Tuesday, July 13, 2010

Trâu thôn Chầm

Trâu thôn Chầm
Cập nhật lúc 11:12 | 12/07/2010 (GMT+7)
Trên bờ hồ Khe Lầy, đàn trâu đi khoan thai trong bóng chiều tà. Bóng của đàn trâu soi xuống mặt hồ. Bất chợt, đến vùng nước quen, cả đàn xuống tắm mình trong làn nước trong xanh đầy thích thú. Một lúc sau, chúng mới lên bờ, men theo con đường về làng. Hình ảnh này, từ lâu, đã trở thành một nét đẹp dân dã, đầy chất quê ở thôn Chầm (xã Hương Hồ - huyện Hương Trà).


Đồng quê thương nhớ - Ảnh minh họa từ internet
Năm 1979, thôn kinh tế mới Chầm được thành lập. Từ rất nhiều miền quê trong tỉnh như Lộc Hải, Lộc Trì, Phú An, Phú Hồ, Hương Toàn ... người dân đến đây xây dựng vùng đất mới, dưới chân dãy Trường Sơn hùng vĩ. Đất hoang với rừng thiêng nước độc, để vỡ đất cày cấy, gieo trỉa, bà con phải dựa vào sức của những con trâu đưa từ quê lên. Thế là trâu cũng đi “kinh tế mới” với chủ. Dường như, lên đây, đàn trâu cũng đã tìm thấy cho mình mảnh đất màu mỡ, yên bình để sống, để sinh sôi.

Đàn trâu gắn bó với người dân nơi đây như hình với bóng. Mọi công việc, từ khai phá đất hoang, kéo gỗ vào thời Chầm mới thành lập, đến cày bừa mỗi mùa lúa đến, trâu lúc nào cũng ở bên người. Nhờ đó, từng khoảng đất đồi núi, từng thửa ruộng dọc các con khe đã trở mình, mang lại sức sống mới cho người dân thôn Chầm. Có sự chung sức ấy của trâu, bà con nơi đây đã dần xây dựng Chầm - một làng quê mới dưới chân dãy Trường Sơn, ngày một tươi đẹp hơn, khấm khá hơn.

Ông Nguyễn Văn Uẩn - Chủ nhiệm HTX Hương Hồ 2 bảo: “Thuở mới thành lập, người không đông mà công việc quá nhiều nên trâu đã trở thành một lực lượng lao động quan trọng của chúng tôi. Quả thực, nếu không có trâu thì có nhiều việc khó hoàn thành”.

Mỗi sáng, dọc các đường làng, mưa cũng như nắng, từng đàn trâu dăm bảy con nối đuôi nhau đi ăn cỏ. Đã quen đường, cả đàn cứ thế mà đi, hướng về phía các cánh rừng bên trong Khe Lầy, các thửa ruộng của làng. Vừa đi, chúng vừa tranh thủ gặm một vài bụi cỏ ven đường một cách nhẩn nha. Thỉnh thoảng, tiếng gọi đàn của trâu làm vỡ tan không khí yên lặng buổi sáng sớm. Một ngày làm việc mới của thôn Chầm bắt đầu như thế.

Trên các cánh đồng của Chầm, hiện nay, máy móc đã được sử dụng cho công việc đồng áng. Nhưng trâu vẫn góp sức cùng bà con như thuở ban đầu. Mặc dù, có nhiều người dư sức mua vài ba chiếc máy cày, tuy nhiên, họ vẫn sử dụng trâu để cày, bừa, làm đất như ngày nào mới lên xây dựng vùng đất này. Có lẽ, có một điều thay đổi khi máy cày xuất hiện trên cánh đồng của Chầm, đó là con trâu được nghỉ ngơi, thảnh thơi gặm cỏ hơn ngày trước vì công việc không còn nhiều như trước. Tuy vậy, bà con vẫn giữ gìn, chăm sóc và phát triển đàn trâu của mình.

Cách đây hơn 10 năm, khi máy cày chưa được bà con sử dụng, cả thôn Chầm cũng chỉ có khoảng 80 con trâu lớn bé. Nhưng hiện nay, thôn Chầm có hơn 100 con. Không chỉ phát triển đàn trâu để sử dụng sức kéo khi cần mà bà con còn nuôi để kinh doanh.

Ông Lê Viết Đáo, một người lên vùng kinh tế mới Chầm, từ thuở ban đầu, đến nay, có thể nói là một nông dân thành đạt của thôn, nhưng ông vẫn duy trì đàn trâu 15 con của mình. Ông nói: “Trước, tui nuôi để cày bừa cũng chỉ từ 5 – 7 con. Nhưng bây giờ tui nuôi và phát triển đàn trâu ngày một nhiều là vì kinh tế. Thử tính coi, một năm trong 8 trâu mẹ chỉ cần 3 trâu mẹ đẻ 3 nghé. Nuôi nghé 10 – 11 tháng là bán được từ 5 – 7 triệu. Thành thử 3 nghé như rứa tui cũng có hơn 15 triệu ròng. Đó là chưa kể trâu đẻ nhiều hơn rứa và trâu đực trưởng thành nữa. Tuy không lớn với nhiều người nhưng nông dân mình thì rứa cũng khá rồi ”. Rít điếu thuốc, ông nhìn đàn trâu nói thêm: “Tui nuôi trâu cũng vì tui gắn bó và thấy không thể xa đàn trâu của mình được”.

Nhìn đàn trâu của Chầm, những lái buôn chuyên mua trâu mê tít. Bởi lẽ, đàn trâu của Chầm lúc nào cũng béo tốt, sừng bóng lông mượt. Có được điều đó, cứ rảnh rỗi hoặc lúc nghỉ ngơi, bà con lại đến bên con trâu vuốt ve, chăm chút từng ly từng tý. Ngoài sự chăm sóc chu đáo, theo bà con, còn một yếu tố nữa, đó chính là từng buổi chiều, sau khi đi ăn về, đàn trâu lại tắm mình trong dòng nước mát lạnh và trong xanh của hồ Khe Lầy. Có lẽ điều ấy cũng đúng khi một lần chúng ta được chứng kiến cảnh đó.

Giờ đây, Chầm đã mang trong mình những dấu ấn của sự phát triển. Đường bê tông qua các xóm. Những ngôi nhà to, đẹp đang được xây dựng ngày càng nhiều. Nhìn căn nhà khang trang của ông Nguyễn Thế Sự, người phương xa sẽ nghĩ ông có rừng, có đất nhiều hay làm công việc gì đó có nhiều tiền nên xây được nhà như thế. Nhưng không, tất cả của ông đều từ con trâu. Ông Sự bảo: “Tui có được như hôm nay là nhờ trâu. Tui thì con đông, ăn học tốn kém. Nhưng tui nuôi trâu để làm việc và nuôi trâu để bán nên cũng đỡ. Nuôi, phát triển bầy trâu và bán khi cần nên mới có tiền cho con ăn học. Chớ ruộng đất chỉ mấy sào thì lấy mô? Rồi xây nhà xây cửa nữa. Không có trâu thì không được như ri mô”. Nhìn ông chăm chút đàn trâu 12 con của mình, mới thấm thía câu tục ngữ: “Con trâu là đầu cơ nghiệp”.

Cuộc sống hiện đại đã khiến cho ở các miền quê khác, hình ảnh thanh bình của đàn trâu gặm cỏ giữa đồng đang ngày càng ít đi. Nhưng ở đất Chầm, bao năm qua vẫn thế và sẽ là không bình thường nếu không còn hình ảnh ấy. Người và trâu đã cùng nhau đi qua khó khăn để xây dựng thôn Chầm. Vì thế, mặc dù cuộc sống cũng có những điều mới mẻ đang từng ngày đến với đất Chầm, nhưng có lẽ, tình cảm gắn bó của bà con với đàn trâu của mình là khó thay đổi. Bà con Chầm vẫn nuôi trâu như nuôi “cái tình” của mình vậy.

Đình Đính (TTH)

Cỏn con con hến ...

Cỏn con con hến ...
Cập nhật lúc 07:44 | 09/07/2010 (GMT+7)
Hai giờ sáng, các lò hến bắt đầu nổi lửa. 3 giờ, người của các quán cơm hến, các nhà hàng, các chị bán hến ở chợ... đã lục đục kéo đến lấy hàng. Tiếng nói cười, tiếng đãi hến xôn xao, rộn rã cả góc xóm . Chừng 6 giờ sáng là vãng, trả lại sự yên tĩnh cho xóm cồn bé nhỏ nơi hạ nguồn sông Hương…


Vợ chồng anh Châu Khắc Huế
Hai trăm năm nghề hến ..

Khuôn mặt hiền lành, giọng nói nhỏ nhẹ, từ tốn, anh Châu Khắc Huế, chủ lò hến nổi tiếng nhất hiện nay ở cồn Hến kể: "nghề làm hến tính cho đến anh đã là đời thứ tư. Không giàu, nhưng đã cho gia đình anh một cuộc sống no đủ. Hai vợ chồng, 5 đứa con, đứa nào cũng được học hành và có công ăn việc làm tử tế. Cậu út và cô chị kế đều đang là sinh viên sư phạm". Trận lũ lớn tháng 11 năm 1999, ngôi nhà của vợ chồng anh bị cuốn trôi theo dòng nước dữ. Ngôi nhà hiện nay được xây mới và lùi vào sâu hơn phía trong cồn Hến-mảnh đất chôn nhau cắt rốn và cũng là nơi có vẻ không thể tách rời với nghề.

Cồn Hến là một cù lao nhỏ giữa sông Hương nằm về phía hạ nguồn. Theo quan niệm phong thuỷ, nó đựơc xem là Tả Thanh long của Kinh thành Huế. Trong sách Ô châu cận lục của Dương Văn An, cồn Hến từng được tả là “một cù lao xinh đẹp”. Khởi thuỷ gọi là cồn Soi, cái tên có lẽ bắt nguồn do dân sông nước chài lưới sống bằng nghề soi cá, tôm ban đêm; ngày về đây neo thuyền để nghỉ. Mãi sau này nó mới có tên là cồn Hến.

Có người bảo, cái tên cồn Hến xuất phát bởi hình dáng của cù lao này nhìn từ trên cao xuống trông “hao hao con hến”. Người lại nói tên gọi ấy là bởi người dân ở đây chuyên làm nghề hến, người ta lấy luôn tên nghề để đặt cho tên đất. Chúng tôi nghiêng về cách lập luận thứ hai nhiều hơn. Lại trộm nghĩ, biết đâu, do cái tên cồn Hến đã có từ trước, rồi ai đó đăng sơn ngao du, bất chợt nhìn về và tưởng tượng ra cái hình dạng “hao hao con hến” cho cái cù lao này cũng nên.

Trở lại với nghề làm hến. Dân cồn Hến đoan rằng, nghề này đã xuất hiện từ cách đây đã hai trăm năm dưới thời Gia Long, và người khai sinh là một người đàn bà họ Huỳnh.

Chuyện kể, vợ chồng Bà họ Huỳnh này nghèo lắm. Người chồng cần mẫn ngày đêm đi đánh bắt cá, vợ ở nhà lo chăm con. Mong kiếm thêm chút thức ăn cho gia đình, người vợ cũng cặm cụi ra bờ sông mò bắt hến. Sau, bắt được nhiều bà đem đi bán bớt. Dân Huế bắt đầu làm quen với món ăn mới, mộc mạc, hiền, và rẻ của sông nước quê nhà. Những người phụ nữ khác thấy vậy cũng bắt chước làm theo. Rồi cánh đàn ông cũng nhảy vào.

Từ mò bắt bằng tay, người ta nghĩ ra cái cào để vừa đỡ vất vả vừa bắt được nhiều hến. Tương truyền, đến đời Thiệu Trị, con hến đã được bán nhiều ở khắp các chợ vùng kinh đô Huế và trở thành món ăn ưa thích của nhiều người. Một đầu bếp đã dâng lên vua món ăn dân dã này. Vua Thiệu Trị ăn thử thấy ngon. Hỏi lai lịch nghề và biết được làm nghề hến hết sức cực nhọc mới ban chỉ dụ nghề hến là “nghề được miễn thuế”.

Vùng bờ bãi quanh cồn Hến cũng được xem là nơi cư ngụ và sinh trưởng của “họ” nhà hến. Nhưng đó là trước kia, khi người ta còn mò bắt bằng tay hoặc bằng những cái cào có răng bằng tre, đáy cũng được đan bằng tre hoặc mây có mắc vừa phải để chỉ bắt những con hến đã trưởng thành, chừa lại những con hến con cho chúng tiếp tục sinh sôi.

Sau này, khi được tiêu thụ mạnh, để bắt được nhiều, đáy cào được người ta thay bằng những tấm lưới nylon có mắc rất nhỏ. Tra trẻ trứng mén chi đều bị cào tuốt. Thêm nữa, do công tác trị thuỷ ngày càng cải thiện, nước mặn không đối lưu được vào sông như trước kia khiến môi trường sinh trưởng của con hến bị xáo trộn. Hến ở cồn Hến dần dần hiếm đi.

“Trước, mỗi chủ lò thường có một đội dăm bảy người hàng ngày chuyên đi cào hến. Chừng 6-7 năm trở lại đây, hến làm không có nữa, các lò chủ yếu phải mua nguyên liệu về làm.”-Vợ chồng anh Châu Khắc Huế cho hay.

Hến nhập về một phần từ Phong Điền, nhưng chủ yếu là từ Quảng Trị, Khánh Hoà. Anh Huế không giấu diếm, khi thấy nguồn cung cấp bắt đầu bấp bênh, anh phải chủ động dọ hỏi và tiếp cận nguồn cung cấp. Khu vực cồn Hến bây giờ có xấp xỉ chừng chục lò hến đang hoạt động. Mỗi ngày, người ta thấy 1 xe tải chở hến nhập về. Khối lượng áng chừng 3-5 tấn/ngày. Cũng vì con hến bây giờ không còn chỉ được khai thác trên sông Hương mà đã được “nhập ngoại” chủ yếu nên người Huế và du khách có thể được thưởng thức cơm hến quanh năm chứ không phải chịu nhịn...thèm trong những tháng mưa lụt như trước đây. Những người làm hến cũng không còn phải kiêng khem không làm nghề trong các ngày 24 và 25-6 Âm lịch là ngày cúng Tổ nghề Hến như trước nữa.

Giống như nhiều nghề khác, nghề hến cũng có ngày cúng Tổ. Cúng Tổ nghề Hến được tổ chức vào các ngày 24 và 25 tháng 6 Âm lịch hàng năm. Tại cồn Hến hiện vẫn còn lưu giữ ngôi nhà thờ Tổ tại xóm Giang Phường Hến. Vào dịp cúng tổ, nhà thờ được bài trí tôn nghiêm, lễ phẩm, trầm hương nghi ngút. 25-6 AL, ngày chánh tế, một vị bô lão đứng chủ tế trước hương án được thiết trên một chiếc thuyền gọi là thuyền cầu nghề. Trên hương án có “sắc bằng” (?) tổ nghề vốn vẫn được lưu giữ từ xưa tại nhà thờ họ Huỳnh-họ đã khai sinh nghề hến. Chiếc thuyền được cho chạy quanh cồn Hến để thỉnh Tổ, sau đó rước về nhà thờ và hành lễ.

Nghe nói, trước, thuyền cầu nghề còn được cho chạy về tới tận ngã ba Sình mới quay lên và vòng quanh cồn Hến, nay thì có phần giản lược. Sau khi tế lễ xong, “sắc bằng” tổ nghề lại được trang trọng hoàn thỉnh về tại nhà thờ họ Huỳnh. Dù không còn kiêng làm nghề trong ngày cúng Tổ như trước, nhưng dịp 24-25 tháng 6 AL hàng năm vẫn được những người làm nghề hến vọng về với tất cả sự thành kính.

Đừng khinh con hến cỏn con...

Từ con hến, người ta có thể chế biến được rất nhiều món ăn khác nhau: nấu canh, nấu cháo, xào, trộn xúc bánh tráng...; song nổi tiếng nhất vẫn là món cơm hến. Món này thuộc loại đặc sản độc quyền. Dân “mệ” mười người thì đến chín người rưỡi...ghiền. Người các tỉnh ngoài cũng không hiếm người hễ nghe đến cơm hến là không khỏi...nuốt nước bọt.

Dân Huế thạo chuyện vẫn kháo nhau, thật ra cơm hến là món ăn bình dân nhất trong các món ăn bình dân. Huế xưa có tiếng là sang-đất kinh đô mà lị. Nhưng lại...nghèo. Nghèo thì nhiều khi phải ăn cơm nguội. Đã cơm nguội rồi mà lại còn... ít nữa, rứa mới buồn.

Vậy là “mệ” tẩn mẩn sáng chế, độn rau độn rán vào cho nó khỏi lỏng cái bụng. Thêm đôi con hến cho bắt mắt và- tất nhiên- có chút đạm. Cũng tất nhiên nữa là...phải “nện” ớt vô cho thiệt cay để mà “đánh lừa cái lưỡi” (như trong một câu thơ của mình nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã viết). Rứa mà cái món ăn “mệ” tửng tửng sáng chế thời tu huy tu huýt năm nào tới chừ lại bỗng thành đặc sản. Thế mới thiệt kỳ tài, mới thiệt là... “mệ”.

Xưa, cơm hến được mấy chị, mấy mệ gánh chạy đi bán hết đường này qua ngõ khác. Ai muốn ăn, gọi cả gánh vào. Thậm chí gặp ngang đường, kêu dừng lại, sà xuống mượn cái đòn kê ngồi, đẩn vài tô. Xong trả tiền, ai đi đường nấy. Nay cũng còn hến gánh, nhưng đã hơi ít. Cơm hến thời hiện đại đã được bày hàng bày quán, có ghế có bàn hẳn hòi. Lại còn được “cách điệu” thêm mấy món bún hến, mì tôm hến, cháo hến...

Nhưng cho dù có cách điệu kiểu trời chi nữa, cơm hến vẫn là món chủ đạo. Và cách nêm nếm với những gia vị “rin” theo lối truyền thống với nào ớt, nào ruốc, đậu phụng chiên, tóp mỡ, rau sống... vẫn không gì có thể thay thế, càng “rin”, càng truyền thống càng đắc khách. Ngoài vùng cồn Hến đã có tiếng xưa nay, bây giờ thêm đường Trương Định, đường Phạm Hồng Thái được xem là... “trung tâm cơm hến” của Huế.

Sáng sáng, đặc biệt là thứ bảy, chủ nhật, người đi ăn cơm hến chen chân như hội. Ngồi chờ ăn cho đựơc tô cơm hến phải nói là...toát mồ hôi. Vậy mà không thể bỏ được. Cơm hến nổi tiếng không chỉ do ngon mà còn cả do rẻ nữa. Quá rẻ là đằng khác. Tôi cứ nhớ mãi cái dạo được hân hạnh mời một vị linh mục từ một nhà thờ khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn đi ăn điểm tâm. Món cơm hến là lạ hình như đã ngay lập tức chinh phục vị khách của tôi. Ngài dùng một lèo 3 tô mà trông chừng vẫn còn lưng lẻo. Tôi mời dùng thêm, nhưng vì tế nhị, lại có lẽ cũng do sợ tôi tốn tiền, nên vị khách một mực từ chối. Đến lúc thấy tôi rút ví: 3 tô 9 ngàn (hồi ấy còn 1 tô 3 ngàn đồng), ông ngẩn ngơ không thể hiểu nổi. Quái lạ cái xứ, sao lại có một món ăn ngon mà lại rẻ đến kỳ cục?

Bây giờ cũng tại điểm mà tôi từng mời khách, cơm hến đã tăng giá. Nhưng cũng chỉ thêm mỗi tô 1 ngàn. Chất lượng thì vẫn giữ được, vẫn đủ “sức mê” hoặc nhiều người. Mới mấy bữa đây thôi, tôi và một đồng nghiệp là nhà báo Hoàng Giang có dịp gặp một nữ doanh nhân giàu có, xinh đẹp của xứ sở bên kia đèo Hải Vân. Nghe giới thiệu có mấy nhà báo Huế, chị buột miệng: “Ra Huế ở lại, sưóng nhất là buổi sáng không bị ai...mời đi ăn sáng. Để chi? Để được tới đường Trương Định làm một chầu cơm hến... cho đã.” Cỏn con và rẻ tiền như con hến, ai dám bảo nó không được việc cho Huế đi nào?...
Diên Thống (TTH)

Mưu sinh trên sông Hương

Mưu sinh trên sông Hương
Cập nhật lúc 02:57 | 07/07/2010 (GMT+7)
Về phía hạ nguồn, sông Hương chảy qua xã Phú Mậu ( huyện Phú Vang), dòng sông mở rộng mênh mông, mút tầm mắt nhìn từ bên này sang bên kia sông.


Vạn đò trên sông Hương, phía thượng nguồn
Khoan hãy đánh giá những yếu tố khác, chỉ nhìn ở khía cạnh kinh tế, sông Hương là cội nguồn của bao sự sống. Trên một đoạn sông ngắn cỡ 2 km đoạn Bao Vinh đã đi qua, tôi đã nhìn thấy rất nhiều người dựa vào sông Hương làm kế mưu sinh, từ đời này qua đời khác. Ít nhất trên khúc sông này, hàng ngày diễn ra 3 nghề chính: nghề giăng câu bủa lưới; nghề khai thác cát sạn và nghề cào hến.

Lê Văn Trung tuổi đời còn rất trẻ nhưng đã nhiều năm gắn bó với nghề cào hến. Trước đây, muốn cào được hến người dân phải trầm mình trong dòng sông. Bây giờ điều kiện kinh tế có khá hơn, sắm được ghe máy, nghề cào hến đã có nhiều cải tiến. Cách cào hến như thế này đỡ vất vả hơn trước. Thu nhập cũng cao hơn. Mỗi ngày hai anh em Trung làm từ sáng đến khoảng 11 –12 h là nghỉ, ngày nào cũng kiếm được khoảng 100 ngàn đồng.

Trung không thống kê được nhưng khẳng định với tôi rằng, hiện nay có nhiều người làm nghề cào hến . Ngay sáng hôm chúng tôi đi trên sông Hương cũng nhìn thấy cả chục chiếc thuyền đang cào hến. Cái tên Cồn Hến quen thuộc đã làm cho nhiều người nghĩ rằng đó chính là nơi có nhiều hến. Nhưng không phải vậy. Cồn Hến chỉ là nơi chế biến. Còn nơi hến nhiều nhất và nhiều người làm nghề này nhất chính là ở vùng sông Hương đoạn qua Phú Mậu. Nghề cào hến- một loại nhuyễn thể li ti - đã nuôi sống biết bao người. Hơn thế nữa, chính nó đã làm nên một món ăn bình dân trở thành đặc sản của Huế - món cơm hến.

Bên cạnh những người làm nghề cào hến, trên sông Hương còn có một nghề khác, nghề giăng câu bủa lưới. Giữa một vùng sông nước mênh mông, những chiếc thuyền câu lướt nhẹ như ru, bình thản. Tôi đã gặp nhiều người làm nghề thả lưới. Những tay lưới nhỏ chỉ để bắt một đối tượng cá duy nhất đó là cá bống. Cá bống sông Hương kho khô cũng là một đặc sản của ẩm thực Huế.

Bằng kinh nghiệm nhiều năm trong nghề, mẹ Võ Thị Quýt bảo, muốn bắt được cá bống phải đi theo con nước. Những ngày trời lặng gió mới bắt được nhiều loại cá này. Trước đây khi còn trai trẻ, chồng của mẹ Quýt làm nghề quăng chài. Còn bây giờ tuổi dã về già, sức yếu, ông bà chuyển sang làm nghề thả lưới. Tuy thu nhập bất chừng, lúc nhiều lúc ít nhưng dù sao cũng sống được với nghề.

Có một nghề khác cũng tồn tại từ lâu trên đoạn sông này, Tuy có nhọc nhằn hơn nhưng bù lại cũng có thu nhập cao hơn, đó là nghề khai thác cát. Theo thời gian và kinh nghiệm nghề nghiệp, nghề xúc cát từ lòng sông cũng có nhiều cải tiến. Tuy chưa cơ giới hóa nhưng bằng những chiếc guồng quay như thế này năng suất lao động cũng đã cao hơn trước. Là một nghề nặng nhọc nhưng nếu chăm chỉ thì cũng đủ sống.

Đây chỉ là 3 nghề trên một khúc sông. Còn bao nhiêu ngành nghề khác, những cuộc đời khác dựa vào sông Hương để mưu sinh, tồn tại. Tôi đã có một ngày lang thang trên sông Hương bằng đò máy, mới nhận ra một điều rằng, sông Hương không chỉ đẹp, là một yếu tố không thể thiếu để làm cho thành phố Huế trở nên thơ mộng mà sông Hương còn như một người mẹ bao dung, che chở cho bao phận người...
Nguyên Lê (TTH)

Nơi đỉnh núi mù sương

Nơi đỉnh núi mù sương
Cập nhật lúc 10:14 | 06/07/2010 (GMT+7)
Cùng với cơn mưa bất chợt, chúng tôi đi chầm chậm dẫm lên cái dải lụa cong men theo vách núi của dãy Bạch Mã tìm lên phía đỉnh. Rồi trời cũng bất chợt tạnh.


Bình minh trên đỉnh Bạch Mã - ảnh từ internet
Cái thất thường nắng mưa con gái ở cái độ cao gần 1500 mét so với mực nước biển dường như vẫn không hề thay đổi như khi chúng tôi vẫn hằng quẩn quanh cõi nhân gian đông đúc phía dưới xa kia. Chúng tôi đi. Những bờ dốc giờ đã trắng xóa những sương là sương.

Sương thậm chí còn đuổi theo lưng chúng tôi, như muốn gắng xóa đi cái ranh giới mong manh thực tại giữa con người và thiên nhiên hoang dã. Miệng chúng tôi đặc quánh sương. Hơi thở phả ra cũng lốm đốm những vệt sương. Tất cả như tạo như đã tạo nên một khoảng trống, một khoảng trắng lạ kỳ, như đẩy chúng ta rơi, rơi mãi. Và trong khoảnh khắc ngập sương đó, ta bỗng bồng bềnh nhặt lượm những ngôn ngữ vô ngôn. Để rồi thấy mình lăn mãi, lăn mãi như một ký ức vo tròn của ngày lãng đãng.

Đám sương cuối cùng cũng qua đi và thay vào đó là những tia nắng long lanh đến bát ngờ. Nắng dường như cũng không đủ cái nồng ấm sau khi men qua lớp sương dày đặc ấy, tiếp tục đi qua những tán cây rậm, để đến với chúng tôi là những đám pháo-bông-nắng lung linh đủ màu. Nó không những xuyên qua những tàn cây, mà còn xuyên qua lớp màn ngăn nào đó trong vạt ký ức lặng lẽ vốn chỉ hiện diện khi con người rơi trong cô đơn. Vậy là chợt bùng lại thứ ký ức vàng mật ấy. Thứ ký ức đi qua cuộc đời của mỗi con người mà có lúc ta lại tưởng nó nằm lại bên những con dế, bên những chiếc chiếc xe tí hon chạy bằng…con bọ xít, và bên cả những nỗi buồn trong veo lơ đãng như buổi sáng của những ngày đã trôi.

Vậy là ký ức nắng cũng lại về bên ký ức rong ruổi của một phần đời người. Nắng lại làm tôi nhớ về cái nắng của một tuổi thơ tâm hồn. Dạo đó, tôi dang học cấp II. Buổi sáng sớm, tôi cùng với ba thường hay lên những vạt đồi ở Chín hầm để cào lá thông và cũng thường bắt đầu “mùa” cào lá vào khoảng cuối tháng 4 này. Con đường lên Chín Hầm cũng chưa được trải nhựa như bây giờ.

Chúng tôi không đi ngược lên đường Điện Biên Phủ rồi theo đường lên nghĩa trang thành phố, mà đi theo ngả về nghẹo Giàng Xay, lên xóm Hạ Lúa, dắt xe băng qua một khu nghĩa địa rồi mới lên con đường đến Chín hầm. Như vậy tiết kiệm được cả nửa quãng đường. Và chúng tôi di cào lá khi nào rời khỏi nhà cũng vào lúc gần 4 giờ sáng. Như vậy, hai cha con tôi cùng 2 chiếc xe đạp rong ruổi trên nẻo đường ấy để rồi như là những người hạnh phúc nhất, khi mình được đón ánh bình minh đầu tiên của một ngày trong cái không gian tinh khiết nhất của núi rừng.

Khó có có lời nào diến tả khi đón những tia nắng đầu tiên của một ngày đang len dần qua những ngọn thông, qua những chiếc lá bé nhỏ còn ngân ngấn những giọt sương đêm. Cả cái không gian hoang sơ như cuộn vào trong ngọn nắng đầu tiên ấy. Tiếng chim ban mai nghe ngọt lịm một cách lạ lùng, cứ như tiếng hót của chúng đã trong hơn, mơn man hơn sau khi uống được những tia nắng đầu tiên ấy. Rồi tia nằng vượt qua những rừng thông, chiều lên mặt đường còn ẩm hơi sương và gồ ghề những mảnh đá. Cả một rừng tóc xanh lớt phớt vàng khiến cho không gian phía trước mặt bỗng như một niềm bí mật mà chúng tôi càng đi tới, chúng lại từ từ hé mở.

Trong làn hơi sương mỏng mảnh bay lên, những ngọn cỏ xanh mướt và mềm mại hẳn đi như vừa qua một giấc mơ hạnh phúc. Những chiếc bánh xe dổ dài chia từng khoảng nắng. Nắng xoay quanh chúng tôi, đậu lên những chóp mũ và phà vào chúng tôi cái rạo rực của mùa đang trôi đi trong từng giây phút. Cái mệt vì phải dắt xe qua nửa ngọn đồi bỗng tan biến mất, chỉ còn một nỗi lâng lâng quay tròn thời gian, quay tròn cả cái không gian hiện hữu ban tặng nỗi miên man về một ngày thật đẹp. Và cái đẹp dã trở thành một nỗi ám ảnh của ký ức tuổi thơ trong tôi.

Giờ đây, trong cái ngỡ ngàng nắng Bạch Mã, cái ký ức tuổi thơ lại hiện rõ đến lạ kỳ. Nó như đang lơ lửng ở một góc khuất nào đấy, hay đang lơ lửng ở giữa cái ngun ngút độ cao và ngờm ngợp hơi nắng hơi sương . Lên Bạch Mã, tôi lại như được nhìn lại một tuổi thơ của mình, một tuổi thơ lãng đãng về một tuổi thơ khác. Và với Bạch Mã, nó sẽ hiện ra trong sương trong nắng trong mưa như là tuổi thơ ký ức hoang sơ và thánh thiện của thiên nhiên và của cả con người.

Có nhà văn nhà thơ cũng từng than thở: viết mãi rồi cảm xúc cũng chai sạn. Nhưng phải chăng, cảm xúc là những ký ức vẫn nằm sâu nơi nào đó của tâm hồn. Nó sẽ mờ đi, chai sạn đi khi ta cố tình tạo nên những- ký - ức - không - thật. Còn ở đây, trước cái không gian Bạch Mã như huyền thoại này, khi mà mỗi người “gần” với chính bản thân mình nhất, ký ức sẽ mãi là suối nguồn tươi trẻ kéo ta đi…

Lê Tấn Quỳnh (TTH)

Nghĩa tình cơm hến quê tôi

Nghĩa tình cơm hến quê tôi
Cập nhật lúc 09:49 | 26/09/2008 (GMT+7)
Đối với người Huế xa quê, cái món cơm hến như là một biểu tượng về mặt văn hóa ẩm thực của một vùng đất thơ để rồi nhớ hoài nhớ mãi...
Đã mấy năm rồi tôi không về thăm quê để được thưởng thức món ăn dân dã nhưng đầy hương vị quê nhà; đó là món cơm hến Huế. Ở Huế có nhiều món ăn rất “đặc sản”, nhưng không hiểu sao cái món ăn ”kỳ cục” này cứ ” ám ảnh” tôi , mỗi lần nghĩ đến là ”bồi hồi” nhớ mãi!


Cơm hến: Ảnh: Photo La chí Cường)
Thuở còn cắp sách đi học, vào mùa Đông lạnh lẽo ở Huế, buổi sáng được mạ cho lót bụng bằng một tô cơm hến của o Hoa thì thật tuyệt vời!
Muốn ăn cơm hến thì không phải đi đâu xa, chỉ ra ngồi đợi trước nhà năm ba phút là có ngay! Cứ mỗi sớm mai, những chuyến đò Cồn chở sang hai dải đất, bên tả, bên hữu ngạn sông Hương những o thôn nữ mặc áo dài, gánh trên vai một đôi quang gánh. Ở đằng sau là một cái thúng đựng hến và các món phụ tùng. Đằng trước là một nồi nước luộc hến. Họ đi khắp các ngả đường thành phố, rao lên những tiếng:”hến khô…ông…”, dài và ngọt!
Chỉ có con hến dược xúc từ dưới đáy sông quanh cồn Hến - cái đám đất tự nhiên nổi lên trên sông Hương trong xanh, mới có thể làm nên món ăn rất độc đáo này!
Hến được xúc dưới sông lên, sau đó đem luộc, để dành lại phần nước sôi đã luộc, còn hến thì mang ra sông “đãi" trên những chiếc rỗ lớn, tách riêng phần vỏ và phần thịt hến riêng (thịt hến được người Huế gọi là mặt hến). Thịt hến là vị chủ cơ bản làm nên món cơm hến. Tuy nhiên, cơm hến ở Huế ngon chưa phải do con hến quyết định hoàn toàn; nó chỉ là một thành phần bình thường trong một “tổ hợp” nhiều thành phần, để tạo thành… tô cơm hến!
Ăn cơm hến phải là ăn với cơm trắng để nguội. Hến luộc được xào kèm theo bún tàu, măng khô và thịt heo thái chỉ. Các loại rau ăn kèm là bắp chuối xắt mỏng như sợi tơ, trộn lẫn với bạc hà, khế chua và rau thơm xắt nhỏ. Gia vị ăn kèm là bộ đồ màu có đầy đủ các vị, chua cay, mặn ngọt, béo bùi rất nhiêu khê! Đó là: ớt tương; ớt màu; bánh tráng nướng bóp vụn; muối rang, đậu phộng giã chập; mè rang; da heo rang giòn; tóp mỡ; vị tinh… Ôi thôi có cả hàng chục món phụ tùng ăn theo tô cơm hến, trong đó không thể thiếu gia vị cơ bản là món ruốc sống. Tô cơm có ngon hay không, phần lớn cũng do cái món ruốc sống này quyết định!
Nhìn bàn tay của o Hoa rắc và rải gia vị bằng những cái gáo nho nhỏ vào tô cơm, mỗi thứ một chút, tôi có cảm giác như riêng mình được o chăm sóc một cách rất tận tình…!
Nước luộc hến đùng đục, được o múc ra từ chiếc nồi bốc khói nghi ngút, bằng một chiếc gáo sọ dừa xinh xắn. Trong nước hến có có mùi thơm của gừng, có lẽ để làm giảm đi cái vị quá “mát “ của con hến chăng? Nồi nước hến bao giờ cũng nóng, vì thế chan vào tô cơm ăn rất ngọt.
Sự cộng hưởng của các gia vị trong tô cơm hến đưa mùi thơm dâng lên mũi, vị ngọt thấm vào đầu lưỡi, chất béo lan tỏa trong miệng; cái âm thanh rùm rụm của tóp mỡ khiến từng giác quan căng lên! Thật là thích thú…
Hương vị rất riêng và độc đáo của tô cơm hến là mùi ruốc thơm “nồng nàn”, cộng cái vị cay xé của ớt tương, ớt trái, đến độ ai cũng trào nước mắt! Thế mà ai cũng như ai ,”mồ hôi mồ kê “ tuôn ra trên trán, sì sà sì sụp, xuýt xoa kêu: “ngon, ngon.."!
Nếu hôm đó trời lạnh, ăn xong một tô cơm hến của o Hoa, bao nhiêu cái khí lạnh của xứ Huế phút chốc bỗng tan biến. Tôi sụt sùi lau mũi, yên tâm vững bụng đạp xe đến trường…!
Sau này, ở Huế người ta còn bày thêm món bún hến: dùng bún thay cơm nguội. Nhưng xem ra cái món ”cải biên“ này ít được người Huế yêu thích…
Lạ thật! Là món ngon, nhưng có những món là đặc biệt ở vùng này nhưng ở vùng khác người ta vẫn làm được, tuy không bằng nơi đã sản sinh ra nó. Riêng cái món cơm hến của Huế thì chỉ ở Huế mới tận hưởng được hết cái hương vị thật của nó. Chỉ có con hến của dòng sông Hương thơ mộng, quanh cái vùng “đất thiêng” Cồn Hến, thì mới tạo nên cái món cơm hến rất dân dã mà đậm đà hương vị của một vùng đất thơ.
Tôn Thất Thọ (hue360

Lan man Huế ẩm thực bình dân
Cập nhật lúc 08:24 | 02/07/2010 (GMT+7)
Tôi là một người Huế thứ thiệt, lang bạt cũng nhiều, thuộc loại sành ăn, đọc nhiều sách liên quan đến dạ dày và mồm miệng của Huế và cả thiên hạ, thế mà lần này về Huế, vừa lang thang ăn bụi, vừa dự chiêu đãi, thì thấy té ra vốn liếng ẩm thực của mình mới chỉ là muối giữa đại dương.


Cơm hến Huế
Cái món cơm Hến tôi ăn ở nhà ông Nguyễn Xớn do bà vợ ông là chị Yến làm nó khác hẳn cơm hến ăn ở ngoài quán hoặc nhà hàng. Nhiều người nơi khác ăn cơm hến ở các quán Huế chê rằng nó nhạt, có người ăn không hết tô một nghìn. Ăn rồi không bao giờ ghé lại. Nhưng chị Yến làm lấy thì khác. Nó đậm đà và ngon vô cùng.

Bí quyết chính là ở độ nước ruốc chị pha. Hến và nước hến chị mua ngoài chợ. Nhưng rau và gia vị thì chị pha lấy. Ngoài các thứ rau mà ngoài tiệm có, dứt khoát phải có bạc hà chẻ nhỏ. Cũng ruốc ấy, nhưng chị pha nó khác, một tô to, khi chan nước hến thì chan cùng. Ngoài ra là hến khi mua về, chị xào lại rất hấp dẫn. Tôi đã chứng kiến mấy người Việt Kiều đẻ ở nước ngoài mà mồ hôi mồ kê nhễ nhại xếp bằng và miếng nào ra miếng ấy cơm hến chị làm trong những cái tô chẳng mang phong cách Huế chút nào.

Bún bò Huế dĩ nhiên là nổi tiếng. Nhưng những người sành Huế lại ít khi vào các quán lớn, lòe loẹt, nơi ấy chủ yếu dành cho... khách du lịch. Họ ăn bún gánh, hoặc lưu động, hoặc cố định ở các vỉa hè, mà gánh bún mụ Vàng ở đường Trần Thúc Nhẫn, sát trụ sở báo Thừa Thiên Huế là ví dụ. Bún ở đây đạt các tiêu chuẩn: nước ngọt, trong, thanh, có hương vị Huế, nóng và... rẻ. Tôi đã nhiều lần nhặt một cái ghế thấp, ngồi ăn ở đây, liếc sang bên cạnh thấy mấy ông nhà văn nhà báo nổi tiếng xứ Huế đang suỵt soat. Nhìn ra sau lại thấy mấy giáo sư tiến sĩ dạy đại học Huế, com lê cà vạt cặp da cũng đang bê bê húp húp. Phía trước, mấy chị mấy o môi đỏ thắm, váy áo lòe xòe vừa ăn vừa đoán xem tối nay cái cô Hay Xin Hun trong bộ phim Hàn Quốc sẽ làm gì? tự tử chết hay ung thư hay máu trắng. Bên phải, mấy bác xích lô, mấy anh bảo vệ chợ ngồi chồm hổm hẳn hai chân trên ghế. Mấy cô cậu sinh viên thì vừa ăn tô hai ngàn vừa hỏi nhau ai trả tiền. Ở đây không có bàn, mỗi người một tô, một đôi đũa, và húp...

Khắp nước, tỉnh thành nào cũng có quán “Bún bò Huế”, ở Huế thì tất nhiên là nhan nhản rồi, nhưng lạ, chỉ ăn ở đây tôi mới cảm được cái chất Huế nó toát ra từ giọt mồ hôi rìn rịn trên lưng, từ tiếng xuýt xoa vì cay, từ cái hôi hổi phù phù vì nóng, từ cái dáng đảo tay như múa của “mụ Vàng” khi huơ cái môi tổ bố vào nồi nước dùng nghi ngút khói chọn xương thịt gân da theo yêu cầu của khách...

Thời sinh viên, chúng tôi cứ ước ao sau khi ra trường sẽ dùng tháng lương đầu tiên để làm một việc vĩ đại, ấy là ăn một bữa bánh bèo nậm lọc Nhật Lệ kỳ cho căng bụng, cho hoành tráng, cho không đứng thẳng lên được. Bánh nậm bánh lọc nhân tôm nhân thịt nhân đậu là đặc sản của Huế. Còn bánh bèo thì tôi thấy nhiều nơi có, nhưng khi ở Huế nó khác hẳn. Khác từ khuôn khổ bánh cho đến cái món ruốc tôm rắc lên đấy, đến cái thứ nước vừa chấm vừa húp.

Bây giờ ở Huế rất nhiều quán “Bèo nậm lọc” mở ra phục vụ du khách, đặc biệt là các quán bên hông cung An Định. Nhưng nếu đi ăn hoặc giới thiệu cho bạn bè, tôi vẫn tìm về các quán sinh viên một thời của tôi. Ở đó, rất nhiều lần chúng tôi đã... ăn thiếu nợ và chủ quán vẫn vui vẻ... mang sổ ra.

Cái nồi cá biển (chủ yếu là nục, song, ngừ...) mà mấy quán cơm bụi ở Huế kho cũng khác. Ớt Huế cả quả cho vào kho lẫn đến nhừ, khi ăn gắp cả quả nghiêng đầu nhỏ nhẻ cắn, ớt ngon hơn cá, vì bao nhiêu tinh túy hương hoa của cá lặn hết vào... ớt. Xin nói thêm, ớt Huế là loại quả to, dài, da nhăn, ăn xanh ngon hơn ăn chín, độ cay vừa phải. Cay mà thanh chứ không hắc như ớt các nơi khác. Ớt Huế ít hạt và giòn, người sành toàn chọn ớt xanh để ăn. Vào quán bún người ta để cả tô ớt xanh cắt ngâm nước mắm, khách gắp ăn sồn sột như ăn... khoai sống.

Có một câu chuyện vui, có thể là thật, có thể không. Ấy là hai khách du lịch vào ăn bánh khoái Lạc Thiện nổi tiếng ở cửa Thượng Tứ. Gặp lúc đông khách, chủ quán mang rau sống và nước lèo ra trước, hai vị hì hụi ăn, ăn hết kêu nữa, ăn no vỗ bụng khen ngon và kêu tính tiền trong khi bánh thì vẫn đang còn đổ trên bếp.

Rau sống dùng để ăn kèm bánh khoái ngon lắm, gồm cải non, vả, chuối chát, xà lách, khế chua... chấm với nước lèo lại là một tổ hợp tuyệt vời nữa gồm tôm, gan lợn, thịt lợn, mè, đậu phộng... xay nhuyễn chưng với nước dùng theo một bí quyết gia truyền. Thế nên hai vị khách kia mới chưa đợi bánh ra đã ăn no rau sống với nước lèo, vì tưởng bánh khoái chỉ là... rau và nước lèo.

Tại Festival thơ Huế vừa qua, chúng tôi được dự một cuộc chiêu đãi “cơm muối” tại nhà vườn ý Thảo của chủ nhân Nguyễn Xuân Hoa. Nhà vườn của ông nằm trong hệ thống tour du lịch của Huế. Ông Hoa chính là giám đốc sở Văn Hoá Thông Tin Thừa Thiên Huế, phó ban thường trực tổ chức Festival Huế và vợ ông là bà Cúc, thư ký toà soạn Tạp chí Sông Hương. Cả trăm thực khách đã ồ lên khi trông thấy thực đơn mà người phục vụ đưa ra và ai cũng muốn giữ một tờ làm kỷ niệm và phục vụ... nghề nghiệp của mình (vì đều là nhà thơ, nhà báo). Bà Cúc lại phải in thêm phát cho mọi người. Thực đơn như sau: 1/ Muối tiêu. 2/ Muối trắng. 3/ Muối mè. 4/ Muối ớt tươi. 5/ Hành muối. 6/ Kiệu muối. 7/ Muối đậu. 8/ Muối sả. 9/ Muối tôm. 10/ Dưa muối. 11/ Cá rô um muối. 12/ Muối ớt bột. Mười hai món muối khi ăn được diễn dịch như thế này: Tôm hấp dừa chấm muối tiêu. Cháo hoa ăn muối trắng. Sắn luộc chấm muối mè. Thịt nướng chấm muối ớt tươi ăn kèm hành và kiệu muối. Cơm nắm mo cau chấm muối đậu. Cơm gạo tám ăn với ruốc tôm... Chao ơi là Huế. Thanh cảnh mà phức tạp, tự tin mà giữ gìn, kiệm mà sang, kỹ càng, chỉn chu, đằm sâu đến... nghi ngại. Thì Huế là thế.

Quê tôi một làng cổ ở huyện Phong Điền, mỗi khi nhà có đám, làm cỗ đều phải trên chục món, các món đều được đơm vào những cái đĩa bé xiu, người phàm tay gắp 2 đũa là sạch đĩa. Hơn chục, thậm chí hai chục món, các món đều đơm 2 đĩa nên mâm cỗ xếp hình chóp, khi ăn người ta ăn từ trên xuống dưới, xong đĩa nào bỏ xuống, lộ ra món khác. Cách xếp cũng vô cùng cầu kỳ. Rau cải xanh, trái vả trắng đục, hành củ trắng, ớt đỏ, thịt ba chỉ luộc, tôm chua... xếp lẫn vào nhau trong một ý đồ tạo sắc rất hấp dẫn.

Huế tinh tế đến từng chi tiết trong món ăn, đĩa thức ăn. Tất nhiên, bây giờ đời sống công nghiệp, người ta ít tỉ mẩn ngồi tỉa từng cọng rau, giã từng con tôm làm ruốc. Mua ngoài chợ nhanh hơn. Ngay món cơm hến, đúng ra phải mua hến ở chính cồn Hến rồi về luộc, đãi, lọc... thì bây giờ người ta luộc sẵn, đãi sẵn bán đầy chợ. Đảm đang thì mua thứ này về làm, còn không thì ra tiệm mà ăn. Nhanh nhiều bổ rẻ... và điều ấy đang làm buồn lòng những người hoài Huế, những người coi ẩm thực và thú vui ẩm thực là văn hóa Huế, là một phần của đời sống Huế...

Văn Công Hùng (TT-H

Sòng bạc đắt nhất hành tinh ở Singapore

Góc nhìn từ sòng bạc đắt nhất hành tinh ở Singapore
Cơ hội phát triển sòng bạc ở châu Á lớn đến mức thêm 5 Las Vegas nữa cũng không đủ đáp ứng nhu cầu nơi đây - không phải tự nhiên mà trùm cờ bạc Mỹ thốt ra như vậy khi khai trương sòng bạc đắt nhất hành tinh ở Singapore.
Sau gần hai thế kỷ cấm đoán, cuối cùng, chính quyền Singapore cũng lao vào cuộc chạy đua trong lĩnh vực kinh doanh sòng bạc, cùng với Ma Cao hay Nhật Bản trong khu vực. Cuối tháng 6, đảo quốc Sư tử đã khai trương một quần thể giải trí bao gồm một casino khổng lồ, công viên tái tạo và khách sạn hạng sang với chi phí xây dựng lên đến 5,7 tỷ USD.


Mô hình Marina Bay Sands trước khi khởi công...


… và khi hoàn tất với bể bơi lộ thiên lớn nhất thế giới đặt trên đỉnh 3 ngọn tháp
Quần thể Marina Bay Sands này bao gồm 3 toà nhà cao ốc, mỗi toà có đến 55 tầng. Ở trên nóc là Skypark - một công viên lộ thiên trồng hoa, lợp cây xanh và có nhiều hồ tắm. Ở phía dưới là một trung tâm thương mại cộng thêm một khách sạn 5 sao với hơn 2.500 phòng. Còn sòng bạc thì cao trên 4 tầng lầu với hơn 600 bàn chơi bài, hàng loạt máy chơi jackpot và màn hình chơi poker điện tử. Bên cạnh đó còn có hàng loạt nhà hàng và quán bar, cộng thêm một viện bảo tàng và hai sân khấu lớn dành cho các vở ca nhạc kịch.
Trong tuyên bố trước báo giới nhân dịp khánh thành Quần thể Marina Bay Sands, ông Sheldon G. Andelson, chủ tịch tập đoàn Las Vegas Sands Corporations, nói Marina Bay Sands trước tiên sẽ nhắm đến các khách hàng từ Singapore, Malaysia và Indonesia, trong khi không quên để mắt đến các nước Đông Nam Á khác như Thái Lan, Việt Nam. Ông này còn đưa ra nhận định “như đinh đóng cột” rằng “xu hướng bài bạc” không chỉ là một phần của văn hóa châu Á mà đang là ngành làm ăn phất lên chóng mặt ở khu vực này. “Tôi tin rằng chúng ta có thể xây các thành phố tương ứng với 5 Las Vegases, với những khách sạn 140.000 phòng ở 5 địa điểm khác nhau ở châu Á mà sẽ vẫn chưa làm ‘bão hòa’ nhu cầu này”.
Có một thực tế rõ ràng là kinh doanh casino đang trở thành xu hướng kiếm tiền ở châu Á. Nhưng mục tiêu có phải chỉ nhằm thỏa mãn “cơn khát cờ bạc” ở khu vực?
Bất chấp những quan ngại về ảnh hưởng tới xã hội, Singapore đã bật đèn xanh cho hoạt động kinh doanh đánh bạc từ năm 2005. Cách đây 5 năm, nước này đã cho xây dựng casino đầu tiên trên hòn đảo nhân tạo Sentosa với chi phí xấp xỉ 4,5 tỷ USD. Lần này, Singapore nhắm tới một mục tiêu cao hơn nữa khi hợp tác với tập đoàn giải trí Las Vegas Sands Corporations để hoàn tất sòng bạc sang trọng và đắt tiền nhất thế giới.



Sòng bạc nổi tiếng nhất Ma Cao - Khách sạn Lisboa…


… Ma Cao cũng là nơi có sòng bạc lớn nhất thế giới - Venetian - đặt trên diện tích 51.000m2
Singapore nuôi tham vọng trở thành Monte Carlo của châu Á. Trong năm qua, Singapore đã thu hút 10 triệu du khách, thu về 8,7 tỷ USD. Khi xây thêm các quần thể giải trí, nước này đặt mục tiêu đến năm 2015 sẽ phu hút được hơn 17 triệu du khách – hơn gấp 3 lần dân số quốc gia này – một cách kiếm tiền từ casino. Nếu mô hình thiết kế casino của Singapore gợi hứng từ Mỹ, thì đối tượng mà đảo quốc Sư tử nhắm đến lại bắt chước Ma Cao – đó là khách hàng châu Á. Thị trường Ma Cao tuy nhỏ nhưng lại hái ra 14,5 tỷ USD, tức là bằng một nửa doanh thu các sòng bạc trên toàn nước Mỹ.
Một quần thể giải trí như Marina Bay Sands sẽ bắt đầu kiếm lời sau 5 năm trở đi, và Singapore là một vùng đất đầy tiềm năng, vì có thể dựa vào đó để phát triển thêm ngành du lịch. Điều rõ ràng là quần thể Marina Bay Sands đã thu hút gần 500.000 khách chỉ trong tháng 6 vừa qua và Adelson hy vọng nó có thể thu hút từ 125.000 đến 150.000 người một ngày khi mở cửa hoàn toàn, gọi dự án này sẽ giúp xua tan hình ảnh lâu nay của Singapore như là một thiên đường trầm lắng.
Theo bản nghiên cứu gần đây của hội chợ Global Gaming Expo Asia chuyên về ngành kinh doanh casino, đối với các hòn đảo và quốc gia tí hon, ngành này có thể hái ra nhiều tiền hơn cả ngành du lịch. Trong trường hợp của Ma Cao, thì doanh thu nhờ sòng bạc (14,5 tỷ USD) cao gần gấp 7 lần ngành phục vụ du khách (2,1 tỷ USD). Ý thức được điều này, chính quyền Singapore không còn xem cờ bạc là một điều cấm kỵ khi bỏ lệnh cấm xây casino, vốn có hiệu lực trong vòng 180 năm. Nhưng đảo quốc Sư tử vẫn muốn bảo vệ hình ảnh của mình, một thành phố an toàn và có tỷ lệ phạm pháp thuộc hàng thấp nhất thế giới. Trên văn bản và trong cách tiếp cận với giới quảng cáo truyền thông, đảo quốc Sư tử không xây cất sòng bạc mà chỉ dựng lên “quần thể giải trí”.
(Theo Dân Trí)

Trung Quốc: Khó lấy vợ vì giá nhà quá cao

Trung Quốc: Khó lấy vợ vì giá nhà quá cao
Những con số thống kê cho thấy, giá nhà tại các thành phố lớn như Bắc Kinh và Thượng Hải tăng gần gấp đôi trong vòng một năm qua.
Nếu muốn sở hữu một căn hộ trung bình với hai phòng ngủ, một phòng tắm ở thủ đô Bắc Kinh, ít nhất người mua phải bỏ ra 274.000 USD, con số này tương đương với 22 năm lương trung bình của người dân Bắc Kinh.
Với giá nhà đang ở mức “ngất ngưởng” như hiện nay, không phải ai cũng có thể xây dựng cho mình một gia đình nhỏ. Ngày nay ở Trung Quốc, có nhà cũng đồng nghĩa với sự thành đạt, ngôi nhà thâm chí giờ đây còn là biểu tượng của bản lĩnh đàn ông.


Ảnh chỉ mang tính minh họa.
Cùng với sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế Trung Quốc, những quan niệm sống của người dân cũng đã có nhiều thay đổi, đặc biệt là giới trẻ. Thanh niên Trung Quốc giờ đây đặt yếu tố vật chất ở một vị trí quan trọng, thay đổi trên là hoàn toàn tất yếu.
Chính vì lý do đó mà nhiều cô gái Trung Quốc, đặc biệt là ở các thành phố lớn giành sự quan tâm đặc biệt đến việc người chồng tương lai của mình có nhà ở hay không. Điều kiện họ đặt ra rất dễ hiểu bởi vì nếu không có nhà, họ sẽ phải lao động gần như cả đời mới có thể dồn tiền mua được một căn hộ. Nhiều cuộc hôn nhân buộc phải huỷ bỏ chỉ vì chú rể không thể có được một tổ ấm cho người vợ tương lai.
Trước việc giá nhà đất trên thị trường bất động sản quá nóng, chính phủ Trung Quốc đã có những động thái cứng rắn nhằm hạ nhiệt thị trường nhưng hiệu quả vẫn chưa thu được nhiều và người dân thì vẫn đang mòn mỏi tìm kiếm những cơ hội để thực hiện ước mơ sở hữu một căn hộ tại thành phố.

Monday, July 12, 2010

Đi tìm cái tôi đã mất

Đi tìm cái tôi đã mất

Tuỳ bút chính trị cuối cùng của nhà văn Nguyễn Khải (1930-2008)
1.
Năm 70 tuổi tôi bắt đầu chán viết, người rã ra, đọc sách cũng nằm, đọc được mười lăm phút chữ nghĩa đã loè nhoè, chả rõ mình đang đọc cái gì. Rồi ngủ. Ngủ như chim, một chớp mắt đã tỉnh, tiếp tục đọc nốt cái nửa trang đọc dở vẫn cứ lờ mờ vì chả còn nhớ họ viết cái gì trong cái nửa trang vừa đọc. Cũng năm ấy tôi được trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 2. Mừng thì rất mừng nhưng tôi đã nhận ra ngay đây là tấm bia mộ sang trọng cắm lên một đời văn đã tới hồi phải kết thúc. Thế là lại buồn, ra vào ngẩn ngơ cả tháng.
Rồi quyết định ra chơi ngoài Bắc, trở lại quê ngoại là nơi tôi đăng ký tòng quân năm 1946, cũng là nơi tôi tập tọng viết những bài báo kháng chiến đầu tiên in litô vào năm 1949. Nó mở đầu cho nhiều chục năm tiếp theo, vừa là anh bộ đội vừa là nhà báo nhà văn. Cái thị xã quạnh quẽ, tơi tớp, tối tăm, toàn một màu xanh và đen những năm nào, giờ đã biến hoá thành một quận của Hà Nội hay Sài Gòn hôm nay. Lại nhớ tới những dãy phố ngắn ngủi, nhà thấp, hè hẹp, rợp bóng nhãn, mặt người hiền lành, dáng đi thong thả, thị xã như cái làng lớn, đi một đoạn đường phải chào hỏi không biết bao nhiêu là người vì toàn người quen cả.
Năm chục năm sau, trở lại cái thị xã của tuổi mới trưởng thành, mà là trở về lần thứ ba (hai lần trước cách đây đã hơn hai chục năm) , cái mảnh đất thân thuộc đã hoá ra xa lạ. Đạp xe cả ngày chả gặp người quen nào, hoặc có gặp nhưng đã là hai ông già ở tuổi bảy mươi làm sao nhớ lại gương mặt của nhau cái thời mới mười tám đôi mươi. Lần về thứ hai vẫn còn ba người quen cũ, một người là Thuận, đại tá về hưu, một người là Tùng, trung đội phó, một người là Mễ, tiểu đội trưởng là những cấp chỉ huy đầu tiên của tôi trong cuộc sống quân ngũ.
Lần này về gặp anh Thuận, cũng là ông chủ báo đầu tiên của tôi, anh hơn tôi vài tuổi. Còn hai người kia đều mới mất ở tuổi ngoài bảy mươi cả. Đường phố không quen, mặt người không quen, còn lại một ông bạn thân tối ngày đi họp, đủ các thứ hội hè để ông đến họp, vẫn là cái khát khao của người đã già, đã nghỉ hưu có dịp gặp lại bạn cũ, trò chuyện là chính, nhắc lại chuyện ngày xưa là chính, rồi than thở, đủ thứ than thở, chuyện nhà chuyện nước. Cũng buồn nhỉ ? Chuyện người già có vui bao giờ, người đã xong một việc có làm gì cũng không thể vui.
Vì tôi là người có gốc địa phương nên tỉnh uỷ có gặp và mời ăn một lần cho phải phép. Nhưng nhìn những gương mặt quan chức của tỉnh hôm nay mà kinh ngạc. Mặt người nào cũng đầy những múi thịt, sần sùi, nói nhiều, cười to, lời lẽ nhạt nhẽo, dung tục, và không bao giờ nhìn thẳng vào mặt mình để nói, cứ như là đang nói với một ai khác ngồi cạnh mình hoặc ngồi sau mình.
Bữa sắp về Hà Nội, bí thư tỉnh uỷ lại mời gặp, không phải là gặp chính thức mà là cùng ngồi ăn sáng với ông vì ông cũng đang bận. Buổi gặp vừa hình thức vừa khó chịu vì chỉ có người lãnh đạo của tỉnh nói, nói như người rao hàng, mắt nhìn đâu đâu, bụng nghĩ đâu đâu. Tôi chỉ còn nhớ một chuyện, có một ông tướng, là danh tướng, người địa phương, có đem một giống hoa lạ từ Hà Nội về, tự tay ông trồng ở vườn hoa của tỉnh uỷ vì phải chọn đúng ngày, đúng giờ, cả đúng hướng nữa mới đem lại thịnh vượng, hạnh phúc cho dân trong tỉnh. Thật vậy sao ?
Trong mấy ngày xuống xã vừa vui vừa buồn. Ai cũng giàu có hơn trước, nấu cơm bằng nồi cơm điện, tối xem tivi mầu, giờ rảnh thì xem phim bộ. Mỗi xóm đều có cửa hàng cho thuê băng vidéo, có gái điếm cho ngủ chịu đến mùa trả bằng thóc, có cờ bạc, có hút thuốc phiện và chích heroin, thành phố có gì ở làng quê đều có, cả hay lẫn dở, dở nhiều hơn hay. Tôi về một xã, xã cho tôi ở nhà một anh bưu tá, lúc rảnh rỗi hỏi chuyện gì anh cũng bảo không biết. Ở xã ba ngày, đảng uỷ, uỷ ban không ai tiếp cả.
Có một buổi tối có một anh chàng to béo đến chơi với gia đình, cả vợ lẫn chồng nhà chủ ăn nói thưa gửi, bộ điệu khúm núm. Anh ta ngồi ưỡn người trên ghế tựa, hai chân xoạc rộng, hai bàn tay đặt lên bụng, nói hỏi trống không, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn tôi nhưng không hỏi gì, chào cũng không, mắt nhìn cứ lừ lừ, mà hắn chỉ đáng tuổi con tuổi cháu. Tôi cứ nghĩ tay này hẳn là dân buôn bán ở tỉnh có họ hàng gì với anh chủ nhà, tạt qua chốc lát rồi đi. Nhưng anh bưu tá lại bảo đó là ông chủ tịch xã. Lại một ngạc nhiên nữa !
Mấy ngày sau lại về một xã thuộc phía Bắc tỉnh. Cách đây đã ba chục năm tôi đã đi đi về về xã đó khoảng một năm để viết về một anh chủ tịch xã chưa tới ba mươi tuổi trong cái thời có cao trào lập hợp tác xã nông nghiệp. Ngồi chơi ở phố huyện kề liền xã bất ngờ lại gặp người quen cũ của mấy chục năm trước. Hiện giờ ông ấy đã ngoài sáu chục tuổi, có cửa hiệu chụp ảnh ở ngay phố, to béo, rềnh ràng, chuyện gì cũng biết, lại biết cách thuật lại về mọi cái biết của mình một cách sống động, tươi rói, nghe chuyện mà tưởng như chính mình cũng được chứng kiến. Nhà văn mà gặp được một người như thế là có thể nghĩ ngay một cuốn sách sẽ viết, viết cũng nhanh thôi, vì mọi vật liệu đã sẵn sàng. Bao nhiêu chuyện xui xẻo, buồn bã của chuyến đi bất thần được đền bù quá hậu hĩ nhân một lần gặp lại người quen cũ.
Đang mừng khấp khởi liền bị mấy ông xã nhảy vô phá đám, đi một bước có trưởng công an xã theo một bước, vừa là người hướng dẫn vừa là người bảo vệ. Chỉ được trò chuyện với người đã được xã giới thiệu và ăn ngủ tại nhà ông bí thư xã. Nhưng tôi đâu có chịu thua hoàn toàn. Xuống cái xã bị ghẻ lạnh thì tôi chơi với dân, viết về một ông nông dân bị giời hành, được bạn bè khen là rất khá. Về cái xã được chiều chuộng quá mức tôi viết được cái bút ký “Mất toi một cuốn sách”. Sang tuổi 70, mọi hoạt động của con người đều chậm, đều kém, riêng cái chuyện viết lách của tôi vẫn giữ được phong độ gần như xưa, vẫn viết rất nhanh, riêng cái nhìn thì trào lộng nhiều hơn, ngậm ngùi nhiều hơn. Nó là thứ hương vị thơm ngát chắt ra từ hơn bảy mươi năm được làm người.
2.
Tôi là một đứa trẻ khi bước vào đời có nhiều điều thua thiệt nhưng tôi đã biết níu chặt lấy thời thế mà leo dần lên. Tôi nói thế chả phải vì cái thói cơ hội, thời này có mấy ai thích nói mình thành tài là nhờ cách mạng. Nhưng có nhiều người được cách mạng ôm hẳn vào lòng nâng niu, vỗ về mà vẫn không nên người thì sao ? Là vì họ còn thiếu một yếu tố nữa, thiếu cái đó dầu họ có được bước trên thảm đỏ, kẻ nâng người dắt một đời vẫn không ra con người tử tế. Mà tôi thì có, có dư thừa. Ấy là cái tính hài hước bẩm sinh, trước hết là biết giễu mình, theo dõi từng bước đi, từng câu nói của chính mình bằng cái nhìn của người khác vừa nghiêm khắc vừa bỡn cợt. Sau mình đến người, tôi cũng hay nhìn ra cái khía cạnh buồn cười ở người khác dầu họ xuất hiện dưới cái vỏ trang trọng đến thế nào.
Cái buồn cười là cái trái nghịch trong cùng một người, kẻ vô luân nói chuyện đạo đức, tên ăn cắp dạy dỗ phải bảo vệ của công, người hống hách lại là tên nịnh bợ bậc nhất. Nếu tán rộng ra thì còn vô vàn chuyện buồn cười mà ta bắt gặp ở mọi nơi, trong mọi thời gian của cuộc sống. Anh dốt thường làm ra vẻ thông thái, thằng nhát rất thích xuất hiện như người anh hùng, một chính khách đầu óc rỗng tuếch luôn tỏ ra uyên bác bằng những lời nói vô nghĩa. Nếu những người đó có được một chút hài hước, có khả năng tự ngắm mình trong khi diễn trò thì họ sẽ biết cách tự kiềm chế trong một giới hạn nào đó.
Muốn có cái mình không thể có không chỉ là chuyện buồn cười mà còn là căn bệnh không thể cứu chữa của nhân loại. Các triết gia, giáo chủ cũng không thoát khỏi cái trò cười ấy. Họ muốn cho nhân loại cái họ không thể có, muốn cứu nhân loại bằng những phương tiện nhiều lắm chỉ đem lại mê say tự huyễn hoặc mà thôi. Học thuyết xã hội hay tôn giáo khôn ngoan phải là học thuyết mở, có thể là thế này mà cũng có thể là thế khác, luôn luôn biến hoá, lấy sự biến hoá của thời thế và con người làm mục tiêu tối thượng để tự điều chỉnh.
Học thuyết là do con người làm ra, một trí tuệ sáng láng nhất vẫn cứ bị ràng buộc bởi nhiều vòng tự giác và không tự giác của thời thế, của cuộc đời. Bởi vì họ không thể là Thượng Đế để biết hết vô vàn nguyên nhân những tác động qua lại, uốn éo, bất ngờ của nó đưa đẩy mọi sự vật tới những thay đổi rất nhỏ, không mấy ai chú ý, cuối cùng là những biến thiên cực lớn. Chả có học thuyết nào dự đoán đúng những gì sẽ xảy ra trong tương lai và cũng chẳng thể dự đoán được cái kết cuộc của nhiều sự việc đang xảy ra trong hiện tại. Mọi lời tiên tri đều có tính mê sảng, đồng cốt. Dành cả một thời thanh xuân để tin vào những lời tiên tri ấy, về già nhìn lại cái tài sản tinh thần thâu góp một đời chỉ là một cái kho chứa đủ tạp nham chẳng có một chút giá trị gì.
3.
Tính hài hước là cái thứ mà người cộng sản ghét nhất vì nó có thể biến mọi chuyện thiêng liêng thành trò cười. Một học thuyết không thể chứng minh sự đúng đắn của nó trong thực tiễn thì trước sau sẽ biến thành tôn giáo. Vì tôn giáo là niềm tin, là thói quen, là tập quán, là vâng phục, là ở thế giới này chỉ có một chân lý, ngờ vực nó, đặt quá nhiều câu hỏi về nó chỉ là kẻ phản đồ, phải bị trục xuất khỏi cộng đồng, phải bị cách ly, bị ngồi tù để tránh mọi sự truyền nhiễm có thể. Học thuyết xã hội đã phải đội lốt tôn giáo để tồn tại thì mọi thứ thuộc về nó đều là thiêng liêng. Lãnh tụ thành thần thánh, lời nói bài viết của họ thành kinh bổn, cuộc sống cá nhân và xã hội của họ đầy ắp những chuyện phi thường. Hình ảnh của Lenin và Stalin, của Mao Trạch Đông và Kim Nhật Thành và lời nói của các vị ấy bao trùm lên toàn bộ cuộc sống tinh thần của các quốc gia họ cầm quyền, làm gì, nói gì, nghĩ gì đều không thoát ra khỏi cái bóng che ấy. Bài hát về lãnh tụ trang nghiêm như thánh ca, người hát có dáng điệu sùng bái như tín đồ. Cái thế giới cá nhân của các công dân đã bị đốt cháy, đã thành tro bụi và tan biến trong hương khói của đền đài.
Trong không khí ngùn ngụt lửa cháy cùng với tiếng sóng hoan hô khi gần khi xa không lúc nào dứt, vậy những người làm việc bằng trí tuệ sẽ tìm đâu ra một khoảng trời yên tĩnh và tự do để suy nghĩ về những công trình một đời của riêng mình. Người cộng sản sẽ không bao giờ hiểu được cách làm việc cá nhân, đơn độc, xa rời quần chúng, xa rời các phong trào cách mạng có tính địa phương của các nhà trí thức thấm đẫm “tư tưởng tư sản” ấy. Phải cải tạo họ bằng các chuyến đi thực tế, bằng các lớp học chính trị ngắn hoặc dài ngày, và bằng cả những lần được gặp gỡ thân mật với lãnh tụ để có thêm lòng tin vào những lý do phải tự phủ định, để khẳng định sự nghiệp vĩ đại của quần chúng.
Phải bỏ hẳn những tư tưởng triết học và thế giới quan phù hợp với cách nghĩ, cách nhìn, cách đánh giá của riêng mình, đã được chứng minh qua những trải nghiệp của bản thân để nhập vào dòng tư tưởng chính thống, cái triết học chính thống, cách nhìn nhận và đánh giá chính thống, xét cho cùng chả liên quan bao nhiêu tới cái tâm sự đang ấp ủ, tới những điều cần phải viết, và trên hết, máu thịt hơn hết là những phát hiện độc đáo của riêng mình trong lịch sử, trong văn hoá, trong nhân sinh. Mất những cái đó thì còn sống tiếp làm gì, còn viết tiếp làm gì nên một số đã phải đổi nghề, bỏ nghề sáng tạo sang nghề cạo giấy, làm một anh công chức hiền lành, mẫu mực, vừa có quyền vừa có lợi. Cái danh cái lợi cũng có sức quyến rũ người ta lắm, qua nhiều năm tháng nó đã trở thành ý nghĩa quan trọng nhất để sống, sống với vợ con, với bạn bè, với xóm làng, với xã hội.
Còn một số nhỏ vì không làm nghề gì khác ngoài cái nghề văn chương nên đã đầu quân về các nhà xuất bản, tuần báo, tạp chí tiếp tục làm nghề nhưng phải viết trong khuôn phép đã quy định, cũng có đôi lúc đã tự buông thả theo những cảm xúc tự nhiên hoặc bất chợt bị mê hoặc bởi những hình tượng nghệ thuật quá đẹp đã trở thành những nạn nhân oan uổng của nhiều vụ án văn tự, nghĩ lại mà tiếc cho nhiều người, mộng mơ nhiều thì tài năng cũng nhiều đều bị thui chột ngay từ những năm còn trẻ.


Đi tìm cái tôi đã mất
4.
Trong suốt ba chục năm chiến tranh, mỗi người Việt Nam đã quên hẳn những nhu cầu vật chất và tinh thần của riêng mình để được cùng sống như mọi người, cùng cảm nghĩ như mọi người, sống cùng sống chết cùng chết. Học thuyết Mác và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản được tôn vinh đến tuyệt đối. Vì số phận cá nhân gắn liền với tập thể với dân tộc, trùng hợp khít khao với các mục tiêu chính trị của đảng cầm quyền và những tham vọng của người lãnh đạo. Nhưng cả mấy thế hệ cùng tham gia chiến tranh, sống trong một môi trường xã hội, chính trị của một đất nước đang có chiến tranh cũng là một tai hoạ khôn lường.
Trong chiến tranh tập thể gạt phắt cá thể sang một bên, có thể giẫm đạp lên nó cũng chả mất mát gì, vì chiến tranh đòi hỏi sự nhất trí, cần sự ra lệnh đúng lúc của nhiều cái đầu chứ không có thời gian bàn luận, sai đúng có sự tham gia của nhiều cái đầu. Vả lại nếu người lãnh đạo tính toán sai lập tức sẽ bị đối phương trừng phạt ngay, không sớm tỉnh ngộ thì cả sự nghiệp có thể bị đổ vỡ. Đến thời hoà bình thì chỉ còn dân chúng đối mặt với chính quyền, quyền lợi khác nhau, nguyện vọng khác nhau, có trăm ngàn thứ khác nhau trong một cộng đồng : dân tộc, tôn giáo, văn hoá, điều kiện sống… trong một thời gian dài tạm quên đi, tạm gác lại để lo việc lớn, lúc này nhất loạt trỗi dậy, đòi hỏi và mỗi cá nhân đều thấy cái mình đòi là quan trọng nhất, bức thiết nhất. Độc lập có rồi, tự do có rồi, vậy cái hạnh phúc của mỗi chúng tôi nhà nước định quên sao ?
Nhưng người dân phải tìm ra cơ hội nào để nói, đến chỗ nào để nói, dùng phương tiện gì để nói. Nói với tổ chức, với các đoàn thể mình là một hội viên, không ai nghe cả. Nói trên báo chí không báo nào dám đăng. Viết kế sách, thỉnh nguyện gửi lên các cấp có thẩm quyền thì chả bao giờ nhận được trả lời. Vậy phải làm gì nhỉ ? Làm loạn không dám, biểu tình đúng pháp luật cũng chưa có tiền lệ. Người đứng đắn bộc lộ sự không bằng lòng của mình tại các cuộc họp lập tức bị những kẻ cơ hội trấn áp tức thì, bị cơ quan an ninh ghi vào sổ đen, thăng chức nên lương từ nay không thể, chỉ còn đợi ngày về hưu thôi. Nhưng dân chúng vẫn có cách xả nỗi bất bình của họ bằng cách sáng tạo ra nhiều chuyện tiếu lâm chính trị.
Trong cả nước không đâu có nhiều chuyện tiếu lâm bằng Hà Nội vì nó là thủ đô hành chính, mọi chuyện cung đình vừa thật vừa giả tràn gập các quán cà phê mỗi ngày. Không ra được báo viết thì làm báo mồm vậy, lời nói bay đi lấy đâu làm bằng, tưởng như vô hại mà hại vô kể. Vì nó sẽ thành dư luận, không ai bắt giam được dư luận, giết được dư luận, cái dư luận hỗn tạp, vô sở cứ mở rộng mãi ra, bao trùm mọi việc mọi người trở thành mặt bằng mới để đặt ra các tiêu chuẩn sống cho một thời. Cái tiêu chuẩn mới có tên gọi là “ mặc kệ nó ”. Nó là người khác, là nhà nước, là bất cứ ai, bất cứ việc gì không có quan hệ trực tiếp tới các lợi ích cá nhân mình.
Cái cá thể sau một thời gian dài nhập vào cái tập thể đã tự tách ra khỏi nó để tìm lại mình. Nhưng cách tìm lại ấy thường thuộc về phía tiêu cực của con người, lấy lợi ích bản thân làm mục tiêu nên không tạo ra được sự thăng hoa, sự tự do chân chính, là môi trường cho mọi sáng tạo độc đáo, vừa thấm đẫm tính cá nhân vừa thấm đẫm tính thời đại ở yếu tố tiền phong của nó. Ở đây tôi muốn nói thêm, tự do được nuôi dưỡng tự nhiên trong môi trường dân chủ là tự do của cống hiến, còn tự do vừa thoát ách chuyên chế thường có tính phá hoại, trả thù, để bù lại những năm tháng bị tước đoạt.
Cứ so sánh về tự do của một xã hội dân chủ nhiều trăm năm như Hoa Kỳ và tự do vừa giành được của nước Nga Xô Viết là đủ rõ. Vì nó không được chuẩn bị, không được giáo dục, mọi bản năng của con người được xổng ra nhất loạt sẽ gây hỗn loạn cho cộng đồng, nhiều hơn là xây dựng. Dân chủ và tự do phải có thời gian để làm quen, để học cách sử dụng và bảo vệ, phân được ranh giới giữa cá nhân và cộng đồng. thành pháp luật, thành tập quán mới có thể đơm hoa kết trái được.
5.
Một đất nước bị xâm lược, rồi bị nô dịch, dân chúng thành nô lệ không được pháp luật che chở, làm người cũng khó nói gì tới ý thức cá nhân trong mỗi con người. Ý thức cá nhân là ý thức về cái riêng biệt của mình, về cái có thể cống hiến của mình cho cộng đồng không giống với một ai do có một cách cảm nhận riêng, một cách suy nghĩ riêng, từ đó… Những cái giá trị cá nhân chỉ được nhìn nhận, được tôn vinh ở những xã hội tương đối tự do, các mối quan hệ giữa người với người tương đối tốt đẹp. Ở xã hội tư bản mà chúng ta vốn có thành kiến là rất xấu xa lại thường hay cho những tiếng kêu cứu, bảo vệ những giá trị truyền thống của cá nhân, vì đồng tiền đang làm mất phẩm giá của con người, phá vỡ nền tảng đạo đức, làm rối loạn các mối quan hệ xã hội.
Con người được sống no đủ, trong tiện nghi mà vẫn đối địch với nó, muốn thoát ly khỏi nó vì không được thoả mãn những nhu cầu về tinh thần. Ta hay lấy những chuyện đó để làm chứng một cách hả hê cho sự tha hoá của con người sống dưới chế độ tư bản. Vậy các công dân của chế độ xã hội chủ nghĩa thì sao ? Chả có ai kêu ca gì. Nhà văn là người có trách nhiệm chăm lo cuộc sống tinh thần của đồng loại cũng không kêu. Có một nhà văn Nga [Vladimir Dudinzev / Владимир Дудинцев - chú thích của Diễn Đàn] viết cuốn sách Người ta không chỉ sống bằng bánh mì [Не хлебом единым - chú thích của Diễn Đàn] bị cả giới văn nghệ Liên Xô phê phán. Ông đã viết sai vì các nước xã hội chủ nghĩa rất coi trọng cuộc sống tinh thần của các công dân. Họ đọc sách rất nhiều, trên xe điện, xe buýt, trong công viên, đứng xếp hàng từng dãy dài mua thực phẩm, mua vé xem vũ kịch, nghe âm nhạc họ đều mở sách đọc rất chăm chú, tưởng đâu như cuộc sống đích thực của họ là ở các trang sách. Chỉ có những giây phút chìm đắm trong sự đọc họ mới có cơ hội ngẫm nghĩ về thân phận của mình, của đồng loại, tìm lại cái bản gốc cá nhận đang lưu lạc ở một góc khuất nào đó của riêng mình. Rời khỏi trang sách là rơi ngay vào vòng quay của trăm ngàn công việc chả có nghĩa lý gì ngoài sự mưu sinh để tồn tại.
Những ngày nghỉ, những giờ tạm gọi là rảnh rỗi họ cũng không được ngồi một mình, ngẫm nghĩ một mình, có bao nhiêu buổi lễ kỷ niệm lớn nhỏ, những phong trao cam kết thi đua và vô vàn cuộc họp của ngành của giới đã choán hết phần thời gian còn sót lại… Cuộc sống tập thể đã nhấn chìm cuộc sống cá nhân, cuộc sống trong chiến tranh đã xoá nhoà mọi thói quen của cuộc sống thời bình. Lúc nào cũng có kẻ thù rình rập đâu đó để tìm cớ lật đổ chế dộ bằng vũ trang, hay bằng diễn biến hoà bình. Lúc nào cũng được đồng chí trong chi bộ, bàn bè cơ quan giám sát mọi tư tưởng và hành vi để ngăn chặn mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân của mỗi thành viên. Lúc nào cũng phải đề phòng, phải đề cao cảnh giác cách mạng, không tin cậy bất cứ ai, kể cả bạn bè. Chỉ có một điều lạ, là trong hoàn cảnh sống không có một tí tự do nào cho cá nhân mà chúng tôi vẫn sống được, lại còn viết văn làm thơ được !
6.
Suốt 80 năm sống dưới ách đô hộ của Pháp, chúng ta vẫn đặt được những viên gạch đầu tiên cho nền văn xuôi Việt Nam. Những truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng sự, tuỳ bút của thời ấy được in trên các tuần báo hoặc xuất bản thành sách nay đọc lại vẫn thích thú, vẫn làm ta cảm động. Nhiều truyện được đọc từ tuổi niên thiếu vẫn ám ảnh ta tới tận lúc tuổi già, và một loạt các nhà thơ, nhà phê bình văn học của cái thời gọi là thuộc địa đã trở thành những tên tuổi lớn tồn tại mãi mãi trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc. Làm thân nô lệ mà vẫn trỗi lên thành những tài năng lớn là sao ? Không chỉ trong văn chương mà còn cả trong mỹ thuật, trong kịch nghệ. Không chỉ trong văn nghệ mà trong cả khoa học, giáo dục, trong kinh doanh theo kiểu tư bản và trong nhiều nghề truyền thống.
Tất cả đều được bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ, được phát sáng, được bộc lộ mạnh mẽ các tài năng cá nhân và họ đã trở thành người khai sáng, người mở đường, thành tổ nghề, không chỉ có tài lớn mà còn có đức lớn, là những nhân cách kiểu mẫu cho con cháu, cho giống nòi, đều là chuyện có thật cả, không thể bóp méo hoặc bác bỏ. Mà giải thích về nó cũng rất đơn giản. Chế độ tư bản của Pháp và Châu Âu tiến bộ hơn, văn minh hơn chế độ phong kiến tập quyền của Châu Á tới vài thế kỷ, là khoảng cách giữa hai thời đại, nói như cụ Phan Chu Trinh. Thời Pháp thuộc bọn thực dân chỉ cấm, bỏ tù, xử bắn những người dám chống đối nó, trước hết là những người cộng sản. Cuộc sống của dân chúng vẫn lầm than như thời xưa, như thời phong kiến, khổ nhất vẫn là nông dân, nhưng xã hội có thêm nhiều nghề mới do công cuộc khai thác tài nguyên ở thuộc địa, hình thành dần nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, có đô thị và các trung tâm buôn bán, có các đường lớn xuyên quốc gia và liên tỉnh, có cầu cống và đường sắt, có báo hàng ngày, có tuần báo và tạp chí.
Tiếng nói của công chúng sau nhiều thế kỷ câm bặt đã được cất lên bày tỏ thân phận và nguyện vọng của mình, dẫu còn yếu ớt nhưng đã gây được tiếng vang trong cả nước. Dầu xã hội phát triển một cách nhem nhuốc, đau đớn nhưng vẫn hơn cái thời tù mù, tối tăm của thời phong kiến. Thời thế là vị tư lệnh tối cao, không có học thuyết nào, một thiên tài chính trị nào dám chống lại những mệnh lệnh của nó. Dám chống lại nó học thuyết sẽ tiêu tan, các chính khách thì thân bại danh liệt. Chế độ thực dân tuy tàn bạo nhưng nó là sản phẩm của thời đại này nên nó vẫn có khả năng ươm cấy nhiều nhân tố tích cực, có giá trị bền vững cho những xứ sở nó đô hộ. Còn những vương triều phong kiến dẫu được cai trị bởi các bậc minh quân thánh trí vẫn là những xã hội hủ lậu và thuộc về quá khứ. Tài giỏi như Khang Hy, Càn Long nếu còn trị vì Trung Quốc tới cuối thế kỷ 19 mà không chịu thay đổi thể chế đã quá cũ kỹ thì vẫn cứ thua, có khi còn thảm bại hơn vì lòng kiêu hãnh bệnh tật của họ.
Cách tổ chức xã hội của giai cấp tư sản dẫu có xấu xa tới tận đâu cũng vẫn tạo được những môi trường tự do và dân chủ hơn, mở ra những cơ hội mới cho sự phát triển tài năng của mọi cá nhân và của cả cộng động. Lại lấy thêm một ví dụ về nước Nga trong non một thế kỷ qua. Dưới chế độ Xô Viết, người dân Nga được nhà nước chăm lo hoàn toàn từ khi sinh đến khi chết, nhưng họ vẫn không thích, vẫn thấy ngột ngạt vì đó là cuộc sống không phải lo nghĩ của một trại tập trung, con người bị đánh số, bị xếp theo khuôn, theo hàng, chỉ nhìn thấy đám đông chứ không thể nhìn ra từng con người riêng biệt, kể cả trong triết học và văn chương. Còn thời bây giờ là một xã hội mạnh ai nấy lo, người người lấn chen nhau, tranh cướp nhau vì những tham vọng không được kìm nén, kỷ cương cũ bị xoá bỏ, kỷ cương mới chưa kịp hình thành, mọi sự đều phải làm lại từ đầu từ quốc kỳ, quốc ca, quân kỳ… Nhưng xem ra chả có mấy ai than thở về hiện trạng hỗn loại, họ cảm thấy thoải mái, bằng lòng với cuộc sống đầy bất trắc của hiện tại vì lần đầu tiên họ được lựa chọn cách sống của mình, thắng thua tự mình gánh chịu, cũng là lần đầu họ biết nhận ra cái “ bản lai diện mục” của chính họ.

Đi tìm cái tôi đã mất
7.
Bất cứ nhà nước nào lấy học thuyết xã hội hoặc tôn giáo thay cho hiến pháp thì trước sau sẽ chuyển đổi thành nhà nước chuyên chế. Vì trong hàng triệu công dân sẽ có nhiều nhóm người không cùng lòng tin, không cùng tín ngưỡng với nhà cầm quyền. Họ trở thành những cộng đồng đáng ngờ, sẽ bị phân biệt đối xử, trước hết là mất quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do xuất bản. Đó là nói về tầng lớp trí thức. Còn những người làm các nghề khác, chả dính dáng gì đến sách vở cũng sẽ cảm thấy bị tước đoạt nhiều quyền tự do, như quyền tự do lựa chọn cách sống của riêng mình chẳng hạn. Đã độc quyền về tư tưởng tất nhiên sẽ độc quyền cả về cách sống, vì mỗi học thuyết đều có phần đạo lý của nó, nó cần tiêu chuẩn làm người đã được lý tưởng hoá của nó để làm khuôn mẫu cho tu sĩ và tín đồ.
Tôi có một bà cô sống ở Hà Nội suốt thời Pháp tạm chiếm, là dân cũ của Hà Nội, sau này giải phóng được một năm, bà than thở với tôi, nghĩ rằng sống với cách mạng thì dễ mà hoá ra rất khó. Bà bảo chính phủ gì việc lớn không lo toàn lo việc vặt, từ cách ăn mặc, cách yêu đương, cách nuôi dạy con cái là những việc người dân tự biết cách lo, tự biết cách học, lo không nổi thì đã có dư luận xã hội lo giùm, từ cổ tới nay vẫn thế mà. Lại nói về những tín đồ trung thành của chủ nghĩa Mác, những chiến sỹ theo cách mạng từ thuở mới lập nước là đám văn nghệ sỹ chúng tôi cũng “ sống không dễ ” trong sự viết lách. Viết đúng luật lệ thì chỉ có hai chủ đề : căm thù và hy sinh. Cũng chỉ có ba loại người được tôn vinh : công, nông, binh. Cái thế giới mênh mông, nhiều màu sắc ngày một thu hẹp và chỉ có hai màu : đỏ là quân ta, đen là quân địch.
Văn chương cách mạng thoạt đầu cũng lạ so với văn chương thời trước nên được bạn đọc trẻ hoan nghênh. Nhưng cứ phải đọc mãi một vài đề tài quen thuộc, một vài loại người quen thuộc và những tâm trạng rất quen thuộc ngay những bạn đọc trung thành cũng phải chán. Chính chúng tôi cũng tự chán mình. Tài đã kém lại bị bó chặt từ đầu tới chân, xoay tới xoay lui cũng chỉ có một vòng quay, ú ớ một cách nói, càng viết càng nhảm cũng là phải. Một nền văn nghệ phải phục vụ chính trị (mà chính trị thì sớm nắng chiều mưa) là đã mất một nửa tự do rồi, lại phải phục chính trị theo nghĩa các chủ trương, chính sách của từng thời kỳ thì còn gì là tự do nữa. Ấy là chưa nói mỗi cấp cầm quyền lại có những yêu cầu riêng, những cách đối xử riêng, lúc nhu lúc cương, cái thằng nghệ sĩ chả còn biết lối nào mà lần. Văn chương đã đến nông nỗi ấy mà vẫn có giải thưởng quốc gia, nhưng những tác phẩm được giải thưởng Lenin, Stalin liệu có còn cuốn nào được người Nga hôm nay muốn đọc lại.
Tôi cũng được giải thưởng văn chương cao nhất cấp quốc gia, nhưng tôi biết chỉ mươi năm nữa, thời thế đổi thay chắc chả còn ai nhớ tới mình nữa. Tôi là nhà văn của một thời, thời hết thì văn phải chết, tuyển tập, toàn tập thành giấy lộn cho con cháu bán cân. Buồn nhỉ ? Nghĩ lại cũng chả có gì phải buồn, con người vốn sống trong những chiều kích hữu hạn lại mơ tưởng những gì do con người làm ra sẽ thuộc về vĩnh viễn, có hoạ rồ ! Tất nhiên vẫn có nhiều công trình của trí tuệ thuộc về cõi bất tử nhưng là của các thiên tài. Với bộ não con sâu cái kiến, ngước nhìn những cái đầu khổng lồ ấy làm gì cho thêm buồn ra. Hãy viết những gì trong cái tầm nhìn tầm nghĩ của con sâu cái kiến vậy. Một cách nghĩ thiếu “ tự hào dân tộc ” nhưng chắc chắn là một cách nghĩ đúng. Đã từng có những quốc gia từng nghĩ từng viết rất tự hào, rất kiêu hãnh rằng dân tộc họ đã sải bước trước nhân loại cả trăm năm, sắp chạm tay vào cánh cửa thiên đàng rồi ! Mà rồi sao nhỉ ? Là như mỗi chúng ta đều đã được chứng kiến trong suốt mấy chục năm nay đấy !
8.
Nhà văn Dư Hoa [Yu Hua, 余华, chú thích của DĐ], một cây bút đang nổi của văn đàn Trung Quốc, trong lời cuối sách của tiểu thuyết Huynh đệ (Nhà xuất bản Công an Nhân dân, 2006), ông có viết đại ý, trong lịch sử thế giới từ thời Trung Cổ đến thời hiện đại phải trải qua 400 năm. Còn ở Trung Quốc từ thời cách mạng văn hoá, cả đất nước chìm sâu trong bóng đêm trung cổ với thời bấy giờ với bao nhiên thay đổi đến chóng mặt để đất nước Trung Hoa nhanh chóng bước vào đội ngũ các đại gia của G8. Cái khoảng cách vời vợi giữa hai thời đại ấy đã được rút gọn trong có 40 năm. Rằng hay thì thật là hay nếu chỉ nhìn vào toàn cục, vào cả dân tộc. Nhưng nếu nhìn vào từng cá nhân, những cá nhân không được chuẩn bị từ căn cơ trong lịch sử, trong văn hoá, trong truyền thống và nhất là trong nhân cách làm người thì cái rút gọn trong mỗi cá nhân sẽ dẫn tới đâu ? Theo ý tôi (N. K.) là các cá nhân ấy sẽ rất dễ bị GÃY khi gặp phải sóng to gió lớn. Vì cái lõi của nó chưa đủ cứng, chưa đủ bền, chưa đủ những tố chất về di truyền, về giáo dục (rất cần có thời gian) để ứng phó hữu hiệu với những thay đổi quá nhanh của môi trường sống.
Các nhà cách mạng thường chỉ nghĩ tới mục tiêu và những con đường ngắn nhất nhanh nhất để đạt được mục tiêu, bất chấp các công dân của họ bằng lòng hay không bằng lòng. Và họ lại tin một cách ngây thơ, một cách tệ hại rằng cứ ép là được, cứ đẩy tới bằng các phong trào cách mạng của quần chúng là được, trước lạ sau sẽ quen dần. Nhưng các cá nhân cũng là lòng người không thuận thì mọi chủ trương dẫu hay đến mấy sớm muộn cũng bị đào thải, chả để lại một dấu vết tích cực nào. Và càng lạ hơn là những tổ chức kinh tế được xem là lạc hậu, là phản động của một thời vẫn có muôn vàn cơ hội để tái sinh và xem ra còn tồn tại rất lâu dài.
Trong những năm 90 của thế kỷ 20 nhiều vị lão thành cách mạng Việt Nam lấy làm kinh ngạc và đau đớn trước sự tiêu vong quá nhanh của một siêu cường mà chân móng của nó đã ăn sâu trong mảnh đất Nga non một thế kỷ. Thật ra toà lâu đài kiểu mẫu của tương lai ấy không hề có chân móng. Nó được xây trên cát. Mọi thay đổi lớn đều dựa vào phong trào quần chúng được hình thành, được vận động chỉ bằng có tuyên truyền chứ không từ nguồn lực tự thân. Tất cả đều phải ép buộc, đều phải dàn dựng, và phải có các diễn viên chuyên nghiệp trình diễn theo một kịch bản độc nhất. Có hai nhà văn lớn của Châu Âu đều được mời xem màn diễn về một xã hội lý tưởng do người cộng sản lãnh đạo. Ông Romain Rolland thì khen không hết lời, còn ông André Gide thì chê từ đầu đến cuối. Vì một ông chỉ nhìn có cái mặt tiền, cái tổng thể, đến đâu cũng thấy dân chúng ca hát, nhảy múa và vẫy cờ, vẫy hoa. Còn một ông lại chỉ quan sát cái sân sau của chế độ và thân phận của nhiều cá nhân ông có dịp tiếp xúc. Đám đông thường cho ta cái cảm giác sai vì họ không thể giữ được tính độc lập trong tình cảm và phán xét. Còn cá nhân thì cái thân phận riêng tư của họ bao giờ cũng thuộc về nhân loại hôm nay và mai sau.
Một xã hội mà công dân không được quyền sống thật, nói thật, nhà văn cũng không được quyền bộc bạch tâm sự riêng tư của mình trên trang giấy là một xã hội không có chân móng. Các quốc gia cùng sống với nhau trong một liên bang, gọi nhau là anh em là đồng chí, nhìn ngoài thấy họ sống cũng yên ấm vui vẻ. Vậy mà khi họ chia tay nhau cũng dửng dưng. Và ngay lập tức họ nhận ra nhiều mối lợi trên đất nước mình đã bị người anh em ruột thịt chia sẻ trong một cuộc đổi chác không công bằng. Thế là bắt đầu những cuộc tranh chấp các đường biên giới, đã có lúc phải dùng đến xe tăng, đại bác để nói chuyện. Rồi tranh chấp đường ống dẫn dầu và các mỏ dầu, các căn cứ quân sự và các vùng biển có hạm đội. Khi Mỹ và NATO muốn đặt căn cứ quân sự trên đất nước họ, nhân danh chống khủng bố họ gật đầu liền đâu biết Mỹ là đối thủ của nước Nga anh em. Yêu Mỹ là tất nhiên vì Mỹ sẽ rót tiền vào những cái két rỗng của họ. Ghét Nga cũng là lẽ đương nhiên vì xưa kia anh bắt nạt tôi, lấn át tôi, xem tôi như chư hầu, như thuộc địa, bây giờ chính là lúc tôi có quyền trả thù.
Lúc giận nhau thì nghĩ nông cạn thế, còn bình tĩnh lại thì giữa các nước cộng hoà trong liên bang Xô Viết (cũ) vẫn có sự ràng buộc tự nhiên và máu thịt trong lịch sử vì họ đã là người một nhà non một thế kỷ, đã cùng nhau sống chết chống hiểm hoạ phát xít để bảo vệ sự tồn tại của Liên bang cũng như của các nước cộng hoà. Lại đã cùng nhau sinh con đẻ cái, đã pha trộn ngôn ngữ, văn hoá và kỷ niệm. Bây giờ mỗi quốc gia vừa được trở lại là chính mình, vừa có phần đóng góp thêm của các nền văn hoá lân cận, bạn bè, giàu có hơn trước, văn minh hơn trước. Rồi họ cũng sẽ sống với nhau như một cồng đồng của khu vực, nhưng lần này là tự nguyện, là do họ tự chọn một hình thức liên minh bình đẳng, dân chủ và hoàn toàn tự do. Bất cứ một thiết chế xã hội nào nhắm tới dân chủ và tự do, xây một xã hội mở, một liên minh mở sẽ có may mắn tồn tại được lâu dài với sự đồng thuận của mọi người và sự hài lòng của mỗi cá nhân.
9.
Gần đây tôi có được đọc hai cuốn sách hay. Một cuốn là Bàn về tự do của John Stuart Mill, một triết gia người Anh viết từ năm 1859, cách ta một thế kỷ rưỡi. Một cuốn là Tư duy tự do của Phan Huy Đường, một nhà nghiên cứu học thuyết Mác có tên tuổi ở Pháp viết vừa mới đây. Khoảng mươi năm nay tôi đọc tiểu thuyết không vào, cả của ta, của Tàu lẫn Tây, cả sách mới dịch, mới xuất bản, cả sách của các đại gia của những thế kỷ trước. Năm còn trẻ đọc thấy hay, bây giờ già rồi nhìn trang sách cứ dửng dưng vì nó không chịu ăn nhập vào những trải nghiệm cá nhân của tôi, không mở ra trong tôi một cách tiếp cận mới với hiện thực, không làm bùng cháy một điều gì đang còn ẩn sâu trong đáy tiềm thức khiến tôi phải choàng thức chợt nhận ra một vỉa sáng tạo mới vừa thoáng xuất hiện. Hai cuốn sách trên, một cuốn do bạn cho mượn, một cuốn tình cờ mua được ở nhà sách vì cái tên của một tác giả tôi vốn quan tâm. Tôi đọc say mê cả hai cuốn như thời trẻ được đọc một cuốn tiểu thuyết hay, tất nhiên là khó đọc hơn tiểu thuyết nhưng đã thích lại có trải nghiệm bản thân hướng dẫn, không hiểu được đầy đủ thì cũng hiểu được cái đại thể. Nhiều ý của bài viết này là được cảm hứng từ hai tác giả đó.
Năm tôi 60 tuổi, khi viết về một bà cô đã ngoài tám chục mà còn rất minh mẫn trong cách đối nhân xử thế, bà vẫn giữ được tính cách riêng mà không làm mất lòng một ai, từ con cháu trong nhà đến các mối quan hệ ngoài xã hội. Tôi đã viết nếu bà cụ được trời cho chứng sống đến trăm tuổi mà vẫn còn sáng suốt ắt hẳn bà sẽ biết mọi bí mật của then máy tạo hoá. Thật ra là tôi nói về tôi đấy, có hơi bốc đồng nhưng tôi tin là tôi sẽ biết được con người nhiều hơn nếu tôi được sống lâu hơn, không cần trăm tuổi, chỉ cần 90 là đủ, miễn là vẫn giữ được một cái đầu bén nhạy như bây giờ, sẵn sàng tiếp nhận mọi sự khác lạ như bây giờ, kể cả sự phủ định chính mình. Năm ấy tôi đã hiểu ra mọi sự rút gọn ở đời đều trái tự nhiên, đều dẫn đến thất bại.
Các cuộc cách mạng xã hội ở nước ta trong suốt ba chục năm đều hỏng cả, đều phải làm lại từ đầu, tất nhiên là theo hướng khác, mà kết quả vẫn vừa chậm vừa dây dưa. Nguyên do là các nhà lãnh đạo muốn rút gọn những công việc của trăm năm thành chuyện chỉ làm trong mấy năm. Vì họ chưa hiểu đầy đủ con người Việt Nam trong cuộc sống đời thường, cái cuộc sống không có chiến tranh, không có cách mạng xen vô, cái cuộc sống trôi đi lặng lẽ của muôn đời. Nghĩ rằng người Việt Nam của hôm nay đã khác nhiều với người Việt Nam trước năm 1945 là một cách nghĩ rất thiển cận, tự gây cho mình nhiều ảo tưởng trong việc trù liệu những việc phải làm để kiến tạo một xã hội dân chủ và văn minh. Mọi phong trào thi đua chả có ích lợi gì trong những việc cần nhiều chăm sóc nhẫn nại, bền bỉ, bắt đầu từ các cá nhân chứ không phải từ các đám đông với những khẩu hiệu, cờ quạt, kèn trống, diễn văn và đáp từ, vỗ tay và tặng hoa. Đám đông không thể đứng mãi dưới nắng để nghe lãnh tụ diễn thuyết. Họ luôn mong đợi được giải tán để về nhà. Con người ở nhà vẫn cũ kỹ nhưng là người thật chứ không phải là sự nhập đồng chốc lát khi đứng trong đám đông.
Tôi thật lòng yêu mến, ngưỡng mộ Fidel, một nhà yêu nước kiên cường, một nhân vật đã thuộc về lịch sử của Cuba. Ông là một trí thức lớn, bạn tâm giao của Marquez, nghe nói trong túi lúc nào cũng có một cuốn tiểu thuyết đang đọc dở. Bởi vậy tôi mới lấy làm lạ khi ông buộc dân chúng phải đứng hàng nửa ngày dưới nắng để nghe ông cao đàm khoát luận về đủ mọi vấn đề. Lúc cách mạng mới thành công nói dài thế vì người dân còn đang háo hức với cuộc sống mới và các ngôn từ cách mạng cũng rất mới. Như một cặp tình nhân đang yêu nhau, đang cần nhau, nói với nhau đủ thứ chuyện vớ vẩn nhưng chả ai thấy thời gian là dài. Còn đã thành vợ thành chồng thì chỉ cần nói ít thôi, chỉ nói những việc cần làm thôi, chứ cần gì những thuyết lý dông dài.
Mao Trạch Đông cũng thế, ông là một nhà chính trị thông kim bác cổ, quanh nơi ông làm việc và cả nơi ông nghỉ ngơi sách đang đọc xếp từng chồng, nhưng xem ra cũng chả hiểu đồng bào ông bao nhiêu. Người dân ở đâu cũng thế, đều muốn có một cuộc sống bình yên, được tính việc cá nhân và gia đình trong một khoảng thời gian dài, một trăm năm chẳng hạn, không có những thay đổi lớn trong lối sống, trong công ăn việc làm, trong các giá trị, đặt biệt là giá trị của đồng tiền. Chứ cứ phải sống mãi từ năm này qua năm khác trong các phong trào cách mạng, lúc chống tả lúc chống hữu, những hội nghị toàn quốc và địa phương nối nhau không dứt, những hô hào la hét từ trong nhà ra ngoài đường như một lũ hoá rồ, các quan hệ xã hội và các giá trị thay đổi soành soạch thì còn biết đằng nào mà sống. Vả lại các cuộc cách mạng ấy chả đem lại bất cứ lợi lộc nào, cho bất cứ giai cấp nào. Chỉ có những mất mát thôi, người giàu thì mất cơ nghiệp được kiến tạo từ nhiều đời, người nghèo thì mất những chỗ dựa cạy, có thể mất cả công việc kiếm sống mỗi ngày để được làm chủ một cái rỗng không. Có thực mới vực được đạo, đã đói ăn thì ngay đến cái tư cách làm người cũng không thế có nói gì đến đạo. Thành thử cái chủ trương rất quyến rũ, rất “văn nghệ”, nhất là với giới tri thức, của chủ nghĩa Mác “cải tạo thế giới, cải tạo con người” hoá ra chuyện không đâu, nói cho vui, bây giờ người ta cũng hay nhắc đến để chế giễu một học thuyết xã hội chứa đầy những hoang tưởng.


Đi tìm cái tôi đã mất
10.
Do không hiểu con người cá nhân, hoặc chỉ hiểu theo những phân tích máy móc, nông cạn của chủ nghĩa duy vật cơ giới của thế kỷ 19, nên các nước xã hội chủ nghĩa mới dám đặt ra những mục tiêu huênh hoang nhằm cải tạo con người trong vài thập kỷ nếu môi trường xã hội thay đổi. Nên mới gọi nhà văn là “ kỹ sư tâm hồn ” ! Văn chương do con người làm ra để trao tặng cho con người một cách tự do nhất, ít bị ép buộc nhất. Chỉ có văn chương mới tôn trọng mọi giá trị của cá nhân, tôn trọng mọi lựa chọn của cá nhân kể cả những thành kiến phi lý của họ. Họ có quyền yêu mình hoặc ghét mình , tôn vinh mình hoặc nguyền rủa mình, chả sao cả. Người viết cứ viết người ghét cứ ghét kể cả cái quyền ném sách vào lửa. Cái mục đích “ tải đạo ”, “ giáo dục ” của văn chương không bao giờ lộ liễu, lộ liễu là văn chương tồi. Vả lại chính người viết cũng không có ý định ấy, họ viết bằng tâm sự thành thật của mình, những trải nghiệm đau đớn của mình, họ viết cho họ trước rồi cho độc giả sau, có khi họ cũng chả nghĩ đến những người sẽ đọc họ, viết mà chơi thôi, viết để giải sầu rồi tự mình ngậm ngùi với mình, ứa lệ với riêng mình. Chả trách ai cả, chả giận ai cả, cũng chả lên án một ai. Vì không có vật cản nào nảy sinh trong ta khi đọc nên chữ nghĩa của tác phẩm cứ mặc nhiên trôi vào tận những kẽ ngách trong cái tâm sự u uẩn, những khát vọng thầm kín của riêng ta, đọng lại trong ấy, rồi cứ thẩm thấu dần dần vào cái thế giới tinh thần của ta một cách vô thức, giúp ta nhận ra một vùng sáng mới lạ nào đó, gột rửa một vài thành kiến, thay đổi một vài quan niệm, và ta vẫn nghĩ một cách khoan khoái là chính tự ta đã chủ động thay đổi, tuyệt nhiên không theo lời chỉ bảo của một ai cả, của một học thuyết nào cả, hoặc nhập vào một cách bất chợt một phong trào thời thượng nào cả.
Bất cứ cái gì xa lạ với bản tính của mình, với thói quen của mình, nói một câu, với những gì làm nên lai lịch của mình, chả sớm thì muộn đều bị đào thải để mình lại được trở về với cái nguyên gốc. Tôi được biết có một cụ linh mục yêu nước và cấp tiến được cách mạng tín nhiệm mời lên khu làm việc cho kháng chiến thời đánh Pháp. Những khi ngồi một mình cụ vẫn rất buồn vì ở trong rừng không có nhà thờ để cụ đi lễ và làm lễ. Cụ nhớ Chúa, nhớ bày chiên và nhớ cả những lời nói của đấng chăn chiên với bày chiên trong công việc của mỗi ngày. Khi cụ sắp mất cụ thiết tha yêu cầu được một linh mục đang coi sóc một xứ đạo nào đó tới rửa tội và xức dầu Thánh cho cụ.
Lại một chuyện khác, khi tôi được tiếp xúc với một vị lãnh đạo cấp cao của Đảng khi ông đang còn làm việc, quả thật tôi đã từng nghĩ ông là con người kiểu mẫu của một xã hội tương lai, chả nói gì, nghĩ gì về mình, tất cả cho tổ quốc, cho sự nghiệp, cho nhân dân. Nhưng rồi ông bị mất chức vì không được bầu lại vào uỷ ban trung ương của Đảng, một chuyện rất bất ngờ với nhiều người. Khi đại hội công bố kết quả bầu cử, nghe nói ông đã oà khóc, rồi khóc thầm lén tới mấy năm, không đi đâu cả, không gặp ai cả vì tự cho mình đã bị sỉ nhục, đã mất hết danh dự. Lại là một con người khác, tầm thường hơn cái lúc còn đeo tấm bài ngà rất nhiều. Con người mặc nhiều lớp áo là con người giả, con người đã bị lột truồng mới là con người thật. Con người đã bong một lớp sơn phủ kín chỉ còn trần lại cái lõi của nó mới là thật. Cái vỏ có thể luôn luôn thay đổi nhưng cái lõi muốn thay đổi phải mất có khi gần một đời người. Ấy là chỉ dám nói là có thể thay đổi chứ không dám nói chắc là sẽ thay đổi. Chỉ vì con người ta không chịu thay đổi theo những tiêu chuẩn đã được quy định hoặc theo mức tăng trưởng thu nhập tính theo đầu người. Sự phát triển của con người theo chiều hướng tích cực phụ thuộc rất nhiều vào môi trường sống tự do và dân chủ để tự nó khẳng định chính nó, tự nó đánh thức mọi tiềm năng sáng tạo đang nhen nhóm ở trong nó. Về cái thế giới tinh thần của mỗi cá nhân hãy để cho mỗi cá nhân tự lo liệu lấy, nó không thích người khác can thiệp bằng bất cứ cách nào. Nó sẽ biết cách tự điều chỉnh để thích ứng dần với mối quan hệ mới một cách có lợi nhất.
11.
Trong nửa thế kỷ sống dưới sự lãnh đạo của một Đảng theo học thuyết Mác Lê, tôi luôn luôn được nhắc nhở phải tôn trọng quần chúng, sức mạnh của quần chúng có thể thay đổi dòng chảy của lịch sử và số phận của nhiều cá nhân. Nhưng cũng thật trớ trêu, không có một chế độ cộng hoà nào ở thế kỷ 20 lại dám coi thường quần chúng như tại các nước xã hội chủ nghĩa. Sống trong thể chế này suốt mấy mươi năm không có một cuộc biểu tình nào được tổ chức để phản đối một chính sách nào đó của nhà nước. Như thời làm cải cách ruộng đất hay thời huy động nông dân vào các hợp tác xã nông nghiệp. Giám đốc xí nghiệp nhà nước tham ô, mức sống của công nhân giảm sút cũng không có đình công. Nông dân bị kẻ cường quyền đàn áp, làm nhiều việc trái pháp luật, vừa mới nhen nhóm bày tỏ sự bất bình liền bị giập tắt ngay. Vì người lãnh đạo đã nhận định rất đúng rằng, nhân dân ta rất tốt, rất dễ bảo, bỗng dưng họ dám nói xược, dám đòi hỏi này nọ là do có mấy thằng cán bộ về hưu bất mãn cầm đầu. Cứ nhắm mấy thằng đó mà đe, nếu cần thì bắt là đâu vào đấy ngay. Quả nhiên thế thật. Tức là người cầm quyền chả coi dân chúng vào đâu. Họ chỉ sợ các cá nhân hiểu nhiều biết rộng, rất khó bắt nạt, là hay bày trò xúi giục thôi. Giống hệt cái thời còn vua còn Tây, kẻ cai trị rất sợ người cộng sản vì họ là kẻ hay gây rối. Đã là người cầm quyền với nước ta thì xưa là thế nay vẫn là thế, người dân vẫn sống dưới chế độ chuyên chế chứ chưa bao giờ được biết chế độ dân chủ là gì, đâu là dân chủ tư sản. Đã chuyên chế là chuyên chế làm gì có sự phân biệt chuyên chế tư bản với chuyên chế vô sản.
Người cộng sản rất kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, nhưng lại chính từ các nước xã hội chủ nghĩa mà cái tệ sùng bái cá nhân đã nảy sinh. Vì lãnh tụ của học thuyết cũng là lãnh tụ của quốc gia. Họ lên cầm quyền không do phiếu bầu mà do tín nhiệm sẵn có của các tín đồ với giáo chủ. Giáo chủ là nhân vật tối linh, thuộc về thiêng liêng nên những gì của thế gian không thể ràng buộc ông ta được. Ông ta cầm quyền không có niên hạn vì ông phải phục vụ nhân dân cho tới lúc chết. Ông không phải tự phê bình và cũng không ai dám phê bình ông vì ông là biểu tượng của quốc gia, của Đảng cầm quyền, đứng trên hiến pháp và mọi luật pháp. Ông là người tự do hoàn toàn so với nguyên thủ các quốc gia dân chủ khác. Các cấp dưới từ trung ương tới địa phương cũng là những người có nhiều tự do nhất ở các ngành, các bộ và các địa phương họ cầm quyền. Là các lãnh chúa trong các lãnh địa của họ. Chả ai dám xâm phạm nếu còn muốn giữ cho mình một chút tự do cỏn con.
Một xã hội có hàng triệu cá nhân không được đếm xỉa, không được tôn trọng nhưng một nhúm cá nhân lại được tôn vinh hết mức và được được hoàn toàn thoả mãn trong mọi nhu cầu là cái xã hội gì đây, là xã hội kiểu mẫu cho nhân loài tương lai ư ?! Nói miệng mấy chuyện kỳ cục này đã khó nghe, lại còn viết thành văn mà các nhà văn không thấy ngượng sao ? Ngượng thì vẫn ngượng nhưng chả lẻ lại gác bút, gác bút thì nuôi vợ con bằng gì ? Nghĩ tới miếng ăn lại phải quên hết để sự bán mình cho quyền lực được hoàn toàn. Năm đất nước mới thống nhất vào Sài Gòn được gặp gỡ các nhà văn nhà báo, các nghệ sỹ của chế độ cũ mà thèm. Họ sống thoải mái quá, nói năng hoạt bát, cử chỉ khoáng đạt, như chưa từng biết sợ ai. Còn mình thì đủ thứ sợ, sợ gặp người thân vì chưa rõ họ có liên quan gì với Mỹ nguỵ ? Nói cũng sợ vì nói thế là đúng hay sai ? Đến vẻ mặt của mình cũng phải canh chừng, vui quá sợ mất cảnh giác, khen quá có thể đã ăn phải bả của nền kinh tế tư bản. Người lúc nào cũng căng cứng, nói năng gióng một nên bị bà con trong này chê là quê, nhà văn nhà báo gì mà “ quê một cục ”. Giải thích chuyện này cũng chả khó, họ là sản phẩm của nền kinh tế công nghiệp tư bản, dẫu là thuộc địa cũng vẫn thuộc hệ thống tư bản, vẫn là những người đã được giải phóng khỏi nhiều ràng buộc từ quá khứ trong cách nghĩ, trong cách làm. Còn mình là sản phẩm của nền kinh tế nông nghiệp phong kiến, đâu đã được làm chủ nhân ông nhưng cũng chưa từng được hưởng cái mùi vị tự do và dân chủ là thế nào ! Cái khoảng cách ấy có tính thời đại không thể bỏ qua mà cũng không thể rẽ tắt. Mình cũng đã đi tắt suốt mấy chục năm, rất tiếc là lịch sử không công nhận cái lối đi ấy. Tôi còn sợ rồi sẽ có ngày lịch sử sẽ trừng phạt mình vì cái tội muốn khôn hơn lịch sử, muốn đánh lừa lịch sử !
12.
Các đảng cộng sản đều coi phê bình và tự phê bình là cách giải quyết mâu thuẫn nội bộ hữu hiệu nhất. Sự vật vận động sẽ sinh mâu thuẫn, giải quyết được mâu thuẫn sự vật mới có cơ hội phát triển, tiến lên. Phủ định và phủ định của phủ định, nghe vừa khoa học vừa huyền bí, như câu thần chú : “Vừng ơi, mở cửa ra !”, cứ đọc to lên là cánh cửa vào tương lai sẽ mở toang. Các nước xã hội chủ nghĩa vẫn đọc to câu thần chú ấy trong nửa thế kỷ mà cánh cửa vào tương lai vẫn đóng chặt. Mất thiêng rồi chăng ? Quả là đã mất thiêng vì người hô không hề tin một chút nào vào cái khả năng kỳ diệu của nó. Nếu tin vào phê bình và tự phê bình thì Stalin đã không chế ra các vụ án chính trị man rợ để tiêu diệt các đối thủ vốn là tay trái tay phải của mình trong những năm đó. Nếu tin vào câu thần chú ấy thì Mao Trạch Đông đã không bày ra tấn tuồng “cách mạng văn hoá” để tiêu diệt mọi kẻ dám can ngăn những chủ trương đầy tính phiêu lưu của ông. Ấy là nói về những người nắm quyền lực cao nhất, còn những người nắm những cơ quan quyền lực thấp hơn cũng chả bao giờ họ tin vào cái phương pháp lãng mạn đó cả.
Trong các cấp uỷ họ vẫn tự phê bình và phê bình nhau một cách sốt sắng giả dối. Và ai nấy đều tự bằng lòng hơn sau những lễ xưng tội giải tội hết sức vui vẻ này. Và mọi thói xấu, kể cả tội ác nữa, vẫn nghiễm nhiên tồn tại như trước đây, vẫn là những vùng cấm chỉ những kẻ quá chán đời mới dám đơn độc xông vào. Bởi vậy khi ông tổng bí thư của Đảng mới được bầu, trong cơn phấn khích đổi mới sinh hoạt đảng, đã phát động một phong trào tự phê bình và phê bình rộng khắp toàn đảng, các đảng bộ trong cả nước đều nhiệt liệt hưởng ứng, đều nhắc lại với lòng nhiệt thành hiếm có trong các bài diễn văn có đảng tính cao của họ. Đó là một màn diễn khổng lồ, rất tốn kém, chả đem lại bất cứ kết quả nào. Vì chỉ là diễn thôi, người cũ kẻ mới đều vào vai rất thành thạo. Rút cuộc kẻ có tội vẫn ngày càng hung hãn, càng tự tin, còn người tố tội càng lúc càng dè dặt, hãi sợ. Kỳ quái nhỉ ?
Các tín đồ của học thuyết Mác đều rất tin môi trường xã hội và hoàn cảnh cá nhân có ý nghĩa quyết định tới sự hình thành tính cách con người. Một địa phương có nhiều phong trào cách mạng tích cực ắt phải sản sinh ra nhiều tập thể tốt, một tập thể tốt sẽ sinh ra nhiều cá nhân tốt. Con người là một thực thể vật chất nên không thể thoát ly những điều kiện vật chất đã cho phép nó tồn tại. Nhưng nó còn là một thực thể sinh học, một thực thể tinh thần, tâm linh, văn hoá bao gồm lịch sử cá nhân và dòng họ ở trong nó. Nó cũng không thể biết hết nó, không thể biết hết những phản ứng bất thần trong chính nó khi vấp phải những đối nghịch trong cuộc sống. Nên cái thế giới tinh thần, tâm lý của con người là rất đa dạng, phức tạp, có muôn vàn lối đi ngoắt ngoéo. Từ thời con người có ngôn ngữ để giao tiếp, có chữ viết để lưu lại, có văn chương để bày tỏ những bí mật của riêng rình, nó vẫn không ngớt than thở là chả biết được bao nhiêu về mình và đồng loại. Con người vẫn nguyên vẹn là một bí mật mênh mông, sâu thẳm như từ thủa nguyên sơ vậy. Người cộng sản phải kiêu ngạo lắm mới dám bày cái trò chỉnh huấn phê bình để lãnh đạo một cách chuẩn xác cái phần khó nắm bắt nhất trong con người. Vì nó biến hoá, nó phù du như mây như gió vậy.


Đi tìm cái tôi đã mất
13.
Con người có 2 mắt đều hướng ra cái thế giới vật chất bên ngoài, không có con mắt nào hướng vào trong để ngắm nghía, kiểm soát cái thế giới tinh thần của nó nên nó bị mù một nửa, cũng như nó không có cái tai bên trong nên không thể nghe được những tiếng thì thầm rất nhỏ mỗi đêm trong chính mình. Hai cái khuyết tật bẩm sinh ấy đã làm con người thiếu hoàn chỉnh, là nguyên do mọi đổ vỡ của nhiều danh nhân dũng tướng vào những năm cuối đời. Nhưng cũng có một số ít người có khả năng nhìn được sự vận động cả trong lẫn ngoài, nghe được những tiếng động rất nhỏ cả ngoài lẫn trong. Họ không có cấu tạo vật chất đặc biệt nào mà chỉ bằng cái năng lực tinh thần rất mạnh đã bù đắp được những khiếm khuyết bẩm sinh. Nhiều tập hồi ký của các danh nhân cả chính trị lẫn văn hoá đều thiếu cái phần còn nhày nhụa của họ, cái phần thú vật của con người nơi sản sinh ra những tội ác chưa hình thành, cái què quặt, cái buồn cười đã được kiềm chế đúng lúc, đã được giấu nhẹm, cái phần họ muốn quên đi và rất dễ trở thành lang sói với đồng loại nếu trong đồng chí, đồng nghiệp còn có người biết đến và nhớ tới.
Cuộc chiến đấu lớn, có tính bi kịch giữa mình với mình bao giờ cũng hoành tráng, cũng đẹp, rực rỡ những màu sắc đối nghịch vì nó đã bộc lộ đầy đủ nhất cái phẩm chất LÀM NGƯỜI trong mỗi CON NGƯỜI. Không phải bất cứ ai cũng tạo ra được trận chiến thần thánh ấy, vì chiến trường ở ngay trong lòng mình, mình vừa là kẻ thách đấu vừa là kẻ dám nhận đấu, dẫu thua cũng là cái thua của thần thánh. Một công việc trang trọng đến thế, hùng tráng đến thế mà lại dám nghĩ là công việc của số đông, của những người chưa hề chuẩn bị một cái nhìn bên trong, một cái nghe bên trong cho riêng mình, cả đời họ sống trong tự mãn, trong u mê, bất thần mời gọi hãy nhìn lại mình, hãy nhìn lại người để có được những phán xét và điều chỉnh chuẩn xác ! Ông tổng bí thư đã mở một cuộc chiến ảo nên ông cũng chỉ nhận được những kết quả ảo.
Một đảng, một thể chế chính trị lấy phê bình và tự phê bình làm vũ khí sắc bén để giải quyết mọi mâu thuẫn nội bộ, giả thử nó lại không còn dùng được nữa thì các mâu thuẫn sẽ được hoá giải bằng cách nào ? Đảng đối lập không có, dư luận đối lập qua báo chí và các cuộc biểu tình quần chúng cũng không có, vậy làm cách nào để biết và điều chỉnh mọi sự rắc rối, thậm chí cả bạo loạn nữa nếu nó xảy ra ? Vẫn có cách, là phải tạo ra một tình hình chính trị luôn căng thẳng (một cuộc chiến tranh có thể xảy ra, một cuộc bạo loạn có thể xảy ra) để buộc các công dân phải sống trong những quy chế nghiêm ngặt của thời chiến, ở các chế độ toàn trị chỉ có hai cơ quan mà quyền uy bao trùm cả xã hội. Đó là cơ quan tư tưởng, tuyên truyền và cơ quan công an. Một để chặn, một để chống. Còn khi đã có chuyện bất thường xảy ra thì chỉ có một biện pháp : đàn áp, bắt giữ, lập toà án xét xử những kẻ cầm đầu. Cách giải quyết vừa nhanh gọn lại mau ổn định, không dây dưa, phiền toái vì có quá nhiều luật lệ, qua nhiều lý lẽ như ở các nước tư bản. Những rối loạn vặt vãnh thật ra là nước là không khí của các nhà cầm quyền độc tài. Họ đâu có sợ loạn. Họ còn bày ra những cuộc chiến cung đình như ở Liên Xô và các nước Đông Âu, hay một cuộc chiến giữa nhân dân với nhau như đã làm ở Trung Quốc. Không có mùi vị của thuốc súng, của máu người và những tiếng la hét cuồng nộ của đám đông thì người cầm quyền biết thở bằng gì !
14.
Tập thể không làm ra văn chương vì nó không có cảm nghĩ riêng, tâm sự riêng, tính cách riêng. Nó là vô danh. Một tâm sự mãn nguyện, những tiếng cười hoan lạc, một kiếp người quá đầy đủ cũng không thể có chỗ đứng trong văn chương. Vì văn chương bao giờ cũng thuộc về những tiêng kêu của con người để đòi lại những gì còn thiếu : thiếu tự do, thiếu công bằng, thiếu hạnh phúc… Đời người là bể khổ, những khao khát về tinh thần của con người là vô cùng nên mới cần có văn chương và nghệ thuật để bù lại. Còn mọi thứ đều được biết, đều đầy đủ, đều mãn nguyện thì tôn giáo không còn, triết học không còn, và tất nhiên văn chương cũng không thể còn. Nó sẽ chết vì bị ngạt, vì không còn những khoảng trống huyền bí để suy nghĩ, để mơ mộng và để thở. Những gì mà chủ nghĩa cộng sản hứa sẽ thành hiện thực trong tương lai thì cái hiện thực ấy sẽ giết chết cả loài người. Vì thượng đế đâu cần những con dòi béo quay lúc nhúc dưới chân Ngài. Cũng may đó chỉ là những lời nói dối, tự dối mình và dối người của những con người đã phải sống nhiều trăm năm trong cùng khổ, trong tuyệt vọng. Còn hướng tới thiên đàng ư ? Là thiên đàng trần gian hay thiên đàng thượng giới cũng không một ai có thể sống nổi. Sống không lo nghĩ, không mong muốn, không đấu tranh là kiếp sống con dòi rồi. Chả lẽ những con dòi cũng có thể cất cao những cái đầu múp míp của chúng để làm ra triết học và thơ ca !
Những điều viết trên đây không do tôi tưởng tượng ra mà do những trải nghiệm bản thân mà có. Những năm còn trẻ cả vợ lẫn chồng đều ăn lương quân đội, lại phải nuôi dưỡng những bốn đứa con, nhà ở ven bãi sông năm nào cũng phải chạy lụt, lại quá chật có 15 mét vuông. Ăn thì mì hai phần gạo một phần, gạo phải nhặt sạn cả buổi mới dám nấu thành cơm. Còn thức ăn ư ? Chả nói nữa ai cũng ăn như thế, ăn dưa ăn mắm suốt mấy chục năm đã hoá quen. Cả nhà chỉ có hai cái giường, một cái bàn, hai cái ghế, tiếp khách ở đấy, mời cơm khách ở đấy, con học bài cũng ở đấy, và ông bố viết văn cũng chỉ có cái bàn ấy. Đêm đêm nằm cạnh hai thằng con trai lớn đạp ngang, quẫy dọc, rắm đánh thối um, vừa quạt cho hai thằng con ngủ tôi vừa mơ mộng đến một ngày nào đó, các con đã trưởng thành, tôi có được một phòng riêng để viết và tiếp bạn, mỗi bữa cơm đều có cá hoặc thịt, có cả chút rượu nữa càng hay. Tôi không phải lo nuôi con, không phải lo cả trăm thứ vặt vãnh để tồn tại, chỉ có đọc sách, ngẫm nghĩ, đi chơi đây đó với bạn bè và viết, ắt hẳn tôi sẽ viết được một hai cuốn sách để đời. Bây giờ tôi đã ngoài bảy chục tuổi, đã có đầy đủ những gì tôi khao khát, có thể nói còn hơn cả khao khát. Tôi đã sống đầy đủ, sang trọng nữa, hơn nhiều nhà văn tôi được biết ở các nước Đông Âu. Và tôi đã nghĩ nếu chủ nghĩa cộng sản thành công ở Việt Nam thì cũng chỉ cho được tôi đến thế. Khốn nỗi, lúc này tôi đâu còn năng lực làm việc bằng trí tuệ nữa mà cũng chả có nhu cầu nào phải đòi hỏi. Cuộc sống được vỗ béo của một kẻ ăn không ngồi rồi đã giết chết mọi tư tưởng ở trong tôi, rồi giết luôn đến đội quân chữ nghĩa, chúng đã hoá ra rỗng tuếch, vô hồn. Nhà văn mà hết chữ thì chỉ là cái xác chết. Xác chết con người với xác chết con dòi có gì là khác mà phải phân biệt !
15.
Tôi có một tuổi thơ rất buồn, lại sống với những người có số phận buồn nên mới 14, 15 tuổi đã nhìn đời như một ông già. Tức là một cái nhìn không mấy lạc quan. Cái xã hội tôi đang sống không mấy hoàn hảo, những người tôi gặp cũng không được hoàn hảo. Tôi quen thuộc với những gì không hoàn hảo tới mức gặp những gì quá đẹp, quá chu toàn tôi đều ngờ, đều sợ. Người truyền cho tôi cái nỗi sợ bẩm sinh ấy là mẹ tôi. Bà đã qua một đời chồng rồi mới gặp được bố tôi. Đời chồng trước mọi sự đều tốt đẹp, ông ấy còn trẻ, có địa vị trong xã hội, nhà giàu, lấy nhau được một năm lại sinh con trai. Mà rồi chỉ ở với nhau được ba năm phải bỏ. Đời chồng sau thì dở, dở cả mọi đằng. Bố tôi cũng còn trẻ, làm tham biện ở phủ thống sứ, nhưng ông đã có vợ và hai con nên phải làm lẽ và lấy giấu. Mẹ tôi bảo thế là đúng số, là đã an phận, nhưng lại lo bố tôi sẽ bỏ khi cuộc ăn chơi này gây thêm phiền phức cho cái gia đình chính thức của ông. Hai anh em tôi là bản sao nguyên mẫu của bà. Những gì nhận được từ tuổi thơ mãi mãi hằn dấu lên cho đến hết cuộc đời chúng tôi. Nhìn bên ngoài tôi có tướng con nhà phong lưu nhưng cái ruột của tôi lại thuộc về con cái của những gia đình nghèo, lại chả có thế thân gì nên rất biết phận, cho thì nhận, không cho cũng không đòi, chỉ cầu không có ai quấy nhiễu là mừng. Em trai kém tôi năm tuổi, lấy vợ muộn, về hưu sớm, lúc trẻ thì thay anh hầu hạ mẹ, về già thì đi chợ nấu cơm, giặt quần áo thay vợ chăm sóc các con. Cả đời chỉ biết cười, cái cười nhẫn nhục, bằng lòng với những gì mình có.
Tôi thì khác, một cuộc sống bên ngoài ai cũng biết là khiêm tốn, nhẫn nại, ít làm phiền người khác và chả dám gây sự với một ai. Nhưng cuộc sống bên trong cũng có nhiều tham vọng, làm quan hay làm anh nhà giàu thì không dám vì tôi không có bản lĩnh tiến thân bằng hoạn lộ hay kinh doanh. Tôi chỉ có một ao ước duy nhất là được viết văn cho đến già. Với cái tài tôi tự biết, tôi phải sống rất lâu và viết rất nhiều may ra mới được một hai cuốn sách hay, mà cũng chỉ hay trong cái thời của nó chứ không thể hay ở mọi thời. Tôi tự nhận tôi là người có một con mắt bên trong và một cái tai bên trong từ nhỏ. Để quan sát, nghe ngóng những người khác họ yêu mình hay ghét mình. Càng lớn tuổi cái khả năng tự xét mình của tôi càng sắc nhọn. Và tôi đã nhận ra cái lợi của phép giấu mình. Trang Tử đã nói : Con chim bay cao thì tránh được tên, được bẫy, con chuột đào hang sâu thì tránh được cái hoạ bị khói hun.

Đi tìm cái tôi đã mất
16.
Khi tôi nói, tôi sống và viết cũng thoái mải, vui vẻ trong một chế độ chuyên chế về tư tưởng cứ như là người nói dối, lại nói dối một cách trơ tráo, sống sượng. Nhưng đó là lời nói thật, không thật với nhiều người nhưng với tôi là thật. Tôi được thay đổi số phận từ cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945. Chín năm đánh Pháp với nhiều người là rất dài, với tôi lại rất ngắn vì tôi được sống trong niềm vui, trong những cái khác thường và cả trong nhiều hi vọng. Nhiều anh trong cơ quan tuyên huấn của quân khu đều xuất thân từ các gia đình viên chức nhỏ, địa chủ nhỏ, được ăn học đàng hoàng đến hết bậc cao đẳng tiểu học đã có những thói quen, những nền nếp của cuộc sống thị dân từ nhỏ. Họ rất thích quan sát những phản ứng của tôi khi phải đối mặt với mọi thiếu thốn của cuộc sống kháng chiến. Vì nhìn ngoài tôi như một thư sinh con nhà quý tộc chưa từng biết cái thiếu cái khổ là gì. Những việc làm rất tự nhiên của tôi đều được đánh giá phải có nhiều nghị lực, nhiều quyết tâm mới làm được thế.
Tôi vẫn sống như xưa kia, ngày xưa thì bị chê bị chửi, bây giờ lại được khen, được tuyên dương, người cứ lâng lâng như nhập đồng, còn biết cái thiếu là gì cái khổ là gì. Nếu so sánh thì trước kia tôi chỉ là con số không, còn bây giờ tôi đã có một cái tên ký dưới các bài báo, đã được nhiều ông anh trong cơ quan nhờ vả, đòi hỏi, bực tức hoặc khen ngợi. Tôi đã được tách ra khỏi đám đông để tự bằng lòng mình và có cả chút ít “ kế hoạch riêng ” cho mình nữa. Còn các anh hơn tôi dăm bảy tuổi thì đã có nhiều thứ để so sánh những cái “ đã có ” trước kia và cái “ đang có ” bây giờ. Cái “ đang có ” của dân tộc thì nhiều, còn cái “ đang có ” của cá nhân như chả còn được bao nhiêu. Những kiến thức lịch sử và xã hội, triết học và văn chương xem ra phải bỏ đi quá nửa. Các quan hệ giao tiếp xã hội được dạy bảo từ thuở còn thơ nếu dùng lại cứ vênh váo, buồn cười thế nào trong hoàn cảnh kháng chiến. Sống tinh tế, tôn trọng người khác là cách sống của anh tiểu tư sản. Lòng thương người không đúng chỗ cũng được xem như biểu hiện của một tính cách nhu nhược, không đáng tin cậy. Còn những câu đùa thông minh, kín đáo ánh lên như một vệt sáng vui trong cuộc sống đơn điệu, tẻ nhạt của mỗi ngày lại dễ bị đồng đội hiểu lầm là một cách chế diễu của người có học với những anh em ít học. Qua mỗi cuộc chỉnh huấn tầm vóc của mấy anh càng như nhỏ lại, mờ nhạt hơn, mất dần những vẻ riêng, cái phần độc đáo riêng để nhập vào cái dòng chảy chung, vào cách nghĩ cách sống của một tập thể bao bọc quanh mình. Đại để cái riêng của mỗi chúng tôi đã bị cái chung nuốt dần như thế.
Tôi thì sao ? Tôi đã có một may mắn lớn vì tôi thuộc về số đông, một quần thể vô danh tồn tại âm thầm trong nhiều thế kỷ dưới chế độ phong kiến. Cách mạng Tháng Tám đã nhất loạt giải phóng họ ra khỏi thân phận nô lệ, tạo cơ hội cho họ phát triển những tài năng riêng của mình, chủ yếu trong lĩnh vực quân sự để kịp thời phục vụ những nhu cầu của kháng chiến. Số đông trong họ chỉ mới biết đọc biết viết từ ngày vào quân đội nhưng học rất nhanh cách xây dựng một quân đội hiện đại với những cơ quan phục vụ cho công việc tham mưu, tác chiến, hậu cần vì họ đã có được một ông thầy lý tưởng là quân đội hiện đại của đối phương với ông tướng lừng danh trong thế chiến 2 của nó. Trong chín năm đánh Pháp quân đội đã trở thành cái nôi đào tạo, nuôi dưỡng nhiều nhân tài quân sự của thời hiện đại, cả những tài năng văn nghệ phục vụ trong quân đội, nó là tổ chức tiên tiến nhất của xã hội Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ 20. Trong chiến tranh người chỉ huy quân sự là hình tượng đẹp nhất, lãng mạn nhất vì họ là con người của hành động, của đảm bảo chiến thắng, luôn ở vị trí thứ nhất, còn con người của học thuyết chỉ ở vị trí đứng sau, trong nhiều trường hợp chỉ là cái anh bàn thêm, nói góp. Còn những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội thì con người lý luận có nhiệm vụ bảo vệ sự trong sáng của học thuyết chính thống ở hàng đầu được tôn trọng và có quyền quyết định sự sống chết của nhiều người. Chính là trong những năm này mới sinh ra nhiều vụ án chính trị và văn chương, nay nghĩ lại vừa vô nghĩa vừa buồn cười nhưng thời ấy nó đã chôn sống nhiều tài năng thực sự ở mọi lĩnh vực vì họ đã tỏ ra ngờ vực sự đúng đắn của tư tưởng chính thống.
Một nửa nước đã được độc lập nhưng lòng người tan nát vì tài sản một đời chắt chiu của họ đã bị nhà nước tịch thu hoặc trưng thu khiến họ trở thành những người vô sản bất đắc dĩ. Tầng lớp trí thức chả có tài sản gì ngoài cái đầu được tư duy tự do, thì cái đầu cũng bị nhà nước trưng thu luôn, vì từ nay họ chỉ được nghĩ được viết theo sự chỉ dẫn của một học thuyết, của một đường lối nếu họ không muốn giẫm vào vết chân của nhóm “ Nhân Văn Giai Phẩm ”. Một dân tộc đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ mà mặt người dân nám đen, mắt nhìn ngơ ngác, đi đứng long rom như một kẻ bại trận. Quả thật dân tộc Việt Nam đã thắng lớn trong phong trào chiến tranh giải phóng nhưng lại thua đậm trong công cuộc xây dựng một xã hội tự do và dân chủ. Thoát ách nô lệ của thực dân lại tự nguyện tròng vào cổ cái ách của một học thuyết đã mất hết sức sống. Dân mình sao lại phải chịu một số phận nghiệt ngã đến vậy !
Một xã hội tan nát, lòng người chĩu nặng những phiền muộn ưu tư, mà là những người đã hết lòng hết sức với kháng chiến bằng cách này hay cách khác. Vậy nhà văn phải viết như thế nào, phải viết cái gì để tạo được một hiện thực tràn đầy hy vọng như các nhà lãnh đạo cách mạng yêu cầu.
17.
Những năm 50, 60 của thế kỷ 20, với tôi là những năm tràn đầy niềm vui. Nhìn vào đâu tôi cũng thấy tôi được, dân tộc tôi được. Nhưng cũng những năm ấy với hàng triệu người dân thường lại là những năm đầy lo lắng, hãi sợ và tuyệt vọng. Tôi vui là chuyện có thật, những trang viết của tôi vào những năm ấy là rất thành thật. Nhưng nước mắt của người khác cũng là chuyện có thật, tôi có biết, có được chứng kiến. Tôi nên nghiêng ngòi bút của tôi về phía nào. Về già tôi mới nhận ra nhà văn phải nghe theo tiếng gọi của tình cảm, của trái tim, của cái phần thiện lương trong con người mình. Nó đã bảo sai là sai, không có thứ lý luận nào chống đỡ nổi. Vả lại văn chương bao giờ cũng đồng cảm với nỗi đau của con người, những bất hạnh của con người. Chưa bao giờ vì sự mãn nguyện, sự thành công của con người mà cất lên tiếng hát ca ngợi cả.
Ở các thể loại nghệ thuật ngôn từ con người phải chống chọi với mọi cảnh ngộ trái ngược chiếm gần hết các trang viết, các màn diễn, còn khi người nghèo đã thành giàu, người hèn được bước vào thế giới phú quý, trai gái phải chịu nhiều năm chia lìa tới lúc tái hợp là cuốn sách, vở diễn phải chấm hết ngay. Nó đã kết thúc cái phần nghệ thuật để bắt đầu sang phần tụng ca là cái thế giới của mãn nguyện của buồn chán, là cái phần phi nghệ thuật. Nhưng người lãnh đạo lại chỉ thích cái phần không phải là nghệ thuật, tặng giải thưởng, trao huân chương cho các tác giả chỉ để tưởng thưởng cái phần nhạt nhẽo vô vị ấy mà thôi. Cái cách cảm nhận hiện thực đầy tính lãng mạn ấy đã làm lệch lạc cách xem xét, cách ứng xử của nhiều thế hệ bạn đọc, nhất là bạn đọc ở tuổi mới trưởng thành, trước những biến hoá muôn mặt của cuộc sống. Họ chỉ có mỗi khả năng làm người phê bình văn học theo đường lối chính trị chính thống, tại sao cuộc sống đẹp như thế mà nhà văn lại miêu tả nó xấu đến thế. Làm sao dám cãi, hãy để cho những trải nghiệm của chính họ qua năm tháng sẽ âm thầm biện hộ giúp mình thôi.
18.
Một xã hội không tự hiểu mình, mỗi cá nhân cũng không tự hiểu mình, vàng thau, phải trái, cao quý ti tiện lẫn lộn, các giá trị lẫn lộn bắt đầu từ sự không chuẩn xác của ngôn từ. Câu mở đầu kinh thánh Cựu ước “ Thoạt Tiên Là Ngôn Ngữ…” (Au conmmencement était le Verbe). Ngôn ngữ làm nên văn minh này, vì nó có thể lưu giữ và truyền lại toàn bộ kinh nghiệm của nhiều đời trước cho nhiều đời sau, càng ngày cái khả năng nhận thức càng gần đúng như nó có, khiến sự lựa chọn của con người khách quan hơn, có hiệu quả tích cực trong quá trình chủ động thích ứng với mọi đổi thay của môi trường sống và môi trường xã hội. Vậy mà ngôn từ lại là cái mặt yếu nhất trong các lãnh vực thuộc thượng tầng kiến trúc ở các nước xã hội chủ nghĩa. Công dân của các nước ấy dùng ngôn từ để che đậy chứ không nhằm giao tiếp, hoặc giao tiếp bằng cách che đậy, “ nói vậy mà không phải vậy ” ! Nó là cái vỏ cứng để bảo vệ mọi sự bất trắc, chống lại thói quen hay xét nét lời ăn tiếng nói của công dân của mọi chính quyền chuyên chế. Cái cách tự bảo vệ ấy lại càng rõ rệt ở cấp lãnh đạo và các viên chức nhà nước làm việc ở các cơ quan quyền lực. Họ nói bằng thứ ngôn ngữ khô cứng đã mất hết sinh khí, một thứ ngôn ngữ chết, ngôn ngữ “ gỗ ”, nói cả buổi mà người nghe vẫn không thể nhặt ra một chút thông tin mới nào.
Các buổi trả lời phỏng vấn báo chí, diễn văn tại các buổi lễ kỷ niệm, báo cáo của Đảng, của chính phủ, của quốc hội, tất cả đều dùng các từ rất mơ hồ, ít cá tính và ít trách nhiệm nhất. Người cầm quyền cấp cao nhất và cấp thấp nhất đều biết cách nói mơ hồ, càng nói mơ hồ càng được đánh giá là chín chắn. Và nói dối, nói dối hiển nhiên, không cần che đậy. Vẫn biết rằng nói dối như thế sẽ không thay đổi được gì vì không một ai tin nhưng vẫn cứ nói. Nói đủ thứ chuyện, nói về dân chủ và tự do, về tập trung và dân chủ, về nhân dân là người chủ của đất nước còn người cầm quyền chỉ là nô bộc của nhân dân. Rồi nói về cần kiện liêm chính, về chí công vô tư, về lý tưởng và cả quyết tâm đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Nói dối lem lém, nói dối lì lợm, nói không biết xấu hổ, không biết run sợ vì người nghe không có thói quen hỏi lại, không có thói quen lưu giữ các lời giải thích và lời hứa để kiểm tra. Hoặc giả hỏi lại và kiểm tra là không được phép, là tối kỵ, dễ gặp tai hoạ nên không hỏi gì cũng là một phép giữ mình. Người nói nói trong cái trống không, người nghe tuy có mặt đấy nhưng cũng chỉ nghe có những tiếng vang của cái trống không. Nói để giao tiếp đã trở thành nói để không giao tiếp gì hết, nói để mà nói, chả lẽ làm người lại không nói. Thật ra nói thế mà vẫn hiểu nhau cả. Người cầm quyền thì biết là nhân dân đang rất bất bình về nhiều chuyện, nhân dân thì biết người cầm quyền đang nói dối, nhìn vào thực tiễn là biết ngay họ đang nói dối. Nhưng hãy mặc họ với những lời lẽ dối trá của họ, còn mình là dân chả nên hỏi lại nói thế là thật hay không thật. Mình cứ làm theo ý mình và mình cũng sẽ nói dối, nói che đậy nếu như có dịp được người cầm quyền hỏi.
Trong hàng trăm cuốn hồi ký của các nhà văn hoá, của những người hoạt động chính trị, của nhiều tướng lĩnh, ta chả biết được bao nhiêu cái thế giới riêng của họ, cái thế giới cá nhân của họ. Cái phần đóng góp của họ càng nhỏ thì cái ý nghĩa quyết định của tập thể càng lớn, cái có tên thì bé tí xíu, vô nghĩa, cái không tên thì bao trùm rộng khắp nhưng cũng không có hình thù rõ rệt, cứ mờ mờ mịt mịt, có đấy mà cũng không có đấy, cái chung ấy chả phải chịu trách nhiệm với một ai, có biết nó là ai mà truy cứu.
19.
Trong cái bối cảnh xã hội, chính trị như thế, mỗi người đều ít nhiều đánh mất cái cá nhân của mình cũng là lẽ đương nhiên. Nhà văn là chuyên viên nghiên cứu mọi chuyện của cá nhân, những sắc thái tâm lý cùng với những biến hoá vô tận của nó trong những hoàn cảnh khác nhau, những thời thế khác nhau. Nhưng đọc hồi ký của các nhà văn cũng nhạt nhẽo lắm, họ chỉ phô diễn cái tôi trong các cuộc gặp những bậc đàn anh và bạn bè trong nghề, nói toàn chuyện tào lao, vụn vặt, chuyện sinh hoạt và chả đả động chút nào tới thời thế, tới những bức xúc về thời thế và cái nghề của mình trong thời thế. Tính hiện thực và tính lịch sử của một thời rất mờ nhạt, đơn giản, thành thử cái ý nghĩa truyền đạt những giá trị đích thực của một thời tới các thế hệ đến sau hầu như không có. Đó là điều rất đáng tiếc, vì nếu các chứng nhân không nói gì cả thì lịch sử cũng không thể cất lên tiếng nói chân thực của nó, thời gian qua đi, bóng tối phủ lên, quên lãng phủ lên, cái thời mở nước, giữ nước chỉ còn lưu lại những cột mốc của các chiến công, còn cuộc chiến thầm lặng đã làm tan nát nhiều con người để con người được là chính mình, được là một thực thể thiêng liêng, đền đài lưu giữ muôn thuở cái tài sản tinh thần của một dân tộc, một dòng họ mãi mãi được vun xới, được phát triển tương ứng với sự phát triển của dân tộc, của thời đại thì chưa được văn thơ nói đến, triết học nói đến, các ngành khoa học nhân văn nói đến.
Dầu không nói đến, không được phép nói đến thì cái dòng chảy vĩnh cửu ấy vẫn được nhiều triệu người âm thầm khai thông, bồi đắp để các nhân tài Việt Nam không ngừng xuất hiện lúc ở lãnh vực này, lúc ở lãnh vực khác. Một đất nước không có những cá nhân kiệt xuất, tài ba làm chân dung đại diện trong cộng đồng nhân loại thì đó là một bất hạnh cho dân tộc, tạo ra một khoảng trống tiếp nối trong lịch sử sinh tồn của mỗi cá nhân. Rồi các thế hệ đến sau phải nối lại bằng cách nào vì vẫn phải bắt đầu từ môi trường chính trị, xã hội, từ một xã hội vừa truyền thống vừa văn minh, những mục tiêu nhắm tới vừa là phát triển cái riêng biệt, vừa là sự hòa nhập vào nền văn minh của khu vực và thế giới. Một nền văn minh riêng lẻ, với những mục tiêu hoang tưởng, một môi trường xã hội ngột ngạt vì cái bóng quyền lực phủ lên tất cả, quyết định tất cả thì số phận những cá nhân sẽ ra sao ?
Hãy nhìn vào nước Nga những năm 90 của thế kỷ 20 là sẽ rõ. Họ vừa thoát khỏi cái bóng che của chủ nghĩa chuyên chế để được nhìn cái ánh sáng thật của dân chủ và tự do. Ai chả nghĩ họ đã có cơ hội sải những bước chân dài khi đã bung phá mọi sự trói buộc. Nước Nga mãi mãi là một siêu cường vì những thử thách lớn nhất của một dân tộc là chiến tranh và cách mạng nước Nga đều đã trải qua mà vẫn tồn tại vì đất đai mênh mông của mình và những tiềm lực vô hạn ẩn giấu trong đó cả vật chất lẫn tinh thần. Phải vài chục năm nữa nước Nga sẽ là như thế nhưng trước mắt thì không thể. Lý do rất đơn giản, kinh tế có thể phục hồi nhanh nhưng con người phải có thời gian dài hơn nhiều nó mới có thể lấy lại những gì đã mất. Tầm vóc cá nhân của người Nga trong non một thế kỷ dưới chế độ Xô Viết đã bị co hẹp lại rất nhiều dầu họ vẫn được sống, được học tập và lao động trong những điều kiện của một xã hội văn minh. Chỉ đáng tiếc cái văn minh của họ là một nền văn minh tự tạo tách khỏi nền văn minh nhân loại, dựa trên những tiêu chuẩn mà tâm hồn Nga không thể chấp nhận, không thể tiến hoá.
Lại thêm trong non một thế kỷ người Nga đã mất dần thói quen suy nghĩ độc lập, quyết định độc lập, mất dần cả tính cách phản kháng và bảo vệ chân lý, con người quen sống trong đám đông, trong tập thể, trong bầy đàn, không có cơ hội và sự khích lệ của xã hội để tạo ra những chân dung riêng với những tư tưởng khác nhau, những triết lý khác nhau những cách sống khác nhau. Mọi cái khác với chính thống đều bị lên án, mọi cái giống nhau đều được tuyên dương. Vì những cái khác nhau rất khó tạo ra sự nhất trí, còn những cái giống nhau sẽ dễ nghe theo, làm theo mọi mệnh lệnh. Người cai trị sẽ rất dễ chịu, rất nhàn nhã nếu quốc gia mình cầm quyền được tổ chức giống như trại lính, ông ta sẽ có dư thời gian để làm thơ hoặc viết tiểu thuyết, vừa có cái bây giờ lại có cả cái sau này.
Còn phải lãnh đạo một xã hội dân sự của các công dân tự do thì có hàng trăm công việc đòi hỏi phải được giải quyết mỗi ngày, mà cách thức giải quyết cũng rất phức tạp, nó yêu cầu phải đối thoại, phải được tranh luận bình đẳng, phải thương lượng, phải luôn luôn thay đổi những chủ trương mà dân chúng không bằng lòng. Và mọi việc làm đều phải tuân theo hiến pháp và được xã hội kiểm tra thông qua hệ thống thông tấn báo chí. Chẳng những người lãnh đạo phải bị kiểm tra những công việc thuộc về chức năng của họ mà còn bị theo dõi rất nghiêm ngặt mọi sinh hoạt thuộc về đời tư của họ để ngăn chặn kịp thời những vi phạm thuộc về đạo đức. Ở những xã hội văn minh thì người cầm quyền bị rất nhiều luật lệ câu thúc, trói buộc, là người mất tự do nhiều nhất, còn dân chúng thì được pháp luật bảo vệ đủ mọi đàng, càng ít bị trói buộc càng tốt, càng có nhiều tự do càng tốt. Chỉ một xã hội được tổ chức như thế thì vị trí cá nhân mới được tôn trọng, người có giá trị là người có cái TÔI mạnh mẽ, đầy sức sống, đầy sáng tạo. Nên mỗi người đều có ý thức vun trồng những nét đặc sắc của riêng mình, cái vẻ đẹp của riêng mình và con của cháu thành những gia đình nổi tiếng, những dòng họ nổi tiếng làm cột chống cho một quốc gia.
Một chế độ độc tài khi phải đối mặt với những biến động lớn thường rễ bị nứt rạn, từ nứt rạn đến tiêu vong, thời gian diễn ra rất nhanh vì nó chỉ có trụ đỡ là quyền lực của một phe đảng, không có trụ đỡ về tinh thần của cả dân tộc. Một chế độ chính trị tồn tại tới non một thế kỷ hay một nửa thế kỷ cũng là lâu lắm, đã tạo ra mấy thế hệ ăn chung ở chung với nó, sinh con đẻ cái với nó mà khi nó chết không ai nhỏ được một giọt nước mắt, có người còn nhẫn tâm đạp lên cái vừa chết đó rồi mới tiếp tục bước đi, đủ biết người ta đã xem nó như vật bất thường, là quái thai, là tai hoạ, thời thế đã bất thần xoá bỏ nó một cách êm dịu, không phải tốn đến máu cũng là một may mắn phi thường. Có thể kết luận, một chế độ chính trị được xem là văn minh hay lạc hậu, là sẽ tồn tại lâu dài hay chỉ có mặt trong khoảng khắc của lịch sử là tuỳ thuộc vào cương lĩnh chính trị của Đảng cầm quyền có thật sự tôn trọng những quyền của con người hay không, các cá nhân với những khác biệt, những phản ứng, những bất tuân của nó có được đặt ở vị trí trang trọng trong hiến pháp hay không ? Vì tiềm lực tinh thần của mọi cá nhân được vun xới, được phát triển trong tự do là nền tảng vững chắc nhất của mọi thiết chế chính trị. Vì còn nó ta có thể vững tin sẽ vượt qua mọi sóng gió bất thần của thời thế để mãi mãi tiến về phía trước.
Viết xong tại quận Bốn Thành phố Hồ Chí Minh ngày 27/5/2006
© Nguyễn Khải