Sunday, June 13, 2010

Thầy Tôi

[Kính Mừng Phật Đản] Trần Trung Đạo: Thầy Tôi
By HoangHac • May 30th, 2010 • Category: Bút Ký

Đời tôi gần giống như cuộc đời của cậu bé mồ côi ở viện Dục Anh trong văn Vũ Trọng Phụng. Chúng tôi đều sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Từ những ngày còn bé tôi đã không có một cái gì để gọi là riêng tư. Đời tôi gắn liền với tập thể, lớn lên và nương tựa vào tập thể. Không có tập thể tôi không sống được. Không có tập thể, tôi sẽ cảm thấy trơ trọi và lạc lõng trong rừng đời. Tập thể là nước để tôi uống, là hơi để tôi thở, là gia đình, là niềm vui và cũng là chiếc dù che nắng trong hành trình nhiều đại hạn của đời tôi. Ngay cả bây giờ khi khôn lớn, tập thể vẫn đóng một phần quan trọng trong sinh hoạt tinh thần của tôi. Một trong những tập thể mà tôi luôn gắn bó: Gia Đình Phật Tử Việt Nam.
Hành trang đi vào cuộc đời của tôi là những vốn liếng tôi học được từ Gia Đình Phật Tử. Ngày bỏ làng Mã Châu ra đi, tôi không có gì để mang theo ngoài tinh thần Bi Trí Dũng, những hạt giống đầu tiên được gieo trồng trong tâm hồn tôi từ thuở ấu thơ. Tôi học để thương yêu người và vật, để khai phóng và dung hóa với tha nhân, để chịu đựng và vượt qua các thử thách của cuộc đời. Hơn ba mươi năm sau, những hạt giống tốt kia đã mọc thành cây xanh, trái ngọt. Từ một mức độ rất giới hạn và nhiều chủ quan, tôi nghĩ mình đã học và hành theo đúng phần nào các châm ngôn của một người Phật tử.
Tôi gia nhập Gia Đình Phật Tử từ những ngày còn rất nhỏ. Buổi sáng mùng tám tháng Chạp, nhân ngày lễ Đức Phật Thích Ca Thành Đạo, tôi hồi hộp theo cha đến chùa Ba Phong, ngôi chùa làng nho nhỏ nằm bên bờ sông Thu êm đềm chảy ra Cửa Đại, để ghi tên vào Gia Đình Phật Tử Ba Phong. Hôm đó là một trong những ngày trọng đại của đời tôi.
Sau một thời gian sinh hoạt như một đồng niên, vào dịp lễ Phật Thích Ca Thành Đạo năm sau, cả đoàn chúng tôi được Đại Đức Thích Như Vạn từ Hội An về làm lễ quy y. Thầy bổn sư tôi có pháp hiệu là Như Vạn, theo nghĩa câu kệ “Ấn Chơn Như Thị Đồng” của tổ Minh Hải, được truyền thừa qua nhiều thế hệ tăng sĩ. Trong lễ phát nguyện quy y Phật Pháp Tăng và thọ ngũ giới, đoàn chúng tôi quỳ sát nhau sau lưng Đại Đức Thích Như Vạn. Mỗi khi thầy đọc tên một đoàn sinh thì thầy cũng đọc thêm Pháp Danh mà thầy đặt cho đoàn sinh đó. Phe con gái thì không cảm thấy gì lạ với những tên đạo Thị Diệu, Thị Trang, Thị Từ, Thị Hạnh….của họ nhưng khi thầy đọc pháp danh của tôi thì cả đoàn, cả trai lẫn gái cùng bật tiếng cười ồ, dù đang làm lễ trước chánh điện. Còn tôi thì dĩ nhiên khi nghe tên đạo của mình tôi ngượng đến điếng người. Khóc không được nhưng cười cũng không xong. Ở lại thì không muốn chút nào mà bỏ đoàn ra về thì không dám. Lý do vì thầy đặt cho tôi một cái tên rất là con gái: Thị Nghĩa.
Đám bạn tôi và cả tôi vẫn nghĩ chữ Thị chỉ dành độc quyền cho đàn bà con gái dùng mà thôi. Đàn ông con trai phải được lót bằng những chữ văn hoa như Tâm, Từ hay hùng tráng như Trung, Nguyên,v.v… chứ không ai đặt chữ lót là Thị bao giờ. Không chỉ riêng tôi mà tất cả nam đoàn viên hôm đó đều bị thầy đặt tên con gái. Thông thường, pháp danh các thầy ban xuôi nghĩa với tên thật. Chẳng hạn tên thật tôi là Nhơn thì thầy ban pháp danh là Nghĩa, bạn tôi tên là Phúc thì thầy ban cho pháp danh là Thị Hồng. Hồng Phúc thì không sao nhưng Thị Hồng lại càng có vẻ con gái hơn cả pháp danh của tôi. May là trong đám con trai bọn tôi không có đoàn viên nào tên Sắc, nếu có thì biết đâu thầy lại chẳng đặt cho cái tên là Thị Mầu, xuôi theo chữ “mầu sắc” thì chỉ còn nước trốn đoàn, bỏ xứ mà đi.
Tôi buồn vì cái tên Thị Nghĩa nầy lắm. Buồn mấy năm trời. Trong truyền thống của Gia Đình Phật Tử, từ huynh trưởng đến đoàn viên, đều gọi nhau bằng pháp danh thay vì bằng tên thật. Thật khó chịu biết bao khi nghe các anh các chị gọi tôi là Thị Nghĩa. Nhiều lần tôi định sẽ quy y lại một lần nữa và với một thầy khác. Mục đích duy nhất là để được đặt một pháp danh dễ nghe hơn là pháp danh Thị Nghĩa quê mùa và con gái mà tôi đang có.
Gia đình Phật Tử ở quê tôi coi như tan rã kể từ sau khi Cộng Sản mở cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân. Các anh chị huynh trưởng, một số đi theo Cộng Sản, một số đi lính Cộng Hòa, một số khác bỏ làng ra Đà Nẵng tìm cách sinh sống, làm ăn. Đám đoàn viên chúng tôi từ đó như đám chim non bay tán loạn đầy trời. Tôi bay lạc xuống thị xã Hội An và đậu dưới gốc đa chùa Viên Giác.
Trong những ngày ở Hội An, tôi may mắn gặp lại bổn sư Thích Như Vạn trong một dịp thầy tới thăm chùa. Câu đầu tiên, sau khi vấn an thầy, là tôi phàn nàn ngay việc thầy đã ban một pháp danh rất đàn bà con gái không thể nào chấp nhận được. Tôi bạch với thầy rằng, thầy là bậc tu hành nên không thể hiểu được nổi khổ đau của một kẻ có tên mà không muốn ai gọi.
Thầy cười và giải thích các triết lý sâu xa của từng chữ, từng câu trong bài kệ tám câu của tổ Minh Hải mà chúng tôi được vinh dự kế thừa. Theo thứ tự mỗi chữ trong câu “Ấn Chơn Như Thị Đồng” có nghĩa là các đệ tử của Đại Đức Thích Như Vạn, dù nam hay nữ, dù xuất gia hay tại gia đều được bắt đầu bằng chữ Thị. Tôi hiểu được một phần nào, nhưng thú thật, đối với một thiếu niên mười bốn, mười lăm tuổi, không phải dễ dàng chấp nhận cái tên của một cô con gái quê mùa Thị Nghĩa .
Tôi rời Hội An vào năm 1972 để vào Đại Học. Ở Sài Gòn tôi gần gũi với các tổ chức thanh niên sinh viên Phật tử, có dịp học hỏi dưới sự hướng dẫn của chư tôn đức trong Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương. Đối với nhiều người, việc được làm đệ tử của các tôn đức trong hội đồng lãnh đạo của giáo hội là một điều khó khăn nhưng với tôi có lẽ không phải là một điều quá khó. Tuy nhiên, cái toan tính trẻ con thay tên đổi họ, quy y thêm một lần nữa ngày xưa cũng đã thật sự chết đi khi tuổi trưởng thành.
Thế hệ trẻ chúng tôi lớn lên giữa mùa bão lửa, đi trong những điêu tàn đổ nát của quê hương, lắng nghe những nỗi đau ngất trời không thể nào câm nín được của dân tộc Việt Nam. Chúng tôi ôm ấp trong lòng một hoài bão lớn lao là kết hợp các tổ chức thanh niên, sinh viên, học sinh thành một tập hợp của những người Việt Nam trẻ có lý tưởng quốc gia, yêu nước, yêu tự do dân chủ. Tuy nhiên, thành thật mà nói, trong hoàn cảnh phân hóa chính trị và chiến tranh trước 1975, chúng tôi là những kẻ cô đơn, yếu thế và bị lãng quên. Tre đang tàn nhưng không bao nhiêu người biết lo cho măng mọc. Chính quyền không hiểu chúng tôi. Cha mẹ không hiểu chúng tôi. Thầy tổ không hiểu chúng tôi. Chúng tôi lớn lên trong một giai đoạn lịch sử bi thảm, trong đó các giá trị tự do, dân chủ, độc lập, hòa bình, dân tộc …đều bị các phe phái, các quyền lực trong và ngoài nước, lạm dụng và nhân danh.
Về phía Phật Giáo, từ ngày được chính thức thành lập vào đầu năm 1964, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, đã phải chịu đựng quá nhiều sóng gió. Chỉ một thời gian ngắn sau ngày thống nhất, cửa chùa đã nghe thoang thoảng mùi phấn son chính trị. Các tổ chức trực thuộc giáo hội vừa được thành lập, chưa có cơ hội để kiện toàn và ổn định đã phải đương đầu với các nhu cầu chính trị đoản kỳ. Số phận của Phật Giáo, cùng với dân tộc, giống như một quả cầu trong một trận banh quốc tế với dã tâm chia rẽ. Bất cứ một thế lực nào muốn chiếm đoạt, muốn thực dân, muốn cai trị Việt Nam, trước hết, phải nghĩ đến chuyện làm phân hóa Phật Giáo Việt Nam.
Một điều đáng buồn là hàng ngũ Phật tử trong giai đoạn đó, một số vị chẳng những không góp phần vào việc bảo tồn chánh pháp và bảo vệ đất nước, trái lại đã cố ý hay vô tình góp phần vào việc làm nát tan đất nước và phân chia giáo hội. Không ít “cư sĩ” theo chân các thầy chỉ vì thời thế lợi danh, một số khác đi theo thầy để núp dưới bóng chiếc áo vàng của thầy làm chính trị, một số theo thầy chỉ để chờ cơ hội hại thầy mà thôi.
Thời đại của các ngài Tâm Minh Lê Đình Tám, Chánh Trí Mai Thọ Truyền không còn nữa. Chung quanh các thầy, các trung tâm Phật Giáo là các ông quan văn bị thất sủng, các ông nghị sĩ, dân biểu thất thế, các ông tướng võ thất thời. Họ là những món hàng ế ẩm, những sản phẩm sai mùa không một cường quốc nào muốn mua, không một thế lực nào để mắt tới. Họ là phe thất bại của những cuộc chỉnh lý, đảo chánh tranh quyền đoạt lợi triền miên sau 1963.
Họ từng là những tay cầm cờ, chạy lệnh cho Thực Dân, nay thời thế đổi thay quay sang Phật Giáo để được đóng vai những người yêu nước thương nòi. Họ đi chùa còn siêng năng hơn cả những Phật Tử thuần thành nhất, mặc dù suốt đời chưa hẳn đã thuộc được một câu kinh Phật chứ đừng nói chi đến những bước khó hơn của tâm đạo, trí đạo. Và mai đây khi cơn bão lửa tàn đi, chiếc vòng danh lợi không còn nữa, họ sẽ là những người đầu tiên bỏ chùa, bỏ thầy ra đi và sẽ không bao giờ trở lại. Và đúng như thế, đại đa số nếu không muốn nói là tất cả đã quay lưng, đã bỏ đi, và thậm chí đã đồng lõa với bạo quyền khi giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất lâm vào Pháp nạn 1975.
Một buổi chiều tháng mười năm 1973, một người bạn và cũng là người lãnh đạo của một tổ chức sinh viên Phật Tử ghé qua thăm. Cậu ấy rủ tôi vào mùng Một tháng sau đi làm lễ Quy Y ở Viện Hóa Đạo. Cậu đưa cho tôi xem một danh sách những thành viên trong tổ chức của cậu đã phát nguyện và khuyên tôi nên quy y để bạn bè làm theo. Nhìn sơ qua, tôi rất ngạc nhiên vì danh sách khá dài. Tôi hỏi người bạn: “Chẳng lẽ chừng nầy Phật tử chưa có một người nào đã quy y trước hay sao?” Bạn tôi đáp: “Dù một số đã quy y rồi nhưng họ xin quy y lại vì đây là dịp may mới có một tôn đức lãnh đạo trung ương của giáo hội làm lễ thu nhận đệ tử”.
Tôi bỗng dưng cảm thấy một nỗi buồn đang thấm sâu vào trong từng mạch máu. Tôi tự hỏi, giáo hội Phật Giáo, từ một giòng suối tình thương đã biến thành một trung tâm quyền lực từ bao giờ thế nhỉ? Phật giáo đã bị những nhiễu nhương suy đọa của thế gian ảnh hưởng nặng nề đến thế hay sao? Tôi nhìn người bạn thân đầy nhiệt huyết của tôi mà thầm lo sợ cho chính tôi và thế hệ chúng tôi. Phải chăng chúng tôi đã mất đi những nhiệt tình hồn nhiên của tuổi trẻ? Phải chăng chúng tôi không còn yêu nước một cách vô tư và trong sáng như trước nữa?
Chiến tranh, phân hóa, lợi danh đang đục khoét mỗi ngày một sâu hơn vào thế hệ chúng tôi, vào tương lai của đất nước chúng tôi.
Tôi nghiêm khắc trả lời bạn tôi: “Mình quy y từ hồi nhỏ và không có ý định quy y lần nữa vì làm như thế là không nên”. Người bạn hỏi tôi về pháp danh, tôi trả lời cho cậu ấy biết pháp danh của tôi là Thị Nghĩa. Không giống như hồi nhỏ, khi nhắc đến pháp danh mình là mỗi lần mặt tôi đỏ bừng vì mắc cở, đêm đó tôi nói về pháp danh của mình một cách trang nghiêm và hãnh diện. Tôi kể với người bạn về thầy tôi, một ông thầy tu quanh năm chỉ biết tu hành, làm ruộng, làm tương, gánh nước tưới rau ở Tổ Đình Phước Lâm thuộc thị xã Hội An. Thầy tôi không tăm tiếng, không quyền lực. Thầy tôi không bận tâm đến chuyện trung ương hay địa phương, thầy Bắc hay thầy Trung. Không ai biết gì về Đại Đức Thích Như Vạn ngoài các đệ tử của ngài và tôi cũng chẳng cần ai biết đến thầy tôi. Với tôi, ngài là hình ảnh của một ngôi trong Tam Bảo mà tôi mãi mãi tôn thờ. Với tôi, ngài là trưởng tử của Như Lai, đi gieo hạt giống tình thương giữa lòng thế gian đau khổ nầy.
Phật tánh bao giờ cũng bình đẳng, không có trung ương hay địa phương, không có sang hay hèn, không có giàu hay nghèo. Thái Tử Tất Đạt Đa đã từ bỏ tất cả cung vàng điện ngọc để đi vào cuộc đời khổ đau bằng một chiếc áo vàng và đôi chân đất. Bài học giáo lý đầu tiên của ngành Oanh Vũ cách đây mấy chục năm tôi vẫn còn ghi nhớ.
Cách đây ba năm, tình cờ nơi đất khách tôi hân hạnh làm quen với Đại Đức Thích Hạnh Tuấn, là một trong các đệ tử xuất gia của thầy Thích Như Vạn. Thầy Hạnh Tuấn báo tôi biết rằng bổn sư của chúng tôi đã viên tịch. Tôi cảm thấy buồn. Có thể thầy chẳng hề nghĩ đến tôi, một đệ tử trong hàng ngàn đệ tử tại gia của Thầy. Nhưng đó không phải là điều quan trọng. Với tôi, điều quan trọng vì ngài là một trong Tam Bảo mà mỗi người Phật Tử phải tôn kính. Thầy trò chúng tôi đã nối nhau bằng một mối dây đạo tính thiêng liêng. Sợi dây đó đứt đi trong kiếp nầy, tự nhiên tôi cảm thấy đau buồn. Thầy Hạnh Tuấn tặng tôi tấm hình của bổn sư chúng tôi. Tôi thỉnh bức hình về thờ để nhớ đến thầy, nhớ đến những kỷ niệm không thể nào quên trong thời thơ ấu ở quê hương.
Tôi viết lại những điều nầy không phải để ca ngợi đạo tính chung thủy của mình nhưng là để nhắc lại một quá khứ đáng quan tâm và ghi nhớ của Phật Giáo Việt Nam trong một giai đoạn đầy khó khăn của dân tộc và đạo pháp.
Phật Giáo, trong cũng như ngoài nước, đang đứng trước một kỷ nguyên mới nhưng với những thử thách và đe dọa cũ. Quá khứ vẫn còn đó và luôn luôn là một bài học quý giá cho tương lai. Chư tôn đức lãnh đạo Phật Giáo trong và ngoài nước chắc đã có nhiều thời gian nhìn lại một chặng đường dài mà giáo hội đã đi qua và từ đó chọn một con đường dung hóa, thích hợp cho đạo Phật trong lòng dân tộc và nhân loại thời đại toàn cầu hóa.
Mới đây, trên đường từ Philadelphia về, tôi ngồi chung xe với anh Thiện Hải và may mắn nghe anh kể lại vài mẫu chuyện đạo. Một trong những câu chuyện anh kể có liên quan đến đời sống và đạo hạnh đẹp như ánh trăng rằm của Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, Đệ Nhị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Một ngày trước 1975, anh Thiện Hải không nhớ rõ ngày nào, phái đoàn giáo phẩm trung ương từ Sài Gòn ra Huế để thỉnh an đức Đệ Nhị Tăng Thống. Trong lúc chư tôn đức đứng ngoài cửa chùa Thuyền Tôn, chờ ngài cho phép vào, thì đức Tăng Thống lại đang bận cùng chúng điệu coi sóc mấy luống khoai lang trong vườn chùa. Mãi một lúc sau ngài mới ra tiếp phái đoàn, trên tay ngài vẫn còn mang một thúng khoai nhỏ. Đạo từ của đức Tăng Thống ban cho phái đoàn chỉ vỏn vẹn một câu ngắn: “Ra chi đông rứa hỉ” và quay lại dặn các đệ tử đi rửa khoai nấu cho phái đoàn giáo phẩm trung ương dùng trai. Năm đó đức Tăng Thống đã ngoài 80 tuổi. Mặc dù là vị lãnh đạo tinh thần tối cao của tất cả phật giáo đồ toàn quốc, đức Đệ Nhị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã sống cuộc đời của một tăng sĩ đạm bạc và thanh cao như thế đó.
Phật Giáo đã đến Việt Nam và đã đi vào lòng lịch sử dân tộc Việt Nam bằng những bước chân và bằng những tấm lòng hiến dâng cao quý như đức Đại Lão Hòa Thượng Tăng Thống Thích Giác Nhiên, chứ không phải bằng những cuộc tranh giành, thắng thua. Tinh thần Phật Giáo không phải thể hiện từ những con số, những khẩu hiệu nhưng từ những củ khoai còn dính đầy đất mà đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên đã trồng được. Dân tộc Việt Nam là đất, Phật giáo Việt Nam là nước, và Phật tử Việt Nam là những củ khoai được nuôi dưỡng và lớn lên từ trong lòng đất nước.
Trần Trung Đạo

Mảnh Đời Còn Lại

Thụy Vi: Mảnh Đời Còn Lại
By HoangHac • Apr 26th, 2010 • Category: Bút Ký

“ Lộ diệc vũ trùng trung chi nhất…”
Con người ta khi đã có một quảng đời dằng dặc khổ đau, mất mát, thương tổn, đáng lẽ không nên ngoái đầu nhìn lại làm gì. Nhưng rồi mỗi năm cứ đến ngày oan trái, những vết thương cũ tưởng lành lại tứa máu…
Nhớ lại, tôi không can đảm đối mặt với nó, nhưng cảm giác về những năm tháng ấy nói không bao giờ hết.
Bị Đuổi Ra Khỏi Ngôi Nhà Của Mình:
Sau khi ủy ban quân quản tịch thu ngôi nhà do chính đồng tiền lương thiện chắt chiu của cả hai vợ chồng, tôi không biết mình đứng chết lặng như cái xác không hồn trong bao lâu, trước khi dắt diú đứa con trai bốn tuổi với một bào thai vừa lớn trong bụng cùng chút tư trang còm cõi để bắt đầu bước vào đời sống vô vọng mịt mù trong mảnh đời còn lại.
Tôi chới với khi bổng dưng bị ném ra ngoài một cách tàn nhẫn trong một xã hội lạ lẫm, ngột ngạt, hận thù. Tôi không biết cầu cứu ai? Chồng tôi bị bắt, cha tôi bị bắt, bà con họ hàng ai ấy hoảng loạn, kẻ còn người mất, người bị bắt, người thoát chạy ra khỏi nước….! Tôi đau đớn vì cảm thấy mình thật trơ trọi. Trong cảnh cùng đường tuyệt vọng này, tôi không còn cách lựa chọn nào khác nên đành phải đưa con về nhà mẹ ruột và ông dượng ghẻ của tôi đang sống tại Cần Thơ.
Những ngày tháng này mới thật kinh khủng, suốt ngày ông dượng ghẻ kiếm chuyện khủng bố tôi bằng cách cứ chửi chó mắng mèo hay tra tấn tinh thần tôi bằng cách đem con tôi ra rầy rà đay nghiến, có khi còn đánh thật tàn nhẫn mặc dù cháu không có lỗi gì quá đáng. Mẹ tôi thương tôi nhưng mẹ tôi bất lực, cho nên chỉ nhìn tôi đau khổ như an ủi, hoặc hai mẹ con chỉ ôm nhau khóc thầm. Người hàng xóm biết ý đồ ông dượng ghẻ, kêu tôi mách nước…Thế là tôi móc hết tiền bạc, tư trang, món lớn món nhỏ, kể cả bông tay nhẫn cưới… nạp hết cho ông. Mong ông tội nghiệp thương tình cho tôi tá túc có nơi ở sinh con và đợi chồng.
Sinh con xong. Chỉ tuần lễ sau là tôi đã trở ra ngồi bán thùng thuốc lá ngay đầu đường để kiếm sống. Tưởng đã yên thân, ai ngờ, đứa con mới sinh chưa đầy ba tháng, ông dượng ghẻ bắt đầu dùng chiến thuật để vòi tiền khủng khiếp hơn, vì lúc nào trong đầu ông cũng đinh ninh là chúng tôi lắm của nhiều tiền nhưng khéo dấu. Bởi với những chức vụ mà ngày xưa chồng tôi đảm nhiệm, nếu không là một sĩ quan thanh liêm, chồng tôi có 1001 cơ hội để làm giàu. Lần này, tôi thật sự không biết phải làm sao, vì hôm trước, hai chị chồng cùng vài bà con có cho chút đỉnh, nhưng tôi đã trang trải tiền bịnh viện, tiền sữa, tiền ăn uống thuốc men nằm cữ hết rồi. Thế là ông dượng ghẻ và mẹ tôi bắt đầu cải cọ cào cấu nhau suốt ngày. Khiến con tôi cứ mếu máo sợ hãi trốn núp trong góc nhà, kẹt cửa. Chịu không nỗi, tôi thu xếp những món cần dùng và ba mẹ con chúng tôi bồng chống ra đi!
Tôi bơ vơ, ôm con đi trên phố như người thất thần, đứa con lớn lẻo đẻo sau lưng. Ba mẹ con thất thểu đi tới đi lui. Giờ phải đi đâu đây? Sống ở đâu đây? Khi tất cả đã mất hết. Nhà cửa không còn, tiền bạc không còn. Còn đường nào nữa đâu, ngoài con đường chết !? Ý tưởng chết vừa manh nha trong đầu và tiếp tục thôi thúc xúi tôi quày quả ra bến phà Cần Thơ.
Cần Thơ lên Sài Gòn phải qua con sông rất rộng, nước chảy xiết dưới những chiếc phà lớn đưa người và xe cộ qua lại. Nhảy ùm xuống đó là an toàn nhất, dễ dàng nhất và chết nhẹ nhàng nhất. Chiếc phà từ từ trôi ra giữa sông. Tay ôm đứa con sơ sinh, tay nắm cứng đứa con lớn, tôi mon men ra phía trước, chổ đường xe lên xuống, không có những hàng lan can chắn giữ. Tôi đứng im hồi lâu nhìn xuống dòng nước bên dưới. Tôi dự định thật nhanh trong đầu là sẽ ôm hai con tôi thật chặc trong ngực rồi lao xuống… Gió lồng lộng. Đứa lớn có vẻ lạnh, sợ, khóc tấm tức, tôi cúi xuống bế con lên nghẹn ngào “ Mẹ con mình cùng chết nghe con?” Đứa bé bốn tuổi hiểu gì đâu, nhưng bỗng nhiên con tôi khóc lớn lên lắc đầu quầy quậy “ Không! Không!” Tiếng la khóc xé lòng của đứa con khiến tôi giật mình, sửng người và tỉnh lại. Tôi vội vàng ôm con dỗ dành, miệng như lập bập trong nước mắt “ Mẹ xin lỗi! Xin lỗi, con ơi! ”
Thoát qua được cái chết trong giây phút ngu muội, tôi cảm thấy mình phải mạnh dạn hơn, can đảm hơn, và sẵn sàng đương đầu với cuộc đời để bảo vệ hai đứa con của mình.
Cuối cùng, một người bạn thân tên Duyên cám cảnh, sẵn sàng đùm bọc mẹ con tôi. Cảm động nghĩa cử này, và không muốn bạn tôi bị phiền phức và có thể bị liên lụy với công an, khu phố vì dám chứa chấp “ vợ ngụy” trong nhà. Tôi thuyết phục bạn tôi cho mẹ con tôi dọn ra cái chòi dùng để chứa củi ở phía sau hè.
Đêm đầu tiên ngủ trên vạt giường đóng từ mấy thân cây tràm, tôi phải lôi hết mền gối quần áo để lót cho con tôi nằm cho đỡ cấn. Nửa đêm trời bỗng đổ mưa, khi gió thổi, mái lá tốc lên, mưa xối qua khe lá tạt xuống, mùng chiếu ướt đẫm, ngọn đèn dầu tù mù một hồi rồi tắt ngấm, tôi lết tìm chổ nào đỡ dột nhất, vừa ôm ấp che chắn vừa quạt muỗi cho hai đứa con bé bỏng bất hạnh của mình. Trong hoàn cảnh này, tôi không còn nước mắt đâu để khóc. Cũng không còn cảm xúc để kêu trời hay gọi đất. Chỉ mong trời mau tạnh mưa, trời mau sáng. Nhưng, như chị Dậu – Tôi cô đơn tê tái nhìn ra bên ngoài trời đen thăm thẳm tối mịt tối mù…
Kiếm Sống
Một tấm ni-lon trải dưới đất ở góc chợ với mớ quần áo cũ để bán, là nghề mới của tôi. Sáng hừng đông, tay bồng tay dắt, ba mẹ con đã có mặt ngoài chợ. Trong khi tôi bận mua bán, hay chạy tới chạy lui lấy hàng thì đứa con trai lớn biết phụ mẹ, trông hàng hay đùa giỡn với đứa em gái nằm quơ tay quơ chân o e cũng vừa tập lật. Khi nào buồn ngủ lắm hay mệt thì cứ nghẻo đầu dựa trên đùi tôi thiu thiu ngủ. Nhiều hôm trời đứng bóng, nắng quá thì tôi kiếm chổ mát, hay kiếm những xe ba bánh trống rồi trải cái khăn, lấy nón lá úp lên mặt là con tôi ngủ ngon lành. Mẹ con tôi sống như vậy vừa nuôi chồng vừa nuôi nhau được nửa năm, thì một hôm
chị La Phú Xương, vợ bạn của chồng tôi tình cờ đi ngang, gặp tôi chị mừng, đang cười hỉ hả, đến khi thấy hai con tôi lam lủ bụi đời, thì chị xúc động, xốc hai đứa con tôi lên nói như nghẹn ngào “ Thiếm để tôi giữ mấy đứa nhỏ này trong nhà, chứ phơi nắng tụi nó riết có ngày sinh bệnh mà chết” Thấy chị lẹ làng tốt bụng, tôi không biết nói gì, thầm cảm ơn Trời và khóc.
Một lần nữa, mẹ con tôi bồng chống ra đi trong bịn rịn luyến lưu, từ giã gia đình chị Duyên, chia tay mái chòi dột nát đầy ân tình đến tạm trú nhà chị Xương.
Hoàn cảnh chị Xương có hơn gì tôi đâu? Nếu có hơn là chị còn được cái nhà. Anh Xương đi tù, bốn mẹ con chị bửa đói bửa no. Đến khi đã nạy hết những viên gạch men cuối cùng trong ngôi nhà lam nham lở dở, không còn gì để bán. Chị Xương bắt đầu tập tành đi buôn lậu gạo, thịt từ Cần Thơ lên Sài Gòn. Chuyến nào lọt thì có tiền mua gạo ăn, chuyến nào bị bắt thì hết vốn, Sơn, đứa con trai út thấy chị cực quá, ban đêm ra bến xe, đạp xe đạp ôm phụ mẹ.
Trong mỗi mảnh đời của những người đàn bà có chồng bị tù cải tạo, không có mảnh đời nào sướng hơn mảnh đời nào. Mảnh đời nào cũng chỉ toàn là nước mắt và những năm tháng nhọc nhằn. Khi người đàn bà dang thân ra đứng bán chợ trời thì gặp trăm ngàn cay đắng và người đàn bà đi buôn lậu từng bịch gạo, ký thịt cũng trăm phần cay đắng như nhau. Ngày nào cũng bị “ bạn hàng” chèn ép, nước mắt chảy không thôi, nhưng khi gặp chồng mặt mày tươi tỉnh “ chú đừng lo, ở nhà mấy mẹ con em sống đầy đủ”.
Cũng trong giai đoạn này, những tên lơ xe, tài xế, đứng bến, có dịp o ép những người vợ cùng khổ mới thấy ghê…Giậu đổ thì bìm leo, ai không biết, nhưng trong lúc này, chiến tranh cơm gạo, dành nhau từng ký bo bo, từng ký mì sợi, từng lít nước muối pha màu, khiến người đàn bà khác hẳn, sù lông giương móng để giữ chặt phần ăn cho con mình. Thời thế còn tàn nhẫn biến một người phụ nữ qúy phái, mềm mõng trở nên đanh đá, quyết liệt. Nếu không, không sống được, có khi còn phải tan nát gia đình với bọn tiểu nhân đắc ý.
Ngoài lòng tin có Thượng Đế, tôi còn tin tình người đã giúp cho tôi gặp lại vợ chồng chú Sáng – người tài xế cũ của chồng tôi, để từ đó chấm dứt cuộc sống lang thang như mèo mẹ bơ vơ tha con mình đi cùng khắp.
Năm đó, chú Sáng đang làm tài xế, nhưng bất cẩn để gây ra tai nạn cán chết con trai hai tuổi của ông Nguyễn Thanh Tòng, trưởng ty Cảnh Sát tỉnh Chương Thiện. Buổi sáng đó, như thường lệ, chú đem chiếc Scout đậu trước nhà chờ chồng tôi, thường chú hay nổ máy xe sẵn cho ấm và có lẽ đang loay hoay làm gì đó nên không thấy đứa bé lon ton theo người cậu băng qua đường mua đồ ăn sáng. Bất ngờ, thằng bé không đi tiếp, quay đầu lại rồi chun tọt vô lườn xe ngồi chơi. Chồng tôi từ nhà đi ra, mở cửa xe bước lên. Xe vọt tới, hàng xóm la hoảng, nhưng đã trễ!
Dĩ nhiên chú Sáng phải ra toà. Chúng tôi hết lời trình bày năn nỉ, vợ chồng ông Tòng thông cảm nên bãi nại. Tuy chồng tôi trấn an, và giúp chú, với những gì anh có thể giúp, nhưng chú Sáng có vẽ không yên tâm và nôn nóng bỏ trốn. Trước khi đi, chú có lén đến từ giả tôi và dĩ nhiên tôi dấu chồng, còn dắm dúi chút đỉnh cho chú về quê làm vốn.
Sau năm 75 chú nghe người ta kể những biến cố trong gia đình tôi. Vợ chồng chú thật đau xót và quyết tâm tìm cho ra tung tích vợ con người chỉ huy cũ. Chúng tôi nhìn nhau kể lể khóc cạn khô nước mắt. Rồi cười. Mừng mừng tủi tủi. Như trong gia đình, vợ chồng chú trình bày thiệt hơn, nói tôi đừng ngại, hãy về quê của vợ chồng chú mà sống.
Cảnh dang thân dầm mình giữa chợ đã khiến tôi thấm mệt, Con tôi đã đến tuổi đi học, một chổ yên thân có cái hộ khẩu, con tôi mới được vào trường. Lời đề nghị của vợ chồng chú ngay lúc cần thiết nhất, như cái phao trong tầm tay, tôi hết sức mừng rỡ.
Nghe tôi nhận lời, vợ chồng chú hối hả về quê dựng cho mẹ con tôi mái nhà, sắp đặt đâu đó xong xuôi rồi tức tốc trở xuống Cần Thơ đón mẹ con tôi, như sợ tôi đổi ý. Ngày chia tay, thương nhất là hai đứa con gái chị Xương, thời gian ở chung mến hơi quen tiếng, giờ ra đi mấy đứa nhỏ ôm nhau khóc mùi mẩn, bịn rịn không rời.
Chúng tôi về Vàm Cống, ở trong ngôi nhà tranh kín đáo, cất giữa đồng, nhà chúng tôi có giường cây, bàn cây, ghế cây, tuy chỉ những loại gỗ tạp rẻ tiền nhưng tôi cảm thấy mình thật giàu có và bắt đầu học bài học biết ơn mọi thứ.
Tôi là người sống động, nên cho dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù phải nếm qua bao khốn khó tủi nhục gì, dù đang ở một nơi thiếu tiện nghi nhất – như vùng quê này, không điện, không nước máy, không TV, nhưng tôi lúc nào cũng tìm một cái gì vui để quên khốn khó, vẫn thêu dệt nhiều mộng đẹp, thí dụ mái chòi tranh tôi đang ở thi vị hoá là “lều thơ” và biến nó thành một nơi ở thơ mộng, là một nơi an toàn cho các con tôi có chổ chạy nhảy nô đùa. Thời gian này, còn có thêm cháu Thủy, con gái vợ chồng chú Sáng ra ở chung quây quần đùm bọc lấy nhau. Sáng sáng tôi lên chợ Long Xuyên bán buôn thì mấy chị em ở nhà, chiều chiều tôi xách gạo, thức ăn về nấu, cả nhà xúm lại ăn với nhau thật vui, tối tối tôi lấy mấy cuốn truyện cũ đọc cho các con tôi nghe, thằng con trai lớn của tôi mê lắm, như cuốn Thủy Hử nó thuộc lòng. Các con tôi không cha là một thiệt thòi rất lớn, nên tôi phải làm tất cả, hết sức mình để bù đắp cho con. Hôm nào có gánh hát, tôi và Thủy đạp hai xe chở hai đứa nhỏ đi coi hát. Tối khuya đạp về giữa cánh đồng lồng lộng gió, tôi thấy lòng mình bình yên và hy vọng đời tôi hết long đong từ đây.
Trong một bài viết nào đó của bà Quỳnh Dao, có một đoạn tôi nhớ bà viết y hệt tâm trạng và hoàn cảnh của tôi lúc này…
“…Cuộc sống đã yên ổn, những ngày tháng sống lang thang đã đi qua. Khi đã yên ổn rồi, tôi mới thấm thiá được cái được, cái mất mà cả đời người phải vật lộn với nó, cuộc đấu tranh để sinh tồn mới thật vô tình, cay đắng và lạnh lùng làm sao! …[ngưng trích]…”
Riêng tôi, trong lúc này, nó còn thêm nỗi quạnh hiu, lẻ loi khi nằm nghe tiếng ếch nhái rền rã như than như thở, thảm thiết chung quanh, cái âm điệu đó ám ảnh tôi cho tận hôm nay, khi tôi đã yên ổn sống trên nước Mỹ, nhiều đêm ngủ giật mình hoảng hốt choàng dậy, lắng nghe…may quá, chỉ là tiếng gió!
Mảnh vườn “ Thượng Uyển” nho nhỏ của tôi trồng bưởi Năm Roi, ổi xá lị, đu đủ, mận Hồng Đào, mỗi thứ một cây đang lớn sơn sởn, sum suê thì trận lụt kinh hồn năm 1978 nhận chìm nghĩm hết. Mấy mẹ con tôi nhờ lối xóm đóng cho cái sàn sát mái nhà để ở. Diện tích cái sàn chật chội, nên bếp núc thật đơn giản – nấu nồi cơm, kho nồi cá ăn mấy ngày. Chú Sáng cẩn thận lắm, đem cái kẻng treo nơi đầu giường để đêm hôm có gì không ổn thì khua kẻng la toáng lên cho hàng xóm biết. Thỉnh thoảng thiếm sáng tiếp tế đồ ăn, bánh trái, có lần thiếm nấu canh chua bắp chuối với xương cá khô, lần đầu tiên ăn, tôi thấy vị lạ, bửa đó tôi ăn thật chậm, húp một miếng canh vô miệng ngậm thật lâu cho thấm rồi mới nuốt. Tuyệt ngon, nhớ suốt đời!
Sống cheo leo giữa bốn bề là nước suốt hơn tháng trường, nhưng các con tôi sởn sơ, cũng lạ ?
THĂM NUÔI
Đời sống trôi qua một cách vật vã. Những ngày tháng tất tả chạy ngược chạy xuôi, thăm nuôi cha, thăm nuôi chồng, nuôi con và nuôi mình, khiến tôi tàn tạ không ngờ, nét bơ phờ cằn cỗi xuất hiện thật nhanh trên mặt tôi. Người vợ “thục nữ yểu điệu” hay “đoá Hồng tinh khôi” mà chồng tôi hay gọi giờ tiều tụy như con ma đói.
Nhà tôi cách phà Vàm Cống đúng hai cây số, mỗi chuyến thăm nuôi chồng, phải đi trở ngược hướng Cần Thơ, tôi phải dậy lúc nửa đêm, hai mẹ con khiêng vác những bao bị giỏ xách khệ nệ đi bộ ra tới bến phà, đập cửa nhà ông thuyền câu, nhờ ông chở qua sông để kịp đón xe tài nhất từ Long Xuyên chạy xuống lúc ba giờ sáng.
Chiếc thuyền câu chúng tôi ngồi qua con sông lớn là một chiếc thuyền thon gọn, chèo tay. Nếu nhìn trong tranh, chụp trong hình thì thật là thơ mộng, nhưng thực tế mẹ con tôi ngồi hồi hộp bấu vào mạn thuyền cho chặc khi thuyền băng ngang dòng nước chảy xiết trên khoảng sông rộng mênh mông trong đêm tối chập chùng. Nhiều lần cứ tưởng những con sóng chồm lên, nhận chiếc thuyền xuống nước.
Trong chuyện Khóc Lặng Thinh, tôi có kể gần tám năm trời tôi và đứa con trai đầu lòng vừa bốn tuổi có rất nhiều kỷ niệm tủi cực trong những chuyến thăm nuôi… Trong những lần đó, mẹ con chúng tôi nhiều đêm phải ngủ ngoài lề đường, hoặc là ngồi bó gối suốt đêm ngoài bến xe, ngủ lăn lóc ngoài bến tàu, ngủ bờ, ngủ bụi… thậm chí tôi cũng thường xuyên tòn ten đeo cửa xe đò trên quảng đường đầy ổ gà dài vài chục cây số. Có một lần xe đò bể bánh, lật nhào, lăn nhiều vòng, tôi ôm chặt lấy con tôi mà tưởng hai mẹ con cùng chết. Khi chiếc xe nặng nề nằm im thôi không lăn nữa và biết mình còn sống, hai mẹ con lóp ngóp run rẩy chen chúc bò ra, tôi vội vàng rờ rẫm khắp cùng mình mẩy con để chắc coi con mình có bị gì không, miệng năn nỉ hỏi coi con đau chổ nào. Biết con không sao, tôi yên tâm rồi thảng thốt đi như người mộng du bươi tìm trong đống ngổn ngang lôi ra bao thức ăn thăm nuôi bẹp rúm rồi kéo lê kéo lết lên bờ đường. Tai nạn tuy không có người chết nhưng chung quanh tôi mọi người kêu réo lao xao. Lúc này tôi mới cảm thấy thân thể tôi rã rời, vừa ôm dỗ đứa con bé bỏng xanh xao nằm thiêm thiếp mệt nhọc trên ngực mà tôi tê tái, buồn đến quặn thắt đau xót ruột gan. Tôi lặng lẽ ôm con mà khóc.
Trại tù Kinh Năm tại xả Hoả Lựu tỉnh Chương Thiện là một tập đoàn ăn hối lộ trắng trợn. Tù muốn đi phép về thăm vợ? muốn đi công tác ngoài tỉnh? muốn vượt biên? Có giá cả hẳn hòi đơn vị tính bằng vàng lá 9999 [ Anh Nguyễn Hoài Ân tùng sự tại Long Xuyên, là bạn tù cùng trại với chồng tôi, một lần anh đi công tác tại trại tạm giam Cần Thơ, gặp tôi bị giam ở đó với tội “cả gan” mắng “ HCM là thằng du đảng!” Sau đó anh vượt biên, tụi cán bộ làm lễ đặc xá [ ? ] thả tù, đọc tên anh Ân hẳn hòi… nhưng anh Ân đang ở…ngoại quốc! ]
Các bà vợ tù muốn ngủ đêm lại với chồng? Ban cán bộ trại Kinh 5 đã cất sẳn vài căn nhà lá nhỏ – Cứ nạp cống bằng một giỏ đồ ăn thật đặc biệt ngon cho vợ chồng tên cán bộ phó trại, là các bà vợ có dịp ở lại tâm sự suốt đêm với chồng mình.
Năm đó, chồng tôi bịnh nặng lắm, nhiều lần tưởng chết, mỗi lần ho, máu ộc ra từng ngụm, nhưng ngày nào cũng phải đi đào đất, móc gốc [ rễ ] cây tràm theo đúng quy định của họ.
Lần đó thăm nuôi, tên Công An lân la gợi ý bắt mối cho biết muốn chồng tôi được lao động nhẹ thì nên đến gặp vợ trưởng trại, nhà ở Phụng Hiệp. Tôi biết mình không thoát, Thế là tôi chạy sất bất sang bang, nhà nào tôi cũng gỏ cửa, cuối cùng gom được hai lượng vàng. Duyên bạn tôi e ngại vợ trưởng trại chê ít, nên chu đáo cho thêm 200 con cá giống Chép, giống Trắm Cỏ, rồi kêu xe cho tôi chở vô nhà vợ của Hai Râu nạp cống.
Khi xe đò bỏ tôi và hai bọc cá lớn đầy nước bơm đầy oxy ở mé lộ thì tôi thật tình lúng túng, may thay có mấy người chăn trâu, è ạch phụ khiêng với tôi đến nhà mụ. Trên đầu nắng đổ ụp như chảo lửa, nhưng tôi không có cảm giác gì hết, chân bước nôn nao lấp xấp sợ nắng quá, cá không chịu nỗi chết thì sao.
Đang tràn trề hy vọng, quẹo vô ngõ, đụng mặt chủ nhà, mặt mụ cán bộ sưng lên khinh khỉnh hất hàm hỏi
“ Bưng gì dzậy?” Tôi khựng lại, cảm thấy nhục, nóng mặt, nhưng cố dằn cái nhục xuống, mềm mõng “ Tôi có ít cá giống tốt tặng, chị thơm thảo nhận dùm” Bà riết róng kiểu nhà quê tiểu nhân đắc ý, môi trề ra, tay như xỉa xói vô bên trong “ Trời! mấy con vợ tá vợ úy tụi ngụy tặng tui xe Honda, tủ lạnh lủ khủ tui còn hông thèm, chị cho chi mấy con cá?!” Tôi tức uất lên, nếu không thể chửi mụ vài câu thì cũng bỏ bịch cá đang lội lờ đờ dưới chân đi thẵng… Nhưng nhớ đến thân hình gầy guộc của chồng, nhớ đến cơn bịnh không biết cướp mạng chồng mình lúc nào. Tôi dằn xuống, tay như run nhẹ trong túi áo khi móc gói vàng ra đưa mụ, tôi nói “ Lần đầu tặng chị làm quen, mai mốt chị muốn gì tôi đem vô… thêm ” Con vợ thằng trưởng trại lấy gói vàng lật ra chăm chú xem rồi nhét vô túi, miệng cười hệch ra thấy ghét. Nhưng lúc đó mụ cũng vừa liếc thấy chiếc vòng cẩm thạch của tôi đeo dấu trong tay áo bà ba, mụ liền nắm tay tôi kéo vô nhà vừa cười mơn vừa vén tay áo của tôi để săm soi chiếc vòng, miệng nói ngọt sớt “ Chèn ơi! Chị em không mà, chiếc dòng xanh dử hén, chắc màu lý, à chồng chị tên gì, cấp bậc gì, trại mấy, nói tui giúp liền” Câu giúp liền của mụ là tôi biết tỏng mụ rồi, nhưng tôi biết làm gì hơn đành phải bấm bụng kêu mụ lấy nước với cục sà bông, mụ mừng lắm, hối mấy đứa con lè lẹ. Nước sà bông đem tới, mụ sà bên tôi vừa bóp vừa thoa vừa cật lực kéo chiếc vòng cho tuột ra. Tôi đau điếng, chịu đựng, ngồi kể lể tình cảnh của chồng mình. Lột được chiếc vòng, tôi thấy hai con mắt mụ sáng rực, không biết mụ có nhớ tôi nhờ gì không? Sợ mụ quên, tôi nhắc tên và cấp bậc, phòng, trại của chồng tôi lần nữa rồi lủi thủi ra về với bàn tay sưng đỏ.
Sau đó chồng tôi được điều vào tổ khác: đôi ngày ngồi cưa củi, lột vỏ tràm, vài ngày dầm mình dưới sông để vớt rong, lục bình về cho tổ rẩy. Công việc này tuy chưa phải là lao động nhẹ, nhưng dù sao cũng đở hơn đi đào đất.
Sau những đợt kiểm kê, nhà nước tịch thu hết thuốc men vải vóc… Bây giờ một viên ABC sổ mủi nhức đầu còn không có mà uống, huống chi các loại trụ sinh! Thăm chồng về, còn sớm, mẹ con tôi đến thăm chị Xương và mấy cháu, tình cờ có người bạn của chị làm trong bịnh viện ghé chơi, biết tôi cần thuốc trị bịnh cho chồng, chị môi giới cho tôi mua số lượng kha khá, mừng quá, tôi suy tính một hồi rồi hẹn đi lấy tiền lát sau trở lại.
Thật ra, tôi có tiền đâu mà lấy? Tôi không muốn phiền bạn nên dắt thằng con ra kêu xe hai mẹ con đi tới bịnh viện. Thủ tục bán máu rất dễ dàng, tôi năn nỉ họ rút dùm thêm bịch nữa để tôi có đủ tiền mua lô thuốc cho chồng. Có lẽ thấy tôi tội nghiệp cho nên rút máu xong, họ tặng thêm cho cái bánh ú. Ra đến cổng tôi thấy mệt muốn chóng mặt, nên ngồi xuống lề đường, hai mẹ con lột cái bánh ra ăn, kêu thêm ly trà đá. Vừa uống hết ly trà, con tôi khều tay chỉ “ Họ múc nước này trong cầu tiêu kìa mẹ” Tôi quay lại thấy mấy người xách xâu đựng ly trên tay, vừa múc nước trong hồ dội cầu để pha trà. Nhưng không hiểu sao, tôi cảm thấy ăn cái bánh này, uống ly nước này thật ngon nhất trong đời, y như ông hoàng tử được ăn “ Cháo bắp, mắm hến” của ông nhà văn nào đó viết.
ĐOÀN TỤ
Sau bảy năm bốn tháng, chồng tôi được tha, vợ chồng gặp nhau, mừng không thể tả, chòm xóm láng giềng dù nghèo, nhưng người này đem gà, nhà kia đem vịt đến ăn mừng thật vui vẻ rộn ràng suốt mấy ngày. Sau đó, vợ chồng dắt díu nhau về nguyên quán [ quê chồng ] theo lịnh công an ký trong giấy ra trại.
Ai cũng nói cuộc đời của tôi khổ đã tận, bắt đầu cam lai. Tôi tin vậy. Tôi đã nghèo quá sức, cực quá sức, còn sợ gì? Huống chi bây giờ tôi đã có chồng tôi kề cận!
Mặc dù trong giấy ra trại ghi là: Về nguyên quán. Nhưng chồng tôi còn e ngại tụi VC địa phương trong quê nhà nhớ thù xưa vì hồi đó ba chồng tôi không chịu nghe lời tụi nó bắt buộc chồng tôi phải bỏ học ở Sài Gòn đem về quê làm du kích! Quá chán ngán tụi nó, nhưng sợ bị trả thù và mong muốn muốn chồng tôi yên tâm tiếp tục sự học. Ba chồng tôi phải quyên sinh bằng thuốc ngủ [ Thời chiến tranh, Bến Tranh là vùng sôi đậu ]
Biết chắc chắn về quê nhà sống không yên thân với đám Ủy ban xả, nên tôi tốc xuống Cần Thơ, lót tay hối lộ 5 chỉ vàng để ty công an tỉnh Hậu Giang đóng cái mộc khác, kế bên cho phép về thành phố!
Mới chân ướt chân ráo, tiền đâu chúng tôi mua nhà? Người em họ có ngôi nhà trống trước trống sau, tuềnh toàng không mái bỏ hoang, kêu cho. Mừng quá, bà con xúm lại đổ đất đắp nền, lợp lá, tuy nhà bếp quá hẹp, ẩm ướt chỉ đứng được một người, nhà vệ sinh càng đơn giản hơn, không có cửa… Với bốn bàn tay và cái khiếu trời cho, không bao lâu vợ chồng tôi biến ngôi nhà trở nên sạch, gọn, mát mắt lạ thường.
Mấy tuần lể, vợ chồng con cái âu yếm mặn nồng, nhàn nhả thật vui, nhưng cơm áo gạo tiền bắt chúng tôi đối đầu với thực tế. Với bản tánh nhạy bén, tôi thấy chổ ở của mình có lợi thế về mua bán hàng quán thức ăn, vì nhà ngay chợ, gần trường học, lũ học trò qua lại mỗi buổi sáng. Nghe tôi đề nghị nấu nồi cháo huyết là ít vốn nhất, dễ nấu nhất, chồng tôi thấy hợp lý, chạy ngay về quê mượn nồi, tô, bàn ghế nhỏ cùng nhiều thứ thứ lỉnh kỉnh để đủ khai trương “ Nồi cháo huyết vĩa hè” ngay đầu hẻm.
Mấy ngày đầu cháo bán mau hết. Mấy ngày sau bán ế hơn, hao củi quá, không lời. Mấy ngày kế tiếp ăn cháo thay cơm, lúc đầu chồng húp vợ khen ngon, ăn thêm vài ngày nữa, hai đứa con nuốt không nỗi. Chồng tôi có vẻ xót xa cứ thở dài.
Sáng hôm sau, phụ xong mấy việc lặt vặt, anh nói về vườn xin ít củi, rồi đạp xe đi. Trời sẩm tối thì anh về mặt đỏ lựng vì nắng nhưng cười hí hửng, ngoài bó củi ra anh còn có ít bánh trái cho con. Rồi ngày nào anh cũng đi, khoảng đâu tuần lể, anh không còn đem bánh trái về, mà bưng nguyên… một thùng kem vô đãi mấy mẹ con ăn vì… bán ế! Tội nghiệp chồng tôi lén vợ đi bán kem, lắt chuông leng keng đạp khắp cùng làng cuối xóm.
Rồi tiếp theo, ngày nào cũng ăn cháo ế, kem ế. Chịu hết nỗi. Hai vợ chồng tôi bàn nhau giải nghệ! Vài ngày sau, tôi chuyển sang nghề bán sương sáo.
Ngày nhỏ, tôi tuy không lá ngọc cành vàng, nhưng vì không mẹ, nên tôi được cả họ hàng bên ngoại bù đắp tình thương nâng niu tôi như quả trứng, gửi tôi vào học những trường đạo mắc nhất Sài Gòn và dĩ nhiên tôi chưa biết thế nào là cực khổ ! Lập gia đình, tuy không giàu có, nhưng với bằng đại học, tôi có một nghề khả dĩ giúp tôi thảnh thơi đủ mặt.
Cuộc đổi đời cũng là một cuộc đổi thay lớn thật khốc liệt của một đời người, mà chúng tôi không thể nào lường trước. Tuy sống trong chế độ cs, nhưng trong lòng tôi không bao giờ thoả hiệp, vì vậy tôi cũng có suy nghĩ đến việc ra đi. Tuy có nhiều cơ hội đem con trốn ra khỏi nước. Tuy có lần đã đi rồi, sẳn sàng rồi, đang nằm ém chờ tại một cù lao rồi… Nhưng tôi áy náy không yên…
Cuối cùng tôi tâm niệm, vợ chồng vinh nhục cùng hưởng cùng chia, tôi nhất quyết, không bao giờ bỏ lại chồng tôi một mình.
[ Chuyến đó các con chị Xương tới đảo bình an ]
Chuyển qua nghề bán sương sáo, đở phải nấu nướng, ít vốn, lời nhiều. Những khi chồng tôi có nhà, không phải đi thủy lợi đào kinh. Anh dậy sớm chở mấy khuôn [ổ ] sương sáo người ta nấu sẳn về cho tôi ngồi xắt bán ngoài chợ. Khi anh vắng nhà, dù mưa gió cũng phải chổi dậy, đạp xe mê man trong hơi gió khoảng 5 cây số vào tận lò mua một bội [ cần xé nhỏ ] gồm 3 ổ sương sáo nặng khoảng 20 ký rồi chở về.
Đêm nào trời mưa đường trơn trợt, xe không đạp được, tôi vừa đẩy xe vừa kèm cho xe không ngã, có khi kềm không nỗi vì nặng quá, xe ngã nhào, mấy ổ sương sáo đổ lăn ra nát bét.
Tôi là vợ, là mẹ thường phải giật gấu vá vai, khi các con càng lớn, nhu cầu càng cao, nên thiếu trước hụt sau, nhiều lúc anh đâu hiểu…Cứ như vậy, tôi vật lộn với gian khổ từng ngày với tất cả sự nhẩn nại và an ủi – cực nhọc mà vợ yêu chồng, chồng yêu vợ, âu yếm nhau, an ủi nhau, tôn trọng nhau thì sá gì cực khổ. Nhưng thực tế “ Vợ chồng nghèo trăm sự khó” cái khó thêm cái nhục bị phân biệt đối xử trong xả hội Cọng Sản thì đời sống mới thật hãi hùng – Chúng tôi bị liệt vào thành phần có lý lịch xấu, sống cô thế, bị chính quyền theo dỏi mỗi ngày và dĩ nhiên không hề được luật pháp bảo vệ… Vì phải sống trong thắc thỏm lo sợ bắt bớ… chồng tôi càng xuống tinh thần cộng thêm những tin tức bạn bè trốn ra khỏi nước, càng khiến chồng tôi bắt đầu nao núng, nóng nảy và cảm thấy bực bội chán nản trong đời sống tối tăm vô vọng!…
Anh bắt đầu câu mâu với tôi những chuyện không đâu [ vì nếu không đổ trên đầu tôi thì anh đổ đâu ] có khi sợi tóc anh chẻ làm ba làm bốn và lạ, vợ chồng cải cọ thì anh toàn nói những câu tệ bạc! Tôi không giận anh, nhưng thất vọng! Những lời chê tôi tràn họng, tuy có xé nát tim tôi, có khiến tôi đau đớn như con thú mang đầy thương tích, nhưng vì thương anh, thông cảm cảnh anh sa cơ ngã ngựa, cảnh anh bị dồn tới đường cùng, mà tôi hết sức nhịn. Yêu chồng, nhịn, tha thứ có gì là quá đáng ? Tôi bắt đầu nghĩ đến ly dị và tự tử. Ý tưởng tự tử lớn hơn, mạnh hơn lúc nào cũng thôi thúc trong đầu.
Hôm đó, chuyện rất nhỏ, có lẽ anh mệt hay bất ý gì đó ngoài đường. Khi chở đôi nước về tới nhà [ nhà không có nước máy, và thường xuyên bị cúp ] anh dằn thùng nước trước mặt tôi, gằn giọng phũ phàng “ Nước chở cực, liệu mà xài !”
Giọt nước bất mản vừa lúc tràn ly. Tôi ngỡ ngàng nhìn anh tuyệt nhiên không nói câu nào, rồi đi tìm một góc ngồi Im lìm, lòng tê tái. Suốt tám năm trời, một lòng chung thủy, lưng cỏng hai con, đèo núi nào tôi cũng trèo qua, suối sông nào tôi cũng lội không thèm than thở. Anh tù đày, tôi thương, không bỏ. Anh bán cà rem, hay sửa xe đạp tôi cũng không chê. Nhưng anh như thế này tôi không chịu nỗi ! Tôi cảm thấy trái tim tôi như rơi xuống một cái vực không đáy, cứ rơi, rơi mãi, tôi cảm thấy chới với…Người chồng tiết tháo, nhân cách lẫm liệt ngày nào của tôi đâu? Người chồng si tình yêu vợ vời vợi một trời của tôi đâu? Suy nghĩ hồi lâu, tôi thấy mình bất lực, cái cảm giác bất lực mới thật là dễ sợ!
Chồng tôi vốn trung hậu, có lẽ thấy mình quá đáng, lỡ lời, anh theo xin lỗi xí xoa làm hoà.
Đêm đó, tôi chậm rải uống từng viên, từng viên, từng viên…Tôi đếm đúng 20 viên thuốc ngủ, rồi bình thản nằm xuống kéo mền lên đắp!

HAI MƯƠI NĂM SAU
Tôi gần như cả đời không có mẹ. Không hưởng được hạnh phúc có cha có mẹ, chính vì vậy mà tôi quyết tâm tạo một đời sống có đủ cha đủ mẹ cho con mình đến thành nhân, thành thân, chi mỹ…
Bây giờ, tôi có thể miệt mài viết, miệt mài vẽ…Nhưng trong cuốn tạp bút “Cuối Cùng” xuất bản năm 2009 – nhà văn lừng lẫy Vỏ Phiến phán “Chuyện sáng tác có gì đáng nói?”.
Cuộc đời vốn chỉ là phù ảo. Không phải tôi đang lộn nhào lẽ đó vào những bài viết trong mảnh đời còn lại của tôi sao?
. thụyvi
[ Hầm Nắng, 35 năm mất nước ]

Giòng Sông Vẫn Chảy

Hoa Biển: Giòng Sông Vẫn Chảy
By HoangHac • Feb 10th, 2010 • Category: Bút Ký
(Hình: sacramento river)

Gia đình tôi được một người bạn bảo trợ về sống tại Oakland, một thành phố nhỏ sầm uất, ồn ào và sôi động nằm cạnh San Francisco. Những ngày đầu tiên khi còn đang bở ngỡ, lạ lùng đều nghe tiếng còi hú xe cứu thương vào mỗi sáng chiều và thỉnh thoảng cứ cách vài đêm là có máy bay trực thăng vần vũ trên trời, soi đèn lùng sục tội phạm quanh khu vực gia đình tôi đang ở. Oakland có phi trường quốc-tế với lượng khách ra vào rất đông, một bến cảng lớn nơi xuất phát nguồn tiếp liệu , tiếp vận cho chiến cuộc Việt Nam của quân-đội Hoa Kỳ trước đây. Bên cạnh các trường đại học, khu thương nghiệp lớn còn nổi tiếng phố tàu Chinatown xưa cũ đã thu hút nhiều quan khách, sinh viên du học mỗi lần ngang qua Cali , tìm hương-vị quê-hương vì bận xa nhà lâu năm.
Thành phố nầy khi ra đường thường gặp Mỹ đen nhiều hơn Mỹ trắng. Các sĩ quan cảnh sát bỏ mình khi thi hành công vụ bỏ mạng ở đây rất nhiều. Khu vực tôi ở, cho dù mình là dân tác chiến thứ thiệt , thế nhưng, mỗi tối đều e ngại ra đường, nhất là ngay khúc quanh vào chung cư có một quầy li-quơ bán bia rượu. Các cậu đứng ngồi, mắt đỏ kè, tay cầm lon bia , giọng lè nhè khi thì nói chuyện nghênh ngang với một chiếc xe bạn đậu tỉnh bơ cản lối giữa lòng đường, khi thì nhảy nhót theo một điệu nhạc cuồng loạn với một chiếc máy cassette mang theo. Nhìn mấy đầu tóc đánh rít thả dài, chiếc áo thun màu trắng rộng và dài đến đầu gối mà cảm thấy mệt mề. Cũng có người, mình trên trần trụi, mặc dưới chiếc quần jean thả tuột gần hẳn bản mông, lòi trọn chiếc quần lót trong khi hai tay luồng sâu vào chỗ kín, đứng án ngữ tỉnh bơ lối đi như trên đời không có chi, người lạ mới thấy ai cũng ngao- ngán. Cũng như khu West Oakland , khu East Colesium , nổi tiếng về tội phạm, ban đêm ở đây là thế giới của họ!
Cùng chuyến phi cơ sang Hoa Kỳ có gia đình người bạn Vương Rô , cựu sĩ quan cảnh sát, anh cũng về ở cùng thành phố nầy. Một buổi tối sau giờ cơm, anh tản bộ để đổi không khí trên đường Foothill Blvd do ở trong nhà máy sưởi làm nhức đầu và gây khó chịu trong người. Khi đang mơ màng rảo bước thì khựng lại vì một thân hình to lớn chần vần chắn lối. Tên nầy không nói, đưa cánh tay vạm-vỡ siết cổ anh Rô đến nghẹt thở đồng thời, tay kia hắn móc bóp khổ chủ, moi ra lấy đồng bạc 10 đô rồi mỉm cười bỏ túi , xô anh ra và bỏ đi . Hú hồn, mỗi lần sau đó, anh em bày vẽ nhau khi ra đường, trong ví phải có ít nhất 5 , 10 đồng để hộ thân hộ thổ…
Đến Mỹ vào cuối đông, dịp lễ Tạ Ơn, trời lạnh ghê hồn. Nhà phải đóng cửa kín, sợ hơi nóng xì ra, tiền biu cao. Cũng vì thế mà cái đầu lúc nào cũng cảm thấy ran ran, vừa nóng vừa nhức nhối như thiếu thiếu một cái gì . Một hôm tôi nhận điện thoại khẩn từ chị Rô bảo nhờ lên nhà thương Highland ở Oakland gấp vì chồng chị đang nằm cấp cứu mà chị bận con dại mới sanh không đi được. Khi tới nơi, bác sĩ bảo nếu tôi là thân nhân thì hãy ký giấy chấp nhận giải phẩu liền thì mới sống kịp. Lý‎ do là có một cục máu bẫm đang ứ trong đầu gây tắc nghẽn máu. Lúc đi bộ hít thở khí trời vào ban đêm, anh vấp đầu vào một cành cây bên đường và bất tỉnh ngã xuống.
Khu chung cư Pleitner nằm phía đông thành phố Oakland nơi có khoảng hơn mười gia đình Việt Nam mới qua theo diện HO. Nhờ sống chung nên thường san-sẽ nhau những kinh-nghiệm ban đầu như học lái xe với bí quyết nhanh gọn như thế nào để lợi được từng giờ , chổ nào tìm việc làm ban đầu, các nhà thờ, cơ quan thiện nguyện, địa chỉ các trường dạy Anh ngữ ESL, cho nhau quá giang mỗi khi có việc ra đường hoặc khi cuối tuần ngồi lại uồng bia, hát hò hay kể cho nhau nghe vài câu chuyện bên đường vốn hấp dẫn và biết dần đời sống mới. Ở khu chung cư nầy có lúc cũng như đang ở tư thế lính tác chiến vậy: Sát dãy hàng rào là một dãy hộ gồm toàn các gia đình Mỹ gốc Phi châu. Con cái họ đùa giỡn đạp xe, thanh thiếu niên tụ-tập tình tự, nhảy nhót, hút xách bừa bải, rác rến xả không chừa một nơi. Các lò thịt nướng nhả khói um-tùm trong khi âm thanh cuồng loạn nhạc wrap lải nhải cả ngày và có khi đến giữa đêm. Có lúc buồn buồn, mấy cậu loai choai bên đó pháo kích qua hàng rào khu người Việt hàng chục vỏ chai bia làm miểng vụn sắc bén vung vãi khắp nơi. Con nít người lớn đàn bà trẻ em núp kỷ bên trong chờ chủ nhà nhà can thiệp. Khổ nhất là tiếng Anh nói chưa ai hiểu và lờ mờ về luật-lệ nên rất sợ cảnh sát , không dám gọi.
Vào một buổi tối trời mưa, anh bạn trẻ láng giềng người Việt Hoa về nhà sau giờ làm việc ở một trạm xăng . Đúng lúc vừa bước ra xe, một thanh niên da đen rình sẳn, chỉa súng và như tiết kiệm lời nói, hằn nổ ngay một phát vào bụng. Nạn nhân oằn oại rớt xuống trong khi tên khốn kiếp nầy chôm nhanh chiếc ví và bỏ đi. Anh bạn được chở đi cấp cứu và may-mắn thoát khỏi tử thần. Từ sau đó, chủ nhà phải thuê bảo vệ, mỗi tối ra vào đều được hai tay súng chăm sóc kỷ-lưỡng. Luật pháp hình như chỉ áp dụng cho giới nhà giàu và văn minh ở đâu đó ở trên vùng đồi núi đồi cao sang hay nơi các khu nhà giàu ven bờ biển chứ ở đây, khu vực bình dân, khi có chuyện là y như “chờ mạ má sưng”. Sau nhựng vụ việc nghiêm trọng như vậy, không thấy cảnh sát động tỉnh, hỏi han, tuần tra hay bảo vệ…Nhà nào lo đóng cửa nhà nấy, con cái ai thì nấy giữ, ra đường thì nhìn trước nhìn sau mà đi…
Qua đây mới thấy cái vốn Anh ngữ có được nói không có người nghe mới thấy tội tình như người câm. Anh em hay tiếu lâm khi Mỹ nói thì Mỹ nghe, còn mình nói mình nghe . Tài tháo vác và mưu sinh thoát hiểm cũng chỉ biết đưa mắt nhìn và nể mấy đứa qua trước lái xe vùn vụt chân ga tay số liên tù tì như làm xiếc khi đi bỏ báo, chuyển pi xà. Thấy họ kiếm tiền dễ dàng và ăn nhậu , ca hát thoải mái cuối ngày cũng làm nhiều anh em bâng khuâng. Mỗi lần chuông điện thoại bất thường reo vang, đôi khi vừa nhắc ống lại gặp một tràng tiếng Mỹ quảng cáo nghe ào ào như gió thổi làm ái ngại mọi người. Không thân thích bà con, chưa có việc làm và chỉ còn ngồi cô-đơn bên cửa sồ hết trông ra rồi lại nhìn vào. Bên trong, đàn con bốn đứa thơ dại bu quanh chiếc ti vi xem hoạt hình một cách vô-tư và thích thú, lòng chợt se lại. Tôi bỏ hút thuốc vào giai đoạn nầy nhân lúc ngồi buồn đốt thuốc bên cửa sổ và thấy cả căn phòng ngập một làn khói mỏng như sương. Trẻ thơ đang mê mãi bên truyền hình bị hóc, chợt ho sặc sụa. Thương đàn con và từ đó không bao giờ rờ lại điếu thuốc.
Ông chủ trẻ và đầy phong-độ với cái tên Mỹ thật mỹ miều làm mấy người thợ chưa có quốc tịch như chúng tôi thấy thèm:Donvo, một thanh-niên chưa vợ, đẹp trai, ăn nói hay, tiếng Mỹ như bắp ran. Tướng pháp đều tốt hết ngoại trừ vừng trán ngắn và dáng dấp hơi lùn. Ở Việt Nam Donvo là con nhà giàu, ông bố làm quận trưởng ở Đà Nẳng. Chưa đi lính nhưng biết chuyện thời sự, chuyện chiến chinh nên sau giờ làm, ngồi bàn luận chuyện đời với nhau rất hấp dẫn. Mặt khác, Donvo có vẻ mưu lược và tâm lý khi nói chuyện. Một bửa nọ khi chở tôi về nhà, vợ tôi nấu bún bò Huế mời ăn, Donvo ăn say sưa một cách thật tình do lâu ngày không có dịp ăn món ăn quê-hương. Trước khi ra về, y lấy lòng vợ tôi một câu mà sau đó mỗi lần tới là luôn có đồ ăn ngon:
—Trông chị đẹp thế nầy mà biết ăn mặc và diện vào thì bỏ anh đi mất!Đã đẹp mà lại nấu ăn ngon, sau nầy mở nhà hàng thì tuyệt!
Đó là người chủ đầu tiên trên đất Mỹ. Một người bạn đã giới thiệu cho tôi với cùng hai người khác vào phụ việc trong một công trình xây dựng nhà cửa tại Oakland. Mỗi buổi sáng , dậy sớm, leo lên chiếc xe đạp, chạy khoảng bốn mươi phút mới tới chỗ làm. Không khí lạnh ban mai tinh ranh mò vào thân thể từ các khoảng hở , từ hai bàn tay, vào cả chân tóc. Cơn lạnh buốt óc, rung cả xương sống, nhưng nghĩ lại cuối ngày mình có năm mươi đô la thì qúy‎ lắm rồi.
Kết thúc hai tuần làm việc cần-mẫn, ông chủ Donvo kêu trả tiền. Sung sướng, tôi miên-man hình dung mình sẽ làm gì với số tiền đầu tay nầy. Nghĩ tới sự hớn-hở của vợ con vào dịp cuối tuần làm tôi nhẹ hẳn trong lòng. Đúng lúc chuẩn bị đưa tiền công thì beeber reo vang, ông chủ thầu liền ôm điện thoại và nói mãi không thấy dứt trong khi tôi nôn nóng
hết đứng lại ngồi. Ông ta ra dấu cho tôi đi về đi và tính sau. Thời gian trôi, ngày qua rồi tuần qua, công việc tiếp tục mà tiền vẫn chưa thấy đưa. Nỗi e ngại nếu hỏi tiền sẽ làm mất cảm tình và dẫn đến việc cho nghỉ làm và đành chờ mãi đến mãi hai tuần sau, tôi đánh bạo nói:
–Hôm nọ anh Donvo có nói trả tiền công mà bận điện thoại, tôi chờ đến bây giờ .
Don quay mắt ngạc nhiên nhìn tôi:
–Anh nói sao? Tôi đã trả cho anh rồi, hai tờ giấy hai trăm. Tôi nhớ rõ mà!
Oan-ức, tôi nói giọng nấc lên vì xúc động:
–Chưa đưa, hôm đó tôi chờ nhưng anh bận và chờ mãi cho đến bây giờ. Qua Mỹ đến giờ cũng gần ba tháng, xin thề là chưa thấy đồng bạc trăm như thế nào.
Anh chủ thầu cứ nghĩ mình đúng và tôi sai và cho tôi chọn ở lại làm nếu muốn, bằng không cứ nghỉ việc.
Khi về nhà, bước chân đi không muốn nổi. Khu chung cư nghèo đã yên tỉnh vì màn đêm đã buông tối. Hai vợ chồng thì thầm an-ủi nhau, kiên nhẫn chịu đựng để sau nầy có một tay nghề. Chúng tôi khe khẽ nói để cố tránh lao xao làm trở giấc đàn con dại bốn đứa đang say ngủ.
Sau công trình ở Oakland, chủ thầu trúng một công trình khác lớn hơn ở Paolo Alto, cạnh trường đại học lừng danh Stanford. Đường xa phải đi rất sớm và đến gần nửa đêm mới về tới nhà . Việc làm rất lâu như thế , tôi không gặp mặt con cái vì khi đi chúng còn ngủ và khi về quá trễ chúng đã say giấc rồi. Hai người bạn làm là Thế và Thiện tốt bụng, chở tôi đi đều đặn như thế rất lâu và cứ mỗi chuyến, tôi trả ba đô la, xin góp vào tiền xăng
Bằng cả nhiệt tình, một người bạn khóa đàn em quân trường rất tốt bụng đã giới thiệu cho tôi một chiếc xe để phục vụ đi lại cho gia đình và làm phương tiện đi làm. Chiếc xe hơi đầu tiên nhìn được mắt, sạch sẽ tuy có chút méo mó trầy trụa nhỏ, đã được chùi rửa sạch sẽ, ngát hương mùi thơm khi vào bên trong. Chủ xe sinh hoạt ở nhà thờ , nói bán rẻ giá hai ngàn mốt dù chỉ mới mười một tuổi và trên một trăm hai chục ngàn dặm đường. Tôi tin-tưởng hết mọi người, không một chút nghi kỵ nào cả. Cả đời chỉ quen với xe đạp, giờ lên chiếc xe hơi bốn chổ ngồi chạy êm ru là sướng quá rồi.
Một kỷ niệm khó quên với anh Sáu làm cỏ ở tít Pittburg xa xôi: Khi nghe tin tôi mới qua Mỹ mà đã mượn tiền mua xe, anh vội vã phóng xe lên thăm dù tôi rất ngạc nhiên vì chưa bao giờ biết anh. Anh Sáu biết gia đình tôi thông qua một người bạn là Sanh Apple cùng chuyến bay và cảm thấy như có trách nhiệm với người đến sau. Gặp mặt, thăm hỏi xong là xăng tay áo liền. Anh mở ca pô xe, cho máy nổ. Chống tay vào thành xe, anh nhìn máy nổ rất lâu, không nói, mặt có vẻ buồn. Giây lát, anh kêu tôi lại, hỏi:
–Anh mua xe của ai và giá bao nhiêu?
Thành-thật, tôi hân hoan kể:
–Chiếc xe nầy được bán với giá rẻ và gốc từ một ông mục sư Tin Lành để mua xe mới. Xe mới giao tối hôm qua, vào lúc gần nửa đêm. Tuy là xe salvaged, nhưng máy nổ êm lắm anh ạ!
Anh Sáu cười nhẹ không tươi rồi lên đội, tháo bánh, thay thắng mới và kiểm tra các loại dầu, anh lẩm bẩm như không muốn ai nghe:
–Phải giàu mới đi xe kiểu nầy.
Vô tư, tôi nghe kịp và cứ đinh ninh mình may-mắn. Nổi hân-hoan của tôi làm anh Sáu không dám nói những thực-tế, những phỉnh phờ thật phủ phàng người mới tới sẽ gặp phải. Anh nói trước khi ra về;
–Tôi làm giúp anh để anh chở gia đình cho an toàn. Cứ cẩn thận và luôn mua bảo hiểm là được. Tôi chỉ lấy tiền mua phụ tùng, không có tiền công.
Mấy ngày sau, sanh nghi, tôi bắt chước anh Sáu, mở nắp khi máy nổ và nhìn kỷ thì thấy ngay làn ranh của thớt máy, một vệt nước chảy ra. Với tình trạng nầy, mỗi ngày đều châm nước và trong những đoạn đường xa, vừa lái xe vừa phập phồng.
Công-trình xây dựng ở Paolo Alto tiếp diễn tốt đẹp. Nhờ vào đó mà tôi học hỏi rất nhiều. Quen tháo vác và siêng năng, tôi trở thành một người thợ đúng nghĩa. Từ dàn móng, lên sàn, dựng tường, lợp mái đến các khâu ga, điện nước tôi đều được hợp sức làm phụ với các anh thợ Mỹ có Việt có. Làm đến đâu, cuối ngày tôi ghi chép lại tới đó, nhất là các các điều luật căn bản. Mỗi khi có thanh tra, tôi học những pha đánh rớt và ngầm tìm hiểu họ sửa chửa như thế nào sau những lần thất bại. Sáu tháng theo công trình, sổ tay kinh-nghiệm của tôi chép đầy mực mẹo, kích cở, vật liệu trong nhà, ngoài trời, đường ống nước, đường dẫn điện. . và nhửng trường hợp xử trí khi gặp tình huống khó. Sáu tháng đi làm xa làm tành banh chiếc xe Maxima 81 của gia đình. Đúng như anh Sáu nói, phải giàu mới đi xe nầy được;Mới đầu phát hiện bình nước giải nhiệt hư, nghẽn phải thay, đến phiên dàn đừa tay lái (Stering cract) mất độ chuẩn làm lệch bánh khi chạy nhanh, món nầy chém mất một ngàn mốt đô la vì phải ọt đơ (order), tiếp đến là bốn cái lốp cũ mòn, rồi xi tạc tơ không chịu nhúc nhích, thêm vào water pump liệt và nặng nhất là ô vơ hít (overheat) do nước xì ra lúc máy nổ làm nóng và cong thớt máy. . Gia đình với bầy con thơ phải chịu khó nhờ qua nhờ về, y mãi người mới qua. Nói ra thì mắc cở, nhưng chiếc xe như vầy làm sao có đủ một đồng mua kẹo cho con ăn?……
Ông chủ Donvo nhìn tình cảnh nheo nhóc đó, vả lại thấy tôi siêng-năng cần mẫn trong công trình, mủi lòng nói:
–Cứ làm cho tốt công việc, tôi không đưa tiền mà dồn lại cho anh, khi nào đủ năm ngàn
tôi nhờ thằng em hiện là kỷ sư điện-tử ở san Jose đấu giá và đứng tên cho anh để mua một chiếc xe tốt và còn khá mới để đi cho an toàn.
Cho đến một hôm, thấy mình đã sáu tháng ròng rã, sổ tay ghi đầy ngày công, kể cả cuối tuần và ngày lễ. Sáu tháng tốn xăng, tốn ăn, hư xe mà vợ con không có một đồng đi chợ. Cả bốn người làm công mà đa số là mới qua theo diện HO đồng tình đòi tiền lương. Donvo cười vui chỉ vào một tấm lịch tờ có hình cô gái đẹp mà nói:
–Tôi sắp về Việt nam cưới vợ. Người đẹp trên tờ lịch nầy sẽ là của tôi. Xin hẹn anh em là sẽ trả khi tôi về lại Mỹ.
Đến đây, cả bốn anh em thợ nghỉ làm và ngao ngán chuyển hướng tìm việc khác. Một đôi lần ngang qua Berkeley thấy quán ăn Thai Restaurant của gia đình Donvo trên đường University vẫn đông khách và hai chiếc tàu câu bên bến cảng gần đó vẫn hoạt động sôi-nổi. Riêng thợ móc mồi lưới cho Donvo cũng bị gạt tiền công cũng 5, 6 người.
Một hôm tình cờ gặp lại Donvo trong Home Depot lúc mua vật liệu xây dựng, anh ta bối rối như gà mắc đẻ. Với giọng chậm, hơi đanh, y nói:
–Anh Huế á, tôi biết anh ăn trợ cấp mà đi làm tiền mặt nên sẳn sàng đi hầu bất cứ nơi nào anh kiện. Tôi biết anh có bốn đứa con dại dưới mười tuổi nên không biết anh có dám làm không?Tôi chắc anh không dám bỏ welfare! Em gái ruột tôi như anh đã biết là social worker của county, hiện làm ở Hercules sẽ nói luật cho anh. .
Sáu tháng làm việc lao nhọc với đồng lương tối thiểu năm đô la một giờ , cọng lại hơn năm ngàn đô la bay theo gió!
Một năm sau ngày đến Mỹ, những người bạn cùng làm xây dựng với tôi ghi danh đi học lại khi đã có thường trú nhân. Vừa xong chương trình ESL, chúng tôi nhanh chóng vào chuyên nghành ở trường đại học Laney college. Ngày đầu vào lớp gặp nhiều bạn trẻ mới tốt nghiệp trung học và khi trao đổi với thầy giáo bằng tiếng Anh, tôi bị xốc ngay không phải với giáo sư mà với một chú học trò tên Đông người gốc Hải Nhuận-Huế vừa mới xong lớp 12:
–Chú Huế ơi! Chú đừng nói tiếng Anh nữa, cháu thấy khó chịu mỗi khi nghe chú nói.
Thằng Dũng gốc người miền Tây đứng bên, cũng lứa với Đông, bồi luôn một phát:
–Nghe chú nói tiếng Mỹ, cháu cứ ngỡ như Thượng về miền xuôi!!!
Sau mấy năm miệt mài, lăn lộn chúng tôi đi được những bước xa. Chủ nhiệm Cynthia Corea là một bà giáo rất tốt , luôn tôn-trọng và khuyến khích những người hiếu học, nhất là những người lớn tuổi. Bà giáo cho ai đi làm thực-tế bên ngoài được tính điểm thực tập nên bọn chúng tôi vừa học vừa làm rất thoải mái. Kinh nghiệm của những công trình đã nâng cao tay nghề vững vàng và đối với đám trẻ cùng lớp thì mình trở thành sư phụ cho mọi việc. Ở Mỹ rất quý kinh nghiệm, ngoài trình độ, năng khiếu ra, đi đâu các chủ hãng, giám đốc đều sát hạch kinh nghiệm trước khi chấp thuận thuê mướn trong các cuộc phỏng vấn việc làm.
Đúng lúc trong lớp học nầy ở môn Foundation, một người học trò triệu phú tên là William David đã thầm quan sát và kết tôi qua việc thực hành tại công trường của lớp học. Ông ta học để hiểu biết mà thôi và có nhiều người như thế trong lớp . David lôi tôi ra ngoài và trả giá thuê mướn. Tôi chấp thuận làm ngoài giờ với số lương tương đối cao. Mỗi ngày sau giờ học Anh ngữ, lịch sử Hoa Kỳ, sinh vật học, toán và các môn căn bản xây dựng, tôi xách chiếc xe pick up được giao với chùm chìa khóa khỗng lồ cùng hai người Mỹ phụ việc là Bird và Jose chạy khắp thành phố Oakland, Berkeley để sửa chửa từ chung cư nầy đến những townhouse kia. Những căn nhà bạc triệu trên đồi , dưới bãi biển ông William đều nhận tuốt và giao cho tôi. Nhiều khi lắm việc, phải lôi bạn bè cùng lớp như Huân, Bính, Phước, Thiện, Hoa. . giúp sức. Có lần tôi bị cảnh sát gọi tắp lề đường và bảo tôi ngồi im trong khi bắt hai chàng Mỹ đen hai tay co lên đầu, người chống vào tường bên lề. Tôi suýt bật cười vì một nữ cảnh sát xinh đep dùng đùi ba toon gổ rà từ chân, mông , chổ kín và quanh ngực để tìm thuốc phiện. William David kinh doanh địa ốc, có nhiều bất động sản và nhà cửa, chung cư cho thuê, đồng thời chuyên bán những căn nhà của các triệu phú sắp hoặc đã qua đời…Cơ hội rất tốt cho tôi luyện và dạn dĩ tay nghề.
Ngày lễ tốt nghiệp, vợ chồng W David đến tham dự với một vòng hoa làm vòng cổ tôi cồm hẳn lên vì đã sẳn mang sợi dây vàng tốt-nghiệp danh dự. Khi chụp ảnh , bà giáo sư chủ nhiệm cũng bước tới chia vui và nói luôn tin tưởng rằng tài năng đứa học trò trong tương lai. Nhìn lại chặng đường đã qua, tôi ôm bó hoa đàn con nhỏ trao mà tuôn tràn hai dòng nước mắt sung sướng giữa những nụ cười thân thiện của vợ chồng David, Cynthia, Ned mà tôi cãm tưởng như những đợt sóng mang phù sa cho vùng đất xưa nay khô cằn và sỏi đá.
Sáu năm trời trôi qua, chung cư Pleitner vẫn như những ngày đầu. Tiền thuê nhà cao, an ninh lỏng lẽo, con cái dễ dàng ảnh hưởng môi trường sinh hoạt. Gia đình có quyết định đổi vùng và chuyển sang thành phố Alameda, cách đó chừng năm dặm vốn nổi tiếng an-ninh và sạch sẽ. Căn nhà mới dọn đến rất cũ, chừng trăm tuồi, khuôn mẫu Victoria. Cơ hội cho tôi thể hiện tài năng là lúc chủ nhà mướn tôi nâng cấp lại. Ông ta cùng với tôi thuê công ty nâng lên, tháo bỏ tất cả và theo bản vẻ, xây dựng lại mới như từ ban đầu từ dưới lên trên để trở thành ngôi nhà đẹp, không tuổi. Phải mất năm tháng mới hoàn thành thì công trình khác mời gọi. Một mặt, tôi đem văn bằng mới có nộp đơn vào công sở và được chấp nhận vào làm cho cơ quan gia cư Housing Authority ở thành phố Alamed, ngành bảo trì. Cơ hội sánh vai cùng các đồng nghiệp nhiều sắc dân như Tàu, Mỹ , Phi, Mễ trên một địa bàn làm việc rất rộng lớn. Ngày ngày xách xe chạy rong thành phồ, các khu người già, các căn hộ dành cho người lợi tức thấp để sửa chửa, thay thế bất kỳ những hư hại gì từ ga, điện, nước. . Đúng lúc nầy, người chủ cũ là Ông William David qua đời bằng cơn đột biến cơ tim ngay lúc ông cố ráng mở cánh cửa xe đậu lề một con dốc đứng. Ngày tham dự lễ tưởng niệm memorial day chỉ duy nhất mình tôi là tóc đen với một vòng hoa thương tiếc ngồi lạc lỏng giữa một rừng người xa lạ. Họ vui cười, hò hát hồn nhiên nhắc kỷ niệm, dấu vết người quá cố đồng thời vợ William lên micro nói về đứa em phương Đông là tôi với những lời lẽ đầy tình cảm, trân quý. Lễ tất, quan khách tham-dự vây quanh tôi, thân thiện hỏi han, nhiều bà đầm chào hỏi xong đã xè cánh tay rộng ôm hôn trong mùi nước hoa nồng nặc. Thầm nghĩ lại mình đã làm và sống với David bằng nhiều nhiệt tình trong sáng mới có tình cảm đẹp như ngày hôm nay.
Ngôi nhà cổ của bà Sally Rites tọa lạc trên một con dốc thành phố Berkeley. Bà giáo già sống một mình trong căn nhà rộng thênh thang xưa cũ giữa một rừng phong lan tuyệt vời. Trước khi hưu trí, bà dạy về nghệ thuật cây cảnh nên kiến thức và lối thưởng ngoạn về cảnh trí hoa lá thật thanh thoát nhẹ nhàng và rất đậm nét văn minh phương Đông. Tuy là người Mỹ trắng thuần túy nhưng bà rất bình dị, ăn nói nhẹ nhàng, biết lắng nghe và tôn trọng ý-kiến người nói. Ngôi nhà bài trí nội thất hoàn toàn bằng những sản phẩm Trung Hoa xa xưa. Từ những chiếc ghế tràng kỷ bằng gổ mun có khảm xà cừ, chiếc bình phong cẩn san hô in những điển tích cũ trên mặt, những bức tranh , pho tượng vua quan thời cổ với màu sơn vàng đậm quanh nhà đã tạo một nét hài hòa cân đối mà khi bước vào, khách có cảm nhận như bước vào thế giới vương quyền xa xưa thời Khang Hy bên Tàu.
Ở ngày cuối của hợp-đồng công trình sửa chửa mái nhà thì bà Sally mang về một cánh cửa sổ nhỏ tí để định thay vào cái cửa tò vò cũ . Tuy không có trong giao-ước nhưng tôi vui-vẻ làm giúp trong khi anh bạn làm chung từ chối. Nhìn chiếc cửa mới xinh xắn gọn gàng khi gắn xong, bà xin trả tiền, nhưng tôi nói:
–Chú tí việc làm thêm nên không lấy tiền. Mong bà vui!
Chút mỹ cảm từ đó đã dẫn tôi đến một công việc dài hạn đến ba năm trời. Khi thấy kỷ thuật tay nghề đi đôi với luật xây dựng(building codes) nhịp nhàng, Sally mướn tôi sửa đường dây điện, thay hệ thống đèn, bắt quạt trần, dựng thêm phòng, làm sàn gạch, tân trang buồng tắm, thiết kế cầu thang, thay thế cửa sổ, sơn quét trong và ngoài. Dịp tốt làm việc ngoài giờ công sở và cuối tuần, tôi mang mấy anh bạn phi công cũ như Phước, Hòa, Phi, Phượng vào phụ việc và trở thành một kíp thợ trẻ, hăng say rất được mến mộ.
Nhìn tôi nhận tiền công bà vô tư hỏi sẽ tiêu pha thế nào. Thiệt thà, tôi kể :
—Ngoài việc lo cho gia đình, số tiền nầy còn được chia cho người nghèo ở quê tôi. Dân làng còn nhiều người thiếu ăn, sống còn vất vả. Họ luôn sống với những mơ-ước bình thường về cơm áo, nhất là những hộ mồ côi.
Thấy bà chăm chú, tôi tiếp:
–Cũng là để cho người dân nghèo neo đơn cô thế , nghèo đến nỗi cả đời phố phường bên đó còn chưa biết, huống chi Mỹ Tây, tôi thường gởi chút tiền an-ủi mà từ thời cha sanh mẹ đẻ đến giờ, họ nào dám mơ-ước nắm được đồng đô la Mỹ trong tay, đặc biệt vào dịp Tết.
…. lẳng lặng, bà vào tủ lấy ra tờ bạc một trăm và nói:
—Cho tôi góp vào chương trình.
Tôi từ chối, tiền vào tay tôi sẽ mất ý nghĩa cho bà vì tôi sẽ động lòng tham và dễ mua danh , mua đức cho riêng mình . Tôi gợi ý:
–Nếu đồng ý, tôi sẽ làm chương trình thiện nguyện riêng cho bà. Với số tiền nầy, tôi chuyển về trực tiếp cho bà đến những em mồ côi mất cha mất mẹ, hoặc sống bất hạnh qua sự coi sóc của một giáo viên ở làng. Anh ta sẽ nhận , phân phối và hướng dẫn ăn học.
Những báo cáo, hình ảnh phim video clip , thư tín từ các học sinh mồ côi gởi qua đều đặn. Mỗi lần đọc thư con cái, bà cảm động làm nước mắt chảy dài một cách sung sướng.
Thấm thoát nghĩa tình mẹ con cũng khá lâu. Những trẻ mồ cô giờ đã lớn, có người ra trường làm ông giáo, anh công nhân, anh thợ điện, có nhười lập gia đình. Từ những rách rưới tả tơi, miếng cơm bà nuôi, chiếc áo ấm bà gởi mặc mùa Đông và những chiếc xe đạp của mơ-ước thành sự thật đã đưa nhiều trai trẻ thành người hửu-dụng cho đời. Những emails qua lại ấm tình mẹ con vào tuổi hoàng-hôn của bà Sally với hai mươi đứa trẻ lạc loài trước đây đã làm vui cuộc đời, bà nói với tôi, giọng đầy xúc cảm:
–Trong trái tim mầy có Chúa, Phật. Từ tâm của mầy qua lối sống, qua việc làm với cuộc đời cho tao thấy Thương Đế không ở đâu xa mà ở chính nơi mầy.
Rất xúc động, một lần bà nói:
–Qua mầy, tao biết Thượng Đế và tôn giáo rõ hơn!Làm con người biết sống cho người thật tuyệt!
Tháng mười một năm 2010, vào ngày lễ Tạ Ơn ở Hoa Kỳ sẽ là dấu ấn kỷ niệm tròn ba mươi năm vợ chồng chung sống hạnh phúc, mười chín năm sống ở Mỹ và đúng sinh-nhật thứ năm mươi tám của tôi. Ra đi làm lại cuộc đời sau nhiều năm tù tội khổ ải gian-nan, ai cũng không biết được ngày mai thế nào. Đất hứa thiên đường từ trong ước mơ có lần bền bồng như đang ở vùng trời mây ảo mỗi khi có dịp ngang qua cửa biển Thuận An Huế nơi có nhiều chuyến vượt biển thành công…. để nghe rặng phi lao vùng duyên hải rì rào theo cơn gió chiều biển lộng , tiếng sóng ầm-ì vổ mạnh ven bờ trải dài những bọt sóng, ru mãi một âm quen trong khi ngoài xa-xăm kia bất tận một màu xanh đại dương rất tươi nét của niềm hy-vọng tuyệt-vời!!!Làm sao không khỏi ôm mộng dấn thân được làm những cánh chim trời trên vùng biển vắng bao la, dang rộng đôi cánh hướng tới chốn bình minh nắng ấm có cây cỏ hoa lá tươi thắm bức tranh hạnh-phúc cuộc đời nơi có hy-vọng cho kẻ đến từ màn đêm tăm-tối. Có phải từng mơ là gió, là mây là nước đề cho ta hòa trong đó một chút hồn, đem gởi về nơi đó để tận hưởng thú vị ngọt-ngào của tự do và nhân bản.
Cuối năm 1991, giấc mơ trở thành sự thật, một sự thật vượt quá hẳn tầm tay khi vợ chồng con cái lâu nay lam lũ ở vùng quê xứ Huế nay nắm tay nhau hướng về chiếc máy bay rời Việt Nam trong nỗi ngại ngùng chưa trút bỏ là phải chăng đây là sự thật giữa đời người? Gần hai mươi năm sau, đứa con gái lớn sáu tuổi lúc ra đi, từng đội tấm vải dầu, chân không dép, lấm bùn đi đến trường ê a lớp vở lòng , nay xuất thân trường đại học Berkeley và đang dấn thân phục-vụ vào xã hội Hoa Kỳ với những kiến-thức thâu thập được. Đứa con gái thứ nhì, khi bốn tuổi, có cái ngày cỏng chiếc ba lô đi trên sân bay tiến về phi cơ đi Mỹ. Dáng nhỏ, cong chúi người để giữ túi hành trang thăng bằng, cố leo lên cầu thang máy bay một cách vội vàng như sợ người ta kéo lui trả về làng xóm quê cũ. Nay cô bé ngồi ngay giữa Ngũ Giác Đài phụ trách liên-kết và phối hợp với các nước Á châu Thái Bình Dương khi vừa tốt nghiệp cao học tại trường đại học Santa Barbara mùa hè năm 2009.
Hôm nay, như một giòng sông vẫn chảy về biển rộng, sau kỳ thi tuyển dụng, tôi lại được làm việc giữa học khu Natomas School District với những giáo sư, nhân viên và các em học sinh còn ngây thơ và với những kiến thức và kinh-nghiệm có được, tôi nguyện đem sức mình giúp đời bằng cả nhiệt tình có được. Tuy làm việc năng-nổ trong phạm vi nhỏ bé của mình, nhưng thâm tâm cũng mong có cơ hội đền đáp được chút gì trước sự cao cả , lòng nhân đạo của nhân dân đất nước Hoa Kỳ với cánh tay mở rộng cho thuyền nhân, cho tù nhân chính trị và những người bất đồng chính kiến từ Việt Nam. Học khu Natomas cũng có giáo sư Paul, Pitt, Kristene, Roland, Raymond. Lettica đầy nhiệt tình, gần gủi và đầy cảm thông như mang trong người một trái tim đầy tình người.
Xin cám ơn trời cao với những ơn dày ban xuống cho gia đình tồn tại. Xin cám ơn đời với những chặng đường gian-nan thử thách mà vẫn luôn có trong đó những tình người biết thương-yêu, cảm thông và tha thứ. Xin cám ơn nước Mỹ, đất nước của ước-mơ và cơ-hội, đất nước của tình thương và nhân bản nơi tôi có đủ bạn bè, người thân, đồng nghiệp, người cùng chí hướng, những ân-nhân và vô số những tấm lòng, những trái tim biết xúc-động và chia sẽ trước những thương đau của người khác.
Hoa Biển
Sacramento tháng 2 năm 2010
Thụy Vi: Những Mẫu Chuyện Văn Nghệ
By HoangHac • Nov 20th, 2009 • Category: Bút Ký

VU VƠ TỪ MỘT TẤM TRANH…

VU VƠ TỪ MỘT TẤM TRANH…
Hôm qua, lang thang trên…Net. Tình cờ nhìn thấy bức tranh [ của ai nhỉ? ] tuy nó giống như bức minh họa, nhưng nó lại khiến tôi thích thú và xúc động.
Bức họa vẽ ngổ ngáo một cô gái khỏa thân, mình sũng đầy nước, ngồi lắt lẻo ngã dài trên ghi đông chiếc xe đòn vông do một người đàn ông uể oải cong lưng đạp. Kỳ lạ, bức họa như toát ra một cái gì đó… rất thật! Không hề ẩn dụ, không bắt người ta phải suy tưởng, hay phải vận dụng sức tưởng tượng miên man. Bức tranh không theo bất cứ một khuôn sáo mẫu mực nào, càng không phải là hình chụp ghi đúng lại cái đẹp bình thường trong cuộc đời… Nó là cảm xúc. Là thật. Một tình yêu buông thả, tự nguyện, hiến dâng và tuyệt đối tin cậy…
Bức họa đã đánh thức trong tôi một cái gì đó thẳm sâu, nóng bỏng và hoang dại. Khiến tôi càng gần với quá khứ, dường như chạm đụng được nó.
Thường, tôi rất thích những bức tranh khỏa thân nhẹ nhàng như sương như ảo của Nguyễn Trung, và tôi có vài bức na ná như vậy. Có thể trong một đời sống còn bị trói buộc bởi sự chừng mực của luân lý gia đình, của những con mắt trẻ thơ… Cho nên cây cọ của tôi còn lướng vướng ngại ngùng, mặc dầu vẽ một thân hình đẹp của người phụ nữ là niềm say mê thầm kín của mình.
Tôi phóng mắt qua cửa sổ, bên ngoài ánh nắng thật hiu hắt, trãi một màu xám bàng bạc trên những cành cây xơ xác, trơ trụi, và đám lá xanh ngắt mơn mởn hôm nào, giờ vàng úa nằm bẹp dí, dã dượi nhẩn nhục chờ đợi sự mục rửa, khuất lấp quạnh hiu… Mùi lá ẩm mục nồng nàn , một lần nữa cảm giác hình ảnh trải qua trong quá khứ, nồng nàn như dâng lên trong lồng ngực. Tôi muốn đánh thức các hồi ức, tôi không muốn để nó bị lảng quên tức tửi như những chiếc lá mục rổng bị chôn vùi theo từng năm đang trôi tuột ngoài kia.
Ngày đó Sàigòn ngoài đường hiếm thấy con gái mặc áo dây, khoe chân dài, ngực trần. Năm đó, tên tôi được các anh chị trong ban kịch Trương Đình Hầu [ tên một sinh viên khoa Thoại kịch, bị tử trận ] thuộc trường QGÂN & KN nâng lên bay bổng khi tôi được chọn đóng vai Mộng Cầm, một vở kịch của thầy Đinh Xuân Hoà đoạt giải Văn Học Nghệ Thuật của Tổng Thống VNCH. Vở kịch đi lưu diển khắp nơi gồm có chị Đổ Anh, thủ khoa của trường, anh Lê Hiểu sinh viên ưu tú khoá 1, và đặc biệt có sự góp mặt của kịch sĩ Kiều Hạnh, là thân mẫu của nữ danh ca Mai Hương.
Cánh hồng văn nghệ của tôi bay không xa, không cao. Sau khi góp mặt với vài vai phụ cho vài cuốn phim của bác Bùi Sơn Duân và xuất hiện lác đác trên những ban kịch của chương trình truyền hình Đắc Lộ, tôi rút lui về phiá sau và chuyển hướng viết kịch bản và phân đoạn phim.Tôi nhớ một vở kịch tôi viết cho trường, anh Ngọc Phu đóng vai tình địch của Huỳnh Thanh Trà, vai nử chánh là chị Thiên Kim[ chị có giọng nói mượt mà, và làm thêm nghề thu âm phim như Tú Trinh ] Nhưng sau đó Huỳnh Thanh Trà kẹt cho cuốn Loan Mắt Nhung, một kịch sinh khác thế vai anh Trà.
Tôi nhớ đến một ngoại cảnh quay ở quán Con Nai Vàng trên Thủ Đức, lúc đó Bạch Tuyết đóng cặp với Trần Quang, những lúc nghĩ giải lao, cặp này vẫn tình lắm [ Trần Quang có cặp mắt lẵng và thật điệu ] chị Tường Vi vợ của nhạc sĩ Y Vân, là chuyên viên hoá trang của đoàn thấy ngứa mắt bèn phán “ Tam Lang trước sau gì cũng bỏ bà này ” Năm sau, khi Tam Lang ra nước ngoài đá banh, ở nhà bà Bạch Tuyết bị cướp viếng nữa đêm… Khi trở về không hiểu sao ông cầu thủ tuyên bố chia tay, khiến báo chí lao xao một dạo. Nhưng phải công nhận Bạch Tuyết là một người sống ác liệt từ sân khấu lẫn ngoài đời, bộ dạng nũng nịu thật duyên dáng của bà người nào cũng xiêu. Sau này tôi có dịp gặp lại Bạch Tuyết một lần nữa trong bửa tiệc của bác Việt Định Phương khoản đải tại quán Đêm Xanh mừng kiếm được cô công chúa Châu Phi lạc loài.
Những năm tuổi trẻ thật phơi phới, người bạn trai cứ mỗi khi từ đơn vị về thăm nhà. Hai đứa thường chở nhau bằng…chiếc xe đòn vông đi khắp phố… từ Ngô Gia Tự, vòng ra Lê Thánh Tôn nhìn lá me bay lắc rắt trên đầu rồi ghé vào Hiển Khánh bên Đa Kao kêu hai ly thạch, vừa nhâm nhi vừa nói vu vơ rồi về. Chiếc xe cà khổ đó còn lượn lờ đưa chúng tôi góp mặt ngâm thơ với những người bạn văn học dễ thương ở quán Thằng Bờm, quán Lú. Có một lần, nhạc sĩ Vũ Thành An đưa cô vợ đến tham dự đêm ngâm thơ của chúng tôi, anh vừa đàn vừa hát bài không tên số 8, cô vợ anh cao ráo, đẹp như người Tây phương. Nhóm ngâm thơ bỏ túi của chúng tôi lúc đó còn có Từ Kế Tường, nghe nói bây giờ anh làm gì đó lớn lắm trong tờ báo Công an của vc, lại rất giàu, nhưng tôi cũng cảm ơn anh về cuốn Huyền Xưa mà anh viết tặng trước năm 1975 [ lúc anh làm cho tờ Công Luận ]
Có lần anh Phổ Đức đưa bà Mộng Điệp đến kiếm tôi ở nhà bà Linh Trang [ gần chùa Tam Tông Miếu] mà trong cuốn Giai Thoại Hồng của anh Hồ Trường An có nhắc đến. Bà Mộng Điệp kêu tôi ngâm thử mấy câu thơ, hình như của Phổ Đức, tôi nhớ lỏm bỏm…
Buổi sáng soi gương tôi ngắm tôi
Tóc theo ngày tháng tóc thêm dài
Cô đơn làm tối đôi quầng mắt
Và nụ hôn nào xưa đắng môi…
Nghe tôi ngâm xong, bà nín thinh không nói năng gì, còn anh Phổ Đức cười nhìn tôi nháy nhó. Mộng ngâm thơ của tôi cũng lụi tàn từ đây!
Tình yêu của anh và tôi ngày đó lãng đãng như những nụ hôn lén lút đặt nhẹ trên triền lưng, trên vai mà tôi mơ hồ cảm thấy mỗi khi anh chở tôi đây đó. Tôi chưa hề được sống với những cháy bỏng đam mê như cô gái trong bức họa, chúng tôi cứ lãng mạng một vòng thật xa. Cuối cùng hai đứa đi hai ngã mà đến bây giờ tôi không biết tại sao.
… Cánh hồng văn nghệ tôi xếp cánh. Tôi bước vào một tình yêu khác, đằm thắm hơn. Một trách nhiệm khác, ý thức hơn. Và một bổn phận của Thượng Đế dành riêng cho người nữ.
. thụyvi
[ Trích trong Những Mẫu Chuyện Vui Văn Nghệ ]

Muà Thu Toronto

Trịnh Hảo Tâm: Muà Thu Toronto
By HoangHac • Nov 3rd, 2009 • Category: Bút Ký

Ở Bắc bán cầu mùa Thu trở về vào Tháng Chín, ngày ngắn dần, thời tiết mát dịu và chuyển sang lạnh, những cây rụng lá về mùa Ðông bắt đầu vàng úa và đỏ rực tạo nên một phong cảnh rừng Thu rất đẹp nhất là ở vùng New England (Ðông Bắc Hoa Kỳ) chạy lên tới Canada như các tỉnh Québec và Ontario. Mùa Thu năm nay xin mời các bạn cùng chúng tôi viếng thăm thành phố Toronto thuộc tỉnh Ontario, Canada để ngắm sắc đỏ của rừng phong, nghe tiếng xào xạc lá vàng rơi:
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Ðạp lên lá vàng khô?
(Tiếng Thu – Lưu Trọng Lư)
Du khách thường viếng Toronto vào mùa Thu vì thời tiết mát dịu, Tháng Chín Toronto có nhiệt độ trung bình là 60 độ F, Tháng Mười giảm xuống 50 và Tháng Mười Một là 40 độ. Rừng phong lá bắt đầu chuyển màu vàng tươi, rồi đỏ thắm và cuối cùng là nâu sẫm trước khi rơi rụng để mùa Ðông về tuyết trắng phủ đầy trên rừng phong thân trắng không còn lá. Bắt đầu mùa Thu, trên truyền thanh, truyền hình người ta loan báo những vùng nào lá bắt đầu đổi màu, thời tiết có mưa hay không để cập nhật những tin tức cho du khách đang đến ngắm lá vàng mùa Thu ở thành phố Toronto thanh lịch và êm đềm.
Chiếc phản lực Boeing 737 của hãng United Airlines đã đưa tôi đến thành phố Toronto của Canada, sau tổng cộng hơn 5 giờ bay từ phi trường Ontario của miền Nam California cộng thêm một giờ đổi máy bay ở Chicago.
Từ trên cao lúc máy bay sắp hạ cánh, vùng ngoại ô Toronto với những ngôi nhà mới mái ngói màu rượu chát nổi bật trên nền cây cỏ xanh tươi như đang độ vào Xuân mặc dù bây giờ trời đã sang Thu khác hẳn với những bãi cỏ vàng vì thiếu nước, những cây cối xanh đen vì bị ô nhiễm bởi khói xe và kỹ nghệ của miền Nam Cali mà tôi đang sống. Máy bay nghiêng và hạ thấp cao độ, khu trung tâm Toronto với những nhà cao tầng nằm kế cận bờ hồ Ontario đã hiện ra rõ nét.
Ngọn tháp CN Tower vừa tượng trưng cho thành phố Toronto vừa biểu hiệu luôn cho cả nước Canada nằm soi bóng bên bờ hồ mà nhìn từ trên cao mặt hồ phản chiếu ánh nắng mặt trời lấp lánh như nạm bạc.
Phi cơ hạ cánh xuống phi trường quốc tế Pearson nằm về phía Tây Bắc và cách trung tâm Toronto 17 miles (27 km). Phi trường lấy tên thủ tướng thứ 14 của Canada là Lester B. Pearson, ông này cũng từng được giải Nobel Hòa Bình. Quan thuế Canada cũng rất dễ dàng, nếu không có gì cần khai báo thì đi qua ngã “No Claim”. Người quốc tịch Mỹ vào Canada ở dưới 3 tháng không cần phải xin Visa và để chứng minh có quốc tịch Mỹ phải mang theo Pass Port.
Ngày nay nhân viên di trú Canada ở phi trường hỏi rất kỹ như lý do vào Canada và ở lại bao lâu (nếu ở trên 3 tháng phải có Visa và Visa có thể xin ngay tại phi trường). Nhưng đến lượt về, trở lại Mỹ thì nhân viên Sở Di Trú Mỹ ngồi tại phi trường Pearson (còn trên đất Canada) đòi coi Pass Port và cập nhật vào mạng vi tính. Những năm trước du khách quốc tịch Mỹ khi trở lại Mỹ từ Canada hay Mexico chỉ cần trình bằng quốc tịch hay khai sinh nếu sinh đẻ tại Mỹ nhưng từ năm 2009 luật bắt buộc phải mang theo Pass Port để đề phòng khủng bố xâm nhập.
Lượt về cũng không nên mang trái cây, hoa kiểng vào Mỹ. Khu Chợ Tàu Toronto trái cây nhiệt đới như vải, nhãn, măng cụt, sầu riêng rất nhiều, còn tươi không đông lạnh, giá lại rẻ hơn bên Mỹ. Dân ta hay mang các thứ này về nên quan thuế ở đây hay hỏi trước khi cho vào phòng đợi máy bay. Nếu có những món này phải… trở ra ăn hết hay quăng vào thùng rác!
Ra đón chúng tôi là vợ chồng em trai tôi cư ngụ tại Toronto và hai đứa cháu gọi tôi bằng cậu từ New Haven tiểu bang Connecticut qua chơi Toronto. Hai cháu trai này trên 40 tuổi con của chị tôi (còn ở Việt Nam), ngày xưa cùng vượt biên với chúng tôi. Sau một tuần ở Toronto hai cháu sẽ lái xe đưa chúng tôi về New Haven, thăm lại nơi xưa chốn cũ, những tháng đầu tiên chúng tôi định cư trên đất Mỹ.
Vợ chồng em trai tôi vượt biên trước, hiện có tiệm bán hoa ở Mississauga kế cận phía Tây của Toronto. Trên xa lộ từ phi trường về nhà, nhìn địa thế xung quanh thì Toronto là một vùng đất bằng phẳng, không thấy một ngọn núi nào dù ở phía chân trời xa. Toronto cũng không bị động đất như California nhưng trái lại bị tuyết phủ vào mùa Ðông. Bầu trời trong xanh với mây trắng từng cụm, nhiệt độ khoảng 60 độ F, gió nhẹ se se lạnh. Vì gần Bắc Cực nên ở đây tuy mới mùa Thu, nhưng ánh nắng mặt trời tắt rất sớm, 5 giờ chiều trời đã hoàng hôn. Trái lại ngày Hè cũng thật dài, 9 giờ tối trẻ con vẫn còn chơi đùa trong công viên, các cụ già còn ngồi đọc báo vì nắng vẫn còn. Mưa và ẩm ướt vào mùa Hè và bắt đầu gia tăng mưa nhiều vào mùa Thu, mùa Ðông lạnh có tuyết rơi vài lần.
Bên đường trời đã sang Thu lá cây bắt đầu vàng rực nhiều cây đỏ thắm in trên nền trời xanh biếc trông rất đẹp. Dọc theo xa lộ thích nhất là những con suối quanh co uốn lượn với hai bên bờ là những hàng cây um tùm như những khu rừng nhỏ. Cỏ ở đây lúc nào cũng xanh mượt mà người ta cũng không cần gắn hệ thống tưới tự động.
Hệ thống xa lộ Canada hiện giờ thì không bằng California, lề xa lộ dành cho xe đậu khi gặp trường hợp bất trắc (emergency) hãy còn trải đá sạn chứ chưa được tráng nhựa. Những bảng chỉ dẫn trên xa lộ cũng khác hơn ở Mỹ và dùng cả hai thứ tiếng Anh và tiếng Pháp. Ðơn vị đo lường của Canada dùng cả hai hệ thống đo lường vừa Mỹ Anh (standard) vừa thập phân (metric) như chiều dài trên đường thì dùng cây số (kilometer) nhưng đo nhà đất thì lại dùng feet. Ðơn vị đo dung tích như xăng thì bán theo lít, với trọng lượng như cân trái cây hay thịt cá thì lại dùng pound.
Ðó là sự phối hơp hai hệ thống cân đo của Anh và Pháp là hai sắc dân khám phá ra vùng đất Canada từ thế kỷ 15. Ngôn ngữ cũng vậy, Canada dùng cả hai thứ tiếng: miền Toronto và thủ đô Ottawa, hai thành phố đều nằm trong tỉnh Ontario thì nói tiếng Anh nhưng thành phố Québec thuộc tỉnh Québec thì lại nói tiếng Pháp. Về tiền tệ Canada xài đồng đô la Canada (viết tắt là CAD), tiền giấy Canada có mệnh giá 5, 10, 20, 50 và 100 CAD, tiền cắc (coin) có 2 CAD, 1 CAD, 25, 10, 5 và 1 xu (100 xu = 1 CAD). Hiện nay (Tháng Mười 2009) hối suất 1 USD = 1.08 CAD tức tiền Canada và tiền Mỹ cùng gần bằng giá như nhau. Mua sắm nhiều nơi ở Toronto nhận cả hai thứ tiền.
Hai mươi phút sau trung tâm thương mại Toronto với những tòa nhà cao tầng ngạo nghễ và ngọn tháp CN Tower cao vút hiện ra phía trước nổi bật trên nền trời xanh. Toronto là một thành phố to lớn và đẹp đẽ, là trung tâm thương mại, kinh tế, tài chánh chẳng những của Canada mà cả toàn vùng Bắc Mỹ,
Thị Trường Chứng Khoán Toronto được xếp vào hạng 7 trên thế giới. Toronto dẫn đầu nền kinh tế Canada với các dịch vụ thương mại, tài chánh, truyền thông, kỹ nghệ không gian, giao thông chuyển vận, phim ảnh, truyền hình, xuất bản, nghệ thuật, phần mềm vi tính, nghiên cứu y khoa, giáo dục, du lịch và thể thao là những ngành nghề chính của thành phố. Toronto nằm soi bóng bên bờ Bắc của hồ Ontario, là một trong Ngũ Ðại Hồ trên lục địa Bắc Mỹ gồm các hồ có tên tạo thành chữ HOMES (Huron, Ontario, Michigan, Erie và Superior). Những hồ này to lớn như biển cả, đứng bên bờ này không thấy bờ bên kia, nhưng là biển nước ngọt do tuyết tan từ vùng núi Bắc Canada và chảy ra biển Ðại Tây Dương bằng sông St. Lawrence gần biên giới giữa Canada và Hoa Kỳ. Toronto còn là thành phố đa chủng với nhiều sắc dân khác nhau, số người sinh từ nước khác chiếm đến 49% trong dân số Toronto và Phụ Cận là 5 triệu 556 ngàn người (thống kê 2006 Census).
….Năm 1813 trong cuộc chiến một lần nữa giữa Hoa Kỳ và Anh Quốc với trận đánh Battle of York (27 Tháng Tư, 1813) quân Mỹ đổ bộ lên bắt 300 quân Anh làm tù binh sau khi giết 62 lính Anh và làm bị thương 94 người, phía Mỹ thiệt hại 70 người và 220 bị thương. Quân Mỹ tàn phá hầu hết thành lũy York và châm lửa đốt tòa nhà lập hiến trong 5 ngày chiếm đóng. Năm sau vào ngày 24 Tháng Tám, 1814 quân Anh chiếm đóng thủ đô Washington D.C. và trả thù bằng cách đốt phá các tòa nhà ở thủ đô Hoa Kỳ!
Thành phố York được thành lập và lấy tên cũ là City of Toronto vào ngày 6 Tháng Ba, 1834 với dân số chỉ có 9,000 người kể cả một số nô lệ người Mỹ gốc Phi Châu trốn khỏi từ Hoa Kỳ. Cũng trong năm này chế độ nô lệ bị bãi bỏ trên đất Upper Canada. Năm 1837 chính trị gia cấp tiến William Lyon Mackenzie trở thành thị trưởng đầu tiên của Toronto, ông ta cầm đầu cuộc cách mạng chống lại nhà cầm quyền Anh đang cai trị thuộc địa Upper Canada nhưng thất bại
. Thành phố phát triển trong những năm còn lại của thế kỷ 19 với nhiều đợt di dân đến Canada. Ðợt lớn nhất là di dân Công Giáo đến từ đảo Ireland trong nạn đói vào năm 1845 đến 1852 đã làm thiệt mạng hơn một triệu người vì mùa khoai tây hư hại. Sau đó cũng từ đảo Ireland, giáo dân Protestant cũng theo chân người Công Giáo tiếp tục vượt biển đến Canada và được người Anh và Scottland định cư từ trước tiếp đón. Trong thế kỷ 19, thành phố xây dựng hệ thống cống rãnh, đường phố được thắp sáng bằng đèn hơi ga, đường sắt được xây dựng vào năm 1854 nối Toronto với các thành phố phía Bắc Canada. Xe được ngựa kéo trên đường sắt được thay thế bằng xe điện vào năm 1891 bởi công ty Toronto Railway Company.
Năm 1904 trận hỏa hoạn lớn xảy ra ngay tại trung tâm kỹ nghệ thành phố thiêu rụi 104 tòa nhà, hãng xưởng thiệt hại hơn 10 triệu đồng thời đó làm 5 ngàn người thất nghiệp trong tổng số cư dân 200 ngàn lúc đó.
Nửa thế kỷ sau vào năm 1954 trận bão Hurricane Hazel từ biển Caribbean thổi lên gây hư hại nhà cửa và lụt lội khiến 81 người chết, 1,900 gia đình mất nhà và thiệt hại hơn 25 triệu đồng USD. Ðầu thế kỷ 20 di dân từ các nước Ðức, Pháp, Ý, Do Thái cũng như một số nước Ðông Âu, theo sau là người Trung Hoa, Nga, Ba Lan ồ ạt đến Toronto chen chúc nhau ở khu “the Ward” đường Bay Street, ngày nay là trung tâm tài chánh lớn nhất nước. Sau Thế Chiến Thứ Hai, nạn nhân chiến tranh cũng như người Trung Hoa tìm việc làm, đến Toronto gia nhập vào lực lượng lao động trong ngành xây cất và gần đây nhất di dân từ Hong Kong trước khi nhượng địa này trả về Trung Quốc năm 1997 khiến khu thương mại China Town ở Toronto trở thành China Town lớn nhất Bắc Mỹ.
Trịnh Hảo Tâm

Chắc Má Tao Mừng Lắm …

Võ Đại Tôn: Chắc Má Tao Mừng Lắm …
By HoangHac • Oct 20th, 2009 • Category: Bút Ký

Chiều trên đảo Galang. Nắng chưa tắt và hơi gió biển từ xa thổi vào lành lạnh, dường như có mùi muối mặn. Chúng tôi trong phái đoàn Văn Khố Thuyền Nhân, mỗi người mang một tâm trạng riêng nhưng cùng chung một tâm nguyện, âm thầm thắp nhang cắm trên các mộ bia hoang tàn.
Nhiều mộ bia đã bị đập phá, gạch đá nằm lăn lóc, cỏ cháy vàng khô. Nhiều tấm bia đã phai mờ chữ khắc, nhiều tấm bia không có năm sinh, chỉ ghi ngày chết. Tất cả, tất cả đều im lặng, hoang vu, ngậm ngùi. Trên bục đá cao còn sót lại một cột cổng bằng xi-măng vào nghĩa trang, màu sơn trắng đã thành rong rêu loang lổ, ai đã sơn thêm ba sọc màu đen từ trên xuống dưới, thành lá cờ tang của Tổ Quốc, bơ vơ nơi xứ người. Trông thật ảm đạm, đìu hiu, tôi nghĩ đến những dòng nước mắt màu đen của Dân Tộc hôm qua và hôm nay. Tôi cúi đầu khấn nguyện, cắm nhang trên những nấm mộ vô danh, và tôi đang khóc trong lòng. Vì tuổi già leo dốc cao, và vì quá xúc động trước cảnh tượng điêu tàn hoang sơ này, tôi chợt cảm thấy mình ngộp thở, vội trao lại bó nhang đang bùng khói cho người bạn đồng hành trong đoàn, từ Mỹ qua. “Anh cắm nhang tiếp giùm tôi đi, tôi chóng mặt quá!”. Tôi đến ngồi bên cạnh một mộ bia đã bị đập vụn, nghĩ về thảm trạng của cả một trời quê hương, bên kia bờ biển Đông, và nghĩ đến những người đã chết bên này đại dương.
Dưới chân nghĩa trang, dọc theo con đường mòn, có một khu rừng. Một tấm bảng chỉ đường ghi bằng tiếng Anh : “Body Tree”. Trong lùm cây, có một cây đa già buông nhánh và rễ xuống tận đất. Có người nói đấy là cây bồ đề, và bảng chỉ đường “Body Tree” có nghĩa là khu cây bồ đề. Nhưng sự thật không phải như vậy. Dưới gốc cây có dựng ba kệ bàn thờ nhỏ có mái che như cái “trang” bằng gỗ sơn màu đỏ. Thuyền nhân trên đảo trước đây và dân làng địa phương gọi là “Miếu Ba Cô”. Vài anh em trong phái đoàn, đã từng sống trên đảo này, kể lại cho tôi nghe là có ba cô gái trên đường vượt biển đã bị hải tặc hãm hiếp, khi đến được trại tỵ nạn trên đảo đã quá tủi nhục và uất hận, ra treo cổ tự tử trên cành cây đa vào ban đêm. Trong ba người, có hai chị em ruột tuổi còn nhỏ. Đồng bào tỵ nạn trên đảo đã lập miếu thờ và dân làng địa phương cho đến nay vẫn còn gìn giữ nơi này, tin tưởng là chốn linh thiêng. Tôi nghĩ đến tấm bảng chỉ đường “Body Tree”, có lẽ là nơi “Cây treo xác người” chứ không có nghĩa là cây bồ đề. Tôi lặng người, đứng nhìn khu miếu hoang vu này, ngậm ngùi nghĩ đến thân phận của những người con gái Việt Nam, vào lứa tuổi con-em của tôi, đã theo gia đình vượt biển tìm Tự Do, để rồi phải chết trong cảnh oan khiên. Hương lạnh hoang tàn, cô đơn nghiệt ngã. Không biết thân nhân của những người con gái đau thương này, đã được định cư tại một nơi nào đó trên thế giới tự do, có bao giờ trở lại để thắp một nén nhang cầu nguyện ? Anh em trong Văn Khố Thuyền Nhân có ghi lại chi tiết về những cái chết tận cùng khổ nhục này của các cô gái Việt Nam, nhưng tôi chỉ viết lại cảm xúc của riêng tôi vể cảnh tượng. Tôi lại nhìn ra biển khơi và thấy hiện ra căn nhà nghỉ mát đồ sộ nguy nga của con gái tên thủ tướng việt cộng Nguyễn Tấn Dũng trên bờ biển Nha Trang mà tôi đã thấy hình đăng trên báo chí hải ngoại mới đây. Căn nhà nghỉ mát của “con gái siêu đại gia tư bản đỏ” này, ở Nha Trang, và cái ‘Miếu ba Cô” hoang vu trên đảo Galang chiều nay, là nghịch cảnh có thực trong cõi đời này. Nghịch cảnh giữa những người con gái Việt Nam, đang sống và đã chết bên bờ biển Đông, trong hàng triệu nghịch cảnh giữa lòng Dân Tộc. Những người nào còn chút lương tâm, luôn cả nhân loại nếu còn lương tri, sẽ tự tìm ra câu trả lời vì sao ? Trong thời đại này, theo thời gian và theo vị kỷ của con người, có lẽ hai chữ “lương tâm” đang nằm im trên trang giấy trong tự điển.
Ngồi trên xe rời xa đảo trên đường về lại thị trấn quận hạt Batam, tôi nghĩ thêm được những câu kết trong bài trường thi “Hồn Ca Trên Biển Đông” mà tôi đang “viết” trong đầu về linh hồn những người đã chết với những nấm mô điêu tàn :
Hồn mãi còn đây, dù bia mộ hoang vu
Không tên tuổi – sá gì tên với tuổi !
Dù xác thân đã hòa chung cát bụi
Biển Đông còn – Hồn mãi sống thiên thu !
Năm 2005, Hà Nội đã làm áp lực với các chính phủ Mã Lai và Nam Dương để đập phá các tấm bia tưởng niệm Thuyền Nhân đã chết trên biển Đông, và bây giờ, năm 2009, khi chúng tôi đến đây, Hà Nội vẫn tiếp tục yêu cầu chính quyền Nam Dương đóng cửa các khu di tích, xóa bỏ tất cả dấu vết Thuyền Nhân trên các đảo ! Bạo lực và hận thù của một chế độ từ bên kia bờ đại dương đang vói tay qua sóng nước trùng khơi để hủy bỏ chứng tích tội ác của họ, trên những ngọn đồi xứ lạ, nghĩ rằng rồi đây nhân loại sẽ không còn thấy những di tích tang thương này của Dân Tộc Việt Nam. Rồi đây, những bia mộ hoang tàn còn sót lại này, rồi đây “Miếu Ba Cô” tịch liêu này, có còn không ? Tôi nhìn lên trời cao, gió chiếu thổi đám mây trắng bay về cõi mênh mông vô định. Lòng tôi đang quấn khăn tang như màu mây trắng. Tôi nghĩ đến thân phận Dân Tộc của tôi, vong linh những thuyền nhân đã chết, và hình ảnh các cô gái Việt Nam treo cổ trên cành cây đa nơi xứ người ! Một trang sử màu đen loang lổ những vệt máu khô.
Chiều nơi khu Geylang. Sau những ngày làm việc tại Indonesia, chúng tôi đi phà từ đảo Pinang về lại Singapore để chờ máy bay “hồi hương” ! Không phải bị “cưỡng bức hồi hương” như một số thuyền nhân trên các đảo trước đây. Vì anh em chúng tôi trong phái đoàn phải tự túc mọi chi phí, và đây không phải là chuyến đi du lịch vui chơi, cho nên chúng tôi phải tìm nhà trọ tại một khu xa thành phố để tiết kiệm tối đa. Khu Geylang hổn tạp, xô bồ, đa số là dân lao động tứ xứ với đủ sắc dân, Tàu, Ấn Độ, Mã Lai, Nam Dương, luôn cả du khách ba-lô từ các nước phương Tây dồn về. Ban ngày dường như ai cũng ngái ngủ, quán xá phần đông đóng cửa, nhưng từ 3-4 giờ chiều cho đến sáng hôm sau thì tấp nập dòng người chen chân qua các khu phố. Bàn ghế ăn uống nhậu nhẹt đặt sát lề đường, không còn một chỗ ngồi. Các quán ăn rộn rịp, om sòm đủ mọi thứ tiếng. Xe cộ dập dìu, mạnh ai nấy băng qua đường, xe phải tránh người. Từ nhà trọ, tôi lang thang bách bộ đi qua các con hẻm để quan sát cảnh sống ban đêm nơi xứ người. Tại nhiều góc hẻm, dân chúng tụ tập quanh các bàn cờ bạc đủ loại, tài xiu, sóc dĩa, quay số… không thấy bóng một cảnh sát viên nào. Ở đâu tôi cũng thấy các cô gái phấn son, ăn mặc hở hang khiêu gợi nhưng có vẻ nghèo nàn. Toàn là gái trẻ, có nhiều cô chỉ vào lứa tuổi 14-15. Có cô đứng ngay bên lề đường để đón khách, có cô thì ngại ngùng nép mình bên vach tường phố, đưa tay nhẹ vẫy, với nụ cười chập chờn qua ánh đèn màu lòe loẹt. Mỗi lần tôi đi ngang các cô gái này, cô nào cũng bập bẹ nói tiếng Anh “You go – Me good !”. Linh cảm cho tôi biết đa số là những cô gái Việt Nam. Lòng tôi se thắt lại. Đây là khu ăn chơi bình dân, giang hồ tứ chiếng, và tôi chợt nhìn thấy nhiều thanh niên bụi đời đang đứng trong bóng tối rình rập, canh chừng các cô gái. Ma-cô đầu gấu. Thỉnh thoảng các cô lại đến thì thầm gì đó, móc túi đưa tiền cho các gã, hoặc đi theo khách vào các nhà trọ trong khu vực. Tại nơi chúng tôi tạm trú, tôi thấy có tấm bảng ghi $10 đô la Singapore 1 giờ thuê phòng. Các cô gái trẻ đi với khách đủ loại và mất hút vào cầu thang, có cô thản nhiên, có cô rụt rè. Đi qua chỗ mấy sạp bán trái cây, đặc biệt là sầu riêng thơm lừng, trước cửa một khu “disco” đèn chớp sáng, tôi thấy các cô gái ăn mặc rất khêu gợi và tôi cũng được mời “You go – Me good”. Tôi lắc đầu bước đi và thoáng nghe sau lưng mấy cô nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt.
Bước vào một tiệm đổi và chuyển tiền để đổi một ít tiền Singapore (thường được gọi là đô la Sin) để đi ăn tối, tôi thấy hai cô gái đang đứng trước quày. Tôi sắp hàng đứng sau lưng. Hai cô cũng mặc quần ngắn, áo mỏng manh, tuổi nhỏ khoảng 16-17, son môi đỏ chói. Chợt tôi nghe một trong hai cô, sau khi chuyển xong tiền, buộc miệng nói tiếng Việt : “Kỳ này tao gửi về được 50 đô. Chắc má tao mừng lắm !”. Cô kia thở dài : “Tao chưa gom đủ tiền, cuối tháng mới gửi được về nhà”.Rồi cả hai bước ra cửa. Tôi vội đổi một ít tiền, chạy theo hai cô gái, vào một quán ăn bên đường. Tôi đến đứng bên cạnh bàn hai cô đang ngồi, định bắt chuyện thì một trong hai cô đã hỏi ngay : “You go – Me good” ! – Tôi ngòi xuống bàn và nói nhỏ : “Tôi là người Việt mà. Mời hai cô ăn uống gì với tôi cho vui”. Cả hai cô đều nhìn tôi ngạc nhiên rồi hỏi nhỏ, bằng tiếng Việt : “Bác ở đây hay là người nước ngoài tới chơi ? Bác “đi” không ? “Đi” một đứa hay cả hai cũng được, “xâu” luôn nha !”. Tôi mĩm cười : “Hai cô ăn uống gì không, tôi mời đó. Tôi ở xa mới tới đây, ngày mai đi rồi”. Tôi gọi ba tô mì và nước dừa tươi. Sau một vài phút thì thầm gợi chuyện, có lẽ thấy tôi là một “ông già” không có tình ý gì xấu, hai cô bắt đầu cởi mở hơn, gọi tôi bằng ông và tự xưng là cháu, và vừa nói chuyện vừa nhìn quanh. Thông thường, các cô gái làm nghề này lâu năm thì trường đời đã dạy thêm chua ngoa, lừa lọc, phịa chuyện đau thương để làm động lòng khách, nhưng riêng với hai cô gái này, tôi nhận thấy vẫn còn chất đồng quê chân thật. Hơn nữa, tôi chỉ gợi chuyện hỏi về những điều không đi sâu vào đời sống riêng tư và đường dây chuyển người. Tôi được biết : – Hai cô gái này đều 18 tuổi, quê ở Vỉnh Long, sang đây được gần một tháng nay. Cuối tháng sẽ đi phà qua quận Batam ở Nam Dương rồi về lại Singapore, ở thêm mỗi lần như vậy được một tháng như là khách du lịch, nhưng chỉ tối đa được ba lần mà thôi. Tôi được biết thêm là tại khu vực này đa số đều là gái từ miền Nam qua, gọi là đi du lịch hoặc xin học nghề, có người bảo lãnh lo mọi thủ tục. Có luôn cả người đi theo canh chừng. Các cô lén chỉ cho tôi mấy gã thanh niên đang ngồi ăn ở góc quán. Không được ngồi chơi với khách, phải dẫn khách đi ngay vào nhà trọ thuê phòng, hoặc qua giờ hoặc qua đêm. Nếu ngồi nói chuyện lâu thì phải trả tiền như là “bao trọn”, với sự đồng ý của mấy gã “đầu gấu”, cũng toàn là người Việt, hoặc là phải “báo cáo” với má-mì. Phần đông các cô đều là gái miền quê, muốn đi tìm chồng ở Singapore hoặc được cam kết cho đi học nghề, nhưng thực ra là qua đây bị ép buộc phải “đi khách”. Trước khi đi phải đóng tiền thế chân khoảng 2.000 mỹ kim cho môi giới, và mỗi tháng phải đóng tại đây 700 tiền đô la Sin. Còn lại bao nhiêu thì được tiêu xài hoặc gửi về gia đình. Trung bình mỗi cô “làm” được khoảng 1000 đô Sin mỗi tháng nếu đắt khách, nhưng những cô lớn tuổi, từ 25 trở lên đều bị chê là già, không ai gọi đi. Càng trẻ càng có giá, tôi được biết thêm là có nhiều cô chỉ mới 15 tuổi cũng đi “học nghề” và được khách ở Singapore ưa chuộng “tuổi trẻ” lắm. Ở Singapore có một khu riêng chỉ toàn gái dưới 15 tuổi, cũng từ Việt Nam qua. Tôi im lặng ngồi nghe, rợn người, thỉnh thoảng gợi thêm chuyện để tìm hiểu. Các cô được đưa qua đây, 10 cô ở chung một phòng, ăn uống tự túc, ban ngày ngủ, ban đêm ra phố “làm việc”, có đầu gấu đi theo để thu tiền và bảo vệ. Gia đình ở quê nhà chỉ biết lo chạy tiền, vay nợ, để gửi con gái mình đi học nghề ở nước ngoài. Đang ngồi nói chuyện, có má-mì cũng người Việt đến bàn hỏi hai cô là tôi có “đi” không ? Tôi vội trả lời thay, là tôi chỉ ngồi ăn uống cho vui thôi. Má-mì giục hai cô ra xe taxi chờ sẵn vì có khách bao đi đêm, tôi phải trả 10 đô Sin cho buổi nói chuyện ngắn ngủi này, coi như là tiền “tiếp khách chay”. Hai cô chào tôi rồi chạy ra xe, taxi lách qua dòng người mất hút vào đám đông.
Tôi thẩn thờ quay về nhà trọ, đi giữa đám đông xa lạ, chợt thấy mình lạc lõng bơ vơ. Tôi nghe nói là Singapore gần đây đã nới lỏng việc phục vụ khách du lịch về mọi phương diện, kể cả mại dâm trá hình, để tăng trưởng kinh tế và nhất là để đáp ứng nhu cầu cho dân số nam nhiều hơn nữ. Riêng về ma túy thì kiểm soát rất gắt gao, vẫn còn thực thi án tử hình. Ở Singapore hiện nay, tìm được một người vợ vừa ý và làm đám cưới là một điều ảo tưởng, đa số đàn ông không thể thực hiện được. Các cô gái Việt Nam đã đáp ứng nhu cầu đó, qua nhiều đường dây môi giới. Lịch sử Dân Tộc chúng ta trước đây chưa bao giờ xảy ra hiện tượng buôn người ra nước ngoài như hiện nay.
Tôi bước đi giữa dòng người nơi xứ lạ, tại một khu vực nghèo nàn, hổn tạp, mà lòng tôi xốn xang. Thương nước, thương cho các thế hệ tuổi trẻ cùng chung dòng máu phải tìm mọi cách qua xứ người để bán thân nuôi mình và gia đình, và luôn cả thương mình đang lưu vong. Hình ảnh căn nhà nghỉ mát nguy nga của cô con gái thủ tướng việt cộng tai bờ biển Nha Trang, hình ảnh “Miếu Ba Cô” trên đảo Galang, hình ảnh chiếc xe taxi chở hai cô gái Vỉnh Long bằng tuổi con-cháu tôi chạy vù trong bóng đêm tai khu Geylang, đi về đâu và sẽ bị dày vò trong vòng tay ai… đang âm thầm bước theo tôi, sẽ đồng hành cho đến cuối hành trình còn lại trong đời. Và câu nói của cô gái bán thân gửi về cho mẹ 50 đô la Sin “Chắc má tao mừng lắm”, mãi còn văng vẳng bên tai tôi. Dân Tộc tôi dưới chế độ cộng sản thực sự là một khổ nạn đến tận cùng !. Mong rằng hai chữ “lương tâm” của con người sẽ không còn nằm im trên trang giấy trong tự điển.
Võ Đại Tôn
Chiều Geyland, Singapore.
16.10/2009.

Danke Deutschland,Danke Cap Anamur

Đào Vũ Anh Hùng: Danke Deutschland,Danke Cap Anamur
By anlac • Oct 1st, 2009 • Category: Bút Ký

Tôi là người từ xa đến, lần đầu đặt chân lên đất nước Cộng hòa Liên bang Đức. Nơi đến là thương cảng Hamburg, lớn nhất quốc gia này – được mệnh danh là cửa ngõ thông thương với thế giới – đứng hạng thứ nhì Âu châu sau Rotterdam của Hòa Lan.
Đến từ bên kia quả đất, nhưng tôi không hề mang cảm giác lạ lẫm với cảnh với người ở Hamburg. Cảnh, thì bất cứ nơi nào không không phải quê hương mình, đối với tôi, cũng vậy vậy thôi, dù đẹp đẽ, sang trọng, vĩ đại đến ngần nào, văn minh tiến bộ đến ngần nào, cũng không thể bằng “Chốn quê hương đẹp hơn cả”, Quốc Văn Giáo Khoa Thư nhắc nhở. Người Việt ở đây, thì dù đa số không thân biết nhưng tôi thấy gần gụi, dễ dàng quen thuộc qua ánh mắt, nụ cười phát tỏa thứ tình gọi là tình nghĩa đồng bào, tình lân mẫn của người chung một nước.
Tôi đến địa điểm đặt tượng đài rất sớm, đi với vài người bạn trước giờ khai mạc buổi lễ đến bốn tiếng đồng hồ, người dự còn thưa thớt. Trời chớm vào thu, trong xanh, ngập nắng. Nắng đẹp dịu dàng. Không khí gây gấy lạnh. Buổi mai gió mát vờn đùa trên những ngọn cây, quyến luyến những lá cờ rực rỡ bay hoan hỉ trên nền xanh cây lá. Gió cũng nhẹ nhàng uốn lượn quấn quit những tà áo dài thiếu nữ Việt Nam trong ban tổ chức đến sớm sửa soạn cho buổi lễ… Hôm nay ngày 12 tháng 9, ngày khánh thành Tượng đài kỷ niệm thuyền nhân được tàu Cap Anamur cứu vớt 30 năm trước. Ngày thuyền nhân Việt Nam tụ họp biểu tỏ sự hàm ơn, cử chỉ vinh danh và tri ân nước Đức. Tri ân những con tàu nhân đạo đã nghe tiếng kêu bi thảm, hãi hùng, tuyệt vọng từ thăm thẳm trùng dương, nơi xa khuất bên kia địa cầu, quốc gia có tên gọi Việt Nam, sau cuộc xảy đàn tan nghé 75, rơi vào tay cộng sản.
Lần đầu tiên trong lịch sử từ thời lập quốc, người dân Việt hàng hàng lớp lớp lũ lượt ra đi, rờI bỏ miền đất quê hương chẳng biết dung người ấy, bỏ lại sau lưng tất cả, mồ mả cha ông, đời sống an bình, hạnh phúc, ruộng vườn, nhà cửa, người thân… Cái gì làm nên nỗi kinh hoàng ghê gớm ấy? Cái gì khiến người ta phải hãi hùng cuống hoảng ra đi? Cái gì khủng khiếp tang thương gây chấn động lương tâm nhân loại?… Ngàn ngàn người tị nạn trôi dạt trên những con thuyền mong manh lưu lạc ngoài biển Đông, hoang mang ngơ ngác. Hy vọng thì mong manh. Bến bờ thì vô định. Con người bé nhỏ, yếu đuối biết bao nhiêu. Họ lả mệt vì sóng gió đại dương, đói, khát, giông bão dập vùi, kinh hoàng vì nạn hải tặc chặn đường cướp bóc, hãm hiếp trẻ em, phụ nữ… Họ đã được những con tàu nhân ái cứu vớt đưa vào các trại tạm trú hoặc nhập cư Đức quốc. Ba muơi năm đã trôi qua, bao nhiêu khổ nhọc. Bao nhiêu cố gắng để vươn lên và họ đã phấn đấu để vươn lên một cách tuyệt vời. Những đứa trẻ thơ ngày đó, nay đã trưởng thành, có một sự nghiệp, một chỗ đứng đáng kiêu hãnh nơi quê hương mới. Ngày hôm nay, họ lũ lượt rủ nhau về Hamburg, như làm cuộc hành hương về đất hứa với hoan lạc niềm vui và sự tự hào… Họ đến đây để nói lời tri ân những tấm lòng hào hiệp…
Tôi đứng trong đám đông. Như kẻ ngoại cuộc im lặng quan sát khối người kéo đến đông dần, tạo nên quang cảnh náo nhiệt tưng bừng của một ngày đặc biệt hơn tất cả những ngày lễ hội. Trên từng gương mặt trẻ già, nam nữ, ai ai cũng sáng nét vui rạng rỡ. Trong ánh mắt. Tiếng cười. Giọng nói. Những cử chỉ vồn vã đón chào nhau, bộc tỏa tình thân thiện. Tôi nghe được những lời thầm lặng ấp ủ trong mỗi trái tim chứa đầy ơn nghĩa chỉ muốn cất lên, nói cho thế giới biết rằng, ba mươi năm trước, chúng tôi đã được tái sinh. Thượng đế đã gửi tàu Cap Anamur đến tận biển Đông cứu vớt chúng tôi, những linh hồn khốn khổ nạn nhân của bọn phi cầm phi thú dã man, phi nhân tính. Nước Đức đã mở rộng vòng tay đón nhận, che chở, nâng đỡ, đùm bọc, cho chúng tôi đời sống và đất sống xứng đáng của con người. Chúng tôi được yên bình, hạnh phúc, được hưởng mọi thứ quyền của con người trong xã hội văn minh của cộng đồng nhân loại. Những đứa trẻ măng thơ sống còn của 30 năm trước, nay đã là những công dân gương mẫu của quốc gia này, tạo nên thành quả học vấn xuất chúng, sự nghiệp và chức vị rạng danh dân tộc Việt trên quê hương thứ hai… Hôm nay, họ đã đồng loạt cất tiếng ân cần tri ân nước Đức, tri ân con tàu cứu nạn biển Đông, tri ân nhân dân Đức cùng những người Đức hào hiệp, đầy nhân ái trong Ủy ban Cap Anamur, đã đưa tay cứu vớt trên một vạn thuyền nhân may mắn. Ơn đức đó ngàn năm không quên. Đời đời ghi tạc.
Và hôm nay, ngày 12 tháng 9 tại bến tàu thương cảng Hamburg, ngay chỗ xuất phát và trở về buông neo ngơi nghỉ của Cap Anamur sau những chuyến hải hành cứu nạn, đài kỷ niệm công trình cứu vớt thuyền nhân vừa hoàn tất xây dựng, tổ chức lễ khánh thành. Tấm vải vàng che phủ tượng đài được mở tung ra trong tiếng vỗ tay, reo hò mừng rỡ… Hầu như tất cả mọi người chứng kiến giây phút thiêng liêng đó đều váng vất niềm xúc cảm, lòng dạ tưng bừng, tim bồi hồi rung động khi nghe những âm thanh nén giữ từ sâu kín buồng tim bỗng bật tung thành tiếng. Tiếng hát trẻ trung đầy tràn sinh lực từ hàng ngũ những thanh niên nam nữ Việt Nam đứng dàn hàng ngang trước Tượng đài, trong một bất ngờ, vút cao giọng theo nhịp đàn trình tấu bản chào cờ Đức Quốc, rồi là lời quốc ca hùng tráng Việt Nam, “Này công dân ơi Quốc gia đến ngày giải phóng…” Ôi cảm giác thật diệu kỳ cho mãnh lực của lòng yêu nước khi nhìn thấy lá cờ VNCH bay phất phới bên cờ Đức quốc, nghe tiếng Quốc ca lồng lộng thinh không trong phút giây lịch sử, ngùi ngậm thơ Hồ Dzếnh:
“…Lần giở trang sách xưa
Nhớ thời áp bức
Việt Nam ơi..!
Lòng ngươi nguội đau chưa?
Hận muốn thoát ra thơ
Tình tan vào uất ức
Hồn đau run mơ tưởng bóng cờ
Ghi dấu những ngày quốc nhục. “
Tôi nhìn sang một phụ nữ trung niên người Đức đứng sát hàng rào sắt nơi tôi đang đứng dơ cao máy ảnh bấm vài tấm toàn cảnh người tham dự, mỗi người vẫy phất hai lá cờ Đức-Việt khi bản Quốc ca chấm dứt. Người đàn bà cũng nhìn tôi, lấy khăn chấm nước mắt, miệng mỉm cười hơi cúi xuống như cử chỉ chào hỏi. Đôi mắt bà đỏ hoe, tôi thấy hình như tôi cũng phập phồng muốn khóc trong giây phút ấy. Chung quanh tôi có nhiều người đã khóc nghẹn ngào không che dấu. Những giọt nước mắt sung sướng, cảm động. Có một thoáng, tôi rợn người cảm xúc, tưởng như cỏ cây hoa lá và những lá cờ đang bay lượn dịu dàng kia cũng có linh hồn, hay u hiển linh hồn những người đã vùi thân trong lòng biển cả ngày xưa hôm nay theo gió bay về góp mặt cùng người sống reo lên lời hoan hỉ mừng cho buổi lễ. Tôi tiến đến bên người đàn bà, cúi chào và hỏi một câu tiếng Anh. Bà cười bằng đôi mắt vui vẻ, “Vâng, tôi biết. Ông từ đâu tới…?” Chúng tôi trao đổi vài câu xã giao. Tôi biết tên bà là Helga Gwildis. Bà Gwildis lại lấy khăn chấm nước mắt, “Buổi lễ tuyệt vời. Tôi chưa bao giờ xúc động đến thế, chưa bao giờ được nghe bản quốc ca của nước Đức chúng tôi hay đến thế. Các thanh niên thiếu nữ Việt Nam hát bằng tiếng Đức thật tuyệt vời. Nhìn kìa, họ trẻ trung và dễ thương quá. Hôm nay là ngày lịch sử không bao giờ mờ nhạt của Hamburg, của nước Đức”!
Phải, hôm nay là ngày lịch sử của cả thuyền nhân tị nạn Việt. “Danke Deutschland, Danke Cap Anamur – Tạ ơn nước Đức, Tạ ơn Cap Anamur” Tượng đài Thuyền nhân là dấu tích lịch sử, ghi chép lời tri ân nước Đức mà cũng là lời dõng dạc nói với thế giới về thảm cảnh bỏ nước ra đi tị nạn bằng thuyền, vạch mặt chỉ danh chính bọn tàn hung cộng sản Việt nam là tác nhân gây nên khổ nạn. Đây còn là dấu tích tuyên xưng lòng nhân ái, nhắc nhở giá trị của tình thương yêu vượt gianh giới thời không để muôn đời tồn tại. Tượng đài bé nhỏ, giản dị nhưng trang trọng chứa đầy ý nghĩa, ai nhìn thấy cũng phải nói là “đẹp”, rất đẹp, thanh thoát và ý nghĩa. Tác phẩm điêu khắc bằng đồng do một cô bé Việt Nam 14 tuổi, thế hệ thứ hai, thứ ba của thuyền nhân được tầu Cap Anamur vớt, chau chuốt gói ghém tất cả lòng thành và tâm ý tạo nên, với những dòng khắc nổi bằng ba ngôn ngữ Đức – Anh – Việt trên hai trang sách mở:
“Tri ân nhân dân, chính quyền nước Đức, chính quyền Tiểu bang Hamburg nơi xuất phát của các con tàu Cap Anamur, đã tiếp nhận người Việt tỵ nạn cộng sản.
Tri ân Ủy Ban Cap Anamur do Tiến sĩ Rupert Neudeck sáng lập, đã cứu vớt 11,300thuyền nhân Việt Nam.
Tưởng niệm các đồng hương tỵ nạn cộng sản đã bỏ mình trên đường tìm tự do.”
Bấy nhiêu lời lẽ hàm ơn có đủ gói ghém tất cả ngần ấy tấm lòng muốn ngỏ cùng thế giới? Cho nhân loại hiểu nguyên ủy tại sao lại có “thuyền nhân”? Tại sao hôm nay lại có tượng đài? Cộng sản đê tiện đã có những cố gắng vận động phá hủy bia tưởng niệm thuyền nhân tỵ nạn dựng lên tại các trại tạm trú Đông Nam Á. Những quốc gia nhu nhược này khiếp sợ bạo lực đã làm theo ý chúng. Nhưng tượng đài Hamburg dựng lên trong thời điểm này, rõ ràng là cái tát đích đáng giáng thẳng vào mặt bọn bạo quyền Hà Nội. Là một ngang nhiên thách đố của cộng đồng người Việt Hamburg đối với quân tàn ác. Chúng gây áp lực ngoại giao, hăm he dọa dẫm chính trị và kinh tế, khiến Ủy ban Xây dựng Tượng đài vấp bao nhiêu trở ngại, cản ngăn, áp lực, đe dọa. Mọi ngườI thắc thỏm âu lo và hồi hộp đợi chờ kết quả vận động xây dựng tượng đài. Chống phá đến từ mọi phía, chính quyền, cộng đồng Do Thái, Việt cộng và ngay cả những người bạn mang tâm đố kị… Khổ thân cho Huấn, người đứng mũi chịu sào, còng lưng hứng đỡ tất cả những ngón đòn thù nghịch, phải tả xung hữu đột, kiên trì và khôn khéo tìm phương vận động, hóa giải và hàn gắn để cuối cùng Huấn và bằng hữu đã vượt qua giông bão trò đời, sau những tháng năm vất vả.
Tượng đài như cái bào thai có bao nhiêu bà mẹ nóng lòng sốt ruột trông mong đứa con chung cưng quý ra đời ròng rã gần bốn năm trời. Hôm nay đứa bé đã chào đời suông sẻ, khôi ngô đĩnh ngộ. Tất cả mọi người đều cố len đến gần chiêm ngưỡng tượng đài. Hai trang sách mở đánh dấu trang sử Việt mang vết đen ô nhục nhưng rực rỡ niềm tin chứng tỏ tinh thần phấn đấu cùng sức đề kháng quyết liệt, chọn lựa dứt khoát, hy sinh để ra đi vì lý tưởng Tự Do và quyền sống. Ba mươi năm trước, Ủy Ban Cap Anamur thành hình dưới sự điều hành và vận động của Tiến sĩ Rupert Neudeck nhân hậu và cương quyết. Ông đã có quyết định can đảm nhất định cứu người giữa thời điểm nhiều quốc gia còn thờ ơ ngoảnh mặt trước thảm nạn thuyền nhân. Nhiều con tàu đi qua cố tình bỏ mặc họ chết chìm. Có nơi đã đem họ lên bờ, rồi cưỡng bức họ hồi hương, trở về nơi xuất phát. Hình ảnh những thuyền nhân bất hạnh gào khóc giẫy giụa, bị bẻ tay xoắn tóc khiêng ném lên xe đưa ra phi trường ép buộc trở lại Việt Nam, là những hình ảnh xấu xa bôi đen giá trị lương tâm nhân loại.
Tôi thấy đôi mắt hoe đỏ ứa ra dòng lệ tủi mừng sung sướng của một người đàn ông không quen nhưng tự nhiên chạm mặt, nắm lấy tay tôi, nói như nói với một người bạn tâm tình, “Tôi ở đây 30 năm, chưa bao giờ nhìn thấy cảnh này. Những người Đức lãnh đạo các cấp chính quyền lần đầu tiên đến với chúng ta và đến khá đông, nghiêm chỉnh chào cờ VNCH, nói những lời nhiệt nồng ca ngợi người Việt… Nói thật là tôi không thể ngờ lại xảy ra sự việc đáng kinh ngạc, khó tin như vậy. Quả thật tôi chưa hề thấy một hiện tượng ngoạn mục như thế này từ xưa tại bất cứ nơi nào trên nước Đức.” Người Đức đã tuyên dương và cảm kích trước hành động tri ân của thuyền nhân tị nạn Việt. Bộ trưởng bộ Nội Vụ CHLB Đức phát biểu, “Sự hội nhập của người Việt Nam trong xã hội Đức hôm nay là một thành công lịch sử trên đất nước này. Chính những «Boat People», những Thuyền Nhân Tỵ Nạn cộng sản Việt Nam đã được cứu sống và đã đến với chúng ta, tích cực đóng góp cho đất nước chúng ta thêm phồn thịnh. Họ thành công trong cuộc sống, họ hội nhập tốt đẹp, không hề là gánh nặng cho đất nước này, trái lại còn làm cho Đức quốc phong phú hơn…”
Arnold Vaatz, phó Chủ tịch Liên Đảng Dân Chủ & Xã HộI Thiên Chúa Giáo tại Quốc Hội Đức tuyên bố, “Biến cố thuyền nhân Việt Nam 30 năm trước, chính là chất xúc tác làm dấy động, khiến dân chúng Đức nhận thức được giá trị của hai chữ Tự Do mà nung đúc ý chí quật khởi, để mười năm sau, bức tường ô nhục Bá Linh xụp đổ, chúng ta xóa bỏ hai miền Đông và Tây Đức đối đầu chủ nghĩa… Chúng tôi phải cám ơn người tị nạn Việt Nam…”
Nhân vật đặc biệt được chú ý nhiều nhất, ngoài Tiến sĩ Rupert Neudeck, là Tiến sĩ Philipp Roesler, Bộ trưởng Kinh Tế kiêm Bộ trưởng Lao Động và bộ Giao Thông của bang Niedersachsen, một bộ trưởng trẻ nhất của CHLB Đức từ trước đến nay. Tiến sĩ Roesler là người Đức gốc Việt, được một gia đình Đức nhận làm con nuôi từ một viện mồ côi tại Nam Việt Nam khi ông mới vài tháng tuổi. Ông ứng khẩu đọc một bài diễn văn dài, ý nghĩa và súc tich, hãnh diện nhận mình nguồn gốc Việt thuần túy và cho biết mặc dầu trong thời gian qua, bị áp lực từ nhiều phía – chính trị và phi chính trị – ngăn cản ông đến dự lễ khánh thành tượng đài, nhưng ông bất chấp. Sang năm ông vẫn cầm đầu phái bộ Kinh Tế Âu Châu qua Hà Nội dự hội nghị các cấp bộ trưởng do lời mời của cộng sản Việt.
Cecilia Trúc Phạm, thuyền nhân được tàu Cap Anamur vớt năm 1980 khi cô mới 8 tuổi, đã nghẹn ngào kể lại hồi ức cuộc vượt biển đầy xúc động. Cecilia kết thúc bài nói chuyện của cô, “…Hamburg là quê hương mới của tôi mà tôi không thể không nhắc đến. Cạnh đó còn có quê hương xưa của tôi. Việt Nam là quê cha, đất tổ. Việt Nam là nơi tôi đã được sinh ra. Vì khi rời khỏi Sài Gòn, tuổi tôi còn rất nhỏ, nên trong một thời gian dài tôi đã tưởng rằng, trong tim tôi chỉ có chỗ cho một thành phố quê hương thôi. Nhưng hôm nay, tôi có thể nói ra với đầy hãnh diện rằng, trong tôi đang có hai quả tim đập chung một nhịp cho hai thành phố, mỗi thành phố có mỗi cách riêng của nó, đều tạo cho tôi cảm giác đẹp là tôi đang ở trên quê hương đích thực của mình… Danke Deutschland, Danke Cap Anamur” !
Đào Vũ Anh Hùng