, nấu canh chua bằng me hay bằng giấm, con lỡ làm cơm khét rồi, giờ biết làm sao ?

Hồi đó má ở xa chỗ tôi chừng mười lăm cây số, nhưng má chỉ cách tôi một hồi chuông điện thoại. Băn khoăn chút chút, nghi ngại chút chút, lo lắng chút chút… tôi lại nghĩ tới má. Và má luôn có câu trả lời. Như bà ngoại luôn có câu trả lời cho má. Như bà cố luôn có câu trả lời cho ngoại. Người ta cứ sống vậy, già rót đầy cho trẻ, đi trước dẫn đường cho đi sau, tưởng đâu nối tiếp hoài hoài.

Nhưng khi nền tảng ứng xử giữa người và người lung lay bởi quá nhiều phương tiện hiện đại, tôi cũng buông lơi bàn tay má. Ngụp lặn trong biển thông tin mà tôi tin với chúng, tôi sẽ xử lý tốt mọi tình huống xảy ra với cuộc đời mình. Tôi quên, má không biết nơi lạnh nhất vũ trụ nhưng má có nhiều kinh nghiệm nuôi trẻ con lớn mau. Má không biết cách diệt virus máy tính nhưng bẫy chuột là số một. Má không biết viết blog nhưng nấu ăn rất ngon. Nhưng tôi quên. Má, như những người già khác, đôi lúc nào buồn tênh trong ý nghĩ mình đang sống thừa, tàn lụi không tăm tích.

Tôi còn giữ hình ảnh những người già nước Hàn xa xôi mà tôi đã từng gặp mặt. Những ông bà già buồn rượi, lặng lẽ. Vật vờ như bóng, lắt lay như khói. Anh bạn của tôi nói đất nước anh càng phát triển càng hiện đại thì người già càng cô độc, hai thế hệ già – trẻ hầu như không còn chuyện gì chung để nói với nhau. Khi chụp ảnh những gương mặt sầu muộn đó, tôi luôn nhớ tới má, thầm so sánh và khoái chí vì má gọn gàng lanh lợi hơn họ, má tươi tắn vui vẻ hơn họ, dù má nghèo, thiếu thốn hơn họ.

Nhưng giờ tôi biết má cũng buồn, bởi nhiều lúc tôi bỏ bà một mình ở nơi cũ, thời gian cũ để một mình tôi đi vào thế giới ảo đầy quyến rũ. Không cần nỗi lực lớn nào, không cần với tay cao, cũng có thể hái được trái. Nó sẵn sàng xoa dịu, đưa ra những lời khuyên khi tôi than vãn đầu gối tôi mỏi, con mắt tôi bỗng nhiên mờ, vùng thắt lưng nghe nhói, cái đầu đau...

Riêng trái tim thường chẳng hết đau nếu chỉ nhận được những lời an ủi thao thao, bạn hãy quên bạn hãy vui, phải này phải kia... nên có lần đem trái tim đau lên mạng thở than, chớ hề nhận được cái khăn lau nước mắt. Những lúc đó nhớ má quá …

Không biết, khi tôi đi rất xa và quay lại, thời gian còn cho má bao dung đứng chờ ?!!

(bài đăng Sài Gòn Tiếp Thị Nguyệt san)

Có còn người không ?

Có còn người không ?
Câu hỏi đó thằng nhỏ hỏi mỗi ngày mỗi ngày mỗi ngày, khi đói khát, khi bị đánh đập cấu nhéo, khi phơi trần ra dưới nắng mưa. Khi nó nằm trên mặt đường và kêu khóc khản giọng. Nó hỏi vào đám đông lướt qua nó, hỏi ai đó dừng chân cho nó (chính xác là cho những kẻ chăn dắt nó) chút tiền lẻ. Nó hỏi những kẻ bắt nó nằm lăn lóc kêu khóc trên đường để kiếm tiền, để nhởn nhơ ăn mòn tấm thân bé nhỏ non nớt của nó.
Nhưng tôi tưởng tượng thôi, trong lúc ngồi uống một ly cà phê mặn chát. Dường như cả quán hôm đó cũng có cùng cảm giác, sau khi giở tờ báo sáng, và nhìn thấy hình ảnh của thằng bé ăn xin. Nó nhỏ đến mức chỉ biết khóc. Ở truồng và khóc. Ướt và khóc. Bị đánh đau và khóc. Chấp chới giữa dòng người ngược xuôi đông đúc như con vịt con ngơ ngác mà người ta dùng để câu nhắp cá lóc. Em bé – con mồi sống không nói gì hết, mà tôi tưởng như nó hỏi, người ơi, người ở đâu ?
Tôi đã nhận được câu hỏi đó bao nhiêu lần trong đời ? Không đếm được. Có đứa thậm chí còn không khóc. Nó ngủ mềm oặt, xanh rớt trên tay người đàn ông ngồi ở một góc đường. Một kiểu ngủ mụ mị vì tác dụng của thuốc. Buổi tối tôi đi qua chỗ đó và em lại hỏi bằng vẻ câm lặng im lìm. Như cái chết. Có còn người không ?
Đám đông không lên tiếng. Không Lục Vân Tiên nào, đại diện công quyền nào đưa cả hai con người rách rưới về, gạn hỏi coi có thật là cha con như gã đàn ông phân trần, hay chỉ là kẻ chăn dắt với con mồi. Em bé ngủ vì thuốc ngủ hay vì sốt cao ? Em cần một mái ấm hay một bệnh viện cho qua cơn đau ? Bàn tay mỏng đó không quá khó để người đời nắm lấy. Nhưng dòng người lũ lượt không ai dừng lại. Chính xác là cũng có người bước tới cho vào cái ca nhựa bạc màu chút tiền lẻ, nghĩ sau đó mình sẽ nhẹ lòng. Tôi cũng vậy, tự lừa mình. Và cái góc đường trước Trung tâm văn hóa thông tin ám ảnh tôi dai dẳng dù em bé chỉ ở lại hai đêm rồi biến mất. Cuộc ra đi gây bất an hơn cả khi xuất hiện, bởi linh cảm em lại vạ vật ở một góc đường khác, bị nhấn chìm trong giấc ngủ khác. Ngủ là một cách hỏi, người đâu mất rồi ?
Cũng như những em bé ăn xin mà bất cứ ai cũng có thể gặp một đôi lần trên đất nước này, chúng gọi con người bằng nhiều cách, bằng ánh mắt thất thần, bằng vẻ ngoài trần trụi và lem luốc, bằng tiếng khóc, tiếng hát, bằng bàn tay bẩn thỉu xòe ngửa, bằng những vết thương bầm tím trên da thịt… Ai đó nghe thấy tiếng gọi đó nhưng họ bận rộn, sợ hãi, bất lực, cũng có kẻ không nghe, không cảm nhận gì hết…
Và những đứa trẻ đường phố vẫn tồn tại, như một phép thử.
Thử coi người ta bất lực, rụt rè, ngại khó bao nhiêu ? Bao nhiêu người đã từng đi qua, chứng kiến những thân phận nhỏ bé khốn khổ. Dù ngoái lại, dù áy náy, dù thấy thương và bất an… nhưng chậc, mình lại phải đi rồi… Họ không làm gì mà kêu mấy ông nhà nước làm gì đi chớ…
Thử coi người ta đã tha hóa, độc ác và nhẫn tâm tới mức nào khi phơ phởn kiếm tiền bằng cách giày vò, đọa đày kẻ khác ?
Thử coi nhà chức trách đã làm gì để bảo vệ luật pháp, quyền con người, quyền được sống được vui chơi ? Trẻ con họ không che chở được, thì họ hô hào khẩu hiệu, tính làm chuyện lớn lao chi hả trời ?
Một phép thử đau. Nhưng thử thách bao nhiêu lâu rồi, nhân tình thế thái đã bày ra đó rồi, chuyện muốn biết thì đã biết, đám trẻ vẫn chưa ngưng gọi con người. Vẫn chờ đợi ai đó đáp lời, chìa ra một bàn tay, một vòng tay ấm. Có điều, khi đó không biết chúng còn đủ sức để nắm lấy không ?
(Bài in báo Sài Gòn Tiếp Thị)

Bạn bè trăm ngã

Bạn bè trăm ngã

Bạn học hồi cấp ba gọi điện, nói chùa nó mới làm trang web, tính nhờ tôi viết giùm lịch sử chùa, dầu gì tôi cũng có tí văn chương nên viết sẽ suông. Tôi nghe mấy chữ “chùa tui…” bần thần quá, hỏi đi hỏi lại phải Th không, phải Th nhà có mấy cửa hàng thuốc tây nổi tiếng ở đây không, nó cười khùng khục trong điện thoại, chớ ai. Cho tôi chắc ăn, nó nhắc thêm vài kỷ niệm hồi còn đi học. Là Th, không ai khác. Bạn tôi.
Mà con nhỏ đi tu hay sao mà liên quan tới chùa chiền, trời ? Tôi trông gặp Th. Bữa Th tới đưa tôi đi gặp sư cô trụ trì chùa, tôi thở phào, nó cũng còn tóc. Th chắc quy y hay sao mà có pháp danh rồi, là Tâm Nghĩa. Ngồi gần sư cô, nó luôn miệng nhắc sư phụ đừng uống cà phê đá, mấy hôm rày sư phụ viêm họng mà, sư phụ uống trà gừng con mới pha nè. Nhìn cái cách Th thông thuộc bếp núc tủ chạn trong chùa, cách nó âu yếm nhìn sư cô, kiểu nó trò chuyện, tôi cảm giác nó coi chốn này hơn cả nhà mình. Tự dưng tôi lo quá, lo mai mốt Th xuống tóc xuất gia luôn.
Điều đó có nghĩa trong đám bạn tôi có người đi tu. Cũng như có người làm công an, chủ tịch phường, quản lý thị trường, viết đơn mướn, chủ vựa cừ tràm, vựa tôm, xã hội đen… Mấy bạn này tôi coi như làm nghề hơi… khác thường nên tôi kể trước, số còn lại cũng dạy học, làm kế toán, làm bưu điện, bán quán cà phê… Có lần tôi dặn thằng bạn làm ở phòng quản lý văn hóa văn nghệ của Sở công an, “ông có theo dõi tui thì giữ khoảng cách chút, chồng tui ghen lắm nghen…”. Nó cười. Nhiều lúc nghĩ nếu tập hợp nhóm bạn bè cũ lại, chắc sẽ như đại hội mặt trận Tổ Quốc, đông đủ thành phần xã hội. Vài đứa làm nghề còn chỏi tông nhau, bạn công an đối chan chát với bạn xã hội đen chuyên đòi nợ mướn, bạn vựa tôm biết đâu đã bị bạn quản lý thị trường hốt mất một mẻ hàng, bạn chủ tịch phường đang điên đầu vì mấy cái đơn kiện coi chừng do bạn viết đơn mướn chấp bút… Xảy ra những chuyện đó, không thể nói rằng tụi nó không thương nhau .
Nhưng cuộc gặp gỡ đó chưa bao giờ xảy ra, chúng tôi hoặc quá bận mưu sinh hoặc tản mác góc biển chân trời, có đứa còn lấy chồng xa nửa vòng trái đất… Thỉnh thoảng gặp lẻ tẻ vài ba đứa, lôi kỹ niệm cũ ra nhắc tới lui, chuyện hiện tại nói vài ba câu thì hết, vì không chung đường, chung môi trường sống. Không khí ngượng ngịu. Nhát gừng. Thời gian đã làm người này không còn giống như trong nỗi nhớ của người kia. Lại thêm nỗi nghề nghiệp tréo ngoe, dù cố tỏ ra phớt lờ chuyện đó, nhưng vẫn phải dè chừng. Tôi mà gặp thằng bạn công an, miệng tôi khen nó đẹp trai, mà trong bụng tôi nghĩ, trời, coi vậy mình đi đâu gặp ai thằng này biết hết, bởi vậy nó cứ nhìn mình cười cười suốt. Ngồi chơi mà nhậu không dám say, nói không hết điều mình nghĩ, thì buồn.
Biết làm sao được, mỗi người đều đã có chọn một lối đi riêng, bạc mặt mưu sinh lúc ngẩng lên thì thấy mình già mất, ký ức bạn bè hồi niên thiếu mờ nhạt, thảng hoặc. Tin bạn thì hiếm hoi, lâu lâu nghe tin đứa này lấy Hàn Quốc, đứa kia bị vợ bỏ đang gà trống nuôi con, thằng tôi thương thầm hồi lớp 7 giờ ba trợn sau một tai nạn giao thông…
Với chút tin ít ỏi đó có khi còn sai, bữa gặp Th tôi hỏi thăm con nó học lớp mấy rồi, Th ngó tôi cười, “kiếm đâu ra con, tui chưa chồng mà…”. Trời đất, vậy mà tôi nhớ tôi từng đi đám cưới của bạn, nhớ bữa đó ngồi chung bàn với thằng bạn giang hồ, nó dặn, mai mốt có mất xe nhớ gọi cho tui, tui sai tụi đàn em đi lấy lại cho, công an kiếm không ra đâu…
Nhưng cái tiệc cưới đó không phải của Th. Sư cô xác nhận là đệ tử Tâm Nghĩa không nói chơi bằng cách trách yêu nó, nói cùng là bạn học với nhau mà giờ bạn đã có chồng con để huề, còn Tâm Nghĩa sao không chịu lấy chồng đi. Tôi nói thầm trong bụng, Th mà ham thế tục như tôi thì sư cô làm gì có một đệ tử chí tình tên Tâm Nghĩa, chiều nào cũng chạy xe máy gần mười cây số để đến chùa nghèo cầu kinh.
Th gần như không vướng víu gì nữa, cho bất cứ cuộc đi nào. Tôi tin vậy. Dù nghĩ con bạn xinh đẹp giàu có của tôi đi tu thì kỳ lạ quá, nhưng đường tôi chọn đi cũng kỳ cục kém gì ?

Gió thổi suốt đêm

Gió thổi suốt đêm
Đuổi kịp mấy dì đi bộ thể dục buổi sáng ở đoạn đường gần trường học, tôi nghe một người nói, gió thổi suốt đêm qua. Ờ, gió thấy sợ, đang có bão xa mà, một người khác đáp.
Bỗng dưng tôi nhớ những đêm xa xưa ngủ trong chòi vó, nửa khuya nằm nghe những người đàn bà bơi xuồng đi chợ sớm, cuộc trò chuyện rộn rã trong tiếng mái dầm chẻ nước lách tách, đôi khi cũng là chuyện ban tối gió giông.
Hồi đó tôi còn nhỏ, ngủ là ngủ như chết, chẳng hay trời đất gì. Sáng ra má kể trận gió đầu hôm còn xíu nữa đã làm bay nóc chuồng gà và có chút mưa lúc gần sáng. Có nhiều người đàn bà quê xứ mình nghe thấy cơn mưa, gió đó. Như thể họ thức suốt đêm, như thể họ chong đèn ngồi coi chúng. Nên họ biết đêm qua chó rộ sủa mấy chập, trẻ con ngủ mớ kêu ú ớ mấy lần, con chim cú đậu trên cây vú sữa kêu bao nhiêu tiếng…
Và đêm được vẽ lại bởi những người đàn bà thao thức. Hàng ngàn đêm trong cuộc đời. Họ ngủ nhưng tiếng ho khan của người già, tiếng cười khẽ của đứa trẻ trong mơ, con chó sủa, bầy vịt rộ, mưa giông bên ngoài… đã chẻ vụn những chiêm bao. Trong ký ức về vài người phụ nữ ruột thịt của tôi, có đến một nửa nỗi nhớ diễn ra trên nền đêm tăm tối. Nhớ bà ngoại nửa đêm hay xức dầu dừa vô mấy đầu tóc mượn rồi nhẹ nhàng chải chúng, nhớ má nửa đêm cạ gót chân vào cục đá mài dao để xóa bớt những vết nứt, những chai sần… Đó là những giây phút ngắn ngủi bạn yêu thương chính mình, sống vì mình, cho mình. Sau đó, bạn đẹp vì người khác. Nhọc nhằn vì người khác. Có khuya giật mình thấy má rón rén bưng đèn đi ngang giường, tôi tốc mùng thò đầu ra tưởng đâu trời đã sáng. Má nói ngủ đi, còn khuya lắm. Tôi hỏi, vậy má thức làm chi ? Ờ, con gà mái mẹ nó kêu hoảng quá, má ra coi có chuột bọ rắn rít gì vô quậy ổ gà không.
Một má một ngọn đèn. Cô độc. Hai mươi năm sau, dậy thăm chừng thằng nhóc con đang sốt, tôi thấy cái bóng cô độc in trên tường này quen quá, y như má, như bà ngoại. Hai mươi năm sau, dù có muốn hay không, tôi đã trở thành một người vẽ đêm, nghe gió mưa đêm, kể chuyện đêm… Và tự trả lời câu hỏi năm nào, người ta sao lại không ngủ, thức làm chi cho cực, ngủ sướng hơn.
Nhưng thức như một bản năng, mình không muốn, nó cứ đến. Mình thèm ngủ, mình muốn ngủ nhưng đêm cứ kể chuyện rầm rì. Một người đàn ông say đang hát nhừa nhựa ngoài đường. Đứa bé con nhà bên vách khóc ngằn ngặt. Xe cấp cứu hú còi. Nhóc con nằm giường bên, giãy đồm độp chắc vía bị khủng long rượt. Gió vần vũ phành phạch cái mái che. Con mèo trườn qua làm cuốn sách rơi khỏi giá.
Lúc nhỏ tôi tưởng ở nhà lá, nhà rách, ở giữa vườn tược đồng bãi vắng vẻ người ta mới thao thức. Nhưng cái xóm chợ sôi động mà tôi từng ở trọ nhiều năm, hừng đông hàng xóm thường rộn rã kể chuyện đêm. Và những người đàn bà vận động buổi sớm mai, khu nhà họ ở rất sang trọng, chắc chắn và yên tĩnh, làm sao họ biết suốt đêm rồi gió chạy đuổi điên cuồng ? Giữa những lớp cửa kính kín đến mức chuông gió không lay, có phải họ nghe gió bằng cảm giác, bằng bản năng, ký ức...?
Tôi chỉ chắc chắn một điều, khi tôi thức viết một trang sách, tôi biết giờ phút đó trong những ngôi nhà nào đó cũng có nhiều người đàn bà thức giấc. Để khép một cánh cửa, để ém lại vách mùng đã bị trẻ con đạp tung ra, để chờ tiếng bước chân của đứa con còn chơi lêu lỏng ngoài đường, để thảo một bức thư, để nhớ một người xa…
Cũng có người làm những việc vô cùng giản dị, chị giũa móng chân hay đắp lên mặt một lớp mật ong…
(Bài đăng báo Sgtt)

Sunday, November 28, 2010

Sự mù quáng của 1 nữ luật sư trẻ

Lê Thị Công Nhân và sự mù quáng của 1 nữ luật sư trẻ

Trong thuật ngữ của các tổ chức phản động lưu vong, người ta gọi hành động lôi kéo " Lê Thị Công Nhân về Văn phòng Luật sư Thiên Ân của Đài để tiêm nhiễm tư tưởng chống đối Nhà nước là cách thức "phát triển kết nạp lực lượng".

Nguyễn Văn Đài - kẻ cơ hội và ngông cuồng (Bài 2)
Nếu ai được biết hoàn cảnh của Lê Thị Công Nhân có thể không dè sẻn lời khen để nói rằng đó là một cô gái có nghị lực. Sinh năm 1979 ở Gò Công Tây, Tiền Giang, năm 2 tuổi Lê Thị Công Nhân phải chịu cảnh bố mẹ chia tay nhau, từ đó đến nay cô gái này vẫn chưa được gặp lại người cha đẻ của mình là ông Lê Minh Đức. Hiện không rõ ông Đức làm gì, ở đâu vì thất lạc tin tức.
Lên 5 tuổi, Nhân theo mẹ từ Gò Công Tây, Tiền Giang, ra Hà Nội sống cùng mẹ và cha dượng là một giáo sư danh tiếng của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Những năm 1980, với đồng lương ít ỏi của mẹ là bà Trần Thị Lệ, một cán bộ bình thường của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, có thể nói cuộc sống của một gia đình 4 - 5 miệng ăn chắc cũng chẳng dư dả gì. Vậy mà, Lê Thị Công Nhân dẫu mới chuyển về Thủ đô nhưng có thể nói đã khá tu chí học hành để thi đỗ vào Trường Đại học Luật Hà Nội.
Ra trường năm 2001, Nhân học tiếp một thời gian nữa để được cấp bằng luật sư và từ đó Nhân dường như muốn theo đuổi nghề luật sư lâu dài thì phải. Nếu nhìn ở góc độ nhân văn, phải chăng vì ngay từ bé, Lê Thị Công Nhân sống thiếu bố nên thường có mặc cảm bị bất công, vì thế khi trưởng thành cô muốn theo đuổi nghề luật sư để bảo vệ công lý, bảo vệ sự bình đẳng cho giới phụ nữ.
Tuy nhiên, đó chỉ là sự phỏng đoán của người viết bài này. Bởi theo một lô gích bình thường thì biết đâu đi theo con đường chính thuận, Lê Thị Công Nhân hoàn toàn có cơ hội phấn đấu trở thành một nữ luật sư tài năng ở Việt Nam .
Bởi khác với Nguyễn Văn Đài phải đi đường vòng lên Vĩnh Phúc để được tham gia Đoàn Luật sư, Lê Thị Công Nhân được cấp bằng luật sư đàng hoàng ngay từ năm 2003 và sau đó có thời gian ngắn làm thư ký quan hệ quốc tế của Đoàn Luật sư Hà Nội. Như vậy, chí ít Nhân cũng có vốn ngoại ngữ thuộc diện "đọc thông viết thạo" mới được đảm đương nhiệm vụ đó.
Thế nhưng, dường như là không may khi đang còn quá trẻ, Lê Thị Công Nhân lại bị vướng vào "từ trường" của Nguyễn Văn Đài lúc cô gái này cần thời gian rèn luyện bản lĩnh nhất.
Vậy là có thể nói không ngoa rằng, Lê Thị Công Nhân bị Nguyễn Văn Đài lôi kéo, cám dỗ và trở thành thân tín của Đài trong các hoạt động chống đối Nhà nước. Trong thuật ngữ của các tổ chức phản động lưu vong, người ta gọi hành động lôi kéo "nữ nhi" Nhân về Văn phòng Luật sư Thiên Ân của Đài để tiêm nhiễm tư tưởng chống đối Nhà nước là cách thức "phát triển kết nạp lực lượng".
Khi bị bắt quả tang cùng Nguyễn Văn Đài đang tuyên truyền, xuyên tạc, vu cáo Nhà nước Việt Nam tại Văn phòng số 10 Đoàn Trần Nghiệp, Lê Thị Công Nhân đã thừa nhận rằng chính Nguyễn Văn Đài đã giới thiệu cô ta quy đạo Tin lành tại Hội thánh Tin lành số 2 Ngõ Trạm, Hà Nội.
Trước đó, từ năm 12 tuổi, Lê Thị Công Nhân là tín đồ BAHA"I (tức đạo Bà hai, ánh sáng), nhưng từ năm 2005, Lê Thị Công Nhân và mẹ là Trần Thị Lệ đã bị Hội đồng tinh thần đạo BAHA"I Việt Nam truất quyền đầu phiếu do có những hoạt động vi phạm giáo lý, giáo luật… Thì ra việc "chuyển đạo", "đổi tín đồ" của Lê Thị Công Nhân là thể hiện cá tính bất ổn của cô, góp phần tạo nên những tiền đề thực hiện mưu đồ chống phá Nhà nước sau này.
Có lẽ vừa bị cám dỗ, vừa bị tiêm nhiễm lúc còn quá trẻ tuổi, cho nên chỉ trong một thời gian ngắn khi về Văn phòng Luật sư Thiên Ân, Lê Thị Công Nhân lao như con thiêu thân vào các hoạt động chống đối Nhà nước.
Ví như vào tháng 4/2006, Lê Thị Công Nhân đã ký tên ủng hộ cái gọi là "Tuyên ngôn tự do dân chủ cho Việt Nam 2006" và chủ động cùng Nguyễn Văn Đài tham gia "khối 8406" mà kẻ khởi xướng là Nguyễn Văn Lý, đối tượng lợi dụng tôn giáo ở Huế hoạt động vi phạm pháp luật vừa bị TAND Thừa Thiên - Huế xử 8 năm tù giam. Đây là một tổ chức được Nguyễn Văn Lý và đồng bọn thành lập một cách trái phép nhằm thực hiện hoạt động xuyên tạc, vu cáo, chống đối Nhà nước CHXHCN Việt Nam .
Bản thân Lê Thị Công Nhân cũng thừa nhận đã ủng hộ cái gọi là "Hội dân oan Việt Nam" do Đài lập ra. Đặc biệt, theo lời Nhân khai, vào tháng 9/2006, cô ta đã chủ động xin gia nhập vào cái gọi là "đảng Thăng tiến Việt Nam" cũng do Nguyễn Văn Lý câu kết với bọn phản động lưu vong người Việt vừa nặn ra.
Không rõ vì bị kích động hay vì lý do gì nữa mà Lê Thị Công Nhân rất hăng hái ủng hộ cái đảng phản động này. Quyết liệt đến mức, từ 2/9 đến 5/9/2006, Nhân - một cô gái chưa chồng, nhưng đã dám chủ động "xăm xăm băng lối... tàu khuya một mình" vào tận Huế để gặp Nguyễn Văn Lý và một số nhân vật trong ban đại diện thành lập "đảng Thăng tiến Việt Nam" là Nguyễn Phong, Nguyễn Bình Thành, Hoàng Thị Anh Đào ở 69 Phan Đình Phùng - Huế... Tại đây Nhân tham gia cùng bàn luận về nội dung của dự thảo "cương lĩnh" tạm thời, bàn việc quyết định tuyên bố công khai đảng này trên mạng Internet vào ngày 8/9/2006.
(Theo CAND)

Chỉ vì sợ luật sư Lê Thị Công Nhân

Chỉ vì sợ luật sư Lê Thị Công Nhân trả lời báo chí ngoại quốc
Radio Chân Trời Mới

Tin Nhanh
Radio Chân Trời Mới
Lúc 8 giờ tối ngày 9/3/2010, giờ Việt Nam
Như chúng tôi vừa loan tin, vào trưa thứ ba, 9/3/2010, nữ luật sư Lê Thị Công Nhân đã bị công an bắt đi khi cô cùng với một người chị đi mua sắm vật dụng cá nhân. Cảnh tượng diễn ra như một vụ bắt cóc trên đường Trần Ngọc Thạch, gần nơi nhà tập thể của gia đình cô. Nhiều công an nổi và chìm kéo luật sư Lê Thị Công Nhân lên một chiếc xe kín màu đen và phóng nhanh về đồn công an phường.
Tại đồn công an, những kẻ bắt cô mới cho biết lý do là vì vi phạm lệnh quản chế nhưng không nêu được khoản nào trong luật đó vì luật sư Lê Thị Công Nhân không hề rời vùng cư trú. Tuy vô lý và phi pháp như vậy, họ vẫn buộc cô phải viết bản tường trình về việc vừa bị bắt. Một lần nữa, luật sư Lê Thị Công Nhân quyết liệt từ chối và cho họ biết rằng, ngay trong trại giam cô còn không làm điều này theo lệnh của công an.
Tuy không nói ra, nhưng cả luật sư Lê Thị Công Nhân và các kẻ bắt cô đều biết lý do thật sự của việc bắt giữ chỉ là để phá hỏng cuộc phỏng vấn của cô với ký giả hãng tin ngoại quốc AFP. Cuộc phỏng vấn này được dự trù vào lúc 3 giờ chiều tại một quán cà phê gần nhà. Việc bắt giữ kể trên là bằng chứng về hành vi nghe lén điện thoại phi pháp của công an.
Cũng tại đồn, khoảng 10 công an luân phiên hạch hỏi luật sư Lê Thị Công Nhân. Đến khoảng hơn 4 giờ chiều, có lẽ được báo tin phóng viên của hãng AFP không thể chờ đợi thêm nữa và đã rời quán cà phê, những người bắt giữ chị đã bỏ đi. Tuy nhiên các công an phường tiếp tục hạch hỏi đến 5 giờ 15 chiều mới để cô ra về.
Như vậy toàn bộ vụ bắt bớ chỉ là thủ thuật phi pháp của guồng máy bạo lực khi lo sợ dư luận quốc tế sẽ có thêm bằng chứng về những hành vi chà đạp nhân quyền của chế độ độc tài hiện nay.
Mời quý vị nghe cuộc phỏng vấn của đài CTM với nữ luật sư Lê Thị Công Nhân ngay sau khi cô được thả về trong chương trình phát thanh ngày 9/3, hoặc tại các địa chỉ: radiochantroimoi.com và radiochantroimoi.wordpress.com
Kim Châm
Phóng viên Radio CTM tại Hà Nội
=======================
Công an lại bắt giữ luật sư Lê Thị Công Nhân
Tin Nhanh
Radio Chân Trời Mới
Lúc 2 giờ chiều ngày 9/3/2010, giờ Việt Nam
Vào trưa hôm nay, thứ ba ngày 9/3/2010, khoảng 7 công an mặc sắc phục và nhiều công an chìm bất ngờ xông tới bắt giữ luật sư Lê Thị Công Nhân khi cô và người chị gái đang đi ngoài phố gần nhà để mua một vài vật dụng cá nhân và quần áo. Nhóm công an này không cho biết lý do bắt giữ mà chỉ hung bạo ép cô phải đi.
Hiện gia đình luật sư Lê Thị Công Nhân không biết cô bị giam giữ ở đâu và lo lắng vì cô không kịp mang theo thuốc men trong tình trạng sức khỏe hiện tại.
Như vậy luật sư Lê Thị Công Nhân bị bắt lại chưa đầy 72 giờ sau khi ra khỏi tù tại Thanh Hóa. Vào ngày 6/3/2010 vừa qua, mẹ cô phải đi từ Hà Nội ra Thanh Hóa từ 2 giờ đêm để đến trại giam đón con lúc 6 giờ sáng. Sau nhiều tiếng đồng hồ chờ đợi, quản trại cho biết công an đã đưa cô Lê Thị Công Nhân về nhà rồi. Mẹ cô đành ra về tay không. Nhưng khi về đến nhà lúc 2 giờ chiều bà mới biết đã bị lừa vì không thấy con mình đâu cả. Mãi đến 5 giờ chiều, công an mới áp giải luật sư Lê Thị Công Nhân vào nhà.
Khi được biết tin này, hầu hết các nhà dân chủ đều phẫn nộ và nhận định rằng cách hành xử này chỉ phản ánh một lần nữa thái độ Hèn Với Giặc – Ác Với Dân và vô luật lệ của chế độ cầm quyền hiện nay.
Chúng tôi sẽ theo dõi và tiếp tục tường trình tại blog : radiochantroimoi.wordpress.com
Kim Châm
Phóng viên Radio CTM tại Hà Nội


LÊ THỊ CÔNG NHÂN THAY ĐỔI NHIỆM SỞ
09/03/2010
anle20 Uncategorized 7 phản hồi

Khi Lê Thị Công Nhân trở về từ nhà tù, không hiểu những khẩu hiệu “Mừng Đảng Mừng Xuân” có còn ở khắp nơi? Nhưng còn hay không, thành tích 80 năm tuổi Đảng vẫn không thay đổi. Sự trở về của Lê Thị Công Nhân là một thành tích mới. Nhờ Đảng, cô đã hoàn tất 3 năm tù trước khi đủ tuổi 30.
Khi Đảng mới được một tuổi, người khai sinh ra Đảng cũng đã vào tù. Nhưng Thực dân không bắt chàng ở tuổi 27 như Đảng bắt Lê Thị Công Nhân. Chàng bị bắt năm 41 tuổi, tên chàng là Nguyễn Ái Quốc.
Nhưng đó là chuyện lịch sử ghi nhận về sau. Khi bị bắt, chàng một mực chối rằng mình không phải là Nguyễn Ái Quốc. Chàng tự nhận là người Tầu, tên Song Man Cho. Trong cuộc thẩm vấn chính thức ngày 10 tháng 7, 1931 để xác nhận lý lịch, chẳng những chối bỏ cái tên yêu nước của mình, chàng còn chối bỏ cả quê hương bản quán mình, khai rằng sinh ra tại Tung Hing, một làng nhỏ thuộc tỉnh Quảng Đông, gần biên giới Đông Dương. Mặc dầu được huấn luyện ở Liên Xô, và được gửi về hoạt động ở Đông Nam Á, chàng chỉ nhận có sang Pháp, và chối không bao giờ sang Nga, cũng như không hề có liên hệ gì với Quốc tế Cộng sản (Comintern). Chàng nhấn mạnh mình là người quốc gia, không phải cộng sản[1]. Lịch sử đã chứng minh, tất cả những lời khai này đều không thật.
Tuy là con gái, và khi vào tù kém chàng lúc bị bắt tới 14 tuổi, Lê Thị Công Nhân chẳng những không hề chối, mà hãnh diện về những gì mình làm. Và không đợi tới lúc bị điệu ra tòa. Ngoài việc tự nhận mình thuộc Khối 8406, và là người phát ngôn của Đảng Thăng Tiến Việt Nam, mười ngày trước khi bị bắt, Lê Thị Công Nhân đã thẳng thắn nói cho mọi người, trong cũng như ngoài nước biết vào ngày 26 tháng 2, 2007, rằng:
“Tôi khẳng định với tất cả lương tâm, trách nhiệm của mình đối với đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Tôi sẽ chiến đấu tới cùng cho dù chỉ còn có một mình tôi đấu tranh. Trước hết là để giành lấy nhân quyền cho chính mình và giành lấy quyền tự do cho nguời Việt Nam. CSVN đừng có mong chờ bất kỳ một điều gì là thỏa hiệp chứ đừng nói là đầu hàng từ phía tôi. Tôi không thách thức, nhưng nếu CSVN đã quyết tâm thực hiện những hành vi tội ác bằng cách chà đạp lên nhân quyền của nguời dân Việt Nam và muốn dìm đất nước Việt Nam trong tăm tối về mặt chính trị, nghèo nàn về mặt kinh tế, lạc hậu về mặt văn hóa, kéo dài cho tới trọn đời con cháu của chúng ta cũng như của chính những nguời cộng sản thì họ cứ việc hành xử với những gì mà họ có.
Gia đình tôi đã chuẩn bị cho truờng hợp xấu nhất, đó là tôi sẽ bị khởi tố và có thể bị đi tù. Tôi xin khẳng định một lần nữa, đó chưa phải là điều tồi tệ nhất có thể xẩy ra…
Tôi đã được sinh ra là một con nguời thì tôi có đầy đủ nhân quyền cơ bản mà đấng tạo hóa đã ban cho tôi và tôi đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam hoàn toàn xuất phát từ niềm tin, từ lương tâm và trách nhiệm của tôi đối với chính tôi, với dân tộc Việt Nam và đối với đấng tạo hóa đã sinh ra tôi.
Những gì tôi đã làm đuợc tuy hết sức là nhỏ bé, nhưng nếu như mỗi cá nhân chúng ta đừng thờ ơ, nghĩa là chưa ủng hộ hay ủng hộ rồi mà chưa tham gia hay tham gia rồi mà chưa tích cực, xin hãy mạnh dạn nói lên tiếng nói của mình.
Cộng sản đã hết sức thành công trong việc làm cho dân tộc Việt Nam sống chìm trong nỗi sợ hãi hàng chục năm trời. Nếu chúng ta đều sợ hãi như vậy thì tôi e rằng chúng ta đã sợ hãi quá mức cần thiết, tù tội cũng chưa phải là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra. Tôi không muốn nói mình là một tấm gương, nhưng nếu như tôi có bị tạm thời nhận một nhiệm sở mới hết sức là bất đắc dĩ, đó là nhà tù thì tôi mong rằng các nhiệm sở ở bên ngoài tức là xã hội sẽ có nhiều những người con Việt Nam tiếp tục những công việc mà tôi đang làm. Cố nhiên trong nhiệm sở bất đắc dĩ đó tôi sẽ cố gắng hết sức để vẫn tiếp tục công việc truyền bá dân chủ, dân quyền và đấu tranh cho nền dân chủ nhân quyền và tự do cho người dân Việt Nam.”
Nguyễn Ái Quốc đã được sự giúp đỡ tích cực của luật sư Frank Loseby. Chính nhờ sự giúp đỡ tận tâm của vị luật sư tài ba này, bị cáo chẳng những thoát vòng lao lý, mà chính Hồ Chí Minh sau này thừa nhận, coi như được cứu mạng. Chính họ Hồ, qua bút hiệu Trần Dân Tiên, viết trong Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch rằng:
“Sau này khi nhắc đến chuyện cũ ở Hương Cảng, Ông Nguyễn nói với các bạn:
Ông Nguyễn nhớ ơn ông Lô-dơ-bai và gia đình ông. Không có người luật sư tốt này có lẽ ông Nguyễn đã chết rồi. Không những thế, trong suốt thời gian ông Nguyễn ở tù, ông Lô-dơ-bai và gia đình ông tìm mọi cách giảm nhẹ nỗi đau đớn tinh thần và vật chất cho ông Nguyễn. Sau những phiên toà kết án, ông Lô-dơ-bai cố hết sức giúp ông Nguyễn thoát nạn.
Ngày nay kể lại chuyện này, chúng ta có thể nói không những ông Lô-dơ-bai đáng được ông Nguyễn biết ơn, mà ông còn đáng được nước Việt Nam biết ơn vì đã cứu được một người con ưu tú của nhân dân Việt Nam.”
Việt Nam không thiếu những luật sư tốt như ông Loseby. Không cần nói tới những bậc tiền bối như Nguyễn Mạnh Tường đã bị “rút phép thông công”, chính những luật sư trẻ tuổi đương thời như Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, chỉ vì quá tận tâm nên đã được Đảng chỉ định nhiệm sở trong phòng giam thay vì tòa án, và Lê Quốc Quân với Lê Trần Luật, chỉ vì tốt với thân chủ, nên đã bị rút phép hành nghề.
Theo tin VietNamNet ngày 11 tháng 5, 2007, đăng lại bản tin chính thức của Thông Tấn Xã Việt Nam về vụ xử Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân:
“Tại phiên tòa, 2 luật sư bào chữa cho Đài và Nhân là luật sư Trần Lâm (Đoàn luật sư Hải Phòng), luật sư Đàm Văn Hiếu (Đoàn luật sư Hà Nội) đã không đưa ra được chứng cứ và luận điểm hợp lý để gỡ tội cho 2 bị cáo.
Nhiều người tham dự phiên tòa bày tỏ sự đồng tình với phán quyết của Hội đồng xét xử và cho rằng việc xử phạt nghiêm khắc Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân có tác dụng giáo dục, răn đe đối với những ai có hành vi tương tự.”
Nhiều người tham dự phiên tòa là những ai? Đây là lời kể của bà Trần Thị Lệ, mẹ của Lê Thị Công Nhân:
“Dù Toà có tuyên bố đây là phiên toà được xét xử công khai nhưng thực tế công chúng không được tham dự, mà phòng xử tràn đầy công an chìm nổi và khách mời bên an ninh, hoặc có thể bên Toà án. Thân nhân chỉ độc nhất mẹ Lê Thị Công Nhân và vợ Nguyễn Văn Đài. Bạn bè, thường dân những ai quan tâm đến vụ án đều không đuợc phép vào dự. Em của Lê Thị Công Nhân là Minh Tâm thì bị giữ ở đồn công an phường Trần Hưng Đạo đến 14 giờ mới được cho về.”
Một phiên tòa “công khai”, với thành phần tham dự như vậy, đồng tình với phán quyết của hội đồng xét xử, thì dù có tài thánh, các luật sư Trần Lâm và Đàm Văn Hiếu cũng không thể gỡ tội cho bị cáo. Luật sư chỉ có thể gỡ tội, khi bị cáo có tội. Luật sư không thể gỡ được quyết định sẵn có của Đảng cầm quyền.
Nhưng 79 năm trước, tại Hồng Kông, dưới quyền xét xử của tòa án đế quốc, kẻ tự nhận là Song Man Cho, tức Nguyễn Ái Quốc may mắn hơn. Trần Dân Tiên kể lại phiên tòa của mình:
“Buổi xét xử công khai. Nhưng ngoài toà án đều có lệnh giới nghiêm vì sợ ông Nguyễn trốn. Công chúng ít người được vào xem. Trong phòng họp, nhân viên trong toà án nhiều hơn công chúng, trên cao có chánh án, phó chánh án và một số võ quan. Ở giữa có một cái bàn rất lớn, luật sư đại diện chính phủ buộc tội và tuỳ tùng của ông này ngồi một bên.
Bên kia là những luật sư cãi hộ cho ông Nguyễn…
Hai người nói nhiều nhất, to nhất và đôi khi tranh cãi kịch liệt, đấy là biện lý buộc tội và luật sư cãi hộ cho ông Nguyễn.”
Công chúng ít người được vào xem. Ít là vẫn có, trong khi em gái Lê Thị Công Nhân, chẳng những không được vào, còn bị giữ ở đồn công an. Còn các luật sư Lâm và Hiếu có được ngồi ngang hàng và tranh cãi tay đôi kịch liệt với biện lý buộc tội không? Người viết không thể trả lời thay cho các ông.
Theo bản tin TTXVN đã dẫn, vụ án Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân là một vụ án rất nghiêm trọng:
“Hội đồng xét xử đã xác định tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây dư luận không tốt ở trong và ngoài nước, xâm hại trực tiếp đến an ninh quốc gia, xâm hại đến lợi ích và thành quả đã đạt được của nhân dân ta giành được trong thời gian dài đấu tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”
Một vụ án nghiêm trọng như vậy, mà chỉ diễn ra trong hơn nửa ngày, từ 8 giờ sáng đến quá trưa. Trong khi ấy, vụ án Nguyễn Ái Quốc kéo dài cả tháng. Theo Trần Dân Tiên:
“Sau nhiều phiên toà kéo dài hơn một tháng, chánh án tuyên bố xoá bỏ tất cả những lời buộc tội ông Nguyễn, nhưng ông phải dời khỏi Hương Cảng trên một chiếc tàu Pháp.”
Lê Thị Công Nhân lại kém may mắn hơn người tự nhận là Song Man Cho, tức ông Nguyễn. Cô bị 4 năm tù và 3 năm quản chế, sau được tòa phúc thẩm bớt cho một năm tù giam, giữ nguyên 3 năm quản chế.
Ông Nguyễn tự nhận là người Tầu, không phải người Việt. Ông không chịu lên tầu Pháp để trở về Việt Nam. Luật sư của ông kháng án lên tận tòa tối cao ở Luân Đôn, để ông được sang Anh. Lại theo tự thuật của Trần Dân Tiên:
“Nhờ sự nỗ lực của luật sư Xít-ta-pho Cơ-rít (Stafford Crips), sau một ngày biện luận, toà án Hoàng đế Anh ở Luân Đôn kết luận rằng phải thả ông Nguyễn vì không thể kết án ông Nguyễn vào tội gì. Thứ nhất: tuyệt đối không có gì chứng tỏ rằng ông Nguyễn là một tay sai Nga. Thứ hai: không có chứng cớ ông Nguyễn muốn phá hoại Hương Cảng. Thứ ba: cộng sản hay quốc gia, điều đó không phải là một tội lỗi trước pháp luật Anh.
Thế là ông Nguyễn thắng lợi.”
Ông Nguyễn thắng lợi, và gần 80 năm sau, Đảng ông muốn tống khứ Lê Thị Công Nhân ra ngoại quốc. Hàng con cháu ông là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từng tuyên bố, nếu Ba Lan chấp nhận, chính phủ ông sẽ thả cô ngay. Nhưng cô không chấp nhận. Cô là người Việt Nam, thà ở tù đến mãn hạn, hơn là lên đường lưu vong.
Về đời sống trong tù, ông Nguyễn cũng hơn hẳn cô Lê. Ông kể:
“Mỗi ngày hai lần, chúng cho ông ăn cơm gạo xay và mắm thối. Mỗi tuần hai lần, chúng cho ông ăn thịt bò, cơm trắng. Thật là một bữa tiệc sang!”
Trong thời gian đợi kháng cáo, ông bị bệnh, và được đối xử tử tế:
“Nhờ ông Lô-dơ-bai mà ở nhà thương ông Nguyễn được săn sóc chu đáo. Ông có một cái giường tốt và được ăn cơm tây. Ông nói: cả đời chưa bao giờ Nguyễn được ăn uống sung sướng như thế này.
Ông Lô-dơ-bai và bà vợ cùng cô con gái thường đến thăm ông Nguyễn, đem cho ông quà bánh, sách báo và cả đồ chơi giải trí.”
Theo bản tin VNN đầu năm 2008, Lê Thị Công Nhân tuyệt thực 10 ngày kể từ 27 tháng 12, 2007, đề phản đối nhà cầm quyền Hà Nội đã tịch thu Kinh Thánh, và khủng bố tinh thần, cũng như cho ăn đồ thiu khiến nữ tù nhân bị tiêu chảy. Lê Thị Công Nhân bị giam chung với 29 tù hình sự. Sau khi tuyệt thực 7 ngày thì được chuyển trại tới Thanh Hóa. Trên đường đi bị ngất xỉu, phải khiêng vào trại mới, nên có tin đồn cô đã chết.
Trần Dân Tiên không quên nhắc tới thái độ của báo chí khi tường thuật vụ án của ông:
“Không bị kiểm duyệt như báo tiếng Trung Quốc, nhiều tờ báo Anh đã đăng lại tường tận những buổi xét xử. Khi ông Nguyễn được tha bổng, những báo ấy nhiệt liệt hoan hô ông Lô-dơ-bai và nghiêm khắc công kích chính phủ Hương Cảng. Những báo ấy viết: Một người bị cáo như ông Nguyễn may mắn tìm được một luật sư tốt để bênh vực, nhưng còn biết bao nhiều người vô tội khác bị bắt và bị xử oan. Và các báo cáo ấy kết luận: phải có xét xử công minh đối với mọi người.
Trái lại, báo chí thực dân Pháp ở Đông Dương có một thái độ ti tiện. Các báo này nói xấu ông Nguyễn và bịa đặt những lời nói hết sức vô sỉ.”
Ngày nay không còn báo chí thực dân Pháp ở Đông Dương, chỉ còn báo Việt Nam do Đảng của ông trực tiếp chỉ huy. Tiếc rằng ông không còn sống, để đọc những lời như sau trên báo Người Lao Động:
Nói bậy ăn tiền
Lê Thị Công Nhân chẳng hề chịu thiệt thòi, kham khổ chút nào khi “dấn thân” làm “nhà đấu tranh cho dân chủ” như thế lực thù địch tán dương. Không làm ăn gì với nghề nghiệp của mình, Nhân vẫn sống sung túc nhờ những đồng ngoại tệ mạnh từ nước ngoài. Chưa kể Đài trả công, Nhân đã nhận được tới 2.300 USD, 300 đô-la Úc, 200 euro… cùng nhiều thuốc men hoặc có lần Nhân đã nhận được hẳn 1.500 USD để chuẩn bị cho một chuyến công cán nước ngoài nhằm xuyên tạc tình hình công nhân lao động trong nước[2].
Hai vụ án cách nhau gần 80 năm. Một đằng đế quốc xét xử dân bị trị khác chủng tộc, nhưng vẫn tôn trọng quyền bào chữa của luật sư, và những nguyên tắc căn bản của tư pháp. Một đằng Đảng cầm quyền xét xử chính người dân của mình, bất chấp quyền bào chữa và tính cách độc lập của tư pháp. Trong 80 năm ấy, trải qua bốn thế hệ, bao nhiêu người đã hy sinh, để đạt được những gì? Người khai sinh ra Đảng Cộng sản muốn cả nước mang ơn luật sư Loseby, trong khi Đảng ông ngày nay bỏ tù hết Loseby Việt Nam.
Chắc chắn sẽ có người chê rằng đem đặt vụ án Lê Thị Cộng Nhân bên cạnh vụ án Nguyễn Ái Quốc là so sánh khập khiễng. Đúng thế!
Người viết xin thành thật xin lỗi Lê Thị Công Nhân, vì đã so sánh cô với Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đinh Từ Thức